Dịch Mạo
Viết bởi FM_daubac, 13/12/25 09:13
58 replies to this topic
#46
Gửi vào 16/12/2025 - 05:23
Dịch Mạo - Quyển Năm
45- Tuế sự chương
(Qua đây hiểu rõ về mùa màng, ruộng nương, nghề nuôi tằm, chiến tranh , dịch bệnh, thuỷ hạn ở các khu vực).
Một năm thuần thục là năm được mùa, thời an bình thịnh trị, được gọi là trời ban đất dưỡng, vật chất dồi dào dân chúng khoan hoà, cho nên chọn dụng thần là thê tài, bởi vạn vật dùng tài làm hình tượng. Vì thế hào tài hữu khí thì ngũ cốc tăng trưởng, hào tài không bị bệnh thì tất cả đều đơm hoa kết trái.
(Bói mùa màng được mất thì dùng hào tài; bói trị loạn thì dùng hào quỷ, đấy là bói một năm bằng đại tượng).
Hoả tài hay mộc tài sung túc lợi cho canh tác mùa xuân mùa hạ; tài là thuỷ, kim thích hợp trồng cây mùa thu mùa đông. Hào tử tôn không vong thì phụ nữ nuôi tằm vất vả, hào tài hãm thì nông dân thất vọng.
(Dùng thời gian, dùng hình tượng để nói, hà tử tôn là tằm, ruộng đất là hào tài).
Quỷ là lúc tai vạ, hoạn nạn, cho nên cần tĩnh chớ không nên động, bởi động thì bốn phương nhiều khổ nạn; rất là bất lợi ở hào kim quan quỷ e rằng chiến tranh khắp nơi; cũng không nên là hào thổ quỷ sợ ôn dịch lan tràn. Hào thuỷ thì tai nạn chết đuối; hào mộc thì khó khăn về cây dâu, cây gai (ý là trồng trọt); hào hoả thì tai nạn cháy khô, cùng với nỗi lo về hoả hoạn.
Hào động có kèm theo đằng xà, nếu chẳng phải chuyện ma quái trong làng mạc thì ắt là trẻ con bị đậu mùa; hào động kèm theo câu trần nếu chẳng phải châu chấu cắn phá lúa má thì cũng là đất đai bị bỏ hoang; hào động kèm bạch hổ nếu chẳng phải chiến tranh chợt nổi lên, ắt là cọp beo về làng; hào động kèm theo thanh long mùa lạnh mất thời gian phơi nắng mà hoa quả rơi rụng; hào động kèm theo châu tước chủ lời đồn thổi lan tràn và khó kiểm soát dư luận; hào động kèm theo huyền vũ chủ hao tổn bởi chim và chuột, mà không có cách nào loại bỏ bọn trộm cướp. Nên ngũ hành, lục thần không nên là hào quan quỷ và động.
(Thanh long vốn là điềm tốt, ở hào quỷ quấy rầy cũng khởi hung xấu).
Hào tài hoá quỷ khó thành công ở phương tây; hào quỷ hoá tài khó làm việc ở phương đông; hào quan hoá tử sẽ có những chính sách dẫn đến quản trị tốt; hào tử hoá quan thì có điềm báo loạn lạc.
(Hào quỷ hoá tài tuy khó khăn ở phương đông nhưng còn có thu hoạch, không như hoá quỷ thì càng nặng).
Nếu như bói thiên hạ thì mùa màng được mất không đều nhau, lý do động ở tỵ thì đất Sở hoang tàn, động ở chấn thì phương đông loạn lac.
(Càn là địa phận "Ký châu" (Tên gọi tắt của tỉnh Hà Bắc); khảm là địa phận "U châu" (Nay thuộc đông bắc tỉnh Trực Lệ và tây bắc tỉnh Phụng Thiên); cần là địa phận "Thanh châu" (thuộc vùng Sơn Đông Giáp đông đạo và Phụng Thiên, Liêu Dương bây giờ); chấn là địa phận "Duyện châu" (thuộc tỉnh Sơn Đông và Trực Lệ); tốn là địa phận "Từ châu" (nay ở vào khoảng tỉnh An Huy); ly là địa phận "Dương châu"; khôn là điạ phận "Kinh châu" (nay thuộc vào vùng Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây, Quý Châu); đoài là địa phận "Ung châu" (nay thuộc huyện Thấm Dương, tỉnh Hà Nam); trung là địa phận "Dự châu" (nay thuộc đất phía tây Hà Nam, Sơn Đông và phía bắc Hồ Bắc). Bởi trung cung gắn liền với địa phận khôn giống như cửu tinh "Thiên Cầm" gắn liền với "Thiên Nhuế" vậy. Tý là địa phận "Tề"; sửu là địa phận "Ngô"; dần là địa phận "Yến"; mão là địa phận "Tống"; thìn là địa phận "Trịnh"; tỵ là địa phận "Sở"; ngọ là địa phận "Chu"; mùi là địa phận "Tần"; thân là địa phận "Tấn"; dậu là địa phận "Triệu"; tuất là địa phận "Lỗ"; hợi là địa phận "Nguỵ". Bởi vì quỷ động ở địa phận nào tức là khu vực đó có khó khăn, là nơi nó lâm vào hào quan, cũng có khốn khó nhỏ , chỉ có an tĩnh thì không sao).
Cho nên quỷ ở hào sơ thì vật chết, quỷ ở hào hai thì dân chúng thống khổ, quỷ ở hào thượng thì trời nổi giận, quỷ ở hào ba thì quan lại hà khắc, ở hào năm thì quân vương phiền não, ở hào bốn thì đại thần chịu nhục, phương pháp của nó là lấy tài vượng làm thịnh vượng, quỷ động thì hoang tàn, loạn lạc, nghĩa của nó là như vậy.
(Quỷ động ở vị trí nào thì nơi đó quái dị, tuy nhiên an tĩnh thì không xấu, nhưng cũng có tật bệnh nhỏ).
.
45- Tuế sự chương
(Qua đây hiểu rõ về mùa màng, ruộng nương, nghề nuôi tằm, chiến tranh , dịch bệnh, thuỷ hạn ở các khu vực).
Một năm thuần thục là năm được mùa, thời an bình thịnh trị, được gọi là trời ban đất dưỡng, vật chất dồi dào dân chúng khoan hoà, cho nên chọn dụng thần là thê tài, bởi vạn vật dùng tài làm hình tượng. Vì thế hào tài hữu khí thì ngũ cốc tăng trưởng, hào tài không bị bệnh thì tất cả đều đơm hoa kết trái.
(Bói mùa màng được mất thì dùng hào tài; bói trị loạn thì dùng hào quỷ, đấy là bói một năm bằng đại tượng).
Hoả tài hay mộc tài sung túc lợi cho canh tác mùa xuân mùa hạ; tài là thuỷ, kim thích hợp trồng cây mùa thu mùa đông. Hào tử tôn không vong thì phụ nữ nuôi tằm vất vả, hào tài hãm thì nông dân thất vọng.
(Dùng thời gian, dùng hình tượng để nói, hà tử tôn là tằm, ruộng đất là hào tài).
Quỷ là lúc tai vạ, hoạn nạn, cho nên cần tĩnh chớ không nên động, bởi động thì bốn phương nhiều khổ nạn; rất là bất lợi ở hào kim quan quỷ e rằng chiến tranh khắp nơi; cũng không nên là hào thổ quỷ sợ ôn dịch lan tràn. Hào thuỷ thì tai nạn chết đuối; hào mộc thì khó khăn về cây dâu, cây gai (ý là trồng trọt); hào hoả thì tai nạn cháy khô, cùng với nỗi lo về hoả hoạn.
Hào động có kèm theo đằng xà, nếu chẳng phải chuyện ma quái trong làng mạc thì ắt là trẻ con bị đậu mùa; hào động kèm theo câu trần nếu chẳng phải châu chấu cắn phá lúa má thì cũng là đất đai bị bỏ hoang; hào động kèm bạch hổ nếu chẳng phải chiến tranh chợt nổi lên, ắt là cọp beo về làng; hào động kèm theo thanh long mùa lạnh mất thời gian phơi nắng mà hoa quả rơi rụng; hào động kèm theo châu tước chủ lời đồn thổi lan tràn và khó kiểm soát dư luận; hào động kèm theo huyền vũ chủ hao tổn bởi chim và chuột, mà không có cách nào loại bỏ bọn trộm cướp. Nên ngũ hành, lục thần không nên là hào quan quỷ và động.
(Thanh long vốn là điềm tốt, ở hào quỷ quấy rầy cũng khởi hung xấu).
Hào tài hoá quỷ khó thành công ở phương tây; hào quỷ hoá tài khó làm việc ở phương đông; hào quan hoá tử sẽ có những chính sách dẫn đến quản trị tốt; hào tử hoá quan thì có điềm báo loạn lạc.
(Hào quỷ hoá tài tuy khó khăn ở phương đông nhưng còn có thu hoạch, không như hoá quỷ thì càng nặng).
Nếu như bói thiên hạ thì mùa màng được mất không đều nhau, lý do động ở tỵ thì đất Sở hoang tàn, động ở chấn thì phương đông loạn lac.
(Càn là địa phận "Ký châu" (Tên gọi tắt của tỉnh Hà Bắc); khảm là địa phận "U châu" (Nay thuộc đông bắc tỉnh Trực Lệ và tây bắc tỉnh Phụng Thiên); cần là địa phận "Thanh châu" (thuộc vùng Sơn Đông Giáp đông đạo và Phụng Thiên, Liêu Dương bây giờ); chấn là địa phận "Duyện châu" (thuộc tỉnh Sơn Đông và Trực Lệ); tốn là địa phận "Từ châu" (nay ở vào khoảng tỉnh An Huy); ly là địa phận "Dương châu"; khôn là điạ phận "Kinh châu" (nay thuộc vào vùng Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây, Quý Châu); đoài là địa phận "Ung châu" (nay thuộc huyện Thấm Dương, tỉnh Hà Nam); trung là địa phận "Dự châu" (nay thuộc đất phía tây Hà Nam, Sơn Đông và phía bắc Hồ Bắc). Bởi trung cung gắn liền với địa phận khôn giống như cửu tinh "Thiên Cầm" gắn liền với "Thiên Nhuế" vậy. Tý là địa phận "Tề"; sửu là địa phận "Ngô"; dần là địa phận "Yến"; mão là địa phận "Tống"; thìn là địa phận "Trịnh"; tỵ là địa phận "Sở"; ngọ là địa phận "Chu"; mùi là địa phận "Tần"; thân là địa phận "Tấn"; dậu là địa phận "Triệu"; tuất là địa phận "Lỗ"; hợi là địa phận "Nguỵ". Bởi vì quỷ động ở địa phận nào tức là khu vực đó có khó khăn, là nơi nó lâm vào hào quan, cũng có khốn khó nhỏ , chỉ có an tĩnh thì không sao).
Cho nên quỷ ở hào sơ thì vật chết, quỷ ở hào hai thì dân chúng thống khổ, quỷ ở hào thượng thì trời nổi giận, quỷ ở hào ba thì quan lại hà khắc, ở hào năm thì quân vương phiền não, ở hào bốn thì đại thần chịu nhục, phương pháp của nó là lấy tài vượng làm thịnh vượng, quỷ động thì hoang tàn, loạn lạc, nghĩa của nó là như vậy.
(Quỷ động ở vị trí nào thì nơi đó quái dị, tuy nhiên an tĩnh thì không xấu, nhưng cũng có tật bệnh nhỏ).
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#47
Gửi vào 16/12/2025 - 06:34
Dịch Mạo - Quyển Năm
46- Thân mệnh chương
(Người ta nói rằng thân thể mình được trời an bài, có câu hỏi đặc biệt cho điều này, mệnh được trao giống như một tiếng vang lớn. Qua đây sẽ hiểu rõ thọ yểu; phú quý; đạo nghiệp; vợ con; các phương pháp nên theo hay tránh đại hạn, tiểu hạn).
Lời khuyên nhủ của thánh hiền: đời sống của mình thành bại, được mất, hanh thông hay khốn đốn như thế nào, tức là hào thế không thể bị bệnh. Hào thế không bệnh ắt sẽ thành mà không bị bại; sẽ được mà không bị mất; sẽ hanh thông mà không bị khốn đốn, cho nên mới nói: hào thế là căn bản của đời sống.
(Một đời thành hay bại, chỉ một hào thế cai quản: không bị hưu tù, thương tổn, thối lui gọi là không bị bệnh tật; bị không vong, phá, tán, tuyệt gọi là bị bệnh. Nếu như bói giùm cha con, chồng vợ, anh em thì nên xem hào dụng).
Tuỳ quan nhập mộ hay trợ quỷ thương thân thường nên đề phòng bệnh hoạn; phục ngâm, phản ngâm, hoá hay cư mộ tuyệt khó tránh khỏi truân chiên; chánh xung, hối xung, hợp xứ phùng xung cuối cùng thường là bị mất mát, đấy là đại khái cuộc sống. Nếu như chuyên tâm bói sẽ có lời khuyên nhũ đặc biệt.
Bói cỏ thi nói: thọ yểu thì như thế nào, tức là phá, tán, không vong, xung quyết chắc là yểu; nhật nguyệt, vượng tướng chắc là thọ. Tuần không hạn tuyệt, thiên khắc địa xung, chính là lúc mạng chung; suy xét sâu hơn chỉ có nhật nguyệt có thể làm chủ vậy. Tự mình bói thì dùng hào thế, còn bói cho lục thân thì xem hào dụng, xưa chuyên chấp vào hào phụ mẫu làm thọ thì chẳng đúng.
(Tuần không: là nói những năm sau này tuần không; hạn tuyệt: là nói sau này đi đến hạn tuyệt. Như người sanh năm mậu tý, năm đinh sửu tháng dần ngày tân hợi tự bói tuổi thọ được quẻ địa thuỷ sư, hào thế tuyệt ở hợi mà trường sanh ở dần tuổi thọ chưa hết, cho đến đầu thu năm mậu tý được lệnh ngưng nghĩ, chính là tuần giáp thân nên ngọ (hào thế) không vong, năm tý phá ngọ, mười năm sau đi hạn ngọ tuyệt ở hợi, canh thân lại phá dần sanh, là lúc chung mệnh. Còn lại phỏng theo đó).
Bói cỏ thi nói: mình có quý không, hào quan quỷ và phụ mẫu là gốc của quý. Do học tập mà được danh tức hào phụ mẫu sẽ có thế vị cao và tôn quý; do lập công mà được danh tất nhiên hào quan phải hưng thịnh; lấy vị trí mà bói bỗng lộc cao thấp; lấy hội mà bói năm tháng thành công; lấy bát quái làm phương ngung; lấy ngũ hành làm nơi nhiệm sở; lấy lục thần làm quan giai, phẩm cấp. Kim là binh hình, thuỷ chủ sông biển, thổ chủ thuế má, hoả chủ về lễ nghi, mộc chủ về xem xét thi cử; càn là tây bắc, tốn là đông nam; hào ba là trông coi về chăn nuôi, hào năm ở tỉnh thành; thanh long là văn chương bút mực, bạch hổ là sức mạnh phòng vệ, châu tước là cách nói (言路: ngôn lộ), huyền vũ là thuỷ lợi, câu trận là đất đai, đằng xà là phái viên (使节: sử tiết), hào sanh vượng tất nhiên là được, còn hào tử mộ tất nhiên là mất mát. Nhưng mà quan chế thay đổi theo thời đại, nên phải tuỳ theo nghĩa mà khởi.
(Lấy văn chương để tiến thân tât phải chuuên dùng hào phụ mẫu, cống cử (phương pháp tiến cử nhân tài thời xưa) cũng vậy; trường hợp đề bạt chuyên dùng hào quan quỷ, do sức mạnh mà tiếp nhận tước vị cũng vậy. Quan quỷ ở vị trí hào bốn, hào năm thì vinh hiển, văn (thanh long) lâm vào năm nay thi đậu (文临当现之年则第: văn lâm đương hiện chi niên tắc đệ), hào quan quỷ gặp sanh vượng trong năm đó được phong quan, ngũ hành là chức quan, bát cung là khu vực, lục thần là phân loại chức vụ, sáu hào là cấp bậc).
Bói cỏ thi nói: tôi có khả năng giàu không, thì hào thê tài hào phúc là căn bản của giàu có. Ở đời người phung phí tiền của vượng thì dư dả; còn người an lạc thì có phúc, mạnh khoẻ thì có nhiều việc mừng, người chỉ có tài mà không có phúc thì giàu mà phiền não; người có phúc mà không có tài thì nghèo mà an vui, dĩ nhiên thân phải được tiếp nhận, cho nên hào thế không thể bị thương tổn.
(Hỏi giàu sang đầu tiên xem hào thế sanh vượng, hào thế mà không vong thì không thành, hào thế phá thì không được hưởng, hào thế tán, tuyệt thì không được lâu dài).
Lại hỏi về chân lý thì kỵ lục xung, hỏi vợ thì kỵ hào tài hãm, tất cả đều không thể có hào thế không vong. Hỏi đường con cái thì kỵ hào tử tôn hư (trống rỗng, suy nhược), vượng tướng ắt nhiều con, hưu tù ắt con ít, hào không vong, tán dễ phạm pháp, khắc xung thì hung dữ, tàn ác, đới cát thần là người hiền lương, có thêm hung thần thì nghịch ngợm, trải qua một đời người càng thêm đảm lược, thi cừ được nhật nguyệt thì xương vinh, người bói anh em thì cũng như vậy.
(Nếu như hào thế bị hào tử tôn xung khắc, thì con cái ngỗ nghịch. Thường hỏi cha mẹ có thêm anh em không tức là hào huynh đệ, mọi thứ khác là bói con cái).
Như hỏi nên thuận theo hay nên lánh xa thì hào phúc là chỗ ta nên thuận theo, hào quỷ là chỗ mình nên tránh. Hào quan quỷ khắc thế không nói là quý: hoả quỷ khắc thân thì lo bị đốt cháy; thuỷ quan thương tổn hào thế thì lo bị chìm đắm; đới bạch hổ thì phải tránh chiến tranh; gia huyền vũ thì nên đề phòng trộm cướp; tuy thanh long cũng e sợ bị chìm đắm trong tửu sắc. Sở dĩ quỷ là vật không thể ăn được, quỷ phát ở cung nào không thể thuận theo. Sửu quỷ nên cử thịt trâu; mão quỷ cử thịt thỏ; tuất là chó dại; ngọ là lừa điên; quỷ phát ở đoài thì không có tỳ nữ là thiếu phụ; quỷ phát ở càn thì không có sư già; quỷ phát châu tước là dấu hiệu đề phòng phiền nhiễu bởi pháp luật; quỷ phát câu trận hay đằng xà thì chiêu vời hoạ khinh miệt; phát ở ly thì bệnh ở mắt có màng; phát ở chấn thì có ngón chân thừa; ở kim thì bệnh ở phổi; ở hoả thì bệnh về máu; quỷ phát ở quẻ du hồn thì chớ nên lân cận chỗ mới; quỷ phát ở quẻ quy hồn thì chớ nên trở về làng xưa. Sanh hợp hào thế là nơi nên đi đến; khắc xung hào thế là nơi mình nên tránh xa; sanh hợp là người mình nên kết giao; khắc xung là người mình nên xa lánh.
(Dùng ngũ hành, lục thần, bát cung, các thần sát cùng với mười hai địa chi mà thuộc quỷ động, gần thì xem lục thân; xa thì xem mọi vật mà nên theo hay tránh).
Quẻ cấn động hào tử tôn lợi cho việc tu thân ở sơn cốc; quẻ càn động hào phúc thích hợp lễ hội ở triều đình. Quẻ tốn tìm kiếm tài lợi ở hoa quả; quẻ chấn tìm kiếm lợi tức trên chuyến tàu; quẻ đoài tích trữ bằng buôn bán rượu và thức ăn; quẻ khôn lợi ích ở ruộng vườn. Động ở trên hào mộc nên chọn nghề trồng dâu, đai hay mè; động ở hào thuỷ thích hợp nên kinh doanh ở sông biển; hào hoả hơi nóng bếp lò của hàng quán; hào kim theo ngành ngọc thạch, đá quý; còn hào thổ chỉ nên làm ruộng. Thường nói bạch hổ tài nên làm nghề mổ, giết súc vật; châu tước tài thích hợp làm đào kép, phường chèo; thanh long tài thích hợp nghề giải trí; câu trận tài thích hợp nghề chuyên môn; đằng xà tài thích hợp buôn bán; huyền vũ tài thích hợp mở hàng quán. Không có hào thê tài mà có hào quan quỷ giỏi nghề thuốc, đồng cốt; không có hào quan quỷ mà có hào thê tài thích hợp làm nghề buôn bán.
(Phúc chính là nguyên thần của hào tài, mà tài là chủ của lợi ích, cho nên tài phúc là chỗ của tám quẻ, lục thần, ngũ thuộc đều là chỗ dựa của đời sống, quê hương của thành tích, tài sản. Như hào tử tôn động ở quẻ càn làm rối loạn triều đình cũng không tai hoạ gì, không thề nói rằng tử động thương tổn quan, nếu như chuyên hỏi đường quan lộ thì trái lại là điều kỵ).
Hào thế trì tử tôn thì điềm đạm, khoan hoà thích hợp với nhà sư, đạo sĩ; hào thế trì quan quỷ thì anh hùng dũng mãnh, thích hợp với võ thuật, văn chương ; hào thế trì phụ mẫu vất vả kiếm sống; hào thế trì thê tài thì nhấn chìm ta trong yên vui, an lạc, hào thế trì huynh đệ vượt qua giữa nghĩa và lợi.
(Phụ mẫu là thần của vất vả, cho nên là tượng của quản lý; thê tài là tượng của giàu có an vui, cho nên cần giữ gìn chớ tự mãn, chìm đắm; huynh đệ lấy nghĩa mà tiếp xúc, lấy lợi mà không thân cận, người bói nên lo liệu ở giữa, nếu không ắt sẽ nghèo nàn).
Hào thế bị gãy ở mộc, rèn luyện đức hạnh bằng cột trụ; hào thế sụp lở ở thổ phải lập đức tin để bồi dưỡng; hào thế không vong nên ổn định, chớ lìa bụi trần; hào thế không vong mà lại động chớ nên phấn chí; động mà xung tán nên phòng bị sự kiêu ngạo, tự mãn; động mà sanh phù thì giỏi kết nạp.
(Đây là phương pháp khuyên người hướng thiện. Bởi ngũ hành có đủ ngũ thường: mộc là nhân, kim là nghĩa, hoả là lễ, thuỷ là trí, thổ là tín. Giả sử hào mộc trì thế hoặc gặp không vong, phá, tán, tuyệt gọi là thiếu xót ở lòng nhân, chẳng yểu cũng bệnh tật, nếu như rèn luyện đức hạnh bằng trồng cây, thì yểu bệnh có thể kéo dài. Các hành khác cũng suy ra như vậy).
Không có hào phụ mẫu gọi là mồ côi không có người để nương tựa; không có hào tử tôn gọi là cô độc không có người thừa kế; không có hào thê tài mà có hào tử tôn là do phụ nữ khác mang thai; không có hào phụ mẫu mà có hào huynh đệ là có anh em từ mẹ khác. Người mà có hào quan trì thế có tổ chức tốt; người mà có thê tài toạ ứng thì vợ có đức hạnh hoàn bị, quẻ không vong, phá thì xuất thân nghèo hèn, quẻ vượng tướng thì nhà cửa giàu có, quan phụ phục mà hữu khí sẽ thành danh ở những năm cuối, tài phúc tàng phục mà không bị thương tổn, khởi gia ở tuổi già.
(Không có lục thân, đây là nói về đại tượng, hoặc là thương tổn trước, hoặc là thương tổn sau, không thể cố chấp).
Hai hào quan cùng làm quan; hai hào phụ mẫu phải thi lại mới đậu; hai hào thân là cơ sở để tái lập; hai hào thê tài hẹn ước tái hôn; hai hào tử tôn thì con trai con gái đích thứ; hai hào huynh đệ thì anh em đồng dị.
(Hiểu rõ hơn phần này ở chương Lưỡng Hiện).
Biến quan mà đắc nhật nguyệt sẽ được chức quan bất ngờ; biến tài mà được vượng tướng sẽ chẳng phải mong mỏi vợ giàu. Động khắc hào thế thì thường oán trách, động sanh hào thế thường hay giúp đỡ; tiến thần thì hoạ hay phúc sẽ càng rõ rệt, thối thần thì tốt hay xấu dần qua đi; dụng thần ngộ tuyệt được sanh thì trước khốn khổ sau hanh thông, dụng thần ngộ hữu thành vô, đầu tiên tốt đẹp kết cục khốn khổ.
(Đây là nói về cách hoá giải vận tốt xấu, quẻ không có hào quan quỷ không giỏi cầu danh, nếu như biến có nhật nguyệt hào quan, đang sắp nhận tước vị bỗng lộc; hào thế tài phùng tuyệt đời sống mất lợi lộc, như nếu mà trường sinh, thì sẽ trước thất bại mà sau sẽ thành công. Bởi động sanh hào thế người làm tốt cho mình rất nhiều, động mà khắc thế thì người làm xấu cho mình rất đông).
Giống như có trường hợp phạm lục hại mà anh em tham gia buôn bán; phạm tam hình mà cốt nhục thành thù địch; quý nhân, văn xương, thiên hỷ, thiên lộc và các sao tốt cũng là nguyên nhân tốt mới tìm cầu sau đó; còn dương nhận, thiên tặc, quan phù, thiên ngục cùng với các sao xấu cũng là nguyên nhân xấu mà sau đó tra cứu tìm tòi. Tục ngữ nói: bát quái thành quy định, ngũ hành quan trọng nhất, lục thân theo sau, lục thần phỏng theo, các sao giúp nhau. Tốt xấu thích hợp nhau, hỗ trợ dương và ức chế âm, kiềm chế cái ác và thúc đẩy cái thiện, mà sau đó mới có thể nghiệm lý bói nên theo hay nên tránh xa.
(Đây là nói về các sao tốt xấu (thần sát), nếu như hào dụng đắc địa, thì dùng sao tốt tượng trưng; hào dụng thất vị thì dùng hung tinh để tượng trưng. Như năm bính tuất tháng tý ngày mậu thân, người sanh năm mậu ngọ bói thân mệnh được "lôi sơn tiểu quá" biến "thuần cấn", hào thế cũng là hào mệnh nhảy vào mộ, vốn là chủ về thọ yểu, trên hào ngọ có thiên tặc, huyền vũ, đại bạch hổ, sau đến cuối thu mậu tý bị cướp giết hại, có thể thấy lý do của hình tượng hung xấu. Nếu như thân mệnh cầu quý mà hào quan lâm nhật nguyệt mà cùng có bạch hổ, dương nhận nắm giữ nhiều thứ quá, quyền hành quân đội có thể nắm giữ. Bởi vậy mới nói: tượng của lục thần thêm các sao phù trợ, phương pháp nên như thế).
Tự bói đại hạn ở hào sơ, đi thuận đến hào sơ quẻ hối (顺巡乎悔之初爻: thuận tuần hồ hối chi sơ hào - không hiểu ý quẻ hối là gì?), hào sơ quẻ hối đi thuận đến hào sơ quẻ phục, hào sơ quẻ phục đi thuận đến hào sơ quẻ bói, đếm số âm dương, chín lần thay đổi là trở lại, cho nên chín mươi trở lại hào sơ quẻ bói, ba hào thế trở lại nơi chỗ bắt đầu; không có quẻ biến thì theo quẻ hỗ, bỏ nhuận mà theo thời (去閏從時: khử nhuận tòng thời). Có trường hợp nói thai nguyên là thể cốt đặc biệt, chính là sơ sanh, bói toán bảo cho biết. Năm mươi tuổi mà bói, thì đã trải qua thành bại, lợi dộn, thì tìm kiếm tốt xấu gì nửa? Dịch cho rằng bói để biết sự việc sẽ đến, thì nên dùng ngày giờ lúc bói mà bắt đầu xem xét ở hào sơ, tốt xấu của nó thì lấy không vong, phá là nguy; xung tán thì nên đề phòng; gặp dụng thần thì mãn ý; hội kỵ thần là mất mát; sanh hợp thì thuận lợi; khắc xung thì không thuận lợi. Trong năm năm gia thêm tiểu hạn bằng nhau, vì thế ngày bói thì bắt đầu ở hào thế, đi thuận lên xuống và tuần hoàn, mỗi năm một vị, tốt xấu của nó cũng giống cách thức ở đại hạn. Và luôn theo các năm đều nhau, tốt xấu của nó gặp hư (không vong) thì mừng được điền thật, tuyệt thì mừng được sanh, không thì mừng gặp như thế.
(Pháp nói: đại hạn năm năm một vị, bắt dầu từ hào sơ; tiểu hạn mỗi năm một vị, khởi từ hào thế, trọn tháng trẻ con, đó là tiêu chuẩn dùng cho bói toán, còn lại tuổi thiếu niên, tráng niên đều dùng thời gian lúc bói, khởi đại hạn, tiểu hạn ở hào sơ, hào thế. Không có quẻ biến thì dùng quẻ hỗ, thuận theo thời gian tiết khí lúc bói là chuẩn xác, như hiện giờ bói là kinh trập, thì đến kinh trập năm sau là một năm vậy, tháng nhuận không đếm. Dịch dùng để bói sự việc sẽ đến, không bói cho việc đã qua. Đại hạn lấy tiểu hạn mà tham khảo; tiểu hạn thì lấy năm, tháng mà tham khảo, hư (không vong) nên được điền thật; tuyệt nên được sanh; không có thì nên được thấy. Đại hạn, tiểu hạn đều kỵ không vong, phá, tán, tuyệt, khắc, xung cùng với đất của kỵ thần, mà nên được nhật nguyệt, vượng tướng, sanh hợp cùng với đất của nguyên thần. Như năm kỷ sửu tháng dần ngày canh ngọ, người kỷ tỵ chiêm quý được quẻ "sơn trạch tổn" biến "sơn địa bác", hào mão quan động mà năm tân mão thi, tuy nhiên đại hạn tỵ phụ mẫu hoá mùi huynh đệ, tiểu hạn năm thứ ba ở hào tý là năm bất lợi; sau đến năm giáp ngọ có tên trên bảng những người thi đậu, đại hạn tại hào mão, tiểu hạn cũng tại hào mão, chính là đất của nguyên thần, nên năm đó thi đậu, còn lại phỏng theo đó. Bởi đại hạn, tiểu hạn, lưu niên ắt phải đầu tiên xem xét dụng thần, kỵ thần của lưu niên, kế xem xét tỉ mỉ của phúc lành và tai hoạ của đại hạn, lại tìm xem tốt xấu của tiểu hạn, mức độ nghiêm trọng không như nhau , người bói nên xét kỹ).
Bởi hạn thì giống nhau, mà người bói thì khác nhau, vì vậy dùng bói cho người trên thì dụng thần là phụ mẫu, chú bác cũng giống như vậy; bói cho người dưới thì dụng thần là tử tôn, cháu chắt cũng giống vậy; bói vợ chồng (室家: thất gia) thì dụng thần là thê tài, nàng hầu vợ lẽ, nô bộc cũng giống vậy; bói anh em (手足: thủ túc) thì dụng thần là huynh đệ, anh em cùng họ (宗娣: tông đễ) cũng vậy. Chồng thì dụng thần là quan, bạn tốt (良朋: lương bằng) thì dụng thần là hào ứng, không thể xét nghiệm sai lầm. Dụng thần được quy định rồi tạo hoá được phân biệt, tuy nhiên người bói không có lòng mong cầu qua đáng, không có ý chí vững chắc, nhưng rồi thần linh sẽ mách bảo.
.
46- Thân mệnh chương
(Người ta nói rằng thân thể mình được trời an bài, có câu hỏi đặc biệt cho điều này, mệnh được trao giống như một tiếng vang lớn. Qua đây sẽ hiểu rõ thọ yểu; phú quý; đạo nghiệp; vợ con; các phương pháp nên theo hay tránh đại hạn, tiểu hạn).
Lời khuyên nhủ của thánh hiền: đời sống của mình thành bại, được mất, hanh thông hay khốn đốn như thế nào, tức là hào thế không thể bị bệnh. Hào thế không bệnh ắt sẽ thành mà không bị bại; sẽ được mà không bị mất; sẽ hanh thông mà không bị khốn đốn, cho nên mới nói: hào thế là căn bản của đời sống.
(Một đời thành hay bại, chỉ một hào thế cai quản: không bị hưu tù, thương tổn, thối lui gọi là không bị bệnh tật; bị không vong, phá, tán, tuyệt gọi là bị bệnh. Nếu như bói giùm cha con, chồng vợ, anh em thì nên xem hào dụng).
Tuỳ quan nhập mộ hay trợ quỷ thương thân thường nên đề phòng bệnh hoạn; phục ngâm, phản ngâm, hoá hay cư mộ tuyệt khó tránh khỏi truân chiên; chánh xung, hối xung, hợp xứ phùng xung cuối cùng thường là bị mất mát, đấy là đại khái cuộc sống. Nếu như chuyên tâm bói sẽ có lời khuyên nhũ đặc biệt.
Bói cỏ thi nói: thọ yểu thì như thế nào, tức là phá, tán, không vong, xung quyết chắc là yểu; nhật nguyệt, vượng tướng chắc là thọ. Tuần không hạn tuyệt, thiên khắc địa xung, chính là lúc mạng chung; suy xét sâu hơn chỉ có nhật nguyệt có thể làm chủ vậy. Tự mình bói thì dùng hào thế, còn bói cho lục thân thì xem hào dụng, xưa chuyên chấp vào hào phụ mẫu làm thọ thì chẳng đúng.
(Tuần không: là nói những năm sau này tuần không; hạn tuyệt: là nói sau này đi đến hạn tuyệt. Như người sanh năm mậu tý, năm đinh sửu tháng dần ngày tân hợi tự bói tuổi thọ được quẻ địa thuỷ sư, hào thế tuyệt ở hợi mà trường sanh ở dần tuổi thọ chưa hết, cho đến đầu thu năm mậu tý được lệnh ngưng nghĩ, chính là tuần giáp thân nên ngọ (hào thế) không vong, năm tý phá ngọ, mười năm sau đi hạn ngọ tuyệt ở hợi, canh thân lại phá dần sanh, là lúc chung mệnh. Còn lại phỏng theo đó).
Bói cỏ thi nói: mình có quý không, hào quan quỷ và phụ mẫu là gốc của quý. Do học tập mà được danh tức hào phụ mẫu sẽ có thế vị cao và tôn quý; do lập công mà được danh tất nhiên hào quan phải hưng thịnh; lấy vị trí mà bói bỗng lộc cao thấp; lấy hội mà bói năm tháng thành công; lấy bát quái làm phương ngung; lấy ngũ hành làm nơi nhiệm sở; lấy lục thần làm quan giai, phẩm cấp. Kim là binh hình, thuỷ chủ sông biển, thổ chủ thuế má, hoả chủ về lễ nghi, mộc chủ về xem xét thi cử; càn là tây bắc, tốn là đông nam; hào ba là trông coi về chăn nuôi, hào năm ở tỉnh thành; thanh long là văn chương bút mực, bạch hổ là sức mạnh phòng vệ, châu tước là cách nói (言路: ngôn lộ), huyền vũ là thuỷ lợi, câu trận là đất đai, đằng xà là phái viên (使节: sử tiết), hào sanh vượng tất nhiên là được, còn hào tử mộ tất nhiên là mất mát. Nhưng mà quan chế thay đổi theo thời đại, nên phải tuỳ theo nghĩa mà khởi.
(Lấy văn chương để tiến thân tât phải chuuên dùng hào phụ mẫu, cống cử (phương pháp tiến cử nhân tài thời xưa) cũng vậy; trường hợp đề bạt chuyên dùng hào quan quỷ, do sức mạnh mà tiếp nhận tước vị cũng vậy. Quan quỷ ở vị trí hào bốn, hào năm thì vinh hiển, văn (thanh long) lâm vào năm nay thi đậu (文临当现之年则第: văn lâm đương hiện chi niên tắc đệ), hào quan quỷ gặp sanh vượng trong năm đó được phong quan, ngũ hành là chức quan, bát cung là khu vực, lục thần là phân loại chức vụ, sáu hào là cấp bậc).
Bói cỏ thi nói: tôi có khả năng giàu không, thì hào thê tài hào phúc là căn bản của giàu có. Ở đời người phung phí tiền của vượng thì dư dả; còn người an lạc thì có phúc, mạnh khoẻ thì có nhiều việc mừng, người chỉ có tài mà không có phúc thì giàu mà phiền não; người có phúc mà không có tài thì nghèo mà an vui, dĩ nhiên thân phải được tiếp nhận, cho nên hào thế không thể bị thương tổn.
(Hỏi giàu sang đầu tiên xem hào thế sanh vượng, hào thế mà không vong thì không thành, hào thế phá thì không được hưởng, hào thế tán, tuyệt thì không được lâu dài).
Lại hỏi về chân lý thì kỵ lục xung, hỏi vợ thì kỵ hào tài hãm, tất cả đều không thể có hào thế không vong. Hỏi đường con cái thì kỵ hào tử tôn hư (trống rỗng, suy nhược), vượng tướng ắt nhiều con, hưu tù ắt con ít, hào không vong, tán dễ phạm pháp, khắc xung thì hung dữ, tàn ác, đới cát thần là người hiền lương, có thêm hung thần thì nghịch ngợm, trải qua một đời người càng thêm đảm lược, thi cừ được nhật nguyệt thì xương vinh, người bói anh em thì cũng như vậy.
(Nếu như hào thế bị hào tử tôn xung khắc, thì con cái ngỗ nghịch. Thường hỏi cha mẹ có thêm anh em không tức là hào huynh đệ, mọi thứ khác là bói con cái).
Như hỏi nên thuận theo hay nên lánh xa thì hào phúc là chỗ ta nên thuận theo, hào quỷ là chỗ mình nên tránh. Hào quan quỷ khắc thế không nói là quý: hoả quỷ khắc thân thì lo bị đốt cháy; thuỷ quan thương tổn hào thế thì lo bị chìm đắm; đới bạch hổ thì phải tránh chiến tranh; gia huyền vũ thì nên đề phòng trộm cướp; tuy thanh long cũng e sợ bị chìm đắm trong tửu sắc. Sở dĩ quỷ là vật không thể ăn được, quỷ phát ở cung nào không thể thuận theo. Sửu quỷ nên cử thịt trâu; mão quỷ cử thịt thỏ; tuất là chó dại; ngọ là lừa điên; quỷ phát ở đoài thì không có tỳ nữ là thiếu phụ; quỷ phát ở càn thì không có sư già; quỷ phát châu tước là dấu hiệu đề phòng phiền nhiễu bởi pháp luật; quỷ phát câu trận hay đằng xà thì chiêu vời hoạ khinh miệt; phát ở ly thì bệnh ở mắt có màng; phát ở chấn thì có ngón chân thừa; ở kim thì bệnh ở phổi; ở hoả thì bệnh về máu; quỷ phát ở quẻ du hồn thì chớ nên lân cận chỗ mới; quỷ phát ở quẻ quy hồn thì chớ nên trở về làng xưa. Sanh hợp hào thế là nơi nên đi đến; khắc xung hào thế là nơi mình nên tránh xa; sanh hợp là người mình nên kết giao; khắc xung là người mình nên xa lánh.
(Dùng ngũ hành, lục thần, bát cung, các thần sát cùng với mười hai địa chi mà thuộc quỷ động, gần thì xem lục thân; xa thì xem mọi vật mà nên theo hay tránh).
Quẻ cấn động hào tử tôn lợi cho việc tu thân ở sơn cốc; quẻ càn động hào phúc thích hợp lễ hội ở triều đình. Quẻ tốn tìm kiếm tài lợi ở hoa quả; quẻ chấn tìm kiếm lợi tức trên chuyến tàu; quẻ đoài tích trữ bằng buôn bán rượu và thức ăn; quẻ khôn lợi ích ở ruộng vườn. Động ở trên hào mộc nên chọn nghề trồng dâu, đai hay mè; động ở hào thuỷ thích hợp nên kinh doanh ở sông biển; hào hoả hơi nóng bếp lò của hàng quán; hào kim theo ngành ngọc thạch, đá quý; còn hào thổ chỉ nên làm ruộng. Thường nói bạch hổ tài nên làm nghề mổ, giết súc vật; châu tước tài thích hợp làm đào kép, phường chèo; thanh long tài thích hợp nghề giải trí; câu trận tài thích hợp nghề chuyên môn; đằng xà tài thích hợp buôn bán; huyền vũ tài thích hợp mở hàng quán. Không có hào thê tài mà có hào quan quỷ giỏi nghề thuốc, đồng cốt; không có hào quan quỷ mà có hào thê tài thích hợp làm nghề buôn bán.
(Phúc chính là nguyên thần của hào tài, mà tài là chủ của lợi ích, cho nên tài phúc là chỗ của tám quẻ, lục thần, ngũ thuộc đều là chỗ dựa của đời sống, quê hương của thành tích, tài sản. Như hào tử tôn động ở quẻ càn làm rối loạn triều đình cũng không tai hoạ gì, không thề nói rằng tử động thương tổn quan, nếu như chuyên hỏi đường quan lộ thì trái lại là điều kỵ).
Hào thế trì tử tôn thì điềm đạm, khoan hoà thích hợp với nhà sư, đạo sĩ; hào thế trì quan quỷ thì anh hùng dũng mãnh, thích hợp với võ thuật, văn chương ; hào thế trì phụ mẫu vất vả kiếm sống; hào thế trì thê tài thì nhấn chìm ta trong yên vui, an lạc, hào thế trì huynh đệ vượt qua giữa nghĩa và lợi.
(Phụ mẫu là thần của vất vả, cho nên là tượng của quản lý; thê tài là tượng của giàu có an vui, cho nên cần giữ gìn chớ tự mãn, chìm đắm; huynh đệ lấy nghĩa mà tiếp xúc, lấy lợi mà không thân cận, người bói nên lo liệu ở giữa, nếu không ắt sẽ nghèo nàn).
Hào thế bị gãy ở mộc, rèn luyện đức hạnh bằng cột trụ; hào thế sụp lở ở thổ phải lập đức tin để bồi dưỡng; hào thế không vong nên ổn định, chớ lìa bụi trần; hào thế không vong mà lại động chớ nên phấn chí; động mà xung tán nên phòng bị sự kiêu ngạo, tự mãn; động mà sanh phù thì giỏi kết nạp.
(Đây là phương pháp khuyên người hướng thiện. Bởi ngũ hành có đủ ngũ thường: mộc là nhân, kim là nghĩa, hoả là lễ, thuỷ là trí, thổ là tín. Giả sử hào mộc trì thế hoặc gặp không vong, phá, tán, tuyệt gọi là thiếu xót ở lòng nhân, chẳng yểu cũng bệnh tật, nếu như rèn luyện đức hạnh bằng trồng cây, thì yểu bệnh có thể kéo dài. Các hành khác cũng suy ra như vậy).
Không có hào phụ mẫu gọi là mồ côi không có người để nương tựa; không có hào tử tôn gọi là cô độc không có người thừa kế; không có hào thê tài mà có hào tử tôn là do phụ nữ khác mang thai; không có hào phụ mẫu mà có hào huynh đệ là có anh em từ mẹ khác. Người mà có hào quan trì thế có tổ chức tốt; người mà có thê tài toạ ứng thì vợ có đức hạnh hoàn bị, quẻ không vong, phá thì xuất thân nghèo hèn, quẻ vượng tướng thì nhà cửa giàu có, quan phụ phục mà hữu khí sẽ thành danh ở những năm cuối, tài phúc tàng phục mà không bị thương tổn, khởi gia ở tuổi già.
(Không có lục thân, đây là nói về đại tượng, hoặc là thương tổn trước, hoặc là thương tổn sau, không thể cố chấp).
Hai hào quan cùng làm quan; hai hào phụ mẫu phải thi lại mới đậu; hai hào thân là cơ sở để tái lập; hai hào thê tài hẹn ước tái hôn; hai hào tử tôn thì con trai con gái đích thứ; hai hào huynh đệ thì anh em đồng dị.
(Hiểu rõ hơn phần này ở chương Lưỡng Hiện).
Biến quan mà đắc nhật nguyệt sẽ được chức quan bất ngờ; biến tài mà được vượng tướng sẽ chẳng phải mong mỏi vợ giàu. Động khắc hào thế thì thường oán trách, động sanh hào thế thường hay giúp đỡ; tiến thần thì hoạ hay phúc sẽ càng rõ rệt, thối thần thì tốt hay xấu dần qua đi; dụng thần ngộ tuyệt được sanh thì trước khốn khổ sau hanh thông, dụng thần ngộ hữu thành vô, đầu tiên tốt đẹp kết cục khốn khổ.
(Đây là nói về cách hoá giải vận tốt xấu, quẻ không có hào quan quỷ không giỏi cầu danh, nếu như biến có nhật nguyệt hào quan, đang sắp nhận tước vị bỗng lộc; hào thế tài phùng tuyệt đời sống mất lợi lộc, như nếu mà trường sinh, thì sẽ trước thất bại mà sau sẽ thành công. Bởi động sanh hào thế người làm tốt cho mình rất nhiều, động mà khắc thế thì người làm xấu cho mình rất đông).
Giống như có trường hợp phạm lục hại mà anh em tham gia buôn bán; phạm tam hình mà cốt nhục thành thù địch; quý nhân, văn xương, thiên hỷ, thiên lộc và các sao tốt cũng là nguyên nhân tốt mới tìm cầu sau đó; còn dương nhận, thiên tặc, quan phù, thiên ngục cùng với các sao xấu cũng là nguyên nhân xấu mà sau đó tra cứu tìm tòi. Tục ngữ nói: bát quái thành quy định, ngũ hành quan trọng nhất, lục thân theo sau, lục thần phỏng theo, các sao giúp nhau. Tốt xấu thích hợp nhau, hỗ trợ dương và ức chế âm, kiềm chế cái ác và thúc đẩy cái thiện, mà sau đó mới có thể nghiệm lý bói nên theo hay nên tránh xa.
(Đây là nói về các sao tốt xấu (thần sát), nếu như hào dụng đắc địa, thì dùng sao tốt tượng trưng; hào dụng thất vị thì dùng hung tinh để tượng trưng. Như năm bính tuất tháng tý ngày mậu thân, người sanh năm mậu ngọ bói thân mệnh được "lôi sơn tiểu quá" biến "thuần cấn", hào thế cũng là hào mệnh nhảy vào mộ, vốn là chủ về thọ yểu, trên hào ngọ có thiên tặc, huyền vũ, đại bạch hổ, sau đến cuối thu mậu tý bị cướp giết hại, có thể thấy lý do của hình tượng hung xấu. Nếu như thân mệnh cầu quý mà hào quan lâm nhật nguyệt mà cùng có bạch hổ, dương nhận nắm giữ nhiều thứ quá, quyền hành quân đội có thể nắm giữ. Bởi vậy mới nói: tượng của lục thần thêm các sao phù trợ, phương pháp nên như thế).
Tự bói đại hạn ở hào sơ, đi thuận đến hào sơ quẻ hối (顺巡乎悔之初爻: thuận tuần hồ hối chi sơ hào - không hiểu ý quẻ hối là gì?), hào sơ quẻ hối đi thuận đến hào sơ quẻ phục, hào sơ quẻ phục đi thuận đến hào sơ quẻ bói, đếm số âm dương, chín lần thay đổi là trở lại, cho nên chín mươi trở lại hào sơ quẻ bói, ba hào thế trở lại nơi chỗ bắt đầu; không có quẻ biến thì theo quẻ hỗ, bỏ nhuận mà theo thời (去閏從時: khử nhuận tòng thời). Có trường hợp nói thai nguyên là thể cốt đặc biệt, chính là sơ sanh, bói toán bảo cho biết. Năm mươi tuổi mà bói, thì đã trải qua thành bại, lợi dộn, thì tìm kiếm tốt xấu gì nửa? Dịch cho rằng bói để biết sự việc sẽ đến, thì nên dùng ngày giờ lúc bói mà bắt đầu xem xét ở hào sơ, tốt xấu của nó thì lấy không vong, phá là nguy; xung tán thì nên đề phòng; gặp dụng thần thì mãn ý; hội kỵ thần là mất mát; sanh hợp thì thuận lợi; khắc xung thì không thuận lợi. Trong năm năm gia thêm tiểu hạn bằng nhau, vì thế ngày bói thì bắt đầu ở hào thế, đi thuận lên xuống và tuần hoàn, mỗi năm một vị, tốt xấu của nó cũng giống cách thức ở đại hạn. Và luôn theo các năm đều nhau, tốt xấu của nó gặp hư (không vong) thì mừng được điền thật, tuyệt thì mừng được sanh, không thì mừng gặp như thế.
(Pháp nói: đại hạn năm năm một vị, bắt dầu từ hào sơ; tiểu hạn mỗi năm một vị, khởi từ hào thế, trọn tháng trẻ con, đó là tiêu chuẩn dùng cho bói toán, còn lại tuổi thiếu niên, tráng niên đều dùng thời gian lúc bói, khởi đại hạn, tiểu hạn ở hào sơ, hào thế. Không có quẻ biến thì dùng quẻ hỗ, thuận theo thời gian tiết khí lúc bói là chuẩn xác, như hiện giờ bói là kinh trập, thì đến kinh trập năm sau là một năm vậy, tháng nhuận không đếm. Dịch dùng để bói sự việc sẽ đến, không bói cho việc đã qua. Đại hạn lấy tiểu hạn mà tham khảo; tiểu hạn thì lấy năm, tháng mà tham khảo, hư (không vong) nên được điền thật; tuyệt nên được sanh; không có thì nên được thấy. Đại hạn, tiểu hạn đều kỵ không vong, phá, tán, tuyệt, khắc, xung cùng với đất của kỵ thần, mà nên được nhật nguyệt, vượng tướng, sanh hợp cùng với đất của nguyên thần. Như năm kỷ sửu tháng dần ngày canh ngọ, người kỷ tỵ chiêm quý được quẻ "sơn trạch tổn" biến "sơn địa bác", hào mão quan động mà năm tân mão thi, tuy nhiên đại hạn tỵ phụ mẫu hoá mùi huynh đệ, tiểu hạn năm thứ ba ở hào tý là năm bất lợi; sau đến năm giáp ngọ có tên trên bảng những người thi đậu, đại hạn tại hào mão, tiểu hạn cũng tại hào mão, chính là đất của nguyên thần, nên năm đó thi đậu, còn lại phỏng theo đó. Bởi đại hạn, tiểu hạn, lưu niên ắt phải đầu tiên xem xét dụng thần, kỵ thần của lưu niên, kế xem xét tỉ mỉ của phúc lành và tai hoạ của đại hạn, lại tìm xem tốt xấu của tiểu hạn, mức độ nghiêm trọng không như nhau , người bói nên xét kỹ).
Bởi hạn thì giống nhau, mà người bói thì khác nhau, vì vậy dùng bói cho người trên thì dụng thần là phụ mẫu, chú bác cũng giống như vậy; bói cho người dưới thì dụng thần là tử tôn, cháu chắt cũng giống vậy; bói vợ chồng (室家: thất gia) thì dụng thần là thê tài, nàng hầu vợ lẽ, nô bộc cũng giống vậy; bói anh em (手足: thủ túc) thì dụng thần là huynh đệ, anh em cùng họ (宗娣: tông đễ) cũng vậy. Chồng thì dụng thần là quan, bạn tốt (良朋: lương bằng) thì dụng thần là hào ứng, không thể xét nghiệm sai lầm. Dụng thần được quy định rồi tạo hoá được phân biệt, tuy nhiên người bói không có lòng mong cầu qua đáng, không có ý chí vững chắc, nhưng rồi thần linh sẽ mách bảo.
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#48
Gửi vào 16/12/2025 - 09:46
Dịch Mạo - Quyển Năm
47- Niên vận chương
Thánh nhân làm dịch, xưa nay thường dân sử dụng khiến thiên hạ mà biết xu cát tỵ hung. Cho dù là bậc thánh triết vẫn không bỏ cỏ thi, đốt mai rùa để bói, song người bói phải phân xa gần, hoặc là bói ba năm tới, hoặc là bói cho năm nay, đều lấy hào thế làm gốc, cho nên hào thế vượng thì thân thể an ổn, hào quỷ an tĩnh thì tai nạn ngưng , tuỳ quan nhập mộ, trợ quỷ thương thân tức là kiện tụng bắt đầu và bệnh tật phát tác vậy, phản ngâm, phục ngâm hay hoá mộ, tuyệt thì bệnh nặng sắp đến vậy. Đây là điều quan trọng của niên vận.
(Phản ngâm, phục ngâm, mộ tuyệt, nên thẩm xét kỹ càng chủ thuộc, nếu thân là trưởng nam gặp phục ngâm thì xấu, thân là trung nữ gặp phản ngâm thì không tốt lành, còn lại chẳng kiêng kỵ gì).
Vả chăng hào thế không vong mà toan tính chỉ là hão huyền; hào thế phá không rõ nguyên mà gặp thảm hoạ; hào động thì nhọc nhằn, vất vả; hào tĩnh thì an nhàn; hào xung thì nên nghi ngờ trước khi hành động; hào tán là sự việc chưa thành mà trở thành thất bại; hào vượng tướng thì sự việc thường thuận thành; hào hưu tù thường dẫn đến sự việc trì trệ.
(Phương pháp bói niên vận, thật sự liên hệ hào thế, nếu được nhật nguyệt sanh phù, vượng tướng an tĩnh thì tốt, còn không vong, phá, tán, tuyệt, hưu tù hay phát động thường ít yên ổn).
Giống như được quẻ khảm, quẻ cấn thì kỵ xuất hành, được quẻ truân kiển thì kỵ thăm hỏi, được quẻ tỉnh thì khó dời đổi, được quẻ độn thì không nên đề cử, được quẻ cấu thì không nên đam mê nữ sắc, được quẻ vô vọng thì không có việc mong cầu xằng bậy, được quẻ tiểu quá thì không giữ oán hận ở tiểu nhân, được quẻ đoài thì không buông lung mồm miệng, là khuyên răn cho người bói, nhưng phải do hào quỷ động mới suy xét.
(Đây là dùng tượng quẻ mà theo hay tránh, tất nhiên phải kèm theo hào quỷ phát động, còn như hào quỷ an tĩnh thì chớ dùng tên quẻ mà xem xét hoạ phúc. Bởi quan quỷ là kỵ thần của niên vận, cho là không thích hợp tuổi già, hào thế là dụng thần của niên vận, cho là không nên tật bệnh).
Tuy nhiên quỷ phát ở cung nào cũng như ở hào nào cũng có điều khuyên răn. Động ở khôn thì mẹ già, ruộng đất, văn chương, mồ mả, xe cộ có cơ hội gặp hoạ; động ở khảm thì sông hồ, bụi rậm, trộm cướp, rượu và mồi nhắm, bệnh tim, đau tai là điềm báo trước tai hoạ; động ở chấn, thì ghe thuyền, cờ xí, tiên đạo, con trai trưởng, binh lính, tức giận cũ thì gây ra trách cứ; ở càn thường là ứng với triều đình, chùa chiền, tây bắc, cưởi ngựa, hư xe là nổi lo; tốn thướng ứng với gió, đàn bà hung dữ, vườn tược, hối lộ, gà vịt bị bệnh; cấn là trẻ con, mồ mả, lính gác dinh thự, chó cắn, kinh hải bởi cọp; khởi ở ly thì mù loà, bụng to, chiến tranh, giáp trụ, đi về phía nam mà gặp hoạn nạn; còn khởi ở đoài thì hoa liễu (花柳: hoa liễu), ngạo mạn tuỳ tiện, sư ni tà hoặc, vì lời nói mà chuốc oán. Kể ra các tượng của bát quái và hình tượng của vạn vật để mà biết theo hay tránh các điềm triệu vậy.
(Đấy là sự rộng lớn của bát quái làm tượng của hoạ phúc mà nên theo hay tránh, ta có thể trích dẫn rõ ràng).
Lấy lục thần phân biệt thanh long chủ vui mừng, bạch hổ chủ tang, châu tước chủ thị phi, huyền vũ chủ trộm đạo, đằng xà chủ kinh hải, câu trận chủ ngưng trệ, lấy lục hào mà phân lão trưởng ấu. Bởi vì quỷ động ở hào năm thì cha không yên ổn, động ở hào sơ thì con cái không an toàn.
(Thanh long gọi là vui mừng, bạch hổ gọi là tang, châu tước gọi là lầm lỗi, huyền vũ gọi là trộm cướp, đằng xà thì hư phù, câu trận thì trì trệ. Hào sơ là con, mà hào hai là vợ, hào ba là anh em, hào bốn là mẹ, hào năm là cha, hào thượng là ông bà).
Lấy lục thân biến hoá mà phân bệnh tật của phụ mẫu, huynh đệ, thê tử cũng như tai nạn của chính mình. Bởi huynh đệ hoá quỷ như chim tích linh bay [1], hào quỷ hoá tử tôn như lân cất chân, hào quỷ hoá tài như gà mái gáy sáng, hào tài hoá quỷ như chim trống lẻ loi kêu đêm.
(Hào tử tôn hoá quỷ điềm báo trẻ con gặp tai hoạ, hào quỷ hoá huynh đệ, điềm báo anh em gặp tai hoạ, hào quỷ hoá phụ mẫu đau buồn dính líu đến cha mẹ, hào phụ mẫu hoá quỷ tai hoạ phát ở phụ mẫu. Đấy là quan trọng của quẻ độc phát).
Dùng hào thế và ứng để phân biệt người với ta, dùng hào gián bên cạnh làm liên kết, dùng âm dương làm hiện tại và tương lai, dùng vượng suy làm lớn nhỏ, dùng tinh sát làm mầm mối sự việc, đây là con đường tránh hung xấu vậy.
(Quỷ trì thế là hoạ của tự bản thân mình, ứng quỷ là hoạ dính líu đến người khác, quỷ ở hào gián bên cạnh là hoạ liên kết, hào dương thì hiện rõ, hào âm thì ẩn tàng, vượng thì lớn suy thì nhỏ, tinh sát là dấu hiệu của vấn đề, như đào hoa sẽ là hoạ của phụ nữ, nếu là thiên tặc là hoạ đào tường khoét vách vậy. Những tinh sát khác cũng tương tự như vậy).
Hào quan, hào văn an tĩnh vượng nên cầu danh; hào tài hào phúc được sanh phù nên can dự vào lợi nhuận, hào tử vượng có quý nhân, con hơn cha [2], ứng tài sanh thế được vợ kính trọng. Bởi hào thần đắc địa mà hào quỷ không động, đây là con đường theo tốt lành.
(Hào thế đã vượng rồi, hào quỷ đã an tĩnh rồi, sau đó mới tìm cầu quẻ hào trên dưới, hoặc là hình tượng nào trì thế, ứng, có lâm nhật nguyệt, không phát động, sanh khắc rõ ràng, là lý do tốt lành có thể theo vậy).
Đại để bói niên vận thì trước hết là lánh việc xấu, sau mới theo việc tốt lành, vì thế nguyện vọng tốt lành tự nó không mà muốn có thì phải tìm dụng thần sanh vượng của niên vận; mong muốn vận hung xấu biến mất thì phải tìm chế phục kỵ thần của niên vận vậy. Vì cát hay kỵ phải suy xét suy vượng, lấy tuế nguyệt hợp với hào thế chẳng hạn như hào tỵ trì thế gặp tháng hợi sẽ gặp truân chiên, hào dậu trì thế gặp năm thìn sẽ được cứu giúp, chính là phương pháp vậy. Suy xét kỹ điều này chính là con đường xu cát tỵ hung.
(Ví như hiện không có con nối dõi, trong niên vận gặp sanh con thì năm nay sẽ có thai; hiện đang kiện tụng, trong niên vận thấy quan quỷ mộ tuyệt, lời biện tụng cũng mất; như trong quẻ có nguyên thần quan phát động, thì trong niên vận trị thái tuế mới gặp; ví như hào thế lạc không vong thì niên vận ít lợi lộc, sau trị thái tuế thì mọi việc trong năm có thể mưu tính vậy. Trước tiên nên tìm cầu xa lanh điều hung xấu, sau mới tìm cầu sự tốt lành để theo, một động một tĩnh không thể coi thường).
[1] Con chim chìa vôi. § Còn gọi là tuyết cô 雪姑 vì khi chim này kêu thì trời đổ tuyết, và tính nó lại thích ăn tuyết. ◇Thi Kinh 詩經: Tích linh tại nguyên, Huynh đệ cấp nạn 鶺鴒在原, 兄弟急難 (Tiểu nhã 小雅, Thường lệ 常棣) Con chim chìa vôi ở đồng, anh em hoạn nạn vội vàng cứu vớt nhau. § Vì thế nói về anh em hay dùng hai chữ linh nguyên 鴒原.
[2] tục gọi con hơn cha là khóa táo 跨竈.
.
47- Niên vận chương
Thánh nhân làm dịch, xưa nay thường dân sử dụng khiến thiên hạ mà biết xu cát tỵ hung. Cho dù là bậc thánh triết vẫn không bỏ cỏ thi, đốt mai rùa để bói, song người bói phải phân xa gần, hoặc là bói ba năm tới, hoặc là bói cho năm nay, đều lấy hào thế làm gốc, cho nên hào thế vượng thì thân thể an ổn, hào quỷ an tĩnh thì tai nạn ngưng , tuỳ quan nhập mộ, trợ quỷ thương thân tức là kiện tụng bắt đầu và bệnh tật phát tác vậy, phản ngâm, phục ngâm hay hoá mộ, tuyệt thì bệnh nặng sắp đến vậy. Đây là điều quan trọng của niên vận.
(Phản ngâm, phục ngâm, mộ tuyệt, nên thẩm xét kỹ càng chủ thuộc, nếu thân là trưởng nam gặp phục ngâm thì xấu, thân là trung nữ gặp phản ngâm thì không tốt lành, còn lại chẳng kiêng kỵ gì).
Vả chăng hào thế không vong mà toan tính chỉ là hão huyền; hào thế phá không rõ nguyên mà gặp thảm hoạ; hào động thì nhọc nhằn, vất vả; hào tĩnh thì an nhàn; hào xung thì nên nghi ngờ trước khi hành động; hào tán là sự việc chưa thành mà trở thành thất bại; hào vượng tướng thì sự việc thường thuận thành; hào hưu tù thường dẫn đến sự việc trì trệ.
(Phương pháp bói niên vận, thật sự liên hệ hào thế, nếu được nhật nguyệt sanh phù, vượng tướng an tĩnh thì tốt, còn không vong, phá, tán, tuyệt, hưu tù hay phát động thường ít yên ổn).
Giống như được quẻ khảm, quẻ cấn thì kỵ xuất hành, được quẻ truân kiển thì kỵ thăm hỏi, được quẻ tỉnh thì khó dời đổi, được quẻ độn thì không nên đề cử, được quẻ cấu thì không nên đam mê nữ sắc, được quẻ vô vọng thì không có việc mong cầu xằng bậy, được quẻ tiểu quá thì không giữ oán hận ở tiểu nhân, được quẻ đoài thì không buông lung mồm miệng, là khuyên răn cho người bói, nhưng phải do hào quỷ động mới suy xét.
(Đây là dùng tượng quẻ mà theo hay tránh, tất nhiên phải kèm theo hào quỷ phát động, còn như hào quỷ an tĩnh thì chớ dùng tên quẻ mà xem xét hoạ phúc. Bởi quan quỷ là kỵ thần của niên vận, cho là không thích hợp tuổi già, hào thế là dụng thần của niên vận, cho là không nên tật bệnh).
Tuy nhiên quỷ phát ở cung nào cũng như ở hào nào cũng có điều khuyên răn. Động ở khôn thì mẹ già, ruộng đất, văn chương, mồ mả, xe cộ có cơ hội gặp hoạ; động ở khảm thì sông hồ, bụi rậm, trộm cướp, rượu và mồi nhắm, bệnh tim, đau tai là điềm báo trước tai hoạ; động ở chấn, thì ghe thuyền, cờ xí, tiên đạo, con trai trưởng, binh lính, tức giận cũ thì gây ra trách cứ; ở càn thường là ứng với triều đình, chùa chiền, tây bắc, cưởi ngựa, hư xe là nổi lo; tốn thướng ứng với gió, đàn bà hung dữ, vườn tược, hối lộ, gà vịt bị bệnh; cấn là trẻ con, mồ mả, lính gác dinh thự, chó cắn, kinh hải bởi cọp; khởi ở ly thì mù loà, bụng to, chiến tranh, giáp trụ, đi về phía nam mà gặp hoạn nạn; còn khởi ở đoài thì hoa liễu (花柳: hoa liễu), ngạo mạn tuỳ tiện, sư ni tà hoặc, vì lời nói mà chuốc oán. Kể ra các tượng của bát quái và hình tượng của vạn vật để mà biết theo hay tránh các điềm triệu vậy.
(Đấy là sự rộng lớn của bát quái làm tượng của hoạ phúc mà nên theo hay tránh, ta có thể trích dẫn rõ ràng).
Lấy lục thần phân biệt thanh long chủ vui mừng, bạch hổ chủ tang, châu tước chủ thị phi, huyền vũ chủ trộm đạo, đằng xà chủ kinh hải, câu trận chủ ngưng trệ, lấy lục hào mà phân lão trưởng ấu. Bởi vì quỷ động ở hào năm thì cha không yên ổn, động ở hào sơ thì con cái không an toàn.
(Thanh long gọi là vui mừng, bạch hổ gọi là tang, châu tước gọi là lầm lỗi, huyền vũ gọi là trộm cướp, đằng xà thì hư phù, câu trận thì trì trệ. Hào sơ là con, mà hào hai là vợ, hào ba là anh em, hào bốn là mẹ, hào năm là cha, hào thượng là ông bà).
Lấy lục thân biến hoá mà phân bệnh tật của phụ mẫu, huynh đệ, thê tử cũng như tai nạn của chính mình. Bởi huynh đệ hoá quỷ như chim tích linh bay [1], hào quỷ hoá tử tôn như lân cất chân, hào quỷ hoá tài như gà mái gáy sáng, hào tài hoá quỷ như chim trống lẻ loi kêu đêm.
(Hào tử tôn hoá quỷ điềm báo trẻ con gặp tai hoạ, hào quỷ hoá huynh đệ, điềm báo anh em gặp tai hoạ, hào quỷ hoá phụ mẫu đau buồn dính líu đến cha mẹ, hào phụ mẫu hoá quỷ tai hoạ phát ở phụ mẫu. Đấy là quan trọng của quẻ độc phát).
Dùng hào thế và ứng để phân biệt người với ta, dùng hào gián bên cạnh làm liên kết, dùng âm dương làm hiện tại và tương lai, dùng vượng suy làm lớn nhỏ, dùng tinh sát làm mầm mối sự việc, đây là con đường tránh hung xấu vậy.
(Quỷ trì thế là hoạ của tự bản thân mình, ứng quỷ là hoạ dính líu đến người khác, quỷ ở hào gián bên cạnh là hoạ liên kết, hào dương thì hiện rõ, hào âm thì ẩn tàng, vượng thì lớn suy thì nhỏ, tinh sát là dấu hiệu của vấn đề, như đào hoa sẽ là hoạ của phụ nữ, nếu là thiên tặc là hoạ đào tường khoét vách vậy. Những tinh sát khác cũng tương tự như vậy).
Hào quan, hào văn an tĩnh vượng nên cầu danh; hào tài hào phúc được sanh phù nên can dự vào lợi nhuận, hào tử vượng có quý nhân, con hơn cha [2], ứng tài sanh thế được vợ kính trọng. Bởi hào thần đắc địa mà hào quỷ không động, đây là con đường theo tốt lành.
(Hào thế đã vượng rồi, hào quỷ đã an tĩnh rồi, sau đó mới tìm cầu quẻ hào trên dưới, hoặc là hình tượng nào trì thế, ứng, có lâm nhật nguyệt, không phát động, sanh khắc rõ ràng, là lý do tốt lành có thể theo vậy).
Đại để bói niên vận thì trước hết là lánh việc xấu, sau mới theo việc tốt lành, vì thế nguyện vọng tốt lành tự nó không mà muốn có thì phải tìm dụng thần sanh vượng của niên vận; mong muốn vận hung xấu biến mất thì phải tìm chế phục kỵ thần của niên vận vậy. Vì cát hay kỵ phải suy xét suy vượng, lấy tuế nguyệt hợp với hào thế chẳng hạn như hào tỵ trì thế gặp tháng hợi sẽ gặp truân chiên, hào dậu trì thế gặp năm thìn sẽ được cứu giúp, chính là phương pháp vậy. Suy xét kỹ điều này chính là con đường xu cát tỵ hung.
(Ví như hiện không có con nối dõi, trong niên vận gặp sanh con thì năm nay sẽ có thai; hiện đang kiện tụng, trong niên vận thấy quan quỷ mộ tuyệt, lời biện tụng cũng mất; như trong quẻ có nguyên thần quan phát động, thì trong niên vận trị thái tuế mới gặp; ví như hào thế lạc không vong thì niên vận ít lợi lộc, sau trị thái tuế thì mọi việc trong năm có thể mưu tính vậy. Trước tiên nên tìm cầu xa lanh điều hung xấu, sau mới tìm cầu sự tốt lành để theo, một động một tĩnh không thể coi thường).
[1] Con chim chìa vôi. § Còn gọi là tuyết cô 雪姑 vì khi chim này kêu thì trời đổ tuyết, và tính nó lại thích ăn tuyết. ◇Thi Kinh 詩經: Tích linh tại nguyên, Huynh đệ cấp nạn 鶺鴒在原, 兄弟急難 (Tiểu nhã 小雅, Thường lệ 常棣) Con chim chìa vôi ở đồng, anh em hoạn nạn vội vàng cứu vớt nhau. § Vì thế nói về anh em hay dùng hai chữ linh nguyên 鴒原.
[2] tục gọi con hơn cha là khóa táo 跨竈.
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#49
Gửi vào 16/12/2025 - 10:54
Dịch Mạo - Quyển Năm
48- Bốc cư chương
(Qua đây hiểu rõ chỗ ở mới hay cũ, trở về chỗ cũ cùng sống với chỗ mới, năm tháng xây dựng, tu sữa, thợ xây dựng, đền miếu, đạo tràng, công thự, văn phòng, tàm thất (蠶室: phòng nuôi tằm cũng có nghĩa là nhà ngục thiến người), kho vựa, hàng quán các loại).
Ban ngày là lúc làm việc, ban đêm là lúc nghĩ ngơi, mọi sự đi lại đều bị chi phối bởi điểm giữa, cho nên trước tiên tìm sự yên ổn, sau mới chọn tìm lợi ích, vì thế quan quỷ ở chỗ cư trú là tai hoạ, là yêu nghiệt, là hoả hoạn, trộm cướp, là chết chóc, động thì sự việc đó chắc chắn sẽ xãy ra.
Quẻ nội là chỗ đã cư trú; quẻ ngoại là chỗ chưa ở, không nên gặp chánh xung, hối xung, hợp xung; phản ngâm, phục ngâm, mộ, tuyệt, không vong, phá; còn như gặp quẻ vượng, tướng, thai, một thì tốt. Quẻ chủ quản theo thời tiết, thời tiết vượng thì gia đình làm ăn phát đạt; quỷ thì quản tai hoạ, tai hoạ thì gia đình nên cành giác.
(Phương pháp bói nơi cư trú đầu tiên quan sát quẻ có được vượng tướng không, sau mới xem đến phúc, tài).
Ví như hào quỷ động ở hoả, tai hoạ ẩn hiện như trời giáng xuống, hào quỷ động ở thuỷ, đất đai bị bao phủ bởi dòng chảy; châu tước thị phi, huyền vũ trộm cắp, đằng xà kinh dị, bạch hổ chết chóc. Ở tại hào thế thì chủ người không yên ổn, ở hào ứng thì chỗ ở bất lợi. Bởi vậy xem quỷ động ở hào nào mà biết điềm báo tai hoạ ở đâu.
(Chưởng quản theo ngũ hành: hào mộc quỷ chủ sóng to, gió lớn, phong ba, thổ quỷ chủ bịnh truyền nhiễm, ôn dịch, kim quỷ chủ chiến tranh, chết chóc. Chưởng quản theo lục thần: thanh long quỷ là niềm vui giả dối, câu trận quỷ là ruộng đồng bị bỏ hoang. Chương quản theo lục hào: hào sơ là giếng, hào hai là bếp lò, hào ba là giường chiếu, hào bốn là môn hộ, hào năm là đường lộ là người, hào sáu là cột trụ, hiên nhà, vách tường. Quỷ nếu động ở đâu thì tai hoạ từ đó mà ra).
Bói hình thể của nền móng: hào phụ mẫu vượng thì nhà cửa rộng lớn, hào quan quỷ thật nên sảnh đường ngăn nắp, hào thê tài vượng nên kho vựa hay nhà bếp phong phú, hào tử tôn bị phá nên mái hiên, hành lang hay hai gian nhà nhỏ hai bên bị hư hại, hào huynh đệ hãm nên tường rào bị sụp đỗ, hào thế ứng không vong nên làng xóm hiu quạnh, tịch mịch.
(Hào phụ mẫu che chở, hình tượng của nhà ở; hào quan quỷ là khách, hình tượng của phòng khách; hào thê tài chủ ăn uống, hình tượng của nhà bếp; hào tử tôn thì nhỏ nhen, ti tiện hình tượng như chiếc áo mặc; hào huynh đệ bảo vệ, hình tượng của sự hỗ tương).
Chỗ ở cũ có lâu dài không: ba loại xung cũng như quẻ du hồn, hào thế động, hào thế không vong thì khó mà ở được lâu dài; chỗ ở mới có tốt không: ba loại xung, hào quỷ động, quẻ ngoại bị thương tổn không là chỗ cao sang. Trở lại chỗ ở xưa cũ, tuy chưa hội hợp thì bói xem quẻ nội, gặp nơi ở mới, tuy đã định rồi nhưng nên bói xem quẻ ngoại.
(Xung thì không lâu dài, du hồn thì không cố định, không vong thì không có nơi chốn, động thì không đọng lại. Quẻ ngoại bị bệnh hay thương tổn như phản ngâm, phục ngâm, quẻ mộ, tuyệt vậy. Trở lại chổ ở xưa cũ cũng bói xem quẻ nội; dù được chỗ ở mới rồi cũng nên quan sát quẻ ngoại).
Ở chung với người: hào ứng không vong, phá nên họ không bận tâm, ngó ngàng đến mình; hào ứng xung khắc nên không thuận theo mình; bói được quẻ hợp biến xung là người sáng vào nhà mà chiều tối vác dao, vác mác.
(Ở chung với thân quyến thì xem hào dụng; ở chung với người lạ thì xem hào ứng).
Bói sáng tạo lợi ở yên ổn lâu dài, cũng kỵ tam xung. Quẻ nội suy mà hào quỷ động, bói tu sửa nên đề phòng có điều trở ngại, hào quan quỷ khắc thế nên phạm âm dương, hào quỷ trị hay động nên khởi tai hoạ lâu dài. Chọn lựa năm tháng thấy hào quỷ động là điều kỵ, khắc hào thế thì là xấu. Xem thợ thủ công: hào ứng phôi hoại thì đần độn, khắc hào thế là gian trá, quẻ lục xung thì không hoàn thành.
(Xây dựng, sửa chữa tất cả đều kỵ hào quỷ phát động).
Bói cư trú ở đền miếu đặc biệt kỵ hào quỷ phát động; bói xây dựng đạo tràng đặc biệt mừng hào tử tôn động; bói tu sửa công thự hào quan vượng nên chức tước được thay đổi, hào thế không vong thì bải nhiệm.
Bói đất mở tiệm thì trọng hào văn thư, không nên quỷ động; bói phòng nuôi tằm thì trọng hào tử tôn, rất nên hào quan không vong; người bói nhà kho, nhà trọ, phường chèo, phòng tắm, hàng quán mục đích là cầu tài, không cầu tìm điều khác vậy. Vì thế cư trú thì cầu yên ổn, sự việc thì cầu thuận lợi, mưu sự thì cầu thành công, sở dĩ hào quỷ động thì không yên ổn, quẻ phản ngâm thì không thuận lợi, hào dụng lầm lỡ thì không thành công, đây là phương pháp bói cư trú.
(Quẻ phản ngâm như các loại quẻ xung, biến xung, phản phục, mộ tuyệt, không vong, phá. Hào dụng lầm lỡ như ở chỗ lòng mình tìm cầu, là tài thì dụng tài là quan thì dụng quan các loại).
.
48- Bốc cư chương
(Qua đây hiểu rõ chỗ ở mới hay cũ, trở về chỗ cũ cùng sống với chỗ mới, năm tháng xây dựng, tu sữa, thợ xây dựng, đền miếu, đạo tràng, công thự, văn phòng, tàm thất (蠶室: phòng nuôi tằm cũng có nghĩa là nhà ngục thiến người), kho vựa, hàng quán các loại).
Ban ngày là lúc làm việc, ban đêm là lúc nghĩ ngơi, mọi sự đi lại đều bị chi phối bởi điểm giữa, cho nên trước tiên tìm sự yên ổn, sau mới chọn tìm lợi ích, vì thế quan quỷ ở chỗ cư trú là tai hoạ, là yêu nghiệt, là hoả hoạn, trộm cướp, là chết chóc, động thì sự việc đó chắc chắn sẽ xãy ra.
Quẻ nội là chỗ đã cư trú; quẻ ngoại là chỗ chưa ở, không nên gặp chánh xung, hối xung, hợp xung; phản ngâm, phục ngâm, mộ, tuyệt, không vong, phá; còn như gặp quẻ vượng, tướng, thai, một thì tốt. Quẻ chủ quản theo thời tiết, thời tiết vượng thì gia đình làm ăn phát đạt; quỷ thì quản tai hoạ, tai hoạ thì gia đình nên cành giác.
(Phương pháp bói nơi cư trú đầu tiên quan sát quẻ có được vượng tướng không, sau mới xem đến phúc, tài).
Ví như hào quỷ động ở hoả, tai hoạ ẩn hiện như trời giáng xuống, hào quỷ động ở thuỷ, đất đai bị bao phủ bởi dòng chảy; châu tước thị phi, huyền vũ trộm cắp, đằng xà kinh dị, bạch hổ chết chóc. Ở tại hào thế thì chủ người không yên ổn, ở hào ứng thì chỗ ở bất lợi. Bởi vậy xem quỷ động ở hào nào mà biết điềm báo tai hoạ ở đâu.
(Chưởng quản theo ngũ hành: hào mộc quỷ chủ sóng to, gió lớn, phong ba, thổ quỷ chủ bịnh truyền nhiễm, ôn dịch, kim quỷ chủ chiến tranh, chết chóc. Chưởng quản theo lục thần: thanh long quỷ là niềm vui giả dối, câu trận quỷ là ruộng đồng bị bỏ hoang. Chương quản theo lục hào: hào sơ là giếng, hào hai là bếp lò, hào ba là giường chiếu, hào bốn là môn hộ, hào năm là đường lộ là người, hào sáu là cột trụ, hiên nhà, vách tường. Quỷ nếu động ở đâu thì tai hoạ từ đó mà ra).
Bói hình thể của nền móng: hào phụ mẫu vượng thì nhà cửa rộng lớn, hào quan quỷ thật nên sảnh đường ngăn nắp, hào thê tài vượng nên kho vựa hay nhà bếp phong phú, hào tử tôn bị phá nên mái hiên, hành lang hay hai gian nhà nhỏ hai bên bị hư hại, hào huynh đệ hãm nên tường rào bị sụp đỗ, hào thế ứng không vong nên làng xóm hiu quạnh, tịch mịch.
(Hào phụ mẫu che chở, hình tượng của nhà ở; hào quan quỷ là khách, hình tượng của phòng khách; hào thê tài chủ ăn uống, hình tượng của nhà bếp; hào tử tôn thì nhỏ nhen, ti tiện hình tượng như chiếc áo mặc; hào huynh đệ bảo vệ, hình tượng của sự hỗ tương).
Chỗ ở cũ có lâu dài không: ba loại xung cũng như quẻ du hồn, hào thế động, hào thế không vong thì khó mà ở được lâu dài; chỗ ở mới có tốt không: ba loại xung, hào quỷ động, quẻ ngoại bị thương tổn không là chỗ cao sang. Trở lại chỗ ở xưa cũ, tuy chưa hội hợp thì bói xem quẻ nội, gặp nơi ở mới, tuy đã định rồi nhưng nên bói xem quẻ ngoại.
(Xung thì không lâu dài, du hồn thì không cố định, không vong thì không có nơi chốn, động thì không đọng lại. Quẻ ngoại bị bệnh hay thương tổn như phản ngâm, phục ngâm, quẻ mộ, tuyệt vậy. Trở lại chổ ở xưa cũ cũng bói xem quẻ nội; dù được chỗ ở mới rồi cũng nên quan sát quẻ ngoại).
Ở chung với người: hào ứng không vong, phá nên họ không bận tâm, ngó ngàng đến mình; hào ứng xung khắc nên không thuận theo mình; bói được quẻ hợp biến xung là người sáng vào nhà mà chiều tối vác dao, vác mác.
(Ở chung với thân quyến thì xem hào dụng; ở chung với người lạ thì xem hào ứng).
Bói sáng tạo lợi ở yên ổn lâu dài, cũng kỵ tam xung. Quẻ nội suy mà hào quỷ động, bói tu sửa nên đề phòng có điều trở ngại, hào quan quỷ khắc thế nên phạm âm dương, hào quỷ trị hay động nên khởi tai hoạ lâu dài. Chọn lựa năm tháng thấy hào quỷ động là điều kỵ, khắc hào thế thì là xấu. Xem thợ thủ công: hào ứng phôi hoại thì đần độn, khắc hào thế là gian trá, quẻ lục xung thì không hoàn thành.
(Xây dựng, sửa chữa tất cả đều kỵ hào quỷ phát động).
Bói cư trú ở đền miếu đặc biệt kỵ hào quỷ phát động; bói xây dựng đạo tràng đặc biệt mừng hào tử tôn động; bói tu sửa công thự hào quan vượng nên chức tước được thay đổi, hào thế không vong thì bải nhiệm.
Bói đất mở tiệm thì trọng hào văn thư, không nên quỷ động; bói phòng nuôi tằm thì trọng hào tử tôn, rất nên hào quan không vong; người bói nhà kho, nhà trọ, phường chèo, phòng tắm, hàng quán mục đích là cầu tài, không cầu tìm điều khác vậy. Vì thế cư trú thì cầu yên ổn, sự việc thì cầu thuận lợi, mưu sự thì cầu thành công, sở dĩ hào quỷ động thì không yên ổn, quẻ phản ngâm thì không thuận lợi, hào dụng lầm lỡ thì không thành công, đây là phương pháp bói cư trú.
(Quẻ phản ngâm như các loại quẻ xung, biến xung, phản phục, mộ tuyệt, không vong, phá. Hào dụng lầm lỡ như ở chỗ lòng mình tìm cầu, là tài thì dụng tài là quan thì dụng quan các loại).
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#50
Gửi vào 16/12/2025 - 11:42
Dịch Mạo - Quyển Năm
49- Doanh táng chương
(Qua đây hiểu rõ về thầy phong thuỷ, tìm đất, định huyệt, thọ địa (chuẩn bị đất để dùng khi chết), đình thố (tạm quàn linh cữu chờ đem chôn), an linh, kèm với các câu hỏi mua đất, bán đất, uỷ thác giữ gìn, tu bồi, chọn ngày).
Xưa bói đất đai, để an ủi những người thân còn lại, mà chẳng cầu tìm điều khác, nhưng cảm giác đồng nhất là an nguy của đời sau, vì thế con cháu lo việc thờ cúng thờ cúng nên không thể bị suy, hào thế là chủ huyệt nên không thể bị trống rỗng. Hai điều này là quan trọng của địa lý.
(Mừng hào tử tôn được nhật nguyệt vượng tướng thì vui; gặp không vong, phá, tán, tuyệt thì xấu. Lại thêm hào thế sung túc không bị trống rỗng, vượng mà không bị bệnh, mới có thể nói là tốt lành. Bởi không vong chẳng phải thật, tán là gió, kiến, mối, cát, nước, phá là thương tổn, xung thì thường bị khai quật, lâm quỷ là cổ mộ).
Vì thế cho nên quẻ tốn là gió, quẻ khảm là thuỷ, quẻ càn là đá, quẻ đoài là cát, quẻ ly là kiến, mối, quẻ cổ là côn trùng, quẻ tỉnh là suối, quẻ minh di là phục thi (xác chết ẩn tàng - ý là xác chết cũ trước đây), đây là tám quẻ kỵ của phong thuỷ, cho dù hào thế với hào tử tôn đều vượng, không thể là tốt lành. Lại thêm mồ mả lợi ích ở lâu bền, mồ mả cần được yên ổn, vì thế bói gặp quẻ xung, hợp xứ phùng xung, lớn thì suy bại vì lũ lụt, nhỏ thì dời đổi canh cải; tuỳ quan nhập mộ kỵ gặp cổ trủng (mồ cũ), tất cả đều không dùng được.
(Vì hào thế tuỳ quỷ nhập mộ mà thuộc thổ thì càng nặng, có quẻ kỵ, hào kỵ cho dù hào thế thật, hào tử vượng cũng không thể dùng).
Vì thế cho nên bí quyết của phương pháp bói đất đai là không gặp phải quẻ kỵ, không gặp phải tam xung, không gặp phải hào thế mộ, hào thế thật mà hào tử tôn vượng thì rất là tốt lành, rất là đẹp. Hào tử tôn vượng mà hào quan quỷ, hào phụ mẫu đắc địa thì sang trọng; hào tử tôn vượng mà hào thê tài đắc địa thì giàu có; hào tử tôn vượng mà được đế vượng thi nhiều con trai; hào tử tôn vượng mà được trường sanh thì tuổi thọ cao; hào tử tôn vượng mà gặp phải dương nhận, bạch hổ thì theo ngành võ; hào tử tôn phá thì con cháu tàn tật; hào tử tôn không vong con cháu làm tăng đạo, hào tử tôn tuyệt thì đời sau không còn, hào tử tôn tán chủ sanh ly; hào tử tôn hưu tù mà đeo thêm cô thần, quả tú con cháu trơ trọi, ưu sầu, không có anh em nào; hào tử tôn hưu tù mà đới huyền vũ, hàm trì thì con cháu dâm bôn; hào tử tôn bị thương tổn ở quẻ ngoại cũng như ở quẻ du hồn chủ chết đột ngột ở đất khách; hào tử tôn bị phá hỏng mà đeo thêm dương nhận, bạch hổ cũng như hào kim quỷ độc phát chủ bị giết phanh xác; bị phá hỏng mà cùng với hào thuỷ, hoả độc phát chủ tai nạn về sông nước, hoặc hoả ách; bị phá hỏng mà đeo thêm phù ngục, vũ tặc chủ bị trộm cướp, kiện tụng.
(Đây là đặc biệt quan sát hào tử tôn suy vượng mà định tốt xấu).
Bói tình trạng đất đai: thanh long không vong là lõm trũng bên trái, bạch hổ động nên lồi ra bên phải, huyền vũ hãm nên phía sau trống rỗng, châu tước xung nên phía trước lộn xộn, háo gián vượng nên minh đường rộng lớn, hào thượng không vong nên thiếu thuỷ khẩu, câu trận thật nên long mạch ngay thẳng (來龍端: lai long đoan), đằng xà xung nên đường lộ bị phá vỡ, hào ứng khắc hào thế nên án sơn cao, hào ứng không vong nên dấu vết lòng dạ hèn kém (印心側: ấn tâm trắc).
(Lấy lục thần, lục hào, thế ứng để phân chia hình thế; lấy vượng làm cao trọng; suy thì thấp hèn; không vong thì trống rỗng; phá thì vở vung; tán thì rời rạc, tạp loạn; tuyệt thì đau buồn; xung thì tổn hại; động nên ngang tàng; hợp nên thuận hoà; sanh hào thế là trợ giúp; khắc hào thế là lừa dối; toạ quỷ là xác chết).
Theo truyền thuyết xưa hào hai là huyệt, là hào ở trong đất; đằng xà là huyệt, là vật ở trong huyệt, đây chẳng phải là tranh cãi thông dụng, cho nên đặc biệt lấy hào thế làm huyệt, thay đổi không cùng, luôn luôn như vậy. Hào kim quan trì thế: huyệt trở ngại bởi đá cứng; hào thuỷ quan trì thế: huyệt thích hợp suối nguồn, kênh rạch; hào mộc quan trì thế huyệt mọc cây cối, tre trúc; hoả quan trì thế: huyệt có rắn, côn trùng ẩn nấp; thổ quan trì thế: huyệt lẫn lộn mồ mả; đây là lấy tử tôn thất vị mà nói, vượng thì không câu nệ, tuy lâm vào cũng nhẹ. Bởi vì lấy lục thú, lục hào bói tình trạng của nó, hào thế là bói huyệt của nó, hào tử tôn là bói phúc lành của nó.
(Hào hai là huyệt, chỉ có ở dần, mão, thìn, ngọ, hợi, sửu, tỵ, mão nên mười hai địa chi không đầy đủ; tỵ là rắn ở hào sơ, chỉ nó không thay đổi, cho nên phương pháp lấy hào thế làm huyệt vì khả năng biến thông của nó. Quỷ ở hào thế là huyệt bị bệnh, nếu hào tử tôn nhật nguyệt, vượng tướng thì không hạn chế, gọi là có thể sửa sang, bổ sung. Đại để lục thần và lục hào kiểm tra tình trạng của nó, hào thế và hào tử tôn kiểm tra sự thật và giả).
Bói xem thầy địa lý tốt xấu, trước tiên chú trọng đến sở học, hào ứng không thể phá, không vong; sau mới tìm hiểu đến tâm tánh của người đó, hào ứng không nên khắc hào thế. Hào phụ mẫu vượng mà hào ứng hư rỗng: kiến thức tài giỏi nhưng nhãn lực nông cạn (ý là giỏi lý thuyết mà thực hành kém).
Bói tìm được đất không: có hào phụ mẫu tức là có; không hào phụ mẫu nghĩa là không, cũng như hào thế không nên không vong, không vong thì có mà tìm không gặp. Bói ở phương nào, quan sát chỗ mà phương đó thuộc về, hoả thì ở phương nam, thuỷ thì ở hướng bắc; ở xứ nào: quan sát chỗ đó ở cung nào, cấn là núi non, khôn là cánh đồng, tốn là vườn, khảm là chỗ ao nước; khi nào: hào phụ mẫu thật và hào thế hợp là lúc tìm được.
(Tìm đất phải cẩn thận hào thế hãm, hào phụ mẫu không vong, còn như phương nào, ở đâu, lúc nào đều phải bói riêng biệt. Sắp đặt cầu khấn, như người mù loà năm đinh hợi tháng dần ngày đinh mùi vì cha mẹ tìm đất được quẻ "bĩ", hào thế (mão) không vong nên không gặp, sau đến năm tân mão tháng năm mới tìm được, tháng chín chôn ở chu thôn, ứng nghiệm năm mão hào thế điền thật, mùi tương hợp hướng tây nam, tháng năm (ngọ) hợp với mùi nên được, tháng tuất chôn do quẻ hỗ tiệm nội là quẻ cấn, mà mùi thì ở quẻ khôn, tức là đồng bằng dưới chân núi vậy. Lại như năm quý tỵ tháng tuất ngày quý sửu, bói có đất gặp quẻ "đại súc", trong năm này không được, sang tháng giêng của mùa xuân tới, tìm được đất ở Nam Sơn, cũng là hào ngọ phụ mẫu ở quẻ cấn, hào thế dần điền thật ở tháng giêng).
Bói huyệt mộ cao thấp, nên suy xét theo hào thế; bói huyệt mộ tốt xấu thì đoán theo hào tử tôn.
(Thế ở hào sơ, hào hai địa huyệt (地穴: địa huyệt) nên thấp, thế ở hào ba, hào bốn nhân huyệt (人穴: nhân huyệt) nên ở giữa, thế ở hào năm hào sáu thiên huyệt (天穴: thiên huyệt) nên ở trên cao).
Bói thọ địa (đất chuẩn bị dùng khi chết) cho lục thân, đều lấy hào dụng, vượng tướng thì tốt, mà hung xấu khi hào quỷ động. Nếu như bói đất đai có tốt không, chỉ xem hào thế và hào tử tôn mà đoán.
Đất tạm quàn linh cữu, gửi quan tài ở miếu, an nghĩ vong linh ở nhà, niềm vui và phẩn nộ của các linh hồn, phương pháp đó tương đồng, chỉ linh hồn người mất yên ổn mà người sống mới vui vẻ, thì hào quan quỷ kỵ động, không vong, phá, mừng an tĩnh và sanh hợp, không nên khắc hào thế là tai hoạ cho mình. Trợ quỷ thương thân, tuỳ quan nhập mộ cùng như chánh xung, hợp xung, biến xung thì không cần hỏi quan quỷ như thế nào mà nói thẳng là không tốt. Nếu như chôn chung hay bên cạnh, sẽ gặp vận tốt hay xấu giống như ở địa lý.
Bói mua đất giống như tìm kiếm hy vọng, bói bán đất giống như bán hàng hoá ra, bói gửi người trông nom giống như bói dùng người, sửa đổi thêm bớt. Chọn lựa năm tháng: mong được tốt lành thì hào thế nên vượng hào tử tôn phát động; mong tránh được điều xấu thì xem ở hào quan khắc hay hào quỷ động.
(Mua đất: gặp chánh xung, hợp xung cũng như quẻ không có hào quan quỷ, hào thế ứng không vong đều không thành công. Bán đất: thì lấy thê tài làm hào dụng; gửi người trông nom thì nương tựa hào ứng. Tu bổ sửa đổi: như gặp trợ quỷ thương thân hay tuỳ quỷ nhập mộ, hào quan khắc, hào thế động thì không nên xây dựng, kiến tạo).
Lại thêm bói khôn cấn, tuỳ thời gian mà có xấu tốt, hào dụng tuỳ theo sự việc mà thay đổi. Cho nên thường lấy mồ mả làm việc lớn của trăm ngàn năm, có quan hệ với mệnh nam nữ, người bói phải chân thành, người đoán nên thận trọng, nếu như hãm hại huyệt kết của người, phá đất tốt của người, làm địa lý mà lòng trời nổi giận thì quỷ thần cũng không báo cho biết.
(Phong thuỷ lấy lục xung làm giới cấm, tuy nhiên trước mùa xuân bói mồ mả được quẻ cấn, sau mùa thu bói đất đai được quẻ khôn thì không thể theo lệ mà nói là xấu).
.
49- Doanh táng chương
(Qua đây hiểu rõ về thầy phong thuỷ, tìm đất, định huyệt, thọ địa (chuẩn bị đất để dùng khi chết), đình thố (tạm quàn linh cữu chờ đem chôn), an linh, kèm với các câu hỏi mua đất, bán đất, uỷ thác giữ gìn, tu bồi, chọn ngày).
Xưa bói đất đai, để an ủi những người thân còn lại, mà chẳng cầu tìm điều khác, nhưng cảm giác đồng nhất là an nguy của đời sau, vì thế con cháu lo việc thờ cúng thờ cúng nên không thể bị suy, hào thế là chủ huyệt nên không thể bị trống rỗng. Hai điều này là quan trọng của địa lý.
(Mừng hào tử tôn được nhật nguyệt vượng tướng thì vui; gặp không vong, phá, tán, tuyệt thì xấu. Lại thêm hào thế sung túc không bị trống rỗng, vượng mà không bị bệnh, mới có thể nói là tốt lành. Bởi không vong chẳng phải thật, tán là gió, kiến, mối, cát, nước, phá là thương tổn, xung thì thường bị khai quật, lâm quỷ là cổ mộ).
Vì thế cho nên quẻ tốn là gió, quẻ khảm là thuỷ, quẻ càn là đá, quẻ đoài là cát, quẻ ly là kiến, mối, quẻ cổ là côn trùng, quẻ tỉnh là suối, quẻ minh di là phục thi (xác chết ẩn tàng - ý là xác chết cũ trước đây), đây là tám quẻ kỵ của phong thuỷ, cho dù hào thế với hào tử tôn đều vượng, không thể là tốt lành. Lại thêm mồ mả lợi ích ở lâu bền, mồ mả cần được yên ổn, vì thế bói gặp quẻ xung, hợp xứ phùng xung, lớn thì suy bại vì lũ lụt, nhỏ thì dời đổi canh cải; tuỳ quan nhập mộ kỵ gặp cổ trủng (mồ cũ), tất cả đều không dùng được.
(Vì hào thế tuỳ quỷ nhập mộ mà thuộc thổ thì càng nặng, có quẻ kỵ, hào kỵ cho dù hào thế thật, hào tử vượng cũng không thể dùng).
Vì thế cho nên bí quyết của phương pháp bói đất đai là không gặp phải quẻ kỵ, không gặp phải tam xung, không gặp phải hào thế mộ, hào thế thật mà hào tử tôn vượng thì rất là tốt lành, rất là đẹp. Hào tử tôn vượng mà hào quan quỷ, hào phụ mẫu đắc địa thì sang trọng; hào tử tôn vượng mà hào thê tài đắc địa thì giàu có; hào tử tôn vượng mà được đế vượng thi nhiều con trai; hào tử tôn vượng mà được trường sanh thì tuổi thọ cao; hào tử tôn vượng mà gặp phải dương nhận, bạch hổ thì theo ngành võ; hào tử tôn phá thì con cháu tàn tật; hào tử tôn không vong con cháu làm tăng đạo, hào tử tôn tuyệt thì đời sau không còn, hào tử tôn tán chủ sanh ly; hào tử tôn hưu tù mà đeo thêm cô thần, quả tú con cháu trơ trọi, ưu sầu, không có anh em nào; hào tử tôn hưu tù mà đới huyền vũ, hàm trì thì con cháu dâm bôn; hào tử tôn bị thương tổn ở quẻ ngoại cũng như ở quẻ du hồn chủ chết đột ngột ở đất khách; hào tử tôn bị phá hỏng mà đeo thêm dương nhận, bạch hổ cũng như hào kim quỷ độc phát chủ bị giết phanh xác; bị phá hỏng mà cùng với hào thuỷ, hoả độc phát chủ tai nạn về sông nước, hoặc hoả ách; bị phá hỏng mà đeo thêm phù ngục, vũ tặc chủ bị trộm cướp, kiện tụng.
(Đây là đặc biệt quan sát hào tử tôn suy vượng mà định tốt xấu).
Bói tình trạng đất đai: thanh long không vong là lõm trũng bên trái, bạch hổ động nên lồi ra bên phải, huyền vũ hãm nên phía sau trống rỗng, châu tước xung nên phía trước lộn xộn, háo gián vượng nên minh đường rộng lớn, hào thượng không vong nên thiếu thuỷ khẩu, câu trận thật nên long mạch ngay thẳng (來龍端: lai long đoan), đằng xà xung nên đường lộ bị phá vỡ, hào ứng khắc hào thế nên án sơn cao, hào ứng không vong nên dấu vết lòng dạ hèn kém (印心側: ấn tâm trắc).
(Lấy lục thần, lục hào, thế ứng để phân chia hình thế; lấy vượng làm cao trọng; suy thì thấp hèn; không vong thì trống rỗng; phá thì vở vung; tán thì rời rạc, tạp loạn; tuyệt thì đau buồn; xung thì tổn hại; động nên ngang tàng; hợp nên thuận hoà; sanh hào thế là trợ giúp; khắc hào thế là lừa dối; toạ quỷ là xác chết).
Theo truyền thuyết xưa hào hai là huyệt, là hào ở trong đất; đằng xà là huyệt, là vật ở trong huyệt, đây chẳng phải là tranh cãi thông dụng, cho nên đặc biệt lấy hào thế làm huyệt, thay đổi không cùng, luôn luôn như vậy. Hào kim quan trì thế: huyệt trở ngại bởi đá cứng; hào thuỷ quan trì thế: huyệt thích hợp suối nguồn, kênh rạch; hào mộc quan trì thế huyệt mọc cây cối, tre trúc; hoả quan trì thế: huyệt có rắn, côn trùng ẩn nấp; thổ quan trì thế: huyệt lẫn lộn mồ mả; đây là lấy tử tôn thất vị mà nói, vượng thì không câu nệ, tuy lâm vào cũng nhẹ. Bởi vì lấy lục thú, lục hào bói tình trạng của nó, hào thế là bói huyệt của nó, hào tử tôn là bói phúc lành của nó.
(Hào hai là huyệt, chỉ có ở dần, mão, thìn, ngọ, hợi, sửu, tỵ, mão nên mười hai địa chi không đầy đủ; tỵ là rắn ở hào sơ, chỉ nó không thay đổi, cho nên phương pháp lấy hào thế làm huyệt vì khả năng biến thông của nó. Quỷ ở hào thế là huyệt bị bệnh, nếu hào tử tôn nhật nguyệt, vượng tướng thì không hạn chế, gọi là có thể sửa sang, bổ sung. Đại để lục thần và lục hào kiểm tra tình trạng của nó, hào thế và hào tử tôn kiểm tra sự thật và giả).
Bói xem thầy địa lý tốt xấu, trước tiên chú trọng đến sở học, hào ứng không thể phá, không vong; sau mới tìm hiểu đến tâm tánh của người đó, hào ứng không nên khắc hào thế. Hào phụ mẫu vượng mà hào ứng hư rỗng: kiến thức tài giỏi nhưng nhãn lực nông cạn (ý là giỏi lý thuyết mà thực hành kém).
Bói tìm được đất không: có hào phụ mẫu tức là có; không hào phụ mẫu nghĩa là không, cũng như hào thế không nên không vong, không vong thì có mà tìm không gặp. Bói ở phương nào, quan sát chỗ mà phương đó thuộc về, hoả thì ở phương nam, thuỷ thì ở hướng bắc; ở xứ nào: quan sát chỗ đó ở cung nào, cấn là núi non, khôn là cánh đồng, tốn là vườn, khảm là chỗ ao nước; khi nào: hào phụ mẫu thật và hào thế hợp là lúc tìm được.
(Tìm đất phải cẩn thận hào thế hãm, hào phụ mẫu không vong, còn như phương nào, ở đâu, lúc nào đều phải bói riêng biệt. Sắp đặt cầu khấn, như người mù loà năm đinh hợi tháng dần ngày đinh mùi vì cha mẹ tìm đất được quẻ "bĩ", hào thế (mão) không vong nên không gặp, sau đến năm tân mão tháng năm mới tìm được, tháng chín chôn ở chu thôn, ứng nghiệm năm mão hào thế điền thật, mùi tương hợp hướng tây nam, tháng năm (ngọ) hợp với mùi nên được, tháng tuất chôn do quẻ hỗ tiệm nội là quẻ cấn, mà mùi thì ở quẻ khôn, tức là đồng bằng dưới chân núi vậy. Lại như năm quý tỵ tháng tuất ngày quý sửu, bói có đất gặp quẻ "đại súc", trong năm này không được, sang tháng giêng của mùa xuân tới, tìm được đất ở Nam Sơn, cũng là hào ngọ phụ mẫu ở quẻ cấn, hào thế dần điền thật ở tháng giêng).
Bói huyệt mộ cao thấp, nên suy xét theo hào thế; bói huyệt mộ tốt xấu thì đoán theo hào tử tôn.
(Thế ở hào sơ, hào hai địa huyệt (地穴: địa huyệt) nên thấp, thế ở hào ba, hào bốn nhân huyệt (人穴: nhân huyệt) nên ở giữa, thế ở hào năm hào sáu thiên huyệt (天穴: thiên huyệt) nên ở trên cao).
Bói thọ địa (đất chuẩn bị dùng khi chết) cho lục thân, đều lấy hào dụng, vượng tướng thì tốt, mà hung xấu khi hào quỷ động. Nếu như bói đất đai có tốt không, chỉ xem hào thế và hào tử tôn mà đoán.
Đất tạm quàn linh cữu, gửi quan tài ở miếu, an nghĩ vong linh ở nhà, niềm vui và phẩn nộ của các linh hồn, phương pháp đó tương đồng, chỉ linh hồn người mất yên ổn mà người sống mới vui vẻ, thì hào quan quỷ kỵ động, không vong, phá, mừng an tĩnh và sanh hợp, không nên khắc hào thế là tai hoạ cho mình. Trợ quỷ thương thân, tuỳ quan nhập mộ cùng như chánh xung, hợp xung, biến xung thì không cần hỏi quan quỷ như thế nào mà nói thẳng là không tốt. Nếu như chôn chung hay bên cạnh, sẽ gặp vận tốt hay xấu giống như ở địa lý.
Bói mua đất giống như tìm kiếm hy vọng, bói bán đất giống như bán hàng hoá ra, bói gửi người trông nom giống như bói dùng người, sửa đổi thêm bớt. Chọn lựa năm tháng: mong được tốt lành thì hào thế nên vượng hào tử tôn phát động; mong tránh được điều xấu thì xem ở hào quan khắc hay hào quỷ động.
(Mua đất: gặp chánh xung, hợp xung cũng như quẻ không có hào quan quỷ, hào thế ứng không vong đều không thành công. Bán đất: thì lấy thê tài làm hào dụng; gửi người trông nom thì nương tựa hào ứng. Tu bổ sửa đổi: như gặp trợ quỷ thương thân hay tuỳ quỷ nhập mộ, hào quan khắc, hào thế động thì không nên xây dựng, kiến tạo).
Lại thêm bói khôn cấn, tuỳ thời gian mà có xấu tốt, hào dụng tuỳ theo sự việc mà thay đổi. Cho nên thường lấy mồ mả làm việc lớn của trăm ngàn năm, có quan hệ với mệnh nam nữ, người bói phải chân thành, người đoán nên thận trọng, nếu như hãm hại huyệt kết của người, phá đất tốt của người, làm địa lý mà lòng trời nổi giận thì quỷ thần cũng không báo cho biết.
(Phong thuỷ lấy lục xung làm giới cấm, tuy nhiên trước mùa xuân bói mồ mả được quẻ cấn, sau mùa thu bói đất đai được quẻ khôn thì không thể theo lệ mà nói là xấu).
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#51
Gửi vào 17/12/2025 - 02:28
Dịch Mạo - Quyển Sáu
50- Gia trạch chương
Gia trạch (nhà ở, gia đình): hướng tới hay lánh xa của một gia đình, chớ đừng lấy an ổn làm vui thích, mà lấy hoà thuận làm chân lý, cho nên quan quỷ không được động. Cái mà khắc mình chính là quỷ, là tai nạn, động thì tai nạn sẽ khởi lên.
Vì thế thuỷ quỷ động thì tránh xa sông ngòi, thổ quỷ động thì chớ xây tường vách cao, kim quỷ động thì cẩn thận đao châm, mộ quỷ động uổng công trồng trọt, hoả quỷ động thì nên đề phòng cháy nhà (回祿 hồi lộc); huyền vũ quỷ phát động nên cẩn thận mất mát tiền bạc; bạch hổ là nổi đau buồn về tang phục, châu tước thì lo lắng chuyện kiện tụng, đằng xà hiện là mầm mối chuyện quái dị, câu trận khởi thì tranh cấp ruộng vườn. Chỉ thanh long lợi cho thăng cấp, văn chương, không lợi cho thai nghén, sanh đẻ, cùng với tiến nhân khẩu.
(Thanh long là cát thần, theo cùng quỷ phát động cũng bất lợi, e là tai hoạ từ việc vui mừng vậy)
Động ở quẻ khôn, quẻ cấn mồ mả có nghi ngờ, động ở quẻ đoài, quẻ càn, thiên thần chẳng vui, ở chấn tốn thì tai nạn sanh đẻ trên thuyền bè, quan quách ở nhà quàng, ở quẻ khảm, que ly tật bệnh ở tai, mắt, cùng với bếp lò mất chỗ.
(Đây là nói về quỷ động ở tám quẻ. Quẻ chấn là quan tài, quẻ tốn là cái quách (để bọc ngoài áo quan), quỷ động ở cung này thì ứng với không yên ổn của quan quách gửi ở nhà quàng; khảm là giếng, ly là bếp quỷ động ở cung này thì ứng với sự bất lợi của giếng và bếp lò, các loại khác suy xét tương tự).
Sửu chết trâu cày, ngọ mất ngựa tốt, tỵ dậu là rắn gà quái lạ, tai vạ của răng mắt của người thường; mão thân là hung xấu của linh cữu, bệnh về gan phổi của chủ nhà; tý là thạch thử (một giống thú giống như con thỏ, đuôi ngắn, mắt đỏ, lông đen, trắng hoặc vàng sẫm, hay phá hoại lúa, đậu) hý lộng trong sảnh đường, chủ không tốt cho nhà cửa; hợi là thần mê thích thức ăn sền sệt (神漿躭:thần tương đam), là miệng, bụng, chủ phẩm hạnh bị tiêu diệt (亡德: vong đức); châu tước bay trên tuất, có nỗi lo chó điên cắn chân; huyền vũ nhập vào mùi có tiếng ta thán nấu dê quên hối lộ (烹羊亡賂之嘆: phanh dương vong lộ chi thán); dần thì cẩn thận nơi núi rừng, có hùm và sói đáng sợ; thìn nên ngưng ngay các hoạt động e là phạm vào nơi cúng tế thần đất (恐犯社壇: khủng phạm xã đàn).
(Đây là nói về mươi hai hình tượng quỷ động, thân là hung tang, mão là linh cữu, quỷ động ở hào này thì chướng ngại tang ma, quan tài; châu tước chính là chê khen, bình luận, huyền vũ là mất mát, lâm vào hào quỷ động ở tuất mùi thì nguyên cớ tai hoạ từ chó, dê mà ra).
Lại có trường hợp quỷ động ở nhị lão (càn và khôn) và sáu con (chấn, tốn, khảm, ly, cấn, đoài) mà biết tai hoạ của ai.
(Càn là cha, khôn là mẹ, chấn là con trai lớn, tốn là con gái lớn, khảm là con trai thứ, ly là con gái thứ, cấn là con trai trẻ, đoài là con gái trẻ. Nếu như hào quỷ động, hoá quỷ cũng như với quỷ hiện ở biến hào: ở khôn là mẹ có tai nạn, tại chấn là con trai lớn có tật bệnh. Ở biến hào như quẻ "cách" biến "hàm" bính thìn quỷ nhập vào cấn là thiếu nam tức là con trai nhỏ đang bệnh vậy).
Lại có khi quẻ càn là đầu, quẻ khôn là bụng, quẻ chấn là chân, quẻ tốn là đùi vế mà định chỗ bị bệnh tật, lại có khi quẻ càn là ngựa, quẻ khôn là trâu mà định súc vật bị chết.
(Gần thì chọn các bộ phận thân thể, xa thì chọn các động vật, hào quỷ động ở cung nào chính là tai ách ở đó, quẻ khảm là tai quẻ ly là mắt, quẻ cấn là tay, quẻ đoài là miệng đó là hình tượng của thân thể; quẻ chấn là rồng, quẻ tốn là gà, quẻ khảm là heo, quẻ ly là trĩ, quẻ cấn là chó, quẻ đoài là dê, đó là hình tượng các loại vật, nếu được trình bày rộng ra cũng giống như vậy).
Lại có khi quẻ ly là phương nam, quẻ khảm là phương bắc để mà quyết định phương nào hung xấu vậy.
(Hào quỷ động ở cung càn chớ nên đi về hướng tây bắc; hào quan động ở quẻ tốn không qua lại hướng đông nam, hào quỷ cung đoài xấu ở hướng tây, hào quỷ quẻ chấn hoạ ở hướng đông, khôn là ở tây nam, cấn là vị trí đông bắc, hào quỷ động ở cung nào thì tai hoạ ở phương đó).
Lại có khi hào thượng là người già, hào dưới là trẻ thơ, hào năm là cha, hào hai là vợ, hào bốn là mẹ, hào ba là anh em, mà phân chia sáu hào.
(Như hào thượng quỷ thì người già không yên ổn, hào sơ quỷ trẻ con không an toàn; hào năm là cha, hào bốn là mẹ quỷ động thì thường tai hoạ; hào hai là vợ, nàng hầu không mạnh khoẻ, hào ba là tật bệnh của anh em cũng là tay chân).
Lại có khi hào thế ở hào năm là trạch trưởng, hào ứng ở hào hai là trạch mẫu để mà biểu đạt tai hoạ, cát tường. Đây là nghĩa của ngũ hành, lục thần, tám quẻ, mười hai địa chi cùng với sáu hào.
(Hào thế là chồng thì hào ứng là vợ, hào năm là trạch trưởng (đứng đầu trong gia đình), hào hai là trạch mẫu (vợ của người đứng đầu trong gia đình), nếu như quỷ ở vào các hào này mà động, cũng như không vong, phá, tán, tuyệt thì biết rằng người đó có tai hoạ; nếu như phúc (tử tôn) ở hào này này mà động cùng với nhật nguyệt vượng tướng, thì biết rằng người đó có điều vui mừng).
Tuỳ quỷ nhập mộ, trợ quỷ thương thân được cho là khó khăn, tai hoạ; phục ngâm, phản ngâm, mộ, tuyệt được cho là tai hoạ của người thuộc về hào đó. Mệnh nào lâm quỷ, mệnh nào tuỳ mộ, hào nào không vong, phá, tượng nào động tán, mệnh nào hoá xung, dụng nào bị tổn hại thì tai hoạ là của người đó.
(Thông thường tuỳ mô, trợ thương đều là bệnh của hào thế, cho nên nói là chủ nhân có nạn; phản, phục, mộ, tuyệt: như tốn hoá phản ngâm là tai hoạ của trưởng nữ, càn hoá phục ngâm là bệnh của cha già, cho nên nói là tai hoạ của người thuộc về quẻ đó. Lâm quỷ: như hào tỵ quỷ người tuổi rắn có khó khăn, tai nạn; mệnh mộ: như dần mão quỷ mộ ở mùi, tức là người mệnh cọp, thỏ có tai ương; không vong, phá: như hào năm không vong là cha bệnh, hào hai phá là vợ bị tai ách; động tán: như hào tý động nên mệnh chuột không tốt lành, hào sáu tán phó đinh (người làm lụng, bộc dịch) bất lợi; hoá xung: như hào mùi hoá quỷ người tuổi dê gặp tai ách, hào dần quỷ xung hào thân người tuổi khỉ bị tật bệnh; tổn hại: như hào tử tôn bị thương tổn tức là trẻ con gặp truân chiên, hào phụ mẫu bị hại thì bậc tôn trưởng lo lắng bị tai ách, hoặc đoán xem tai hoạ của người nào nên vận dụng kiến thức xu tỵ).
Hào tử tôn hoá quỷ thì trẻ con bị bệnh, hào thê tài hoá quỷ thì vợ, nàng hầu bị tai hoạ, hào phụ mẫu hoá quỷ là bậc trưởng thượng lo âu, buồn rầu, hào huynh đệ hoá quỷ anh em ghen ghét, tự mình bói mà hào thế hoá quỷ; bói giùm người khác mà hào ứng hoá quỷ đều là chỗ phải thận trọng vậy. Chẳng phải chỉ hào quỷ động mà hoá quỷ cũng phải cẩn thận vậy; chẳng phải chỉ hoá quỷ mà quỷ nhập vào cung cũng phải cẩn thận. Sở dĩ cấn quỷ ở ly nên con trai nhỏ ốm đau, càn quỷ nhập tốn nên con gái lớn gặp hoạ.
Chẳng phải chỉ quỷ nhập vào cung như vậy mà quỷ lâm vào hào cũng cần phòng bị, sở dĩ thanh long chủ vui vẻ, bạch hổ chủ tang chế, châu tước chủ thị phi, huyền vũ chủ mất mát, câu trận chủ ruộng mỏ, đằng xà chủ quái dị, cũng như vị trí hào thế tuy không có quỷ động, nếu như quỷ lâm vào gặp lúc sanh vượng cũng sẽ gặp tai hoạ, chỉ là sức mạnh không bằng hào động cùng với trì thế. Lục thần là phù trợ, tuy không có quỷ lâm, nếu như phát động hay trì thế, gặp lúc sanh vượng cũng là điềm báo cát hung. Nguyệt kiến lục thần sức mạnh ba lần (力參之: lực tham chi).
(Đại, tiểu lục thần ứng cát hung tương tự, không chỉ trị quỷ nếu như phát động, nếu như trì thế, sau gặp lúc sanh vượng chính là lúc gặp mầm mối của sự việc. Cho nên đại lục thần có khác biệt, mầm mối sự việc sẽ ứng vào lúc trị nguyệt hay nguyệt hợp, điềm báo hoạ phúc thì lớn nhưng mà chậm, không thể chấp nhất mà mất uy lực. Như huyền vũ ở hào tuất động nên ứng vào trộm cắp ở tháng mão hay tháng sửu).
Chẳng những chỉ có lục thần, cũng có thêm tinh sát: thiên hoả, thiên chúc chủ hoả hoạn; thiên tặc, địa tặc chủ trộm cướp; quan phù, thiên ngục chủ kiện tụng, tù ngục; tang môn chủ tang ma; thiên hỷ chủ điều vui mừng; quý nhân chủ quý; văn xương chủ văn; thiên trù chủ lộc; hàm trì chủ rượu chè sắc đẹp; huyết nhận chủ tật bệnh về máu; chiết sát chủ mu bàn chân (趺蹼: phu phốc); dịch mã chủ di động; quái hào chủ các sự việc kỳ lạ. Cho nên các sao tốt nên động, nên trì hào thế, nên phù trợ hào dụng; các sao hung xấu thì kỵ động, kỵ trì hào thế, kỵ lâm hào quỷ; sự việc đang gặp nguyệt kiến thì tốt xấu có thể xem xét vậy.
(Đang trong tháng đó: giống như dậu động "thiên tặc" là ứng kỳ mão dậu. Pháp nói: hào quái dị ở tháng cuối mùa thì giữ cả hai đầu, ở tháng giữa mùa phải phân biệt hào hai hay hào năm, bốn tháng đầu mùa nên đi theo người khởi sự, động thì có mà tĩnh thì không có. Tả Truyện nói việc quái dị phát sinh từ con người, cho nên tháng đầu bắt đầu ở hào người, cùng phát động sẽ ứng nghiệm).
Quẻ không có hào phụ mẫu, không tránh khỏi nỗi lo buồn cho cha mẹ; quẻ không có hào tử tôn không tránh khỏi buồn rầu của con trẻ; quẻ không có hào thê tài, không tránh khỏi không vừa ý kẻ hầu hạ; quẻ không có hào huynh đệ không tránh khỏi tình cảm lạnh nhạt; quẻ không có hào quan quỷ thì không tránh khỏi mưu sự thất bại, và làm cho hao tốn nhiều tiền của. Nên lục thân không vong, phá, tán cũng suy xét giống như hào thế ứng không vong, phá, tán.
(Dụng thần không có chỗ vị trí giống như dụng thần có bệnh, cho nên giống như không vong, phá, tán, tức là hào không vong, phá, tán đều là các hào có bệnh, cho nên hào thế, hào ứng có bệnh thì trạch phụ trạch mẫu lo lắng, ưu lự. Thông thường người bói gia trạch dụng thần là mọi người, bởi vì nó có bệnh nên nói là tật bệnh, quỷ là các tai hoạ, bởi vì nó động mà nói là tai ương).
Có khi vì công danh mà bói gia trạch, nên thận trọng hào thế không vong mà tìm kiếm hào quan, bởi vì nó là ác quỷ của nhà cửa, còn công danh thì mừng hào quan, lại tham gia công tác nhân sự. Lại vì xây dựng mà bói gia trạch, thì lấy phương pháp tu sửa mà bói; vì binh khấu (chiến tranh và cướp bóc) mà bói gia trạch thì dùng cách tránh chiến tranh mà bói; vì yêu quái mà bói gia trạch thì bói theo đồng cốt; vì kẻ trộm bỏ trốn mà bói gia trạch thì thuận theo bói đào vong; vì di cư mà bói gia trạch thì dùng bói chọn chỗ ở; vì tật bệnh mà bói gia trạch thì lấy dụng thần mà bói; vì con cái mà bói thì lấy hào tử tôn mà đàm luận; vì nghèo khó mà bói thì lấy hào thê tài mà bàn luận; vì xuất nhập (qua lại, vãng lai) mà bói thì lấy xuất nhập mà bàn luận; vì nuôi trồng mà bói thì lấy hào thê tài, hào tử tôn mà nói, vì bất hiếu (khi con để tang cha mẹ tự xưng là bất hiếu 不孝) thì lấy hiếu thảo, kính nhường mà bàn. Có rất nhiều loại đầu mối không giống nhau, tuỳ theo sự việc nào mà tham cứu.
Có khi bàn luận về gia trạch, sẽ có hai chỗ âm dương, đều bao gồm viêc bói trong đó, tức là lấy quẻ nội làm "trạch", quẻ ngoại làm "nhân", hào sơ là nền móng, hào thượng là mộ, quẻ hay hào đó phải thận trọng về phản, phục, mộ, tuyệt, không vong, phá cũng như hào quỷ động ở cung tượng. Tuy nhiên bói nền móng hay mộ nên thường bói riêng biệt vậy.
(Hào quỷ động ở quẻ nội, nhà cửa có tai hoạ; hào quỷ động ở quẻ ngoại, người trong nhà có tội lỗi, tai hoạ, động ở hào sơ nền móng không ổn định, động ở hào sáu mộ không yên ổn).
Căn bản của một căn nhà gồm: giếng, bếp, cửa nẻo, đường lộ, nhà cửa, phòng ốc, sảnh đường, kho vựa, mái hiên, những thứ thuộc tường rào, nhà chứa củi. Hào không vong có thể điền thật, hào phá có thể tu bổ, hào động có thể sửa đổi, hào xung có thể tụ hội, đây là một chút về xu tỵ vậy.
(Hào phụ mẫu là nhà cửa, phòng ốc, hào quan quỷ là sảnh đường, hào huynh đệ là tường rào, nhà chứa củi, hào tử tôn là mái hiên. Bởi không vong có thể điền thật, hào phá có thể tu bổ nơi đó, hào động có thể sửa đổi phương đó, hào xung có thể nối liền các gian với nhau, thường việc nhân sự có thể xoay chuyển, tất cả đều là phần nhỏ của cát hung. Nếu như cái lớn lao của cát hung thì đó là: số người trong nhà (đinh khẩu), suy tàn và thịnh vượng (tiêu trưởng), danh lợi, tai ách, hoả hoạn, hỷ nộ ái ố, chăn nuôi, và các sự cầu tìm, tất cả đều lấy hào tử tôn làm phúc, hào quan quỷ làm tai hoạ, tức là thuận mệnh trời mà rõ phúc lành vậy).
Đại khái của nơi nhà cửa là nội ngoại vượng tướng, được sanh thì hưng thịnh; nội ngoại hưu tù bị khắc nên lụn bại; hào phản, phục, không vong, phá, mộ, tuyệt nên tan nát nhà cửa; hào thế ứng vướng tướng, được nhật nguyệt sinh hợp mà có đeo thêm cát thần thì hưng thịnh, hào tử tôn vượng nên con cháu có đức hạnh tài năng, hào thê tài vượng nên khởi nghiệp dễ dàng, hào quan quỷ không vong nên thiếu vắng việc cúng tế thờ phụng. Hào phụ mẫu động thì siêng năng chịu khó, hào huynh đệ động nhiều mệt mỏi, bói quẻ xấu hợp xung cùng với du hồn, quy hồn nên thường suy nghĩ việc đã qua mà trở lại, hào thế hào thân động không vong nên việc hành động hay ngừng lại bị rối bời.
(Hào nhân khắc hào trạch thì tốt, hào trạch khắc hào nhân thì xấu. Không vong: như tuần giáp thân thì quẻ ly không vong; phá: hạ chí thì quẻ khảm bị nguyệt phá. Bói quẻ xấu như quẻ lục xung, hợp xứ phùng xung, cùng với quẻ du hồn, quẻ quy hồn nên tâm thần không yên. Hào thế, hào thân không vong động muốn tiến thối mà không thành. Bởi không vong chủ thối, động chủ tiến).
Hào mộc quỷ bạch hổ phát động thì có tang; hào kim khắc thế thì có kiện cáo bất ngờ; châu tước huyền vũ giao kết thì có kiện cáo theo sau; động ở đoài, tốn là phụ nữ gây ra chuyện; câu trận thê tài hãm e là ruộng vườn suy giảm; đằng xà huynh đệ động e là ăn chơi, cờ bạc; huyền vũ, hàm trì động ở âm cung cùng với hào quan trì thế: say mê kỹ nữ mà tan nát nhà cửa; thanh long, thiên hỷ phụ mẫu, văn xương cùng với quý nhân động sanh hào thế: văn hoá được tôn trọng trong nước; hào tử tôn trì thế động ở cung càn thêm hoa cái: nhà tích luỹ việc thiện; hào phụ mẫu vượng tướng đới thanh long trì thế: nhà danh vọng.
(Mộc là quan quách, quỷ là chết chóc, bạch hổ là tang ma, cả ba cùng hội tụ mà động là nguyên nhân có linh cữu quàng trong nhà, nếu như hào kim quỷ bạch hổ, châu tước động mà khắc thế, cũng nói rằng bất ngờ có liên quan đến kiện cáo).
Hào thê tài là nghề nghiệp của gia đình, mộc chuyên về đan dệt, hoả chuyên về rèn đúc, thuỷ chuyên về cá tôm, thổ chuyên về canh tác, kim chuyên về nồi chảo.
Hào tử tôn trì thế con cái hiếu thuận, khắc thế thì con cái ngỗ nghịch; hào thê tài trì thế vợ tài cán, khắc thế vợ hung hãn; hào phụ mẫu khắc xung hiếu mà không vui; huynh đệ sanh hợp anh em, bạn bè hoà thuận; hào sáu phạt hào thế thì qan ở vị cao quý(臣尊 thần tôn) mà chủ thì thấp kém; hào một hào bốn xóm giềng phía trước phía sau tới xâm lấn, làng xóm không yên , cùng với bạch hổ tới tấn công thường tăng thêm sự hung ác, hào ứng với hào huynh đệ tới xung kích mình có thể là liên luỵ đồng bạn; hào ứng với hào thê tài tới lấn ép mình người thân thích oán ghét ; hào quỷ nội, hào quỷ ngoại cùng khởi có người mở cửa đón chào bọn cướp; ám quỷ, phục quỷ đều biểu lộ có việc cùng thuyền kẻ thù; chỉ quẻ yên ổn hào thế sung túc, có thể sanh hào thế động thì có người cứu viện, trời giúp đỡ vậy.
(Hào bốn là láng giềng phía bên trái, là láng giềng phía trước, hào một là láng giềng bên phải, là láng giềng phía sau; lại có khi trước hào thế là láng giềng phía trước, bên trái, sau hào thế là láng giềng phía sau, là bên phải. Nếu mà tới khắc hào thế: chủ không hài lòng với mình, nếu như cùng với bạch hổ quỷ khắc hào thế: chủ bất ngờ chống đối mình. Ám quỷ: gọi là ám động khắc hào thế; phục quỷ: gọi là phục quỷ xuất hiện khắc hào thế; thế thật gọi là hào thế gặp nhật nguyệt vượng tướng).
Hào thế hướng về quẻ ngoại: mình nương nhờ ở người; hào ứng quay về thân cận ở quẻ nội: người theo mình. Hai hào quan trong một nhà hai vị chúa tể; hai hào phụ một nhà có hai người cư trú; hai hào tài có nghề đặc biệt; hai hào huynh đệ có bạn tốt lành; hai hào phúc có con nuôi thành tài. Bạch hổ gầm (động) tượng thân thuộc bên vợ chết (妻黨喪: thê đảng táng); thanh long hăm hở (động) hào bên cạnh vui thích vợ kế; tài trì thế quan cư ứng là cầm vợ (贅妻: chuế thê); tử tôn trì thế ứng cư quan con trai ở rễ (贅婿: chuế tế); hào ứng tài hiện ở quẻ ngoại là cưới vợ nơi xa; ứng tử mà tài ở quẻ nội là cưới vợ kế.
Gà, chó, heo, dê, trâu, ngựa, cuốc, cày, nồi, chõ, ghe, thuyền: súc vật cần hữu khí, vật dụng không nên bị hư hỏng. Ngỗng, vịt nương ở gà; vượn, mèo nương nơi chó; cá, heo lộc dê; lạc đà, trâu, la (lừa đực ngựa cái giao phối nhau sinh ra con loa 騾), ngựa vậy. Động và sanh thì tăng; phá và khắc nên giảm; không vong thì không có; gặp vượng thì có thai. Hào tỵ tử tôn có lợi cho phòng nuôi tằm, hào ngọ tài lợi cho nhà buôn bán ngựa, hào phụ mẫu vượng nên thuyền, xe bền chắc, hào mộc tài vượng nên cuốc cày mới, hào kim khắc nên nồi chõ bị hư hỏng, hai hào hoả nên không phải một bếp lò, hào thuỷ tắc nghẽn nên ngòi nước chưa, hào kim phát nên nghe tiếng chuông trống, mộc chồng chất (木襲: mộc tập) hưng nên khởi xây nhà thuỷ tạ, thổ hoá thổ nên có công trình đục đẽo, phụ hoá phụ nên có chuẩn tắc của kinh sách (經文之典: kinh văn chi điển).
Vả chăng hợp ở tài là tủ, rương, hợp với hào thế, hào ứng là then cửa, hợp với hào gián là cửa sổ, xung ở hào phụ là cái thang, phụ hoá phụ là lầu; ở hào sáu là vườn; ở hào ba là mộ huyệt, quỷ mộ là linh hồn; sơ hào tài mộ là chứa vàng ,quỷ mộ là phục thi (xác chết cũ), thuỷ khắc hoả thì nền bếp ẩm thấp, kim khắc mộc nên chỗ thờ thần bị rách nát, thổ khắc thuỷ nên hầm xí đầy bùn, mộc khắc thổ nên tường rào vỡ lở.
(Tài là vật: cái mà hợp gói hào tài là tủ, rương như hào tiết thân cũng là tủ rương (節申爻乃櫃: tiết thân hào nãi cử). Hào thế ứng là chủ tể giống như then cửa, then cửa khoá hào hợp chính là then cửa, như quẻ "đại hữu" hào dậu là then cửa vậy. Hợp với hào gián là cửa sổ như quẻ "thái" hào tý, hào dần là cửa sổ vậy. Nếu như nhật thần xung hợp với quẻ gốc tức là không cần phải tìm cầu, như ngày tỵ quẻ càn, đại để hào ngọ cách hào thân là cửa sổ. Thông thường xung với hào phụ là cái thang, như quẻ "khảm" hào dần chính là cái thang. Chỗ hào phụ mẫu cư: hào sáu là vùng ngoại thành, cũng là vườn nhà, hào ba là rộng (壸: khổn - rộng, khoan quảng), cũng là mộ (圹: khoáng - chỗ đất bỏ trống hoang phế), hoá phụ chính là hình tượng nhà lầu. Quỷ mộ: như quẻ "cấu" hào tuất (mộ của hoả) là hồn phách, người chết vậy. Tài mộ: hào sơ quẻ "bĩ" chính là tượng tài mộ. Quỷ mộ: hào sửu của quẻ "thăng" chính là tượng. Nếu như ngày mùi chính là quỷ mộ của quẻ "bí" , ngày tuất là tài mộ của quẻ "tiết").
Thông thường những điều cần thiết của gia trạch: chuyên chú vào người được bình an tốt lành, tình hình quan tai, hoả hoạn, trộm cướp, thời tiết tiêu trưởng, danh lợi được mất, chuyện vui buồn nuôi trồng, cùng với con cái trai gái lớn nhỏ. Đôi khi làm việc trong ngày thì tử tôn là phúc nên gần gũi, quỷ là tai hoạ nên tránh xa, đấy là nguyên tắc lớn của bói toán, chính là mục đích của bói toán vậy.
.
50- Gia trạch chương
Gia trạch (nhà ở, gia đình): hướng tới hay lánh xa của một gia đình, chớ đừng lấy an ổn làm vui thích, mà lấy hoà thuận làm chân lý, cho nên quan quỷ không được động. Cái mà khắc mình chính là quỷ, là tai nạn, động thì tai nạn sẽ khởi lên.
Vì thế thuỷ quỷ động thì tránh xa sông ngòi, thổ quỷ động thì chớ xây tường vách cao, kim quỷ động thì cẩn thận đao châm, mộ quỷ động uổng công trồng trọt, hoả quỷ động thì nên đề phòng cháy nhà (回祿 hồi lộc); huyền vũ quỷ phát động nên cẩn thận mất mát tiền bạc; bạch hổ là nổi đau buồn về tang phục, châu tước thì lo lắng chuyện kiện tụng, đằng xà hiện là mầm mối chuyện quái dị, câu trận khởi thì tranh cấp ruộng vườn. Chỉ thanh long lợi cho thăng cấp, văn chương, không lợi cho thai nghén, sanh đẻ, cùng với tiến nhân khẩu.
(Thanh long là cát thần, theo cùng quỷ phát động cũng bất lợi, e là tai hoạ từ việc vui mừng vậy)
Động ở quẻ khôn, quẻ cấn mồ mả có nghi ngờ, động ở quẻ đoài, quẻ càn, thiên thần chẳng vui, ở chấn tốn thì tai nạn sanh đẻ trên thuyền bè, quan quách ở nhà quàng, ở quẻ khảm, que ly tật bệnh ở tai, mắt, cùng với bếp lò mất chỗ.
(Đây là nói về quỷ động ở tám quẻ. Quẻ chấn là quan tài, quẻ tốn là cái quách (để bọc ngoài áo quan), quỷ động ở cung này thì ứng với không yên ổn của quan quách gửi ở nhà quàng; khảm là giếng, ly là bếp quỷ động ở cung này thì ứng với sự bất lợi của giếng và bếp lò, các loại khác suy xét tương tự).
Sửu chết trâu cày, ngọ mất ngựa tốt, tỵ dậu là rắn gà quái lạ, tai vạ của răng mắt của người thường; mão thân là hung xấu của linh cữu, bệnh về gan phổi của chủ nhà; tý là thạch thử (một giống thú giống như con thỏ, đuôi ngắn, mắt đỏ, lông đen, trắng hoặc vàng sẫm, hay phá hoại lúa, đậu) hý lộng trong sảnh đường, chủ không tốt cho nhà cửa; hợi là thần mê thích thức ăn sền sệt (神漿躭:thần tương đam), là miệng, bụng, chủ phẩm hạnh bị tiêu diệt (亡德: vong đức); châu tước bay trên tuất, có nỗi lo chó điên cắn chân; huyền vũ nhập vào mùi có tiếng ta thán nấu dê quên hối lộ (烹羊亡賂之嘆: phanh dương vong lộ chi thán); dần thì cẩn thận nơi núi rừng, có hùm và sói đáng sợ; thìn nên ngưng ngay các hoạt động e là phạm vào nơi cúng tế thần đất (恐犯社壇: khủng phạm xã đàn).
(Đây là nói về mươi hai hình tượng quỷ động, thân là hung tang, mão là linh cữu, quỷ động ở hào này thì chướng ngại tang ma, quan tài; châu tước chính là chê khen, bình luận, huyền vũ là mất mát, lâm vào hào quỷ động ở tuất mùi thì nguyên cớ tai hoạ từ chó, dê mà ra).
Lại có trường hợp quỷ động ở nhị lão (càn và khôn) và sáu con (chấn, tốn, khảm, ly, cấn, đoài) mà biết tai hoạ của ai.
(Càn là cha, khôn là mẹ, chấn là con trai lớn, tốn là con gái lớn, khảm là con trai thứ, ly là con gái thứ, cấn là con trai trẻ, đoài là con gái trẻ. Nếu như hào quỷ động, hoá quỷ cũng như với quỷ hiện ở biến hào: ở khôn là mẹ có tai nạn, tại chấn là con trai lớn có tật bệnh. Ở biến hào như quẻ "cách" biến "hàm" bính thìn quỷ nhập vào cấn là thiếu nam tức là con trai nhỏ đang bệnh vậy).
Lại có khi quẻ càn là đầu, quẻ khôn là bụng, quẻ chấn là chân, quẻ tốn là đùi vế mà định chỗ bị bệnh tật, lại có khi quẻ càn là ngựa, quẻ khôn là trâu mà định súc vật bị chết.
(Gần thì chọn các bộ phận thân thể, xa thì chọn các động vật, hào quỷ động ở cung nào chính là tai ách ở đó, quẻ khảm là tai quẻ ly là mắt, quẻ cấn là tay, quẻ đoài là miệng đó là hình tượng của thân thể; quẻ chấn là rồng, quẻ tốn là gà, quẻ khảm là heo, quẻ ly là trĩ, quẻ cấn là chó, quẻ đoài là dê, đó là hình tượng các loại vật, nếu được trình bày rộng ra cũng giống như vậy).
Lại có khi quẻ ly là phương nam, quẻ khảm là phương bắc để mà quyết định phương nào hung xấu vậy.
(Hào quỷ động ở cung càn chớ nên đi về hướng tây bắc; hào quan động ở quẻ tốn không qua lại hướng đông nam, hào quỷ cung đoài xấu ở hướng tây, hào quỷ quẻ chấn hoạ ở hướng đông, khôn là ở tây nam, cấn là vị trí đông bắc, hào quỷ động ở cung nào thì tai hoạ ở phương đó).
Lại có khi hào thượng là người già, hào dưới là trẻ thơ, hào năm là cha, hào hai là vợ, hào bốn là mẹ, hào ba là anh em, mà phân chia sáu hào.
(Như hào thượng quỷ thì người già không yên ổn, hào sơ quỷ trẻ con không an toàn; hào năm là cha, hào bốn là mẹ quỷ động thì thường tai hoạ; hào hai là vợ, nàng hầu không mạnh khoẻ, hào ba là tật bệnh của anh em cũng là tay chân).
Lại có khi hào thế ở hào năm là trạch trưởng, hào ứng ở hào hai là trạch mẫu để mà biểu đạt tai hoạ, cát tường. Đây là nghĩa của ngũ hành, lục thần, tám quẻ, mười hai địa chi cùng với sáu hào.
(Hào thế là chồng thì hào ứng là vợ, hào năm là trạch trưởng (đứng đầu trong gia đình), hào hai là trạch mẫu (vợ của người đứng đầu trong gia đình), nếu như quỷ ở vào các hào này mà động, cũng như không vong, phá, tán, tuyệt thì biết rằng người đó có tai hoạ; nếu như phúc (tử tôn) ở hào này này mà động cùng với nhật nguyệt vượng tướng, thì biết rằng người đó có điều vui mừng).
Tuỳ quỷ nhập mộ, trợ quỷ thương thân được cho là khó khăn, tai hoạ; phục ngâm, phản ngâm, mộ, tuyệt được cho là tai hoạ của người thuộc về hào đó. Mệnh nào lâm quỷ, mệnh nào tuỳ mộ, hào nào không vong, phá, tượng nào động tán, mệnh nào hoá xung, dụng nào bị tổn hại thì tai hoạ là của người đó.
(Thông thường tuỳ mô, trợ thương đều là bệnh của hào thế, cho nên nói là chủ nhân có nạn; phản, phục, mộ, tuyệt: như tốn hoá phản ngâm là tai hoạ của trưởng nữ, càn hoá phục ngâm là bệnh của cha già, cho nên nói là tai hoạ của người thuộc về quẻ đó. Lâm quỷ: như hào tỵ quỷ người tuổi rắn có khó khăn, tai nạn; mệnh mộ: như dần mão quỷ mộ ở mùi, tức là người mệnh cọp, thỏ có tai ương; không vong, phá: như hào năm không vong là cha bệnh, hào hai phá là vợ bị tai ách; động tán: như hào tý động nên mệnh chuột không tốt lành, hào sáu tán phó đinh (người làm lụng, bộc dịch) bất lợi; hoá xung: như hào mùi hoá quỷ người tuổi dê gặp tai ách, hào dần quỷ xung hào thân người tuổi khỉ bị tật bệnh; tổn hại: như hào tử tôn bị thương tổn tức là trẻ con gặp truân chiên, hào phụ mẫu bị hại thì bậc tôn trưởng lo lắng bị tai ách, hoặc đoán xem tai hoạ của người nào nên vận dụng kiến thức xu tỵ).
Hào tử tôn hoá quỷ thì trẻ con bị bệnh, hào thê tài hoá quỷ thì vợ, nàng hầu bị tai hoạ, hào phụ mẫu hoá quỷ là bậc trưởng thượng lo âu, buồn rầu, hào huynh đệ hoá quỷ anh em ghen ghét, tự mình bói mà hào thế hoá quỷ; bói giùm người khác mà hào ứng hoá quỷ đều là chỗ phải thận trọng vậy. Chẳng phải chỉ hào quỷ động mà hoá quỷ cũng phải cẩn thận vậy; chẳng phải chỉ hoá quỷ mà quỷ nhập vào cung cũng phải cẩn thận. Sở dĩ cấn quỷ ở ly nên con trai nhỏ ốm đau, càn quỷ nhập tốn nên con gái lớn gặp hoạ.
Chẳng phải chỉ quỷ nhập vào cung như vậy mà quỷ lâm vào hào cũng cần phòng bị, sở dĩ thanh long chủ vui vẻ, bạch hổ chủ tang chế, châu tước chủ thị phi, huyền vũ chủ mất mát, câu trận chủ ruộng mỏ, đằng xà chủ quái dị, cũng như vị trí hào thế tuy không có quỷ động, nếu như quỷ lâm vào gặp lúc sanh vượng cũng sẽ gặp tai hoạ, chỉ là sức mạnh không bằng hào động cùng với trì thế. Lục thần là phù trợ, tuy không có quỷ lâm, nếu như phát động hay trì thế, gặp lúc sanh vượng cũng là điềm báo cát hung. Nguyệt kiến lục thần sức mạnh ba lần (力參之: lực tham chi).
(Đại, tiểu lục thần ứng cát hung tương tự, không chỉ trị quỷ nếu như phát động, nếu như trì thế, sau gặp lúc sanh vượng chính là lúc gặp mầm mối của sự việc. Cho nên đại lục thần có khác biệt, mầm mối sự việc sẽ ứng vào lúc trị nguyệt hay nguyệt hợp, điềm báo hoạ phúc thì lớn nhưng mà chậm, không thể chấp nhất mà mất uy lực. Như huyền vũ ở hào tuất động nên ứng vào trộm cắp ở tháng mão hay tháng sửu).
Chẳng những chỉ có lục thần, cũng có thêm tinh sát: thiên hoả, thiên chúc chủ hoả hoạn; thiên tặc, địa tặc chủ trộm cướp; quan phù, thiên ngục chủ kiện tụng, tù ngục; tang môn chủ tang ma; thiên hỷ chủ điều vui mừng; quý nhân chủ quý; văn xương chủ văn; thiên trù chủ lộc; hàm trì chủ rượu chè sắc đẹp; huyết nhận chủ tật bệnh về máu; chiết sát chủ mu bàn chân (趺蹼: phu phốc); dịch mã chủ di động; quái hào chủ các sự việc kỳ lạ. Cho nên các sao tốt nên động, nên trì hào thế, nên phù trợ hào dụng; các sao hung xấu thì kỵ động, kỵ trì hào thế, kỵ lâm hào quỷ; sự việc đang gặp nguyệt kiến thì tốt xấu có thể xem xét vậy.
(Đang trong tháng đó: giống như dậu động "thiên tặc" là ứng kỳ mão dậu. Pháp nói: hào quái dị ở tháng cuối mùa thì giữ cả hai đầu, ở tháng giữa mùa phải phân biệt hào hai hay hào năm, bốn tháng đầu mùa nên đi theo người khởi sự, động thì có mà tĩnh thì không có. Tả Truyện nói việc quái dị phát sinh từ con người, cho nên tháng đầu bắt đầu ở hào người, cùng phát động sẽ ứng nghiệm).
Quẻ không có hào phụ mẫu, không tránh khỏi nỗi lo buồn cho cha mẹ; quẻ không có hào tử tôn không tránh khỏi buồn rầu của con trẻ; quẻ không có hào thê tài, không tránh khỏi không vừa ý kẻ hầu hạ; quẻ không có hào huynh đệ không tránh khỏi tình cảm lạnh nhạt; quẻ không có hào quan quỷ thì không tránh khỏi mưu sự thất bại, và làm cho hao tốn nhiều tiền của. Nên lục thân không vong, phá, tán cũng suy xét giống như hào thế ứng không vong, phá, tán.
(Dụng thần không có chỗ vị trí giống như dụng thần có bệnh, cho nên giống như không vong, phá, tán, tức là hào không vong, phá, tán đều là các hào có bệnh, cho nên hào thế, hào ứng có bệnh thì trạch phụ trạch mẫu lo lắng, ưu lự. Thông thường người bói gia trạch dụng thần là mọi người, bởi vì nó có bệnh nên nói là tật bệnh, quỷ là các tai hoạ, bởi vì nó động mà nói là tai ương).
Có khi vì công danh mà bói gia trạch, nên thận trọng hào thế không vong mà tìm kiếm hào quan, bởi vì nó là ác quỷ của nhà cửa, còn công danh thì mừng hào quan, lại tham gia công tác nhân sự. Lại vì xây dựng mà bói gia trạch, thì lấy phương pháp tu sửa mà bói; vì binh khấu (chiến tranh và cướp bóc) mà bói gia trạch thì dùng cách tránh chiến tranh mà bói; vì yêu quái mà bói gia trạch thì bói theo đồng cốt; vì kẻ trộm bỏ trốn mà bói gia trạch thì thuận theo bói đào vong; vì di cư mà bói gia trạch thì dùng bói chọn chỗ ở; vì tật bệnh mà bói gia trạch thì lấy dụng thần mà bói; vì con cái mà bói thì lấy hào tử tôn mà đàm luận; vì nghèo khó mà bói thì lấy hào thê tài mà bàn luận; vì xuất nhập (qua lại, vãng lai) mà bói thì lấy xuất nhập mà bàn luận; vì nuôi trồng mà bói thì lấy hào thê tài, hào tử tôn mà nói, vì bất hiếu (khi con để tang cha mẹ tự xưng là bất hiếu 不孝) thì lấy hiếu thảo, kính nhường mà bàn. Có rất nhiều loại đầu mối không giống nhau, tuỳ theo sự việc nào mà tham cứu.
Có khi bàn luận về gia trạch, sẽ có hai chỗ âm dương, đều bao gồm viêc bói trong đó, tức là lấy quẻ nội làm "trạch", quẻ ngoại làm "nhân", hào sơ là nền móng, hào thượng là mộ, quẻ hay hào đó phải thận trọng về phản, phục, mộ, tuyệt, không vong, phá cũng như hào quỷ động ở cung tượng. Tuy nhiên bói nền móng hay mộ nên thường bói riêng biệt vậy.
(Hào quỷ động ở quẻ nội, nhà cửa có tai hoạ; hào quỷ động ở quẻ ngoại, người trong nhà có tội lỗi, tai hoạ, động ở hào sơ nền móng không ổn định, động ở hào sáu mộ không yên ổn).
Căn bản của một căn nhà gồm: giếng, bếp, cửa nẻo, đường lộ, nhà cửa, phòng ốc, sảnh đường, kho vựa, mái hiên, những thứ thuộc tường rào, nhà chứa củi. Hào không vong có thể điền thật, hào phá có thể tu bổ, hào động có thể sửa đổi, hào xung có thể tụ hội, đây là một chút về xu tỵ vậy.
(Hào phụ mẫu là nhà cửa, phòng ốc, hào quan quỷ là sảnh đường, hào huynh đệ là tường rào, nhà chứa củi, hào tử tôn là mái hiên. Bởi không vong có thể điền thật, hào phá có thể tu bổ nơi đó, hào động có thể sửa đổi phương đó, hào xung có thể nối liền các gian với nhau, thường việc nhân sự có thể xoay chuyển, tất cả đều là phần nhỏ của cát hung. Nếu như cái lớn lao của cát hung thì đó là: số người trong nhà (đinh khẩu), suy tàn và thịnh vượng (tiêu trưởng), danh lợi, tai ách, hoả hoạn, hỷ nộ ái ố, chăn nuôi, và các sự cầu tìm, tất cả đều lấy hào tử tôn làm phúc, hào quan quỷ làm tai hoạ, tức là thuận mệnh trời mà rõ phúc lành vậy).
Đại khái của nơi nhà cửa là nội ngoại vượng tướng, được sanh thì hưng thịnh; nội ngoại hưu tù bị khắc nên lụn bại; hào phản, phục, không vong, phá, mộ, tuyệt nên tan nát nhà cửa; hào thế ứng vướng tướng, được nhật nguyệt sinh hợp mà có đeo thêm cát thần thì hưng thịnh, hào tử tôn vượng nên con cháu có đức hạnh tài năng, hào thê tài vượng nên khởi nghiệp dễ dàng, hào quan quỷ không vong nên thiếu vắng việc cúng tế thờ phụng. Hào phụ mẫu động thì siêng năng chịu khó, hào huynh đệ động nhiều mệt mỏi, bói quẻ xấu hợp xung cùng với du hồn, quy hồn nên thường suy nghĩ việc đã qua mà trở lại, hào thế hào thân động không vong nên việc hành động hay ngừng lại bị rối bời.
(Hào nhân khắc hào trạch thì tốt, hào trạch khắc hào nhân thì xấu. Không vong: như tuần giáp thân thì quẻ ly không vong; phá: hạ chí thì quẻ khảm bị nguyệt phá. Bói quẻ xấu như quẻ lục xung, hợp xứ phùng xung, cùng với quẻ du hồn, quẻ quy hồn nên tâm thần không yên. Hào thế, hào thân không vong động muốn tiến thối mà không thành. Bởi không vong chủ thối, động chủ tiến).
Hào mộc quỷ bạch hổ phát động thì có tang; hào kim khắc thế thì có kiện cáo bất ngờ; châu tước huyền vũ giao kết thì có kiện cáo theo sau; động ở đoài, tốn là phụ nữ gây ra chuyện; câu trận thê tài hãm e là ruộng vườn suy giảm; đằng xà huynh đệ động e là ăn chơi, cờ bạc; huyền vũ, hàm trì động ở âm cung cùng với hào quan trì thế: say mê kỹ nữ mà tan nát nhà cửa; thanh long, thiên hỷ phụ mẫu, văn xương cùng với quý nhân động sanh hào thế: văn hoá được tôn trọng trong nước; hào tử tôn trì thế động ở cung càn thêm hoa cái: nhà tích luỹ việc thiện; hào phụ mẫu vượng tướng đới thanh long trì thế: nhà danh vọng.
(Mộc là quan quách, quỷ là chết chóc, bạch hổ là tang ma, cả ba cùng hội tụ mà động là nguyên nhân có linh cữu quàng trong nhà, nếu như hào kim quỷ bạch hổ, châu tước động mà khắc thế, cũng nói rằng bất ngờ có liên quan đến kiện cáo).
Hào thê tài là nghề nghiệp của gia đình, mộc chuyên về đan dệt, hoả chuyên về rèn đúc, thuỷ chuyên về cá tôm, thổ chuyên về canh tác, kim chuyên về nồi chảo.
Hào tử tôn trì thế con cái hiếu thuận, khắc thế thì con cái ngỗ nghịch; hào thê tài trì thế vợ tài cán, khắc thế vợ hung hãn; hào phụ mẫu khắc xung hiếu mà không vui; huynh đệ sanh hợp anh em, bạn bè hoà thuận; hào sáu phạt hào thế thì qan ở vị cao quý(臣尊 thần tôn) mà chủ thì thấp kém; hào một hào bốn xóm giềng phía trước phía sau tới xâm lấn, làng xóm không yên , cùng với bạch hổ tới tấn công thường tăng thêm sự hung ác, hào ứng với hào huynh đệ tới xung kích mình có thể là liên luỵ đồng bạn; hào ứng với hào thê tài tới lấn ép mình người thân thích oán ghét ; hào quỷ nội, hào quỷ ngoại cùng khởi có người mở cửa đón chào bọn cướp; ám quỷ, phục quỷ đều biểu lộ có việc cùng thuyền kẻ thù; chỉ quẻ yên ổn hào thế sung túc, có thể sanh hào thế động thì có người cứu viện, trời giúp đỡ vậy.
(Hào bốn là láng giềng phía bên trái, là láng giềng phía trước, hào một là láng giềng bên phải, là láng giềng phía sau; lại có khi trước hào thế là láng giềng phía trước, bên trái, sau hào thế là láng giềng phía sau, là bên phải. Nếu mà tới khắc hào thế: chủ không hài lòng với mình, nếu như cùng với bạch hổ quỷ khắc hào thế: chủ bất ngờ chống đối mình. Ám quỷ: gọi là ám động khắc hào thế; phục quỷ: gọi là phục quỷ xuất hiện khắc hào thế; thế thật gọi là hào thế gặp nhật nguyệt vượng tướng).
Hào thế hướng về quẻ ngoại: mình nương nhờ ở người; hào ứng quay về thân cận ở quẻ nội: người theo mình. Hai hào quan trong một nhà hai vị chúa tể; hai hào phụ một nhà có hai người cư trú; hai hào tài có nghề đặc biệt; hai hào huynh đệ có bạn tốt lành; hai hào phúc có con nuôi thành tài. Bạch hổ gầm (động) tượng thân thuộc bên vợ chết (妻黨喪: thê đảng táng); thanh long hăm hở (động) hào bên cạnh vui thích vợ kế; tài trì thế quan cư ứng là cầm vợ (贅妻: chuế thê); tử tôn trì thế ứng cư quan con trai ở rễ (贅婿: chuế tế); hào ứng tài hiện ở quẻ ngoại là cưới vợ nơi xa; ứng tử mà tài ở quẻ nội là cưới vợ kế.
Gà, chó, heo, dê, trâu, ngựa, cuốc, cày, nồi, chõ, ghe, thuyền: súc vật cần hữu khí, vật dụng không nên bị hư hỏng. Ngỗng, vịt nương ở gà; vượn, mèo nương nơi chó; cá, heo lộc dê; lạc đà, trâu, la (lừa đực ngựa cái giao phối nhau sinh ra con loa 騾), ngựa vậy. Động và sanh thì tăng; phá và khắc nên giảm; không vong thì không có; gặp vượng thì có thai. Hào tỵ tử tôn có lợi cho phòng nuôi tằm, hào ngọ tài lợi cho nhà buôn bán ngựa, hào phụ mẫu vượng nên thuyền, xe bền chắc, hào mộc tài vượng nên cuốc cày mới, hào kim khắc nên nồi chõ bị hư hỏng, hai hào hoả nên không phải một bếp lò, hào thuỷ tắc nghẽn nên ngòi nước chưa, hào kim phát nên nghe tiếng chuông trống, mộc chồng chất (木襲: mộc tập) hưng nên khởi xây nhà thuỷ tạ, thổ hoá thổ nên có công trình đục đẽo, phụ hoá phụ nên có chuẩn tắc của kinh sách (經文之典: kinh văn chi điển).
Vả chăng hợp ở tài là tủ, rương, hợp với hào thế, hào ứng là then cửa, hợp với hào gián là cửa sổ, xung ở hào phụ là cái thang, phụ hoá phụ là lầu; ở hào sáu là vườn; ở hào ba là mộ huyệt, quỷ mộ là linh hồn; sơ hào tài mộ là chứa vàng ,quỷ mộ là phục thi (xác chết cũ), thuỷ khắc hoả thì nền bếp ẩm thấp, kim khắc mộc nên chỗ thờ thần bị rách nát, thổ khắc thuỷ nên hầm xí đầy bùn, mộc khắc thổ nên tường rào vỡ lở.
(Tài là vật: cái mà hợp gói hào tài là tủ, rương như hào tiết thân cũng là tủ rương (節申爻乃櫃: tiết thân hào nãi cử). Hào thế ứng là chủ tể giống như then cửa, then cửa khoá hào hợp chính là then cửa, như quẻ "đại hữu" hào dậu là then cửa vậy. Hợp với hào gián là cửa sổ như quẻ "thái" hào tý, hào dần là cửa sổ vậy. Nếu như nhật thần xung hợp với quẻ gốc tức là không cần phải tìm cầu, như ngày tỵ quẻ càn, đại để hào ngọ cách hào thân là cửa sổ. Thông thường xung với hào phụ là cái thang, như quẻ "khảm" hào dần chính là cái thang. Chỗ hào phụ mẫu cư: hào sáu là vùng ngoại thành, cũng là vườn nhà, hào ba là rộng (壸: khổn - rộng, khoan quảng), cũng là mộ (圹: khoáng - chỗ đất bỏ trống hoang phế), hoá phụ chính là hình tượng nhà lầu. Quỷ mộ: như quẻ "cấu" hào tuất (mộ của hoả) là hồn phách, người chết vậy. Tài mộ: hào sơ quẻ "bĩ" chính là tượng tài mộ. Quỷ mộ: hào sửu của quẻ "thăng" chính là tượng. Nếu như ngày mùi chính là quỷ mộ của quẻ "bí" , ngày tuất là tài mộ của quẻ "tiết").
Thông thường những điều cần thiết của gia trạch: chuyên chú vào người được bình an tốt lành, tình hình quan tai, hoả hoạn, trộm cướp, thời tiết tiêu trưởng, danh lợi được mất, chuyện vui buồn nuôi trồng, cùng với con cái trai gái lớn nhỏ. Đôi khi làm việc trong ngày thì tử tôn là phúc nên gần gũi, quỷ là tai hoạ nên tránh xa, đấy là nguyên tắc lớn của bói toán, chính là mục đích của bói toán vậy.
.
#52
Gửi vào 17/12/2025 - 05:32
Dịch Mạo - Quyển Sáu
51- Hôn nhân chương
(Qua đây hiểu rõ việc ở rễ, đôi lứa, nô tỳ, rễ, mai mối, nạp thiếp, xung hỷ, khứ lưu, chọn nơi kết hôn thành không, lễ đính hôn có trở ngại không, thời gian, không gian,mười ba câu hỏi về tạp hôn).
Khắc mình là quan, tượng chồng là đàn ông, mình khắc là tài, tượng vợ là đàn bà, quan nam tài nữ là cái lý đã định vậy.
Đàn ông bói hôn nhân cho con gái hào thê tài là quan trọng, phụ nữ bói hôn nhân cho con trai hào quan quỷ là trên hết. Chỉ cha mẹ, anh em , bạn bè là người bói cũng lấy hào thê tài làm cô dâu và hào quan làm chú rễ vậy. Cho nên hào quan vượng tướng, nhà gái bói thì tốt; hào tài hưng thịnh phối ngẫu tốt lành của đàn ông; hào quan không vong, tuyệt nên phụ nữ tuyển chọn chồng thường goá chồng; hào tài phá, tán đàn ông chọn vợ cuối cùng goá vợ.
Gieo quẻ gặp xung, ban đầu khó thành, hối xung, hợp xung cuối cùng cũng chia tay. Tượng tam xung ly tán, phản nhau, cho dù quẻ có đầy đủ tài, quan nhưng chẳng phải là quẻ bói tốt.
Tuỳ quan nhập mộ cho là không thọ; trợ quỷ thương thân cho là không tài năng đức hạnh.
(Như nhà trai bói phụ nữ thì mệnh phụ nữ theo mộ; nhà gái bói đàng trai thì mệnh đàn ông theo mộ vậy, ngoài ra những thứ khác không luận).
Nếu như các quẻ"hàm", "hằng", "tiết", "thái" là tốt lành, chỉ hợp xung, biến xung thì không thích hợp; còn các quẻ ""khuê", "cách", "giải", "ly" là xấu, cho dù hào dụng được hoá hợp cũng không tốt lành.
(Như các quẻ "hàm", "hằng", "tiết", "thái" mà không gặp hợp xung hay biến xung, cho dù hào tài hay hào quan suy hãm, tuỳ quỷ trợ thương đều không phải là xấu, chỗ này gọi là dụng thần không vượt qua quẻ ứng nghiệm).
Lấy hào ứng để xác định gia đình (門閏: môn lư), lấy hào gián làm người mai mối.
(Đàn trai bói thì lấy hào ứng làm nhà gái, nhà gái bói thì lấy ứng làm nhà trai. Hào ứng toạ thanh long là nhà tích thiện đức, có quý nhân là nhà làm quan; vượng tướng là người giàu có, hưu tù thì nghèo khó, không vong, tán là người nghi hoặc không có chủ kiến, phá, tuyệt thiếu tình ý thâm hậu mà thường đìu hiu, lạnh nhạt. Hào âm phát động: cắt đứt do người phụ nữ, hào dương giao trùng: lòng tin ở người đàn ông. Sanh hào thế thì hôn nhân hạnh phúc; khắc hào thế thì hai bên soi mói nhau. Hào gián ở gần hào thế là người mai mối mình tin tưởng; ở gần hào ứng là người mai mối bên kia tin tưởng. Hào phá, tán thì không rõ ràng, phân minh không vong, tán thì không đắc lực; sanh là trợ giúp, khắc là dối trá, bên mình hay bên kia đều giống nhau. Hào độc phát có biến đổi không dễ làm việc).
Dùng bát quái mà xét dung mạo
(Nam bói phụ nữ, lấy hào tài có ở cung nào, như hào tài ở cung càn: thì dáng vẻ, cử chỉ đoan chánh, tình chất thông minh, có chồng phong độ, được cho là hợp với thiên đức; hào tài ở cung khôn: vẻ mặt, thần thái thận trọng, sức nhẫn nại to lớn, có đức hạnh của mẹ vua, dấu hiệu của địa đức; chấn thì tính nhanh lẹ, động nên có dáng tôn nghiêm; tốn thân thể của gió, di động nên không chịu thua ai; khảm thì thông minh, linh hoạt; ly thường hăng hái, mãnh liệt; cấn thì ngay thẳng, kiên trì, giỏi kim thêu, chạm khắc; đoài thì nhu mì vui thích, khéo ăn nói. Phụ nữ bói đàn ông: lấy hào quan ở cung nào, như hào quan ở cung càn điềm đạm đoan trang, ngay thẳng mà mạnh mẽ; dụng thần ở cung khôn, thì hoà hợp khiêm tốn, lời nói chân thật, giản dị; chấn thì hay phấn phát chí khí, luôn luôn ôm ấp chí anh hùng; tốn thì tham lam, thường tìm kiếm lợi nhuận; khảm thì chứa đựng kiến thức bên trong, hào quan bị bệnh thì thiếu sự thành thật; ly thì sự thông minh hiện rõ bên ngoài, hào quan sung mãn có tài năng về văn chương; cấn có kỹ năng, việc làm như đá chuyển; đoài có tài nghệ đặc biệt, lời nói trôi chảy như thác nước. Bởi bản chất của sáu cung con (chấn, tốn, khảm, ly, cấn đoài) có ưu và khuyết điểm, còn đức của hai cung cha mẹ (càn, khôn) thì không thiên lệch, cần xem xét thêm suy vượng của hào dụng: vượng thì theo ưu điểm, suy thì xét ở khuyết điểm).
Dùng lục thần mà xét bản chất của tài
(Bổ Di nói: tài gặp thanh long hình dáng đẹp đẽ; đằng xà đến hào thê tánh tình phù phiếm; bạch hổ chính là sao phản nghịch; huyền vũ là sao lãng mạn, châu tước giỏi ăn nói và nói nhiều; câu trận thận trọng mà kiệm lời, đấy là đàn ông bói về phụ nữ. Hào quan thanh long bản chất thông minh; đằng xà ở hào quỷ lời nói và hành động trống rỗng, giả dối; bạch hổ chín là người đàn ông can đảm, mạnh mẽ; huyền vũ thì bản chất gian hùng; câu trận thì đôn hậu, chất phát nhiều tài nghệ; châu tước tài năng phản biện, đấy là phụ nữ bói đàn ông. Tuy nhiên cũng phải xem xét dụng thần trước rồi sau mới theo vậy. Như hào quan vượng lâm huyền vũ ắt là đàn ông tài giỏi, còn hào quan tuyệt lâm huyền vũ ắt là kẻ gian, còn lại phỏng theo đó).
Dùng ngũ hành mà quán xét đức hạnh, các sao để khảo xét hành tàng, thì các tượng dùng không bị bỏ sót vậy.
(Hào kim là thiên cương sát; hào mộc từ ái nên cát tường; thuỷ chuyên ở trí tuệ và dũng khí; hoả thì giỏi về văn chương; thổ giữ gìn thành tín. Hào dụng thần thật, là đầy đủ ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín); hào dụng thần tổn hại thì ngược lại với ngũ đức; các sao cũng như vậy. Hào dụng thần cưởi ngựa, vượng tướng siêng năng, còn hưu tù thì chỉ rong chơi không làm gì cả; hào dụng thần theo dương nhận, nhật nguyệt là người tài giỏi, xuất chúng; không vong, phá bất ngờ bị hại; phá quân thì mắc bệnh; văn xương thì tốt, đẹp; liêm trinh thì ngang trái; tham lang thì khéo léo, và dối trá; vũ khúc thì xấu xa, đê tiện; cự môn lộc tồn thì tầm thường; tả phụ hữu bật thì không dối trá, hàm trì thì dâm; thiên xúc là ốm yếu (天觸為癍: thiên xúc vi 癍); thiên hỷ là tài đức; đà la là dũng mãnh; đại khái đều lấy dụng thần hư thật mà bàn luận vậy. Nói chung lấy vợ, gã chồng tốt xấu chủ ở tài quan, trai gái xinh đẹp đáng yêu, đều chủ ở tượng quẻ, thần tú, dùng nó như vậy).
Tuy nhiên hào phụ mẫu không thể mất; hào tử tôn không thể bị chìm đắm; hào thê tài không nên dao động, hào quan quỷ không thể chìm mất; hào thế ứng không nên không vong; tỷ phúc không nên động, vợ chồng không nên thay đổi, cải biến, âm dương không được mâu thuẫn.
(Hào phụ mẫu là người chủ hôn, bên trai bói nhà gái mà không có hào phụ mẫu thì chú, bác làm chủ hôn; còn bên nhà gái bói nhà trai mà không có hào phụ mẫu thì lễ nghi đạm bạc, sơ sài; hào tử tôn hãm thì khó khăn đường con cái nối dõi; hào quan quỷ không vong thì khó thành; hào thê tài động cha mẹ chồng không nhất trí, trai gái đều giống nhau vậy. Hào thế không vong mình có ý rút lui; hào ứng không vong bên kia không thuận chí; phá, tán, động, xung cũng chủ thay đổi. Nhà trai bói nhà gái gặp hai hào quan, có thể nghi ngờ thất hứa; nhà gái bói nhà trai gặp hai hào tài có thể sợ sẽ tìm kiếm nhiều hơn. Hào tài hoá tái, hào quan hoá quan đều là vợ chồng hai lòng. Nhà trai bói nhà gái nên có hào thế dương hào ứng âm, hào thế thăng hào ứng giáng; nhà gái bói nhà trai thì nên hào thế âm hào ứng dương, hào thế giáng mà hào ứng thăng; ngược lại là quay lưng với nhau. Dùng các nghĩa trên đây, tuy chẳng phải chủ về việc hôn nhân tốt xấu, nhưng nhìn thấy những hình ảnh này cũng ứng nghiệm vào việc người).
Việc con trai đi ở rễ cũng đoán giống như việc thừa kế, cũng lấy hào tử tôn để xem xét: không vong, tán chẳng đáng gửi thác cho người già yếu; phá, tuyệt chẳng phải là người thành tựu; vượng thật là người tài năng, đức hạnh; động xung thì không ổn định. Lấy nô tỳ cũng giống chọn nô tỳ, cũng dùng hào thê tài nên củng, hợp, sanh phù thì trung thành, hiệu lực; còn tán, không vong, phá, tuyệt thì trộm cắp, lười biếng khó mà thân cận; mệnh mộ hay tam xung đều không giúp đỡ mình được. Người mai mối, thì đoán giống như người nhờ cậy, dùng hào ứng để xem, nếu xung thì không thể hợp tác, khắc hào thế thì có ý riêng tư vậy.
(Dùng hào ứng làm chỗ nhờ cậy, cho nên không vong thì bất lực; phá thì không chuyên nghiệp; vượng tướng vì mình mà thận trọng; hưu tù giúp mình mà khinh mạn; xung hào thế thì làm việc lầm lẫn; khắc hào thế có ý tham muốn; hợp xứ phùng xung việc thấy xong mà lại tan rả. Đấy là một số tỷ dụ, nên đề phòng người mai mối vòi vĩnh).
Nếu như lấy thiếp nên cân nhắc điều gì được coi trọng: chuộng tài năng, đức hạnh thì dụng thần là hào tài, chuộng nối dõi thì dụng thần là hào tử tôn. Xung hỷ thì phải tường tận lục thân: làngười lớn tuổi thì dụng thần là hào phụ mẫu; là trẻ con thì dụng thần là hào tử tôn. Hoặc vì không hoà hợp mà hỏi nên ra đi hay ở lại: sanh hợp thì nên ở lại; khắc thế thì nên cho đi. Mệnh tuỳ quỷ nhập mộ là tai hoạ; bói quẻ xung, hay hợp xung đều là chia ly.
(Lòng người muốn đi thì không thể giữ lại, tình huống giống như nước đổ, giữ lại sẽ sanh biến, người bói nên khuyên nhủ thẳng thắn).
Cưới nhau xong là tổ ấm. Quẻ xung ứng với phá hỏng, không thể nương tựa vào nhau; quẻ khắc thế, quẻ du hồn làm sao mà có thể ở lâu dài. Chọn lựa đúng nơi để kết hôn cũng giống như bói hôn nhân, nếu như hỏi yên ổn thì kỵ hào quỷ phát động. Hôn nhân thuận theo giống như mưu vọng, không thể không có tài quan. Lễ nghi dồi dào hay đạm bạc là do quà tặng, của cải, không thể xem nhẹ vấn đề tài chánh.
(Nếu nhà trai bói nhà gái, không có hào tài thì không thành; nhà gái bói nhà trai không có hào quan thì không thành tựu. Bói quẻ hợp xung, hào thế, hào ứng không vong là chỗ kiêng kỵ của mưu sự vậy. Hào ứng vượng, hào tài vượng, lễ nghi hậu hỹ, hào ứng suy bại, hào tài suy bại lễ nghi sơ sài).
Cưới vợ mà do dự trở ngại: hào dụng vượng tướng đó là phúc của mình; hào tài không vong, phá thì đấy là do phụ nữ gây ra.
(Bói hào dụng có hai trường hợp: như cưới vợ mà cha mẹ bệnh nghi là vợ làm hại, được hào phụ mẫu vượng thì cho là cha mẹ có phúc chẳng phải cô vợ gây hại; cưới dâu mà vợ chồng bệnh nghi rằng tại con dâu làm hại, được hào thê tài vượng tức là con dâu tốt lành chẳng phải nó làm hại).
Ở nơi nào: trai thì hào quan, gái thì hào tài ở quẻ cung nào là xa, gần. Năm nào: sanh hợp năm tháng thì tốc độ chậm. Có đến hỏi không: hào ứng bệnh thì không tới. Có tới thoái thác không: hào ứng thật thì không thoái thác.
(Hào dụng thần ở quẻ nội thì gần, ở quẻ ngoại thì xa, quẻ khảm hướng bắc, quẻ ly hướng nam, quẻ chấn hướng đông, quẻ đoài hướng tây, thân cung là cùng xứ, quẻ khác là xứ khác. Dụng thần trường sinh, đế vượng, hay không vong, phá điền thật là ứng kỳ. Nếu quan trọng việc tốt xấu thì nên xem hào tài và hào quan).
Cưới phụ nữ ly hôn, mưu tính cưỡng hôn, phụ nữ làm kỹ nữ, tuy nói là bói giống nhau, mà có nỗi lo hại hoạn. Muốn tái giá, thoả lòng riêng, tuy nói là bói giống nhau, nhưng cản trở là điều phải thận trong, đều kỵ hào quỷ hay hào ứng khắc hào thế, cũng như tuỳ quỷ nhập mộ, trợ quỷ thương thân, hay hào quan quỷ động.
(Đây là giống như tránh hoạ hoạn, lấy hào quan quỷ làm hào kỵ ).
Cho nên hôn nhân là khởi đầu của đạo lý làm người, là nền tảng của gia đình, người xem bói phải thận trọng, lời khuyên nhủ phải thành thật, một lời quan hệ đến tốt xấu, ly hợp, ta phải thường thận trọng.
.
51- Hôn nhân chương
(Qua đây hiểu rõ việc ở rễ, đôi lứa, nô tỳ, rễ, mai mối, nạp thiếp, xung hỷ, khứ lưu, chọn nơi kết hôn thành không, lễ đính hôn có trở ngại không, thời gian, không gian,mười ba câu hỏi về tạp hôn).
Khắc mình là quan, tượng chồng là đàn ông, mình khắc là tài, tượng vợ là đàn bà, quan nam tài nữ là cái lý đã định vậy.
Đàn ông bói hôn nhân cho con gái hào thê tài là quan trọng, phụ nữ bói hôn nhân cho con trai hào quan quỷ là trên hết. Chỉ cha mẹ, anh em , bạn bè là người bói cũng lấy hào thê tài làm cô dâu và hào quan làm chú rễ vậy. Cho nên hào quan vượng tướng, nhà gái bói thì tốt; hào tài hưng thịnh phối ngẫu tốt lành của đàn ông; hào quan không vong, tuyệt nên phụ nữ tuyển chọn chồng thường goá chồng; hào tài phá, tán đàn ông chọn vợ cuối cùng goá vợ.
Gieo quẻ gặp xung, ban đầu khó thành, hối xung, hợp xung cuối cùng cũng chia tay. Tượng tam xung ly tán, phản nhau, cho dù quẻ có đầy đủ tài, quan nhưng chẳng phải là quẻ bói tốt.
Tuỳ quan nhập mộ cho là không thọ; trợ quỷ thương thân cho là không tài năng đức hạnh.
(Như nhà trai bói phụ nữ thì mệnh phụ nữ theo mộ; nhà gái bói đàng trai thì mệnh đàn ông theo mộ vậy, ngoài ra những thứ khác không luận).
Nếu như các quẻ"hàm", "hằng", "tiết", "thái" là tốt lành, chỉ hợp xung, biến xung thì không thích hợp; còn các quẻ ""khuê", "cách", "giải", "ly" là xấu, cho dù hào dụng được hoá hợp cũng không tốt lành.
(Như các quẻ "hàm", "hằng", "tiết", "thái" mà không gặp hợp xung hay biến xung, cho dù hào tài hay hào quan suy hãm, tuỳ quỷ trợ thương đều không phải là xấu, chỗ này gọi là dụng thần không vượt qua quẻ ứng nghiệm).
Lấy hào ứng để xác định gia đình (門閏: môn lư), lấy hào gián làm người mai mối.
(Đàn trai bói thì lấy hào ứng làm nhà gái, nhà gái bói thì lấy ứng làm nhà trai. Hào ứng toạ thanh long là nhà tích thiện đức, có quý nhân là nhà làm quan; vượng tướng là người giàu có, hưu tù thì nghèo khó, không vong, tán là người nghi hoặc không có chủ kiến, phá, tuyệt thiếu tình ý thâm hậu mà thường đìu hiu, lạnh nhạt. Hào âm phát động: cắt đứt do người phụ nữ, hào dương giao trùng: lòng tin ở người đàn ông. Sanh hào thế thì hôn nhân hạnh phúc; khắc hào thế thì hai bên soi mói nhau. Hào gián ở gần hào thế là người mai mối mình tin tưởng; ở gần hào ứng là người mai mối bên kia tin tưởng. Hào phá, tán thì không rõ ràng, phân minh không vong, tán thì không đắc lực; sanh là trợ giúp, khắc là dối trá, bên mình hay bên kia đều giống nhau. Hào độc phát có biến đổi không dễ làm việc).
Dùng bát quái mà xét dung mạo
(Nam bói phụ nữ, lấy hào tài có ở cung nào, như hào tài ở cung càn: thì dáng vẻ, cử chỉ đoan chánh, tình chất thông minh, có chồng phong độ, được cho là hợp với thiên đức; hào tài ở cung khôn: vẻ mặt, thần thái thận trọng, sức nhẫn nại to lớn, có đức hạnh của mẹ vua, dấu hiệu của địa đức; chấn thì tính nhanh lẹ, động nên có dáng tôn nghiêm; tốn thân thể của gió, di động nên không chịu thua ai; khảm thì thông minh, linh hoạt; ly thường hăng hái, mãnh liệt; cấn thì ngay thẳng, kiên trì, giỏi kim thêu, chạm khắc; đoài thì nhu mì vui thích, khéo ăn nói. Phụ nữ bói đàn ông: lấy hào quan ở cung nào, như hào quan ở cung càn điềm đạm đoan trang, ngay thẳng mà mạnh mẽ; dụng thần ở cung khôn, thì hoà hợp khiêm tốn, lời nói chân thật, giản dị; chấn thì hay phấn phát chí khí, luôn luôn ôm ấp chí anh hùng; tốn thì tham lam, thường tìm kiếm lợi nhuận; khảm thì chứa đựng kiến thức bên trong, hào quan bị bệnh thì thiếu sự thành thật; ly thì sự thông minh hiện rõ bên ngoài, hào quan sung mãn có tài năng về văn chương; cấn có kỹ năng, việc làm như đá chuyển; đoài có tài nghệ đặc biệt, lời nói trôi chảy như thác nước. Bởi bản chất của sáu cung con (chấn, tốn, khảm, ly, cấn đoài) có ưu và khuyết điểm, còn đức của hai cung cha mẹ (càn, khôn) thì không thiên lệch, cần xem xét thêm suy vượng của hào dụng: vượng thì theo ưu điểm, suy thì xét ở khuyết điểm).
Dùng lục thần mà xét bản chất của tài
(Bổ Di nói: tài gặp thanh long hình dáng đẹp đẽ; đằng xà đến hào thê tánh tình phù phiếm; bạch hổ chính là sao phản nghịch; huyền vũ là sao lãng mạn, châu tước giỏi ăn nói và nói nhiều; câu trận thận trọng mà kiệm lời, đấy là đàn ông bói về phụ nữ. Hào quan thanh long bản chất thông minh; đằng xà ở hào quỷ lời nói và hành động trống rỗng, giả dối; bạch hổ chín là người đàn ông can đảm, mạnh mẽ; huyền vũ thì bản chất gian hùng; câu trận thì đôn hậu, chất phát nhiều tài nghệ; châu tước tài năng phản biện, đấy là phụ nữ bói đàn ông. Tuy nhiên cũng phải xem xét dụng thần trước rồi sau mới theo vậy. Như hào quan vượng lâm huyền vũ ắt là đàn ông tài giỏi, còn hào quan tuyệt lâm huyền vũ ắt là kẻ gian, còn lại phỏng theo đó).
Dùng ngũ hành mà quán xét đức hạnh, các sao để khảo xét hành tàng, thì các tượng dùng không bị bỏ sót vậy.
(Hào kim là thiên cương sát; hào mộc từ ái nên cát tường; thuỷ chuyên ở trí tuệ và dũng khí; hoả thì giỏi về văn chương; thổ giữ gìn thành tín. Hào dụng thần thật, là đầy đủ ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín); hào dụng thần tổn hại thì ngược lại với ngũ đức; các sao cũng như vậy. Hào dụng thần cưởi ngựa, vượng tướng siêng năng, còn hưu tù thì chỉ rong chơi không làm gì cả; hào dụng thần theo dương nhận, nhật nguyệt là người tài giỏi, xuất chúng; không vong, phá bất ngờ bị hại; phá quân thì mắc bệnh; văn xương thì tốt, đẹp; liêm trinh thì ngang trái; tham lang thì khéo léo, và dối trá; vũ khúc thì xấu xa, đê tiện; cự môn lộc tồn thì tầm thường; tả phụ hữu bật thì không dối trá, hàm trì thì dâm; thiên xúc là ốm yếu (天觸為癍: thiên xúc vi 癍); thiên hỷ là tài đức; đà la là dũng mãnh; đại khái đều lấy dụng thần hư thật mà bàn luận vậy. Nói chung lấy vợ, gã chồng tốt xấu chủ ở tài quan, trai gái xinh đẹp đáng yêu, đều chủ ở tượng quẻ, thần tú, dùng nó như vậy).
Tuy nhiên hào phụ mẫu không thể mất; hào tử tôn không thể bị chìm đắm; hào thê tài không nên dao động, hào quan quỷ không thể chìm mất; hào thế ứng không nên không vong; tỷ phúc không nên động, vợ chồng không nên thay đổi, cải biến, âm dương không được mâu thuẫn.
(Hào phụ mẫu là người chủ hôn, bên trai bói nhà gái mà không có hào phụ mẫu thì chú, bác làm chủ hôn; còn bên nhà gái bói nhà trai mà không có hào phụ mẫu thì lễ nghi đạm bạc, sơ sài; hào tử tôn hãm thì khó khăn đường con cái nối dõi; hào quan quỷ không vong thì khó thành; hào thê tài động cha mẹ chồng không nhất trí, trai gái đều giống nhau vậy. Hào thế không vong mình có ý rút lui; hào ứng không vong bên kia không thuận chí; phá, tán, động, xung cũng chủ thay đổi. Nhà trai bói nhà gái gặp hai hào quan, có thể nghi ngờ thất hứa; nhà gái bói nhà trai gặp hai hào tài có thể sợ sẽ tìm kiếm nhiều hơn. Hào tài hoá tái, hào quan hoá quan đều là vợ chồng hai lòng. Nhà trai bói nhà gái nên có hào thế dương hào ứng âm, hào thế thăng hào ứng giáng; nhà gái bói nhà trai thì nên hào thế âm hào ứng dương, hào thế giáng mà hào ứng thăng; ngược lại là quay lưng với nhau. Dùng các nghĩa trên đây, tuy chẳng phải chủ về việc hôn nhân tốt xấu, nhưng nhìn thấy những hình ảnh này cũng ứng nghiệm vào việc người).
Việc con trai đi ở rễ cũng đoán giống như việc thừa kế, cũng lấy hào tử tôn để xem xét: không vong, tán chẳng đáng gửi thác cho người già yếu; phá, tuyệt chẳng phải là người thành tựu; vượng thật là người tài năng, đức hạnh; động xung thì không ổn định. Lấy nô tỳ cũng giống chọn nô tỳ, cũng dùng hào thê tài nên củng, hợp, sanh phù thì trung thành, hiệu lực; còn tán, không vong, phá, tuyệt thì trộm cắp, lười biếng khó mà thân cận; mệnh mộ hay tam xung đều không giúp đỡ mình được. Người mai mối, thì đoán giống như người nhờ cậy, dùng hào ứng để xem, nếu xung thì không thể hợp tác, khắc hào thế thì có ý riêng tư vậy.
(Dùng hào ứng làm chỗ nhờ cậy, cho nên không vong thì bất lực; phá thì không chuyên nghiệp; vượng tướng vì mình mà thận trọng; hưu tù giúp mình mà khinh mạn; xung hào thế thì làm việc lầm lẫn; khắc hào thế có ý tham muốn; hợp xứ phùng xung việc thấy xong mà lại tan rả. Đấy là một số tỷ dụ, nên đề phòng người mai mối vòi vĩnh).
Nếu như lấy thiếp nên cân nhắc điều gì được coi trọng: chuộng tài năng, đức hạnh thì dụng thần là hào tài, chuộng nối dõi thì dụng thần là hào tử tôn. Xung hỷ thì phải tường tận lục thân: làngười lớn tuổi thì dụng thần là hào phụ mẫu; là trẻ con thì dụng thần là hào tử tôn. Hoặc vì không hoà hợp mà hỏi nên ra đi hay ở lại: sanh hợp thì nên ở lại; khắc thế thì nên cho đi. Mệnh tuỳ quỷ nhập mộ là tai hoạ; bói quẻ xung, hay hợp xung đều là chia ly.
(Lòng người muốn đi thì không thể giữ lại, tình huống giống như nước đổ, giữ lại sẽ sanh biến, người bói nên khuyên nhủ thẳng thắn).
Cưới nhau xong là tổ ấm. Quẻ xung ứng với phá hỏng, không thể nương tựa vào nhau; quẻ khắc thế, quẻ du hồn làm sao mà có thể ở lâu dài. Chọn lựa đúng nơi để kết hôn cũng giống như bói hôn nhân, nếu như hỏi yên ổn thì kỵ hào quỷ phát động. Hôn nhân thuận theo giống như mưu vọng, không thể không có tài quan. Lễ nghi dồi dào hay đạm bạc là do quà tặng, của cải, không thể xem nhẹ vấn đề tài chánh.
(Nếu nhà trai bói nhà gái, không có hào tài thì không thành; nhà gái bói nhà trai không có hào quan thì không thành tựu. Bói quẻ hợp xung, hào thế, hào ứng không vong là chỗ kiêng kỵ của mưu sự vậy. Hào ứng vượng, hào tài vượng, lễ nghi hậu hỹ, hào ứng suy bại, hào tài suy bại lễ nghi sơ sài).
Cưới vợ mà do dự trở ngại: hào dụng vượng tướng đó là phúc của mình; hào tài không vong, phá thì đấy là do phụ nữ gây ra.
(Bói hào dụng có hai trường hợp: như cưới vợ mà cha mẹ bệnh nghi là vợ làm hại, được hào phụ mẫu vượng thì cho là cha mẹ có phúc chẳng phải cô vợ gây hại; cưới dâu mà vợ chồng bệnh nghi rằng tại con dâu làm hại, được hào thê tài vượng tức là con dâu tốt lành chẳng phải nó làm hại).
Ở nơi nào: trai thì hào quan, gái thì hào tài ở quẻ cung nào là xa, gần. Năm nào: sanh hợp năm tháng thì tốc độ chậm. Có đến hỏi không: hào ứng bệnh thì không tới. Có tới thoái thác không: hào ứng thật thì không thoái thác.
(Hào dụng thần ở quẻ nội thì gần, ở quẻ ngoại thì xa, quẻ khảm hướng bắc, quẻ ly hướng nam, quẻ chấn hướng đông, quẻ đoài hướng tây, thân cung là cùng xứ, quẻ khác là xứ khác. Dụng thần trường sinh, đế vượng, hay không vong, phá điền thật là ứng kỳ. Nếu quan trọng việc tốt xấu thì nên xem hào tài và hào quan).
Cưới phụ nữ ly hôn, mưu tính cưỡng hôn, phụ nữ làm kỹ nữ, tuy nói là bói giống nhau, mà có nỗi lo hại hoạn. Muốn tái giá, thoả lòng riêng, tuy nói là bói giống nhau, nhưng cản trở là điều phải thận trong, đều kỵ hào quỷ hay hào ứng khắc hào thế, cũng như tuỳ quỷ nhập mộ, trợ quỷ thương thân, hay hào quan quỷ động.
(Đây là giống như tránh hoạ hoạn, lấy hào quan quỷ làm hào kỵ ).
Cho nên hôn nhân là khởi đầu của đạo lý làm người, là nền tảng của gia đình, người xem bói phải thận trọng, lời khuyên nhủ phải thành thật, một lời quan hệ đến tốt xấu, ly hợp, ta phải thường thận trọng.
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#53
Gửi vào 17/12/2025 - 10:46
Dịch Mạo - Quyển Sáu
52- Thai sản chương
(Qua đây hiểu rõ các câu hỏi: thai thật hay hư, an toàn cho thai, an toàn cho thai phụ, đề phòng đoạ thai, khi nào sanh, trai hay gái, bà mụ, vú nuôi, nhờ sữa (寄乳: ký nhũ), nơi sanh đẻ, nuôi con dễ dàng, tìm kiếm con nối dõi)
Sanh đẻ là một việc lớn của cuộc sống con người. Con cái là người nối dõi cho nên hào tử tôn là hào dụng. Bói xem thai hư hay thật, đều chuyên dùng hào tử tôn, chỉ khi con bói mẹ có mang thai thì dùng hào huynh đệ, còn lại những người khác lớn nhỏ dù cao quý hay hèn hạ, thay mặt cầu khấn đều lấy hào tử tôn làm hào dụng. Chưa có thai mà bói có mang thai không, chú trọng hào có thanh long, thiên hỷ động; trong thời gian của tháng (間月 gian nguyệt) bói thì chỉ cầu con cái, hào tử tôn vượng tướng, sinh phù thì thành thai, không vong, phá, tán, tuyệt thì chẳng có mang thai.
(Chưa đến thời kỳ của tháng mà bói như thanh long, thiên hỷ động, dù hào tử tôn phục cũng đoán là có thai; đã qua thời gian của tháng mà bói nếu như hào tử tôn không vong, dù thanh long, thiên hỷ động cũng đoán là không có thai, bởi hào tử tôn lấy có làm niềm vui, còn các sao thì phải động mới làm niềm vui. Nói chung chưa đến thời gian của tháng chuyên chú trọng đến thanh long, thiên hỷ, đã qua thời gian của tháng độc nhất chú trọng hào tử tôn).
Muốn biết thai nhi ổn định không cũng chú trọng hào tử tôn. Hào tử tôn không bị không vong, không bị phá thì sẽ thành hình, nếu như bị tuyệt, bị xung khó mà đủ tháng. Bói thai phụ có ổn định không hào quỷ động thì sẽ sanh tai hoạ, hào dụng bị thương tổn thì sinh bệnh, tuỳ quan nhập mộ đều cần phòng bị thai nhi bệnh chết bất ngờ, trợ quỷ thương thân chỉ e rằng chết cùng với thai nhi. Như ra ngoài để cầu cho thân được ổn định, hào dụng vượng, hào quỷ tỉnh thì vui mừng, cầu thai nhi ổn định thì kỵ quẻ xung, hào thai không vong, bạch hổ động.
(Thai ổn định chú trọng hào tử tôn, mẹ ổn định thì kỵ hào quỷ động, cũng như hào dụng vượng thì vui mừng. Như bói mẹ có mang thai không thì hào phụ mẫu làm hào dụng; người khác bói thay thì hào thê tài làm hào dụng, đều kỵ hào bổn mệnh tuỳ quan nhập mộ. Thai phụ tự bói, hoàn toàn kỵ trợ quỷ thương thân. Đi ra ngoài có hai ý nghĩa vì bản thân, vì thai nhi).
Muốn biết thai có bị hư không: hợp xung, tiền xung, hậu xung, hào thai không vong, hào thai phá, bạch hổ động tức là phạm tai ách, nhưng cũng cần quan sát hào tử tôn, hào tử tôn kiên cố, cho dù gặp tình trạng này cũng không thương tổn, hào tử tôn phá, khắc cho dù không gặp như vậy cũng khó bảo toàn.
(Quẻ xung thì không kết, hào thai hoại (壞: hoại - hư nát) là không kiên cố, bạch hổ động chính là huyết thần (một loại hung sát), trong ba điều chỉ gặp một coi như dễ bị sảy thai (墮 漏: đoạ lậu), nếu như hào tử tôn đắc nhật nguyệt, vượng tường cho dù thấy các triệu chứng đó nhưng cuối cùng thai vẫn không chết. Như tháng thân ngày tân hợi bói mang thai được quẻ "đoài" biến "khốn", ba ngày sau khi nhiễm trùng máu (敗血: bại huyết) thai nhi lại bảo toàn. Cho nên hào tử tôn là quan trọng).
Muốn biết sanh đẻ nhanh hay chậm: quẻ xung, hào thai phá bạch hổ dao động sanh ngay trong ngày. Hào thai không vong, hào thế gặp ngày thai dưỡng, hào tử tôn gặp trường sinh, như tử tôn không mà lại có, không vong mà lại bù đắp, phá mà điền thật, mộ mà gặp xung đo lường nặng nhẹ mà quyết định hạn kỳ, định thời gian cũng vậy, đấy là tóm tắt bói vậy. Như bói khi nào sanh đẻ, thì dùng quẻ xung, hào thai xung hay bạch hổ động chính là lúc sanh.
(Có thể chia theo tháng, có thể chia theo tuần, nếu quẻ xung, hào thai tật, bạch hổ động thì sanh trong tháng hay trong tuần đó. Lại có khi dự liệu ngày giờ nào, ví như bói khi nào sanh, thì lấy quẻ xung, hào thai tật, bạch hổ động là gần kề, không thì còn lâu; khảo sát hào thế gặp ngày thai, dưỡng, không vong được ngày bù đắp, phá được điền thật, tuyệt gặp ngày sanh, mộ gặp ngày xung, ngày giờ không mà có để định, cũng như hào thai trực tuần không, không gặp thì còn lâu vậy. Như tháng thân ngày đinh mùi bói sanh đẻ được quẻ "cấn", ba ngày sau là kỷ dậu giờ tuất thì sanh, đây là ứng vào hào thế thai dưỡng, người bói, chồng bói đều theo cách luận này. Chỉ khi sản phụ tự bói thì hào tử tôn là quan trọng, như tháng ngọ ngày giáp dần tự bói thai trong bụng mình được quẻ "đại quá" sau đến ngày canh ngọ thì sanh ứng với ngày tử tôn, đấy là phương pháp dùng hào tử tôn. Mộ thì gặp xung như hào hoả tử tôn mộ ở tuất gặp thìn thì sanh. Có thề nói sản phụ thì chia theo hào tài, trẻ con thì chia theo hào tử tôn, ngày giờ thì chia theo hào thế, đại lược bói là như vậy, chỉ bói hạn kỳ nên chuyên dùng hào tử tôn).
Muốn biết trai hay gái: đầu tiên dùng quẻ âm bao dương là trai, và dương bao âm là gái, quẻ khảm, quẻ ly tự bao giống như vậy; kế đến là xem hào động: hào âm biến dương là trai, hào dương biến âm là nữ, hào tử tôn làm chủ, hào phân theo thứ tự; ba là không có quẻ bao, không có hào động mà an tĩnh, thì xem hào tử tôn thuộc dương là con trai, thuộc âm là gái, âm dương cùng hiện, cầm nắm nặng nhẹ, phi phục đều không vong, định theo hào đơn hay hào sách. Có khi rời nhà đi xa mà ở nhà đã sanh chỉ chọn hào tử tôn thuộc âm dương mà định, không xem quẻ bao, hay hào động biến. Bói mẹ sanh đẻ thì xem hào huynh đệ, bói thay cũng dùng hào tử tôn mà quyết định.
(Muốn biết trai hay gái thì có ba cách: một gọi là quẻ bao, hai là hào động biến, ba là hào tử tôn thuộc âm hay dương. Như quẻ "khảm", "đại quá", "tiểu quá", "hàm", "hằng" chính là âm bao dương; quẻ "ly", "di", "trung phu", "ích", "tổn" chính là dương bao âm; các quẻ "khiêm", "dự", "lý", "tiểu súc", "thăng", "tuỵ", "vô vọng", "dại súc" thì không phải quẻ bao. Sau quẻ bao là xem xét hào động: biến dương là trai, biến âm là gái, nếu như hai hào động thì xem hào trên, ba hào động thì xem hào giữa, bốn năm hào cùng động thì chủ thuộc hào nhiều âm hay dương, sáu hào động cũng như âm dương bằng nhau thì theo hào biến ở quẻ nội, hoặc là trong đó có hào tử tôn động, cũng chọn hào tử tôn biến để định trai hay gái. Sau hào động biến là quẻ an tĩnh thì xem hào tử tôn: dương là trai, âm là gái; như có hai hào cùng hiện, bỏ hào bị thương tổn mà dùng hào không bị thương tổn; như hào phi không có mà hào phục cũng không vong thì cũng lấy phục thần tử tôn đơn (dương) sách (âm) mà phân biệt trai hay gái, không thể vì không vong, phá mà tìm cách khác. Như tháng tuất ngày mậu thìn, bói trai hay gái được quẻ "quy muội", hào hợi tử tôn thuộc dương đang không vong, quả sau sanh con trai nhưng không nuôi. Thường có khi hai hào tử tôn cùng hiện, đều vượng tướng, cũng như các quẻ "đại hữu", "càn", "bác, "đồng nhân" đều là dấu hiệu thai đôi. Hải Để Nhãn nói: cả hai hào vượng tướng hỷ thần trợ giúp, ắt là thai đôi trời ban cho. Âm dương bao nhau là lúc thành thai trai hay gái, hào động biến là công sức mài dũa tu thân, cho nên chấp vào hào tử tôn trước hết là sai. Rời nhà đi ra ngoài mà ở nhà đã sanh, chuyên chú trọng hào tử tôn thuộc âm hay dương, bởi trẻ đã sanh rồi, nên khảo sát hình thể, làm sao mà dùng quẻ bao hay hào động biến được).
Bà mụ tốt hay xấu: quan sát hào ứng cũng như hào tài. Hào không vong, phá thì không có tài năng; hào vượng sanh thì hiệu quả, nhưng cần nên đề phòng hào ứng khắc hào tử tôn, e là người này làm hại con mình; hào ứng khắc hào tài, e sợ làm hại vợ mình, không chỉ bói mà nên quan sát kỹ. Chồng gieo quẻ thì xem hào gián gần hào ứng; tự sản phụ gieo quẻ thì xem hào gián gần hào thế, hoặc là hào năm, cũng không thể khắc hào thê tài, hào tử tôn và không vong, phá.
(Hào thê tài là sản phụ, hào ứng là người để giúp đỡ, bởi kết thúc sanh đẻ (收生: thu sanh) nhằm giúp đỡ vợ con, hào ứng không nên là phụ mẫu hay huynh đệ; khi hỏi về việc sinh nở, nếu như hào gián, hào năm phá, không vong, hay xung khắc hào thê tài, hào tử tôn thì nói là bà mụ phạm điều hung xấu).
Vú nuôi hiền dữ: quan sát hào thê tài cùng với hào ứng. Hào không vong, phá thường bệnh tật; hào sanh vượng thì không có tai hoạ gì, rất kỵ hợp xung, quẻ xung, không thể mớm, cho trẻ bú lâu dài, hào ứng khắc, xung hào tử tôn không tránh khỏi làm hại trẻ con. Quẻ không có hào hợi, hào tý sữa sau sẽ ít hơn làm cho trẻ không đủ thức ăn, không có hợi, tý ở cung khôn, cấn càng nặng thêm hơn. Song hào ứng khắc hào thế thì có ý khó khăn, hào ứng trị quỷ thì có cơ mưu, hào ứng hàm trì thì ưa tửu sắc, hào ứng huyền vũ thì ưa ăn cắp đồ, song quẻ gieo được tốt thì không phải là hại lớn lao. Nhờ người cho bú nên lấy hào tử tôn làm trọng, mừng nó được sanh phù vượng tướng, không nên bị không vong, phá, tuyệt, xung, hào mệnh tuỳ quỷ nhập mộ con chết ở nhà người, quẻ gặp hào quỷ động trẻ ốm bệnh ở bên ngoài nhà, không thể gửi nuôi nhờ. Nhờ nuôi (寄乳: ký nhũ) thì nên hỏi vú nuôi (乳母: nhũ mẫu) có tốt xấu như chọn phương pháp chọn vú nuôi.
(Hỏi vú nuôi thì luận hào thê tài, hào ứng; hỏi gửi nuôi thì trọng hào tử tôn; sữa nhiều hay ít thì cũng đồng nghĩa với hiền dữ.
Nơi sanh có an toàn không: rất kỵ hào quỷ động, hào thê tài, hào tử tôn nên vượng tướng, cả hai không nên bị thương tổn.
(Bói nơi sanh đẻ, chỉ hào dụng vượng, hào quỷ yên ổn thì thiện lành, rất kỵ hào mệnh tuỳ quỷ nhập mộ).
Nếu như sau khi sanh đẻ rồi hỏi có dễ nuôi không, mừng hào tử tôn vượng tướng, đề phòng bệnh tật thì kỵ hào quan quỷ động, cùng với hào mệnh tuỳ quỷ nhập mộ.
(Hào dụng vượng trẻ con có căn cơ, hào quỷ an tĩnh trẻ con không tật bệnh).
Vì không con nối dõi mà cầu tự: chỉ xem hào tử tôn, hào vượng tướng sanh phù sẽ nhanh có, phục tàng an tĩnh sẽ có nhưng chậm, hào không vong, phá, tán, tuyệt thì không có; tuy nhiên không nên có hào thế không vong, chính là thân mình không có khả năng, hỏi hào thê tài, hào ứng không vong, hỏi hào thiếp tài không vong là bản thân vợ, nàng hầu không sanh đẻ. Năm nào có thể có con: thời gian thai, dưỡng, sanh của hào tử tôn là điềm báo trước vậy. Hỏi vợ nào có thể sanh, anh em thuộc cùng một họ, hào tử tôn hiện ở quẻ ngoại lợi sanh ở bên ngoài, hào tử tôn phục ở quẻ nội lợi sanh sản ở trong nhà, hào tử tôn hiện huyền vũ, hàm trì, cũng như chẳng phải vị trí thế ứng, thì ứng với ngoại tình bên ngoài. Bởi con cái nối dõi có hay không có, tuy là có thuyết định mệnh, chỉ có công đức nồng hậu, dồi dào có thể tạo nên mệnh, người gieo quẻ nên khuyến khích.
(Một thương nhân họ Vương ở nước Sở, tuổi bốn mươi mà không có con nối dõi, năm quý mùi tháng mão ngày tân mùi bói cầu tự được quẻ "bĩ" được đoán rằng không con, được khuyên khích làm việc âm công (陰功: âm công - việc làm tốt ở thế gian và được ghi công dưới âm phủ), sau quả nhiên xem nhẹ tiền bạc mà bố thí; đến năm ất dậu đỉnh cách (có lẽ là từ thành ngữ cách cố đỉnh tân - nghĩa là bỏ cũ đổi mới), hết lòng làm việc thiện, tháng hai năm đinh hợi ngày giáp thân lại đến bói quẻ thừa tự sau này được quẻ "tuỵ", hào tử tôn ngộ trường sinh đoán được hai con, người đó hỏi: sao trước đây nói là không có mà bây giờ nói có? Ta nói: chắc rằng ông lập được âm đức, ông ta gật đầu bỏ đi; sau đến nắm tý, năm dần liên tục sanh hai đứa con trai, há chẳng phải là thịnh đức cảm động lòng trời mà báo đền, như bóng theo hình vậy sao? Người học dịch nên khuyến khích người làm việc thiện, nhất là cầu con nối dõi, phương pháp thích hợp để tạo mệnh vậy).
.
52- Thai sản chương
(Qua đây hiểu rõ các câu hỏi: thai thật hay hư, an toàn cho thai, an toàn cho thai phụ, đề phòng đoạ thai, khi nào sanh, trai hay gái, bà mụ, vú nuôi, nhờ sữa (寄乳: ký nhũ), nơi sanh đẻ, nuôi con dễ dàng, tìm kiếm con nối dõi)
Sanh đẻ là một việc lớn của cuộc sống con người. Con cái là người nối dõi cho nên hào tử tôn là hào dụng. Bói xem thai hư hay thật, đều chuyên dùng hào tử tôn, chỉ khi con bói mẹ có mang thai thì dùng hào huynh đệ, còn lại những người khác lớn nhỏ dù cao quý hay hèn hạ, thay mặt cầu khấn đều lấy hào tử tôn làm hào dụng. Chưa có thai mà bói có mang thai không, chú trọng hào có thanh long, thiên hỷ động; trong thời gian của tháng (間月 gian nguyệt) bói thì chỉ cầu con cái, hào tử tôn vượng tướng, sinh phù thì thành thai, không vong, phá, tán, tuyệt thì chẳng có mang thai.
(Chưa đến thời kỳ của tháng mà bói như thanh long, thiên hỷ động, dù hào tử tôn phục cũng đoán là có thai; đã qua thời gian của tháng mà bói nếu như hào tử tôn không vong, dù thanh long, thiên hỷ động cũng đoán là không có thai, bởi hào tử tôn lấy có làm niềm vui, còn các sao thì phải động mới làm niềm vui. Nói chung chưa đến thời gian của tháng chuyên chú trọng đến thanh long, thiên hỷ, đã qua thời gian của tháng độc nhất chú trọng hào tử tôn).
Muốn biết thai nhi ổn định không cũng chú trọng hào tử tôn. Hào tử tôn không bị không vong, không bị phá thì sẽ thành hình, nếu như bị tuyệt, bị xung khó mà đủ tháng. Bói thai phụ có ổn định không hào quỷ động thì sẽ sanh tai hoạ, hào dụng bị thương tổn thì sinh bệnh, tuỳ quan nhập mộ đều cần phòng bị thai nhi bệnh chết bất ngờ, trợ quỷ thương thân chỉ e rằng chết cùng với thai nhi. Như ra ngoài để cầu cho thân được ổn định, hào dụng vượng, hào quỷ tỉnh thì vui mừng, cầu thai nhi ổn định thì kỵ quẻ xung, hào thai không vong, bạch hổ động.
(Thai ổn định chú trọng hào tử tôn, mẹ ổn định thì kỵ hào quỷ động, cũng như hào dụng vượng thì vui mừng. Như bói mẹ có mang thai không thì hào phụ mẫu làm hào dụng; người khác bói thay thì hào thê tài làm hào dụng, đều kỵ hào bổn mệnh tuỳ quan nhập mộ. Thai phụ tự bói, hoàn toàn kỵ trợ quỷ thương thân. Đi ra ngoài có hai ý nghĩa vì bản thân, vì thai nhi).
Muốn biết thai có bị hư không: hợp xung, tiền xung, hậu xung, hào thai không vong, hào thai phá, bạch hổ động tức là phạm tai ách, nhưng cũng cần quan sát hào tử tôn, hào tử tôn kiên cố, cho dù gặp tình trạng này cũng không thương tổn, hào tử tôn phá, khắc cho dù không gặp như vậy cũng khó bảo toàn.
(Quẻ xung thì không kết, hào thai hoại (壞: hoại - hư nát) là không kiên cố, bạch hổ động chính là huyết thần (một loại hung sát), trong ba điều chỉ gặp một coi như dễ bị sảy thai (墮 漏: đoạ lậu), nếu như hào tử tôn đắc nhật nguyệt, vượng tường cho dù thấy các triệu chứng đó nhưng cuối cùng thai vẫn không chết. Như tháng thân ngày tân hợi bói mang thai được quẻ "đoài" biến "khốn", ba ngày sau khi nhiễm trùng máu (敗血: bại huyết) thai nhi lại bảo toàn. Cho nên hào tử tôn là quan trọng).
Muốn biết sanh đẻ nhanh hay chậm: quẻ xung, hào thai phá bạch hổ dao động sanh ngay trong ngày. Hào thai không vong, hào thế gặp ngày thai dưỡng, hào tử tôn gặp trường sinh, như tử tôn không mà lại có, không vong mà lại bù đắp, phá mà điền thật, mộ mà gặp xung đo lường nặng nhẹ mà quyết định hạn kỳ, định thời gian cũng vậy, đấy là tóm tắt bói vậy. Như bói khi nào sanh đẻ, thì dùng quẻ xung, hào thai xung hay bạch hổ động chính là lúc sanh.
(Có thể chia theo tháng, có thể chia theo tuần, nếu quẻ xung, hào thai tật, bạch hổ động thì sanh trong tháng hay trong tuần đó. Lại có khi dự liệu ngày giờ nào, ví như bói khi nào sanh, thì lấy quẻ xung, hào thai tật, bạch hổ động là gần kề, không thì còn lâu; khảo sát hào thế gặp ngày thai, dưỡng, không vong được ngày bù đắp, phá được điền thật, tuyệt gặp ngày sanh, mộ gặp ngày xung, ngày giờ không mà có để định, cũng như hào thai trực tuần không, không gặp thì còn lâu vậy. Như tháng thân ngày đinh mùi bói sanh đẻ được quẻ "cấn", ba ngày sau là kỷ dậu giờ tuất thì sanh, đây là ứng vào hào thế thai dưỡng, người bói, chồng bói đều theo cách luận này. Chỉ khi sản phụ tự bói thì hào tử tôn là quan trọng, như tháng ngọ ngày giáp dần tự bói thai trong bụng mình được quẻ "đại quá" sau đến ngày canh ngọ thì sanh ứng với ngày tử tôn, đấy là phương pháp dùng hào tử tôn. Mộ thì gặp xung như hào hoả tử tôn mộ ở tuất gặp thìn thì sanh. Có thề nói sản phụ thì chia theo hào tài, trẻ con thì chia theo hào tử tôn, ngày giờ thì chia theo hào thế, đại lược bói là như vậy, chỉ bói hạn kỳ nên chuyên dùng hào tử tôn).
Muốn biết trai hay gái: đầu tiên dùng quẻ âm bao dương là trai, và dương bao âm là gái, quẻ khảm, quẻ ly tự bao giống như vậy; kế đến là xem hào động: hào âm biến dương là trai, hào dương biến âm là nữ, hào tử tôn làm chủ, hào phân theo thứ tự; ba là không có quẻ bao, không có hào động mà an tĩnh, thì xem hào tử tôn thuộc dương là con trai, thuộc âm là gái, âm dương cùng hiện, cầm nắm nặng nhẹ, phi phục đều không vong, định theo hào đơn hay hào sách. Có khi rời nhà đi xa mà ở nhà đã sanh chỉ chọn hào tử tôn thuộc âm dương mà định, không xem quẻ bao, hay hào động biến. Bói mẹ sanh đẻ thì xem hào huynh đệ, bói thay cũng dùng hào tử tôn mà quyết định.
(Muốn biết trai hay gái thì có ba cách: một gọi là quẻ bao, hai là hào động biến, ba là hào tử tôn thuộc âm hay dương. Như quẻ "khảm", "đại quá", "tiểu quá", "hàm", "hằng" chính là âm bao dương; quẻ "ly", "di", "trung phu", "ích", "tổn" chính là dương bao âm; các quẻ "khiêm", "dự", "lý", "tiểu súc", "thăng", "tuỵ", "vô vọng", "dại súc" thì không phải quẻ bao. Sau quẻ bao là xem xét hào động: biến dương là trai, biến âm là gái, nếu như hai hào động thì xem hào trên, ba hào động thì xem hào giữa, bốn năm hào cùng động thì chủ thuộc hào nhiều âm hay dương, sáu hào động cũng như âm dương bằng nhau thì theo hào biến ở quẻ nội, hoặc là trong đó có hào tử tôn động, cũng chọn hào tử tôn biến để định trai hay gái. Sau hào động biến là quẻ an tĩnh thì xem hào tử tôn: dương là trai, âm là gái; như có hai hào cùng hiện, bỏ hào bị thương tổn mà dùng hào không bị thương tổn; như hào phi không có mà hào phục cũng không vong thì cũng lấy phục thần tử tôn đơn (dương) sách (âm) mà phân biệt trai hay gái, không thể vì không vong, phá mà tìm cách khác. Như tháng tuất ngày mậu thìn, bói trai hay gái được quẻ "quy muội", hào hợi tử tôn thuộc dương đang không vong, quả sau sanh con trai nhưng không nuôi. Thường có khi hai hào tử tôn cùng hiện, đều vượng tướng, cũng như các quẻ "đại hữu", "càn", "bác, "đồng nhân" đều là dấu hiệu thai đôi. Hải Để Nhãn nói: cả hai hào vượng tướng hỷ thần trợ giúp, ắt là thai đôi trời ban cho. Âm dương bao nhau là lúc thành thai trai hay gái, hào động biến là công sức mài dũa tu thân, cho nên chấp vào hào tử tôn trước hết là sai. Rời nhà đi ra ngoài mà ở nhà đã sanh, chuyên chú trọng hào tử tôn thuộc âm hay dương, bởi trẻ đã sanh rồi, nên khảo sát hình thể, làm sao mà dùng quẻ bao hay hào động biến được).
Bà mụ tốt hay xấu: quan sát hào ứng cũng như hào tài. Hào không vong, phá thì không có tài năng; hào vượng sanh thì hiệu quả, nhưng cần nên đề phòng hào ứng khắc hào tử tôn, e là người này làm hại con mình; hào ứng khắc hào tài, e sợ làm hại vợ mình, không chỉ bói mà nên quan sát kỹ. Chồng gieo quẻ thì xem hào gián gần hào ứng; tự sản phụ gieo quẻ thì xem hào gián gần hào thế, hoặc là hào năm, cũng không thể khắc hào thê tài, hào tử tôn và không vong, phá.
(Hào thê tài là sản phụ, hào ứng là người để giúp đỡ, bởi kết thúc sanh đẻ (收生: thu sanh) nhằm giúp đỡ vợ con, hào ứng không nên là phụ mẫu hay huynh đệ; khi hỏi về việc sinh nở, nếu như hào gián, hào năm phá, không vong, hay xung khắc hào thê tài, hào tử tôn thì nói là bà mụ phạm điều hung xấu).
Vú nuôi hiền dữ: quan sát hào thê tài cùng với hào ứng. Hào không vong, phá thường bệnh tật; hào sanh vượng thì không có tai hoạ gì, rất kỵ hợp xung, quẻ xung, không thể mớm, cho trẻ bú lâu dài, hào ứng khắc, xung hào tử tôn không tránh khỏi làm hại trẻ con. Quẻ không có hào hợi, hào tý sữa sau sẽ ít hơn làm cho trẻ không đủ thức ăn, không có hợi, tý ở cung khôn, cấn càng nặng thêm hơn. Song hào ứng khắc hào thế thì có ý khó khăn, hào ứng trị quỷ thì có cơ mưu, hào ứng hàm trì thì ưa tửu sắc, hào ứng huyền vũ thì ưa ăn cắp đồ, song quẻ gieo được tốt thì không phải là hại lớn lao. Nhờ người cho bú nên lấy hào tử tôn làm trọng, mừng nó được sanh phù vượng tướng, không nên bị không vong, phá, tuyệt, xung, hào mệnh tuỳ quỷ nhập mộ con chết ở nhà người, quẻ gặp hào quỷ động trẻ ốm bệnh ở bên ngoài nhà, không thể gửi nuôi nhờ. Nhờ nuôi (寄乳: ký nhũ) thì nên hỏi vú nuôi (乳母: nhũ mẫu) có tốt xấu như chọn phương pháp chọn vú nuôi.
(Hỏi vú nuôi thì luận hào thê tài, hào ứng; hỏi gửi nuôi thì trọng hào tử tôn; sữa nhiều hay ít thì cũng đồng nghĩa với hiền dữ.
Nơi sanh có an toàn không: rất kỵ hào quỷ động, hào thê tài, hào tử tôn nên vượng tướng, cả hai không nên bị thương tổn.
(Bói nơi sanh đẻ, chỉ hào dụng vượng, hào quỷ yên ổn thì thiện lành, rất kỵ hào mệnh tuỳ quỷ nhập mộ).
Nếu như sau khi sanh đẻ rồi hỏi có dễ nuôi không, mừng hào tử tôn vượng tướng, đề phòng bệnh tật thì kỵ hào quan quỷ động, cùng với hào mệnh tuỳ quỷ nhập mộ.
(Hào dụng vượng trẻ con có căn cơ, hào quỷ an tĩnh trẻ con không tật bệnh).
Vì không con nối dõi mà cầu tự: chỉ xem hào tử tôn, hào vượng tướng sanh phù sẽ nhanh có, phục tàng an tĩnh sẽ có nhưng chậm, hào không vong, phá, tán, tuyệt thì không có; tuy nhiên không nên có hào thế không vong, chính là thân mình không có khả năng, hỏi hào thê tài, hào ứng không vong, hỏi hào thiếp tài không vong là bản thân vợ, nàng hầu không sanh đẻ. Năm nào có thể có con: thời gian thai, dưỡng, sanh của hào tử tôn là điềm báo trước vậy. Hỏi vợ nào có thể sanh, anh em thuộc cùng một họ, hào tử tôn hiện ở quẻ ngoại lợi sanh ở bên ngoài, hào tử tôn phục ở quẻ nội lợi sanh sản ở trong nhà, hào tử tôn hiện huyền vũ, hàm trì, cũng như chẳng phải vị trí thế ứng, thì ứng với ngoại tình bên ngoài. Bởi con cái nối dõi có hay không có, tuy là có thuyết định mệnh, chỉ có công đức nồng hậu, dồi dào có thể tạo nên mệnh, người gieo quẻ nên khuyến khích.
(Một thương nhân họ Vương ở nước Sở, tuổi bốn mươi mà không có con nối dõi, năm quý mùi tháng mão ngày tân mùi bói cầu tự được quẻ "bĩ" được đoán rằng không con, được khuyên khích làm việc âm công (陰功: âm công - việc làm tốt ở thế gian và được ghi công dưới âm phủ), sau quả nhiên xem nhẹ tiền bạc mà bố thí; đến năm ất dậu đỉnh cách (có lẽ là từ thành ngữ cách cố đỉnh tân - nghĩa là bỏ cũ đổi mới), hết lòng làm việc thiện, tháng hai năm đinh hợi ngày giáp thân lại đến bói quẻ thừa tự sau này được quẻ "tuỵ", hào tử tôn ngộ trường sinh đoán được hai con, người đó hỏi: sao trước đây nói là không có mà bây giờ nói có? Ta nói: chắc rằng ông lập được âm đức, ông ta gật đầu bỏ đi; sau đến nắm tý, năm dần liên tục sanh hai đứa con trai, há chẳng phải là thịnh đức cảm động lòng trời mà báo đền, như bóng theo hình vậy sao? Người học dịch nên khuyến khích người làm việc thiện, nhất là cầu con nối dõi, phương pháp thích hợp để tạo mệnh vậy).
.
#54
Gửi vào 17/12/2025 - 11:22
Dịch Mạo - Quyển Sáu
53- Phủ dưỡng chương
(Qua đây hiểu rõ về các câu hỏi: kế dưỡng, phủ dưỡng, thu dưỡng, đầu dưỡng, nhập kế)
Phủ dưỡng có hai: mình có con mà muốn nuôi dưỡng con của người để thừa kế, rất kỵ tam xung, vì điều này báo hiệu sự thiếu tình cảm bền chặt giữa người lớn và người nhỏ, và sự vi phạm các chuẩn mực đạo đức của người bề trên và người bề dưới; hào mệnh tuỳ quỷ nhập mộ thường là sẽ bệnh tật; hào tử tôn hoại đi đến cái chết. Đây là ba điều không nên tiếp tục vậy.
(Nối dõi là việc gia đình, hào tử tôn vượng là ổn định, quẻ hợp, hào hợp thì hiếu thảo và thương yêu).
Mình không con mà muốn nuôi con của người khác, thì hào tử tôn là hào dụng. Hào này vượng là người có tài cán coi trọng sự tốt đẹp, hào tử tôn sanh mình, khéo nuôi dưỡng người già yếu, hào tam xung thì không thuỷ chung, hào không vong, tán thì không thành tựu, hào mệnh mộ thì có khi chết yểu, đấy là ba điều không thể nhận nuôi vậy. Nhà sư hay đạo sĩ nhận đồ đệ, bạn bè bị cô lập, cũng đồng nghĩa đó.
Còn có người già yếu không chỗ nương tựa, trẻ con yếu đuối không nhà để trở về, phụ nữ đơn chiếc không sinh con, tráng niên nghèo khó vô lại, mình muốn nhận nuôi, đều lấy hào ứng khắc hào thế để phòng bị. Phụ nữ thì dùng hào thê tài, bậc trưởng thượng thì dùng hào phụ mẫu, trẻ con thì dùng hào tử tôn, bà con xa hay họ hàng gần cũng dùng hào ứng, đều chớ nên khắc hào thế, cũng như hào dụng không bị không vong, phá, tán, là tự chìm đắm, mình có cứu giúp cũng không có kết quả. Hào tam xung thì trước keo sơn mà sau không hợp (冰炭: băng thán băng tuyết với than), hào trợ quỷ thương thân sớm mai như đàn cầm đàn sắt ý là thân thiết, hoà hợp, mà sau thì chiến tranh, cho nên phải phòng bị vậy. Hào ứng động lòng thường nam bắc (thường có ý ngao du), hào ứng thối thường có chí bỏ đi, quẻ quy hồn thường tưởng nhớ quê cũ, quẻ du hồn luôn mong chỗ mới.
(Hào ứng khắc hào thế, thì ân thường thành oán, hào dụng bị hoại thì vất vả mà chẳng được gì).
Hào ứng khắc hào thế, và hào quỷ động càng tệ hơn nửa. Huyền vũ quỷ động thì rước lấy trộm cướp, châu tước quỷ động thì đề phòng lầm lỗi, phỉ báng, đằng xà sanh thì lo lắng kéo dài, bạch hổ là điềm báo tai hoạ đến mất mạng, thiên chúc thì có mất mát bởi lửa, hàm trì thì có lòng dâm loạn. Bởi vì hại thì nên tránh, cái có lợi nên theo, chỉ khác biệt ở sanh khắc vậy.
(Hào ứng đới quỷ khắc hào thế, cái hung xấu càng thậm tệ, lại nhìn kỹ nó cùng với thần nào, sao nào tới sanh, tới khắc, như hào quan hào phụ, thanh long, quý nhân tới sanh hào thế, thì giúp mình vẻ vang, hào tài hào phúc sanh hào thế giúp mình được lợi lộc, còn khắc hào thế thì ngược lại, cho dù có thanh long cũng là việc mờ ám gian xảo).
Lại có khi mình nghèo hèn, mồ côi nên bói đến nương nhờ người nuôi dưỡng, hào dụng khắc hào thế mình chớ nên tới bái phỏng, hào tam xung thì không có lòng yêu mến lâu dài, tứ bệnh thì ghét không còn hứng thú, thì không nên theo về.
(Thông thường nói "tứ bệnh" tức là không vong, phá, tán, tuyệt. Gieo quẻ đầu dưỡng (đi làm con nuôi) nên phòng bị ba điều này [Ứng khắc thế, tam xung, tứ bệnh]).
Lại có khi người đó không có con nối dõi, thừa kế, nên thu nhận người để kế thừa, cần phân biệt nghĩa kế (義繼) và lợi kế (利繼). Kế nghĩa: hào thế vượng mình được hưng thịnh, hào thế hoại mình sẽ vào cảnh khốn đốn; kế lợi: hào tài hoại thì không được gì, hào ứng không vong thì không hy vọng. Hào tam xung thì không thân ái, thuận hợp, quẻ du hồn thì hay thay đổi, hào quỷ động thì kiện cáo, tranh cãi. Kế thừa thành tựu giống như lập kế hoạch, kế thừa tranh đấu như tranh giành chỗ trống, là do quẻ xung, hợp xung, hào thế không vong, hào ứng không vong, hào quỷ thất, hào tài thất, thi không thể thành tựu, hào ừng khắc hào thế thì không thể tranh đoạt được vậy.
.
53- Phủ dưỡng chương
(Qua đây hiểu rõ về các câu hỏi: kế dưỡng, phủ dưỡng, thu dưỡng, đầu dưỡng, nhập kế)
Phủ dưỡng có hai: mình có con mà muốn nuôi dưỡng con của người để thừa kế, rất kỵ tam xung, vì điều này báo hiệu sự thiếu tình cảm bền chặt giữa người lớn và người nhỏ, và sự vi phạm các chuẩn mực đạo đức của người bề trên và người bề dưới; hào mệnh tuỳ quỷ nhập mộ thường là sẽ bệnh tật; hào tử tôn hoại đi đến cái chết. Đây là ba điều không nên tiếp tục vậy.
(Nối dõi là việc gia đình, hào tử tôn vượng là ổn định, quẻ hợp, hào hợp thì hiếu thảo và thương yêu).
Mình không con mà muốn nuôi con của người khác, thì hào tử tôn là hào dụng. Hào này vượng là người có tài cán coi trọng sự tốt đẹp, hào tử tôn sanh mình, khéo nuôi dưỡng người già yếu, hào tam xung thì không thuỷ chung, hào không vong, tán thì không thành tựu, hào mệnh mộ thì có khi chết yểu, đấy là ba điều không thể nhận nuôi vậy. Nhà sư hay đạo sĩ nhận đồ đệ, bạn bè bị cô lập, cũng đồng nghĩa đó.
Còn có người già yếu không chỗ nương tựa, trẻ con yếu đuối không nhà để trở về, phụ nữ đơn chiếc không sinh con, tráng niên nghèo khó vô lại, mình muốn nhận nuôi, đều lấy hào ứng khắc hào thế để phòng bị. Phụ nữ thì dùng hào thê tài, bậc trưởng thượng thì dùng hào phụ mẫu, trẻ con thì dùng hào tử tôn, bà con xa hay họ hàng gần cũng dùng hào ứng, đều chớ nên khắc hào thế, cũng như hào dụng không bị không vong, phá, tán, là tự chìm đắm, mình có cứu giúp cũng không có kết quả. Hào tam xung thì trước keo sơn mà sau không hợp (冰炭: băng thán băng tuyết với than), hào trợ quỷ thương thân sớm mai như đàn cầm đàn sắt ý là thân thiết, hoà hợp, mà sau thì chiến tranh, cho nên phải phòng bị vậy. Hào ứng động lòng thường nam bắc (thường có ý ngao du), hào ứng thối thường có chí bỏ đi, quẻ quy hồn thường tưởng nhớ quê cũ, quẻ du hồn luôn mong chỗ mới.
(Hào ứng khắc hào thế, thì ân thường thành oán, hào dụng bị hoại thì vất vả mà chẳng được gì).
Hào ứng khắc hào thế, và hào quỷ động càng tệ hơn nửa. Huyền vũ quỷ động thì rước lấy trộm cướp, châu tước quỷ động thì đề phòng lầm lỗi, phỉ báng, đằng xà sanh thì lo lắng kéo dài, bạch hổ là điềm báo tai hoạ đến mất mạng, thiên chúc thì có mất mát bởi lửa, hàm trì thì có lòng dâm loạn. Bởi vì hại thì nên tránh, cái có lợi nên theo, chỉ khác biệt ở sanh khắc vậy.
(Hào ứng đới quỷ khắc hào thế, cái hung xấu càng thậm tệ, lại nhìn kỹ nó cùng với thần nào, sao nào tới sanh, tới khắc, như hào quan hào phụ, thanh long, quý nhân tới sanh hào thế, thì giúp mình vẻ vang, hào tài hào phúc sanh hào thế giúp mình được lợi lộc, còn khắc hào thế thì ngược lại, cho dù có thanh long cũng là việc mờ ám gian xảo).
Lại có khi mình nghèo hèn, mồ côi nên bói đến nương nhờ người nuôi dưỡng, hào dụng khắc hào thế mình chớ nên tới bái phỏng, hào tam xung thì không có lòng yêu mến lâu dài, tứ bệnh thì ghét không còn hứng thú, thì không nên theo về.
(Thông thường nói "tứ bệnh" tức là không vong, phá, tán, tuyệt. Gieo quẻ đầu dưỡng (đi làm con nuôi) nên phòng bị ba điều này [Ứng khắc thế, tam xung, tứ bệnh]).
Lại có khi người đó không có con nối dõi, thừa kế, nên thu nhận người để kế thừa, cần phân biệt nghĩa kế (義繼) và lợi kế (利繼). Kế nghĩa: hào thế vượng mình được hưng thịnh, hào thế hoại mình sẽ vào cảnh khốn đốn; kế lợi: hào tài hoại thì không được gì, hào ứng không vong thì không hy vọng. Hào tam xung thì không thân ái, thuận hợp, quẻ du hồn thì hay thay đổi, hào quỷ động thì kiện cáo, tranh cãi. Kế thừa thành tựu giống như lập kế hoạch, kế thừa tranh đấu như tranh giành chỗ trống, là do quẻ xung, hợp xung, hào thế không vong, hào ứng không vong, hào quỷ thất, hào tài thất, thi không thể thành tựu, hào ừng khắc hào thế thì không thể tranh đoạt được vậy.
.
#55
Gửi vào Hôm qua, 11:02
Dịch Mạo - Quyển Sáu
54- Đâụ chẩn chương (bệnh đậu mùa)
(Qua đây hiểu rõ sáu câu hỏi về bệnh đậu mùa, tránh xa, đậu lên thưa hay dày, khi nào phát, ai bị).
Bệnh đậu mùa cũng là thiên tai, còn có tên là "thiên hoa" (天花), cũng gọi là "thánh sang" (聖瘡), có thể ảnh hưởng đến tính mạng của trẻ con, làm sao mà dám sao nhãng việc bói hỏi thần?
Chưa có nốt đậu: lấy hào quỷ làm tin tức, bởi quỷ không vong thì gốc rễ chưa nẩy mầm, quỷ an tĩnh điềm triệu hiện tượng chưa khởi, quỷ tán tuy bệnh đang lan truyền nhưng không tới. Hào phá an tĩnh thì lớp vỏ ngoài không nứt ra, hào phá động thì hoặc là bệnh hoặc là đặc thù, hào quỷ tuyệt thì không phát đậu vậy.
(Lấy hào quỷ làm bệnh, hỏi đậu tức là đậu vậy. Nguyệt phá thì không ứng với bệnh đậu, hào quỷ động thì đang có bệnh, có thể là nhọt độc tê cứng, không đúng là bệnh đậu mùa, cho nên mới nói là bệnh đặc thù.
Hào quỷ động thì sắp hiện, hào quỷ xung thì sắp bắt đầu, hào quỷ vượng sắp phát sinh, đang nguyệt kiến, đang nhật kiến thì xãy ra ngay trong tháng hay trong ngày.
(Hào quan quỷ trị nhật hay nguyệt là đang hiện ra, như tháng sửu ngày ất mão gieo quẻ hỏi có nốt đậu không được quẻ "lý" biến "đồng nhân", trong ngày đó thấy dấu hiệu, lại có một người khác cũng gieo được quẻ "lý" biến "khuê", cho đến tháng hai năm tới bắt đầu bệnh, bởi hào mão quỷ động cho nên ứng với nhanh, hào mão quỷ an tĩnh thì ứng với chậm).
Thái tuế là quỷ xem được mất, có hai cách khảo sát hào hư thật.
(Hào quan quỷ trị thái tuế, hoặc là gặp không vong, phá, hưu, tù thì nói là chưa phát, sau cho dù nguyệt nhật cùng hội hợp, cũng không thể nói là có. Như năm kỷ hợi tháng thìn ngày tân mùi gieo quẻ hỏi có bệnh đậu mùa không được quẻ "đồng nhân", hào hợi quỷ tuần không cả năm mạnh khoẻ, thì không thể lấy thái tuế là quỷ nên cho là năm nay bệnh được. Nếu như quẻ có hai hào quỷ, một không một động, thì lấy hào động; còn một hào cường, một hào nhược, thì lấy hào cường, đều là ứng với đang phát xuất, chính là khảo sát tất cả các hào: hào nào hư, hào nào thật).
Hào thế giống như mình truyền bệnh, hào ứng do người gây ra; quẻ nội là tai hoạ ở làng xóm của mình, quẻ ngoại là tai hoạ lưu truyền ở xứ khác. Muốn đi lánh mà bị đậu là do quỷ động ở quẻ du hồn, trở về thì không bị đậu là vì hào quỷ tĩnh ở quẻ quy hồn. Quỷ phục mà có khí lực cũng sẽ hiện.
(Hào quan quỷ động nên "thiên hoa" bắt đầu, ở hào thế thì biểu thị một đợt bùng phát đặc biệt, ở hào ứng thì truyền nhiễm lan tràn, ở hào sáu đồng bộc (僮僕: đồng bộc - đày tớ trẻ nhỏ) bắt đầu khởi bệnh, ở hào ba anh em kế chủng (繼種: kế chủng - tiếp tục lấy bệnh vào cơ thể). Quẻ nội là địa phương mình, quẻ ngoại là xứ khác, quẻ du hồn là đi, quẻ quy hồn là trở về. Bởi vì hào quỷ không vong ở quẻ nội là địa phương mình không có sự việc gì, hào quỷ không vong ở quẻ ngoại có thể đi lanh ở xứ khác; hào quỷ động ở quẻ quy hồn trở về nhà bị bệnh, hào quỷ không vong ở quẻ du hồn, đi ra ngoài có thể tránh được. Thông thường hào quỷ vượng tướng, cho dù nó phục cũng sẽ xãy ra, hào quỷ hưu tù, cho dù hiện ra cũng sẽ dừng lại).
Bói đậu mùa thưa dày, đều bằng hào quỷ vượng suy, dùng bát quái mà phân tay chân, dùng lục hào để xác định thân hình, dùng ngũ hành để biểu hiện dáng mặt, màu sắc: càn là đầu, khôn là bụng, hào năm là ngũ tạng hào hai là bắp chân, hào kim màu trắng, hào hoả màu đỏ có thể phân loại được.
(Bởi vì hào quỷ biểu hiện của bệnh đậu mùa, nếu hào lâm nhật nguyệt, vượng tướng, sinh phù: nốt đậu ắt rậm rạp, nếu như hào bị không vong, phá, hưu, tù, tử, tuyệt: đậu thưa thớt. Phàm hễ hào quỷ động ở cung nào thì xác định nơi mà nốt đậu rậm rạp, nếu như không động xét kỹ hào nào vượng, như hiện ra ở cung cấn thì tay, cánh tay rậm rạp, như động ở cung đoài thì nhiều ở miệng, hai bên má, cung khảm, cung ly thì ở phần trên của thân thể, cung chấn, cung tốn thì ở phần dưới thân thể; vượng ở hào sơ trước tiên có ở chân, vượng ở hào sáu bắt đầu phát ở mặt, hào năm là ngực và lưng, hào hai thì ở đùi, đầu gối, hào ba, hào bốn là eo lưng, bụng. Hào hoả quỷ phát màu sắc tím đỏ, hào kim quỷ động màu sắc trắng nhợt nhạt, hào thuỷ quỷ phát màu sắc đen thẩm, hào mộc thì nhỏ nhặt, lộn xộn, hào thổ thì sưng tấy. Tuy nhiên phải luận dụng thần sanh tử mà sau đó xác định tốt xấu, cho nên hào thuỷ quỷ động mà dụng thần vượng thì đậu hiện màu đen mà sau đó lại hết. Tuy nhiên bệnh đậu mùa có nhiều biến chứng, thí dụ gặp dụng thần phá, không vong, hoặc gặp hào quỷ nào phát động thì biến chứng mà chết, như tháng mùi ngày giáp thìn, gieo quẻ con bệnh đậu mùa được quẻ "truân" biến "cách", đến ngày mậu thân biến chứng bệnh ở lá lách mà không chữa được, còn lại phỏng theo đó).
Như hỏi đậu hiện ở người nào, hào quỷ trị bổn mệnh, hào quỷ hoá quẻ cung cũng ứng. Khảo sát các hào lục thân hoá quỷ, cũng như hào quỷ hoá lục thân, tức là người đó có bệnh đậu vậy. Nhưng cũng phải hào quỷ vượng động mới đúng.
(Trong một gia đình: lấy hào quan quỷ trị bổn mệnh của người nào tức là người đó bệnh đậu mùa. Lại như hào quỷ động ở cung cấn tức là trai trẻ, hào quỷ hoá tượng ly tức là trung nữ, hào tài hoá quỷ tức là nô tỳ, đày tớ, hào quỷ hoá tử tôn tức là trẻ con. Đại khái chuyên bàn luận ở hào quỷ vượng động vậy).
Như hỏi trẻ con khi nào có đậu mùa, thì lấy năm tháng ngày là quan quỷ, cũng như năm tháng ngày mà quan quỷ sanh vượng tức là có đậu mùa. Trên dưới mà hào quỷ điền thật, biến quỷ, phục quỷ mà điền thật là bản chất của nó.
(Bói chia ra xa, gần: hỏi tuổi nào thì dùng năm mà tính, hỏi lúc nào thì lấy tháng mà tính. Đâù tiên thì điền thật, kế thì dùng sanh vượng của năm tháng mà đoán. Nếu như quẻ có hai hào quan quỷ, hoặc một không vong một thật, lại lấy hào quỷ lúc điền thực làm ứng kỳ; quẻ không có hào quan nào, mà có ở hào biến, hay hào phục, thì lấy ứng kỳ theo hào biến, hào phục).
Đậu đã có rồi mới bói tốt xấu: trong vòng bảy ngày cần cẩn thận tam xung, cho là hoa chưa nở đã tàn lụi. Quẻ thuộc phản, phục, mộ, tuyệt cũng như hào mệnh tuỳ quỷ nhập mộ, cho dù hào dụng vượng cũng khó điều trị, ngoài bốn điều kỵ đó thì phải khảo sát dụng thần.
Bởi vì hào quỷ vượng mà hào dụng vượng nốt đậu rậm rạp bền chắc, thì tốt, hào quỷ hoại mà hào dụng cũng hoại, nốt đậu tuy thưa thớt mà gốc rễ khô héo cũng xấu. Ngày mà hào dụng sanh vượng là lúc đã khỏi, đang lúc xung hào quỷ, là có thay đổi hạn kỳ. Đại để mắc bệnh hay không là ở hào quỷ, còn hại hay không là ở hào dụng, hào quỷ hoá quỷ có sẹo sau chứng bệnh, nhiều lần động thì ghẻ và đậu mùa xen vào nhau.
(Đây là chuyên tâm ở hào dụng mà bàn luận tốt xấu, không phục thì luận hào quỷ vượng suy. Nếu như hào dụng được sinh phù, cứu trợ: hào quỷ vượng chẳng qua nốt đậu rậm rạp, hào quỷ điền thật hay xung động chẳng qua là đề phòng biến đổi, hào quỷ hoá quỷ cũng như hào dụng hoá quỷ chẳng qua sau chứng bệnh còn sót lại độc, hào quỷ động hoặc là bệnh khác cùng lúc đã qua, không đến nổi hại lớn)
.
54- Đâụ chẩn chương (bệnh đậu mùa)
(Qua đây hiểu rõ sáu câu hỏi về bệnh đậu mùa, tránh xa, đậu lên thưa hay dày, khi nào phát, ai bị).
Bệnh đậu mùa cũng là thiên tai, còn có tên là "thiên hoa" (天花), cũng gọi là "thánh sang" (聖瘡), có thể ảnh hưởng đến tính mạng của trẻ con, làm sao mà dám sao nhãng việc bói hỏi thần?
Chưa có nốt đậu: lấy hào quỷ làm tin tức, bởi quỷ không vong thì gốc rễ chưa nẩy mầm, quỷ an tĩnh điềm triệu hiện tượng chưa khởi, quỷ tán tuy bệnh đang lan truyền nhưng không tới. Hào phá an tĩnh thì lớp vỏ ngoài không nứt ra, hào phá động thì hoặc là bệnh hoặc là đặc thù, hào quỷ tuyệt thì không phát đậu vậy.
(Lấy hào quỷ làm bệnh, hỏi đậu tức là đậu vậy. Nguyệt phá thì không ứng với bệnh đậu, hào quỷ động thì đang có bệnh, có thể là nhọt độc tê cứng, không đúng là bệnh đậu mùa, cho nên mới nói là bệnh đặc thù.
Hào quỷ động thì sắp hiện, hào quỷ xung thì sắp bắt đầu, hào quỷ vượng sắp phát sinh, đang nguyệt kiến, đang nhật kiến thì xãy ra ngay trong tháng hay trong ngày.
(Hào quan quỷ trị nhật hay nguyệt là đang hiện ra, như tháng sửu ngày ất mão gieo quẻ hỏi có nốt đậu không được quẻ "lý" biến "đồng nhân", trong ngày đó thấy dấu hiệu, lại có một người khác cũng gieo được quẻ "lý" biến "khuê", cho đến tháng hai năm tới bắt đầu bệnh, bởi hào mão quỷ động cho nên ứng với nhanh, hào mão quỷ an tĩnh thì ứng với chậm).
Thái tuế là quỷ xem được mất, có hai cách khảo sát hào hư thật.
(Hào quan quỷ trị thái tuế, hoặc là gặp không vong, phá, hưu, tù thì nói là chưa phát, sau cho dù nguyệt nhật cùng hội hợp, cũng không thể nói là có. Như năm kỷ hợi tháng thìn ngày tân mùi gieo quẻ hỏi có bệnh đậu mùa không được quẻ "đồng nhân", hào hợi quỷ tuần không cả năm mạnh khoẻ, thì không thể lấy thái tuế là quỷ nên cho là năm nay bệnh được. Nếu như quẻ có hai hào quỷ, một không một động, thì lấy hào động; còn một hào cường, một hào nhược, thì lấy hào cường, đều là ứng với đang phát xuất, chính là khảo sát tất cả các hào: hào nào hư, hào nào thật).
Hào thế giống như mình truyền bệnh, hào ứng do người gây ra; quẻ nội là tai hoạ ở làng xóm của mình, quẻ ngoại là tai hoạ lưu truyền ở xứ khác. Muốn đi lánh mà bị đậu là do quỷ động ở quẻ du hồn, trở về thì không bị đậu là vì hào quỷ tĩnh ở quẻ quy hồn. Quỷ phục mà có khí lực cũng sẽ hiện.
(Hào quan quỷ động nên "thiên hoa" bắt đầu, ở hào thế thì biểu thị một đợt bùng phát đặc biệt, ở hào ứng thì truyền nhiễm lan tràn, ở hào sáu đồng bộc (僮僕: đồng bộc - đày tớ trẻ nhỏ) bắt đầu khởi bệnh, ở hào ba anh em kế chủng (繼種: kế chủng - tiếp tục lấy bệnh vào cơ thể). Quẻ nội là địa phương mình, quẻ ngoại là xứ khác, quẻ du hồn là đi, quẻ quy hồn là trở về. Bởi vì hào quỷ không vong ở quẻ nội là địa phương mình không có sự việc gì, hào quỷ không vong ở quẻ ngoại có thể đi lanh ở xứ khác; hào quỷ động ở quẻ quy hồn trở về nhà bị bệnh, hào quỷ không vong ở quẻ du hồn, đi ra ngoài có thể tránh được. Thông thường hào quỷ vượng tướng, cho dù nó phục cũng sẽ xãy ra, hào quỷ hưu tù, cho dù hiện ra cũng sẽ dừng lại).
Bói đậu mùa thưa dày, đều bằng hào quỷ vượng suy, dùng bát quái mà phân tay chân, dùng lục hào để xác định thân hình, dùng ngũ hành để biểu hiện dáng mặt, màu sắc: càn là đầu, khôn là bụng, hào năm là ngũ tạng hào hai là bắp chân, hào kim màu trắng, hào hoả màu đỏ có thể phân loại được.
(Bởi vì hào quỷ biểu hiện của bệnh đậu mùa, nếu hào lâm nhật nguyệt, vượng tướng, sinh phù: nốt đậu ắt rậm rạp, nếu như hào bị không vong, phá, hưu, tù, tử, tuyệt: đậu thưa thớt. Phàm hễ hào quỷ động ở cung nào thì xác định nơi mà nốt đậu rậm rạp, nếu như không động xét kỹ hào nào vượng, như hiện ra ở cung cấn thì tay, cánh tay rậm rạp, như động ở cung đoài thì nhiều ở miệng, hai bên má, cung khảm, cung ly thì ở phần trên của thân thể, cung chấn, cung tốn thì ở phần dưới thân thể; vượng ở hào sơ trước tiên có ở chân, vượng ở hào sáu bắt đầu phát ở mặt, hào năm là ngực và lưng, hào hai thì ở đùi, đầu gối, hào ba, hào bốn là eo lưng, bụng. Hào hoả quỷ phát màu sắc tím đỏ, hào kim quỷ động màu sắc trắng nhợt nhạt, hào thuỷ quỷ phát màu sắc đen thẩm, hào mộc thì nhỏ nhặt, lộn xộn, hào thổ thì sưng tấy. Tuy nhiên phải luận dụng thần sanh tử mà sau đó xác định tốt xấu, cho nên hào thuỷ quỷ động mà dụng thần vượng thì đậu hiện màu đen mà sau đó lại hết. Tuy nhiên bệnh đậu mùa có nhiều biến chứng, thí dụ gặp dụng thần phá, không vong, hoặc gặp hào quỷ nào phát động thì biến chứng mà chết, như tháng mùi ngày giáp thìn, gieo quẻ con bệnh đậu mùa được quẻ "truân" biến "cách", đến ngày mậu thân biến chứng bệnh ở lá lách mà không chữa được, còn lại phỏng theo đó).
Như hỏi đậu hiện ở người nào, hào quỷ trị bổn mệnh, hào quỷ hoá quẻ cung cũng ứng. Khảo sát các hào lục thân hoá quỷ, cũng như hào quỷ hoá lục thân, tức là người đó có bệnh đậu vậy. Nhưng cũng phải hào quỷ vượng động mới đúng.
(Trong một gia đình: lấy hào quan quỷ trị bổn mệnh của người nào tức là người đó bệnh đậu mùa. Lại như hào quỷ động ở cung cấn tức là trai trẻ, hào quỷ hoá tượng ly tức là trung nữ, hào tài hoá quỷ tức là nô tỳ, đày tớ, hào quỷ hoá tử tôn tức là trẻ con. Đại khái chuyên bàn luận ở hào quỷ vượng động vậy).
Như hỏi trẻ con khi nào có đậu mùa, thì lấy năm tháng ngày là quan quỷ, cũng như năm tháng ngày mà quan quỷ sanh vượng tức là có đậu mùa. Trên dưới mà hào quỷ điền thật, biến quỷ, phục quỷ mà điền thật là bản chất của nó.
(Bói chia ra xa, gần: hỏi tuổi nào thì dùng năm mà tính, hỏi lúc nào thì lấy tháng mà tính. Đâù tiên thì điền thật, kế thì dùng sanh vượng của năm tháng mà đoán. Nếu như quẻ có hai hào quan quỷ, hoặc một không vong một thật, lại lấy hào quỷ lúc điền thực làm ứng kỳ; quẻ không có hào quan nào, mà có ở hào biến, hay hào phục, thì lấy ứng kỳ theo hào biến, hào phục).
Đậu đã có rồi mới bói tốt xấu: trong vòng bảy ngày cần cẩn thận tam xung, cho là hoa chưa nở đã tàn lụi. Quẻ thuộc phản, phục, mộ, tuyệt cũng như hào mệnh tuỳ quỷ nhập mộ, cho dù hào dụng vượng cũng khó điều trị, ngoài bốn điều kỵ đó thì phải khảo sát dụng thần.
Bởi vì hào quỷ vượng mà hào dụng vượng nốt đậu rậm rạp bền chắc, thì tốt, hào quỷ hoại mà hào dụng cũng hoại, nốt đậu tuy thưa thớt mà gốc rễ khô héo cũng xấu. Ngày mà hào dụng sanh vượng là lúc đã khỏi, đang lúc xung hào quỷ, là có thay đổi hạn kỳ. Đại để mắc bệnh hay không là ở hào quỷ, còn hại hay không là ở hào dụng, hào quỷ hoá quỷ có sẹo sau chứng bệnh, nhiều lần động thì ghẻ và đậu mùa xen vào nhau.
(Đây là chuyên tâm ở hào dụng mà bàn luận tốt xấu, không phục thì luận hào quỷ vượng suy. Nếu như hào dụng được sinh phù, cứu trợ: hào quỷ vượng chẳng qua nốt đậu rậm rạp, hào quỷ điền thật hay xung động chẳng qua là đề phòng biến đổi, hào quỷ hoá quỷ cũng như hào dụng hoá quỷ chẳng qua sau chứng bệnh còn sót lại độc, hào quỷ động hoặc là bệnh khác cùng lúc đã qua, không đến nổi hại lớn)
.
#56
Gửi vào Hôm nay, 02:10
Dịch Mạo - Quyển Sáu
55- Tật bệnh chương
(Qua đây hiễu rõ bệnh trạng, phòng dịch bệnh, thật giả, thành tật, dưỡng bệnh và tỵ thử (tránh nắng nóng) sáu câu hỏi).
Sống chết có số mệnh, không thể thay đổi, tật bệnh ở con người không thể coi thường, cẩn thận lúc chưa bệnh là đạo của người quân tử. Đã bị bệnh rồi có thể nào điều tễ mà không bói xem nó tốt xấu hay sao? Hào mệnh tuỳ quỷ nhập mộ thì bệnh nan y không thể trị dứt vậy.
(Như tháng tuất ngày giáp thìn gieo quẻ con bệnh sanh năm kỷ hợi, được quẻ "đồng nhân", hào tử tôn trong quẻ vượng tướng, sáu hào an tĩnh ứng với bệnh không thể chết, tuy nhiên chỉ vì mệnh hợi tuỳ quan nhập mộ theo nguyên tắc chủ rất xấu. Về sau không chết vì bệnh đó, mà giữa năm mùi bị chết đuối).
Quẻ phản, phục,mộ, tuyệt cũng khó điều trị, tức là cho dù có chửa trị cũng vẫn bệnh tật. Bệnh chưa lâu, gặp tam xung sẽ khỏi ngay, bệnh đã lâu gặp tam xung thì chết, đây là ba trường hợp không bàn luận theo hào dụng vượng suy. Ngoài ra thì chuyên chú trọng đến hào dụng, như hào dụng gặp động tán, nguyệt phá, khắc không, nhật phá, thụ thương vô viện, thoát khí đều là nguy hiểm, còn hào dụng găp nhật, nguyệt, hào động, hào biến cứu giúp dù nguy hiểm cũng được yên ổn.
(Hào động tán: như tháng mão ngày bính dần gieo quẻ con bệnh được quẻ "tiệm" biến "quán"; hào nguyệt phá: như năm quý mão tháng mão ngày nhâm tý gieo quẻ vợ mình bệnh được quẻ "ly", rốt cục chết ngay trong tháng; hào khắc không: như tháng dậu ngày đinh mùi gieo quẻ cha bệnh được quẻ "vị tế"; hào nhật phá: như tháng tuất ngày tân dậu gieo quẻ chồng bệnh được quẻ "tiệm"; hào thụ thương vô viện: như tháng tý ngày mậu tý gieo quẻ anh em được quẻ "đỉnh" biến "lữ", một người khác gieo được quẻ "ly" đều là thụ thương vô viện; hào thoát khí: như tháng tuất ngày mậu thìn tự gieo quẻ xem bệnh được quẻ "tuỵ" biến "tụng" chính là thoát khí. Trên đây là bảy nguyên tắc liên hệ đến đại hung, chỉ cần được một trong nhật, nguyệt, hào động, hào biến cứu giúp, sẽ ngược lại).
Theo khảo nghiệm bói toán có bốn diệt một (滅沒: diệt một -tiêu diệt) không chết, mười quẻ không chết, quẻ không hào tài, không hào quỷ không chết, thân không vong mệnh không vong không chết, hung sát không chết, nếu như nó chết thì phải là dụng thần tử thì chết, còn dụng thần được sanh thì sống.
(Diệt một (滅沒): là mùa xuân quẻ nhu, quẻ mông; mùa hạ quẻ quán quẻ cổ; mùa thu quẻ bác, quẻ tiết; mùa đông quẻ lữ quẻ lâm. Thập quái: là các quẻ "minh di", "quán", "bí", "đại súc", "phong", "đồng nhân", "cổ", "quải", "nhu", "lâm". Hung sát: là các loại thần sát "tam khâu", "ngũ mộ", "tang xa". Như gieo quẻ cha bệnh tháng sáu được quẻ "quán", làm sao có thể chết? Hào dụng ngồi ở nhật nguyệt, quẻ không có hào tài, hào quỷ làm sao mà xấu được? Bởi vì hào dụng mục nát dù không hào quỷ có cầu cúng cũng không được phúc lành, hào dụng vượng không hào quỷ không cần cầu cúng vẫn mạnh khoẻ; không hào tài mà dụng tuyệt lộc trời đã hết, không hào tài mà hào dụng vượng chỉ là ăn uống ít thôi. Tuần giáp tý nên hợi không vong thì mệnh hợi chớ nên hỏi bệnh, tháng dần phá thân thì người mệnh thân chớ nên gieo quẻ hỏi bệnh tật vậy. Cho nên không phải là cảnh báo, hào thân không vong còn có thể nương tựa vào hào thế, hào quái thân, bổn mệnh không hiện còn có thể tìm lấy hào biến, hào phục. Đại để chuyên chú trọng ở hào dụng mà xác định sống chết, yên ổn hay nguy hiểm mới chân thực là ý tứ của quẻ dịch. Thần sát thì thật là nhẹ).
Thường khảo nghiệm hào thổ quỷ độc phát, mà những người cầu cúng cho bệnh tật gần chết, nếu hào dụng hữu khí thì cầu cúng được hồi sanh, còn hào dụng không có cứu viện thi chỉ đào mộ mà chôn xác chết vậy, quả nhiên điều này có thể tin tưởng được.
(Thiên Nguyên Phú nói: thổ sát đều phát động chắc chắn làm khách ở suối vàng; Bổ Di nói: hào thổ quỷ động thường xấu ít khi tốt, tai hoạ khó giải trừ. Đại để đông nam đất mỏng, phạm thổ rất kỵ, những ai cầu cúng thổ sanh mười phần được sáu hay bảy mà thôi, tây bắc thổ dày, không sợ điều cấm kỵ của đất cho nên cầu cúng chỉ uổng công).
Quẻ du hồn, quẻ quy hồn: che chở, nuôi nấng ở nơi nhà trọ chứ không ở nhà, chấn, tốn, khôn, cấn thì nguy ở người già mà không nguy ở tuổi trẻ, nam nữ giống nhau, đây chẳng phải là câu hỏi thích hợp của thanh niên.
(Du là đi, quy là về, bệnh tật ở nhà trọ, đường đi không kỵ; chấn là quan tài, tốn là quách (để bọc ngoài quan tài), cấn là trủng (mồ mả), không là mộ (mồ mả), cho nên người già yếu rất là kỵ, có chuẩn bị trước càng xấu; quẻ "vị tế", quẻ "quy muội" tuổi thanh niên chẳng thích hợp. Tuy nhiên phải khảo sát cả hào dụng).
Kỵ thần dao động, nguyên thần cũng động nghĩa là nhị sanh; nguyên thần động, cừu thần cũng động nghĩa là lưỡng bệnh (兩病: lưỡng bệnh - cùng lúc có khuyết điểm); kỵ thần và cừu thần cùng động mà nguyên thần ám động là con đường sống; bất kể kỵ thần động mà dụng thần rõ ràng bị hư nát là con đường chết.
(Như tháng mùi ngày bính thân gieo quẻ hỏi mẹ bệnh được quẻ "đồng nhân" biến "phệ hạp", hào thân chính là kỵ thần, vốn tới khắc mão, hào hợi chính là nguyên thần, động tiết khí của kỵ thần mà sanh hào mão mộc dụng thần chính là nhị sanh; tháng mão ngày ất mão gieo quẻ hỏi vợ bệnh được quẻ "đồng nhân" biến "hàm", hào tử tôn động sanh hào tài vốn là nguyên thần trợ giúp mình, hào mão mộc cừu thần khắc hào tuất càng thêm nhiều bệnh tật; như tháng mùi ngày nhâm dần gieo quẻ hỏi chồng bệnh được quẻ "đồng nhân" biến "ký tế" hai hào huynh đệ và tử tôn đều động tổn hại hào quan trầm trọng, dần xung hào thân tài nên ám động sanh hào hợi, sau này khởi bệnh; như tháng mão ngày bính dần gieo quẻ hỏi mạng sống của con (子身: tử thân) được quẻ "khôn" biến "tổn", quẻ có hào phụ mẫu và huynh đệ cùng động, vốn là tới cứu giúp hào tử tôn, nhưng hào dậu kim tử tôn rõ ràng bị tuyệt ở nhật và nguyệt phá cho nên không thể nào cứu được. Các trường hợp khác phỏng theo đó).
Dụng thần của phi hào tuyệt, dụng thần của phục thần sanh chẳng nguy hiểm; hào dụng ở quẻ nội bị tiêu diệt (亡: vong), mà hào dụng ở quẻ ngoại được giữ lại (存: tồn) chẳng nguy hiểm; hào dụng của quẻ hào không có mà nhật nguyệt là dụng thần chẳng nguy hiểm.
(Như tháng dần ngày bính dần gieo quẻ hỏi anh em được quẻ "càn" biến "nhu" hào thân là phi dụng hào (申飛用爻: thân phi dụng hào), bị nhật phá,nguyệt phá, mà không biết dậu phục ở dưới hào tuất hoả sanh thổ nên thổ sanh kim, cho nên nói là không nguy hiểm; như tháng thìn ngày tân mão gieo quẻ hỏi mạng sống của con được quẻ "vị tế", tuy quẻ ngoại hào mùi tuần không, nhưng quẻ nội có hào thìn được nguyệt kiến, sau lành bệnh, khoẻ mạnh; như tháng ngọ ngày mậu dần gieo quẻ hỏi mạng sống của vợ được quẻ "ký tế" tuy trong quẻ không có hào dụng nhưng tháng ngọ ngày dần là nguyên thần và dụng thần nên bệnh lành ngay trong tháng).
Bởi nhật, nguyệt hay hào động khắc hào dụng nghĩa là không thể cứu giải, nhưng mà hào dụng hoá sanh phù thì chẳng nguy hiểm. Nhật, nguyệt hay hào động cùng với hào dụng không sanh không khắc mà hào dụng tự hoá khắc thì nguy hiểm. Cho nên nói là hào dụng luôn được sanh thì sống, còn luôn bị tử thì chết.
(Đây là nói về hào dụng hoá sanh, hoá khắc là phương pháp rất quan trọng, nhưng hào biến cũng không nên bị bệnh, chính là cứu trợ thật sự, như tháng mùi ngày giáp thìn gieo quẻ hỏi sống chết của con được quẻ "hàm" biến "kiển", hào dụng bị nhật nguyệt khắc là đại hung, nhưng mà hào dụng hoá huynh đệ trường sinh chính là không chết; tháng tuất ngày mậu thân gieo quẻ hỏi sống chết của cha được quẻ "cấn" biến "cổ" hào dụng độc phát lẽ ra là sống, chỉ vì hoá tuyệt ở hợi nên hết cứu).
Quẻ không có hào dụng cho rằng báo hiệu điềm xấu, nhưng được nguyên thần động thì không chết vì nó nhắm tới sự sống. Hào kỵ động mà hào dụng phục tàng trái lại là tốt, vì nó tránh không bị khắc, tuy nhiên cũng nên được nhật, nguyệt giải cứu.
(Như tháng dậu ngày mậu thân, gieo quẻ hỏi sống chết của vợ được quẻ "khuê" biến "tổn", quẻ không có hào dụng vốn chẳng phải là điềm tốt, mừng được hào tử tôn phát động đến mùa đông khỏi bệnh, được gọi là nhắm tới sự sống (趨生: xu sanh); như tháng hợi ngày giáp thân cũng gieo quẻ hỏi sống chết của vợ, được quẻ "cấu" biến "thăng", hào kỵ phát động vốn là báo điềm xấu, mừng là hào dụng không xuất hiện, phục tàng dưới hào đắc nguyệt kiến, sau đến tháng tý ngày nhâm thìn bệnh tình dần được hoá giải. Bởi vì thân tý thìn hội cục, kỵ thần hợp với nguyên thần tức là tránh xa được cái khắc chế vậy).
Như hỏi khi nào nguy hiểm có ba cách: đang tháng ngày mà quỷ nghĩ ngơi, bói cho phụ mẫu thì không phải, là một; kỵ thần cừu thần hăm hở, mà hào dụng thì đang ẩn giấu khi thấy hào dụng thì nghĩ ngơi là hai; hào dụng bị nguyệt phá thì nguy trong tháng đó, hào dụng bị nhật phá thì nguy trong ngày đó, hào dụng mất khí thì nguy trong giờ đó, hào dụng mất cứu viện là lúc nguy hiểm là ba vậy.
(Thông thường bệnh gặp nhật nguyệt là quỷ thì đang hung xấu, chỉ có bói cho cha mẹ thì không nói tới, bởi vì quan quỷ là nguyên thần. Kỵ thần và cừu thần đều động, dụng thần ẩn núp, phục tàng tránh được khắc chế, gặp lúc ngày tháng dụng thần, xuất hiện liền bị thương tổn, cho nên đang hung. Nhật phá, nguyệt phá: vượt qua được ngày, tháng thì hết, dụng thần mất khí nghĩa là lúc dụng thần bị khắc, tuyệt, dụng thần mất sự cứu viện nghĩa là lúc nguyên thần bị phá, tán, đều là lúc hung xấu. Như tháng dần ngày canh tý gieo quẻ con bệnh được quẻ "quải" biến "cách", hào dậu kim tuyệt ở tháng dần, tử ở ngày tý, bệnh này khó chữa trị, sau đến ngày nhâm dần bệnh sanh biến chứng, tuyệt ở ngày giáp dần, gọi là giáp dần quỷ độc phát vậy. Tháng tỵ ngày mậu ngọ gieo quẻ con bệnh được quẻ "tiểu quá" biến "đại quá", đến ngày quý hợi thì mất, bởi vì hào hợi bị nguyệt phá càng xấu, nghĩa là kỵ và cừu thần động, hào dụng ẩn nấp cho đến ngày hợi hào dụng xuất hiện liền bị thương tổn, nếu là gieo quẻ này vào tháng thân, qua khỏi ngày hợi và tý, phục thần được trường sinh ở nguyệt, thì bệnh đó có thể giảm. Tháng tý ngày giáp dần, gieo quẻ hỏi sống chết của cha được quẻ "càn" biến "đồng nhân", hào kỵ động nên xấu, ngày kế đổi sang tiết tiểu hàn là tháng sửu nên thổ vượng, đến đầu xuân năm sau mới tuyệt. bởi mộc vượng thì thổ hư, hào dụng mất khí vậy. Tháng tý ngày kỷ mùi gieo quẻ tự thân được quẻ "vị tế" biến "khuê", hào thế bị nguyệt phá, bệnh này khó chửa trị, hào dần động sanh ngọ có vẻ có thể cứu được, nhưng không biết rằng ngày kế canh thân xung tán nguyên thần đến chiều tối thì chết. Đại khái ngày nguyên thần bị phá hoại, hay ngày sanh trợ kỵ thần đều là hạn kỳ hung xấu).
Như hỏi ngày nào ổn định, có sáu cách: hào dụng khốn đốn được sanh thì bệnh an ổn; hào dụng không vong điền thật thì bệnh lành; hào dụng phá, tán qua khỏi ngày tháng phá, tán sẽ được che chở; khai mộ thì bệnh tật thối lui; hào quỷ có chế thì hoạn hoạ tiêu mất; hào dụng xuất hiện thì bệnh khỏi. Đấy là sáu cách, là thời gian bệnh được ổn định.
(Thông thường hào dụng hưu tù bệnh sẽ thối lui ở ngày sanh phù; hào dụng không vong, hãm bệnh sẽ thối lui vào lúc bổ sung chỗ trống; hào dụng phá, tán bệnh sẽ thối lui lúc vượt qua ngày phá, tán; hào dụng mộ bệnh sẽ thối lui ở ngày khai mộ; hào dụng tiềm ẩn bệnh sẽ khỏi lúc xuất hiện; ngày là tử tôn bệnh tật dần dần hồi phục, chỉ bói cho chồng, cho quan thì không luận. Đại để ngày là tử tôn nên thuốc men chửa trị công hiệu, mà cầu cúng thì ứng nghiệm, còn thời gian là quan quỷ thì tai hoạ, hoạn nạn biến đổi đến thần cũng phải khốn đốn).
Bói tật bệnh của chính mình hào thế chính là dụng thần: tuỳ quỷ nhập mộ, trợ quỷ thương thân, mộ, tuyệt, phản, phục cho dù hào thế vượng mà gặp một trong những điều này cũng thành hung xấu; bói tật bệnh cho người, hào ứng chính là dụng thần: dù được sanh mà không nên gặp tuỳ quỷ nhập mộ, phản, phục, mộ, tuyệt.
Phương pháp của dụng thần: người chủ tuy còn nhỏ mà vẫn phải dùng hào phụ mẫu, người nô bộc dù lớn tuổi vẫn dùng hào thê tài; họ hàng gia tộc tuy có năm bậc (五服:ngũ phục) nhưng dùng tôn ti; họ ngoại tuy có ba nhóm (三黨: tam đảng) nhưng mà dùng lễ đối đáp với khách; làm quan tuy kín đáo mà dùng hào quan; thầy giáo tuy không thân mà dùng hào phụ.
(Họ tộc (宗姓 tông tính) năm bậc dù xa, gọi là chú thì dùng hào phụ mẫu, gọi là cháu thì dùng hào tử tôn; họ bên ngoại có ba nhóm tuy gần nhưng khi bói phải dùng hào ứng làm dụng, chỉ cha mẹ vợ, cha mẹ chồng thì phải dùng hào phụ mẫu; thông thường bói hiện nhiệm (người đang làm quan) tuy thân thiết mà không dùng hào ứng mà dùng hào quan; thường bói cho thấy giáo dạy dỗ tuy không phải thân thích mà không dùng hào ứng mà dùng hào phụ mẫu).
Bói cho phụ nữ: ngoại trừ cô, dì, chị em, đều xem xét giống nhau hào dụng là thê tài; bói cho cùng lứa, cùng vai vế ngoại trừ anh em cùng tổ tiên, đều là gốc khác cho nên dùng hào ứng.
(Thông thường có nhiều cách gọi phụ nữ: cô, dì là bà con gần gũi cũng xem hào phụ mẫu; chị em gái cùng ông bà đều dùng hào huynh đệ để xem xét, ngoại trừ những điều này đều dùng hào thê tài, gọi là anh em mà không cùng họ hàng tức là không cùng gốc gác đều xem hào ứng vậy).
Bề tôi bói cho vua dụng thần là hào năm dương, bề tôi là người cùng họ hàng dụng thần thay cho người đại diện vua (代君而用: đại quân chi dụng); vua bói bầy tôi dụng thần là hào ứng vì là người giúp vua. Ở người lính canh giữ cung điện thì dụng thần là hào thê tài, tướng quân bói cho binh sĩ của mình thì dụng thần là hào tử tôn, lý do nó chế hào quan quỷ, ở tình thầy trò thì dụng thần là hào tử tôn. Phương pháp chọn dụng thần mà những người bói toán thường sai lầm, không thể không tường tận lời nói của thánh hiền.
(Thông thường bề tôi gieo quẻ cho vua, không phân biệt quý nhân, thân thích, khác họ, dân thường đều lấy hào năm dương làm dụng thần; quan chức cùng họ hàng gieo quẻ cho chúa của mình thì phải thuận theo lớn nhỏ trong triều đình làm hào dụng, như bề tôi của thái tử gieo quẻ cho thái tử vì là vua tương lai của triều đình nên dụng thần là tử tôn, bề tôi là anh em vua gieo quẻ cho anh em vua thì theo chi diệp của triều đình (朝廷枝葉: triều đình chi diệp) dụng thần là hào huynh đệ, bề tôi thái hậu gieo quẻ cho thái hậu lấy theo triều đình bói quẻ dụng thần là hào phụ mẫu, còn lại phỏng theo đó. Bói quốc gia chọn dụng thần thường có vài sai lầm cho đến tốt xấu không ứng nghiệm, cho nên phải hiểu rõ, các việc khác cũng suy xét như thế).
Hào quỷ: là nguồn gốc của bệnh tật, giống như là ma ám, vì thế hào quỷ vượng thì nặng, hào quỷ suy thì nhẹ, hào quỷ động thì thường hay biến đổi, hào quỷ hợp thì tai hoạ hay bệnh truyền nhiễm kéo dài triền miên, hào quỷ tán thì bệnh nặng sắp khỏi, hào quỷ không vong thì bệnh không thật.
Nhật phá, nguyệt phá: phân thành một nửa hoàn chỉnh; ở quẻ nội, ở quẻ ngoại: phân bệnh ở trong hay ở ngoài, ở hào biến, ở hào phục phân biệt bệnh mới với bệnh cũ.
(Ý nghĩa là khi hỏi có bệnh không thì bệnh một nửa, hỏi không có thì bệnh khỏi phân nửa, ở quẻ nội là bệnh ở trong, ở quẻ ngoại là bệnh ở ngoài, hào biến là bệnh mới, hào phục là bệnh cũ).
Chuyển động ở sáu hào để phân chia toàn thân thể, dao động ở tám cung để phân biệt bốn thân thể (四體: tứ thể), thuộc về ngũ hành để phân biệt ngũ tạng, hiện ở lục thần để phân biệt thất tình.
(Cơ bản bói mai rùa: quỷ ở hào sơ hai chân bị thương tổn, ở hào hai đùi bị bệnh tật đột ngột, hào ba đùi vế, eo lưng yếu ớt, hào bốn bụng tim cùng với ngực, hào năm là tạng phủ cai quản yết hầu, hào sáu là trên đầu có vấn đề. Hoàng Kim Sách: càn là đầu mà khôn là bụng, tốn là eo mà chấn là chân, đoài là miệng mà cấn là vai, khảm là tai mà ly là mắt. Hải Để Nhãn: cuống họng bệnh kim mà mộc là tay chân, gió độc đau nhức thân thể bắt đầu vàng úa, thìn tuất bao tử, ngực sanh ra ói mửa, sửu là bụng và dạ dày, sửu là lá lách, hoả động nên nóng miệng trên của dạ dày ho, máu tanh, cặp mắt cùng với nhọt độc, thuỷ quỷ phát hàn nguyên nhân lạnh, thổ tả mệt mỏi, tai, thận suy. Có khi hoả quỷ là bệnh tim, ruột non, mạng sống, tam tiêu, thuỷ quỷ bệnh ở thận, bàng quang, kim quỷ bệnh ở phổi, ruột già, mộc quỷ bệnh ở gan mật, thổ quỷ bệnh ở lá lách, dạ dày. Giải nói: bạch hổ chết vì vũ khí, đau thương như tang mẹ, thanh long tham rượu và sắc ưa phong lưu, ưu sầu lo nghĩ ở huyền vũ, gặp câu trận nên mang thai, châu tước động tức giận, lo lắng, kinh hoàng hoảng loạn với đằng xà).
Xãy ra ở hào thế là bệnh do mình, xãy ra ở hào ứng là bệnh do người, xãy ra ở hào gián là bệnh ở bên trong. Phục quỷ ở thần nào là duyên cớ của sự việc gì sanh bệnh, thần nào hoá quỷ là nguyên nhân của sự việc báo trước bệnh. Vì hào phụ mẫu là vất vả, cực nhọc, hào thê tài là ăn uống, hào tử tôn là đắm chìm thú vui, hào huynh đệ là tức giận, hào quan quỷ là tà yêu vậy.
Lúc đầu bói toán là để phòng ngừa bệnh tật, hào dụng hư nát thì bệnh bắt đầu, hào quỷ phát động thì sanh bệnh. Tai hoạ theo mùa, chuyên dùng hào quỷ, phát động thì dịch bệnh quấy nhiểu trong gia đình, chỉ xem xét mà chờ đợi. Mệnh nào phạm quỷ, lday69 là tai hoạ từ trời, thần nào hoá quỷ là đây là việc làm của con người, hào quỷ hoá người nào là tai nạn lây lan. Tuỳ quỷ nhập mộ, trợ quỷ thương thân rất xấu nên ghê sợ.
Bệnh bắt đầu từ đâu, bởi tốt xấu gây ra ở hào động, quỷ theo hào động bèn khảo sát hào quỷ đó bởi vì quỷ là tai hoạ; hào quỷ độc phát bèn khảo sát hào quan đó, bởi vì hào độc phát thì chú ý hết sức vào một việc. Quẻ tượng an tĩnh thì quan sát bên ngoài nó, bởi vì tai hoạ do bên ngoài nhập vào; quẻ không có hào quỷ thì quan sát hào phi của phục quỷ.
(Hào động là nơi bắt đầu bệnh, như hào mão quẻ ly động bệnh đến từ phương đông; nếu như hào quỷ cùng với hào động thì phải lấy hào quỷ làm phương bắt đầu bệnh, như hào hợi và hào mão quẻ ly đều động bệnh đến từ phương tây bắc. Nếu như chỉ hào quỷ động thì nó động ở cung nào tức là phương mà hoạ mang đến, như chỉ hào hợi quẻ ly động, bệnh bắt đầu ở phương nam. Nếu như sáu hào đều an tĩnh, nên khảo sát quẻ ngoại, như tượng quẻ ly an tĩnh, thì bệnh lan truyền từ đất phương nam. Chỉ khi quẻ không có hào quan quỷ thì lấy hào phi ở trên hào quỷ phục làm phương hướng, như Bổ Di bàn luận: quẻ "gia nhân" nguyên nhân bị nạn ở tây bắc có thể quẻ có hào quan, mà nhiều hào động thì đầu tiên chọn hào kỵ thần làm phương hướng, không có hào kỵ thần thì khảo sát quẻ ngoại).
Do đó hào quỷ động ở càn đoài, là hoạ từ chùa chiền, đền miếu; hào quan động ở cấn khôn là hoạ từ gò đống, mồ mả; khảm ly là nam bắc, chấn tốn là khu đất trồng cây cỏ; hào mộc quỷ nguyên nhân chặt đốn, hào kim quỷ sợ hãi đao binh, hào thổ quỷ hoạ hại ở nơi khai khẩn, mở mang, hào thuỷ là sông nước còn hoả là đô thị; huyền vũ do rượu và sắc, gió độc và khí độc, thanh long là ca hát nhảy múa, châu tước là đấu tranh, tức giận, bạch hổ là khóc lóc tang thương, đằng xà do kinh hãi xãy ra, còn câu trận là tự té ngã.
(Như tháng mùi ngày quý mão, gieo quẻ bệnh sống chết được quẻ "càn" biến "tiểu súc", hào thế vượng, nhật khắc chỉ là khó khỏi nhưng không chết; hào quỷ phát động ở cung càn, người đó vào chợ bái kiến người thân mà không gặp, trên đường thấy các nhà sư nói chuyện, chỗ dốc đứng gặp ngựa húc dẫm lên đùi vế mà thành bệnh, bởi càn là sư, câu trận là té ngã, hào ngọ quan là ngựa, nếu như ở chùa chiền thì không đúng như thế. Như tháng dần ngày đinh mão, tự mình gieo quẻ bệnh được quẻ "tiết" biến "lâm", hào thế được trường sanh, tháng mão bệnh khỏi; hào quỷ huyền vũ động ở cung khảm, người này bắt cá mà bị bệnh, nếu như nói khảm là sông nước thì không đúng vậy. Tháng dậu ngày kỷ dậu gieo quẻ cha bệnh được quẻ "quy muội" biến "giải", hào quỷ độc phát là nguyên thần của hào phụ mẫu ngày hợi sẽ khỏi; mà hào hoả quỷ đằng xà, ở hội trường nghe tiếng nổ giật mình mà sanh bệnh. Nếu nói hào hoả quỷ là đô thị, càn đoài là chùa chiền, đền miếu thì không đúng vậy. Cùng ngày đó có người gieo quẻ con bệnh cũng được quẻ "quy muội" mà biến "sư", hào tử tôn phục, được nhật nguyệt sanh, tuy là nguy cấp nhưng không chết, đến mùa đông khỏi bệnh; hai hào quỷ tỵ ngọ đều động, hào quỷ ở trên (hào bốn) có thanh long, hàm trì, nên bệnh do tửu sắc mà ra, nếu như nói chấn tốn là nơi trồng cây cỏ thì cũng không đúng , Chớ nên chấp nhất mà chỉ dùng lý lẽ thích hợp cũng như tâm địa khéo léo mà suy xét).
Có khi hỏi chứng bệnh phát tác có phải thật không, nếu hào quỷ thật thì đúng vậy, còn hào quỷ hư thì không phải. Có khi lo lắng bói quẻ nó có thành bệnh không, tuỳ quỷ nhập mộ, hay trợ quỷ thương thân đã thành bệnh rồi; dụng thần nếu mà bị phá hỏng, bệnh của nó có thể chữa trị không? Người bói ra ngoài dưỡng bệnh gặp tuỳ quỷ nhập mộ hay trợ quỷ thương thân, hay hào thế bị tổn thất hay hào quỷ động thì không nên. Người đi nghĩ mát cũng xem giống như vậy.
(Hào quan quỷ không vong, phá, tán, tuyệt tức là hư, hào vượng tướng sanh phù tức là thật, hào dụng mà không vong, tuyệt, tán thì thành bệnh, hào vượng tướng sanh phù thì không thành bệnh).
Cho nên hào quỷ động là nguốn gốc của bệnh, hào phúc động thì tránh xa tai hoạ, phúc thần nên theo, hoạ thần nên tránh. Vì thế phát động ở cung khảm chớ nên tham ăn uống, nhậu nhẹt, phát động ở cung đoài chớ nên si mê sắc đẹp, cung chấn thì kỵ ngồi thuyền, cung tốn thì kỵ vào hoa viên, cung càn không nên yêu thích chùa chiền, cung cấn không nên yêu thích ở chốn núi non, cung khôn chớ ăn thịt trâu, cung ly không nên ham thích thịt cá nướng.
(Nếu như hào tử tôn phát động ở cung nào thì đó là xứ có phúc lợi khác với phần nói trên. Cung càn thì lợi ở chùa chiền, cung khôn thì lợi ở ruộng đồng, cung khảm thích hợp sông biển, cung càn thích hợp núi đồi, cung ly thú vui văn chương, cung đoài là rượu, cung chấn là thuyền xe cung tốn là vườn tược).
Giống như có khi gieo quẻ cha bệnh mà hào quỷ động ở cung khôn mà bà mẹ cũng bị bệnh, gieo quẻ con trai bệnh mà hào quỷ hoá ở cung tốn thì con gái bệnh tiếp theo, hào biến quỷ cũng như vậy. Bởi vậy điều lệ của tật bệnh là không xa rời ở áp dụng hào quỷ.
(Cung nào hào quỷ động, cùng với hào quỷ biến ở cung nào, thì khuyên rằng người đó nên đề phòng tật bệnh, tai hoạ. Như tháng dần ngày tân dậu, gieo quẻ mạng sống con gái được quẻ "tốn" biến "hoán", hào tử tôn được trường sanh con gái không chết; tuy nhiên hào quỷ động hoá nhập cung khảm, trong tuần giáp dần khảm không vong nên con trai giữa bị bệnh tiếp theo, cho đến tuần giáp thân hào hoá ngọ tử tôn không vomg con trai giữa chết; tháng mão ngày bính thìn gieo quẻ con gái thứ bị bệnh đậu mùa được quẻ "cách" biến "hàm" hào mão tử tôn đắc nguyệt kiến, nên con gái thứ không có chuyện gì; tuy nhiên quẻ nội hoá cấn, hào bính thìn quan quỷ ở cung cấn là con trai nhỏ, nên sau đó con trai nhỏ cũng bị đậu mùa. Bởi vì gieo quẻ hỏi tật bệnh, sống chết nương vào hào dụng, then chốt của xu tỵ, biến đổi, cứu trị điều liên quan đến hào quỷ, nên phải quan sát kỹ càng).
.
55- Tật bệnh chương
(Qua đây hiễu rõ bệnh trạng, phòng dịch bệnh, thật giả, thành tật, dưỡng bệnh và tỵ thử (tránh nắng nóng) sáu câu hỏi).
Sống chết có số mệnh, không thể thay đổi, tật bệnh ở con người không thể coi thường, cẩn thận lúc chưa bệnh là đạo của người quân tử. Đã bị bệnh rồi có thể nào điều tễ mà không bói xem nó tốt xấu hay sao? Hào mệnh tuỳ quỷ nhập mộ thì bệnh nan y không thể trị dứt vậy.
(Như tháng tuất ngày giáp thìn gieo quẻ con bệnh sanh năm kỷ hợi, được quẻ "đồng nhân", hào tử tôn trong quẻ vượng tướng, sáu hào an tĩnh ứng với bệnh không thể chết, tuy nhiên chỉ vì mệnh hợi tuỳ quan nhập mộ theo nguyên tắc chủ rất xấu. Về sau không chết vì bệnh đó, mà giữa năm mùi bị chết đuối).
Quẻ phản, phục,mộ, tuyệt cũng khó điều trị, tức là cho dù có chửa trị cũng vẫn bệnh tật. Bệnh chưa lâu, gặp tam xung sẽ khỏi ngay, bệnh đã lâu gặp tam xung thì chết, đây là ba trường hợp không bàn luận theo hào dụng vượng suy. Ngoài ra thì chuyên chú trọng đến hào dụng, như hào dụng gặp động tán, nguyệt phá, khắc không, nhật phá, thụ thương vô viện, thoát khí đều là nguy hiểm, còn hào dụng găp nhật, nguyệt, hào động, hào biến cứu giúp dù nguy hiểm cũng được yên ổn.
(Hào động tán: như tháng mão ngày bính dần gieo quẻ con bệnh được quẻ "tiệm" biến "quán"; hào nguyệt phá: như năm quý mão tháng mão ngày nhâm tý gieo quẻ vợ mình bệnh được quẻ "ly", rốt cục chết ngay trong tháng; hào khắc không: như tháng dậu ngày đinh mùi gieo quẻ cha bệnh được quẻ "vị tế"; hào nhật phá: như tháng tuất ngày tân dậu gieo quẻ chồng bệnh được quẻ "tiệm"; hào thụ thương vô viện: như tháng tý ngày mậu tý gieo quẻ anh em được quẻ "đỉnh" biến "lữ", một người khác gieo được quẻ "ly" đều là thụ thương vô viện; hào thoát khí: như tháng tuất ngày mậu thìn tự gieo quẻ xem bệnh được quẻ "tuỵ" biến "tụng" chính là thoát khí. Trên đây là bảy nguyên tắc liên hệ đến đại hung, chỉ cần được một trong nhật, nguyệt, hào động, hào biến cứu giúp, sẽ ngược lại).
Theo khảo nghiệm bói toán có bốn diệt một (滅沒: diệt một -tiêu diệt) không chết, mười quẻ không chết, quẻ không hào tài, không hào quỷ không chết, thân không vong mệnh không vong không chết, hung sát không chết, nếu như nó chết thì phải là dụng thần tử thì chết, còn dụng thần được sanh thì sống.
(Diệt một (滅沒): là mùa xuân quẻ nhu, quẻ mông; mùa hạ quẻ quán quẻ cổ; mùa thu quẻ bác, quẻ tiết; mùa đông quẻ lữ quẻ lâm. Thập quái: là các quẻ "minh di", "quán", "bí", "đại súc", "phong", "đồng nhân", "cổ", "quải", "nhu", "lâm". Hung sát: là các loại thần sát "tam khâu", "ngũ mộ", "tang xa". Như gieo quẻ cha bệnh tháng sáu được quẻ "quán", làm sao có thể chết? Hào dụng ngồi ở nhật nguyệt, quẻ không có hào tài, hào quỷ làm sao mà xấu được? Bởi vì hào dụng mục nát dù không hào quỷ có cầu cúng cũng không được phúc lành, hào dụng vượng không hào quỷ không cần cầu cúng vẫn mạnh khoẻ; không hào tài mà dụng tuyệt lộc trời đã hết, không hào tài mà hào dụng vượng chỉ là ăn uống ít thôi. Tuần giáp tý nên hợi không vong thì mệnh hợi chớ nên hỏi bệnh, tháng dần phá thân thì người mệnh thân chớ nên gieo quẻ hỏi bệnh tật vậy. Cho nên không phải là cảnh báo, hào thân không vong còn có thể nương tựa vào hào thế, hào quái thân, bổn mệnh không hiện còn có thể tìm lấy hào biến, hào phục. Đại để chuyên chú trọng ở hào dụng mà xác định sống chết, yên ổn hay nguy hiểm mới chân thực là ý tứ của quẻ dịch. Thần sát thì thật là nhẹ).
Thường khảo nghiệm hào thổ quỷ độc phát, mà những người cầu cúng cho bệnh tật gần chết, nếu hào dụng hữu khí thì cầu cúng được hồi sanh, còn hào dụng không có cứu viện thi chỉ đào mộ mà chôn xác chết vậy, quả nhiên điều này có thể tin tưởng được.
(Thiên Nguyên Phú nói: thổ sát đều phát động chắc chắn làm khách ở suối vàng; Bổ Di nói: hào thổ quỷ động thường xấu ít khi tốt, tai hoạ khó giải trừ. Đại để đông nam đất mỏng, phạm thổ rất kỵ, những ai cầu cúng thổ sanh mười phần được sáu hay bảy mà thôi, tây bắc thổ dày, không sợ điều cấm kỵ của đất cho nên cầu cúng chỉ uổng công).
Quẻ du hồn, quẻ quy hồn: che chở, nuôi nấng ở nơi nhà trọ chứ không ở nhà, chấn, tốn, khôn, cấn thì nguy ở người già mà không nguy ở tuổi trẻ, nam nữ giống nhau, đây chẳng phải là câu hỏi thích hợp của thanh niên.
(Du là đi, quy là về, bệnh tật ở nhà trọ, đường đi không kỵ; chấn là quan tài, tốn là quách (để bọc ngoài quan tài), cấn là trủng (mồ mả), không là mộ (mồ mả), cho nên người già yếu rất là kỵ, có chuẩn bị trước càng xấu; quẻ "vị tế", quẻ "quy muội" tuổi thanh niên chẳng thích hợp. Tuy nhiên phải khảo sát cả hào dụng).
Kỵ thần dao động, nguyên thần cũng động nghĩa là nhị sanh; nguyên thần động, cừu thần cũng động nghĩa là lưỡng bệnh (兩病: lưỡng bệnh - cùng lúc có khuyết điểm); kỵ thần và cừu thần cùng động mà nguyên thần ám động là con đường sống; bất kể kỵ thần động mà dụng thần rõ ràng bị hư nát là con đường chết.
(Như tháng mùi ngày bính thân gieo quẻ hỏi mẹ bệnh được quẻ "đồng nhân" biến "phệ hạp", hào thân chính là kỵ thần, vốn tới khắc mão, hào hợi chính là nguyên thần, động tiết khí của kỵ thần mà sanh hào mão mộc dụng thần chính là nhị sanh; tháng mão ngày ất mão gieo quẻ hỏi vợ bệnh được quẻ "đồng nhân" biến "hàm", hào tử tôn động sanh hào tài vốn là nguyên thần trợ giúp mình, hào mão mộc cừu thần khắc hào tuất càng thêm nhiều bệnh tật; như tháng mùi ngày nhâm dần gieo quẻ hỏi chồng bệnh được quẻ "đồng nhân" biến "ký tế" hai hào huynh đệ và tử tôn đều động tổn hại hào quan trầm trọng, dần xung hào thân tài nên ám động sanh hào hợi, sau này khởi bệnh; như tháng mão ngày bính dần gieo quẻ hỏi mạng sống của con (子身: tử thân) được quẻ "khôn" biến "tổn", quẻ có hào phụ mẫu và huynh đệ cùng động, vốn là tới cứu giúp hào tử tôn, nhưng hào dậu kim tử tôn rõ ràng bị tuyệt ở nhật và nguyệt phá cho nên không thể nào cứu được. Các trường hợp khác phỏng theo đó).
Dụng thần của phi hào tuyệt, dụng thần của phục thần sanh chẳng nguy hiểm; hào dụng ở quẻ nội bị tiêu diệt (亡: vong), mà hào dụng ở quẻ ngoại được giữ lại (存: tồn) chẳng nguy hiểm; hào dụng của quẻ hào không có mà nhật nguyệt là dụng thần chẳng nguy hiểm.
(Như tháng dần ngày bính dần gieo quẻ hỏi anh em được quẻ "càn" biến "nhu" hào thân là phi dụng hào (申飛用爻: thân phi dụng hào), bị nhật phá,nguyệt phá, mà không biết dậu phục ở dưới hào tuất hoả sanh thổ nên thổ sanh kim, cho nên nói là không nguy hiểm; như tháng thìn ngày tân mão gieo quẻ hỏi mạng sống của con được quẻ "vị tế", tuy quẻ ngoại hào mùi tuần không, nhưng quẻ nội có hào thìn được nguyệt kiến, sau lành bệnh, khoẻ mạnh; như tháng ngọ ngày mậu dần gieo quẻ hỏi mạng sống của vợ được quẻ "ký tế" tuy trong quẻ không có hào dụng nhưng tháng ngọ ngày dần là nguyên thần và dụng thần nên bệnh lành ngay trong tháng).
Bởi nhật, nguyệt hay hào động khắc hào dụng nghĩa là không thể cứu giải, nhưng mà hào dụng hoá sanh phù thì chẳng nguy hiểm. Nhật, nguyệt hay hào động cùng với hào dụng không sanh không khắc mà hào dụng tự hoá khắc thì nguy hiểm. Cho nên nói là hào dụng luôn được sanh thì sống, còn luôn bị tử thì chết.
(Đây là nói về hào dụng hoá sanh, hoá khắc là phương pháp rất quan trọng, nhưng hào biến cũng không nên bị bệnh, chính là cứu trợ thật sự, như tháng mùi ngày giáp thìn gieo quẻ hỏi sống chết của con được quẻ "hàm" biến "kiển", hào dụng bị nhật nguyệt khắc là đại hung, nhưng mà hào dụng hoá huynh đệ trường sinh chính là không chết; tháng tuất ngày mậu thân gieo quẻ hỏi sống chết của cha được quẻ "cấn" biến "cổ" hào dụng độc phát lẽ ra là sống, chỉ vì hoá tuyệt ở hợi nên hết cứu).
Quẻ không có hào dụng cho rằng báo hiệu điềm xấu, nhưng được nguyên thần động thì không chết vì nó nhắm tới sự sống. Hào kỵ động mà hào dụng phục tàng trái lại là tốt, vì nó tránh không bị khắc, tuy nhiên cũng nên được nhật, nguyệt giải cứu.
(Như tháng dậu ngày mậu thân, gieo quẻ hỏi sống chết của vợ được quẻ "khuê" biến "tổn", quẻ không có hào dụng vốn chẳng phải là điềm tốt, mừng được hào tử tôn phát động đến mùa đông khỏi bệnh, được gọi là nhắm tới sự sống (趨生: xu sanh); như tháng hợi ngày giáp thân cũng gieo quẻ hỏi sống chết của vợ, được quẻ "cấu" biến "thăng", hào kỵ phát động vốn là báo điềm xấu, mừng là hào dụng không xuất hiện, phục tàng dưới hào đắc nguyệt kiến, sau đến tháng tý ngày nhâm thìn bệnh tình dần được hoá giải. Bởi vì thân tý thìn hội cục, kỵ thần hợp với nguyên thần tức là tránh xa được cái khắc chế vậy).
Như hỏi khi nào nguy hiểm có ba cách: đang tháng ngày mà quỷ nghĩ ngơi, bói cho phụ mẫu thì không phải, là một; kỵ thần cừu thần hăm hở, mà hào dụng thì đang ẩn giấu khi thấy hào dụng thì nghĩ ngơi là hai; hào dụng bị nguyệt phá thì nguy trong tháng đó, hào dụng bị nhật phá thì nguy trong ngày đó, hào dụng mất khí thì nguy trong giờ đó, hào dụng mất cứu viện là lúc nguy hiểm là ba vậy.
(Thông thường bệnh gặp nhật nguyệt là quỷ thì đang hung xấu, chỉ có bói cho cha mẹ thì không nói tới, bởi vì quan quỷ là nguyên thần. Kỵ thần và cừu thần đều động, dụng thần ẩn núp, phục tàng tránh được khắc chế, gặp lúc ngày tháng dụng thần, xuất hiện liền bị thương tổn, cho nên đang hung. Nhật phá, nguyệt phá: vượt qua được ngày, tháng thì hết, dụng thần mất khí nghĩa là lúc dụng thần bị khắc, tuyệt, dụng thần mất sự cứu viện nghĩa là lúc nguyên thần bị phá, tán, đều là lúc hung xấu. Như tháng dần ngày canh tý gieo quẻ con bệnh được quẻ "quải" biến "cách", hào dậu kim tuyệt ở tháng dần, tử ở ngày tý, bệnh này khó chữa trị, sau đến ngày nhâm dần bệnh sanh biến chứng, tuyệt ở ngày giáp dần, gọi là giáp dần quỷ độc phát vậy. Tháng tỵ ngày mậu ngọ gieo quẻ con bệnh được quẻ "tiểu quá" biến "đại quá", đến ngày quý hợi thì mất, bởi vì hào hợi bị nguyệt phá càng xấu, nghĩa là kỵ và cừu thần động, hào dụng ẩn nấp cho đến ngày hợi hào dụng xuất hiện liền bị thương tổn, nếu là gieo quẻ này vào tháng thân, qua khỏi ngày hợi và tý, phục thần được trường sinh ở nguyệt, thì bệnh đó có thể giảm. Tháng tý ngày giáp dần, gieo quẻ hỏi sống chết của cha được quẻ "càn" biến "đồng nhân", hào kỵ động nên xấu, ngày kế đổi sang tiết tiểu hàn là tháng sửu nên thổ vượng, đến đầu xuân năm sau mới tuyệt. bởi mộc vượng thì thổ hư, hào dụng mất khí vậy. Tháng tý ngày kỷ mùi gieo quẻ tự thân được quẻ "vị tế" biến "khuê", hào thế bị nguyệt phá, bệnh này khó chửa trị, hào dần động sanh ngọ có vẻ có thể cứu được, nhưng không biết rằng ngày kế canh thân xung tán nguyên thần đến chiều tối thì chết. Đại khái ngày nguyên thần bị phá hoại, hay ngày sanh trợ kỵ thần đều là hạn kỳ hung xấu).
Như hỏi ngày nào ổn định, có sáu cách: hào dụng khốn đốn được sanh thì bệnh an ổn; hào dụng không vong điền thật thì bệnh lành; hào dụng phá, tán qua khỏi ngày tháng phá, tán sẽ được che chở; khai mộ thì bệnh tật thối lui; hào quỷ có chế thì hoạn hoạ tiêu mất; hào dụng xuất hiện thì bệnh khỏi. Đấy là sáu cách, là thời gian bệnh được ổn định.
(Thông thường hào dụng hưu tù bệnh sẽ thối lui ở ngày sanh phù; hào dụng không vong, hãm bệnh sẽ thối lui vào lúc bổ sung chỗ trống; hào dụng phá, tán bệnh sẽ thối lui lúc vượt qua ngày phá, tán; hào dụng mộ bệnh sẽ thối lui ở ngày khai mộ; hào dụng tiềm ẩn bệnh sẽ khỏi lúc xuất hiện; ngày là tử tôn bệnh tật dần dần hồi phục, chỉ bói cho chồng, cho quan thì không luận. Đại để ngày là tử tôn nên thuốc men chửa trị công hiệu, mà cầu cúng thì ứng nghiệm, còn thời gian là quan quỷ thì tai hoạ, hoạn nạn biến đổi đến thần cũng phải khốn đốn).
Bói tật bệnh của chính mình hào thế chính là dụng thần: tuỳ quỷ nhập mộ, trợ quỷ thương thân, mộ, tuyệt, phản, phục cho dù hào thế vượng mà gặp một trong những điều này cũng thành hung xấu; bói tật bệnh cho người, hào ứng chính là dụng thần: dù được sanh mà không nên gặp tuỳ quỷ nhập mộ, phản, phục, mộ, tuyệt.
Phương pháp của dụng thần: người chủ tuy còn nhỏ mà vẫn phải dùng hào phụ mẫu, người nô bộc dù lớn tuổi vẫn dùng hào thê tài; họ hàng gia tộc tuy có năm bậc (五服:ngũ phục) nhưng dùng tôn ti; họ ngoại tuy có ba nhóm (三黨: tam đảng) nhưng mà dùng lễ đối đáp với khách; làm quan tuy kín đáo mà dùng hào quan; thầy giáo tuy không thân mà dùng hào phụ.
(Họ tộc (宗姓 tông tính) năm bậc dù xa, gọi là chú thì dùng hào phụ mẫu, gọi là cháu thì dùng hào tử tôn; họ bên ngoại có ba nhóm tuy gần nhưng khi bói phải dùng hào ứng làm dụng, chỉ cha mẹ vợ, cha mẹ chồng thì phải dùng hào phụ mẫu; thông thường bói hiện nhiệm (người đang làm quan) tuy thân thiết mà không dùng hào ứng mà dùng hào quan; thường bói cho thấy giáo dạy dỗ tuy không phải thân thích mà không dùng hào ứng mà dùng hào phụ mẫu).
Bói cho phụ nữ: ngoại trừ cô, dì, chị em, đều xem xét giống nhau hào dụng là thê tài; bói cho cùng lứa, cùng vai vế ngoại trừ anh em cùng tổ tiên, đều là gốc khác cho nên dùng hào ứng.
(Thông thường có nhiều cách gọi phụ nữ: cô, dì là bà con gần gũi cũng xem hào phụ mẫu; chị em gái cùng ông bà đều dùng hào huynh đệ để xem xét, ngoại trừ những điều này đều dùng hào thê tài, gọi là anh em mà không cùng họ hàng tức là không cùng gốc gác đều xem hào ứng vậy).
Bề tôi bói cho vua dụng thần là hào năm dương, bề tôi là người cùng họ hàng dụng thần thay cho người đại diện vua (代君而用: đại quân chi dụng); vua bói bầy tôi dụng thần là hào ứng vì là người giúp vua. Ở người lính canh giữ cung điện thì dụng thần là hào thê tài, tướng quân bói cho binh sĩ của mình thì dụng thần là hào tử tôn, lý do nó chế hào quan quỷ, ở tình thầy trò thì dụng thần là hào tử tôn. Phương pháp chọn dụng thần mà những người bói toán thường sai lầm, không thể không tường tận lời nói của thánh hiền.
(Thông thường bề tôi gieo quẻ cho vua, không phân biệt quý nhân, thân thích, khác họ, dân thường đều lấy hào năm dương làm dụng thần; quan chức cùng họ hàng gieo quẻ cho chúa của mình thì phải thuận theo lớn nhỏ trong triều đình làm hào dụng, như bề tôi của thái tử gieo quẻ cho thái tử vì là vua tương lai của triều đình nên dụng thần là tử tôn, bề tôi là anh em vua gieo quẻ cho anh em vua thì theo chi diệp của triều đình (朝廷枝葉: triều đình chi diệp) dụng thần là hào huynh đệ, bề tôi thái hậu gieo quẻ cho thái hậu lấy theo triều đình bói quẻ dụng thần là hào phụ mẫu, còn lại phỏng theo đó. Bói quốc gia chọn dụng thần thường có vài sai lầm cho đến tốt xấu không ứng nghiệm, cho nên phải hiểu rõ, các việc khác cũng suy xét như thế).
Hào quỷ: là nguồn gốc của bệnh tật, giống như là ma ám, vì thế hào quỷ vượng thì nặng, hào quỷ suy thì nhẹ, hào quỷ động thì thường hay biến đổi, hào quỷ hợp thì tai hoạ hay bệnh truyền nhiễm kéo dài triền miên, hào quỷ tán thì bệnh nặng sắp khỏi, hào quỷ không vong thì bệnh không thật.
Nhật phá, nguyệt phá: phân thành một nửa hoàn chỉnh; ở quẻ nội, ở quẻ ngoại: phân bệnh ở trong hay ở ngoài, ở hào biến, ở hào phục phân biệt bệnh mới với bệnh cũ.
(Ý nghĩa là khi hỏi có bệnh không thì bệnh một nửa, hỏi không có thì bệnh khỏi phân nửa, ở quẻ nội là bệnh ở trong, ở quẻ ngoại là bệnh ở ngoài, hào biến là bệnh mới, hào phục là bệnh cũ).
Chuyển động ở sáu hào để phân chia toàn thân thể, dao động ở tám cung để phân biệt bốn thân thể (四體: tứ thể), thuộc về ngũ hành để phân biệt ngũ tạng, hiện ở lục thần để phân biệt thất tình.
(Cơ bản bói mai rùa: quỷ ở hào sơ hai chân bị thương tổn, ở hào hai đùi bị bệnh tật đột ngột, hào ba đùi vế, eo lưng yếu ớt, hào bốn bụng tim cùng với ngực, hào năm là tạng phủ cai quản yết hầu, hào sáu là trên đầu có vấn đề. Hoàng Kim Sách: càn là đầu mà khôn là bụng, tốn là eo mà chấn là chân, đoài là miệng mà cấn là vai, khảm là tai mà ly là mắt. Hải Để Nhãn: cuống họng bệnh kim mà mộc là tay chân, gió độc đau nhức thân thể bắt đầu vàng úa, thìn tuất bao tử, ngực sanh ra ói mửa, sửu là bụng và dạ dày, sửu là lá lách, hoả động nên nóng miệng trên của dạ dày ho, máu tanh, cặp mắt cùng với nhọt độc, thuỷ quỷ phát hàn nguyên nhân lạnh, thổ tả mệt mỏi, tai, thận suy. Có khi hoả quỷ là bệnh tim, ruột non, mạng sống, tam tiêu, thuỷ quỷ bệnh ở thận, bàng quang, kim quỷ bệnh ở phổi, ruột già, mộc quỷ bệnh ở gan mật, thổ quỷ bệnh ở lá lách, dạ dày. Giải nói: bạch hổ chết vì vũ khí, đau thương như tang mẹ, thanh long tham rượu và sắc ưa phong lưu, ưu sầu lo nghĩ ở huyền vũ, gặp câu trận nên mang thai, châu tước động tức giận, lo lắng, kinh hoàng hoảng loạn với đằng xà).
Xãy ra ở hào thế là bệnh do mình, xãy ra ở hào ứng là bệnh do người, xãy ra ở hào gián là bệnh ở bên trong. Phục quỷ ở thần nào là duyên cớ của sự việc gì sanh bệnh, thần nào hoá quỷ là nguyên nhân của sự việc báo trước bệnh. Vì hào phụ mẫu là vất vả, cực nhọc, hào thê tài là ăn uống, hào tử tôn là đắm chìm thú vui, hào huynh đệ là tức giận, hào quan quỷ là tà yêu vậy.
Lúc đầu bói toán là để phòng ngừa bệnh tật, hào dụng hư nát thì bệnh bắt đầu, hào quỷ phát động thì sanh bệnh. Tai hoạ theo mùa, chuyên dùng hào quỷ, phát động thì dịch bệnh quấy nhiểu trong gia đình, chỉ xem xét mà chờ đợi. Mệnh nào phạm quỷ, lday69 là tai hoạ từ trời, thần nào hoá quỷ là đây là việc làm của con người, hào quỷ hoá người nào là tai nạn lây lan. Tuỳ quỷ nhập mộ, trợ quỷ thương thân rất xấu nên ghê sợ.
Bệnh bắt đầu từ đâu, bởi tốt xấu gây ra ở hào động, quỷ theo hào động bèn khảo sát hào quỷ đó bởi vì quỷ là tai hoạ; hào quỷ độc phát bèn khảo sát hào quan đó, bởi vì hào độc phát thì chú ý hết sức vào một việc. Quẻ tượng an tĩnh thì quan sát bên ngoài nó, bởi vì tai hoạ do bên ngoài nhập vào; quẻ không có hào quỷ thì quan sát hào phi của phục quỷ.
(Hào động là nơi bắt đầu bệnh, như hào mão quẻ ly động bệnh đến từ phương đông; nếu như hào quỷ cùng với hào động thì phải lấy hào quỷ làm phương bắt đầu bệnh, như hào hợi và hào mão quẻ ly đều động bệnh đến từ phương tây bắc. Nếu như chỉ hào quỷ động thì nó động ở cung nào tức là phương mà hoạ mang đến, như chỉ hào hợi quẻ ly động, bệnh bắt đầu ở phương nam. Nếu như sáu hào đều an tĩnh, nên khảo sát quẻ ngoại, như tượng quẻ ly an tĩnh, thì bệnh lan truyền từ đất phương nam. Chỉ khi quẻ không có hào quan quỷ thì lấy hào phi ở trên hào quỷ phục làm phương hướng, như Bổ Di bàn luận: quẻ "gia nhân" nguyên nhân bị nạn ở tây bắc có thể quẻ có hào quan, mà nhiều hào động thì đầu tiên chọn hào kỵ thần làm phương hướng, không có hào kỵ thần thì khảo sát quẻ ngoại).
Do đó hào quỷ động ở càn đoài, là hoạ từ chùa chiền, đền miếu; hào quan động ở cấn khôn là hoạ từ gò đống, mồ mả; khảm ly là nam bắc, chấn tốn là khu đất trồng cây cỏ; hào mộc quỷ nguyên nhân chặt đốn, hào kim quỷ sợ hãi đao binh, hào thổ quỷ hoạ hại ở nơi khai khẩn, mở mang, hào thuỷ là sông nước còn hoả là đô thị; huyền vũ do rượu và sắc, gió độc và khí độc, thanh long là ca hát nhảy múa, châu tước là đấu tranh, tức giận, bạch hổ là khóc lóc tang thương, đằng xà do kinh hãi xãy ra, còn câu trận là tự té ngã.
(Như tháng mùi ngày quý mão, gieo quẻ bệnh sống chết được quẻ "càn" biến "tiểu súc", hào thế vượng, nhật khắc chỉ là khó khỏi nhưng không chết; hào quỷ phát động ở cung càn, người đó vào chợ bái kiến người thân mà không gặp, trên đường thấy các nhà sư nói chuyện, chỗ dốc đứng gặp ngựa húc dẫm lên đùi vế mà thành bệnh, bởi càn là sư, câu trận là té ngã, hào ngọ quan là ngựa, nếu như ở chùa chiền thì không đúng như thế. Như tháng dần ngày đinh mão, tự mình gieo quẻ bệnh được quẻ "tiết" biến "lâm", hào thế được trường sanh, tháng mão bệnh khỏi; hào quỷ huyền vũ động ở cung khảm, người này bắt cá mà bị bệnh, nếu như nói khảm là sông nước thì không đúng vậy. Tháng dậu ngày kỷ dậu gieo quẻ cha bệnh được quẻ "quy muội" biến "giải", hào quỷ độc phát là nguyên thần của hào phụ mẫu ngày hợi sẽ khỏi; mà hào hoả quỷ đằng xà, ở hội trường nghe tiếng nổ giật mình mà sanh bệnh. Nếu nói hào hoả quỷ là đô thị, càn đoài là chùa chiền, đền miếu thì không đúng vậy. Cùng ngày đó có người gieo quẻ con bệnh cũng được quẻ "quy muội" mà biến "sư", hào tử tôn phục, được nhật nguyệt sanh, tuy là nguy cấp nhưng không chết, đến mùa đông khỏi bệnh; hai hào quỷ tỵ ngọ đều động, hào quỷ ở trên (hào bốn) có thanh long, hàm trì, nên bệnh do tửu sắc mà ra, nếu như nói chấn tốn là nơi trồng cây cỏ thì cũng không đúng , Chớ nên chấp nhất mà chỉ dùng lý lẽ thích hợp cũng như tâm địa khéo léo mà suy xét).
Có khi hỏi chứng bệnh phát tác có phải thật không, nếu hào quỷ thật thì đúng vậy, còn hào quỷ hư thì không phải. Có khi lo lắng bói quẻ nó có thành bệnh không, tuỳ quỷ nhập mộ, hay trợ quỷ thương thân đã thành bệnh rồi; dụng thần nếu mà bị phá hỏng, bệnh của nó có thể chữa trị không? Người bói ra ngoài dưỡng bệnh gặp tuỳ quỷ nhập mộ hay trợ quỷ thương thân, hay hào thế bị tổn thất hay hào quỷ động thì không nên. Người đi nghĩ mát cũng xem giống như vậy.
(Hào quan quỷ không vong, phá, tán, tuyệt tức là hư, hào vượng tướng sanh phù tức là thật, hào dụng mà không vong, tuyệt, tán thì thành bệnh, hào vượng tướng sanh phù thì không thành bệnh).
Cho nên hào quỷ động là nguốn gốc của bệnh, hào phúc động thì tránh xa tai hoạ, phúc thần nên theo, hoạ thần nên tránh. Vì thế phát động ở cung khảm chớ nên tham ăn uống, nhậu nhẹt, phát động ở cung đoài chớ nên si mê sắc đẹp, cung chấn thì kỵ ngồi thuyền, cung tốn thì kỵ vào hoa viên, cung càn không nên yêu thích chùa chiền, cung cấn không nên yêu thích ở chốn núi non, cung khôn chớ ăn thịt trâu, cung ly không nên ham thích thịt cá nướng.
(Nếu như hào tử tôn phát động ở cung nào thì đó là xứ có phúc lợi khác với phần nói trên. Cung càn thì lợi ở chùa chiền, cung khôn thì lợi ở ruộng đồng, cung khảm thích hợp sông biển, cung càn thích hợp núi đồi, cung ly thú vui văn chương, cung đoài là rượu, cung chấn là thuyền xe cung tốn là vườn tược).
Giống như có khi gieo quẻ cha bệnh mà hào quỷ động ở cung khôn mà bà mẹ cũng bị bệnh, gieo quẻ con trai bệnh mà hào quỷ hoá ở cung tốn thì con gái bệnh tiếp theo, hào biến quỷ cũng như vậy. Bởi vậy điều lệ của tật bệnh là không xa rời ở áp dụng hào quỷ.
(Cung nào hào quỷ động, cùng với hào quỷ biến ở cung nào, thì khuyên rằng người đó nên đề phòng tật bệnh, tai hoạ. Như tháng dần ngày tân dậu, gieo quẻ mạng sống con gái được quẻ "tốn" biến "hoán", hào tử tôn được trường sanh con gái không chết; tuy nhiên hào quỷ động hoá nhập cung khảm, trong tuần giáp dần khảm không vong nên con trai giữa bị bệnh tiếp theo, cho đến tuần giáp thân hào hoá ngọ tử tôn không vomg con trai giữa chết; tháng mão ngày bính thìn gieo quẻ con gái thứ bị bệnh đậu mùa được quẻ "cách" biến "hàm" hào mão tử tôn đắc nguyệt kiến, nên con gái thứ không có chuyện gì; tuy nhiên quẻ nội hoá cấn, hào bính thìn quan quỷ ở cung cấn là con trai nhỏ, nên sau đó con trai nhỏ cũng bị đậu mùa. Bởi vì gieo quẻ hỏi tật bệnh, sống chết nương vào hào dụng, then chốt của xu tỵ, biến đổi, cứu trị điều liên quan đến hào quỷ, nên phải quan sát kỹ càng).
.
#57
Gửi vào Hôm nay, 02:56
Dịch Mạo - Quyển Sáu
56- Y được chương
(Qua đây hiểu rõ về bói toán thuốc men, bói toán thầy thuốc, chữa trị bệnh, cách dùng thuốc, đi khám bệnh sáu vấn đề).
Nghe người xưa nói: thông suốt thì nguyện làm tướng giỏi, không thông suốt thì nguyện làm thầy thuốc giỏi. Người tài đức lấy điều đó làm ý chí hành động, người dạy con cái phải hiểu biết cái tốt thì theo, cái xấu thì tránh chớ nên tuỳ tiện.
Thông thường gieo quẻ y dược lấy hào tử tôn làm hào dụng, đắc nguyệt kiến, nhất kiến là tốt nhất, vượng tướng thì kế đó, hào hưu tù thì thấp hơn, còn không vong, phá, tán, tuyệt là thầy thuốc kém cỏi vậy.
Không có hào tử tôn thì thuốc không tốt lành, hào quan thắng hơn thì bệnh khó chữa trị; hào tử tôn mạnh mà hào quan yếu như ngày nắng nóng làm tan chảy băng đá, còn hào tử tôn yếu đuối mà hào quan mạnh khoẻ như dùng dao chì mà tấn công ngọc (鉛刀攻玉: duyên đao công ngọc - chì thì mềm, ngọc thì cứng), hào tài động mà hào quỷ tĩnh hào tử tôn có động cũng uống công. Quỷ là phục thần thì gốc rễ không trừ được, hoá quỷ thì bệnh truyền lan xa, biến đổi, quỷ không vong y dược cũ, hết hạn. Hào quỷ trì thế động thì bệnh mình trắc trở, quỷ ở hào ứng vượng tướng thì thuốc không hiệu nghiệm.
(Đánh giá thích hợp hào tử tôn, hào quan quỷ mạnh yếu. Như hào quan quỷ trực nhật nguyệt, cho dù hào tử tôn được sanh phù cũng không hoàn toàn tốt lành, phải so sánh hào tử tôn có thể chế phục hào quỷ không, rồi mới cho là quẻ bói tốt. Hào quỷ không vong tránh được hào tử tôn thuốc không trúng bệnh, cho nên nói là thuốc cũ, hết hạn. Hào quỷ trì thế thì bệnh khó mà nhanh chóng khỏi, quỷ ở hào ứng thầy thuốc lừa dối không thể tin được).
Thầy thuốc cần được xác định rõ ràng, chứ không phải người có hiệu quả được quyết định bằng bói toán, vì thế hào ứng không vong thì không gặp, hào ứng phá thì không chuyên nghiệp, hào ứng tán thì kiến thức đáng nghi ngờ, hào ứng khắc hào thế thì thích lợi lộc thường lừa dối, hào thế và hào ứng xung thì đình chỉ rồi nối lại không thể chấm dứt.
Bói thuốc men: hào thuỷ tử tôn vượng nên dùng thuốc đã sắc, hào thổ tử tôn vượng thích hợp thuốc viên, hào hoả nên cứu (灸: cứu - phương pháp chữa bệnh dùng lá ngải châm đốt vào các huyệt), hào kim nên châm (針: châm - phép chữa bệnh cổ truyền, dùng kim chích vào huyệt kinh mạch), hào mộc thuốc bột, làm hình tượng. Hào hoả quỷ thích hợp thuốc mát, hào mộc quỷ nên dùng phong dược (風藥), hào thổ là lá lách, hào kim là phổi, hào thuỷ là thận làm hình tượng. Bói thuốc men, nên chuyên khảo sát hào tử tôn, mộc là đông kim là tây, càn là nhà sư, khôn là đàn bà làm hình tượng.
(Hào tử tôn là thuốc, hào quan quỷ là bệnh: bói dùng thuốc gì, bói là bệnh gì, thì phải dùng phương pháp này, còn như bói thuốc mên tốt xấu thì xem hào tử tôn suy vượng, không nên chấp nhất vào hào tử tôn thuộc thổ thì phải dùng thuốc viên. Như tháng mão ngày tân dậu bói thuốc men được quẻ "ly" biến "bí" hào mùi thổ tử tôn thuộc về chân không tứ bại (真空四敗) thử hỏi dùng thuốc viên có công hiệu không? Bói toán nên áp dụng phương thuốc nào, người nào thì áp dụng phương pháp đó, nếu như chỉ gieo một quẻ thì áp dụng hào tử tôn, thí dụ hỏi tăng y (sư thầy làm về thuốc), được quẻ "càn" mà hào tử tôn không vong, có thể nào nói là tốt không?).
Thầy thuốc xem bệnh có thể chữa trị không, đầu tiên chuyên ở hào ừng, bởi vì hào ứng là bệnh nhân, hào ứng bị phá hỏng hay tuỳ quỷ nhập mộ thì bệnh này không trị được; nếu như bói cho lục thân thì noi theo hào dụng thần mà đoán.
Thầy thuốc xem thuốc có hiệu quả không, cũng lấy hào tử tôn làm hào dụng, hào phúc cường mà hào quỷ nhược thì phương thuốc hiệu nghiệm, hào tử tôn hư mà hào quỷ thật thì uổng công.
(Cũng như bói thuốc men).
Hỏi thuốc đã dùng có ích lợi không thì suy xét theo hào thế ứng, hào ứng khắc hào thế thì không hiệu quả, không hào tài thì ít khu trừ, không vong thì có ý lừa dối, hào phá thì không hết lòng, hào tán, xung thì không kết thúc.
Hỏi hành nghề y có lợi không, hào tài hào quan cường thì danh lợi được toại ý, cho nên y dược không tinh thông thì không đủ đủ để mang lại lợi ích cho mọi người, tìm thầy thuốc mà không cẩn thận không thể cứu chữa mạng sống, tự mình không hại người mà cũng không tự hại mình vậy.
.
56- Y được chương
(Qua đây hiểu rõ về bói toán thuốc men, bói toán thầy thuốc, chữa trị bệnh, cách dùng thuốc, đi khám bệnh sáu vấn đề).
Nghe người xưa nói: thông suốt thì nguyện làm tướng giỏi, không thông suốt thì nguyện làm thầy thuốc giỏi. Người tài đức lấy điều đó làm ý chí hành động, người dạy con cái phải hiểu biết cái tốt thì theo, cái xấu thì tránh chớ nên tuỳ tiện.
Thông thường gieo quẻ y dược lấy hào tử tôn làm hào dụng, đắc nguyệt kiến, nhất kiến là tốt nhất, vượng tướng thì kế đó, hào hưu tù thì thấp hơn, còn không vong, phá, tán, tuyệt là thầy thuốc kém cỏi vậy.
Không có hào tử tôn thì thuốc không tốt lành, hào quan thắng hơn thì bệnh khó chữa trị; hào tử tôn mạnh mà hào quan yếu như ngày nắng nóng làm tan chảy băng đá, còn hào tử tôn yếu đuối mà hào quan mạnh khoẻ như dùng dao chì mà tấn công ngọc (鉛刀攻玉: duyên đao công ngọc - chì thì mềm, ngọc thì cứng), hào tài động mà hào quỷ tĩnh hào tử tôn có động cũng uống công. Quỷ là phục thần thì gốc rễ không trừ được, hoá quỷ thì bệnh truyền lan xa, biến đổi, quỷ không vong y dược cũ, hết hạn. Hào quỷ trì thế động thì bệnh mình trắc trở, quỷ ở hào ứng vượng tướng thì thuốc không hiệu nghiệm.
(Đánh giá thích hợp hào tử tôn, hào quan quỷ mạnh yếu. Như hào quan quỷ trực nhật nguyệt, cho dù hào tử tôn được sanh phù cũng không hoàn toàn tốt lành, phải so sánh hào tử tôn có thể chế phục hào quỷ không, rồi mới cho là quẻ bói tốt. Hào quỷ không vong tránh được hào tử tôn thuốc không trúng bệnh, cho nên nói là thuốc cũ, hết hạn. Hào quỷ trì thế thì bệnh khó mà nhanh chóng khỏi, quỷ ở hào ứng thầy thuốc lừa dối không thể tin được).
Thầy thuốc cần được xác định rõ ràng, chứ không phải người có hiệu quả được quyết định bằng bói toán, vì thế hào ứng không vong thì không gặp, hào ứng phá thì không chuyên nghiệp, hào ứng tán thì kiến thức đáng nghi ngờ, hào ứng khắc hào thế thì thích lợi lộc thường lừa dối, hào thế và hào ứng xung thì đình chỉ rồi nối lại không thể chấm dứt.
Bói thuốc men: hào thuỷ tử tôn vượng nên dùng thuốc đã sắc, hào thổ tử tôn vượng thích hợp thuốc viên, hào hoả nên cứu (灸: cứu - phương pháp chữa bệnh dùng lá ngải châm đốt vào các huyệt), hào kim nên châm (針: châm - phép chữa bệnh cổ truyền, dùng kim chích vào huyệt kinh mạch), hào mộc thuốc bột, làm hình tượng. Hào hoả quỷ thích hợp thuốc mát, hào mộc quỷ nên dùng phong dược (風藥), hào thổ là lá lách, hào kim là phổi, hào thuỷ là thận làm hình tượng. Bói thuốc men, nên chuyên khảo sát hào tử tôn, mộc là đông kim là tây, càn là nhà sư, khôn là đàn bà làm hình tượng.
(Hào tử tôn là thuốc, hào quan quỷ là bệnh: bói dùng thuốc gì, bói là bệnh gì, thì phải dùng phương pháp này, còn như bói thuốc mên tốt xấu thì xem hào tử tôn suy vượng, không nên chấp nhất vào hào tử tôn thuộc thổ thì phải dùng thuốc viên. Như tháng mão ngày tân dậu bói thuốc men được quẻ "ly" biến "bí" hào mùi thổ tử tôn thuộc về chân không tứ bại (真空四敗) thử hỏi dùng thuốc viên có công hiệu không? Bói toán nên áp dụng phương thuốc nào, người nào thì áp dụng phương pháp đó, nếu như chỉ gieo một quẻ thì áp dụng hào tử tôn, thí dụ hỏi tăng y (sư thầy làm về thuốc), được quẻ "càn" mà hào tử tôn không vong, có thể nào nói là tốt không?).
Thầy thuốc xem bệnh có thể chữa trị không, đầu tiên chuyên ở hào ừng, bởi vì hào ứng là bệnh nhân, hào ứng bị phá hỏng hay tuỳ quỷ nhập mộ thì bệnh này không trị được; nếu như bói cho lục thân thì noi theo hào dụng thần mà đoán.
Thầy thuốc xem thuốc có hiệu quả không, cũng lấy hào tử tôn làm hào dụng, hào phúc cường mà hào quỷ nhược thì phương thuốc hiệu nghiệm, hào tử tôn hư mà hào quỷ thật thì uổng công.
(Cũng như bói thuốc men).
Hỏi thuốc đã dùng có ích lợi không thì suy xét theo hào thế ứng, hào ứng khắc hào thế thì không hiệu quả, không hào tài thì ít khu trừ, không vong thì có ý lừa dối, hào phá thì không hết lòng, hào tán, xung thì không kết thúc.
Hỏi hành nghề y có lợi không, hào tài hào quan cường thì danh lợi được toại ý, cho nên y dược không tinh thông thì không đủ đủ để mang lại lợi ích cho mọi người, tìm thầy thuốc mà không cẩn thận không thể cứu chữa mạng sống, tự mình không hại người mà cũng không tự hại mình vậy.
.
#58
Gửi vào Hôm nay, 11:29
Dịch Mạo - Quyển Sáu
57- Quỷ thần chương
Vào thời cổ đại, vật hiến tế không dựa trên chủ nhân và xác chết của họ, và ma quỷ không liên quan đến đồng loại của họ, cho nên không có tuyên dương việc cúng bái quỷ thần, cũng không khinh nhờn xúc phạm việc cúng bái. Người đời sau chình vì bị quấy nhiễu mà cấu phúc nên cúng tế, nên quỷ thần mới nổi lên nhiều như vậy. Tuy nhiên tốt có thần tướng, xấu có quỷ nương vào, theo ghi chép lịch sử chẳng phải tất cả đều là lừa dối, không thật. Muốn biết tình trạng quỷ thần cũng có thể dùng bói toán mà biết được vậy. Các vị thần trời, thần đất thì lấy hào quan quỷ để phân loại hình tượng, tượng là hình ảnh, tranh vẽ, khắc, đắp thành..., nó không ngoài hai nghi, tứ tượng, ngũ hành, bát quái cũng nhu lục thần, hình thức các tinh tú, có đo đạc được không, xếp đặt trên dưới, cao thấp. Tìm hiểu bản chất của quỷ và thần, cai quản của quỷ và thần, cũng như nguồn gốc thành lập của quỷ và thần, đều có thể suy ra cả.
(Bản chất: tìm hiểu bản chất tà lệch hay tốt lành lúc trước khi chết của quỷ thần; cai quản: tìm hiểu những việc gì mà thượng đế ra lệnh cho quỷ thần; thành: tim hiểu nhân duyên nào mà nó thành quỷ thần).
Hào quan quỷ thuộc dương tức là dương thần, thuộc âm tức là âm thần.
(Hào quan quỷ thuộc âm như là Vương Mẫu, Đại Bi, Thuỷ Mẫu, Thái Sơn, Thiên Phi (nữ thần), Trần Chu, Thánh Phi, Tàm Mẫu (蠶: tàm - con tằm), Tử Mẫu, Thôi Sanh (催生: thôi sanh - thúc giục sanh đẻ nhanh), Thái Quân, thuộc về Nương Nương (娘娘之屬: nương nương chi thuộc), cần phải xem xét vấn đề này từ góc độ địa điểm, con người và hoàn cảnh; đây chỉ là một cái nhìn tổng quan ngắn gọn. Bởi vì có khi thần giống nhau mà danh gọi thì khác biệt, do nơi chốn mà gọi, như ở phương bắc gọi tử mẫu nương nương, còn ở miền nam thì gọi thái quân nương nương; khác nhau về nam nữ là do thần, vì việc vì gọi là nguyên nhân sự việc, như bói hỏi con tằm được hào âm quan chính là Tàm Mẫu vậy).
Hào kim là vũ thần (武神: vũ thần - thần về sức mạnh, chiến tranh, quân đội..)
(Hào kim quan quỷ như là Thiên TTướng (天將), Quan Đế (關帝), Ngũ Công (伍公), Nhạc Vương (岳王), Nguyên Đàn (元壇), Tổng Quan (總官), Thất Sát (七煞), Kim Cương (金剛), Thương Ty (傷司), thuộc về Tang Sát, bởi vì các khu vực xa xôi hẻo lánh có nhiều danh xung như Nguyên Soái Tướng Quân, Kim Giáp chi Thần, cũng như những người trở thành thần với sức chiến đấu dũng mãnh và lòng dũng cảm, đều có thể suy xét các loại).
Hào thuỷ là thần của sông biển (河海江神: hà hải giang thần)
(Hào thuỷ quan quỷ như Phổ Đà (普陀), Chân Vũ (真武), Vân Đài (雲台), Bắc Đẩu (北斗), Hải Thần (海神), Long Vương (龍王), Đại Vương (大王), Dương Tướng (楊將), Thi Tướng (施相), Thiên Phi (天妃), Yến Công (晏公), Từ Sơn (祠山), Chu Vương (周王), Uông Công (汪公), Thuỷ Mẫu (水母), Thuỷ Thánh (水聖), Tỉnh Thần (井神), Trì Thần (池神), thuộc về các Thuỷ Thương Thần (các thần về tai nạn sông nước), cùng với các loại thần thành có liên quan đến nước. Bởi chín con sông và trăm con suối (九河百川: cửu hà bách xuyên) ở mỗi nơi đều có các thần cai quản, dân chúng tôn xưng, mỗi nơi khác biệt, tuỳ theo phong tục của người gieo quẻ, lấy ngũ hành bát quái, lục thần, các tinh tú, hình tượng thì soi xét trúng mục đích. Đại để thuỷ thần, hoả thần thường linh hiển không thể trình bày cặn kẻ bởi mỗi nơi đều khác nhau, giống như nhược "Tào Hà Đại Vương", "Đông Hải Tôn Thiên Phi", "Nam Hà Tôn Chu Vương", "Động Đình Tôn Tương Phi", "Bà Dương Tiểu Cô", "Trường Giang Dương Tứ Tướng Quân" mỗi vị đều có phận riêng của mình).
Hào mộc là văn thần (文神), cùng với yêu ma nương dựa cỏ cây.
(Hào mộc quan quỷ như Đông Nhạc (東岳), Gia Đường (家堂), Sơn Thần (山神), Thụ Thần (樹神), Ngũ Thánh (五聖), Viên Thần (園神), Cửu Lương (九良), Trà Diên (茶筵), Tam Mao (三茅), Cửu Thiên (九天), Lỗ Ban (魯班), Hoa Thần (花神), Tam Lang (三郎), Đạo Quân (道君), Văn Xương (文昌), thuộc nam mộc thần, cùng với các nơi có quỷ thần nương tựa núi đồi, cây cối, khí mãnh (器皿: khí mãnh - khí là dụng cụ, mãnh là bát, dĩa, chén, mâm) đều có thể suy xét được).
Hào hoả là hoả thần, cai quản sanh đẻ nuôi dưỡng, sấm chớp.
(Hào hoả quan quỷ, như Ly Thần (離神), Điện Thần (電神), Nam Đẩu (南斗), Hoả Lôi (火雷), Vi Đà (韋陀), Nguyên Đàn (元壇), Hoa Quang (華光), Ngũ Thần (五神), Ngũ Hách (五赫), Tam Sát (三煞), Táo Thần (灶神), Kỳ Đạo (旗纛), Lô Thần (爐神), Pháo Thần (炮神), Hương Hoả (香火), Nam Đường (南堂), Lợi Thị (利市), thuộc về các thần sanh đẻ nuôi dưỡng, cùng với các loại thần thành do hoả).
Hào thổ là Thổ Thần, cùng với các thần cai quản sông núi, thần đất và thần lúa.
(Hào thổ quan quỷ như Địa Chi (地祗), Thái Tuế (太歲), Thành Hoàng (城隍), Xã Tắc (社稷), Thổ Thần (土神), Miếu Thần (廟神), Trạch Thần (宅神), Già Lam (伽藍), Bì Tràng (皮腸), Đương Cảnh (當境), thuộc về Thổ Địa trong nhà mình, cùng với các vị thần do tích luỹ công đức ở địa phương. Bởi vì thần linh cầm đầu đất đai, nên Thánh Hiệu (聖號), tên các thần không giống nhau, có các danh xưng: Phi Du (飛遊), Tác Phạm (作犯), Chước Phạt (斫伐), Phần Mộ (墳墓), Khanh Tư (坑廝), Kim Thần (金神), Ngâm Thần (吟神), Phục Thi (伏尸), Đằng Xà (騰蛇), Thiên Tào Thổ (天曹土), nên lấy bát cung, lục thần, các sao mà phối hợp và phân biệt như hào thổ quan bạch hổ chính là đoán kim thần thất sát. Nói chung tây bắc đất dày (土厚: thổ hậu) nên chỉ biết tôn kính có thần đất thôi, còn đông nam đất mỏng (土薄: thổ bạc), cho nên có nhiều danh xưng cho các thần đất. Do đó phụ thuộc vào người, nơi chốn, sự việc mà có nhiều mối biến thông rắc rối).
Quỷ mà khi còn sống rất dũng cảm, cho rằng bản chất của nó thuộc kim, hoặc chết ở chiến tranh dưới mũi tên, ngọn giáo, cùng với bệnh chết ở cuống họng, phổi, chính nghĩa, sắc bén, nói rằng nó thành quỷ cho nên thuộc kim. Làm quỷ nên có khả năng thân thiện được trời cho chốn cai quản, nếu như vị trí ở phương tây, uy quyền ở mùa thu, chủ về các việc quân đội, thì khảo sát ở tượng kim vậy.
(Đây là quan sát quỹ thần tới từ đâu. Hào kim quỷ thì quỷ thần này khi còn sống rất dũng cảm là nói theo bản chất thì quỷ này chết vì đao binh; còn nói trở nên quỷ thần, thì thần này cai quản việc gì, ở đâu, hoặc là thuỷ, hoặc là hoả, hoặc là thổ, hoặc là kim, hoặc là mộc; nói theo nơi cai quản như: quan nhạc thần dũng cảm nghĩa khí thì thuộc kim, thất sát tang sát bản chất là kim cai quản việc sát phạt. Theo độn giáp thất sát chính là canh, chính là bản chất kim).
Khi còn sống mưu sinh ở vùng sông nước, hoặc là chết trong sóng gió ở sông, biển, cũng như chết do bệnh thận, trà rượu. Nói chung quản lý thuyền đò ở sông hồ thì xem xét hào thuỷ vậy.
(Có thể suy ra xuất thân của một người hiển thánh, thì biến hoá vô tận. Đại Từ hiển linh ở biển Nam Hải, Tam Quan sanh ra đón nhận Long Thần, chính là như vậy).
Lúc còn sống tính tình vui thích nơi làng hoa, làm nghề trồng dâu, trồng đay (立業桑麻), hoặc là chết vì hình phạt roi, gậy (亡於笞杖), hay dưới gốc cây (樹木之下), chết vì bị trói buộc (喪於捆縛), bệnh điên cuồng (瘋癲), thường điều khiển việc trồng trọt cây cối, rồi đốn chặt thì xem xét hào mộc.
(Khi hai cách giải thích trái ngược nhau không thể loại trừ lẫn nhau, ý nghĩa của chúng cần được xem xét. Ví dụ, Nam Mộc Thần tương ứng với Thuỷ Quan là vị thần có bản chất là gỗ và cai quản nước).
Sống làm các việc liên quan đến bếp lò, rèn đúc, chết do lửa mạnh, vết thương lỡ loét, sanh con bị băng huyết , thường các việc liên hệ đến cái vạc, nồi chảo, thai nghén sanh đẻ, thì xem xét hào hoả.
(Nên suy xét mở rộng, dùng ngũ hành, lục thần, các sao (thần sát) phối hợp).
Lúc sống làm nghề cày cấy, chết do bệnh truyền nhiễm, lá lách, dạ dày, vì tai nạn đất đá, thường liên hệ lao động thì suy xét hào thổ.
(Chỉ linh hiển ở đông nam).
Phương pháp có khi lấy hào động làm quỷ, phân biệt hào dương là nam hào âm là nữ, đến từ ngọ là hướng nam, tý là hướng bắc. Một hào động là một quỷ, ba hào động là ba quỷ, các hào và quỷ đều động thì lấy phương của hào quỷ làm phương hướng, số của hào quỷ làm số.
(Hào quỷ an tĩnh mà có hào khác động thì xem xét hào động, hào quỷ động, hào khác cũng động xem xét hào quỷ, hào động tính đếm theo hào, hào quỷ tính đếm theo số như hào thổ quỷ động đoán là năm quỷ).
Hào quỷ phát động xem xét ở cung nào, quẻ và hào đều an tĩnh, tìm xem ở quẻ ngoại, không có hào quỷ thì tìm hào phục, xem xét ở hào phi, phục quỷ nếu như không vong, chuyên tâm rèn luyện đạo đức vậy.
(Hào quỷ độc phát lấy tám cung mà xem xét quỷ, các hào với quỷ đều an tĩnh, lấy quẻ ngoại mà xem xét quỷ, hào quỷ ẩn phục lấy hào phi trên quỷ phục mà xem xét quỷ, hào quỷ phục mà lại không vong chính là không có quỷ quấy phá, chỉ cần tu sửa đức hạnh thì mọi việc qua hết. Đây là chuyên xem xét về quỷ chẳng phải đoàn là thần).
Một hào quan quỷ thì chuyên xem ở ngũ hành, hai hào quan thì chuyên xem ở lục thần, hào động với hào quan quỷ thì chuyên xem ở bát quái, loạn động hào quan quỷ thì chuyên xem thần sát, hào thế quan quỷ thì chuyên về lục hào.
(Quẻ có một hào quan thì theo tượng của ngũ hành. Quẻ có hai hào quan thì theo tượng của lục thần, ví dụ hào dưới có bạch hổ thì gọi là "vũ thần", hào trên có thanh long thì gọi là "thụ thần". Quẻ có hào động, hào quỷ thì theo tượng của bát quái, ví dụ quỷ động ở cung càn thì gọi là "thiên thần", quỷ động ở cung khôn thì tượng là "thổ địa". Quẻ có hào loạn động hoặc là trong có hào quan động thì theo thần sát ở hào quan. Đây là chuyên đoàn về thần).
Thần và quỷ có khác biệt, nghiên cứu không khác biệt, vì thế khi hào quan động ở cung càn nói là mạo phạm thiên thần, cho là xung đột chùa chiền, đền miếu, quỷ của người già, nhà sư, hồn phách của vương hầu ở thành đô. Hào động ở cung khôn nói là xúc phạm thần đất, cho là tổn hại mồ mả, quỷ bà già, thần của vợ vua. Cung chần là phương đông, thần "cửu thiên", đạo giáo, quản lý tằm,dâu, thuyền, xe, quỷ của nhục thân gãy chân, thần linh của sấm sét. Cung tốn ở đông nam, đó là thần quản lý sóng gió làm cho biển yên định, quỷ quấy phá vườn hoa quả, hồn phách của phụ nữ có tuổi. Cung khảm ở hướng bắc, ở trên trời là sao bắc đẩu, ở dưới đất là bắc cực, các linh hồn ở trăm sông, bốn biển, nó rất là rộng lớn bởi là thần nước lửa của thiên hạ chắc chằn không thể thay đổi. Cung ly là "hoả đức", ở các sao là 'hoả tinh" (ngày xưa gọi Hỏa tinh là huỳnh hoặc 熒惑), ở nhà gọi là thần táo, ở người thân gọi là hồn người trung nữ. Cung cấn là thần núi, là ngũ nhạc (Ngũ Nhạc 五岳 năm núi Nhạc: Tung Sơn 嵩山, Thái Sơn 泰山, Hoa Sơn 華山, Hành Sơn 衡山, Hằng Sơn 恆山), là mồ mả bỏ phế, cũng là hồn ma của trẻ con. Cung đoài là phương tây, phật giáo (釋之宗: thích chi tông), tội ác trù yểm, nguyền rủa, lời dối trá của người chủ trì tế lễ, là hồn phách của sư ni, tội ác của rượu và sắc (酒色之邪: tửu sắc chi tà).
(Bàn về hào quan quỷ độc phát, quẻ hào đều an tĩnh, lấy tám cung mà đoán như trên đây).
Hào sơ là tác hại ở giếng, hồn ma trong giếng, thần quản lý nơi cư trù; hào hai tác hại ở bếp lò, vong hồn dưới bếp lò, thần cai quản khu vực riêng biệt; hào ba tác quái trong nhà, hồn ma của phòng ở phụ nữ, lối đi (閨壼: khuê khổn), thần cai quản cầu, bến tàu của đô thành, quận huyện; hào bốn tác quái ở cửa nẻo, thần của quan ải (關隘之神); hào năm tác hại ở đường lộ, thần của vương hầu; hào sáu tác hại ở mồ mả, phật (慈悲之尊: từ bi chi tôn), vong hồn của đày tớ, nô bộc. Thế ở hào sơ thần nhà (家神), thế ở hào nhị thổ thần (土神), thế ở hào ba là viên thần (園神), thế ở hào bốn, là ngũ thần (五神), thế ở hào sáu (山神).
(Nói về quẻ có một hào quỷ, xuất hiện ở hào nào, cũng như quỷ trì thế ở tượng nào lấy tượng sáu hào mà đoán như trên đây).
Thanh long là thần cai quản việc vui mừng, tài lợi, thánh hiền phuong đông, văn tướng, là thiếu niên chết trẻ, hồn ma của xác còn trong bào thai. Chu tước cũng là "ly thần" (離神), cai quản việc kiện tụng, xem xét việc thiện ác, nắm giữ việc giao dịch, chủ sanh đẻ nuôi nấng, tuần thú cửa phía nam, quyền trong tam công, hoặc là ngôn ngữ của chúa, hoặc là hồn ma oan khuất trong ngục tù. Câu trận là thổ thần cai quản lúa, thóc, chủ xã tắc (社: xã - thần đất; 稷: tắc - thần lúa), là vong hồn người thợ giỏi (工巧之亡: công xảo chi vong), hồn ma té ngã (折跌之鬼: chiết điệt chi quỷ). Đằng xà thuộc hoả, tả hữu của hoàng đế, là sự quấy nhiễu của yêu tà quái dị, thần của đốn chặt, nhanh nhẹn (飛遊砍伐之神: phi du khảm phạt chi thần), hồn ma của nút thắt điên rồ (繩結驚狂之鬼: thàng kết kinh cuồng chi quỷ). Bạch hổ là thần của giáp sắt, là quấy phá của tang phục (喪服之祟: tang phục chi tuý), quân binh hung hản, ngang ngược, xưng hô nguyên soái. Bắc phương là huyền vũ, thần của cầu, xà nhà (强梁之神), hồn ma của trộm cướp, vong hồn ở sông giếng, hồn phách của kỹ nữ.
(Quẻ có hai hào quỷ: hào trên lâm thần nào, hào dưới lâm thần nào, lấy lục thần mà đoán như trên đây).
Hào phụ mẫu là tổ tiên, hào thê tài là thần thiếp (臣妾), hào huynh đệ là ràng buộc của tay chân (手足之纏: thủ túc chi triền), hào tử tôn là tội lỗi của con cháu (兒女之孽: nhi nữ chi nghiệt), hào thế là vốn cùng họ hàng, hào ứng là họ khác.
(Các hào lục thân có khi động, thì lấy hình ảnh lục thân mà đoán như trên. Chỉ khi hoá quỷ cũng như độc phát thì càng thêm đúng. Hào thế là quỷ của gia đình, hào ứng là vong linh của người khác họ).
Phạm hợi tý là "Thiên Tướng", "Đẩu Thần' có thể cúng tế cầu đảo; phạm tỵ ngọ là "Hoả Đức", "Tài Thần" có thể tế cầu để giải trừ (可禳: khả nhương); "Thụ Thần", "Đông Nhạc" chính là quan của dần mão; "Phật Thị", "Tang Xa" chính là tượng thân dậu; thìn tuất là thần đất của mọi nơi, sửu mùi là địa quỷ của mọi nhà.
(Mười hai địa chi là quỷ, thì lấy tượng của mười hai địa chi mà đoán như trên).
Có khi quan quỷ xuất hiện ở hào có "Quý Nhân", là thần của vương miện (冠冕之神: vương miện chi thần); "Thiên Hỷ" là thần của của may mắn, thịnh vượng; "Tang Môn" là thần tang chế; "Thiên Hoả" (天火), "Hoả Đức" (火德), "Thiên Xúc (天觸), "Táo Ty" (灶司), "Thiên Tặc" (天賊), vong hồn của cướp bóc mạnh và thành tín (強梁劫奪: cường lương kiếp đoạt); "Thiên Ngục" là quỷ chết vì hình phạt đòn roi, lưu đày; "Quan Phù" phụ trách kiện cáo; "Dương Nhận" cai quản quân binh; "Dịch Mã" là oan khuất của thương nhân; "Thiên Hà" (天河) cảm giác chìm đắm (覺溺之屈: giác nịch chi khuất); "Hoa Cái" là tăng đạo; "Hàm Trì" là gái đĩ; "Ám Kim" (暗金) là phụ nữ sanh đẻ; "Huyết Nục" (血衂) là huyết quỷ (ma máu - ma cà rồng); "Thái Tuế", "Thổ Đức", "Đao Châm" thương tổn vì chặt chém, "Khâu Mộ" tai hoạ của mồ mả, "Tang Xa" tai hoạ về quan quách, "Chiết Sát" (折煞) hồn ma chết non vì té ngã; "Phi Liêm" (飛廉), "Du Thần" (游神), "Tướng Tinh" (將星), "Vũ Thần" (武神), "Thiên Y" (天醫), "Y Thần" (醫神), "Thiên Mã" (天馬), "Mã Đạp" (馬踏); "Dục Bồn" (浴盆) trẻ sơ sinh chết đuối, "Tồi Thi" (摧屍) tai hoạ phục thi, "Cô Thần" hồn ma tuyệt tự; "Thái Âm Nguyệt Đức" nhận phước từ "Vương Mẫu" (王母), "Thái Dương Thiên Đức" nương nhờ phúc lành ở thượng đế.
(Quỷ ờ sao nào, thì lấy hình tượng các sao mà đoán như trên. "Thiên hà" là thuỷ khố là kho chứa nước mênh mông của trời, cho nên từ thìn là tháng giêng đi thuận hành, "đao châm kim tú" tháng giêng bắt đầu từ càn cho nên từ hợi mà đi thuận. Hiểu rõ các sao còn lại trong chương Chư Tinh).
Trong bốn cõi không có nơi nào khác ngoài quỷ thần, nhưng có nơi phong tục được tôn trọng, cai quản đất, nước, lửa, gió, hoặc là cả một thôn làng vẻ vang, hoặc là cả nước tranh đoạt, khó mà trình bày. Nói rằng từ nghìn xưa trước đây làm sao biết được có vị thần nào tồn tại, nghìn năm sau các vị thần tái sinh như thế nào. Quan sát quỷ thần, chỉ lấy ngũ hành, bát cung, biến hoá giống nhau làm nguyên tắc cho hậu học, dù xưa nay có thể thông suốt. Tất nhiên phải thật chỉ quỷ thần mà không biết biến thông thì dễ bị sai lầm vậy thay.
Đại để thần thường là tốt lành, quỷ thường là quấy nhiễu, bởi vì tai hoạ bệnh tật xãy ra là do tự mình rước lấy, nếu như không ăn năn hối cải để tiêu trừ bản chất xấu ác, mà tụ họp theo đồng cốt trưng bày sinh vật để nịnh nọt quỷ thần, quỷ thần chưa chắc đã hưởng vật cúng đó. Huống chi nấu nướng các sinh vật đó, để cầu đảo cho bản mệnh mình, là hành vi ích kỹ tội ác đó càng nặng. Cho nên mới nói: cúng tế mà không thiện ở giải pháp, giải pháp không bằng ở tu thân, đấy là ý nghĩa vậy. Ở chương Quỷ Thần ta nhiều lần khuyên bảo về muông thú.
.
57- Quỷ thần chương
Vào thời cổ đại, vật hiến tế không dựa trên chủ nhân và xác chết của họ, và ma quỷ không liên quan đến đồng loại của họ, cho nên không có tuyên dương việc cúng bái quỷ thần, cũng không khinh nhờn xúc phạm việc cúng bái. Người đời sau chình vì bị quấy nhiễu mà cấu phúc nên cúng tế, nên quỷ thần mới nổi lên nhiều như vậy. Tuy nhiên tốt có thần tướng, xấu có quỷ nương vào, theo ghi chép lịch sử chẳng phải tất cả đều là lừa dối, không thật. Muốn biết tình trạng quỷ thần cũng có thể dùng bói toán mà biết được vậy. Các vị thần trời, thần đất thì lấy hào quan quỷ để phân loại hình tượng, tượng là hình ảnh, tranh vẽ, khắc, đắp thành..., nó không ngoài hai nghi, tứ tượng, ngũ hành, bát quái cũng nhu lục thần, hình thức các tinh tú, có đo đạc được không, xếp đặt trên dưới, cao thấp. Tìm hiểu bản chất của quỷ và thần, cai quản của quỷ và thần, cũng như nguồn gốc thành lập của quỷ và thần, đều có thể suy ra cả.
(Bản chất: tìm hiểu bản chất tà lệch hay tốt lành lúc trước khi chết của quỷ thần; cai quản: tìm hiểu những việc gì mà thượng đế ra lệnh cho quỷ thần; thành: tim hiểu nhân duyên nào mà nó thành quỷ thần).
Hào quan quỷ thuộc dương tức là dương thần, thuộc âm tức là âm thần.
(Hào quan quỷ thuộc âm như là Vương Mẫu, Đại Bi, Thuỷ Mẫu, Thái Sơn, Thiên Phi (nữ thần), Trần Chu, Thánh Phi, Tàm Mẫu (蠶: tàm - con tằm), Tử Mẫu, Thôi Sanh (催生: thôi sanh - thúc giục sanh đẻ nhanh), Thái Quân, thuộc về Nương Nương (娘娘之屬: nương nương chi thuộc), cần phải xem xét vấn đề này từ góc độ địa điểm, con người và hoàn cảnh; đây chỉ là một cái nhìn tổng quan ngắn gọn. Bởi vì có khi thần giống nhau mà danh gọi thì khác biệt, do nơi chốn mà gọi, như ở phương bắc gọi tử mẫu nương nương, còn ở miền nam thì gọi thái quân nương nương; khác nhau về nam nữ là do thần, vì việc vì gọi là nguyên nhân sự việc, như bói hỏi con tằm được hào âm quan chính là Tàm Mẫu vậy).
Hào kim là vũ thần (武神: vũ thần - thần về sức mạnh, chiến tranh, quân đội..)
(Hào kim quan quỷ như là Thiên TTướng (天將), Quan Đế (關帝), Ngũ Công (伍公), Nhạc Vương (岳王), Nguyên Đàn (元壇), Tổng Quan (總官), Thất Sát (七煞), Kim Cương (金剛), Thương Ty (傷司), thuộc về Tang Sát, bởi vì các khu vực xa xôi hẻo lánh có nhiều danh xung như Nguyên Soái Tướng Quân, Kim Giáp chi Thần, cũng như những người trở thành thần với sức chiến đấu dũng mãnh và lòng dũng cảm, đều có thể suy xét các loại).
Hào thuỷ là thần của sông biển (河海江神: hà hải giang thần)
(Hào thuỷ quan quỷ như Phổ Đà (普陀), Chân Vũ (真武), Vân Đài (雲台), Bắc Đẩu (北斗), Hải Thần (海神), Long Vương (龍王), Đại Vương (大王), Dương Tướng (楊將), Thi Tướng (施相), Thiên Phi (天妃), Yến Công (晏公), Từ Sơn (祠山), Chu Vương (周王), Uông Công (汪公), Thuỷ Mẫu (水母), Thuỷ Thánh (水聖), Tỉnh Thần (井神), Trì Thần (池神), thuộc về các Thuỷ Thương Thần (các thần về tai nạn sông nước), cùng với các loại thần thành có liên quan đến nước. Bởi chín con sông và trăm con suối (九河百川: cửu hà bách xuyên) ở mỗi nơi đều có các thần cai quản, dân chúng tôn xưng, mỗi nơi khác biệt, tuỳ theo phong tục của người gieo quẻ, lấy ngũ hành bát quái, lục thần, các tinh tú, hình tượng thì soi xét trúng mục đích. Đại để thuỷ thần, hoả thần thường linh hiển không thể trình bày cặn kẻ bởi mỗi nơi đều khác nhau, giống như nhược "Tào Hà Đại Vương", "Đông Hải Tôn Thiên Phi", "Nam Hà Tôn Chu Vương", "Động Đình Tôn Tương Phi", "Bà Dương Tiểu Cô", "Trường Giang Dương Tứ Tướng Quân" mỗi vị đều có phận riêng của mình).
Hào mộc là văn thần (文神), cùng với yêu ma nương dựa cỏ cây.
(Hào mộc quan quỷ như Đông Nhạc (東岳), Gia Đường (家堂), Sơn Thần (山神), Thụ Thần (樹神), Ngũ Thánh (五聖), Viên Thần (園神), Cửu Lương (九良), Trà Diên (茶筵), Tam Mao (三茅), Cửu Thiên (九天), Lỗ Ban (魯班), Hoa Thần (花神), Tam Lang (三郎), Đạo Quân (道君), Văn Xương (文昌), thuộc nam mộc thần, cùng với các nơi có quỷ thần nương tựa núi đồi, cây cối, khí mãnh (器皿: khí mãnh - khí là dụng cụ, mãnh là bát, dĩa, chén, mâm) đều có thể suy xét được).
Hào hoả là hoả thần, cai quản sanh đẻ nuôi dưỡng, sấm chớp.
(Hào hoả quan quỷ, như Ly Thần (離神), Điện Thần (電神), Nam Đẩu (南斗), Hoả Lôi (火雷), Vi Đà (韋陀), Nguyên Đàn (元壇), Hoa Quang (華光), Ngũ Thần (五神), Ngũ Hách (五赫), Tam Sát (三煞), Táo Thần (灶神), Kỳ Đạo (旗纛), Lô Thần (爐神), Pháo Thần (炮神), Hương Hoả (香火), Nam Đường (南堂), Lợi Thị (利市), thuộc về các thần sanh đẻ nuôi dưỡng, cùng với các loại thần thành do hoả).
Hào thổ là Thổ Thần, cùng với các thần cai quản sông núi, thần đất và thần lúa.
(Hào thổ quan quỷ như Địa Chi (地祗), Thái Tuế (太歲), Thành Hoàng (城隍), Xã Tắc (社稷), Thổ Thần (土神), Miếu Thần (廟神), Trạch Thần (宅神), Già Lam (伽藍), Bì Tràng (皮腸), Đương Cảnh (當境), thuộc về Thổ Địa trong nhà mình, cùng với các vị thần do tích luỹ công đức ở địa phương. Bởi vì thần linh cầm đầu đất đai, nên Thánh Hiệu (聖號), tên các thần không giống nhau, có các danh xưng: Phi Du (飛遊), Tác Phạm (作犯), Chước Phạt (斫伐), Phần Mộ (墳墓), Khanh Tư (坑廝), Kim Thần (金神), Ngâm Thần (吟神), Phục Thi (伏尸), Đằng Xà (騰蛇), Thiên Tào Thổ (天曹土), nên lấy bát cung, lục thần, các sao mà phối hợp và phân biệt như hào thổ quan bạch hổ chính là đoán kim thần thất sát. Nói chung tây bắc đất dày (土厚: thổ hậu) nên chỉ biết tôn kính có thần đất thôi, còn đông nam đất mỏng (土薄: thổ bạc), cho nên có nhiều danh xưng cho các thần đất. Do đó phụ thuộc vào người, nơi chốn, sự việc mà có nhiều mối biến thông rắc rối).
Quỷ mà khi còn sống rất dũng cảm, cho rằng bản chất của nó thuộc kim, hoặc chết ở chiến tranh dưới mũi tên, ngọn giáo, cùng với bệnh chết ở cuống họng, phổi, chính nghĩa, sắc bén, nói rằng nó thành quỷ cho nên thuộc kim. Làm quỷ nên có khả năng thân thiện được trời cho chốn cai quản, nếu như vị trí ở phương tây, uy quyền ở mùa thu, chủ về các việc quân đội, thì khảo sát ở tượng kim vậy.
(Đây là quan sát quỹ thần tới từ đâu. Hào kim quỷ thì quỷ thần này khi còn sống rất dũng cảm là nói theo bản chất thì quỷ này chết vì đao binh; còn nói trở nên quỷ thần, thì thần này cai quản việc gì, ở đâu, hoặc là thuỷ, hoặc là hoả, hoặc là thổ, hoặc là kim, hoặc là mộc; nói theo nơi cai quản như: quan nhạc thần dũng cảm nghĩa khí thì thuộc kim, thất sát tang sát bản chất là kim cai quản việc sát phạt. Theo độn giáp thất sát chính là canh, chính là bản chất kim).
Khi còn sống mưu sinh ở vùng sông nước, hoặc là chết trong sóng gió ở sông, biển, cũng như chết do bệnh thận, trà rượu. Nói chung quản lý thuyền đò ở sông hồ thì xem xét hào thuỷ vậy.
(Có thể suy ra xuất thân của một người hiển thánh, thì biến hoá vô tận. Đại Từ hiển linh ở biển Nam Hải, Tam Quan sanh ra đón nhận Long Thần, chính là như vậy).
Lúc còn sống tính tình vui thích nơi làng hoa, làm nghề trồng dâu, trồng đay (立業桑麻), hoặc là chết vì hình phạt roi, gậy (亡於笞杖), hay dưới gốc cây (樹木之下), chết vì bị trói buộc (喪於捆縛), bệnh điên cuồng (瘋癲), thường điều khiển việc trồng trọt cây cối, rồi đốn chặt thì xem xét hào mộc.
(Khi hai cách giải thích trái ngược nhau không thể loại trừ lẫn nhau, ý nghĩa của chúng cần được xem xét. Ví dụ, Nam Mộc Thần tương ứng với Thuỷ Quan là vị thần có bản chất là gỗ và cai quản nước).
Sống làm các việc liên quan đến bếp lò, rèn đúc, chết do lửa mạnh, vết thương lỡ loét, sanh con bị băng huyết , thường các việc liên hệ đến cái vạc, nồi chảo, thai nghén sanh đẻ, thì xem xét hào hoả.
(Nên suy xét mở rộng, dùng ngũ hành, lục thần, các sao (thần sát) phối hợp).
Lúc sống làm nghề cày cấy, chết do bệnh truyền nhiễm, lá lách, dạ dày, vì tai nạn đất đá, thường liên hệ lao động thì suy xét hào thổ.
(Chỉ linh hiển ở đông nam).
Phương pháp có khi lấy hào động làm quỷ, phân biệt hào dương là nam hào âm là nữ, đến từ ngọ là hướng nam, tý là hướng bắc. Một hào động là một quỷ, ba hào động là ba quỷ, các hào và quỷ đều động thì lấy phương của hào quỷ làm phương hướng, số của hào quỷ làm số.
(Hào quỷ an tĩnh mà có hào khác động thì xem xét hào động, hào quỷ động, hào khác cũng động xem xét hào quỷ, hào động tính đếm theo hào, hào quỷ tính đếm theo số như hào thổ quỷ động đoán là năm quỷ).
Hào quỷ phát động xem xét ở cung nào, quẻ và hào đều an tĩnh, tìm xem ở quẻ ngoại, không có hào quỷ thì tìm hào phục, xem xét ở hào phi, phục quỷ nếu như không vong, chuyên tâm rèn luyện đạo đức vậy.
(Hào quỷ độc phát lấy tám cung mà xem xét quỷ, các hào với quỷ đều an tĩnh, lấy quẻ ngoại mà xem xét quỷ, hào quỷ ẩn phục lấy hào phi trên quỷ phục mà xem xét quỷ, hào quỷ phục mà lại không vong chính là không có quỷ quấy phá, chỉ cần tu sửa đức hạnh thì mọi việc qua hết. Đây là chuyên xem xét về quỷ chẳng phải đoàn là thần).
Một hào quan quỷ thì chuyên xem ở ngũ hành, hai hào quan thì chuyên xem ở lục thần, hào động với hào quan quỷ thì chuyên xem ở bát quái, loạn động hào quan quỷ thì chuyên xem thần sát, hào thế quan quỷ thì chuyên về lục hào.
(Quẻ có một hào quan thì theo tượng của ngũ hành. Quẻ có hai hào quan thì theo tượng của lục thần, ví dụ hào dưới có bạch hổ thì gọi là "vũ thần", hào trên có thanh long thì gọi là "thụ thần". Quẻ có hào động, hào quỷ thì theo tượng của bát quái, ví dụ quỷ động ở cung càn thì gọi là "thiên thần", quỷ động ở cung khôn thì tượng là "thổ địa". Quẻ có hào loạn động hoặc là trong có hào quan động thì theo thần sát ở hào quan. Đây là chuyên đoàn về thần).
Thần và quỷ có khác biệt, nghiên cứu không khác biệt, vì thế khi hào quan động ở cung càn nói là mạo phạm thiên thần, cho là xung đột chùa chiền, đền miếu, quỷ của người già, nhà sư, hồn phách của vương hầu ở thành đô. Hào động ở cung khôn nói là xúc phạm thần đất, cho là tổn hại mồ mả, quỷ bà già, thần của vợ vua. Cung chần là phương đông, thần "cửu thiên", đạo giáo, quản lý tằm,dâu, thuyền, xe, quỷ của nhục thân gãy chân, thần linh của sấm sét. Cung tốn ở đông nam, đó là thần quản lý sóng gió làm cho biển yên định, quỷ quấy phá vườn hoa quả, hồn phách của phụ nữ có tuổi. Cung khảm ở hướng bắc, ở trên trời là sao bắc đẩu, ở dưới đất là bắc cực, các linh hồn ở trăm sông, bốn biển, nó rất là rộng lớn bởi là thần nước lửa của thiên hạ chắc chằn không thể thay đổi. Cung ly là "hoả đức", ở các sao là 'hoả tinh" (ngày xưa gọi Hỏa tinh là huỳnh hoặc 熒惑), ở nhà gọi là thần táo, ở người thân gọi là hồn người trung nữ. Cung cấn là thần núi, là ngũ nhạc (Ngũ Nhạc 五岳 năm núi Nhạc: Tung Sơn 嵩山, Thái Sơn 泰山, Hoa Sơn 華山, Hành Sơn 衡山, Hằng Sơn 恆山), là mồ mả bỏ phế, cũng là hồn ma của trẻ con. Cung đoài là phương tây, phật giáo (釋之宗: thích chi tông), tội ác trù yểm, nguyền rủa, lời dối trá của người chủ trì tế lễ, là hồn phách của sư ni, tội ác của rượu và sắc (酒色之邪: tửu sắc chi tà).
(Bàn về hào quan quỷ độc phát, quẻ hào đều an tĩnh, lấy tám cung mà đoán như trên đây).
Hào sơ là tác hại ở giếng, hồn ma trong giếng, thần quản lý nơi cư trù; hào hai tác hại ở bếp lò, vong hồn dưới bếp lò, thần cai quản khu vực riêng biệt; hào ba tác quái trong nhà, hồn ma của phòng ở phụ nữ, lối đi (閨壼: khuê khổn), thần cai quản cầu, bến tàu của đô thành, quận huyện; hào bốn tác quái ở cửa nẻo, thần của quan ải (關隘之神); hào năm tác hại ở đường lộ, thần của vương hầu; hào sáu tác hại ở mồ mả, phật (慈悲之尊: từ bi chi tôn), vong hồn của đày tớ, nô bộc. Thế ở hào sơ thần nhà (家神), thế ở hào nhị thổ thần (土神), thế ở hào ba là viên thần (園神), thế ở hào bốn, là ngũ thần (五神), thế ở hào sáu (山神).
(Nói về quẻ có một hào quỷ, xuất hiện ở hào nào, cũng như quỷ trì thế ở tượng nào lấy tượng sáu hào mà đoán như trên đây).
Thanh long là thần cai quản việc vui mừng, tài lợi, thánh hiền phuong đông, văn tướng, là thiếu niên chết trẻ, hồn ma của xác còn trong bào thai. Chu tước cũng là "ly thần" (離神), cai quản việc kiện tụng, xem xét việc thiện ác, nắm giữ việc giao dịch, chủ sanh đẻ nuôi nấng, tuần thú cửa phía nam, quyền trong tam công, hoặc là ngôn ngữ của chúa, hoặc là hồn ma oan khuất trong ngục tù. Câu trận là thổ thần cai quản lúa, thóc, chủ xã tắc (社: xã - thần đất; 稷: tắc - thần lúa), là vong hồn người thợ giỏi (工巧之亡: công xảo chi vong), hồn ma té ngã (折跌之鬼: chiết điệt chi quỷ). Đằng xà thuộc hoả, tả hữu của hoàng đế, là sự quấy nhiễu của yêu tà quái dị, thần của đốn chặt, nhanh nhẹn (飛遊砍伐之神: phi du khảm phạt chi thần), hồn ma của nút thắt điên rồ (繩結驚狂之鬼: thàng kết kinh cuồng chi quỷ). Bạch hổ là thần của giáp sắt, là quấy phá của tang phục (喪服之祟: tang phục chi tuý), quân binh hung hản, ngang ngược, xưng hô nguyên soái. Bắc phương là huyền vũ, thần của cầu, xà nhà (强梁之神), hồn ma của trộm cướp, vong hồn ở sông giếng, hồn phách của kỹ nữ.
(Quẻ có hai hào quỷ: hào trên lâm thần nào, hào dưới lâm thần nào, lấy lục thần mà đoán như trên đây).
Hào phụ mẫu là tổ tiên, hào thê tài là thần thiếp (臣妾), hào huynh đệ là ràng buộc của tay chân (手足之纏: thủ túc chi triền), hào tử tôn là tội lỗi của con cháu (兒女之孽: nhi nữ chi nghiệt), hào thế là vốn cùng họ hàng, hào ứng là họ khác.
(Các hào lục thân có khi động, thì lấy hình ảnh lục thân mà đoán như trên. Chỉ khi hoá quỷ cũng như độc phát thì càng thêm đúng. Hào thế là quỷ của gia đình, hào ứng là vong linh của người khác họ).
Phạm hợi tý là "Thiên Tướng", "Đẩu Thần' có thể cúng tế cầu đảo; phạm tỵ ngọ là "Hoả Đức", "Tài Thần" có thể tế cầu để giải trừ (可禳: khả nhương); "Thụ Thần", "Đông Nhạc" chính là quan của dần mão; "Phật Thị", "Tang Xa" chính là tượng thân dậu; thìn tuất là thần đất của mọi nơi, sửu mùi là địa quỷ của mọi nhà.
(Mười hai địa chi là quỷ, thì lấy tượng của mười hai địa chi mà đoán như trên).
Có khi quan quỷ xuất hiện ở hào có "Quý Nhân", là thần của vương miện (冠冕之神: vương miện chi thần); "Thiên Hỷ" là thần của của may mắn, thịnh vượng; "Tang Môn" là thần tang chế; "Thiên Hoả" (天火), "Hoả Đức" (火德), "Thiên Xúc (天觸), "Táo Ty" (灶司), "Thiên Tặc" (天賊), vong hồn của cướp bóc mạnh và thành tín (強梁劫奪: cường lương kiếp đoạt); "Thiên Ngục" là quỷ chết vì hình phạt đòn roi, lưu đày; "Quan Phù" phụ trách kiện cáo; "Dương Nhận" cai quản quân binh; "Dịch Mã" là oan khuất của thương nhân; "Thiên Hà" (天河) cảm giác chìm đắm (覺溺之屈: giác nịch chi khuất); "Hoa Cái" là tăng đạo; "Hàm Trì" là gái đĩ; "Ám Kim" (暗金) là phụ nữ sanh đẻ; "Huyết Nục" (血衂) là huyết quỷ (ma máu - ma cà rồng); "Thái Tuế", "Thổ Đức", "Đao Châm" thương tổn vì chặt chém, "Khâu Mộ" tai hoạ của mồ mả, "Tang Xa" tai hoạ về quan quách, "Chiết Sát" (折煞) hồn ma chết non vì té ngã; "Phi Liêm" (飛廉), "Du Thần" (游神), "Tướng Tinh" (將星), "Vũ Thần" (武神), "Thiên Y" (天醫), "Y Thần" (醫神), "Thiên Mã" (天馬), "Mã Đạp" (馬踏); "Dục Bồn" (浴盆) trẻ sơ sinh chết đuối, "Tồi Thi" (摧屍) tai hoạ phục thi, "Cô Thần" hồn ma tuyệt tự; "Thái Âm Nguyệt Đức" nhận phước từ "Vương Mẫu" (王母), "Thái Dương Thiên Đức" nương nhờ phúc lành ở thượng đế.
(Quỷ ờ sao nào, thì lấy hình tượng các sao mà đoán như trên. "Thiên hà" là thuỷ khố là kho chứa nước mênh mông của trời, cho nên từ thìn là tháng giêng đi thuận hành, "đao châm kim tú" tháng giêng bắt đầu từ càn cho nên từ hợi mà đi thuận. Hiểu rõ các sao còn lại trong chương Chư Tinh).
Trong bốn cõi không có nơi nào khác ngoài quỷ thần, nhưng có nơi phong tục được tôn trọng, cai quản đất, nước, lửa, gió, hoặc là cả một thôn làng vẻ vang, hoặc là cả nước tranh đoạt, khó mà trình bày. Nói rằng từ nghìn xưa trước đây làm sao biết được có vị thần nào tồn tại, nghìn năm sau các vị thần tái sinh như thế nào. Quan sát quỷ thần, chỉ lấy ngũ hành, bát cung, biến hoá giống nhau làm nguyên tắc cho hậu học, dù xưa nay có thể thông suốt. Tất nhiên phải thật chỉ quỷ thần mà không biết biến thông thì dễ bị sai lầm vậy thay.
Đại để thần thường là tốt lành, quỷ thường là quấy nhiễu, bởi vì tai hoạ bệnh tật xãy ra là do tự mình rước lấy, nếu như không ăn năn hối cải để tiêu trừ bản chất xấu ác, mà tụ họp theo đồng cốt trưng bày sinh vật để nịnh nọt quỷ thần, quỷ thần chưa chắc đã hưởng vật cúng đó. Huống chi nấu nướng các sinh vật đó, để cầu đảo cho bản mệnh mình, là hành vi ích kỹ tội ác đó càng nặng. Cho nên mới nói: cúng tế mà không thiện ở giải pháp, giải pháp không bằng ở tu thân, đấy là ý nghĩa vậy. Ở chương Quỷ Thần ta nhiều lần khuyên bảo về muông thú.
.
#59
Gửi vào Hôm nay, 12:01
Dịch Mạo - Quyển Bảy
58- Học nghiệp chương
(Qua đây hiểu rõ cửu lưu [1], bách công [2], nghề nào, thành nghề, chấp dịch [3], nghề răng, nghề luyện kim, bùa chú, chín vấn đề về tu dưỡng).
Người quân tử chăm chỉ học tập, trăm thợ chuyên nghề học nghề của họ, học giả, văn hào chân thành mà nổi danh vang khắp, một đời bản thân trống rỗng mà đức nghiệp vòng vèo. Từ trước tới nay giới cửu lưu, có nhiều chức vụ và người người ngưỡng mộ, vợ con tài sản hưng thịnh, dồi dào, còn người theo các nghề khác thì lấy tài làm dụng.
(Sự học có thể che chở bản thân, cho nên hào phụ mẫu là văn thư, hào quan quỷ là danh dự, tiếng tăm, hào thê tài là thu nhập, cả hai hào tài và hào quan đều có đủ thì nghề nghiệp phải to lớn).
Như thợ chưa có nghề nghiệp mà bói theo nghề nào thì được hào kim tài thì lợi ở công việc vàng bạc, đá quý, hào thuỷ tài thì làm nghề liên quan đến nước, ao hồ có lợi, hào hoả tài là máy móc, dệt, cắt may, đồ gốm, rèn đúc, hào thổ tài thì liên quan đến nông nghiệp ruộng vườn, bùn đất, cát đá, hào mộc tài là vườn hoa, kiếm củi, hái thuốc, trồng dâu, trồng đay.
Hào thê tài phát động ở cung khảm thì lợi ở buôn bán rượu thịt, hào thê tài động ở cung ly thích hợp nghề làm gốm, rèn đúc, ở cung chấn hay cung tốn thì mưu sinh ở nghề thuyền xe vận chuyển, ở cung càn, cung đoài là vật thưởng thức, các việc liên hệ đến đập gõ, ở cung cấn thì vui thích làm tiều phu, ở cung khôn an vui với nghề nông.
(Lấy hào thê tài là gì, động ở cung nào mà đoán, vật thưởng thức là vàng bạc đá quý, dập gõ là các nghề đồng và sắt).
"Thiên y" (天醫) là thầy thuốc, "dịch mã" (驛馬) là người đi buôn bán, "quý nhân" (貴人) là chức trách, là sai khiến, "thiên cương" (天罡) là bắt cá là chiếm đoạt, "chu tước" là xuất sắc, "bạch hổ" là tàn sát, "thanh long" là văn tài, "đằng xà" là hý kịch, "câu trận" là thợ mộc, "huyền vũ" là màn trướng, nếu mà hào thê tài vượng thì nên theo, còn hào tài suy thì nên tránh xa.
(Lấy các sao, lục thần ở hào thê tài phù hợp, "dịch" sai khiến phiếm chỉ người hầu hay binh lính, "mạc" phiếm chỉ nhân viên và khách. Hào thê tài vượng thì nghề nghiệp có thể hưng thịnh, còn hào thê tài suy thì nghề này không phát triễn được, nếu như quẻ không có hào thê tài, thì lấy nguyên thần của hào thê tài là hào tử tôn, hào động ở cung ly thích hợp nghề làm đồ gốm, cùng với chu tước thì sung túc, dồi dào).
Người thành nghề, hào thế không vong thì không hoàn thành, quẻ lục xung thì nửa đường bỏ phế. Nghề chấp dịch: hào tài, hào quan vượng thì lợi ích về với gia đình, hào quan khắc hào thế thì có nổi lo thật thà, đơn giản. Người theo nghề răng: hào tài, hào quan vượng thì khách hàng tấp nập cửa tiệm, hào ứng không vong thì than thở cửa tiệm tịch mịch, vắng vẻ.
Học nghề luyện kim thì hào dụng là hào tài, học bùa chú thì hào dụng là hào quan, học tu dưỡng thì hào thế là dụng. Đây là các nghề khác biệt, chứ còn trăm nghề khác đều là lấy hào tài làm hào dụng.
(Bùa chú thì mong cầu được linh nghiếm, trơn tru cho nên dụng thần là quan. Tu dưỡng là mong cầu trường sinh cho nên hào thế là dụng. Còn các nghề thủ công khác chuyên để cung cấp cho bản thân, lập gia đình cho nên hào thê tài làm hào dụng).
Bởi vì hỏi về nghề nghiệp thường theo lợi ích, lý do lợi ích của nghề nghiệp mà phân tích các điều hữu dụng, thì dụng thần cũng tuỳ theo ngành nghề mà biến đổi, tốt xấu tỏ rõ.
[1] Cửu lưu: Chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家.
[2] Bách công 百工: bách công - Các loại thợ chuyên nghề
[3] Chấp dịch: chỉ người theo hầu hoặc thị giả
.
58- Học nghiệp chương
(Qua đây hiểu rõ cửu lưu [1], bách công [2], nghề nào, thành nghề, chấp dịch [3], nghề răng, nghề luyện kim, bùa chú, chín vấn đề về tu dưỡng).
Người quân tử chăm chỉ học tập, trăm thợ chuyên nghề học nghề của họ, học giả, văn hào chân thành mà nổi danh vang khắp, một đời bản thân trống rỗng mà đức nghiệp vòng vèo. Từ trước tới nay giới cửu lưu, có nhiều chức vụ và người người ngưỡng mộ, vợ con tài sản hưng thịnh, dồi dào, còn người theo các nghề khác thì lấy tài làm dụng.
(Sự học có thể che chở bản thân, cho nên hào phụ mẫu là văn thư, hào quan quỷ là danh dự, tiếng tăm, hào thê tài là thu nhập, cả hai hào tài và hào quan đều có đủ thì nghề nghiệp phải to lớn).
Như thợ chưa có nghề nghiệp mà bói theo nghề nào thì được hào kim tài thì lợi ở công việc vàng bạc, đá quý, hào thuỷ tài thì làm nghề liên quan đến nước, ao hồ có lợi, hào hoả tài là máy móc, dệt, cắt may, đồ gốm, rèn đúc, hào thổ tài thì liên quan đến nông nghiệp ruộng vườn, bùn đất, cát đá, hào mộc tài là vườn hoa, kiếm củi, hái thuốc, trồng dâu, trồng đay.
Hào thê tài phát động ở cung khảm thì lợi ở buôn bán rượu thịt, hào thê tài động ở cung ly thích hợp nghề làm gốm, rèn đúc, ở cung chấn hay cung tốn thì mưu sinh ở nghề thuyền xe vận chuyển, ở cung càn, cung đoài là vật thưởng thức, các việc liên hệ đến đập gõ, ở cung cấn thì vui thích làm tiều phu, ở cung khôn an vui với nghề nông.
(Lấy hào thê tài là gì, động ở cung nào mà đoán, vật thưởng thức là vàng bạc đá quý, dập gõ là các nghề đồng và sắt).
"Thiên y" (天醫) là thầy thuốc, "dịch mã" (驛馬) là người đi buôn bán, "quý nhân" (貴人) là chức trách, là sai khiến, "thiên cương" (天罡) là bắt cá là chiếm đoạt, "chu tước" là xuất sắc, "bạch hổ" là tàn sát, "thanh long" là văn tài, "đằng xà" là hý kịch, "câu trận" là thợ mộc, "huyền vũ" là màn trướng, nếu mà hào thê tài vượng thì nên theo, còn hào tài suy thì nên tránh xa.
(Lấy các sao, lục thần ở hào thê tài phù hợp, "dịch" sai khiến phiếm chỉ người hầu hay binh lính, "mạc" phiếm chỉ nhân viên và khách. Hào thê tài vượng thì nghề nghiệp có thể hưng thịnh, còn hào thê tài suy thì nghề này không phát triễn được, nếu như quẻ không có hào thê tài, thì lấy nguyên thần của hào thê tài là hào tử tôn, hào động ở cung ly thích hợp nghề làm đồ gốm, cùng với chu tước thì sung túc, dồi dào).
Người thành nghề, hào thế không vong thì không hoàn thành, quẻ lục xung thì nửa đường bỏ phế. Nghề chấp dịch: hào tài, hào quan vượng thì lợi ích về với gia đình, hào quan khắc hào thế thì có nổi lo thật thà, đơn giản. Người theo nghề răng: hào tài, hào quan vượng thì khách hàng tấp nập cửa tiệm, hào ứng không vong thì than thở cửa tiệm tịch mịch, vắng vẻ.
Học nghề luyện kim thì hào dụng là hào tài, học bùa chú thì hào dụng là hào quan, học tu dưỡng thì hào thế là dụng. Đây là các nghề khác biệt, chứ còn trăm nghề khác đều là lấy hào tài làm hào dụng.
(Bùa chú thì mong cầu được linh nghiếm, trơn tru cho nên dụng thần là quan. Tu dưỡng là mong cầu trường sinh cho nên hào thế là dụng. Còn các nghề thủ công khác chuyên để cung cấp cho bản thân, lập gia đình cho nên hào thê tài làm hào dụng).
Bởi vì hỏi về nghề nghiệp thường theo lợi ích, lý do lợi ích của nghề nghiệp mà phân tích các điều hữu dụng, thì dụng thần cũng tuỳ theo ngành nghề mà biến đổi, tốt xấu tỏ rõ.
[1] Cửu lưu: Chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家.
[2] Bách công 百工: bách công - Các loại thợ chuyên nghề
[3] Chấp dịch: chỉ người theo hầu hoặc thị giả
.
Similar Topics
| Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
|---|
4 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 4 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:














