Hành lang đối thoại cho Tân diễn dịch lời,...
pth77
01/03/2014
Em có mấy ý nhỏ về quẻ Thái:
Hào 2: Bao hoang.Dụng bằng hà , bất hà di .Bằng vong .Đắc thượng vu trung hành.
dịch : Chịu đựng (khổ cực khi qua) vùng đất hoang sơ cằn cỗi. Qua sông không để lại cái gì.Mất bạn ( vì tộc đồng minh khác không theo).Được phần thưởng do hành động đúng đắn.
Hoang là vùng đất hoang đầy cỏ dại ; di là để lại ; trung là trúng hay trung dung.
Rõ ràng hào này nói về cuộc di dân của Cổ công Đản Phủ, ông của Văn vương từ đất Mân (để tránh rợ Địch) sang đất Chu .
QNB phân tích chú thêm:
包 荒 "Bao hoang" xưa nay vẫn được hiểu là: lòng bao dung lớn, sự thâu nạp,... Xuất phát từ nghĩa gốc là "thu gom sát nhập vùng đất hoang" và "thâu nạp, phụ trách vật hư phế".
馮 河 "bằng hà" có nghĩa là: đi/lội qua sông (mà không có sự trợ giúp của thuyền bè hay cái gì cả). Nghĩa bóng là ám chỉ sự "hữu dũng vô mưu".
不 選 遺 "bất hà di" = không bỏ sót, không để lại cái gì cả,...
Nhưng chữ "Bằng" trong "bằng hà" này, có chữ 用 "dụng" đứng trước, mà hiểu với nguyên nghĩa là: lấn, vượt sang,... thì khi hiểu liền với nghĩa của "bao hoang" phía trước đó ta sẽ được:
Thu gom những đồ phế phẩm, dùng để vượt qua sông, không bỏ lại cái gì cả.
朋 亡 "Bằng vong" = có người bạn chết / có người bạn lưu vong đi theo
得 尚 于 中 行 "Đắc thượng vu trung hành" = Nên phải coi sóc/quản lý ở trên đường đi.
Như vậy, toàn bộ hào 2 có thể hiểu là:
Thu gom những đồ phế phẩm, dùng để vượt qua sông, không bỏ lại cái gì cả. Có bạn / dân lưu vong đi theo. Nên phải coi sóc ở trên đường đi.
- Bổ sung vậy được không anh? (do có mâu thuẫn giữa Mất bạn >< Có bạn )
Hào 6: Thành phục vu hoàng.Vật dụng sư, tự ấp cáo Mệnh .trinh lận .
dịch : Thành (đất) xụp đổ xuống hào.Chẳng nên dùng binh.Ở ấp mình mà báo mệnh.Điềm lận đận.
Giao thiệp không còn tốt nữa ( Tây bá Xương bị cầm ở Dữu) Chẳng nên động binh.Nhưng báo với trời ta nay độc lập , và /hoặc báo với dân trong nước về Mệnh trời của Tây bá Xương (như hào 6 quẻ Sư) .Điềm lận đận vì còn phải khôn khéo để cứu giải Tây bá .
- Bổ sung vậy được không anh?
ps: em không có các cứ liệu chính xác, suy đoán là chủ yếu thôi. Trong lúc đọc cũng có vài ý nảy ra còn thắc mắc, có thể "cũ người mới ta", sẽ bổ sung sau vậy,
Sửa bởi pth77: 01/03/2014 - 02:54
Hào 2: Bao hoang.Dụng bằng hà , bất hà di .Bằng vong .Đắc thượng vu trung hành.
dịch : Chịu đựng (khổ cực khi qua) vùng đất hoang sơ cằn cỗi. Qua sông không để lại cái gì.Mất bạn ( vì tộc đồng minh khác không theo).Được phần thưởng do hành động đúng đắn.
Hoang là vùng đất hoang đầy cỏ dại ; di là để lại ; trung là trúng hay trung dung.
Rõ ràng hào này nói về cuộc di dân của Cổ công Đản Phủ, ông của Văn vương từ đất Mân (để tránh rợ Địch) sang đất Chu .
QNB phân tích chú thêm:
包 荒 "Bao hoang" xưa nay vẫn được hiểu là: lòng bao dung lớn, sự thâu nạp,... Xuất phát từ nghĩa gốc là "thu gom sát nhập vùng đất hoang" và "thâu nạp, phụ trách vật hư phế".
馮 河 "bằng hà" có nghĩa là: đi/lội qua sông (mà không có sự trợ giúp của thuyền bè hay cái gì cả). Nghĩa bóng là ám chỉ sự "hữu dũng vô mưu".
不 選 遺 "bất hà di" = không bỏ sót, không để lại cái gì cả,...
Nhưng chữ "Bằng" trong "bằng hà" này, có chữ 用 "dụng" đứng trước, mà hiểu với nguyên nghĩa là: lấn, vượt sang,... thì khi hiểu liền với nghĩa của "bao hoang" phía trước đó ta sẽ được:
Thu gom những đồ phế phẩm, dùng để vượt qua sông, không bỏ lại cái gì cả.
朋 亡 "Bằng vong" = có người bạn chết / có người bạn lưu vong đi theo
得 尚 于 中 行 "Đắc thượng vu trung hành" = Nên phải coi sóc/quản lý ở trên đường đi.
Như vậy, toàn bộ hào 2 có thể hiểu là:
Thu gom những đồ phế phẩm, dùng để vượt qua sông, không bỏ lại cái gì cả. Có bạn / dân lưu vong đi theo. Nên phải coi sóc ở trên đường đi.
- Bổ sung vậy được không anh? (do có mâu thuẫn giữa Mất bạn >< Có bạn )
Hào 6: Thành phục vu hoàng.Vật dụng sư, tự ấp cáo Mệnh .trinh lận .
dịch : Thành (đất) xụp đổ xuống hào.Chẳng nên dùng binh.Ở ấp mình mà báo mệnh.Điềm lận đận.
Giao thiệp không còn tốt nữa ( Tây bá Xương bị cầm ở Dữu) Chẳng nên động binh.Nhưng báo với trời ta nay độc lập , và /hoặc báo với dân trong nước về Mệnh trời của Tây bá Xương (như hào 6 quẻ Sư) .Điềm lận đận vì còn phải khôn khéo để cứu giải Tây bá .
- Bổ sung vậy được không anh?
ps: em không có các cứ liệu chính xác, suy đoán là chủ yếu thôi. Trong lúc đọc cũng có vài ý nảy ra còn thắc mắc, có thể "cũ người mới ta", sẽ bổ sung sau vậy,
Sửa bởi pth77: 01/03/2014 - 02:54
Ngu Yên
01/03/2014
@pth77
1/ ok tôi thêm cho rõ nghĩa
2/ mất bạn là tôi hiểu như cổ điển, có bạn lưu vong theo là cách hiểu mới của QNB
3/ Hào 6 : đâu có báo với dân được ! Vì còn phải thương thuyết với Ân phải giữ bí mật việc mình tự lập .Chỉ báo với Trời thôi .
Tôi có sửa chút ở phần hào 4 quẻ Thái .
Sửa bởi nguy: 01/03/2014 - 04:16
1/ ok tôi thêm cho rõ nghĩa
2/ mất bạn là tôi hiểu như cổ điển, có bạn lưu vong theo là cách hiểu mới của QNB
3/ Hào 6 : đâu có báo với dân được ! Vì còn phải thương thuyết với Ân phải giữ bí mật việc mình tự lập .Chỉ báo với Trời thôi .
Tôi có sửa chút ở phần hào 4 quẻ Thái .
Sửa bởi nguy: 01/03/2014 - 04:16
pth77
01/03/2014
Em bổ sung thêm về quẻ Thái:
- hào 2: + Mất bạn = có dân theo nhưng không có tộc đồng minh khác.
+ Có bạn = có dân và có thể có cả bạn đồng minh là tộc khác. (phạm vi rộng hơn)
+ Về nghĩa hào: không khác nhau mấy nhưng đặt trong bối cảnh chung cả hào có thể có chút mâu thuẫn
-hào 6: + theo Học Năng : mệnh = mệnh lệnh, thì có thể hiểu là ổn định trật tự trong nước bằng mệnh lệnh /thiết quân luật chăng, khi đang trong giai đoạn mất thủ lĩnh.
+ Theo quẻ Sư : Mệnh = Mệnh trời = Vũ vương
+ Báo dân với hai mục đích: ổn định và tuyên truyền (do thủ lĩnh bị giam cầm, có thể có sự không an tâm trong nước, nên có thể bá cáo với dân về Mệnh trời của thủ lĩnh hiện tại, hoặc cả tương lai, cũng hàm nghĩa về sự độc lập, nhưng chỉ trong nước, và tất nhiên cũng cần lưu ý về mặt do thám của người ngoài - em suy đoán thêm chút thôi) , thêm vào nghĩa bá cáo trời đất.
- Một ý nhỏ: khi đối chiếu với các bản khác, em thấy có một số khác biệt nhỏ trong cách ngắt câu (chấm, phẩy) ở lời gốc. thí dụ :quẻ Khôn - Hào 2: Trực phương, đại bất tập .Vô bất lợi. Theo Chu Dịch của cụ PBC thì: Trực, phương, đại, bất tập .Vô bất lợi.
Sửa bởi pth77: 01/03/2014 - 13:03
- hào 2: + Mất bạn = có dân theo nhưng không có tộc đồng minh khác.
+ Có bạn = có dân và có thể có cả bạn đồng minh là tộc khác. (phạm vi rộng hơn)
+ Về nghĩa hào: không khác nhau mấy nhưng đặt trong bối cảnh chung cả hào có thể có chút mâu thuẫn
-hào 6: + theo Học Năng : mệnh = mệnh lệnh, thì có thể hiểu là ổn định trật tự trong nước bằng mệnh lệnh /thiết quân luật chăng, khi đang trong giai đoạn mất thủ lĩnh.
+ Theo quẻ Sư : Mệnh = Mệnh trời = Vũ vương
+ Báo dân với hai mục đích: ổn định và tuyên truyền (do thủ lĩnh bị giam cầm, có thể có sự không an tâm trong nước, nên có thể bá cáo với dân về Mệnh trời của thủ lĩnh hiện tại, hoặc cả tương lai, cũng hàm nghĩa về sự độc lập, nhưng chỉ trong nước, và tất nhiên cũng cần lưu ý về mặt do thám của người ngoài - em suy đoán thêm chút thôi) , thêm vào nghĩa bá cáo trời đất.
- Một ý nhỏ: khi đối chiếu với các bản khác, em thấy có một số khác biệt nhỏ trong cách ngắt câu (chấm, phẩy) ở lời gốc. thí dụ :quẻ Khôn - Hào 2: Trực phương, đại bất tập .Vô bất lợi. Theo Chu Dịch của cụ PBC thì: Trực, phương, đại, bất tập .Vô bất lợi.
Sửa bởi pth77: 01/03/2014 - 13:03
pth77
01/03/2014
Em bổ sung thêm về quẻ Thái:
- Quẻ có 6 hào đều đáng vị, và 6 hào cũng lại tạo thành 3 cặp thế ứng thuận âm - dương, do vậy mà hào và lời hào đều tốt chăng?
- Một cuộc hành trình / di chuyển (trong thực tế và tư tưởng), với sự mở đầu thuận lợi, được chuẩn bị rốt ráo, triệt để. Cuộc hành trình về miền đất hứa xa xôi, với những chặng ban đầu đầy khó khăn, gian khổ để đi tới vùng biên / con sông - một ngưỡng mà phải vượt qua. Họ gói ghém, bỏ lại tất cả - bạn bè, quá khứ - quyết vượt qua để giành được sự sống tốt đẹp. Sang vùng đất mới lạ, lại một chặng đường mở ra mênh mông, với cả thảo nguyên, đồi núi, không kém phần gian khó. Họ vẫn kiên trì bảo nhau đi tới, bởi đã bước sang vùng đất lành, có đủ đầy thức ăn. Và rồi, cuối cùng họ cũng tới được vùng đất hứa, một niềm hạnh phúc phơi phới, tràn đầy niềm tin vào tương lai. Không phụ lòng người, họ đã được tưởng thưởng xứng đáng, được đồng minh mới giúp đỡ, giao thiệp hữu tình. Dầu vậy, thời cực thịnh cũng sẽ qua, bắt đầu có những dấu hiệu của suy thoái đi xuống, họ sẽ còn cần phải đoàn kết, mạnh mẽ hơn nữa.
- Những điều tương tự : hành trình của người Israel dưới sự dẫn dẵn của Moise trong truyện Kinh Thánh; hay những cuộc di cư theo Lưu Bị trong Tam quốc...
- Quẻ có 6 hào đều đáng vị, và 6 hào cũng lại tạo thành 3 cặp thế ứng thuận âm - dương, do vậy mà hào và lời hào đều tốt chăng?
- Một cuộc hành trình / di chuyển (trong thực tế và tư tưởng), với sự mở đầu thuận lợi, được chuẩn bị rốt ráo, triệt để. Cuộc hành trình về miền đất hứa xa xôi, với những chặng ban đầu đầy khó khăn, gian khổ để đi tới vùng biên / con sông - một ngưỡng mà phải vượt qua. Họ gói ghém, bỏ lại tất cả - bạn bè, quá khứ - quyết vượt qua để giành được sự sống tốt đẹp. Sang vùng đất mới lạ, lại một chặng đường mở ra mênh mông, với cả thảo nguyên, đồi núi, không kém phần gian khó. Họ vẫn kiên trì bảo nhau đi tới, bởi đã bước sang vùng đất lành, có đủ đầy thức ăn. Và rồi, cuối cùng họ cũng tới được vùng đất hứa, một niềm hạnh phúc phơi phới, tràn đầy niềm tin vào tương lai. Không phụ lòng người, họ đã được tưởng thưởng xứng đáng, được đồng minh mới giúp đỡ, giao thiệp hữu tình. Dầu vậy, thời cực thịnh cũng sẽ qua, bắt đầu có những dấu hiệu của suy thoái đi xuống, họ sẽ còn cần phải đoàn kết, mạnh mẽ hơn nữa.
- Những điều tương tự : hành trình của người Israel dưới sự dẫn dẵn của Moise trong truyện Kinh Thánh; hay những cuộc di cư theo Lưu Bị trong Tam quốc...
Ngu Yên
01/03/2014
@pth77
Đáng vị (gọi là chính) là khi nào hào dương ở vị lẻ 1,3,5 hay hào âm ở vị chẵn 2,4,6. Ở quẻ Thái chẳng hạn thì các hào 1,3,4,6 đáng vị .Nhưng thực tế theo lời thì chỉ có hào 5 là thật tốt đẹp mà bất đáng vị ! Còn hào 6 và cả 4 nữa thì xấu .Cho nên lại có những luật khác như hào 1 là sơ, hào 6 là siêu , ngoại hào 3 là không yên, hào 4 là sọ ngoại , các hào 2, 5 là trung ; hào 1 là dân 2 là sĩ 3 là giặc 4 là khanh 5 là vua 6 là lão v.v... Bây giờ mà thêm các đơn quái và các nghĩa của từng quái một thì càng rối rắm .Cho nên ai nói gì tượng số là đầu mối kỳ thực ai cũng đọc lời rồi mới suy diễn .Có 1 học giả phương tây là Schlumberger định chỉ dùng tượng tam quái và vị âm dương trung, chính thêm hỗ quái , biến quái và cả tiên thiên quái để thử giảng từng hào từng quẻ , nhưng rút cuộc cũng phải mượn đến tên các quẻ để giảng (nghĩa là vẫn phải có lời ) và khi ta đọc thì không thấy được sự khác biệt giữa hào a quẻ x với hào b quẻ y như các lời quẻ lời hào giữa x và y nêu ra quá rõ .
Ở TQ từ đời Thanh mạt các nho gia đã không còn tin Chu Dịch với Nho học là một , chưa kể vài cá nhân như Âu dương Tu thời Tống bảo Hệ từ có tư tưởng Âm dương của Hoàng Lão .Ở VN thì gs Cao Xuân Huy cũng đặt vấn đề và tác giả Nguyễn Duy Hinh trước 1975 trong Nam đã viết : Lâu nay những người dich và giảng Chu Dịch thường không phân biệt những trường phái cổ kim trong Dịch học, nhất là thường dùng tư tưởng nho gia trong Dịch Truyện để giải thích quái từ, hào từ khiến cho Chu Dịch trở thành sách dạy đạo làm người quân tử mà thôi. ( trích & tóm trong Kinh Dịch và cấu hình tư tưởng TQ trang 34).
TB vấn đề ngắt câu là vấn dề muôn đời vì ngày xưa người Á Đông không có chấm, phẩy .
Sửa bởi nguy: 01/03/2014 - 22:42
Đáng vị (gọi là chính) là khi nào hào dương ở vị lẻ 1,3,5 hay hào âm ở vị chẵn 2,4,6. Ở quẻ Thái chẳng hạn thì các hào 1,3,4,6 đáng vị .Nhưng thực tế theo lời thì chỉ có hào 5 là thật tốt đẹp mà bất đáng vị ! Còn hào 6 và cả 4 nữa thì xấu .Cho nên lại có những luật khác như hào 1 là sơ, hào 6 là siêu , ngoại hào 3 là không yên, hào 4 là sọ ngoại , các hào 2, 5 là trung ; hào 1 là dân 2 là sĩ 3 là giặc 4 là khanh 5 là vua 6 là lão v.v... Bây giờ mà thêm các đơn quái và các nghĩa của từng quái một thì càng rối rắm .Cho nên ai nói gì tượng số là đầu mối kỳ thực ai cũng đọc lời rồi mới suy diễn .Có 1 học giả phương tây là Schlumberger định chỉ dùng tượng tam quái và vị âm dương trung, chính thêm hỗ quái , biến quái và cả tiên thiên quái để thử giảng từng hào từng quẻ , nhưng rút cuộc cũng phải mượn đến tên các quẻ để giảng (nghĩa là vẫn phải có lời ) và khi ta đọc thì không thấy được sự khác biệt giữa hào a quẻ x với hào b quẻ y như các lời quẻ lời hào giữa x và y nêu ra quá rõ .
Ở TQ từ đời Thanh mạt các nho gia đã không còn tin Chu Dịch với Nho học là một , chưa kể vài cá nhân như Âu dương Tu thời Tống bảo Hệ từ có tư tưởng Âm dương của Hoàng Lão .Ở VN thì gs Cao Xuân Huy cũng đặt vấn đề và tác giả Nguyễn Duy Hinh trước 1975 trong Nam đã viết : Lâu nay những người dich và giảng Chu Dịch thường không phân biệt những trường phái cổ kim trong Dịch học, nhất là thường dùng tư tưởng nho gia trong Dịch Truyện để giải thích quái từ, hào từ khiến cho Chu Dịch trở thành sách dạy đạo làm người quân tử mà thôi. ( trích & tóm trong Kinh Dịch và cấu hình tư tưởng TQ trang 34).
TB vấn đề ngắt câu là vấn dề muôn đời vì ngày xưa người Á Đông không có chấm, phẩy .
Sửa bởi nguy: 01/03/2014 - 22:42
Ngu Yên
02/03/2014
nguy, on 01/03/2014 - 22:06, said:
@pth77
Đáng vị (gọi là chính) là khi nào hào dương ở vị lẻ 1,3,5 hay hào âm ở vị chẵn 2,4,6. Ở quẻ Thái chẳng hạn thì các hào 1,3,4,6 đáng vị .Nhưng thực tế theo lời thì chỉ có hào 5 là thật tốt đẹp mà bất đáng vị ! Còn hào 6 và cả 4 nữa thì xấu .Cho nên lại có những luật khác như hào 1 là sơ, hào 6 là siêu , ngoại hào 3 là không yên, hào 4 là sọ ngoại , các hào 2, 5 là trung ; hào 1 là dân 2 là sĩ 3 là giặc 4 là khanh 5 là vua 6 là lão v.v... Bây giờ mà thêm các đơn quái và các nghĩa của từng quái một thì càng rối rắm .Cho nên ai nói gì tượng số là đầu mối kỳ thực ai cũng đọc lời rồi mới suy diễn .Có 1 học giả phương tây là Schlumberger định chỉ dùng tượng tam quái và vị âm dương trung, chính thêm hỗ quái , biến quái và cả tiên thiên quái để thử giảng từng hào từng quẻ , nhưng rút cuộc cũng phải mượn đến tên các quẻ để giảng (nghĩa là vẫn phải có lời ) và khi ta đọc thì không thấy được sự khác biệt giữa hào a quẻ x với hào b quẻ y như các lời quẻ lời hào giữa x và y nêu ra quá rõ .
Ở TQ từ đời Thanh mạt các nho gia đã không còn tin Chu Dịch với Nho học là một , chưa kể vài cá nhân như Âu dương Tu thời Tống bảo Hệ từ có tư tưởng Âm dương của Hoàng Lão .Ở VN thì gs Cao Xuân Huy cũng đặt vấn đề và tác giả Nguyễn Duy Hinh trước 1975 trong Nam đã viết : Lâu nay những người dich và giảng Chu Dịch thường không phân biệt những trường phái cổ kim trong Dịch học, nhất là thường dùng tư tưởng nho gia trong Dịch Truyện để giải thích quái từ, hào từ khiến cho Chu Dịch trở thành sách dạy đạo làm người quân tử mà thôi. ( trích & tóm trong Kinh Dịch và cấu hình tư tưởng TQ trang 34).
TB vấn đề ngắt câu là vấn dề muôn đời vì ngày xưa người Á Đông không có chấm, phẩy .
Đáng vị (gọi là chính) là khi nào hào dương ở vị lẻ 1,3,5 hay hào âm ở vị chẵn 2,4,6. Ở quẻ Thái chẳng hạn thì các hào 1,3,4,6 đáng vị .Nhưng thực tế theo lời thì chỉ có hào 5 là thật tốt đẹp mà bất đáng vị ! Còn hào 6 và cả 4 nữa thì xấu .Cho nên lại có những luật khác như hào 1 là sơ, hào 6 là siêu , ngoại hào 3 là không yên, hào 4 là sọ ngoại , các hào 2, 5 là trung ; hào 1 là dân 2 là sĩ 3 là giặc 4 là khanh 5 là vua 6 là lão v.v... Bây giờ mà thêm các đơn quái và các nghĩa của từng quái một thì càng rối rắm .Cho nên ai nói gì tượng số là đầu mối kỳ thực ai cũng đọc lời rồi mới suy diễn .Có 1 học giả phương tây là Schlumberger định chỉ dùng tượng tam quái và vị âm dương trung, chính thêm hỗ quái , biến quái và cả tiên thiên quái để thử giảng từng hào từng quẻ , nhưng rút cuộc cũng phải mượn đến tên các quẻ để giảng (nghĩa là vẫn phải có lời ) và khi ta đọc thì không thấy được sự khác biệt giữa hào a quẻ x với hào b quẻ y như các lời quẻ lời hào giữa x và y nêu ra quá rõ .
Ở TQ từ đời Thanh mạt các nho gia đã không còn tin Chu Dịch với Nho học là một , chưa kể vài cá nhân như Âu dương Tu thời Tống bảo Hệ từ có tư tưởng Âm dương của Hoàng Lão .Ở VN thì gs Cao Xuân Huy cũng đặt vấn đề và tác giả Nguyễn Duy Hinh trước 1975 trong Nam đã viết : Lâu nay những người dich và giảng Chu Dịch thường không phân biệt những trường phái cổ kim trong Dịch học, nhất là thường dùng tư tưởng nho gia trong Dịch Truyện để giải thích quái từ, hào từ khiến cho Chu Dịch trở thành sách dạy đạo làm người quân tử mà thôi. ( trích & tóm trong Kinh Dịch và cấu hình tư tưởng TQ trang 34).
TB vấn đề ngắt câu là vấn dề muôn đời vì ngày xưa người Á Đông không có chấm, phẩy .
TB Quên nữa, dĩ nhiên bát quái rất quan trọng trong các môn huyền học .
TB2 : Tôi quên ghi là tích tam khu ở hào 5 quẻ Tỷ là điển về Thành Thang, vua đầu nhà Thương .Vừa thêm vào .
Sửa bởi nguy: 02/03/2014 - 23:42
pth77
04/03/2014
Hào 1 quẻ Thái và quẻ Bĩ :
+ Ngoài ý nghĩa dọn dẹp, chuẩn bị cho một công việc mới, có lẽ còn là việc bói cỏ thi chăng, xem tương lai, và do vậy mà Thái thì đánh dẹp, mà Bĩ thì cầu nguyện.
+ Ngoài ý nghĩa dọn dẹp, chuẩn bị cho một công việc mới, có lẽ còn là việc bói cỏ thi chăng, xem tương lai, và do vậy mà Thái thì đánh dẹp, mà Bĩ thì cầu nguyện.
Ngu Yên
04/03/2014
pth77, on 04/03/2014 - 10:31, said:
Hào 1 quẻ Thái và quẻ Bĩ :
+ Ngoài ý nghĩa dọn dẹp, chuẩn bị cho một công việc mới, có lẽ còn là việc bói cỏ thi chăng, xem tương lai, và do vậy mà Thái thì đánh dẹp, mà Bĩ thì cầu nguyện.
+ Ngoài ý nghĩa dọn dẹp, chuẩn bị cho một công việc mới, có lẽ còn là việc bói cỏ thi chăng, xem tương lai, và do vậy mà Thái thì đánh dẹp, mà Bĩ thì cầu nguyện.
Ngu Yên
05/03/2014
nguy, on 01/03/2014 - 01:40, said:
Tôi xin trích dẫn cuốn Kinh Dịch cấu thành tư tưởng TQ , nxb Khoa Học Xã Hội ,1999 (Hà nội) : trang 627
" Lý Đại Dụng ,viết Chu Dịch Tân Thám căn cứ tư liệu giáp cốt văn thời Tây Chu, cho rằng quái từ và hào từ tuyệt nhiên không phải là những điển tịch mê tín ghi khắc lại những lời xem bói mà chính là những ký lục về nguyên nhân thắng bại và tiến trình tứ Văn vương đến Thành vương tiêu diệt nhà Thương để hưng thịnh nhà Chu .Đồng thời nó cũng là 1 tác phẩm văn học có hệ thống , có tổ chức ".
Tôi đồng ý đến 90 % ý kiến của Lý Đại Dụng , tuy nhiên nên thêm chúng ta còn đọc được nhiều chuyện của tổ tiên hai bên Ân và Chu trước đó để làm biểu tượng cho các quẻ, hào Chu Dịch và có những quẻ ta không liên kết được với lịch sử .Vì không phải các thí dụ minh họa đều là chuyện lịch sử , hay vì chúng ta không có đủ tài liệu như tác giả các lời trong Chu Dịch .
" Lý Đại Dụng ,viết Chu Dịch Tân Thám căn cứ tư liệu giáp cốt văn thời Tây Chu, cho rằng quái từ và hào từ tuyệt nhiên không phải là những điển tịch mê tín ghi khắc lại những lời xem bói mà chính là những ký lục về nguyên nhân thắng bại và tiến trình tứ Văn vương đến Thành vương tiêu diệt nhà Thương để hưng thịnh nhà Chu .Đồng thời nó cũng là 1 tác phẩm văn học có hệ thống , có tổ chức ".
Tôi đồng ý đến 90 % ý kiến của Lý Đại Dụng , tuy nhiên nên thêm chúng ta còn đọc được nhiều chuyện của tổ tiên hai bên Ân và Chu trước đó để làm biểu tượng cho các quẻ, hào Chu Dịch và có những quẻ ta không liên kết được với lịch sử .Vì không phải các thí dụ minh họa đều là chuyện lịch sử , hay vì chúng ta không có đủ tài liệu như tác giả các lời trong Chu Dịch .
Sửa bởi nguy: 05/03/2014 - 04:20
Ngu Yên
06/03/2014
Tôi trích 1 đoạn tổng luận quẻ Đồng nhân trong sách đã dẫn của nxb KHXH
Sau khi chinh phục xong khu vực đồng bằng phía đông , quyền lực nhà Chu mở rộng ra đánh dẹp những bộ tộc du mục phía Tây Bắc , tiến về phía Nam dọc theo sông Hán và sông Dương tử, cũng như tiến về Đông nam dọc theo sông Hoài. Chính sách đồng hóa về mọi mặt này có thể chiêm nghiệm trong lời hào chót của quẻ Đồng nhân ... Triều đại nhà Chu lần đầu tiên đã khai sinh chế độ phong kiến trong lịch sử Trung Hoa : cắt đất phong hầu cho con cái trong dòng họ để cai trị một vùng đất quá lớn .trong khi kế thừa nhà Thương trong việc sử dụng hệ thống thân tộc là nhân tố chính trong việc xây dựng các tổ chức chính trị và cơ cấu chính quyền , nhà Chu đã sáng tạo ra một nền tảng hoàn toàn mới .để biện chính và hợp thức hóa công cuộc trị vì của họ : khái niệm Thiên Mệnh được khai sinh và đó là khái niệm tồn tại lâu nhất trong toàn bộ lịch sử chính trị TH.Như đã nói; trong khi nhà Thương sùng bái và tìm sự hướng dẫn bằng phương tiện bói toán, của các tổ tiên đã được thần linh hóa mà họ gọi là Đế thì các vua nhà Chu tuyên bố rằng quyền lực cai trị của họ bắt nguồn từ một lực lượng siêu nhiên tối cao gọi là Thiên và lực lượng này sẵn sàng giao phó quyền cai trị cho những gia đình hay cá nhân nào tài đức vẹn toàn ... (trang 156)
Sau khi chinh phục xong khu vực đồng bằng phía đông , quyền lực nhà Chu mở rộng ra đánh dẹp những bộ tộc du mục phía Tây Bắc , tiến về phía Nam dọc theo sông Hán và sông Dương tử, cũng như tiến về Đông nam dọc theo sông Hoài. Chính sách đồng hóa về mọi mặt này có thể chiêm nghiệm trong lời hào chót của quẻ Đồng nhân ... Triều đại nhà Chu lần đầu tiên đã khai sinh chế độ phong kiến trong lịch sử Trung Hoa : cắt đất phong hầu cho con cái trong dòng họ để cai trị một vùng đất quá lớn .trong khi kế thừa nhà Thương trong việc sử dụng hệ thống thân tộc là nhân tố chính trong việc xây dựng các tổ chức chính trị và cơ cấu chính quyền , nhà Chu đã sáng tạo ra một nền tảng hoàn toàn mới .để biện chính và hợp thức hóa công cuộc trị vì của họ : khái niệm Thiên Mệnh được khai sinh và đó là khái niệm tồn tại lâu nhất trong toàn bộ lịch sử chính trị TH.Như đã nói; trong khi nhà Thương sùng bái và tìm sự hướng dẫn bằng phương tiện bói toán, của các tổ tiên đã được thần linh hóa mà họ gọi là Đế thì các vua nhà Chu tuyên bố rằng quyền lực cai trị của họ bắt nguồn từ một lực lượng siêu nhiên tối cao gọi là Thiên và lực lượng này sẵn sàng giao phó quyền cai trị cho những gia đình hay cá nhân nào tài đức vẹn toàn ... (trang 156)
pth77
06/03/2014
Một vài nhận xét nhỏ:
- Nếu kết nối ba quẻ Thái -> Bĩ -> Đồng Nhân có thể nhận thấy một diễn biến thú vị về một thời kì của nhà Chu.
- Nếu so sánh quẻ Đồng Nhân với quẻ Tỷ cũng thấy một sự thú vị: một đằng là liên minh, cần thủ lĩnh có đẳng cấp (hào 5, chủ quẻ), một đằng là đồng thuận/hoà đồng do vai, vị thế trò còn mới mẻ, chưa mạnh mẽ (hào 2, chủ quẻ).
- Nếu so sánh quẻ Đồng Nhân với quẻ Nhu cũng có sự thú vị: diễn biến của quẻ có sự đi ngược, Nhu từ xa lại, Đồng Nhân từ gần ra.
- Giả thuyết: Dịch có lẽ tương tự bộ sử / sử thi , với các chương/ hồi được biểu thị bằng:
+ Quẻ: là một chương với hào biểu đạt một giai đoạn nhỏ.
+ Quẻ: là một biến cố đặc biệt...
+ Một vài quẻ có thể biểu đạt cho một thời kì dài trong lịch sử.
+ Kí Tế là kết thúc cho một giai đoạn / toàn bộ lịch sử, hoặc là sự chấm dứt của người viết sử, và Vị Tế là sự nhắn nhủ về sự tiếp diễn không ngừng của lịch sử, những thời kì mới được mở ra tiếp theo
Sửa bởi pth77: 06/03/2014 - 17:30
- Nếu kết nối ba quẻ Thái -> Bĩ -> Đồng Nhân có thể nhận thấy một diễn biến thú vị về một thời kì của nhà Chu.
- Nếu so sánh quẻ Đồng Nhân với quẻ Tỷ cũng thấy một sự thú vị: một đằng là liên minh, cần thủ lĩnh có đẳng cấp (hào 5, chủ quẻ), một đằng là đồng thuận/hoà đồng do vai, vị thế trò còn mới mẻ, chưa mạnh mẽ (hào 2, chủ quẻ).
- Nếu so sánh quẻ Đồng Nhân với quẻ Nhu cũng có sự thú vị: diễn biến của quẻ có sự đi ngược, Nhu từ xa lại, Đồng Nhân từ gần ra.
- Giả thuyết: Dịch có lẽ tương tự bộ sử / sử thi , với các chương/ hồi được biểu thị bằng:
+ Quẻ: là một chương với hào biểu đạt một giai đoạn nhỏ.
+ Quẻ: là một biến cố đặc biệt...
+ Một vài quẻ có thể biểu đạt cho một thời kì dài trong lịch sử.
+ Kí Tế là kết thúc cho một giai đoạn / toàn bộ lịch sử, hoặc là sự chấm dứt của người viết sử, và Vị Tế là sự nhắn nhủ về sự tiếp diễn không ngừng của lịch sử, những thời kì mới được mở ra tiếp theo
Sửa bởi pth77: 06/03/2014 - 17:30
coluong70
07/03/2014
Có dịp xem lướt cuốn sách về dịch của Nguyễn Duy Hinh, trong đó có đề cập bản Bạch thư chu dịch, dựa trên khai quật Mã Vương Đôi thập niên 1970. Trong cuốn của Nguyễn Duy Hinh cũng nói về 64 quẻ, do một tiến sĩ gửi tặng, được cho là lấy từ một đền thờ Hưng Đạo Vương. Các anh chị trong diễn đàn, nếu có, xin đưa lên để tham khảo, trao đổi ở đây. Tiếc là bản của Nguyễn Duy Hinh không có kèm chữ Hán để đối chiếu.
Quách Ngọc Bội
07/03/2014
Một số tài liệu liên quan tới Mã Vương Đôi - Bạch thư Chu Dịch:
Ngu Yên
07/03/2014
coluong70, on 07/03/2014 - 09:59, said:
Có dịp xem lướt cuốn sách về dịch của Nguyễn Duy Hinh, trong đó có đề cập bản Bạch thư chu dịch, dựa trên khai quật Mã Vương Đôi thập niên 1970. Trong cuốn của Nguyễn Duy Hinh cũng nói về 64 quẻ, do một tiến sĩ gửi tặng, được cho là lấy từ một đền thờ Hưng Đạo Vương. Các anh chị trong diễn đàn, nếu có, xin đưa lên để tham khảo, trao đổi ở đây. Tiếc là bản của Nguyễn Duy Hinh không có kèm chữ Hán để đối chiếu.
Về bản Mã vương đôi , quyển của nxb KHXH nói đến khá nhiều ,tài liệu pháp ngữ quyển của Wang Dongliang nói đến nhiều . Tựu trung tôi thấy cãi nhau nhiều mà chỉ ở những điểm ta không có cách nào kiểm chứng nên tôi không dùng cho bản diễn dịch 2014 hiện tại .Mặc dù Xuyên = sông nước thay cho Khôn = đất là 1 thay đổi có thể lớn . La = lưới thay cho Ly = ánh sáng ít hơn , các thay đổi khác thường chỉ được xem là đồng âm như Kiện thay cho Kiền, Toán thay cho Tốn .
Sửa bởi nguy: 07/03/2014 - 15:33
pth77
08/03/2014
Một vài nhận xét nhỏ:
- Hào 1 quẻ Thái và Bĩ: ngoài nghĩa dọn dẹp, chuẩn bị, có lẽ còn mang thêm nghĩa tìm kiếm, phân loại, bởi tộc Chu (có thể) là tộc du mục, nên việc tìm kiếm vùng đất có thể chăn nuôi là điều rất quan trọng.
- Thời Thái là sang vùng đất mới, còn hoan hỉ. Sang đến Bĩ, là có sự khó khăn (từ hào 1 đến hào 4), từ tìm kiếm vùng đất chăn nuôi, sang cắt đặt người trông coi (trưởng nhóm - hào 2), trong quá trình đó thì có sự bế tắc xảy ra do Tiểu nhân tốt, người tài đức không nhận / bế tắc ,và Mang điều xấu hổ (có thể do tranh giành), sang đến hào 4 thì mới có thể phân chia xong ruộng đất (vùng chăn nuôi) nên mới có thể có thời hào 5 (mặc dù hào này vẫn còn sự nhắc nhở cẩn trọng kẻo mất) và hào 6.
- Khi đã tạm ổn định cuộc sống (đất đai), thì mới an tâm giao tiếp, hoà nhập giữa các nhóm người trong cộng đồng (và có thể cả các nhóm dân tộc bản địa khác ) . Đồng Nhân từ gia đình, tới họ tộc, tới các nhóm tộc khác, thậm chí ban đầu còn có sự xích mích, sau mới hoà thuận. Và cuối cùng cũng tạo được sự Đồng Nhân trong phạm vi toàn lãnh thổ mới ( tới tận biên cương).
- Lãnh thổ đã ổn định, thì giao thiệp mở rộng với lân bang. Nhận thấy, xưa hay dùng "cắt đất cầu hoà" (trong Xuân Thu Chiến Quốc cũng hay dùng kế sách này - kế thừa thời Chu chăng), và cắt đất thì không nên giao nộp nơi trọng yếu là hợp lí. Trong ngoài ổn định rồi thì tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước - Xe lớn để chở - nhằm xây dựng quốc gia, lãnh thổ. Nên Đại Hữu cũng hàm nghĩa xây dựng thể chế, bộ máy nhà nước - guồng máy (đại ) có khả năng biến hư thành thực, tiềm tàng thành hiện hữu - với hiền thần (như Chu công), với thủ lĩnh chí thành (Vua -hào 5), có lòng tin cảm tới Trời, nên cũng được Trời giúp mà thành công - Phải cả thiên nhiên giúp đỡ mới đạt được đại hữu.
Sửa bởi pth77: 08/03/2014 - 15:24
- Hào 1 quẻ Thái và Bĩ: ngoài nghĩa dọn dẹp, chuẩn bị, có lẽ còn mang thêm nghĩa tìm kiếm, phân loại, bởi tộc Chu (có thể) là tộc du mục, nên việc tìm kiếm vùng đất có thể chăn nuôi là điều rất quan trọng.
- Thời Thái là sang vùng đất mới, còn hoan hỉ. Sang đến Bĩ, là có sự khó khăn (từ hào 1 đến hào 4), từ tìm kiếm vùng đất chăn nuôi, sang cắt đặt người trông coi (trưởng nhóm - hào 2), trong quá trình đó thì có sự bế tắc xảy ra do Tiểu nhân tốt, người tài đức không nhận / bế tắc ,và Mang điều xấu hổ (có thể do tranh giành), sang đến hào 4 thì mới có thể phân chia xong ruộng đất (vùng chăn nuôi) nên mới có thể có thời hào 5 (mặc dù hào này vẫn còn sự nhắc nhở cẩn trọng kẻo mất) và hào 6.
- Khi đã tạm ổn định cuộc sống (đất đai), thì mới an tâm giao tiếp, hoà nhập giữa các nhóm người trong cộng đồng (và có thể cả các nhóm dân tộc bản địa khác ) . Đồng Nhân từ gia đình, tới họ tộc, tới các nhóm tộc khác, thậm chí ban đầu còn có sự xích mích, sau mới hoà thuận. Và cuối cùng cũng tạo được sự Đồng Nhân trong phạm vi toàn lãnh thổ mới ( tới tận biên cương).
- Lãnh thổ đã ổn định, thì giao thiệp mở rộng với lân bang. Nhận thấy, xưa hay dùng "cắt đất cầu hoà" (trong Xuân Thu Chiến Quốc cũng hay dùng kế sách này - kế thừa thời Chu chăng), và cắt đất thì không nên giao nộp nơi trọng yếu là hợp lí. Trong ngoài ổn định rồi thì tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước - Xe lớn để chở - nhằm xây dựng quốc gia, lãnh thổ. Nên Đại Hữu cũng hàm nghĩa xây dựng thể chế, bộ máy nhà nước - guồng máy (đại ) có khả năng biến hư thành thực, tiềm tàng thành hiện hữu - với hiền thần (như Chu công), với thủ lĩnh chí thành (Vua -hào 5), có lòng tin cảm tới Trời, nên cũng được Trời giúp mà thành công - Phải cả thiên nhiên giúp đỡ mới đạt được đại hữu.
Sửa bởi pth77: 08/03/2014 - 15:24