Dịch Mạo
Viết bởi FM_daubac, 13/12/25 09:13
44 replies to this topic
#16
Gửi vào 14/12/2025 - 01:41
Dịch Mạo - Quyển Hai
15- Thăng giáng chương
Thăng (lên cao): bởi sanh (đời sống), trưởng (lớn lên), tiến (đi về phía trước), lai (đến); giáng (xuống thấp), bởi tử (chết), tiêu (suy thoái), thối (rút lui), vãng (đã qua). Khoảng giữa trời đất: chỉ có âm dương tiêu trưởng; trong lục hợp [1]: chỉ có lục khí qua lại [2]. Vì thế hào một dương thăng thì hào sáu âm giáng, từ quẻ phục thuận theo vòng bên trái từ quẻ càn; hào một âm trưởng thì hào sáu dương tiêu, từ quẻ cấu thuận vòng bên phải quẻ khôn.
(Từ chấn mà đạp lên ly, đoài đến càn là vòng bên trái; từ tốn mà đạp lên khảm, cấn cho tới khôn là vòng bên phải, chính là thứ tự quẻ dịch lập nên: càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn, xem xét kỹ càng ở bài "thành quái").
Tam tài (thiên địa nhân) do đây mà hoàn bị, vạn vật từ chỗ này mà hiện hữu, mọi thứ đều bắt nguồn ở tứ tượng và lục hào, trên dưới, qua lại bên trong, lấy quẻ phục mà nói, hào sơ là hào thăng, hào thượng là hào giáng, nếu mà bói vào tháng hai thì hào bốn dương là hào thăng, hào ba âm là hào giáng. Bởi việc thăng giáng là nói theo thời gian lúc bói, không phải dùng quẻ dịch mà nói.
(Quái thể thăng giáng: như là quẻ phục hào một dương thăng hào sáu lục âm giáng, nhưng nguyên tắc thăng giáng là theo lúc bói, giả dụ như bói sau xuân phân: chính là hào tứ dương là hào thăng, hào ba âm là hào giáng, tức dùng vị trí thích hợp của quẻ bói. Nếu gặp hào bốn là hào thăng, hào ba là hào giáng, nếu hào bốn lại là hào dương thì là hào thăng thật sự, hào ba thuộc hào âm là hào giáng thật sự, trái lại thì không phải. Quẻ phục đáng nghiền ngẫm, các quẻ khác phỏng theo đó).
Hạn độ của các quẻ và ngày theo ngày: nguyên tắc nói đông chí di là quẻ sáu mươi bốn, mà chấn đoài khảm ly chẳng thể xếp đặt đều trong đó bởi không nằm ngoài sự thăng giáng.
(Phương pháp đó lấy ngày đông chí khởi sơn lôi di là quẻ sáu mươi bốn, mỗi một ngày di chuyển một hào, một tháng di chuyển được năm quẻ, một năm được tất cả sáu mươi quẻ, riêng chấn, đoài, khảm, ly được thêm vào ở hai ngày chí (đông chí, hạ chí) và hai ngày phân (xuân phân, thu phân), đó là tự nhiên, cho nên quy định ngoài thăng giáng, riêng quy luật biến số của Hà Lạc là quan trọng nhất, đại khái tháng giêng: tiểu quá, mông, ích, tiệm thái; tháng hai nhu, tuỳ, tấn, giải, đại tráng; tháng ba dự, tung, cổ, cách, quải; tháng tư lý, sư, tỷ, tiểu súc, càn; tháng năm đại hữu, gia nhân, tỉnh, hàm, cấu; tháng sáu đỉnh, phong, hoán, lữ, độn; tháng bảy đồng nhân, tiết, hằng, tổn, bỉ; tháng tám tốn, tuỵ, đại súc, bí, quan; tháng chín quy muội, vô vọng, minh di, khốn, bác; tháng mười cấn, ký tế, phệ hạp, đại quá, khôn; tháng mười một vị tế, kiển, di, trung phu, phục; tháng mười hai truân, khiêm, khuê, thăng, lâm, là thứ tự vậy).
Tóm tắt:
Quẻ Dịch ứng vào các tháng trong năm
Tháng Giêng: Tiểu Quá; Mông; Ích; Tiệm; Thái.
Tháng Hai: Nhu; Tuỳ; Tấn; Giải; Đại Tráng.
Tháng Ba: Dự; Tụng; Cổ; Cách; Quải.
Tháng Tư: Lý; Sư; Tỷ; Tiểu Súc; Càn.
Tháng Năm: Đại Hữu; Gia Nhân; Tỉnh; Hàm; Cấu.
Tháng Sáu: Đỉnh; Phong; Hoán; Lữ; Độn.
Tháng Bảy: Đồng Nhân; Tiết Hằng; Tốn; Bỉ.
Tháng Tám: Tốn; Tuỵ; Đại Súc; Bí; Quan.
Tháng Chín: Quy Muội; Vô Vọng; Minh Di; Khốn; Bác.
Tháng Mười: Cấn; Ký Tế; Phệ Hạp; Đại Quá; Khôn.
Tháng Mười Một: Vị Tế; Kiển; Di (khởi ngay ngày Đông Chí); Trung Phu; Phục.
Tháng Chạp: Truân; Khiêm; Khuê; Thăng; Lâm.
Bởi dụng thần ở hào thăng, ắt là nhật thần lớn hơn và nguyệt thần mới hơn; còn dụng thần ở hào giáng thì nhật thần bị tiêu tan và nguyệt thì bị tước đoạt. Vì thế nguyên tắc thăng giáng, bao gồm cả xem xét dụng thần vượng suy, cũng không thể chấp nhất khi luận.
(Thăng giáng không bằng lực của tiến thối, lại phải xem hào dụng thần vượng tướng, hào thăng thì càng tốt, hào dụng thần hưu tù mà gặp hào giáng thì càng xấu, không thể liên kết thăng giáng để định vượng suy).
[1] lục hợp: trời, đất, đông, tây, nam, bắc gọi là lục hợp 六合
[2] lục khí 六氣 gồm: âm, dương, gió, mưa, tối và sáng (âm, dương, phong, vũ, hối, minh 陰, 陽, 風, 雨, 晦, 明) -Cũng chỉ lục tình 六情 gồm: yêu, ghét, mừng, giận, thương, vui (hiếu, ố, hỉ, nộ, ai, lạc 好, 惡, 喜, 怒, 哀, 樂)
.
15- Thăng giáng chương
Thăng (lên cao): bởi sanh (đời sống), trưởng (lớn lên), tiến (đi về phía trước), lai (đến); giáng (xuống thấp), bởi tử (chết), tiêu (suy thoái), thối (rút lui), vãng (đã qua). Khoảng giữa trời đất: chỉ có âm dương tiêu trưởng; trong lục hợp [1]: chỉ có lục khí qua lại [2]. Vì thế hào một dương thăng thì hào sáu âm giáng, từ quẻ phục thuận theo vòng bên trái từ quẻ càn; hào một âm trưởng thì hào sáu dương tiêu, từ quẻ cấu thuận vòng bên phải quẻ khôn.
(Từ chấn mà đạp lên ly, đoài đến càn là vòng bên trái; từ tốn mà đạp lên khảm, cấn cho tới khôn là vòng bên phải, chính là thứ tự quẻ dịch lập nên: càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn, xem xét kỹ càng ở bài "thành quái").
Tam tài (thiên địa nhân) do đây mà hoàn bị, vạn vật từ chỗ này mà hiện hữu, mọi thứ đều bắt nguồn ở tứ tượng và lục hào, trên dưới, qua lại bên trong, lấy quẻ phục mà nói, hào sơ là hào thăng, hào thượng là hào giáng, nếu mà bói vào tháng hai thì hào bốn dương là hào thăng, hào ba âm là hào giáng. Bởi việc thăng giáng là nói theo thời gian lúc bói, không phải dùng quẻ dịch mà nói.
(Quái thể thăng giáng: như là quẻ phục hào một dương thăng hào sáu lục âm giáng, nhưng nguyên tắc thăng giáng là theo lúc bói, giả dụ như bói sau xuân phân: chính là hào tứ dương là hào thăng, hào ba âm là hào giáng, tức dùng vị trí thích hợp của quẻ bói. Nếu gặp hào bốn là hào thăng, hào ba là hào giáng, nếu hào bốn lại là hào dương thì là hào thăng thật sự, hào ba thuộc hào âm là hào giáng thật sự, trái lại thì không phải. Quẻ phục đáng nghiền ngẫm, các quẻ khác phỏng theo đó).
Hạn độ của các quẻ và ngày theo ngày: nguyên tắc nói đông chí di là quẻ sáu mươi bốn, mà chấn đoài khảm ly chẳng thể xếp đặt đều trong đó bởi không nằm ngoài sự thăng giáng.
(Phương pháp đó lấy ngày đông chí khởi sơn lôi di là quẻ sáu mươi bốn, mỗi một ngày di chuyển một hào, một tháng di chuyển được năm quẻ, một năm được tất cả sáu mươi quẻ, riêng chấn, đoài, khảm, ly được thêm vào ở hai ngày chí (đông chí, hạ chí) và hai ngày phân (xuân phân, thu phân), đó là tự nhiên, cho nên quy định ngoài thăng giáng, riêng quy luật biến số của Hà Lạc là quan trọng nhất, đại khái tháng giêng: tiểu quá, mông, ích, tiệm thái; tháng hai nhu, tuỳ, tấn, giải, đại tráng; tháng ba dự, tung, cổ, cách, quải; tháng tư lý, sư, tỷ, tiểu súc, càn; tháng năm đại hữu, gia nhân, tỉnh, hàm, cấu; tháng sáu đỉnh, phong, hoán, lữ, độn; tháng bảy đồng nhân, tiết, hằng, tổn, bỉ; tháng tám tốn, tuỵ, đại súc, bí, quan; tháng chín quy muội, vô vọng, minh di, khốn, bác; tháng mười cấn, ký tế, phệ hạp, đại quá, khôn; tháng mười một vị tế, kiển, di, trung phu, phục; tháng mười hai truân, khiêm, khuê, thăng, lâm, là thứ tự vậy).
Tóm tắt:
Quẻ Dịch ứng vào các tháng trong năm
Tháng Giêng: Tiểu Quá; Mông; Ích; Tiệm; Thái.
Tháng Hai: Nhu; Tuỳ; Tấn; Giải; Đại Tráng.
Tháng Ba: Dự; Tụng; Cổ; Cách; Quải.
Tháng Tư: Lý; Sư; Tỷ; Tiểu Súc; Càn.
Tháng Năm: Đại Hữu; Gia Nhân; Tỉnh; Hàm; Cấu.
Tháng Sáu: Đỉnh; Phong; Hoán; Lữ; Độn.
Tháng Bảy: Đồng Nhân; Tiết Hằng; Tốn; Bỉ.
Tháng Tám: Tốn; Tuỵ; Đại Súc; Bí; Quan.
Tháng Chín: Quy Muội; Vô Vọng; Minh Di; Khốn; Bác.
Tháng Mười: Cấn; Ký Tế; Phệ Hạp; Đại Quá; Khôn.
Tháng Mười Một: Vị Tế; Kiển; Di (khởi ngay ngày Đông Chí); Trung Phu; Phục.
Tháng Chạp: Truân; Khiêm; Khuê; Thăng; Lâm.
Bởi dụng thần ở hào thăng, ắt là nhật thần lớn hơn và nguyệt thần mới hơn; còn dụng thần ở hào giáng thì nhật thần bị tiêu tan và nguyệt thì bị tước đoạt. Vì thế nguyên tắc thăng giáng, bao gồm cả xem xét dụng thần vượng suy, cũng không thể chấp nhất khi luận.
(Thăng giáng không bằng lực của tiến thối, lại phải xem hào dụng thần vượng tướng, hào thăng thì càng tốt, hào dụng thần hưu tù mà gặp hào giáng thì càng xấu, không thể liên kết thăng giáng để định vượng suy).
[1] lục hợp: trời, đất, đông, tây, nam, bắc gọi là lục hợp 六合
[2] lục khí 六氣 gồm: âm, dương, gió, mưa, tối và sáng (âm, dương, phong, vũ, hối, minh 陰, 陽, 風, 雨, 晦, 明) -Cũng chỉ lục tình 六情 gồm: yêu, ghét, mừng, giận, thương, vui (hiếu, ố, hỉ, nộ, ai, lạc 好, 惡, 喜, 怒, 哀, 樂)
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#17
Gửi vào 14/12/2025 - 01:57
Dịch Mạo - Quyển Hai
16- Tiến thối chương
Ta nghe nói rằng đạo trời mỗi ngày đi giáp một vòng, nên ngày hoàng đạo không bằng một ngày trải qua, thuận theo bánh xe về phía trước gọi là tiến thần, còn ngược bánh xe mà ở phía sau gọi là thối thần, như là hợi biến tý là tiến về phía trước, mùi biến thìn là lui lại phía sau.
(Tiến thần thuận theo bên phải về hướng tây, thối thần ngược về bên trái, hướng đông).
Cùng một hành mà biến hoá thì có tiến hay thối, còn khác hành mà biến hoá thì chỉ có sanh hay khắc. Vì thế thân biến mùi là biến sanh, sửu biến mão là chết, làm sao mà nói tiến hay thối được.
(Cùng hành: tức là ngũ hành cùng loại với nhau mới luận tiến hay thối; còn không cùng loại thì luận sanh hay khắc).
Nguyên tắc tiến thần có ba: một gọi là "đại tiến", hai gọi là "bất tiến", ba gọi là "bất năng tiến". Bởi động vượng tướng nên biến nhật nguyệt thừa cơ đạt được địa vị, gọi là "đại tiến"; động nhật nguyệt nhi biến không vong, phá không có chỗ nương tựa, không địa vị, gọi là "bất tiến"; động phá tán nên biến nhật nguyệt, địa vị của mình đã mất làm sao tiến tới phía trước được, gọi là "bất năng tiến".
(Chẳng hạn tháng ngọ ngày giáp tuất dụng là quan quỷ, được quẻ cách biến đồng nhân, mùi biến tuất là đại tiến, mùi vượng tướng, tuất là nhật kiến, đây là bản chất động biến nhật vậy; tháng mão ngày canh thân dụng là phụ mẫu được quẻ phong biến cách, thân biến dậu là bất tiến, thân là nhật thần, dậu thì bị nguyệt phá, đây là động nhật mà biến phá; tháng thân ngày quý mão dụng là tử tôn được quẻ truân biến tiết, hào dần biến mão là bất năng tiến, dần bị nguyệt phá, mão chỉ là nhật thần, đây là động phá mà biến nhật).
Nguyên tắc thối thần cũng có ba: một gọi là "thật thối", hai gọi là "bất thối", ba gọi là "bất cập thối". Bởi hào động hưu tù mà biến hưu tù, chính là thuận theo lưu giữ mà quên trở về, gọi là "thật thối"; hào động đắc nhật nguyệt nhưng mà biến không vong, biến phá, phẩm hạnh của mình kiếm chế hoàn toàn, gọi là "bất thối"; hào động bị phá tán mà biến nhật nguyệt, thất bại tràn lan khó mà rút về, than ôi làm sao bằng làm sao có thể thối lui được, gọi là "bất cập thối".
(Chẳng hạn tháng ngọ ngày tân tỵ hào dụng là thê tài, được quẻ đoài biến tuỳ, hào mão hưu tù, hoá dần cũng là hưu tù, là hào hưu tù biến hưu tù, chính là "thật thối"; tháng dần ngày bính tuất hào dụng là phụ mẫu, được quẻ càn biến quải, hào tuất chính là nhật thần, không có vật gì có thể thương tổn, chỉ vì hoá mùi không vong, cũng là "bất thối"; tháng thân ngày quý mão hào dụng là huynh đệ, được quẻ đoài biến phong, hào dậu bị xung tán, không nên phù trợ, chỉ biến thân là nguyệt kiến, cũng là "bất cập thối").
Đại khái tiến thần vì việc thành, đạt được; thối thần vì việc không thành, mất mát. Hào dụng thần thành hay bại thì tốt xấu đã rõ ràng; nguyên thần và kỵ thần vượng suy thì có chiều hướng tai hoạ hay tốt lành. Hoá tiến thần là được thời gian tốt đẹp, là công danh đắc chí, mình được vẻ vang, hưng thịnh, hôn nhân cưới hỏi hay cầu tiền bạc thường thường được toại ý, nếu mà gặp phải kỵ thần thì chỗ lo lắng ưu buồn rất lớn vậy; còn hoá thối thần thì gần như lần lượt tiêu tan, như thế tai hoạ dần dần yên định, kiện tụng thì ngưng, bệnh tật thì thối lui, giặc cướp không xâm hại, nếu mà dụng thần gặp phải thì không dễ đạt được thành công.
(Dụng thần, nguyên thần thì muốn nó tiến; còn kỵ thần, cừu thần thì muốn nó thối).
Cho nên tiến là được nhật nguyệt sanh và phù trợ sức nó càng mạnh; còn thối mà được nhật nguyệt khuất phục, thì khí của nó càng lụn bại, thịnh suy theo thời mà xả bỏ tuý theo nên tốt xấu không còn nửa vậy.
(Nó không chỉ xem xét sự tiến và thối, mà còn đề cập đến nhật nguyệt, và vượng suy càng làm tăng thêm chỗ hiểu biết.)
.
16- Tiến thối chương
Ta nghe nói rằng đạo trời mỗi ngày đi giáp một vòng, nên ngày hoàng đạo không bằng một ngày trải qua, thuận theo bánh xe về phía trước gọi là tiến thần, còn ngược bánh xe mà ở phía sau gọi là thối thần, như là hợi biến tý là tiến về phía trước, mùi biến thìn là lui lại phía sau.
(Tiến thần thuận theo bên phải về hướng tây, thối thần ngược về bên trái, hướng đông).
Cùng một hành mà biến hoá thì có tiến hay thối, còn khác hành mà biến hoá thì chỉ có sanh hay khắc. Vì thế thân biến mùi là biến sanh, sửu biến mão là chết, làm sao mà nói tiến hay thối được.
(Cùng hành: tức là ngũ hành cùng loại với nhau mới luận tiến hay thối; còn không cùng loại thì luận sanh hay khắc).
Nguyên tắc tiến thần có ba: một gọi là "đại tiến", hai gọi là "bất tiến", ba gọi là "bất năng tiến". Bởi động vượng tướng nên biến nhật nguyệt thừa cơ đạt được địa vị, gọi là "đại tiến"; động nhật nguyệt nhi biến không vong, phá không có chỗ nương tựa, không địa vị, gọi là "bất tiến"; động phá tán nên biến nhật nguyệt, địa vị của mình đã mất làm sao tiến tới phía trước được, gọi là "bất năng tiến".
(Chẳng hạn tháng ngọ ngày giáp tuất dụng là quan quỷ, được quẻ cách biến đồng nhân, mùi biến tuất là đại tiến, mùi vượng tướng, tuất là nhật kiến, đây là bản chất động biến nhật vậy; tháng mão ngày canh thân dụng là phụ mẫu được quẻ phong biến cách, thân biến dậu là bất tiến, thân là nhật thần, dậu thì bị nguyệt phá, đây là động nhật mà biến phá; tháng thân ngày quý mão dụng là tử tôn được quẻ truân biến tiết, hào dần biến mão là bất năng tiến, dần bị nguyệt phá, mão chỉ là nhật thần, đây là động phá mà biến nhật).
Nguyên tắc thối thần cũng có ba: một gọi là "thật thối", hai gọi là "bất thối", ba gọi là "bất cập thối". Bởi hào động hưu tù mà biến hưu tù, chính là thuận theo lưu giữ mà quên trở về, gọi là "thật thối"; hào động đắc nhật nguyệt nhưng mà biến không vong, biến phá, phẩm hạnh của mình kiếm chế hoàn toàn, gọi là "bất thối"; hào động bị phá tán mà biến nhật nguyệt, thất bại tràn lan khó mà rút về, than ôi làm sao bằng làm sao có thể thối lui được, gọi là "bất cập thối".
(Chẳng hạn tháng ngọ ngày tân tỵ hào dụng là thê tài, được quẻ đoài biến tuỳ, hào mão hưu tù, hoá dần cũng là hưu tù, là hào hưu tù biến hưu tù, chính là "thật thối"; tháng dần ngày bính tuất hào dụng là phụ mẫu, được quẻ càn biến quải, hào tuất chính là nhật thần, không có vật gì có thể thương tổn, chỉ vì hoá mùi không vong, cũng là "bất thối"; tháng thân ngày quý mão hào dụng là huynh đệ, được quẻ đoài biến phong, hào dậu bị xung tán, không nên phù trợ, chỉ biến thân là nguyệt kiến, cũng là "bất cập thối").
Đại khái tiến thần vì việc thành, đạt được; thối thần vì việc không thành, mất mát. Hào dụng thần thành hay bại thì tốt xấu đã rõ ràng; nguyên thần và kỵ thần vượng suy thì có chiều hướng tai hoạ hay tốt lành. Hoá tiến thần là được thời gian tốt đẹp, là công danh đắc chí, mình được vẻ vang, hưng thịnh, hôn nhân cưới hỏi hay cầu tiền bạc thường thường được toại ý, nếu mà gặp phải kỵ thần thì chỗ lo lắng ưu buồn rất lớn vậy; còn hoá thối thần thì gần như lần lượt tiêu tan, như thế tai hoạ dần dần yên định, kiện tụng thì ngưng, bệnh tật thì thối lui, giặc cướp không xâm hại, nếu mà dụng thần gặp phải thì không dễ đạt được thành công.
(Dụng thần, nguyên thần thì muốn nó tiến; còn kỵ thần, cừu thần thì muốn nó thối).
Cho nên tiến là được nhật nguyệt sanh và phù trợ sức nó càng mạnh; còn thối mà được nhật nguyệt khuất phục, thì khí của nó càng lụn bại, thịnh suy theo thời mà xả bỏ tuý theo nên tốt xấu không còn nửa vậy.
(Nó không chỉ xem xét sự tiến và thối, mà còn đề cập đến nhật nguyệt, và vượng suy càng làm tăng thêm chỗ hiểu biết.)
.
|
Thanked by 2 Members:
|
,
|
#18
Gửi vào 14/12/2025 - 02:11
Dịch Mạo - Quyển Hai
17- Hữu vô chương
Quy tắc quan trọng về dịch là ở hào dụng, nhưng đang nhận thấy ý nghĩa vốn là không có mà lại có, vốn có mà lại không có, bắt đầu nghi ngờ.
(Trong dân gian thường lấy hào dụng hiện trên quẻ là có, không hiện lên quẻ la không có, làm sao có thể thông suốt những bằng chứng ẩn tàng).
Vốn là không có nhưng mà có, nguyên tắc có ba: sáu hào không có hào dụng, nhưng hào dụng phục, gặp sanh phù ở dưới hào thế động là một; phục bị không vong, phá, hoặc là gặp khắc chế mà nhìn thấy nhật nguyệt ở trên hào dụng là hai; nhật nguyệt hay hào phi hào phục đều không có, nhưng có ở bên trong quẻ hỗ, hào biến, dụng thần sanh vượng là ba.
(Một là hào phi không có mà hào phục có, một là hào phi không có mà nhật nguyệt có, một là hào phi hào phục nhật nguyệt không có mà quẻ hỗ hay biến có, hào quan trọng ở hào phục, hào phục quan trọng ở nhật nguyệt, hào biến quan trọng ở quẻ hỗ).
Vốn là có mà lại không có, nguyên tắc của nó cũng có ba: hào dụng tuy rằng hiện lên trên quẻ, gặp phải nguyệt phá là một; hào bị tử tuyệt không có cứu, hào suy lại gặp không vong là hai; hào động bị thương tổn, nhật nguyệt quẻ hỗ khắc là ba.
(Đó đều là dụng thần bị thương tổn, nhưng nên cân nhắc sự nông sâu, nặng nhẹ).
Vốn là không có mà thành có: việc tương lai đáng mừng, việc đã qua thì đáng sợ; vốn là có mà trở thành không có: việc suy giảm thì nên, còn sự tiến tới thì xấu ác.
(Chuyên tâm phân biệt tốt xấu của hào dụng, hào kỵ, suy luận bằng phép loại suy).
Cái vốn không có mà thành có: danh lợi bất ngờ gặp được, phú quý, con cháu nối dõi cuối đời bỗng gặp được, nhưng hào quan quỷ chẳng phải tai hoạ, trộm cướp, thì cũng khởi việc phiền nhiễu vô cớ; cái vốn có lại thành không có: xét ngược lại điều này. Đại khái xem xét hào dụng thần, tuy gặp động hiện, độc phát nếu mà không được vượng tướng cũng như bị khắc chế mà không có cứu, đều là điềm triệu vô khí, học giả nên cẩn thận.
(Vốn là có lại thành không, vốn là không có lại thành có đều là quẻ bói không như tầm thường. Bởi người hay sự việc biến đổi, quỷ thần không ngờ được cả hai, chẳng suy xét nỗi lòng rõ ràng, chẳng dễ tìm được hướng đi thích hợp).
.
17- Hữu vô chương
Quy tắc quan trọng về dịch là ở hào dụng, nhưng đang nhận thấy ý nghĩa vốn là không có mà lại có, vốn có mà lại không có, bắt đầu nghi ngờ.
(Trong dân gian thường lấy hào dụng hiện trên quẻ là có, không hiện lên quẻ la không có, làm sao có thể thông suốt những bằng chứng ẩn tàng).
Vốn là không có nhưng mà có, nguyên tắc có ba: sáu hào không có hào dụng, nhưng hào dụng phục, gặp sanh phù ở dưới hào thế động là một; phục bị không vong, phá, hoặc là gặp khắc chế mà nhìn thấy nhật nguyệt ở trên hào dụng là hai; nhật nguyệt hay hào phi hào phục đều không có, nhưng có ở bên trong quẻ hỗ, hào biến, dụng thần sanh vượng là ba.
(Một là hào phi không có mà hào phục có, một là hào phi không có mà nhật nguyệt có, một là hào phi hào phục nhật nguyệt không có mà quẻ hỗ hay biến có, hào quan trọng ở hào phục, hào phục quan trọng ở nhật nguyệt, hào biến quan trọng ở quẻ hỗ).
Vốn là có mà lại không có, nguyên tắc của nó cũng có ba: hào dụng tuy rằng hiện lên trên quẻ, gặp phải nguyệt phá là một; hào bị tử tuyệt không có cứu, hào suy lại gặp không vong là hai; hào động bị thương tổn, nhật nguyệt quẻ hỗ khắc là ba.
(Đó đều là dụng thần bị thương tổn, nhưng nên cân nhắc sự nông sâu, nặng nhẹ).
Vốn là không có mà thành có: việc tương lai đáng mừng, việc đã qua thì đáng sợ; vốn là có mà trở thành không có: việc suy giảm thì nên, còn sự tiến tới thì xấu ác.
(Chuyên tâm phân biệt tốt xấu của hào dụng, hào kỵ, suy luận bằng phép loại suy).
Cái vốn không có mà thành có: danh lợi bất ngờ gặp được, phú quý, con cháu nối dõi cuối đời bỗng gặp được, nhưng hào quan quỷ chẳng phải tai hoạ, trộm cướp, thì cũng khởi việc phiền nhiễu vô cớ; cái vốn có lại thành không có: xét ngược lại điều này. Đại khái xem xét hào dụng thần, tuy gặp động hiện, độc phát nếu mà không được vượng tướng cũng như bị khắc chế mà không có cứu, đều là điềm triệu vô khí, học giả nên cẩn thận.
(Vốn là có lại thành không, vốn là không có lại thành có đều là quẻ bói không như tầm thường. Bởi người hay sự việc biến đổi, quỷ thần không ngờ được cả hai, chẳng suy xét nỗi lòng rõ ràng, chẳng dễ tìm được hướng đi thích hợp).
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#19
Gửi vào 14/12/2025 - 02:19
Dịch Mạo - Quyển Hai
18- Mộ tuyệt chương
Hào có sanh, vượng, mộ, tuyệt thì quẻ cũng có như vậy, áp dụng đối với quẻ có khác với hào, bởi quẻ bao bên ngoài hào, đại tượng đã xấu rồi thì không bằng có cái tốt nhỏ (tiểu cát).
(Đây là chuyên nói về tượng quẻ mộ, tuyệt).
Quẻ quy định hung xấu ở mộ, tuyệt, hoặc là mộ xung, tuyệt phá, hoặc là không vong thì chẳng phải chân thật; hoặc là quẻ gốc lâm nhật nguyệt cũng chẳng phải mộ tuyệt, như quẻ ly biến càn là mộ, tuyệt, nếu mà ngày hay tháng ngọ hoặc tuàn giáp tý thì là giả không phải thật, nếu mà gặp ngày hay tháng điền thật ở càn thì đó là tượng hung xấu vậy. Lại có quẻ mộ mà không tuyệt, hay tuyệt mà không bị mộ, đều là không thật.
(Đây là nói về mộ, tuyệt thật giả, chẳng hạn mộ tuyệt gặp không vong hay phá chẳng phải thật, nhật nguyệt điền thật thì là thật, mộ, tuyệt thiếu một chữ thì không phải).
Áp dụng mộ tuyệt chỉ quốc sự, ra binh, thân mệnh, nhà ở, tật bệnh là năm loại rất kỵ. Bói quốc gia chỉ mong được bậc tinh anh lâu dài; bói khởi binh chỉ sợ quân mình thua chạy; bói thân mệnh, tật bệnh chủ thuộc hung xấu; quẻ nội không có lợi cho việc gìn giữ, quẻ ngoại không có lợi cho việc dời đổi.
(Quẻ hoá mộ, tuyệt tất cả những quẻ bói đều không thích hợp, nhưng mà năm loại bói nêu trên thì càng xấu).
Ngoài mộ tuyệt cũng nên nghiên cứu không vong, phá. Quẻ nội không vong hay bị phá thì không có lợi cho chỗ ở cũ, còn quẻ ngoại không vong hay bị phá thì làm sao mà thích hợp cho chỗ ở mới. "Không" gọi là đa hư (多虛: đa hư - trống quá), "phá" gọi là thiểu khí (少氣: thiểu khí - không đủ khí), bói quốc sự hay bói xuất binh đều là không nên.
(Không vong, phá hơi nhẹ hơn là mộ, tuyệt, chỉ bói tật bệnh thì không kỵ).
Do đó sự biến đổi của tám quẻ chỉ có năm, còn biến đổi của ngũ hành là mười hai. Vì thế cho nên khảm hoá khôn là khắc, còn thuỷ lại là dưỡng và sanh; chấn hoá khảm là sanh, nhưng mộc thì nói là bại, đấy là phân biệt giữa tám quẻ với ngũ hành, tuỳ theo loại mà xem xét.
(Chỉ có năm là kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ; còn mười hai đó là trường sanh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng).
.
18- Mộ tuyệt chương
Hào có sanh, vượng, mộ, tuyệt thì quẻ cũng có như vậy, áp dụng đối với quẻ có khác với hào, bởi quẻ bao bên ngoài hào, đại tượng đã xấu rồi thì không bằng có cái tốt nhỏ (tiểu cát).
(Đây là chuyên nói về tượng quẻ mộ, tuyệt).
Quẻ quy định hung xấu ở mộ, tuyệt, hoặc là mộ xung, tuyệt phá, hoặc là không vong thì chẳng phải chân thật; hoặc là quẻ gốc lâm nhật nguyệt cũng chẳng phải mộ tuyệt, như quẻ ly biến càn là mộ, tuyệt, nếu mà ngày hay tháng ngọ hoặc tuàn giáp tý thì là giả không phải thật, nếu mà gặp ngày hay tháng điền thật ở càn thì đó là tượng hung xấu vậy. Lại có quẻ mộ mà không tuyệt, hay tuyệt mà không bị mộ, đều là không thật.
(Đây là nói về mộ, tuyệt thật giả, chẳng hạn mộ tuyệt gặp không vong hay phá chẳng phải thật, nhật nguyệt điền thật thì là thật, mộ, tuyệt thiếu một chữ thì không phải).
Áp dụng mộ tuyệt chỉ quốc sự, ra binh, thân mệnh, nhà ở, tật bệnh là năm loại rất kỵ. Bói quốc gia chỉ mong được bậc tinh anh lâu dài; bói khởi binh chỉ sợ quân mình thua chạy; bói thân mệnh, tật bệnh chủ thuộc hung xấu; quẻ nội không có lợi cho việc gìn giữ, quẻ ngoại không có lợi cho việc dời đổi.
(Quẻ hoá mộ, tuyệt tất cả những quẻ bói đều không thích hợp, nhưng mà năm loại bói nêu trên thì càng xấu).
Ngoài mộ tuyệt cũng nên nghiên cứu không vong, phá. Quẻ nội không vong hay bị phá thì không có lợi cho chỗ ở cũ, còn quẻ ngoại không vong hay bị phá thì làm sao mà thích hợp cho chỗ ở mới. "Không" gọi là đa hư (多虛: đa hư - trống quá), "phá" gọi là thiểu khí (少氣: thiểu khí - không đủ khí), bói quốc sự hay bói xuất binh đều là không nên.
(Không vong, phá hơi nhẹ hơn là mộ, tuyệt, chỉ bói tật bệnh thì không kỵ).
Do đó sự biến đổi của tám quẻ chỉ có năm, còn biến đổi của ngũ hành là mười hai. Vì thế cho nên khảm hoá khôn là khắc, còn thuỷ lại là dưỡng và sanh; chấn hoá khảm là sanh, nhưng mộc thì nói là bại, đấy là phân biệt giữa tám quẻ với ngũ hành, tuỳ theo loại mà xem xét.
(Chỉ có năm là kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ; còn mười hai đó là trường sanh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng).
.
|
Thanked by 2 Members:
|
,
|
#20
Gửi vào 14/12/2025 - 04:37
Dịch Mạo - Quyển Hai
19- Quái hậu chương
Ngũ hành chia ra vượng, tướng, hưu, tù, tử, lại có ý tứ trường sanh , mộc dục, quan đới, lâm quan, đế, vượng, suy, bệnh, tử mộ, tuyệt, thai, dưỡng, mà tám quẻ không thể áp dụng vượng, tướng, thai, một, tử, tù hưu, phế , nhưng chỉ nói theo nguyệt lệnh chớ chẳng nói theo nhật thời.
(Bài quyết nói về nguyên tắc tám quẻ vượng, tướng, hưu, phế rằng: lập xuân quy cấn thổ; xuân phân chấn mộc tề; lập hạ thời đương tốn; hạ chí bổn tầm ly; lập thu khôn thổ chủ; thu phân đoài trạch kỳ; lập đông càn vượng xứ; đông chí khảm phương nghi; đương quyền bát quái lâm bát tiết, trục quái tuần hoàn tế tế thôi - tạm dịch: lập xuân quẻ cấn; xuân phân quẻ chấn; lập hạ quẻ tốn; hạ chí quẻ ly; lập thu quẻ khôn; thu phân quẻ đoài; lập đông quẻ càn, đông chí quẻ khảm, tám quẻ thích hợp với tám tiết, theo quẻ tuần tự nghiên cứu kỹ càng).
Dương sinh ra có mười hai khí; âm sinh ra cũng có mười hai khí. Dương có ba mươi sáu hậu; âm cũng có ba mươi sáu hậu, vì thế một năm có bảy mươi hai hậu.
(Mười hai khí của sau dương sanh như: đông chí, tiểu hàn, đại hàn, lập xuân, vũ thuỷ, kinh chập, xuân phân, thanh minh, cốc vũ, lập hạ, tiểu mãn, mang chủng; mười hai khí của sau âm sanh là: hạ chí, tiểu thử, đại thử, lập thu, xử thử, bạch lộ, thu phân, hàn lộ, sương giáng, lập đông, tiểu tuyết, đại tuyết. Một khí có ba hậu, âm dương đều có ba mươi sáu, hợp lại là bảy mươi hai hậu một năm).
Đông chí thì khảm vượng mà cấn tướng; xuân phân thì chấn vượng mà tốn tướng; hạ chí thì ly vượng mà khôn tướng; thu phân thì đoài vượng mà càn tướng. Quẻ vượng ba khí cũng có một hậu vượng còn kéo dài; địa chi cai quản sáu hậu, cũng có một hậu thuộc về thời gian trước quản.
(Chẳng hạn lập xuân thì cấn vượng cho đến sau xuân phân vẫn còn vượng năm ngày, không tức thời suy bại. Địa chi chủ sức mạnh một tháng, như tỵ cai quản sáu hậu, mà chưa đến tỵ năm ngày thì tỵ đã đạt được khí rồi, bởi ý nghĩa hơi lạnh còn dư lại báo trước mùa nóng).
Một âm một dương sanh ra ở một nửa tý ngọ, từ nam cực đến bắc cực, kết thúc rồi lại thay đổi.
(Mặt trời chuyển động ở nam cực, đến đông chí thì trở về bắc, mặt trời chuyển động ở bắc cực, đến hạ chí lại trở về nam; trở về bắc thì mặt trời chuyển động chậm rãi nên ngày dài thêm, trở về nam thì mặt trời chuyển động nhanh nên ngày dần ngắn lại, chỉ có hai phân (xuân phân và thu phân) mặt trời chuyến động ở xích đạo là đạt được ở chính giữa. Cho nên đông chí vị trí vượng ở khảm, hạ chí vị trí vượng ở ly, bởi vì chấn đoài đạt được đường dọc của đông tây, nên khảm và ly đạt đến cùng tận thì quay trở về, tự nhiên rất diệu kỳ).
Cho nên đông chí bắt đầu khởi ở khảm, nên vượng, tướng, thai, một, tử, tù, hưu, phế cuối cùng ngưng ở càn, là khảm cấn vượng tướng ba khí, gọi là tuần không nhưng chẳng không, chấn tốn thai một ba khí, gọi là tù nhưng không tù.
(Chẳng hạn từ đông chí trở về sau khảm vượng cấn tướng, tháng sửu tuần giáp dần bói được quẻ khảm khi qua khỏi tuần thì chẳng còn không vong, lại như tháng sửu được quẻ chấn, tốn gọi là quẻ bị thai, một, nhưng chẳng khắc chế mình dù tù).
Bởi vượng, tướng, thai, một hoặc là trong khi nhật xung mà không cho là xung, tử, tù, hưu, phế hoặc là khi nhật kiến không cho là kiến, đó là quái hậu cùng với hào thần giống nhau vậy, nhưng áp dụng chỉ có bờ cỏi đất nước, nhà ở là quan trọng nhất.
(Nếu mà quẻ chấn đang vượng gặp ngày dậu thì không là nhật phá, tính theo vượng tướng của quẻ chấn; quẻ khảm đang tử mà gặp ngày tý cũng không là nhật kiến, tính theo tử, tù của quẻ khảm. Vì quái hậu cai quản bốn mươi lăm ngày độ chừng lâu dài cở đó).
.
19- Quái hậu chương
Ngũ hành chia ra vượng, tướng, hưu, tù, tử, lại có ý tứ trường sanh , mộc dục, quan đới, lâm quan, đế, vượng, suy, bệnh, tử mộ, tuyệt, thai, dưỡng, mà tám quẻ không thể áp dụng vượng, tướng, thai, một, tử, tù hưu, phế , nhưng chỉ nói theo nguyệt lệnh chớ chẳng nói theo nhật thời.
(Bài quyết nói về nguyên tắc tám quẻ vượng, tướng, hưu, phế rằng: lập xuân quy cấn thổ; xuân phân chấn mộc tề; lập hạ thời đương tốn; hạ chí bổn tầm ly; lập thu khôn thổ chủ; thu phân đoài trạch kỳ; lập đông càn vượng xứ; đông chí khảm phương nghi; đương quyền bát quái lâm bát tiết, trục quái tuần hoàn tế tế thôi - tạm dịch: lập xuân quẻ cấn; xuân phân quẻ chấn; lập hạ quẻ tốn; hạ chí quẻ ly; lập thu quẻ khôn; thu phân quẻ đoài; lập đông quẻ càn, đông chí quẻ khảm, tám quẻ thích hợp với tám tiết, theo quẻ tuần tự nghiên cứu kỹ càng).
Dương sinh ra có mười hai khí; âm sinh ra cũng có mười hai khí. Dương có ba mươi sáu hậu; âm cũng có ba mươi sáu hậu, vì thế một năm có bảy mươi hai hậu.
(Mười hai khí của sau dương sanh như: đông chí, tiểu hàn, đại hàn, lập xuân, vũ thuỷ, kinh chập, xuân phân, thanh minh, cốc vũ, lập hạ, tiểu mãn, mang chủng; mười hai khí của sau âm sanh là: hạ chí, tiểu thử, đại thử, lập thu, xử thử, bạch lộ, thu phân, hàn lộ, sương giáng, lập đông, tiểu tuyết, đại tuyết. Một khí có ba hậu, âm dương đều có ba mươi sáu, hợp lại là bảy mươi hai hậu một năm).
Đông chí thì khảm vượng mà cấn tướng; xuân phân thì chấn vượng mà tốn tướng; hạ chí thì ly vượng mà khôn tướng; thu phân thì đoài vượng mà càn tướng. Quẻ vượng ba khí cũng có một hậu vượng còn kéo dài; địa chi cai quản sáu hậu, cũng có một hậu thuộc về thời gian trước quản.
(Chẳng hạn lập xuân thì cấn vượng cho đến sau xuân phân vẫn còn vượng năm ngày, không tức thời suy bại. Địa chi chủ sức mạnh một tháng, như tỵ cai quản sáu hậu, mà chưa đến tỵ năm ngày thì tỵ đã đạt được khí rồi, bởi ý nghĩa hơi lạnh còn dư lại báo trước mùa nóng).
Một âm một dương sanh ra ở một nửa tý ngọ, từ nam cực đến bắc cực, kết thúc rồi lại thay đổi.
(Mặt trời chuyển động ở nam cực, đến đông chí thì trở về bắc, mặt trời chuyển động ở bắc cực, đến hạ chí lại trở về nam; trở về bắc thì mặt trời chuyển động chậm rãi nên ngày dài thêm, trở về nam thì mặt trời chuyển động nhanh nên ngày dần ngắn lại, chỉ có hai phân (xuân phân và thu phân) mặt trời chuyến động ở xích đạo là đạt được ở chính giữa. Cho nên đông chí vị trí vượng ở khảm, hạ chí vị trí vượng ở ly, bởi vì chấn đoài đạt được đường dọc của đông tây, nên khảm và ly đạt đến cùng tận thì quay trở về, tự nhiên rất diệu kỳ).
Cho nên đông chí bắt đầu khởi ở khảm, nên vượng, tướng, thai, một, tử, tù, hưu, phế cuối cùng ngưng ở càn, là khảm cấn vượng tướng ba khí, gọi là tuần không nhưng chẳng không, chấn tốn thai một ba khí, gọi là tù nhưng không tù.
(Chẳng hạn từ đông chí trở về sau khảm vượng cấn tướng, tháng sửu tuần giáp dần bói được quẻ khảm khi qua khỏi tuần thì chẳng còn không vong, lại như tháng sửu được quẻ chấn, tốn gọi là quẻ bị thai, một, nhưng chẳng khắc chế mình dù tù).
Bởi vượng, tướng, thai, một hoặc là trong khi nhật xung mà không cho là xung, tử, tù, hưu, phế hoặc là khi nhật kiến không cho là kiến, đó là quái hậu cùng với hào thần giống nhau vậy, nhưng áp dụng chỉ có bờ cỏi đất nước, nhà ở là quan trọng nhất.
(Nếu mà quẻ chấn đang vượng gặp ngày dậu thì không là nhật phá, tính theo vượng tướng của quẻ chấn; quẻ khảm đang tử mà gặp ngày tý cũng không là nhật kiến, tính theo tử, tù của quẻ khảm. Vì quái hậu cai quản bốn mươi lăm ngày độ chừng lâu dài cở đó).
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#21
Gửi vào 14/12/2025 - 04:49
Dịch Mạo - Quyển Hai
20- Can hoá chương
Thiên can gọi là ngũ vận, địa chi gọi là lục khí, vì thế có thể thành bốn mùa mà tạo thành vạn vật. Ngũ vận thì ứng, lục khí thì hình thành. Vận ứng mà không có hình, khí phân chia mà có dấu vết, vì vậy hổn thiên giáp tý phối hợp tài, quan, phụ, huynh, tử ở địa chi, mà không bằng thiên can.
(Can dùng khí biến đổi, chi dùng hình thể biến đổi, bói toán đạt nặng ở địa chi, cũng có người áp dụng cả thiên can).
Như vậy thì thiên can là vô dụng hay sao? Thánh nhân nạp giáp thì can chi cùng nạp, can theo can chọn lấy, chi theo chi mà cầu tìm, khi quẻ không có hào dụng, mà gặp động ở thiên can trên tượng, cùng với thiên can của nhật nguyệt, cũng hợp hoá mà thành dụng thần, nhưng mà hoá dụng mà gặp nhật nguyệt, hào động sanh phù thì sẽ có dụng thần, còn khắc phá thì không có.
(Chẳng hạn năm tân mão tháng bính thân ngày tý bói con còn mất, được quẻ quán biến tuỵ, vì hào tử tôn không hiện, chính là điềm xấu, nhưng mà không biết rằng bính tân hoá thuỷ, sau đến tháng hợi ngày giáp thìn, chính là thân tý thìn hội thành thuỷ cục, hào biến hợi trị nguyệt hợi, tử tôn trái lại bình an mà trở về, và đấy là ứng nghiệm của ngũ hoá).
Năm tân mão tháng bính thân ngày tý bói con còn hay mất
Phong Địa Quán (kim) biến Trạch Địa Tuỵ
o T. Mão mộc Thê Tài ......................... Mùi thổ Phụ Mẫu
/ T. Tỵ hoả Quan Quỷ ............................................................................... [phục N. Thân kim Huynh Đệ]
x T. Mùi thổ Phụ Mẫu (T) ..................... Hợi thuỷ Tử tôn
// Â. Mão mộc Thê Tài
// Â.Tỵ hoả Quan Quỷ
// Â. Mùi thổ Phụ Mẫu (U) ........................................................................ [phục G.Tý thuỷ Tử Tôn]
Hoá dụng thần thì tốt, cầu danh cầu lợi có thể thành ngoài ý muốn, truy tìm kẻ trốn tránh không bắt được mà lại tự xuất hiện, trách nhiệm thất vọng mà lại hoàn bị, trường hợp tránh hoạn nạn lại hoá quan thì sợ rằng sẽ gặp tai ương không lường trước, lo nghĩ vụ kiện cáo mà hoá quỷ ví như sinh ra nỗi kinh sợ vô cớ, đó là các hình tượng.
(Can hoá tốt hay xấu, đều là bất ngờ).
Nguyên tắc ngũ hoá cũng có nguồn gốc của nó: sự biến hoá của năm loại côn trùng, không loại nào biến hoá như rồng, cho nên sách nói rằng gặp rồng sẽ hoá; ngũ độn giáp tý: giáp kỷ hoá mậu mà thành thổ, ất canh hoá canh mà thành kim, bính thân hoá nhâm mà thành thuỷ, đinh nhâm hoá giáp mà thành mộc, mậu quý hoá bính mà thành hoả. Rồng là vật thuộc dương, ngũ hoá đều là dương, cho nên thiên can dùng vận hoá thành vật, còn địa chi thì dùng khí biến việc thích hợp, can chi làm sao có thể bỏ lỡ một được.
(Gặp thìn thì hoá, như giáp kỷ độn bính dần, mậu thìn chính là rồng, nên hoá thổ; ất canh độn mậu dần, canh thìn chính là rồng, sau đó phỏng theo điều này).
Động thứ nhất là kiểu mẫu, động lần thứ hai là bậc kém hơn; nhật can là kiểu mẫu, nguyệt can thì kém hơn, lục khí áp dụng thường xuyên, ngũ vận áp dụng khác hẳn.
(Đặc: độc phát, độc phát cùng với nhật can hoá hợp là cần thiết, dĩ nhiên lý do là phi phục đều không có hào dụng, mà sau đó mới tìm cách thức này, trường hợp lưỡng động, tình cờ áp dụng một, không hợp để nương nhờ).
.
20- Can hoá chương
Thiên can gọi là ngũ vận, địa chi gọi là lục khí, vì thế có thể thành bốn mùa mà tạo thành vạn vật. Ngũ vận thì ứng, lục khí thì hình thành. Vận ứng mà không có hình, khí phân chia mà có dấu vết, vì vậy hổn thiên giáp tý phối hợp tài, quan, phụ, huynh, tử ở địa chi, mà không bằng thiên can.
(Can dùng khí biến đổi, chi dùng hình thể biến đổi, bói toán đạt nặng ở địa chi, cũng có người áp dụng cả thiên can).
Như vậy thì thiên can là vô dụng hay sao? Thánh nhân nạp giáp thì can chi cùng nạp, can theo can chọn lấy, chi theo chi mà cầu tìm, khi quẻ không có hào dụng, mà gặp động ở thiên can trên tượng, cùng với thiên can của nhật nguyệt, cũng hợp hoá mà thành dụng thần, nhưng mà hoá dụng mà gặp nhật nguyệt, hào động sanh phù thì sẽ có dụng thần, còn khắc phá thì không có.
(Chẳng hạn năm tân mão tháng bính thân ngày tý bói con còn mất, được quẻ quán biến tuỵ, vì hào tử tôn không hiện, chính là điềm xấu, nhưng mà không biết rằng bính tân hoá thuỷ, sau đến tháng hợi ngày giáp thìn, chính là thân tý thìn hội thành thuỷ cục, hào biến hợi trị nguyệt hợi, tử tôn trái lại bình an mà trở về, và đấy là ứng nghiệm của ngũ hoá).
Năm tân mão tháng bính thân ngày tý bói con còn hay mất
Phong Địa Quán (kim) biến Trạch Địa Tuỵ
o T. Mão mộc Thê Tài ......................... Mùi thổ Phụ Mẫu
/ T. Tỵ hoả Quan Quỷ ............................................................................... [phục N. Thân kim Huynh Đệ]
x T. Mùi thổ Phụ Mẫu (T) ..................... Hợi thuỷ Tử tôn
// Â. Mão mộc Thê Tài
// Â.Tỵ hoả Quan Quỷ
// Â. Mùi thổ Phụ Mẫu (U) ........................................................................ [phục G.Tý thuỷ Tử Tôn]
Hoá dụng thần thì tốt, cầu danh cầu lợi có thể thành ngoài ý muốn, truy tìm kẻ trốn tránh không bắt được mà lại tự xuất hiện, trách nhiệm thất vọng mà lại hoàn bị, trường hợp tránh hoạn nạn lại hoá quan thì sợ rằng sẽ gặp tai ương không lường trước, lo nghĩ vụ kiện cáo mà hoá quỷ ví như sinh ra nỗi kinh sợ vô cớ, đó là các hình tượng.
(Can hoá tốt hay xấu, đều là bất ngờ).
Nguyên tắc ngũ hoá cũng có nguồn gốc của nó: sự biến hoá của năm loại côn trùng, không loại nào biến hoá như rồng, cho nên sách nói rằng gặp rồng sẽ hoá; ngũ độn giáp tý: giáp kỷ hoá mậu mà thành thổ, ất canh hoá canh mà thành kim, bính thân hoá nhâm mà thành thuỷ, đinh nhâm hoá giáp mà thành mộc, mậu quý hoá bính mà thành hoả. Rồng là vật thuộc dương, ngũ hoá đều là dương, cho nên thiên can dùng vận hoá thành vật, còn địa chi thì dùng khí biến việc thích hợp, can chi làm sao có thể bỏ lỡ một được.
(Gặp thìn thì hoá, như giáp kỷ độn bính dần, mậu thìn chính là rồng, nên hoá thổ; ất canh độn mậu dần, canh thìn chính là rồng, sau đó phỏng theo điều này).
Động thứ nhất là kiểu mẫu, động lần thứ hai là bậc kém hơn; nhật can là kiểu mẫu, nguyệt can thì kém hơn, lục khí áp dụng thường xuyên, ngũ vận áp dụng khác hẳn.
(Đặc: độc phát, độc phát cùng với nhật can hoá hợp là cần thiết, dĩ nhiên lý do là phi phục đều không có hào dụng, mà sau đó mới tìm cách thức này, trường hợp lưỡng động, tình cờ áp dụng một, không hợp để nương nhờ).
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#22
Gửi vào 14/12/2025 - 05:01
Dịch Mạo - Quyển Ba
21- Tuế quân chương
Công dụng của "chu thiên" tích chứa là quyền cai quản "lục khí", tiếp theo là nóng lạnh, phân chia xuân thu, chỉ có thái tuế làm chủ, có phải là đạo làm vua không?
(Chu thiên: có nghĩa là mười hai vị thần của hoàng đạo, theo con số ba trăm sáu mươi lăm độ, hai mươi bốn phút và hai mươi lăm giây. Lục khí: là âm dương lục khí) [Lục khí 六氣 gồm: âm, dương, gió, mưa, tối và sáng (âm, dương, phong, vũ, hối, minh 陰, 陽, 風, 雨, 晦, 明)]
Sức mạnh của nó lớn và lâu dài, yên lặng mà cao quý, nếu mà dùng để định hối lận (hối tiếc ăn năn), tốt xấu, sẽ có một vị trí của nó mà không trực tiếp cai quản nó.
(Ứng vào tốt xấu, sanh khắc, xung hợp đều không bằng nhật nguyệt gọi là cao quý nhưng không gần gũi, vị cao nhưng mà khó mong cầu).
Vì thế cùng với hào thần xung gọi là tuế phá nhưng không không phá; với hào thần hợp gọi là tuế viện nhưng không thật sự cứu trợ; sanh nhưng mà không sanh liền tức thời, thương nhưng không tổn hại ngay lập tức, không vong có thể không, phá có thể huỷ hoại.
(Thái tuế với hào thần tương xung danh gọi là tuế phá, nếu mà khắc hào thần danh gọi là tuế khắc; trị quỷ tên gọi là tuế quỷ, không lập tức hung xấu, cho nên thái tuế ở tại tuần không thì trống rỗng không có gì cả, ở tại nguyệt phá thì huỷ hoại).
Bói quốc gia mà xuất hiện: mừng an tỉnh và vượng, kỵ bị phá tuyệt; không xuất hiện thì chỉ luận hào năm, lúc tuế ban xuống xảo trá, âm hiểm thì đất nước tai ương, còn ban phúc thì thiên hạ thái bình, an khang.
(Thái tuế xuất hiện là hình tượng của vua; không xuất hiện thì chỉ lấy hào năm làm triều đình. Thái tuế trị quỷ đất nước tai ách; thái tuế trị phúc thì bổn biển thái bình, an khang).
Bói thân mệnh hào phúc trị thái tuế nên thường ngày an lạc; bói gia trạch mà hào quỷ hội thái tuế hay nguyệt kiến thì gian nan, khốn khó; làm quan thì chức vụ cao quý; kiện tụng thì bị phiền nhiễu bởi án lệnh; sự việc liên quan đến triều đình mừng thái tuế sanh hợp hào thế, kỵ xung khắc thân tượng.
(Đại khái các loại: dâng sớ tâu lên vua, gặp vua, yết kiến hay khẩn cầu đều mừng được thái tuế sanh hợp hào thế tức được hợp lòng vua; thái tuế mà xung hào thân thì lo rằng sẽ bị trách phạt).
.
21- Tuế quân chương
Công dụng của "chu thiên" tích chứa là quyền cai quản "lục khí", tiếp theo là nóng lạnh, phân chia xuân thu, chỉ có thái tuế làm chủ, có phải là đạo làm vua không?
(Chu thiên: có nghĩa là mười hai vị thần của hoàng đạo, theo con số ba trăm sáu mươi lăm độ, hai mươi bốn phút và hai mươi lăm giây. Lục khí: là âm dương lục khí) [Lục khí 六氣 gồm: âm, dương, gió, mưa, tối và sáng (âm, dương, phong, vũ, hối, minh 陰, 陽, 風, 雨, 晦, 明)]
Sức mạnh của nó lớn và lâu dài, yên lặng mà cao quý, nếu mà dùng để định hối lận (hối tiếc ăn năn), tốt xấu, sẽ có một vị trí của nó mà không trực tiếp cai quản nó.
(Ứng vào tốt xấu, sanh khắc, xung hợp đều không bằng nhật nguyệt gọi là cao quý nhưng không gần gũi, vị cao nhưng mà khó mong cầu).
Vì thế cùng với hào thần xung gọi là tuế phá nhưng không không phá; với hào thần hợp gọi là tuế viện nhưng không thật sự cứu trợ; sanh nhưng mà không sanh liền tức thời, thương nhưng không tổn hại ngay lập tức, không vong có thể không, phá có thể huỷ hoại.
(Thái tuế với hào thần tương xung danh gọi là tuế phá, nếu mà khắc hào thần danh gọi là tuế khắc; trị quỷ tên gọi là tuế quỷ, không lập tức hung xấu, cho nên thái tuế ở tại tuần không thì trống rỗng không có gì cả, ở tại nguyệt phá thì huỷ hoại).
Bói quốc gia mà xuất hiện: mừng an tỉnh và vượng, kỵ bị phá tuyệt; không xuất hiện thì chỉ luận hào năm, lúc tuế ban xuống xảo trá, âm hiểm thì đất nước tai ương, còn ban phúc thì thiên hạ thái bình, an khang.
(Thái tuế xuất hiện là hình tượng của vua; không xuất hiện thì chỉ lấy hào năm làm triều đình. Thái tuế trị quỷ đất nước tai ách; thái tuế trị phúc thì bổn biển thái bình, an khang).
Bói thân mệnh hào phúc trị thái tuế nên thường ngày an lạc; bói gia trạch mà hào quỷ hội thái tuế hay nguyệt kiến thì gian nan, khốn khó; làm quan thì chức vụ cao quý; kiện tụng thì bị phiền nhiễu bởi án lệnh; sự việc liên quan đến triều đình mừng thái tuế sanh hợp hào thế, kỵ xung khắc thân tượng.
(Đại khái các loại: dâng sớ tâu lên vua, gặp vua, yết kiến hay khẩn cầu đều mừng được thái tuế sanh hợp hào thế tức được hợp lòng vua; thái tuế mà xung hào thân thì lo rằng sẽ bị trách phạt).
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#23
Gửi vào 14/12/2025 - 05:18
Dịch Mạo - Quyển Ba
22- Nguyệt tướng chương
Trời đất biến đổi, âm dương tiêu trưởng, nóng lạnh qua lại, đều có thời gian riêng của nó, gọi là 'lệnh", ngũ hành, vạn vật đều theo "lệnh" mà sanh diệt, "nguyệt tướng" có hay không có sức mạnh?
(Bản ghi chép: "nguyệt kiến" chính là phần chủ yếu của các môn bói toán; Bổ Di nói: "nguyệt tướng" ra lệnh ở ba tuần, qua lại, cảm ứng, và hồi phục. Bởi công dụng của mệnh lệnh là quyền lực, cho nên lệnh của thuỷ thì lạnh; lệnh của hoả thì nóng; lệnh của mùa xuân thì sanh; lệnh của mùa thu thì diệt).
Đại khái hào gặp nguyệt tướng, thì gặp phá mà không bị huỷ hoại; gặp thương mà không bị tổn hại; trong quẻ không có mà như có; hào tuyệt nhưng không tuyệt; động mà gặp xung nhưng không bị tán; gặp tuần không mà không bị mai một, dụng thần gặp thì tốt; kỵ thần gặp thì xấu.
(Đại khái hào nếu gặp "nguyệt tướng", cho dù gặp biến xung, động xung, nhật xung tuế xung đều không bị phá, hoặc là hào động, hào biến hay nhật thần khắc nhưng không bị tổn hại, nếu trong quẻ không thấy dụng thần, nhưng mà gặp "nguyệt kiến" thì có dụng thần. Kỵ thần nếu mà động trong quẻ thì vượt quá tháng mới sụp đổ; nếu nguyên thần động ở trong quẻ, thì điềm tốt lành lộ ra ngay trong tháng).
Chỉ có nhật thần có thể thắng, tương lai có khả năng chống cự, bởi ý nghĩa là: vật đến tận cùng sẽ biến đổi, khí đầy tràn sẽ sụp đổ.
(Lực của nhật nguyệt so đo nhau, nếu mà nguyệt khắc nhật sanh: mười phần tốt còn tám; nhật khắc nguyệt sanh: mười phần tốt còn bảy; trường hợp nhật tán hay nguyệt phá thì không thể cứu trợ nhau. Dụng bói tương lai, dùng tháng sau này mà đạt được sự việc làm chứng cứ, chẳng hạn tháng hợi ngày bính dần bói thi cử xét ngạch trật được quẻ "tuỵ", hào quan hiện lâm nguyệt phá vốn là không tốt, nhưng đến đầu mùa hè năm sau mới thi, lúc này hào quan đắc nguyệt kiến, kết quả bài thi đạt được thượng thượng).
Lực của nó có thể quản thúc, ngăn chặn các hào vượng tướng, phát động cũng như hào biến, phục, hỗ; quyền của nó cho dù thái tuế cũng không đoạt mất được.
.
22- Nguyệt tướng chương
Trời đất biến đổi, âm dương tiêu trưởng, nóng lạnh qua lại, đều có thời gian riêng của nó, gọi là 'lệnh", ngũ hành, vạn vật đều theo "lệnh" mà sanh diệt, "nguyệt tướng" có hay không có sức mạnh?
(Bản ghi chép: "nguyệt kiến" chính là phần chủ yếu của các môn bói toán; Bổ Di nói: "nguyệt tướng" ra lệnh ở ba tuần, qua lại, cảm ứng, và hồi phục. Bởi công dụng của mệnh lệnh là quyền lực, cho nên lệnh của thuỷ thì lạnh; lệnh của hoả thì nóng; lệnh của mùa xuân thì sanh; lệnh của mùa thu thì diệt).
Đại khái hào gặp nguyệt tướng, thì gặp phá mà không bị huỷ hoại; gặp thương mà không bị tổn hại; trong quẻ không có mà như có; hào tuyệt nhưng không tuyệt; động mà gặp xung nhưng không bị tán; gặp tuần không mà không bị mai một, dụng thần gặp thì tốt; kỵ thần gặp thì xấu.
(Đại khái hào nếu gặp "nguyệt tướng", cho dù gặp biến xung, động xung, nhật xung tuế xung đều không bị phá, hoặc là hào động, hào biến hay nhật thần khắc nhưng không bị tổn hại, nếu trong quẻ không thấy dụng thần, nhưng mà gặp "nguyệt kiến" thì có dụng thần. Kỵ thần nếu mà động trong quẻ thì vượt quá tháng mới sụp đổ; nếu nguyên thần động ở trong quẻ, thì điềm tốt lành lộ ra ngay trong tháng).
Chỉ có nhật thần có thể thắng, tương lai có khả năng chống cự, bởi ý nghĩa là: vật đến tận cùng sẽ biến đổi, khí đầy tràn sẽ sụp đổ.
(Lực của nhật nguyệt so đo nhau, nếu mà nguyệt khắc nhật sanh: mười phần tốt còn tám; nhật khắc nguyệt sanh: mười phần tốt còn bảy; trường hợp nhật tán hay nguyệt phá thì không thể cứu trợ nhau. Dụng bói tương lai, dùng tháng sau này mà đạt được sự việc làm chứng cứ, chẳng hạn tháng hợi ngày bính dần bói thi cử xét ngạch trật được quẻ "tuỵ", hào quan hiện lâm nguyệt phá vốn là không tốt, nhưng đến đầu mùa hè năm sau mới thi, lúc này hào quan đắc nguyệt kiến, kết quả bài thi đạt được thượng thượng).
Lực của nó có thể quản thúc, ngăn chặn các hào vượng tướng, phát động cũng như hào biến, phục, hỗ; quyền của nó cho dù thái tuế cũng không đoạt mất được.
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#24
Gửi vào 14/12/2025 - 06:24
Dịch Mạo - Quyển Ba
23- Nhật chủ chương
"Chu thiên" chứa đựng bốn mùa, tạo nên hai chí [đông chí, hạ chí], hai phân [xuân phân, thu phân], dao động, cọ xát sáu khí tiêu trưởng, chẳng phải chỉ ở xích đạo mới như vậy, bởi mặt trời đi theo đường hoàng đạo, trong ngày đêm, cũng đủ một vòng bầu trời, vậy nhật chủ không có quyền lực hay sao?
(Xích đạo là "thiên độ" (天度), trời thì không có hình, mà hình thành bởi các vì sao, âm dương nóng lạnh tuy rằng bầu trời chứa đựng nhưng mà trong một ngày đêm, mỗi ngày một vòng các sao cũng một vòng nhưng còn thiếu, mặt trời đi một vòng cũng thiếu, mặt trời với mặt trăng hội hợp, đếm được hai mươi chín ngàn năm trăm ba mươi lẻ năm mươi chín chấm ba giây (29.530.593,3 giây), vì mặt trăng không bằng mặt trời mười ba độ bảy của một (1/13,7 độ), vì vậy quyền lực của nhật chủ đạt được trung đạo là không có gì sai trái).
Cho nên nhật chủ đến thì không thể phá vở, không thể làm trống rỗng, không thể làm tán loạn được, như thép như kim cương, ai có thể làm tổn thương nó, dụng thần gặp được gọi là hoàn hảo, kỵ thần động sao phải lo buồn, cừu thần động sao phải lo lắng, chỉ nguyệt tướng mới có quyền cai quản ngang bằng , khi khác sẽ đoạt quyền nắm giữ, đó là ý nghĩa co duỗi.
(Dụng thần lâm nhật chủ xuất hiện trong quẻ, kỵ thần hay cừu thần phát động đều không gây hại gì, nguyệt tướng cũng không thể khắc chế, tuy rằng nhật chủ là nguyên thần sanh dụng thần, nếu mà nguyệt tướng là kỵ thần khắc dụng thần, sẽ đoạt hai phần mười sức mạnh của nó; nếu mà ngày khác thành công tức là dùng ngày khác làm chủ, chẳng hạn tháng thìn ngày giáp dần bói họp mặt được quẻ "sư", ngọ đang trường sanh ở ngày dần, nhưng mà ngày quý hợi cuộc họp mới tổ chức, hoả thì tuyệt ở hợi nên không thành công, đó là ý nghĩa co duỗi).
Cho nên phối hợp nhật nguyệt với hào tượng: thì nguyệt tướng trước tiên thuận theo năm nguyên tắc (五法: ngũ pháp - vượng tướng hưu tù tử), rồi sau mới thuận theo mười hai nguyên tắc (十二法: thập nhị pháp - trường sinh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng), còn nhật chủ thì chỉ chuyên nguyên tắc về trường sinh, mộc dục, vì thế nhật chỉ "tán", nguyệt chỉ "phá"; nhật đặt nặng ở "tuyệt", nguyệt thì đặt nặng ở "khắc"; nhật có "tuỳ mộ", nguyệt không có "trợ thương", người bói sao không dùng nhật chủ trước tiên vậy?
(Nếu mà phối hợp nhật nguyệt với hào tượng, dụng thần nương nhờ nguyệt tướng thì trước tiên luận vượng, tướng, hưu, tù, tử; sau mới luận trường sinh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng. Chẳng hạn hào thổ dụng thần gặp tháng tỵ nên tướng, nó bị tuyệt thì nhẹ, tuy rằng không thể gọi là không bị tuyệt, so sánh với tuyệt giống như mười phần còn bảy, như gặp tháng thân thì hào thổ hưu, so sánh sanh với hưu, đạt được sanh bảy trên mười. Nếu mà sanh hay tuyệt của nhật thần thì chuyên coi trọng, hào kim gặp tỵ là đất trường sanh mười phần được chín, hào thổ gặp tỵ là đất tuyệt chín trên mười, chỉ lấy mười hai pháp trường sanh mà định vượng suy).
.
23- Nhật chủ chương
"Chu thiên" chứa đựng bốn mùa, tạo nên hai chí [đông chí, hạ chí], hai phân [xuân phân, thu phân], dao động, cọ xát sáu khí tiêu trưởng, chẳng phải chỉ ở xích đạo mới như vậy, bởi mặt trời đi theo đường hoàng đạo, trong ngày đêm, cũng đủ một vòng bầu trời, vậy nhật chủ không có quyền lực hay sao?
(Xích đạo là "thiên độ" (天度), trời thì không có hình, mà hình thành bởi các vì sao, âm dương nóng lạnh tuy rằng bầu trời chứa đựng nhưng mà trong một ngày đêm, mỗi ngày một vòng các sao cũng một vòng nhưng còn thiếu, mặt trời đi một vòng cũng thiếu, mặt trời với mặt trăng hội hợp, đếm được hai mươi chín ngàn năm trăm ba mươi lẻ năm mươi chín chấm ba giây (29.530.593,3 giây), vì mặt trăng không bằng mặt trời mười ba độ bảy của một (1/13,7 độ), vì vậy quyền lực của nhật chủ đạt được trung đạo là không có gì sai trái).
Cho nên nhật chủ đến thì không thể phá vở, không thể làm trống rỗng, không thể làm tán loạn được, như thép như kim cương, ai có thể làm tổn thương nó, dụng thần gặp được gọi là hoàn hảo, kỵ thần động sao phải lo buồn, cừu thần động sao phải lo lắng, chỉ nguyệt tướng mới có quyền cai quản ngang bằng , khi khác sẽ đoạt quyền nắm giữ, đó là ý nghĩa co duỗi.
(Dụng thần lâm nhật chủ xuất hiện trong quẻ, kỵ thần hay cừu thần phát động đều không gây hại gì, nguyệt tướng cũng không thể khắc chế, tuy rằng nhật chủ là nguyên thần sanh dụng thần, nếu mà nguyệt tướng là kỵ thần khắc dụng thần, sẽ đoạt hai phần mười sức mạnh của nó; nếu mà ngày khác thành công tức là dùng ngày khác làm chủ, chẳng hạn tháng thìn ngày giáp dần bói họp mặt được quẻ "sư", ngọ đang trường sanh ở ngày dần, nhưng mà ngày quý hợi cuộc họp mới tổ chức, hoả thì tuyệt ở hợi nên không thành công, đó là ý nghĩa co duỗi).
Cho nên phối hợp nhật nguyệt với hào tượng: thì nguyệt tướng trước tiên thuận theo năm nguyên tắc (五法: ngũ pháp - vượng tướng hưu tù tử), rồi sau mới thuận theo mười hai nguyên tắc (十二法: thập nhị pháp - trường sinh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng), còn nhật chủ thì chỉ chuyên nguyên tắc về trường sinh, mộc dục, vì thế nhật chỉ "tán", nguyệt chỉ "phá"; nhật đặt nặng ở "tuyệt", nguyệt thì đặt nặng ở "khắc"; nhật có "tuỳ mộ", nguyệt không có "trợ thương", người bói sao không dùng nhật chủ trước tiên vậy?
(Nếu mà phối hợp nhật nguyệt với hào tượng, dụng thần nương nhờ nguyệt tướng thì trước tiên luận vượng, tướng, hưu, tù, tử; sau mới luận trường sinh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng. Chẳng hạn hào thổ dụng thần gặp tháng tỵ nên tướng, nó bị tuyệt thì nhẹ, tuy rằng không thể gọi là không bị tuyệt, so sánh với tuyệt giống như mười phần còn bảy, như gặp tháng thân thì hào thổ hưu, so sánh sanh với hưu, đạt được sanh bảy trên mười. Nếu mà sanh hay tuyệt của nhật thần thì chuyên coi trọng, hào kim gặp tỵ là đất trường sanh mười phần được chín, hào thổ gặp tỵ là đất tuyệt chín trên mười, chỉ lấy mười hai pháp trường sanh mà định vượng suy).
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#25
Gửi vào 14/12/2025 - 09:13
Dịch Mạo - Quyển Ba
24- Thời thần chương
Thời: bốn mùa đẩy đùn nhau mà thành năm; thần: giống như "ngũ tinh" (五星: ngũ tinh) sắp xếp theo thứ tự trong bầu trời, lấy ngày đêm phỏng theo lạnh nóng; lấy sớm chiều giống như mùa xuân, mùa thu; chiếu theo lục khí mà thành tám khắc, trong khoảnh khắc đều là quyền cai quản của thời thần.
(Mười hai giờ là một ngày, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, ba mươi năm là một thế, mười hai thế là một vận, ba mươi vận là một hội, mười hai hội là một nguyên, tính ra con số là một trăm hai mươi chín ngàn sáu trăm [129600]. Chỉ thời khắc thay đổi ở giây lát (須臾:tu du), dời đổi ở khoảnh khắc (呼吸: hô hấp), quyền cai quản của thời thần chỉ trong một ngày mà thôi).
Chỉ cần nghiên cứu mười hai phép trường sinh thích hợp cho dụng thần, nhưng hào thần với thời xung hợp thì chỉ có danh xung hợp mà không ảnh hưởng sâu đậm, chỉ có khả năng ứng với cát hung trong ngày đó, chẳng ứng với phúc lành hay tai hoạ của ngày khác.
(Như tháng ngọ ngày kỷ tỵ bói lúc sắp sanh được quẻ "cấu" biến "đỉnh", hào thai không vong hào thân động, đáng lẽ ứng với giờ thân ngày đó sẽ sanh, ai biết được hào hợi tử tôn tuyệt ở ngày tỵ, vả lại nó đang không vong, cho đến ngày kế giờ thân mới sanh, có thể thấy rằng trước tiên tìm ở ngày rối sau mới tìm ở giờ vậy).
Vì thế lực của thời thần thì gần, nhẹ, nhỏ và nhanh; tượng của nó thì khiêm nhường và nông cạn, cho nên người đời nói: thời thần chỉ có quyền cai quản trong khoảnh khắc mà thôi.
.
24- Thời thần chương
Thời: bốn mùa đẩy đùn nhau mà thành năm; thần: giống như "ngũ tinh" (五星: ngũ tinh) sắp xếp theo thứ tự trong bầu trời, lấy ngày đêm phỏng theo lạnh nóng; lấy sớm chiều giống như mùa xuân, mùa thu; chiếu theo lục khí mà thành tám khắc, trong khoảnh khắc đều là quyền cai quản của thời thần.
(Mười hai giờ là một ngày, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, ba mươi năm là một thế, mười hai thế là một vận, ba mươi vận là một hội, mười hai hội là một nguyên, tính ra con số là một trăm hai mươi chín ngàn sáu trăm [129600]. Chỉ thời khắc thay đổi ở giây lát (須臾:tu du), dời đổi ở khoảnh khắc (呼吸: hô hấp), quyền cai quản của thời thần chỉ trong một ngày mà thôi).
Chỉ cần nghiên cứu mười hai phép trường sinh thích hợp cho dụng thần, nhưng hào thần với thời xung hợp thì chỉ có danh xung hợp mà không ảnh hưởng sâu đậm, chỉ có khả năng ứng với cát hung trong ngày đó, chẳng ứng với phúc lành hay tai hoạ của ngày khác.
(Như tháng ngọ ngày kỷ tỵ bói lúc sắp sanh được quẻ "cấu" biến "đỉnh", hào thai không vong hào thân động, đáng lẽ ứng với giờ thân ngày đó sẽ sanh, ai biết được hào hợi tử tôn tuyệt ở ngày tỵ, vả lại nó đang không vong, cho đến ngày kế giờ thân mới sanh, có thể thấy rằng trước tiên tìm ở ngày rối sau mới tìm ở giờ vậy).
Vì thế lực của thời thần thì gần, nhẹ, nhỏ và nhanh; tượng của nó thì khiêm nhường và nông cạn, cho nên người đời nói: thời thần chỉ có quyền cai quản trong khoảnh khắc mà thôi.
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#26
Gửi vào 14/12/2025 - 09:24
Dịch Mạo - Quyển Ba
25- Nguyệt phá chương
Vạn vật theo thời gian mà tiêu tức [1] thì ngũ hành suy vượng cũng như thế. "Kiến" là lục khí đúng lúc; "phá" là lục khí trái ngược, vì lúc dụng đúng thời nên danh gọi là "nguyệt kiến" giống như lợi dụng thời gian mà điều khiển; còn lúc dụng trái thời danh gọi là "nguyệt phá", giống như trái thời mà thành bạo ngược vậy.
(Dương chánh thì âm phản, âm chánh thì dương phản. Như tháng tỵ, tỵ là chánh khí của lục dương, thì hợi trái lại là lục âm, đối với tỵ là đắc thời, đối với hợi là thất thời vậy. Trong ngũ hành của đời người không thể trái thời, trái thời thì khốn khổ, cho nên người có tài đức xét kỹ lý lẽ tiến thối, doanh hư, điềm báo như ăn năn, hối tiếc thà giữ gìn sự nghèo túng, như bói không tốt lành thà nên giữ gìn đạo lý bình thường không đổi, cầu tìm mà không được toại nguyện, chẳng bằng đợi thời, gọi là bình an thuận theo mệnh trời vậy. Nếu mà bỏ đi theo đuổi ở đâu, nóng nảy tìm càu cái gì, có nên kỳ vọng chăng? Người tài đức xét kỹ ở tượng tốt xấu của nguyệt kiến, nguyệt phá, mà đạt được cái lý lẻ của khốn đốn hay thông suốt vậy).
Vì thế đời sống không lâu dài, được nâng đỡ mà không cất mình lên, đầy mà như trống rỗng, có mà như không, mình giúp trợ mà dối trá giảo hoạt, mình ghen ghét mà không đau buồn, là hào phục thì không thể lộ ra, ở hào biến thì không có quyền lực, danh gọi là "phá", nên không có chỗ sử dụng.
(Hào thần gặp nguyệt phá, cho dù nhật thần, hào động hay hào biến hồi đầu sanh cũng không thể vượng; cho dù ở tại hào biến thì không thể sanh khắc hào động, là phục thần thì không thể xuất hiện trên tượng quẻ, chính là vật mất thời cơ không làm được gì).
Chỉ đến ngày trực mới thật là phá, về sau có thể bù đắp việc đã qua, nếu mà cùng với hào quỷ động, tốt thì không tốt, xấu thì càng xấu thêm, có thêm bạch hổ sát lâm hào thì đúng vậy.
("Đại bạch hổ" là hung thần, hợp với hào quan quỷ động, tuỳ tiện ngang ngược làm hại, hà chẳng phải tai ương sao? Ngày trực, như tháng năm ngày tý gọi là phá mà không phá, sau tới ngày thìn gặp tý cũng gọi là thật sự phá mà không phá, sau đến tháng tý cũng gọi là bù đắp cái mất mát mà không phá).
[1] Tiêu tức: Quẻ Càn 乾 hào sáu là tức 息, quẻ Khôn 坤 hào sáu là tiêu 消. § Theo kinh Dịch, quẻ Càn chủ Dương, quẻ Khôn chủ Âm. Dương thăng thì vạn vật sinh sôi nẩy nở, nên gọi là tức; Âm giáng thì vạn vật diệt, nên gọi là tiêu.
.
25- Nguyệt phá chương
Vạn vật theo thời gian mà tiêu tức [1] thì ngũ hành suy vượng cũng như thế. "Kiến" là lục khí đúng lúc; "phá" là lục khí trái ngược, vì lúc dụng đúng thời nên danh gọi là "nguyệt kiến" giống như lợi dụng thời gian mà điều khiển; còn lúc dụng trái thời danh gọi là "nguyệt phá", giống như trái thời mà thành bạo ngược vậy.
(Dương chánh thì âm phản, âm chánh thì dương phản. Như tháng tỵ, tỵ là chánh khí của lục dương, thì hợi trái lại là lục âm, đối với tỵ là đắc thời, đối với hợi là thất thời vậy. Trong ngũ hành của đời người không thể trái thời, trái thời thì khốn khổ, cho nên người có tài đức xét kỹ lý lẽ tiến thối, doanh hư, điềm báo như ăn năn, hối tiếc thà giữ gìn sự nghèo túng, như bói không tốt lành thà nên giữ gìn đạo lý bình thường không đổi, cầu tìm mà không được toại nguyện, chẳng bằng đợi thời, gọi là bình an thuận theo mệnh trời vậy. Nếu mà bỏ đi theo đuổi ở đâu, nóng nảy tìm càu cái gì, có nên kỳ vọng chăng? Người tài đức xét kỹ ở tượng tốt xấu của nguyệt kiến, nguyệt phá, mà đạt được cái lý lẻ của khốn đốn hay thông suốt vậy).
Vì thế đời sống không lâu dài, được nâng đỡ mà không cất mình lên, đầy mà như trống rỗng, có mà như không, mình giúp trợ mà dối trá giảo hoạt, mình ghen ghét mà không đau buồn, là hào phục thì không thể lộ ra, ở hào biến thì không có quyền lực, danh gọi là "phá", nên không có chỗ sử dụng.
(Hào thần gặp nguyệt phá, cho dù nhật thần, hào động hay hào biến hồi đầu sanh cũng không thể vượng; cho dù ở tại hào biến thì không thể sanh khắc hào động, là phục thần thì không thể xuất hiện trên tượng quẻ, chính là vật mất thời cơ không làm được gì).
Chỉ đến ngày trực mới thật là phá, về sau có thể bù đắp việc đã qua, nếu mà cùng với hào quỷ động, tốt thì không tốt, xấu thì càng xấu thêm, có thêm bạch hổ sát lâm hào thì đúng vậy.
("Đại bạch hổ" là hung thần, hợp với hào quan quỷ động, tuỳ tiện ngang ngược làm hại, hà chẳng phải tai ương sao? Ngày trực, như tháng năm ngày tý gọi là phá mà không phá, sau tới ngày thìn gặp tý cũng gọi là thật sự phá mà không phá, sau đến tháng tý cũng gọi là bù đắp cái mất mát mà không phá).
[1] Tiêu tức: Quẻ Càn 乾 hào sáu là tức 息, quẻ Khôn 坤 hào sáu là tiêu 消. § Theo kinh Dịch, quẻ Càn chủ Dương, quẻ Khôn chủ Âm. Dương thăng thì vạn vật sinh sôi nẩy nở, nên gọi là tức; Âm giáng thì vạn vật diệt, nên gọi là tiêu.
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#27
Gửi vào 14/12/2025 - 09:50
Dịch Mạo - Quyển Ba
26- Tuần không chương
Nguyên tắc không vong có phân biệt nặng nhẹ: hoặc là năm không vong; hoặc là tháng không vong; hoặc ngày không vong; hoặc là giờ không vong, không thể áp dụng chung một lượt, chỉ có tuần trung không vong là quan trọng nhất.
(Năm, tháng, giờ không vong giữ lại tên gọi của nó, nhưng chỉ có nhật thần tuần không mới là chân thật. Bất chợt xem xét một trường hợp năm tuần không, như người sanh năm kỷ hợi, tự bói thọ mệnh vào năm kỷ mùi tháng dần ngày quý hợi được quẻ "đại súc", phán rằng đến bảy mươi năm mậu thân, chính là tuần giáp thìn dần mão không vong).
Nguyên tắc của tuần không: nên tường tận các ý nghĩa "kiến không", "động không", "điền không", "vượng không", "tướng không" và các nguyên tắc "bán không", "viện không", "an không".
(Nguyệt kiến gặp không vong gọi là "kiến không", giống như không phải không vong, trái lại có chỗ dùng được; hào động gặp không vong gọi là "động không" không chỉ không phải không vong trái lại còn động, nếu mà nhật thần tới xung lại không bị tán mà trái lại thành toàn động, bởi không vong mà gặp xung sẽ là thật mà lại động nửa; hào Không vong gặp xung gọi là "điền không", nếu có được vượng tướng sanh phù chính là "điền thật", còn gặp hưu tù thương khắc thì gọi là "bất toàn điền thật"; hào vượng tướng gặp không vong là "vượng tướng không" phải xem xét nhật thần, nếu được nhật thần cũng sanh phù, gọi là "chân vượng tướng không", còn nếu nhật thần khắc tức là "khắc không", nếu nhật thần tiết khí của nó, tức là "bán không", đây đều là không vong mà hữu dụng. "Bán không" đã đề cập ở trên; hào động hay nhật thần tới sanh hào không vong gọi là "viện không"; nhật nguyệt hay hào động đều không tới khắc hào không vong gọi là "an không" đây đều là hào không vong mà không chết).
Cẩn thận: "phá không", "tuyệt không", "chân không", "khắc không", "thương không". Nói chung trong mười có ba phương pháp, đây là bí mật của tuần không, sau này chúng ta sẽ phân loại đẹp, xấu, nặng, nhẹ mà xét cát hung của nó vậy.
(Hào nguyệt phá gặp không vong gòi là "phá không"; hào tuyệt ở nguyệt là "tuyệt không"; mùa xuân thổ, mùa hạ kim, mùa thu mộc, ba tháng mùa đông hoả đó là "chân không", nếu các tháng thìn tuất sửu mùi lại là thuỷ "chân không", bởi nguyệt kiến tới khắc tức là "chân không". Sở dĩ phá, tuyệt, chân không đều có liên hệ tới nguyệt kiến, được nhật thần hoặc hào động tới sanh tức thành "khắc không" cái này thì nhẹ; như nhật thần hay hào động tới khắc gọi là "thương không" cái này thì nặng, đều là những loại không vong phải cẩn thận. Nói chung bí ẩn quan trọng của tuần không là xem xét tìm tòi ở ba tượng: nhật, nguyệt hay hào động, nhật nguyệt thì hơn cả, hào động thì kém hơn, khắc nhiều hơn sanh phù thì nặng, còn sanh phù nhiều hơn khắc thì nhẹ).
Vì thế không vong ở kỵ thần thì tốt, còn không vong ở dụng thần thì xấu, cho nên cầu sự thành, cầu được tiền bạc, không thể gặp không vong; muốn nó đến, cầu tìm nó có mặt không thể gặp không vong; bói việc lâu dài không thể không vong, bói chỗ ở không thể không vong. Đấy là sáu loại mà không vong có ảnh hưởng.
(Chẳng hạn bói mưu vọng mà hào thế không vong là mình cầu không được toại ý; ứng không vong là nguyện vọng ông đó không thành).
Tất cả các sự việc sắp được tránh xa, sắp vứt bỏ, sắp thoát khỏi, sắp cắt đứt, mong muốn không có, đó là sáu loại mà không vong kiêng cữ.
(Chẳng hạn bói lánh hoạ, hào quỷ không vong thì có thể lánh được; như bói tránh quân dịch hào quỷ không vong thì có thể thoát khỏi).
Bởi vì không vong ở hào biến thì không có quyền chưởng quản, không vong ở hào phục thì không thể xuất hiện.
(Hào biến không vong, không thể sanh khắc hào động cho nên nói là "vô ty"; phục thần không vong không có khả năng lộ ra ở tượng quẻ, nên nói là "bất hiện").
Không vong ở lục thân cân đo dụng của nó; không vong ở lục thần so đo sự việc của nó.
(Lục thân là thê tài, quan quỷ, phụ mẫu, huynh đệ, tử tôn. Bổ Di nói: thê tài không vong tiền của sung túc; quan quỷ không vong thì địa vị sang trọng mà không vinh hoa; tử tôn không vong thì con cái không nơi nương tựa; phụ mẫu không vong nhà cửa vẫn còn suy sụp, hư hỏng; huynh đệ không vong thì anh em thiếu năng lực. Pháp nói: thanh long không vong ôm mãi niềm vui giả tạo; châu tước không vong kiện tụng tự ngưng, câu trận không vong ruộng vườn hoang phế; đằng xà không vong chuyện ma quái không xãy ra; bạch hổ không vong áo tang giữ trong bao; huyền vũ không vong đạo tặc đình chỉ).
Hào thế và hào ứng không vong nên phân biệt sự tìm cầu của mình hay của người khác, quẻ nội và quẻ ngoại không vong nên phân biệt cơ sở mới và cũ, hào gián và hào thân không vong nên phân biệt người và mình, hào âm hào dương không vong nên phân biệt nam nữ, hào xuất hiện hay phục tàng nên phân biệt xa gần, noi theo ngũ hành tuần không là khuôn mẫu cho người học dịch.
(Người môi giới mạnh yếu kỵ hào gián không vong, có tai hoạ cho mình hay không mừng hào thân không vong, nam nhân hào dương không vong thì chẳng gánh vác nhiệm vụ, nữ nhân hào âm không vong nên đề phòng bệnh tật, chẳng phải nói nam nữ không vong mà không phân biệt âm dương. Việc gần kỵ hào xuất hiên không vong; việc xa kỵ hào phục không vong, chẳng phải nói hào xuất hiện mới không vong còn hào phục tàng thì không bị không vong).
.
26- Tuần không chương
Nguyên tắc không vong có phân biệt nặng nhẹ: hoặc là năm không vong; hoặc là tháng không vong; hoặc ngày không vong; hoặc là giờ không vong, không thể áp dụng chung một lượt, chỉ có tuần trung không vong là quan trọng nhất.
(Năm, tháng, giờ không vong giữ lại tên gọi của nó, nhưng chỉ có nhật thần tuần không mới là chân thật. Bất chợt xem xét một trường hợp năm tuần không, như người sanh năm kỷ hợi, tự bói thọ mệnh vào năm kỷ mùi tháng dần ngày quý hợi được quẻ "đại súc", phán rằng đến bảy mươi năm mậu thân, chính là tuần giáp thìn dần mão không vong).
Nguyên tắc của tuần không: nên tường tận các ý nghĩa "kiến không", "động không", "điền không", "vượng không", "tướng không" và các nguyên tắc "bán không", "viện không", "an không".
(Nguyệt kiến gặp không vong gọi là "kiến không", giống như không phải không vong, trái lại có chỗ dùng được; hào động gặp không vong gọi là "động không" không chỉ không phải không vong trái lại còn động, nếu mà nhật thần tới xung lại không bị tán mà trái lại thành toàn động, bởi không vong mà gặp xung sẽ là thật mà lại động nửa; hào Không vong gặp xung gọi là "điền không", nếu có được vượng tướng sanh phù chính là "điền thật", còn gặp hưu tù thương khắc thì gọi là "bất toàn điền thật"; hào vượng tướng gặp không vong là "vượng tướng không" phải xem xét nhật thần, nếu được nhật thần cũng sanh phù, gọi là "chân vượng tướng không", còn nếu nhật thần khắc tức là "khắc không", nếu nhật thần tiết khí của nó, tức là "bán không", đây đều là không vong mà hữu dụng. "Bán không" đã đề cập ở trên; hào động hay nhật thần tới sanh hào không vong gọi là "viện không"; nhật nguyệt hay hào động đều không tới khắc hào không vong gọi là "an không" đây đều là hào không vong mà không chết).
Cẩn thận: "phá không", "tuyệt không", "chân không", "khắc không", "thương không". Nói chung trong mười có ba phương pháp, đây là bí mật của tuần không, sau này chúng ta sẽ phân loại đẹp, xấu, nặng, nhẹ mà xét cát hung của nó vậy.
(Hào nguyệt phá gặp không vong gòi là "phá không"; hào tuyệt ở nguyệt là "tuyệt không"; mùa xuân thổ, mùa hạ kim, mùa thu mộc, ba tháng mùa đông hoả đó là "chân không", nếu các tháng thìn tuất sửu mùi lại là thuỷ "chân không", bởi nguyệt kiến tới khắc tức là "chân không". Sở dĩ phá, tuyệt, chân không đều có liên hệ tới nguyệt kiến, được nhật thần hoặc hào động tới sanh tức thành "khắc không" cái này thì nhẹ; như nhật thần hay hào động tới khắc gọi là "thương không" cái này thì nặng, đều là những loại không vong phải cẩn thận. Nói chung bí ẩn quan trọng của tuần không là xem xét tìm tòi ở ba tượng: nhật, nguyệt hay hào động, nhật nguyệt thì hơn cả, hào động thì kém hơn, khắc nhiều hơn sanh phù thì nặng, còn sanh phù nhiều hơn khắc thì nhẹ).
Vì thế không vong ở kỵ thần thì tốt, còn không vong ở dụng thần thì xấu, cho nên cầu sự thành, cầu được tiền bạc, không thể gặp không vong; muốn nó đến, cầu tìm nó có mặt không thể gặp không vong; bói việc lâu dài không thể không vong, bói chỗ ở không thể không vong. Đấy là sáu loại mà không vong có ảnh hưởng.
(Chẳng hạn bói mưu vọng mà hào thế không vong là mình cầu không được toại ý; ứng không vong là nguyện vọng ông đó không thành).
Tất cả các sự việc sắp được tránh xa, sắp vứt bỏ, sắp thoát khỏi, sắp cắt đứt, mong muốn không có, đó là sáu loại mà không vong kiêng cữ.
(Chẳng hạn bói lánh hoạ, hào quỷ không vong thì có thể lánh được; như bói tránh quân dịch hào quỷ không vong thì có thể thoát khỏi).
Bởi vì không vong ở hào biến thì không có quyền chưởng quản, không vong ở hào phục thì không thể xuất hiện.
(Hào biến không vong, không thể sanh khắc hào động cho nên nói là "vô ty"; phục thần không vong không có khả năng lộ ra ở tượng quẻ, nên nói là "bất hiện").
Không vong ở lục thân cân đo dụng của nó; không vong ở lục thần so đo sự việc của nó.
(Lục thân là thê tài, quan quỷ, phụ mẫu, huynh đệ, tử tôn. Bổ Di nói: thê tài không vong tiền của sung túc; quan quỷ không vong thì địa vị sang trọng mà không vinh hoa; tử tôn không vong thì con cái không nơi nương tựa; phụ mẫu không vong nhà cửa vẫn còn suy sụp, hư hỏng; huynh đệ không vong thì anh em thiếu năng lực. Pháp nói: thanh long không vong ôm mãi niềm vui giả tạo; châu tước không vong kiện tụng tự ngưng, câu trận không vong ruộng vườn hoang phế; đằng xà không vong chuyện ma quái không xãy ra; bạch hổ không vong áo tang giữ trong bao; huyền vũ không vong đạo tặc đình chỉ).
Hào thế và hào ứng không vong nên phân biệt sự tìm cầu của mình hay của người khác, quẻ nội và quẻ ngoại không vong nên phân biệt cơ sở mới và cũ, hào gián và hào thân không vong nên phân biệt người và mình, hào âm hào dương không vong nên phân biệt nam nữ, hào xuất hiện hay phục tàng nên phân biệt xa gần, noi theo ngũ hành tuần không là khuôn mẫu cho người học dịch.
(Người môi giới mạnh yếu kỵ hào gián không vong, có tai hoạ cho mình hay không mừng hào thân không vong, nam nhân hào dương không vong thì chẳng gánh vác nhiệm vụ, nữ nhân hào âm không vong nên đề phòng bệnh tật, chẳng phải nói nam nữ không vong mà không phân biệt âm dương. Việc gần kỵ hào xuất hiên không vong; việc xa kỵ hào phục không vong, chẳng phải nói hào xuất hiện mới không vong còn hào phục tàng thì không bị không vong).
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#28
Gửi vào 14/12/2025 - 10:03
Dịch Mạo - Quyển Ba
27- Nhật xung chương
Nhật xung hào an tinh vượng trở thành "ám động"; nhật xung hào tĩnh suy gọi là "ám phá"; hào không vong gặp xung gọi là "thật"; hào động gặp xung gọi là "tán", nói chung có bốn nguyên tắc, đấy là quy luật quan trọng của nhật xung.
(Chẳng hạn tháng thìn ngày mão, quẻ khôn hào dậu tử tôn gọi là "ám động", tức là "bán động"; như tháng ngọ ngày dậu quẻ ly hào mão phụ mẫu gọi là "ám phá" tức là "bán toái" (碎: toái - đập vụn); như tháng ngọ ngày mậu thìn, quẻ càn hào tuất trì thế không vong gọi là "toàn thật"; tháng hợi ngày mậu tý quẻ cấn hào ngọ phụ mẫu không vong, gọi là "bán thật". Như hào động gặp nhật thần xung nếu chẳng phải đắc nguyệt kiến thì gọi là "tán", cũng như hào động hoá xung cũng là "tán", hoặc hào khác động tới xung, nếu mà nó mạnh mà mình yếu đều là "tán". "Tán": giống như không vong tức là hoàn toàn không có, cho dù được sanh phù cũng không thể chữa trị).
Cũng có bốn nguyên tắc là "mộ xung"; "thai xung"; "khắc xung"; và "tuyệt xung". Đây là các danh xưng khác nhau của nhật xung.
(Thìn tuất, sửu mùi là "mộ xung", không kể vượng tướng hay hưu tù, tĩnh mà gặp xung là "ám động", không vong gặp là "điền thật". Tý ngọ, mão dậu là "thai xung", vượng tướng mà tĩnh thì là "ám động", hưu tù mà tĩnh là "bán tán", không vong là "bán thật". Như ngày tý dậu tới xung ngọ mão, tuy vượng tướng cũng là "khắc xung", việc tốt lành của nó mười phần chỉ còn bảy mà thôi. Dần thân, tỵ hợi là "tuyệt xung", cho dù vượng tướng, hào an tĩnh không thể trở thành"ám động", hào không vong không thể trở thành "toàn thật", bởi vì "tuyệt xung" với "khắc xung" giống nhau. "Khắc xung" thì có ba, ngày tý dậu "khắc xung" thì nhẹ một chút; ngày thân hợi "khắc xung" vừa tuyệt mà lại vừa khắc cho nên nặng lắm; ngày dần tỵ "tuyệt xung" thì nặng hơn ở "thai khắc xung" vậy).
"Ám động": hoặc là lâm vào ở nguyên thần, hoặc là lâm vào ở kỵ thần, hoặc là lâm vào ở dụng thần, đều tuỳ theo nơi nào mà sử dụng, nếu như cừu thần, kỵ thần cùng động mà gặp nguyên thần ám động, giống như liên tục sanh không ngừng. Nhưng trở thành lực của tốt xấu chỉ đạt được phân nửa, báo ứng nhanh chậm thì là thong thả, ứng với tai hoạ hay phúc lành thì kín đáo như mầm mống như hang hốc, giống như giải bày, giống như tiết lộ, mừng nó là dụng thần, ghét nó là kỵ thần, đó là vài thứ của nó.
(Lực của "ám động" không bằng lực của hào động).
Thái tuế hay thời thần xung thì không phải vậy, bởi vì dùng cho năm thì lâu xa nên không nói xung; dùng cho giờ thì gần nên không nói phá, vì thế chỉ nhật nguyệt xung chẳng có so sánh xa gần, lâu mau vậy.
.
27- Nhật xung chương
Nhật xung hào an tinh vượng trở thành "ám động"; nhật xung hào tĩnh suy gọi là "ám phá"; hào không vong gặp xung gọi là "thật"; hào động gặp xung gọi là "tán", nói chung có bốn nguyên tắc, đấy là quy luật quan trọng của nhật xung.
(Chẳng hạn tháng thìn ngày mão, quẻ khôn hào dậu tử tôn gọi là "ám động", tức là "bán động"; như tháng ngọ ngày dậu quẻ ly hào mão phụ mẫu gọi là "ám phá" tức là "bán toái" (碎: toái - đập vụn); như tháng ngọ ngày mậu thìn, quẻ càn hào tuất trì thế không vong gọi là "toàn thật"; tháng hợi ngày mậu tý quẻ cấn hào ngọ phụ mẫu không vong, gọi là "bán thật". Như hào động gặp nhật thần xung nếu chẳng phải đắc nguyệt kiến thì gọi là "tán", cũng như hào động hoá xung cũng là "tán", hoặc hào khác động tới xung, nếu mà nó mạnh mà mình yếu đều là "tán". "Tán": giống như không vong tức là hoàn toàn không có, cho dù được sanh phù cũng không thể chữa trị).
Cũng có bốn nguyên tắc là "mộ xung"; "thai xung"; "khắc xung"; và "tuyệt xung". Đây là các danh xưng khác nhau của nhật xung.
(Thìn tuất, sửu mùi là "mộ xung", không kể vượng tướng hay hưu tù, tĩnh mà gặp xung là "ám động", không vong gặp là "điền thật". Tý ngọ, mão dậu là "thai xung", vượng tướng mà tĩnh thì là "ám động", hưu tù mà tĩnh là "bán tán", không vong là "bán thật". Như ngày tý dậu tới xung ngọ mão, tuy vượng tướng cũng là "khắc xung", việc tốt lành của nó mười phần chỉ còn bảy mà thôi. Dần thân, tỵ hợi là "tuyệt xung", cho dù vượng tướng, hào an tĩnh không thể trở thành"ám động", hào không vong không thể trở thành "toàn thật", bởi vì "tuyệt xung" với "khắc xung" giống nhau. "Khắc xung" thì có ba, ngày tý dậu "khắc xung" thì nhẹ một chút; ngày thân hợi "khắc xung" vừa tuyệt mà lại vừa khắc cho nên nặng lắm; ngày dần tỵ "tuyệt xung" thì nặng hơn ở "thai khắc xung" vậy).
"Ám động": hoặc là lâm vào ở nguyên thần, hoặc là lâm vào ở kỵ thần, hoặc là lâm vào ở dụng thần, đều tuỳ theo nơi nào mà sử dụng, nếu như cừu thần, kỵ thần cùng động mà gặp nguyên thần ám động, giống như liên tục sanh không ngừng. Nhưng trở thành lực của tốt xấu chỉ đạt được phân nửa, báo ứng nhanh chậm thì là thong thả, ứng với tai hoạ hay phúc lành thì kín đáo như mầm mống như hang hốc, giống như giải bày, giống như tiết lộ, mừng nó là dụng thần, ghét nó là kỵ thần, đó là vài thứ của nó.
(Lực của "ám động" không bằng lực của hào động).
Thái tuế hay thời thần xung thì không phải vậy, bởi vì dùng cho năm thì lâu xa nên không nói xung; dùng cho giờ thì gần nên không nói phá, vì thế chỉ nhật nguyệt xung chẳng có so sánh xa gần, lâu mau vậy.
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#29
Gửi vào 14/12/2025 - 10:15
Dịch Mạo - Quyển Ba
28- Ngộ thời chương
Ta nghe nói dụng thần đắc lệnh thì tốt, còn thất lệnh thì xấu, đạo lý phổ thông mà, nhưng sử dụng cho đang lúc này hay thời gian sau này, làm sao có thể chuyên nhất để mà luận vậy.
(Đắc lệnh hay thất lệnh gọi là định kỳ, nên sự việc ở tương lai chớ chấp vào thời lệnh).
Cho nên bói ở tháng này thì đắc lệnh; ở ngày này thì đắc lệnh, tức là đương lúc dụng thần được tốt; nếu tháng kia đắc lệnh hay ngày kia đắc lệnh tức là dụng thần đang ở thời gian kia mà được tốt vậy. Bởi qua khỏi tháng hè mà vào tháng đông thì tốt đẹp cho dụng thần là thuỷ; ngày hợi bói việc tìm cầu ở ngày tỵ dụng thần hoả thì tốt lành.
(Bổ di nói: mùa đông tồn trữ hàng hoá mùa hè nên được hào tỵ, ngọ thê tài; mùa thu bán hàng ra, thu hàng vào ở mùa xuân, mừng được dần mão ở hào thê tài. Chẳng hạn tháng dần ngày tân hợi bói diêu hội đinh tỵ, được "tiết" biến "trung phu", hào tỵ thê tài tuyệt ở ngày hợi, hào huynh đệ động đoạt tài, đáng lý không nên, nhưng hào đinh tỵ thê tài đang lấy ngày đinh tỵ tìm cầu, vả lại tuần giáp dần hào tý huynh đệ không vong, quả nhiên ngày này họp thành công, có thể thấy gặp thời là mấu chốt của bói toán).
Dụng thần được lệnh ngay bây giờ, thì mất ở lúc khác; được lệnh ở thời gian kia thì mất lệnh ở lúc này, tốt xấu hơn nhau, làm sao không thể biện luận thâm sâu được? Nếu theo thói thường mà bói, thường là tìm cầu ở lâu dài, tức là lấy thời gian đang lúc bói để xem dụng thần được lệnh hay thất lệnh mà định tai hoạ hay phúc lành, vì nó không có thời gian để nương tựa theo vậy.
.
28- Ngộ thời chương
Ta nghe nói dụng thần đắc lệnh thì tốt, còn thất lệnh thì xấu, đạo lý phổ thông mà, nhưng sử dụng cho đang lúc này hay thời gian sau này, làm sao có thể chuyên nhất để mà luận vậy.
(Đắc lệnh hay thất lệnh gọi là định kỳ, nên sự việc ở tương lai chớ chấp vào thời lệnh).
Cho nên bói ở tháng này thì đắc lệnh; ở ngày này thì đắc lệnh, tức là đương lúc dụng thần được tốt; nếu tháng kia đắc lệnh hay ngày kia đắc lệnh tức là dụng thần đang ở thời gian kia mà được tốt vậy. Bởi qua khỏi tháng hè mà vào tháng đông thì tốt đẹp cho dụng thần là thuỷ; ngày hợi bói việc tìm cầu ở ngày tỵ dụng thần hoả thì tốt lành.
(Bổ di nói: mùa đông tồn trữ hàng hoá mùa hè nên được hào tỵ, ngọ thê tài; mùa thu bán hàng ra, thu hàng vào ở mùa xuân, mừng được dần mão ở hào thê tài. Chẳng hạn tháng dần ngày tân hợi bói diêu hội đinh tỵ, được "tiết" biến "trung phu", hào tỵ thê tài tuyệt ở ngày hợi, hào huynh đệ động đoạt tài, đáng lý không nên, nhưng hào đinh tỵ thê tài đang lấy ngày đinh tỵ tìm cầu, vả lại tuần giáp dần hào tý huynh đệ không vong, quả nhiên ngày này họp thành công, có thể thấy gặp thời là mấu chốt của bói toán).
Dụng thần được lệnh ngay bây giờ, thì mất ở lúc khác; được lệnh ở thời gian kia thì mất lệnh ở lúc này, tốt xấu hơn nhau, làm sao không thể biện luận thâm sâu được? Nếu theo thói thường mà bói, thường là tìm cầu ở lâu dài, tức là lấy thời gian đang lúc bói để xem dụng thần được lệnh hay thất lệnh mà định tai hoạ hay phúc lành, vì nó không có thời gian để nương tựa theo vậy.
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
#30
Gửi vào 14/12/2025 - 10:45
Dịch Mạo - Quyển Ba
29- Độc phát chương
Được tốt hay bị hung xấu, quỷ thần báo rõ ràng ở hào động, đó là phương cách của bói toán, tìm hào dụng trở thành mấu chốt, mà xem xét tình trạng ở hào động.
Chỉ một hào động còn năm hào không động, năm hào động mà một hào không động, sự việc ứng ở sau này, không hiệu nghiệm ở dụng thần mà hiệu nghiệm ở tượng quẻ. Vì thế chỉ một hào độc phát là bói hào dương động (cửu) hay hào âm động (lục), chỉ một hào an tĩnh là bói hào dương (thất), hào âm (bát), giống như ý chí chuyển động của quỷ thần hiểu biết, quỷ thần nhận biết nên báo điềm tốt xấu, điềm tốt xấu báo ở hào động, cho nên đặt nặng ở hào động mà xem nhẹ ở hào dụng.
(Đại cát, đại hung tuy rằng không liên hệ ở hào độc phát hay độc tĩnh, nhưng quỷ thần phân minh thường biểu lộ điềm triệu ở đây).
Nguyên tắc bói toán không thể bỏ dụng thần mà tìm hào động, khác hẵn sự việc hiệu nghiệm ở hào động, như bói người đi xa: được hào giáp tý động và ngày giáp tý đến nơi; hay bói người bệnh: được hào bính tý dộng và đến ngày bính tý thì mất; tránh hoả (避火: tỵ hoả - hoả là lửa cũng là các loại thuốc nổ, súng đạn): gặp hào giáp ngọ quan động và là ngày gặp hồi lộc (回祿: hồi lộc - cháy nhà); cầu danh: gặp hào bính tuất động và là năm không thi đậu.
(Tháng dậu ngày giáp tý bói khi nào con quay về, được quẻ "quải" biến "đại quá", hào tử tôn đắc nguyệt kiến là ứng đến tháng dậu, mão xung hào dậu tử tôn, nên đến ngày đinh mão về đến nơi, nên ngay trong ngày giáp tý lập tức trở về. Tháng ngọ ngày kỷ tỵ bói vợ bệnh được quẻ "đại súc" biến "tiểu súc", hào thê tài bị nguyệt phá biến tuyệt, ứng mất ngay trong ngày, sau đến ngày bính tý mới mất. Tháng mùi ngày mậu ngọ bói gia trạch được "càn" biến "tiểu súc" vốn là ứng vào hoả tai (cháy nhà), canh ngọ, nhâm ngọ đều không ứng, cho đến ngày giáp ngọ thì hồi lộc, vì sau hạ chí trước là nhâm sau là giáp (nói về nạp giáp của quẻ càn) rõ ràng vậy. Năm nhâm ngọ tháng tỵ ngày giáp tuất bói công danh được quẻ "bác" biến "tấn", theo phép thông thường lấy tý ngọ mão dậu thi hương sau do đúng lúc thay đổi mà đậu tiến sĩ vào năm bính tuất. Vì các quẻ trên đều ứng nghiệm ở một hào động, cho nên tuy không rời xa hào dụng mà cũng không chấp đến hào dụng vậy).
Như bói cầu tài được quẻ "bỉ" biến "lâm" là "chiêm bát" [hào âm độc tĩnh], ngày ất mão được tài. Bói thăm bạn được quẻ "dộn) biến "tiết" là "chiêm thất" [hào dương độc tĩnh], ngày nhâm thân họp bạn. Vẫn có hào kỷ tỵ an tĩnh mà ứng nghiệm vào ngày khác là mão, cũng có thể ứng nghiệm. Hào an tĩnh mà độc phát thì lấy ngày trực hay ngày hợp; còn hào động mà có hào độc tĩnh thì lấy ngày trực hay ngày xung, tất nhiên sự lựa chọn hỗn loạn dụng thần, kỵ thần và hào tượng của những người không mất niềm tin. Nguyên tắc độc tĩnh, độc động, noi theo sự chiêm nghiệm của người xưa truyền lại.
(Như tháng dần ngày kỷ hợi bói cầu tài, được quẻ "bỉ" biến "lâm" hào mão thê tài trường sinh, hào thân huynh đệ bị nguyệt phá không thể khắc hào thê tài, chủ sẽ có tài, nhưng không được ở ngày quý mão mà được ở ngày ất mão, bởi can của ngày trực là thê tài vậy; tháng mùi ngày bính ngọ bói gặp bạn hữu, được quẻ "độn" biến "tiết", ứng hào là nhâm thân vì thế ngày nhâm thân gặp mặt; tháng tỵ ngày ất sửu bói con trở về, được quẻ "khuê" biến "hàm"nên ứng ngày đinh mão về đến. Bởi vì một hào an tĩnh, không chỉ nghiệm ở ngày trực, cũng ứng nghiệm ở ngày xung; một hào động, không chỉ ứng ở ngày trực mà còn ứng ở ngày hợp, bí quyết xác định ngày vẫn xem hào dụng).
Hoặc nói: độc phát, độc tĩnh chỉ là điềm báo tốt xấu. Như cầu tài gặp hào thê tài vượng sẽ có tài; cầu quan mà gặp hào quan vượng sẽ có chức quan; người đi xa mà hào dụng gặp sanh khắc nên biết nhanh chậm; người bệnh xem hào dụng suy vượng mà xác định sống chết; rồi sau đó mới dùng hào độc phát hay độc tĩnh mà định ứng kỳ, thường luôn ứng nghiệm, điều này giúp luôn luận đúng.
(Hào độc phát hay độc tĩnh để định ngày giờ, quan sát sự việc và ứng phó, nếu quyết định tốt xấu cần phải xem xét kỹ càng hào dụng, không thể kén chọn [不可執: bất khả chấp]).
.
29- Độc phát chương
Được tốt hay bị hung xấu, quỷ thần báo rõ ràng ở hào động, đó là phương cách của bói toán, tìm hào dụng trở thành mấu chốt, mà xem xét tình trạng ở hào động.
Chỉ một hào động còn năm hào không động, năm hào động mà một hào không động, sự việc ứng ở sau này, không hiệu nghiệm ở dụng thần mà hiệu nghiệm ở tượng quẻ. Vì thế chỉ một hào độc phát là bói hào dương động (cửu) hay hào âm động (lục), chỉ một hào an tĩnh là bói hào dương (thất), hào âm (bát), giống như ý chí chuyển động của quỷ thần hiểu biết, quỷ thần nhận biết nên báo điềm tốt xấu, điềm tốt xấu báo ở hào động, cho nên đặt nặng ở hào động mà xem nhẹ ở hào dụng.
(Đại cát, đại hung tuy rằng không liên hệ ở hào độc phát hay độc tĩnh, nhưng quỷ thần phân minh thường biểu lộ điềm triệu ở đây).
Nguyên tắc bói toán không thể bỏ dụng thần mà tìm hào động, khác hẵn sự việc hiệu nghiệm ở hào động, như bói người đi xa: được hào giáp tý động và ngày giáp tý đến nơi; hay bói người bệnh: được hào bính tý dộng và đến ngày bính tý thì mất; tránh hoả (避火: tỵ hoả - hoả là lửa cũng là các loại thuốc nổ, súng đạn): gặp hào giáp ngọ quan động và là ngày gặp hồi lộc (回祿: hồi lộc - cháy nhà); cầu danh: gặp hào bính tuất động và là năm không thi đậu.
(Tháng dậu ngày giáp tý bói khi nào con quay về, được quẻ "quải" biến "đại quá", hào tử tôn đắc nguyệt kiến là ứng đến tháng dậu, mão xung hào dậu tử tôn, nên đến ngày đinh mão về đến nơi, nên ngay trong ngày giáp tý lập tức trở về. Tháng ngọ ngày kỷ tỵ bói vợ bệnh được quẻ "đại súc" biến "tiểu súc", hào thê tài bị nguyệt phá biến tuyệt, ứng mất ngay trong ngày, sau đến ngày bính tý mới mất. Tháng mùi ngày mậu ngọ bói gia trạch được "càn" biến "tiểu súc" vốn là ứng vào hoả tai (cháy nhà), canh ngọ, nhâm ngọ đều không ứng, cho đến ngày giáp ngọ thì hồi lộc, vì sau hạ chí trước là nhâm sau là giáp (nói về nạp giáp của quẻ càn) rõ ràng vậy. Năm nhâm ngọ tháng tỵ ngày giáp tuất bói công danh được quẻ "bác" biến "tấn", theo phép thông thường lấy tý ngọ mão dậu thi hương sau do đúng lúc thay đổi mà đậu tiến sĩ vào năm bính tuất. Vì các quẻ trên đều ứng nghiệm ở một hào động, cho nên tuy không rời xa hào dụng mà cũng không chấp đến hào dụng vậy).
Như bói cầu tài được quẻ "bỉ" biến "lâm" là "chiêm bát" [hào âm độc tĩnh], ngày ất mão được tài. Bói thăm bạn được quẻ "dộn) biến "tiết" là "chiêm thất" [hào dương độc tĩnh], ngày nhâm thân họp bạn. Vẫn có hào kỷ tỵ an tĩnh mà ứng nghiệm vào ngày khác là mão, cũng có thể ứng nghiệm. Hào an tĩnh mà độc phát thì lấy ngày trực hay ngày hợp; còn hào động mà có hào độc tĩnh thì lấy ngày trực hay ngày xung, tất nhiên sự lựa chọn hỗn loạn dụng thần, kỵ thần và hào tượng của những người không mất niềm tin. Nguyên tắc độc tĩnh, độc động, noi theo sự chiêm nghiệm của người xưa truyền lại.
(Như tháng dần ngày kỷ hợi bói cầu tài, được quẻ "bỉ" biến "lâm" hào mão thê tài trường sinh, hào thân huynh đệ bị nguyệt phá không thể khắc hào thê tài, chủ sẽ có tài, nhưng không được ở ngày quý mão mà được ở ngày ất mão, bởi can của ngày trực là thê tài vậy; tháng mùi ngày bính ngọ bói gặp bạn hữu, được quẻ "độn" biến "tiết", ứng hào là nhâm thân vì thế ngày nhâm thân gặp mặt; tháng tỵ ngày ất sửu bói con trở về, được quẻ "khuê" biến "hàm"nên ứng ngày đinh mão về đến. Bởi vì một hào an tĩnh, không chỉ nghiệm ở ngày trực, cũng ứng nghiệm ở ngày xung; một hào động, không chỉ ứng ở ngày trực mà còn ứng ở ngày hợp, bí quyết xác định ngày vẫn xem hào dụng).
Hoặc nói: độc phát, độc tĩnh chỉ là điềm báo tốt xấu. Như cầu tài gặp hào thê tài vượng sẽ có tài; cầu quan mà gặp hào quan vượng sẽ có chức quan; người đi xa mà hào dụng gặp sanh khắc nên biết nhanh chậm; người bệnh xem hào dụng suy vượng mà xác định sống chết; rồi sau đó mới dùng hào độc phát hay độc tĩnh mà định ứng kỳ, thường luôn ứng nghiệm, điều này giúp luôn luận đúng.
(Hào độc phát hay độc tĩnh để định ngày giờ, quan sát sự việc và ứng phó, nếu quyết định tốt xấu cần phải xem xét kỹ càng hào dụng, không thể kén chọn [不可執: bất khả chấp]).
.
|
Thanked by 1 Member:
|
|
Similar Topics
| Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
|---|
3 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:














