Jump to content






Advertisements




Dịch Mạo


44 replies to this topic

#31

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào 14/12/2025 - 11:20

Dịch Mạo - Quyển Ba

30- Lưỡng hiện chương

Hai hào dụng hiện lên cùng lúc, hào nào sẽ làm chủ? Dĩ nhiên phải xem hào nào bị thương tổn hào nào không bị mà quyết định chọn lấy hay bỏ. Bỏ hào bị thương tổn, giữ hào không bị thương tổn, thì có thể được một hào làm chủ. Nguyên tắc có nói là dùng được thì tốt, không dùng được thì xấu, vì thế mà bỏ hào không thể dùng và chọn hào có thể dùng. Nếu cả hai đều cầu tìm thì tốt xấu không định được vậy.
(Thương tổn nghĩa là các loại tuần không, nguyệt phá, xung tán, khắc thương).

Tuy nhiên hào dụng một động, một tĩnh, bởi có khác biệt nên bỏ hào an tĩnh mà chọn hào động, vì hào động là điềm báo. Nếu không có được dụng thần ở hào phi thì tìm dụng thần ở phục tượng, bỏ phi thần mà thuận theo phục thần, tất nhiên phải lấy nhật nguyệt hay hào động để dẫn xuất phục thần.
(Hào phi dụng bị thương nên chọn tìm phục dụng, kết hợp vối nhật nguyệt hay hào động, được sanh phù thì chọn lấy, còn khắc nhau thì bỏ).

Sanh, vượng, tử, tuyệt ở thời gian sau này cũng lấy hào không bị thương tổn mà luận, do đó nếu sửu mùi đều là hào dụng, mà hào sửu không vong, hào mùi thật nên bại ở tháng sửu, gọi là mùi thật mà sửu phá.
(Ứng với ngày sau này thì chọn phối hợp dụng thần không bị thương tổn, không thể đòi hỏi chung được, như tháng hợi ngày mậu ngọ bói bán hàng ra, được quẻ "đại quá" gặp tháng tý thì giá cao, gặp tháng sửu thì giá thấp, phải luận là sửu phá mùi mà không luận tháng sửu).

Quỷ thần trong bói toán không vọng động (不妄動: bất vọng động), không xuất hiện vô ích (不徒現: bất đồ hiện), tất là có chỗ khuyên nhủ, vì thế nam bói hôn nhân mà có hai hào quan quỷ ắt là có sự cạnh tranh; nữ bói hôn nhân mà có hai hào thê tài thì vợ kết giao nhau [ý là nhiều vợ hoà hợp nhau]; bói kiện tụng mà có hai hào quan quỷ thì chẳng phải một vụ kiện cáo; bói thất thoát mà có hai hào quan quỷ chắc chắn là nhiều lần cùng trộm cắp; bói đường công danh có hai hào quan quỷ thì nhiều lần tạm nhận chức việc; bói thi cử có hai hào phụ thi lại văn chương. Quan là chủ, phụ là thủ lĩnh, nên mưu sự quan trọng nên theo hệ thống lưỡng đầu [hai hào phụ], lưỡng chủ [hai hào quan]; vợ là tiền của, con trai là phúc, nên hào thân, hay hào mệnh gặp được thì nhiều phúc, nhiều tiền của; lo buồn tai hoạ mà có hai hào quan quỷ nên đề phòng sự việc làm cho kinh hãi trong ngoài; coi sóc tiền bạc mà có hai hào thê tài nên có giao tế ngay tức khắc; bói con nối dõi mà có hai hào tử tôn có hai người kế tục thật và giả; bói giao kết bạn hữu có hai hào huynh đệ xuất hiện, có những người bạn trên danh nghĩa và thực tế ở phía trước của chỗ ngồi.
(Cả hai hào dụng xuất hiện trong quẻ cùng lúc, nên nghiên cứu, suy tìm là ai, là việc gì sẽ tìm ra hình tượng của nó, là dụng thần thì vui mừng, là kỵ thần thì nên cân nặng nhẹ).

Bói chỗ ở, hào quan gặp vậy là hai họ ở chung; bói chôn cất hào quan quỷ gặp vậy là hai xác chết cùng chôn chung (二亡之合葬: nhị vong chi hợp táng); cho nên cẩn thận giấy tờ hào phụ chồng chất nên luận giao kết điều lệ; nổi lo quan quỷ, hào quỷ trùng lặp nên có hoạ liên tục không dứt; anh em bện tật, hào huynh trùng trùng nên có nhiều phí tổn phiền toái nổi lên; hào quỷ phục dưới hào quỷ là bệnh mới và bệnh cũ, hào quan hoá quan nên cầu đảo.
(Cả hai hào cùng xuất hiện thật là không dễ hiểu rõ, cho nên liệt kê ở đây, tuỳ theo sự việc tìm tòi).

Nếu cả hai xuất hiện ở phi và phục thì phải so sánh; còn cả hai xuất hiện ở hỗ và biến thì chớ nên so sánh. Quẻ hai ngày phân thì xem hào thăng; quẻ bát thuần luôn có hai hào thổ đều thành cách, cho nên không luận phân biệt rườm rà, cũng chỉ theo nguyên tắc "lưỡng hiện" mà bàn luận.
("Nhị phân", quẻ "bát thuần" chắc chắn có, các quẻ hỗ và quẻ biến đều không luận giống như "lưỡng hiện").


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

Thanked by 1 Member:

#32

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm qua, 00:30

Dịch Mạo - Quyển Bốn

31- Trường sinh chương

Vạn vật trong trời đất bắt đầu từ "vô minh", rồi "tuyệt" và sau đó là "thai".
("Vô minh": tức họ Thích gọi "vô minh" là nguyên cớ hành động, hành động là nguyên cớ của ý thức, ý thức là nguyên cớ của tên gọi cảnh sắc, tương tự của mười hai nhân duyên; "tuyệt" thì không có vật gì tồn tại giống như không rõ ràng; "thai" thì có hình, giống như lý do gọi cảnh sắc vậy).

Vị trí thứ ba là "sanh", vị trí thứ bảy là "vượng", vị trí thứ mười là "tử", vị trí thứ mười hai là kết thúc và lại mở đầu.
(Nguyên tắc không bắt đầu ở "thai" mà bắt đầu ở "trường sinh", vì nó chưa xuất hiện hình tượng. Nguyên tắc "trường sinh": kim sanh ở tỵ, mộc sanh ở hợi, hoả sanh ở dần, thuỷ và thổ sanh ở thân, dùng lòng bàn tay đếm thuận chiều có thể hiểu rõ).

Chọn dụng thần không gì quan trọng bằng sanh và tuyệt, cho nên kim gặp tỵ thì không bị khắc, thổ gặp tỵ thì không phải sanh.
(Mười hai vị trí của dụng thần rất quan trọng ở hai điểm "sanh" và "tuyệt", tức là ngũ hành sanh khắc không bằng "sanh" và "tuyệt", cho nên kim gặp tỵ thì được sanh mà thổ gặp tỵ lại nói là tuyệt vậy).

"Lâm quan" và "đế vượng" là chỗ vượng của dụng thần, vì "lâm quan" là "thực lộc", là lộc trời cho; "đế vượng" thì ngồi ở giữa là nơi quan trọng nhất, lập nên "tướng tinh". Trường sinh gọi là "nhật thần" (日辰); đế vượng gọi là "chánh vượng" (正旺) là hai nơi mà có ai có thể vượt qua được?
(Nguyên tắc "thiên nguyên lộc": vị trí thứ tư là "lâm quan" tức là vị trí của lộc, như giáp mộc sanh ở hợi đi thuận bốn vị trí thì lâm quan ở dần, nên giáp lộc ở dần; ất mộc sanh ở ngọ, đi nghịch bốn vị trí thì lâm quan ở mão, nên ất lộc ở mão; bính mậu sanh ở dần, đi thuận đến tỵ là lâm quan là bính mậu lộc ở tỵ vậy, còn lại phỏng theo đó. Nguyên tắc "tướng tinh": lấy "trung thần" (thần ở giữa) làm chủ, tý ngọ mão dậu đúng ngay ở giữa, nên thân tý thìn thì tý là "tướng tinh", còn lại phỏng theo đó).

Nếu mà "mộc dục", "quan đái", "suy", "bệnh", "thai", dưỡng" thì không vượt qua được ngũ hành sanh khắc, "bệnh" thì dần dần đến không tinh thần (不神: bất thần), "dưỡng" còn đang cung dưỡng phải đợi có sức lực, đại khái gặp sanh thì tốt mà gặp khắc thì xấu, cho nên thuỷ bại ở dậu là "giả bại" tức là không thật bại, hoả "thai" ở tý là "nguỵ thai" (nguỵ là giả trá), mộc "thai" ở dậu luận khắc không luận thai, kim "suy" ở tuất thì luận sanh mà không luận suy.
(Đây là nói mười hai vị trí, chỉ có trường sanh, lâm quan, đế vượng là quan trọng, còn các vị trì khác thì coi nhẹ chút, vẫn dùng ngũ hành sanh khắc mà đoàn).

Nguyên tắc "tử", "mộ": gặp phải "tử" mà không có cứu viện thì gần chết, gặp phải "tử" lại bị khắc, thì chết chắc vậy. "Tuyệt" cũng giống như vậy. "Mộ" thì có phép tắc như chết như thịnh (如擊如發: như kích như phát), "mộ" mà không có xung là ẩn giấu là tồn trữ.
(Hào thần chui vào chỗ "tử" ở nhật nguyệt hay hào biến, hoặc trong nhật nguyệt hay hào biến có một chút sanh thì "tử" mà chưa tử, "tuyệt" mà chưa tuyệt; "tử" rồi mà lại bị khắc thì đã chết rồi; không sanh không khắc, cho phép khắc phân nửa. Đại khái dụng thần nhập mộ mừng hình, mừng xung).

Bởi vì hào dụng sanh tuyệt ở nhật thần đặc biệt quan trọng, còn sanh tuyệt ở nguyệt kiến thì có thể biện biệt. Nguyệt lệnh, nhật thiên nặng nhẹ, nhanh chậm không ngang nhau vậy.
(Sanh tuyệt ở nguyệt kiến cần bao gồm cả nguyên tắc luận đương sanh, nơi sanh, sanh mình, khắc mình, mình khắc, nhật thì nặng, nguyệt thì nhẹ).

Hào phục sanh tuyệt ở hào phi, hào động sanh tuyệt ở hào biến, nguyên tắc cũng giống như của nhật thần, tuy nhiên có phân biệt thật giả. Hào động của quẻ gốc không thể nói sanh tuyệt, cho nên hào tỵ động tổn hại hào kim mà lại sanh thổ, hào hợi động thì hào hoả bị dập tắt nhưng mà hào mộc tươi tốt, có một quan điểm tương đồng.
(Hào động hoá ra hào biến, phục thần là chỗ gốc của hào phi, nếu như không vong hay bị phá thì không sanh không tuyệt vậy, cho nên nói là thật giả. Quẻ và hào gốc chỉ chuyên luận ở sanh khắc, không thích hợp can dự vào mười hai nguyên tắc trường sinh, cho nên nói là tương đồng.

Đạo lý bói toán xem nặng ở địa chi, không phân biệt âm dương, sanh tử của nó giống nhau, điều này chuẩn xác. Nếu như nhà ngũ hành biện luận can chi, phân biệt âm dương thì có dương sanh âm tử và âm tử dương sanh, nên trường sinh cũng khác nhau, bởi vì ngũ hành âm dương đều nương nhờ thai ở mẹ rồi mới dưỡng.
(Bính là mặt trời, đinh là mặt trăng đều nương nhờ thai ở tý, từ trời mở ở tý mà mặt trời, mặt trăng được sáng tỏ. Mặt trời, mặt trăng tức là chỗ mà con người nương theo, cho nên nguyên tắc trước tiên lấy hoả thai ở tý, dưỡng ở sửu và sanh ở dần. Mặt trời mọc thì tạo dụng; mặt trời lặn thì ngừng nghỉ, bính đã sanh ở dần, người cũng sanh ở dần. Âm dương không thể gây dựng lên như nhau, nam nữ không thể không phân biệt, đinh đã sanh ở dậu, vì thế mà người đời cho là bà nội chăm sóc gia đình (故下言祖母族撫之: cố hạ ngôn tổ mẫu tộc phủ chi). Bởi vì can dương có hiệu quả ở mười hai trí, còn can âm chỉ xem nặng ở tử sanh, nên phải tìm hiểu rõ ràng, chỉ cần lấy nguyên tắc dương đi thuận và âm đi nghịch).

Đã phân ra nam nữ, nam đi thuận từ trường sinh, nữ đi nghịch từ chỗ ký sanh, cho đến lâm quan là đất thực lộc, chính là thành tựu.
(Bởi vì can chi, âm dương đạt đến lâm quan là thành tựu. Bính lâm quan ở tỵ, tỵ đã có bính, đinh lâm quan ở ngọ, tức là ngọ có đinh).

Nam lớn rồi, tiếp nhận hôn nhân, chỉ dần bính đến tý cưới tân làm vợ mà nuôi dưỡng con là mậu kỷ, mậu trường sinh ở dần, kỷ thì ký sanh (sống nhờ) ở dậu đều gọi là bà nội chăm sóc, chỉ có điều này là nương tựa mẹ chồng, nhưng ngũ hành hoặc là cùng vị trí, hoặc là cách biệt nhau, tìm tòi nguyên lý sự vật trái ngược kinh điển có thể rõ hết đạo lý.
(Bính sanh ở dần và đã lớn rồi, phù hợp với việc chọn lựa đôi lứa, bính hợp với tân, nên phối hợp với tân, trong khi mão thì không có tân, nghịch xa sống nhờ ở tý chính là tân nữ, ở rễ thành vợ chồng, tự nhiên của tạo vật, không cố định. Hoả sanh thổ nên thổ thai ở tý, dưỡng ở sửu, cho nên mậu sanh ở dần, kỷ thổ ký sanh ở nơi phụ đễ (父娣: phụ đễ - Ngày xưa em cùng lấy một chồng, chị gọi em là đễ.) đinh ở dậu là cô, mọi thứ đã thành tựu. Mậu đã lớn khôn rồi nên kết hợp với quý thành đôi lứa, nên cưới quý thuỷ ở trong mão. Thổ sanh kim nên kim thai ở mão, dưỡng ở thìn, canh kim trường sanh ở tỵ, còn tân kim sống nhờ ở tý nhờ bà nội chăm sóc vậy. Canh đã lớn khôn rồi hợp với ất trong ngọ làm vợ, kim sanh thuỷ nên thuỷ thai ở ngọ, dưỡng ở mùi, nhâm thuỷ trường sanh ở thân, còn quý thuỷ sống nhờ ở mão.Nhâm lớn khôn rồi hợp với đinh ở dậu làm vợ, thuỷ sanh mộc nên mộc thai ở dậu, dưỡng ở tuất, giáp mộc trường sinh ở hợi, còn ất mộc sống nhờ ở ngọ. Giáp lớn khôn rồi hợp với kỷ ở tý làm vợ, mộc sanh hoả nên hoả thai ở tý. Hợi là nơi cuối cùng của trời đất, tý là nơi bắt đầu của trời đất, kỷ tân đều là nữ, đều là ở tý mà cưới gã, bởi vì nam nữ đều do trời sanh, ngũ hành hoặc là ở cùng vị trí, hoặc là cách biệt nhau nên tìm tòi nguyên lý sự vật trái ngược quy luật, có thể hiểu rõ sự ngoặt ngoẹo của đạo lý âm dương. Pháp nói: trong tý có quý kỷ lại thêm tân, trong sửu có kỷ quý phục âm kim, dần có giáp mộc thêm bính mậu, trong mão có ất mộc và quý thuỷ đến, trong thìn có mậu thổ và tàng ất quý, trong tỵ có bính hoả và mậu lại thêm canh, trong ngọ đinh hoả nối với ất kỷ, trong mùi có kỷ thổ cũng gặp đinh, trong thân canh kim khôn cùng nhâm thuỷ, trong dậu có tân kim đinh kỷ tầm, trong tuất có mậu thổ với tân đinh, trong hợi có nhâm thuỷ và giáp mộc trường sanh, trong địa chi có thiên can phục, thiên địa nhân nguyên phải phân biệt rõ ràng).

Chỉ có trường sinh của thổ là không chuyên nhất, vì giáp thân khởi ở chỗ thủ lĩnh của đất, trong thân có khôn, cho nên thổ trường sanh ở thân, nếu như phân âm dương thì mậu trường sanh ở dần, kỷ sanh ở dậu, và trong kim, mộc, thuỷ, hoả đều không thể không có thổ, bắt đầu hiểu thêm về đức của thổ, tiếp theo ngũ hành, phận ở nhờ mà vượng, không đi mất mà cũng không sanh.
(Nơi trường sanh của thổ thì không thống nhất; vị trí của thổ thì ở các nơi lộn xộn, bởi vì ngũ hành không thể không có thổ).


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#33

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm qua, 00:50

Dịch Mạo - Quyển Bốn

32- Vô quỷ chương

Hoặc nói dương là quan; âm là quỷ, lại nói vượng là quan; suy là quỷ, cũng nói quan quỷ là hào trói buộc, (công kích?), là hào chế. Đại khái mừng vui là quan, chán ghét là quỷ, hào dụng dương là quan, hào dụng âm là quỷ, danh gọi tuy khác nhau nhưng áp dụng thì như nhau, quẻ không nên không có, mà cũng không nên động.
(Hào quan quỷ không cần phải phân biệt theo vượng suy, âm dương, nếu dùng được là quan, còn kiêng cử, e dè thì là quỷ, nhưng quan cũng có thể xấu, quỷ cũng có thể tốt).

Động mà gặp xung, động mà có chế, động mà không trợ giúp, giống như không động. Có mà không vong, xung mà tán, hoá mà xung, giống như không có vậy. Trong quẻ tuy không có mà phục dưới hào thế hay hào động, hào biến mà đắc nhật kiến, nguyệt kiến tức là tuy không có mà giống như có.
(Đây là phân biệt hư với thật, cường với nhược của nó)

Không vong mà động gọi là bán không; động mà phá, tức là hoàn toàn xấu. Có khi nói tốt mà không tốt, hung thì càng thêm hung, là do gặp phải đại bạch hổ.
(Phá vốn là trở thành không, bởi đại bạch hổ - một loại thần sát, nên nó hung thì càng tăng thêm hung).

Hình tượng của nó ở trên trời là quỷ thần, là sấm sét; ở dưới đất là đền miếu, là thổ thần và cốc thần, sở quan, xác chết, yêu tà, kiến, mối; ở con người là chủ trương, quyền hành, hồn phách, kiến thức, tật bệnh; ở gia đình là việc thờ cúng, chủ tể - cai quản sự vật, tổ tiên, bùa chú yểm đảo; ở quốc gia là quân thù, loạn thần; ở chức việc là chức tước; ở sự việc là kiện cáo, tranh cãi, là cầu cúng, là người nịnh hót, là trở trệ, là trói buộc.
(Trong lục thân chỉ có hào quỷ là có nhiều hình tượng nhất, là hào không thể bỏ sót).

Cho nên bói thân mệnh không có hào quỷ: mưu vọng thì thất chủ, xử thế không lâu bền; bói công danh không có hào quỷ: tiến thủ không thành tựu, muốn được thăng chức thì không toại ý; bói gia trạch mà không có hào quỷ: không có phẩm hạnh cai quản, nhiều mầm mối làm cho hao tốn tiền bạc, chia ly; bói mưu vọng không có hào quỷ: sự việc không có người lãnh đạo quyết đoán hay ngừng việc nói chuyện vô ích.
(Đây là nói về dùng hào quỷ, vì thế hào quỷ không nên không có vậy)

Bói tật bệnh không có hào quỷ, đều xem hào dụng, hào dụng bị thương tổn thì cầu cúng không ứng nghiệm, hào dụng có sức lực thì không cầu tế vẫn khỏi bệnh; bói hôn nhân không có hào quỷ cần phân biệt nam nữ: nữ bói thì e còn trẻ đã goá chồng, còn nam bói thì mình chẳng phải là người phối ngẫu; bói cầu tài không có hào quỷ cần phải phân chủ khách: cùng góp vốn mà quyền hành vào tay người khác, tay không cầu tài thì mình không gặp tài; tự mình trốn tránh thì dễ ẩn núp, truy lùng (捕逃 bộ đào) sẽ khó tìm được vết tích; mất đồ vật thì chớ vu cáo người; chỗ thờ cúng thì thần không giáng; yêu cầu, uỷ thác thì nói không ai nghe theo; sự việc theo giống như thế mà nghiên cứu.
(Đây là nói về không có hào quỷ, phân tích mỗi thứ tốt xấu)

Vì thế hào quan quỷ làm chủ sự việc, là nguyên nhân tai hoạ, xuất nhập, hành động hay ẩn núp quý ở chỗ an tĩnh mà không nên động, vì động tạo nên khó khăn, e sợ nó động lập tức hoàn thành. Bởi nói chung đề phòng hại tới thân mình thì mừng không có hào quỷ, còn cầu sự có ích cho mình thì có lợi ở hào quan, học giả nên phân tích.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#34

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm qua, 01:01

Dịch Mạo - Quyển Bốn

33- Tuyệt sanh chương

Hào dụng thuộc mộc, bói ngày thân là tuyệt, hào thuỷ động thì sanh, nhân đó gọi là "tuyệt sanh", giống như ở đất khốn khó mà gặp được cứu giup, viện trợ.

Bởi vì có năm nguyên tắc của "tuyệt sanh": một là hào dụng bị nhật nguyệt khắc mà gặp hào động sanh ; hai là bị hào động khắc mà được hào biến sanh; ba là bị hào biến khắc mà được hào động sanh; bốn là phục thần bị nhật nguyệt khắc mà được hào phi, hào động sanh; năm là phục thần bị hào phi hay hào động khắc mà được nhật nguyệt sanh. Đây là năm trường hợp gọi là "tuyệt xứ phùng sanh".

Có ba trường hợp không thể sanh: một là hào dụng tự bị phá tán, thì không thể sanh; hai là hào phi, hào động sanh mình nhưng bị phá tán thì không thể sanh; ba là hào biến sanh mình mà bị phá tuyệt thì không thể sanh. Kỵ thần cũng dùng điều này để tham khảo.

Hào thân, hào mệnh, hào thế tuyệt mà dược sanh dù gian nan, khốn khó sẽ được hanh thông, tuy còn non trẻ nhưng sẽ được trường thọ; thi cử môn văn quan trọng hào phụ mẫu, thi sức mạnh quân sự thì quan trọng hào quan quỷ, gặp vậy thì có cơ hội lọt xuống núi nhỏ (幾落孫山: cơ lạc tôn sơn), nhưng cuối cùng cũng đậu (終登龍虎: chung đăng long hổ); nam bói hôn nhân dụng thần là hào thê tài, nữ bói hôn nhân thì hào dụng là quan quỷ, gặp vậy thì sau cũng bình yên tiến tới, dù lúc đầu bị đàn hặc.

Hào quan quỷ là mình bệnh, bệnh giảm rồi trở lại, hào dụng chính là tự mình bệnh, nguy hiểm nhưng được bình yên; kiện tụng hào quan quỷ được nhật nguyệt sanh có lo nhưng mà không lo (憂而不憂: ưu nhi bất ưu), hào tử tôn gặp trợ giúp của hào động biến; xuất hành: hào thế gặp vậy thì bình yên, người đi có thể sẽ trở về; bói quan từ ái: do bỏ tiền chuộc tội cho nhiều người mà được tăng thêm bỗng lộc; bói của cải sắp tổn thất, hao tổn mà được dồi dào; bắt kẻ bỏ trốn thì có thể gặp, như cá thoát khỏi lưới. Noi theo chân lý đáng giá như rồng bay lên trời.
(Danh: là ý nghĩa của hào quan quỷ gặp phải; lợi: là ý nghĩa của hào thê tài gặp phải).

Quẻ nội gặp phải: nhà cửa đang lúc suy bại mà sắp được thịnh vượng; quẻ ngoại gặp phải: nhân khẩu suy kém mà lại tăng thêm. Quẻ nội là bờ cõi đất nước, quẻ ngoại là chánh trị, bởi vì bói đất nước giống như bói gia trạch.

Nó là điều tốt giống như nắng hạn gặp mưa; nó là điều xấu như lủa lại bốc cháy. Tuy nhiên chỉ tuyệt nhật nguyệt là thật sự tuyệt, sanh ở nhật nguyệt là thật sự được sanh, không thể không biết điều này.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#35

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm qua, 01:18

Dịch Mạo - Quyển Bốn

34- Hiệp xung chương

Biết rằng hoà thì hợp, kích thì xung. Hợp chủ sự việc thành tựu; xung chủ sự thất bại. Tốt thì nên hợp, hung xấu thì nên xung.

Bói được lục xung, tên nó là quẻ xung, chẳng phải đi mất mà không giản ra. Bàn bạc thì lung tung; sự việc thì nhiều rủi ro; hành động thì lầm lỗi, mưu sự thì hay trắc trở. Quẻ bói hoá ra "lục xung" gọi là "biến xung": bói sự việc chủ không có hậu; đính ước kết hôn thì không thành; kết nghĩa thì không thành thật; mưu cầu thì không được toại ý. Quẻ xung gọi là "tiền xung"; biến xung gọi là "hậu xung", nếu mà trước lục hợp mà sau lục xung thì càng xấu tệ.
(Có ba loại quẻ xung: một là quẻ chánh xung; hai là quẻ biến xung; và ba là "hiệp xứ phùng xung").

"Tiền hiệp hậu xung": đầu tiên thì phồn thịnh mà kết cuộc suy đồi, khốn đốn; "tiền xung hậu hiệp": mới đầu canh cải, biến cách bỗng nhiên hoà hợp; "tiền hợp hậu hợp": bạn bè hợp ý nhau, nhưng kiện cáo thì ràng buộc, vướng mắc, từ đầu đến cuối kết chặt không cởi ra được; "tiền xung hậu xung": mưu vọng khó khăn, nhưng việc quan phi thì tan, thân sơ thì bỏ đi mà không thuận theo.

Có năm loại "hào xung": nhật xung thì ám động, hào không vong xung thì điền thật, hào động bị xung thì tán, hào hoá xung thì mất, hào tự xung thì bại. Có bốn loại "hào hợp": hào tĩnh hợp thì khởi, hào động hợp thì bán (ngăn trở), hoá hợp thì viện (cứu giúp, viện trợ), tự hợp thì hảo (tốt, làn).
(Hoá xung: như tỵ động hoá hợi; tự xung: như trong quẻ cả hai hào tý ngọ cùng động, cần luận cường nhược. Hoá hợp, tự hợp thì suy rộng ngược lại).

Riêng lục hợp mà gặp nhật thần xung hại ở trên hào thế, hào ứng, danh gọi là "hợp xung"; giống như có cơ hội thành công rồi lại bị thất bại; cầu tài thì thấy đã đạt dược rồi nhưng lại mất; hôn nhân thì cơ hội thuận tòng lại bị chia lìa; mưu vọng thì cơ hội thành tựu lại bị biến đổi, không thể chấp nhận được. Không nói xung hợp: vì đã thất bại rồi thì không thể thành công; hay đã phân tán rồi thì không thể tiếp cận; đã mất rồi thì không thể đạt được, dù đạt được cũng là ứng vào việc khác.
(Như tháng ngọ ngày bính tý, bói hôn nhân được quẻ "đoài" biến "tiết" quẻ tuy lục xung nhưng nhật nguyệt hợp với hào thế, hào ứng, thêm động biến thành lục hợp, lý do trước quay lưng mà sau cùng lại thành tựu, về sau hai nhà đều mãn ý, đây là quẻ bói không thành công, cho nên không được coi trọng).

Lại có hào "hiệp xứ phùng xung": thê tài, quan quỷ xung thì kỵ cho hôn nhân; phụ mẫu, quan quỷ xung thì ky cho công danh; tử tôn, thê tài xung thì làm hỏng cho tìm kế sanh nhai. Tuy nhiên, đối với hào thế, hào ứng xung hại thì có phần nhẹ hơn, là nguyên cớ "hiệp xứ phùng xung" mà tiền hiền tập trung vào hào thế và hào ứng.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#36

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm qua, 01:39

Dịch Mạo - Quyển Bốn

35- Tuỳ mộ chương

"Tuỳ mộ" có năm: một là "mệnh mộ"; hai là "thế mộ"; ba là "hào hoá mộ"; bốn là "quái thân mộ"; năm là"thế thân mộ". Đây là năm trường hợp có phân biệt nặng nhẹ.
(Bổn mệnh lâm quỷ mà mộ ở ngày là "mệnh mộ"; hào thế trì quỷ mộ ở nhật là "thế mộ"; cùng với quái thân, thế thân lâm quỷ mà hoá nhập hào mộ là "hào hoá mộ"; quái thân lâm quỷ mà mộ ở nhật, hay thế thân lâm quỷ mà mộ ở nhật là "thân mộ").

Mệnh thuộc về tuỳ quỷ nhập mộ chính là rất xấu, gọi là quỷ ở mệnh có sẵn, nếu có ở nhật nguyệt, hào biến hay hào phục thì chẳng phải.
("Mệnh mộ" đúng là mệnh cưởi quỷ cùng hiện ở một hào, nếu mà ở nhật nguyệt, hào biến, hào phục đều là không phải).

Hào thế "tuỳ quỷ nhập mộ", tự mình gieo quẻ thì xấu, cũng kỵ cho người gieo quẻ giùm, xem xét "mệnh mộ" có một chút khác biệt vậy.
(Hào thế mộ tự mình gieo quẻ, hay gieo quẻ giùm người khác đều kỵ. Như tháng tỵ ngày quý mùi bói vợ tuổi dần bệnh được quẻ "đại súc" biến "mông" , chính là thê "mệnh mộ" mà hào thế cũng "tuỳ mộ", sau năm tháng vợ mất, chồng cũng mất sau đó, bởi vậy gieo quẻ giùm cũng kỵ).

Hào động hoá "tuỳ quỷ nhập mộ" cùng với "mệnh mộ", "thế mộ" không khác biệt nhiều, nhưng có thật hay giả, hào hoả quan quỷ thì mộ ở tuất, ngày thìn xung nên là giả, tháng tuất điền thật nên là chân thật, hào tuất không vong là tự giả, hào tuất bị phá chẳng phải thật.
(Hào động hoá mộ cần phải phân biệt thật hay giả).

"Quái thân mộ" là cái hiện ra ở quẻ; 'thế thân mộ" không vong ở hào thế thì chẳng phải, hai loại này thì kỵ cho bói kiện tụng, án tù, bệnh tật, nghi kỵ, gia hộ, hoạt động, ẩn giấu bỏ trốn, đầu sung, trai giới. Nhưng gặp hào quỷ vượng thì hung xấu, còn hào quan suy thì giảm bớt, so sanh với "thế mộ" "hoá mộ"thì nhẹ vậy.
(Quái thân do quẻ mà thành cho nên có hào thân là đúng; còn thế thân do hào thế mà ra, cho nên hào thế không vong thì chẳng phải, vì hào thân mộ lớn nhỏ có kỵ và không kỵ).

Hơn nữa hào quỷ bị nguyệt phá, tuần không, mà lâm mộ của hào bổn mệnh hay hào thế: chẳng phải chết vì bệnh tật, tai hoạ của hào quan quỷ mà là chết vì nguyệt phá, tuần không; tễ (斃: tễ - sụp đỗ, thất bại, chết, giết) cũng lại là mộ cho nên bói được thì xấu; nhưng nếu bói tránh phiền phức, lo lắng bị hại, đề phòng lầm lỗi, gặp không vong, nguyệt phá thì hoạ tiêu hết, hoạ tiêu rồi thì có gặp tuỳ mộ làm sao mà xấu được.
(Sự việc đã dính líu đến thân rồi mà bị không vong phá lại tuỳ mộ thì rất kỵ; còn việc chưa dính líu đến thân mà lo đề phòng trước, thì không vong, phá tuỳ mộ chẳng kỵ).

Thân mệnh gặp tuỳ mộ, một đời gặp nhiều bệnh tật, tai hoạ; hôn nhân gặp tuỳ mộ nữa chừng nhất định gặp tổn hại, trở ngại, phân biệt mệnh nam hay nữ mộ.
(Không luận hào thế trì quỷ, không câu nệ không vong hay phá, mệnh nữ mộ hay mệnh nam mộ nên đề phòng việc cưới vợ gã chồng).

Cầu tìm đường quan lộc thì không bị chuyển biến; xuất hành dù đường đi bằng phẳng mà gặp khó khăn, trở ngại, hành nhân bệnh ở đất khách; sản phụ khốn khổ ở trong phòng tối (ám thất) không có người hay biết; công chức bị nhục bởi gông cùm; xây dựng mà phạm phải tổn hại thì xấu, tên trộm vượt qua cửa ài nguy hiểm lại vướng vào lưới; muốn ra đi tìm kế mưu sinh nhưng bị trói buộc.
("Tuỳ mộ" cầm đầu điều kiêng cử, e dè, giống như giả động lén lút vượt qua, không vong ,phá thì có thể nhẹ hơn.

Cầu tài thì bị vây hãm ở chỗ chật hẹp, bói mồ mả ngờ rằng phạm phải xác chết của ngôi mộ xưa cũ.
(Hai loại này chỉ nói ở hào "thế mộ").

Đại khái hào quan quỷ là kỵ thần, gặp phải thì không tốt, không vong hay phá thì nhẹ hơn; vì thân mệnh nhất thiết phải ưu tiên, gặp phải cũng không tốt, nhưng mà không vong hay phá trái lại nặng hơn. Đây đều là nguyên tắc dùng nhật thần, hào động hoá mộ, chúng không luận giống nhau.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#37

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm qua, 02:05

Dịch Mạo - Quyển Bốn

36- Trợ thương chương

"Trợ quỷ thương thân": vì hào thế bị quỷ khắc, mà quỷ trường sinh ở nhật, là dắt hoạ đến tự làm hài mình. Hào thế cũng gọi là thân, chính xác là hào chẳng phải hào thân.

Hào thế làm chủ quẻ, chủ việc bói, là thân của người hỏi, cho nên nói là thương thân. Tuy nhiên hào quan quỷ gặp không vong, phá thì không thể tổn hại, hào thế vượng tướng chẳng bị thương tổn.

Tuy gọi là trường sinh, ở vị trí tuế, nguyệt, hào động, hào biến chẳng phải; tuy trường sinh ở nhật, nhưng ngày tỵ ở quẻ tốn, ngày thân ở quẻ cách thì không phải; tuy gọi là trợ quỷ nhưng quẻ khảm ngày ngọ , hay quẻ ly ngày dậu thì không phải. Vì vậy tiền hiền đề xuất quẻ ly ngày thân, quẻ hàm ngày dần, quẻ thái ngày hợi làm nguyên tắc.
(Ngũ hành đại sanh là chân thật sanh, hào quỷ quẻ tốn, hào quỷ quẻ cách chẳng phải đại sanh, hào quy quẻ khảm, hào quỷ quẻ ly chẳng phải trường sinh, cho nên có khác biệt).

Người bói thân mệnh phải nhận biết rõ hoạ phúc, ví như bọn cướp là thực, vì tài mà táng thân, tham sắc mà mất mạng, vợ không đức hạnh mà hay trách móc chồng, nô tỳ ngnag ngược, tuỳ tiện làm dính dáng đến chủ phải mang vạ lây.
(Vì tài là nguồn lợi; còn quỷ là tai hoạ. Trong thiên hạ các mối hoạ đều đến từ nguồn lợi, tất nhiên là hợp lý).

Bói đất nước là gian thần ngầm tụ tập, là hoạn quan bạo ngược phóng túng; bói quân đội là tướng bị bệnh, đề phòng bị hành thích, cũng như quân đội của mình làm phản; bói nhà cửa chủ người tham lợi lộc mà quên mất điều hại, cầu tìm sự giàu có mà gặp hao tổn, giảm bớt, quỷ lâm châu tước phát sinh lỗi lầm, lâm huyền vũ thì bị cướp, lâm bạch hổ thì có tang, lâm đằng xà thì kinh sợ; cưới vợ thì vợ không đức hạnh; thu nhận nô bộc thì nô bộc ôm lòng làm phản. Nếu nữ bói chọn chồng nên quan tinh là hào dụng, gặp như vậy thì chẳng tốt; bói quan chức bỗng nhiên lên cao, bói sức mạnh (quân sự) lập tức hiển lộ ngay.
(Đại khái dụng là quan thì tốt, còn dụng tài thì hung xấu, hào thế thì càng xấu).

Bói kiện cáo có nổi lo trách nhiệm nặng nề; bói mất vật thì có nổi lo lại bị mất; gia nhập nhập quân đội rồi lại rời quân đội giống như lây cá làm mồi, không rõ ràng con đường đúng đắn, sẽ bước qua chông gai; cầu tài có cái hại của cầu tài bất chính; xuất hành có nổi lo của chuyến đi nguy hiểm; xa lìa hồng trần phải giữ đức hạnh, nghiệp chướng chưa thay đổi, xen vào việc công, đòn roi khó tránh; bói giám ngục thì tai vạ của nhà tù chưa đầy khắp, bói tật bệnh lo lắng chưa rời giường chiếu; cúng thần thần nổi giận, muốn hồn phách an ổn, hồn than thở, bói việc lạ kỳ thì quả đùng không phải giả, bói mộng thì mộng lại là thật; tránh hoạ thì hoạ lại tới, đề phòngtai vạ thì tai vạ đến.

Lý do quỷ thì đều phải kiêng cử, "trợ thương" đương nhiên là xấu, ví thử dụng là quan cũng ngại nó khắc hào thế. Hao tĩnh thì chậm, động thì nhanh, vượng thì lớn suy thì nhỏ, chỉ không vong, phá, tán thì được tốt vậy.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#38

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm qua, 04:33

Dịch Mạo - Quyển Bốn

37- Cục hội chương

Sao gọi là "cục"? Vạn vật có khởi đầu và kết thúc, cho nên gọi là "cục"; sao gọi là "hội"? Vạn vật nhất định có cái đẹp, cho nên gọi là "hội".
(Sanh chính là vạn vật bắt đầu, kho để chứa đồ chính là kết cục của vạn vật, đã thành "thuỷ chung" cho nên gọi là cục, như mão mộc sanh ở hợi mộ ở mùi, là mộc cục, nếu hợi mão mùi có thể hội thì người hay vật nhất định phải tốt đẹp).

Phân biệt hội cục có thành hay không thành, nên hiểu ý nghĩa rõ ràng của hoá hay không hoá, sau đó mới được bí mật của hội cục. Địa chi đứng giữa làm chủ, không có nó thì không thể hội cục, địa chi ở giữa bị thương tổn cũng không thể thành cục. Vì thế hoả cục thì ngọ là quan trọng, ngọ không thể thiếu hay bị thương tổn, ví thử thiếu một chữ dần hoặc tuất cũng hội cục. Thương tổn chữ đầu hội cục nhưng lực nhỏ, thương tổn chữ cuối, hội cục còn giữ lại lực của nó, chung thuỷ không bị thương tổn. "Cục hội" thì lực mạnh thay.
(Khởi đầu là trường sinh bị mất cho nên lực yếu, kết thúc là kho chứa cho nên lực giống như còn giữ lại, được cả ba đầy đủ thì lực của nó càng mạnh. Ngọ hội là hoả, dần tuất tuy hội mà bản chất thổ và mộc không theo hoả mà biến đổi).

Có ba cách hội cục: một là "động hội"; hai là 'biến hội", ba là "phục hội" chinh là do nhật nguyệt hiện diện. "Động hội": chảy khắp sáu nơi đều hội tụ; "biến hội": một hào giao trùng mà họp với nhau; "phục hội": hào phi phát động mà dẫn xuất.
(Nói chung cục nếu như được nhật nguyệt trong cục, khởi đầu thành "động hội", như tháng dần ngày mậu tuất dụng quan được quẻ càn biến ký tế; "biến hội": như tháng tuất ngày giáp dần dụng quan được quẻ độn biến càn; "phục hội": như tháng mão ngày mậu dần dụng phụ được quẻ đại súc biến ly).

Hào biến mất chữ đầu là cục giả; phục thần được trường sanh là cục thật. Vì thế hào tý biến thìn thì chẳng phải; còn hào ngọ phục ở hào dần là thật. Nhật nguyệt cheo leo lơ lửng trên cao, chữ đầu treo thì tốt, còn chữ cuối treo thì hung xấu. Vì thế tháng thân treo hào tý là tốt, tháng tuất treo hào ngọ thì không phải.
(Như tháng tuất ngày kỷ dậu, dụng thần là quan được quẻ "khiêm" biến quẻ "thái", vì tháng tuất hào ngọ biến hào dần nên thành hoả cục, nhưng dần đang không vong, chính là mất chữ đầu của nó, tháng tuất treo hào ngọ là mộ chẳng phải sanh, tức là hoả cục hưu tù, không thành hội cục vậy. Như tháng thân ngày giáp thìn, dụng thần là tài được quẻ "lý" biến quẻ "khuê", tý phục dưới hào thân, chính là hào thê tài được trường sinh, thân lại là nguyệt kiến, gọi là treo chữ đầu, tức là thuỷ cục vượng tướng, cho nên thành hội cục, còn lại phỏng theo đó).

Bởi vì đạo lý hội cục tuy có phân biệt, mà cái lý sanh khắc của nó giống như một, cho nên mất chữ chính giữa là mất chủ tể, mất chữ đầu chính là mất trướng sanh, mất chữ cuối chính là mất mộ, mức độ nặng nhẹ thì rõ ràng vậy.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#39

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm qua, 05:06

Dịch Mạo - Quyển Bốn

38- Hình hại chương

Phỏng theo ba bình luận theo sau hình phạt, cho nên gọi là "tam hình", thật sự chẳng có ba hình phạt nào. Hình cùng một loại với sát xưa gọi là "tây tào" (西曹: tây tào), nguyên do là bắt đầu từ hướng tây.

Nguyên tắc "tam hình" là sử dụng thần của kim cục tuần tra ở phương tây, là tỵ dậu sửu cưởi lên thân dậu tuất. Kim, mộc, thuỷ, hoả ngũ hành đi thuận: tây, bắc, đông, nam là thứ tự của bốn phương, vì kim, mộc, thuỷ, hoả là chánh, mà hình theo chiều tây, bắc, đông, nam, tức là hợi mão mùi cưởi lên hợi tý sửu, thân tý thìn cưởi lên dần mão thìn, dần ngọ tuất cưởi lên tỵ ngọ mùi. Cưởi tức là hình, trên dưới đối nhau, đi theo vòng tròn mà thi hành, đấy là phương pháp lập thành tam hình. Mạnh () đảng mạnh hình, trọng (仲: giữa) đảng trọng hình, quý (季:cuối) đảng quý hình, vì đó mà có tên gọi "dần tỵ thân'; "tuất sửu mùi"; "mão tý'; 'tý mão"; 'thìn ngọ dậu hợi". Vì kim cứng cỏi hoả thì mạnh bạo, mới có bàn luận nó "tự hình" nó, thuỷ cục hình mộc, mộc cục hình thuỷ. Tạm gọi là tam hình khởi đầu, thì mão tý, tý mão là "vô lễ hình", thìn ngọ dậu hợi là "tự hình" sao lại là ba? Đó là tên gọi "tam hình" không nên chấp vào số ba.
(Nhóm trưởng (孟黨: mạnh đảng) gồm dần thân tỵ hợi; nhóm giữa (仲黨: trung đảng) gồm mão ngọ tỵ dậu; nhóm cuối (季黨:quý đảng) gồm thìn mùi tuất sửu).

Nguyên tắc của tam hình: mộ cũng có chỗ nương nhờ, hình thì mộ khai, hình mà thêm cả xung, lực của nó càng mạnh.
(Mộ được hình xung, giống như cái khoá được mở, cho nên nói là "mộ khai", nhưng không bằng xung, cho nên hình mà không xung thì nhẹ, hình mà gồm cả xung thì mạnh hơn, tháng dậu ngày canh thân, dụng thần thê tài được quẻ "khốn" biến "đoài" đúng là hình thật sự).

Tượng của hình: ở vạn vật thì sụp đỗ, thất bại; ở trong lòng thì lo lắng; ở sự việc thì bạc bẽo, giống như quy định của "thối thần", nhưng xấu không bằng tuần không, nguyệt phá. Thân mệnh gặp phải sợ là thân thuộc sát hại lẫn nhau; hôn nhân gặp phải sợ tình trạng gia đình áp bức nhau; quan chức lo lắng tai hoạ troing nội bộ, bệnh thì phòng ngừa mang thêm tật; quan khắc thế tra hỏi kiện cáo, hào năm khắc thế tra hỏi tò trình tâu lên vua, nếu hào thế bị hình thì rất xấu.
(Thân mệnh là nói hào thế cùng với hào dụng gặp phải, trai cưới vợ gọi là 'tài", gái gã chồng gọi là "quan" gặp phải)

Hại: tranh đoạt cái tốt là hại, trên dưới bốn phương là sáu, cho nên gọi là "lục hại", gồm tất cả trong trời đất mà nói. Hợp nhau nói là tốt; xung nhau nói là đoạt; mạo phạm nhau nói là hại. Vì thế xung với cái mình hợp tức là đoạt cái tốt của mình; mình sợ hãi mà đối phó hại nhau vậy. Cho nên tý hợp sửu mà mùi xung, vì vậy tý mùi là hại, lục hợp thì có lục xung, lục xung thì có lục hại, đấy là cách lập thành lục hại.
(Xưa cũng gọi "xuyên tâm" là lục hại).

Tuy nhiên có sinh hại, có khắc hại là hình tượng của nó, lòng độc mà mặt vui vẻ, bên ngoài vui thích mà trong lòng thù ghét, đấy là "tương sinh chi hại". Ta khắc nó, ta mạnh mà nó yếu quyết làm xấu nhau; nó khắc ta, nó cứng cỏi mình mềm yếu sức lực hoàn toàn bị chế ngự. Song cũng không bằng sức mạnh lục xung, nhất định phải khảo sát cả hợp xung sanh khắc. 'Tam hình", "lục hại" nên phân biệt hào dụng, chẳng phải dùng tượng quẻ mà nói.
(Đại để 'lục hại' quan trọng ở "khắc hại", "khắc hại" xung hào dụng hay hào thế, cũng như hào ứng khắc hào thế, giống như các quẻ "cấu", "hằng", "tiểu súc", "ích", dù cho có chất chứa "lục hại", cũng nên quan sát sức mạnh của hào dụng).


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#40

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm qua, 06:17

Dịch Mạo - Quyển Bốn

39- Chư tinh chương

Phuong pháp của "thần tú": tai hoạ, điềm lành không giống nhau, hiệu quả cát hung cũng khác nhau. Có người dùng thiên tượng mà đưa các sao vào dịch, có người dùng việc đời mà quan sát sao vận hành trên trời mà đưa vào dịch, nhưng không xa rời ý niệm can chi, âm dương, sanh khắc, suy vượng, hoặc là năm, hoặc là mùa, hoặc là tháng, hoặc là ngày, hoặc là giờ, hoặc là quy định của cục, để mà biện luận nó hữu dụng hay vô dụng, sức mạnh nặng nhẹ. Có tên các sao, nhưng không có cơ sở thực tế nên không được liệt kê.
("Thiên tượng": như "Giác", "Cang", "Phòng", hai mươi tám sao của nam bắc (經星: kinh tinh), như mộc, hoả, thổ, kim, thuỷ năm sao của đông tây (緯星: vĩ tinh), như "Tham Lang", "Cự Môn", chín sao rọi sáng (曜星: diệu tinh); "nhân sự": như là các loại "Thiên Hỷ", "Thiên Y", "Thiên Trù", "Thiên Ngục". Tuy các sao tốt xấu trình bày lộn xộn, mỗi cái đều có nguồn gốc, nếu không tục truyền không hiệu nghiệm).

Nếu như "kinh tinh" đem vào quẻ dịch, hào thượng cửu của quẻ càn "giáng tham" (can dự vào), lại giáng "trấn tinh", chỉ dùng bói toán tuế thời thân mệnh; đặt ra "cửu diệu"; là 'Tham Lang", "Cự Môn", "Lộc Tồn", "Văn Xương", "Liêm Trinh", "Vũ Khúc", "Phá Quân", "Tả Phù", "Hữu Bật", chỉ dùng trong bói toán cho hôn nhân, tài mạo, phần mộ, nhà cửa.
(Pháp nói: nguyệt nguyệt thường gia tuất, thời thời khởi "Phá Quân", "Phá Quân" trước hai vị, thế tục ít khi nghe nói đến. Hai vị đó là "Tả Phù", "Hữu Bật", đấu tranh giành quyền hành tức là "Phá Quân". Như tháng dần giờ ngọ bói, dùng tuất gia dần khởi đến giờ ngọ, lấy tuất làm "Phá Quân", hợi là "Tả Phù", tý là "Hữu Bật").

"Tử Vi Viên" phân sao "Nguy", sao "Thất" khởi ở tý; "Thiên Thị Viên" phân sao "Vĩ" sao "Cơ khởi ở dần; "Thái Vi Viên" phân sao "Dực", sao "Chẩn" khởi ở tỵ, chỉ dùng cho bói toán tạo hoá (phúc lành, hạnh vận), đây là sơ lược cách lập thành các sao của "thiên tượng".
(Ba viên đều dùng tháng giêng khởi thuận hành).

Sao thiên đức: tháng giêng khởi ở hợi đi thuận hành. Bởi vì ân đức của thiên thuận theo thiên môn mà ban xưống, hợi là thiên môn nên có tên gọi như thế. Thiên can thiên đức: tháng dần ở đinh, tháng mão ở thân, bởi nhân sự thiên công, âm dương giúp đỡ nhau.
(Thiên đức: tháng giêng khởi ở hợi đi thuận, Can Đức Pháp nói: tháng giêng ở đinh, tháng hai ở cung thân; tháng ba ở nhâm tháng tư ở tân, tháng năm ở hợi, tháng sáu ở trên giáp, tháng bảy ở quý tháng tám theo dần, tháng chín là bính tháng mười ở ất, tháng tý ở tỵ, tháng sửu gặp canh. Thiên đức tức là thiên đạo, cả hai âm dương hỗ trợ, vỗ về an ủi tám cõi đất xa xôi, đầu cuối gánh vác sanh mộ của nhân nguyên, tứ chánh dùng lực hợp của dương quý. Cho nên nhân nguyên bính trong dần, thiên cùng với đinh trợ giúp; nhân nguyên quý trong mão, thiên cùng với dương quý là nhâm thuỷ trong khôn trợ giúp; nhân nguyên quý trong thìn, thiên cùng với nhâm trợ giúp; canh trong tỵ, thiên cùng với tân; ất trong ngọ, thiên cùng với dương quý, giáp mộc trong càn trợ giúp; ất trong mùi thiên cùng với giáp, còn lại sáu vị phỏng theo đó. Mặt trời trải qua một năm, khôn, càn, cấn, tốn tức là thân, hợi, dần, tỵ, đức cùa đất ở khắp nơi cho nên không đưa vào thiên đức. Pháp này dùng thiên can, như tháng dần hào đinh hợi tử tôn phát động, dùng đinh làm thiên đức, lợi dụng ngăn ngừa lầm lỗi).

Nguyệt đức: từ mùi đi thuận, vì mùi là cung "quảng hàn" là phủ của "thái âm", nên là chỗ khởi đầu. Thiên can nguyệt đức: tháng dần, ngọ, tuất chọn bính; hợi, mão, mùi chọn giáp; tỵ, dậu, sửu nguyệt đức ở canh; thân tý thìn nguyệt đức ở nhâm. Đức của thái âm cũng trợ giúp , bởi vì ngọ đinh thì có bính trợ, mão ất thì giáp phù trợ.
(Pháp xưa lấy tý làm đế toạ (chỗ ngồi của vua), ngọ là đoan môn (cửa chính của kinh thành), mão là lôi môn, dậu là phật cảnh, hợi là thiên môn, tỵ là địa hộ, thân là thần môn, dần là quỷ lộ, thìn là thiên la, tuất là địa võng, sửu là hoàng tuyền sát, mùi là quảng hàn cung. Tứ đức đều chủ phúc ấm, có thể thoát khỏi hình phạt, tránh được tai nạn).

Thiên ất quý nhân: có phân biệt âm quýdương quý. Dương quý bắt đầu từ chỗ "thiên vương" lập thành ở giáp tý đi thuận; còn âm quý bắt đầu từ chỗ "địa vương" là giáp thân mà đi nghịch. Dùng quý nhân không được mạo phạm tới quân vương, đường đi của quý nhân không giẫm vào thiên la, địa võng. Giáp hợp kỷ ở tý, kỷ lấy tý làm dương quý; ất hợp canh ở sửu, canh lấy sửu làm dương quý; bính hợp tân ở dần, tân lấy dần làm dương quý; đinh hợp nhâm ở mão, nhâm lấy mão làm dương quý; thìn là thiên la nên vượt qua mà không vào; mậu hợp quý ở tỵ, quý lấy tỵ làm dương quý; ngọ là "đoan môn", vượt qua mà chẳng hướng vào; kỷ hợp giáp ở mùi, giáp lấy mùi làm dương quý; canh hợp ất ở thân, ất lấy thân làm dương quý; tân hợp bính ở dậu, bính lấy dậu làm dương quý; tuất là địa võng chẳng giẫm lên; nhâm hợp đinh ở hợi, đinh lấy hợi làm dương quý; tý là "đế toạ" chẳng mạo phạm; quý hợp mậu ở sửu, mậu lấy sửu làm dương quý. Âm quý cũng như vậy.
(Pháp nói: giáp dương () mậu canh ngưu (trâu), ất hầu (khỉ) tỵ thử (chuột) đầu, bính kê () đinh trư (heo) tẩu, nhâm thỏ (mão) quý xà (rắn) du, lục tân kỵ mảnh hổ, dùng dương quý tìm ở đây. Giáp ngưu mậu canh dương, ất thử tỵ hầu hương, bính kê đinh trư vị, nhâm xà quý thỏ tàng, lục tân thừa tuấn mã, dùng âm quý lòng biết rõ. Thuật bói của "lục nhâm", thì tỵ tới tuất dùng dương, hợi tới thìn dụng âm, không đúng (未當: vị đương). Đúng phải lấy tý đến tỵ dụng dương, ngọ tới hợi dung âm, nhưng môn bói dịch không phân biệt âm dương).

Phúc tinh quý nhân: tức là "thực thần tinh". Ngũ độn của giáp bính là thực thần, cho nên giáp là phúc; ngũ độn của ất thì đinh là thực thần, sửu hợi là phúc.
(Pháp nói: Giáp cọp ất heo trâu; bính cùng chó chuột bơi; đinh gà mậu khỉ chạy; kỷ dê canh ngựa đầu; quý đuôi thỏ, ngày nhâm bói lầu rồng).

Thiên trù quý nhân: "lộc thương sanh lộc" gọi là "thiên trù". Ngũ độn của giáp lộc ở bính dần, bính ở trên dần ẩn tàng lộc ở tỵ, cho nên giáp lấy tỵ làm thiên trù; ngũ độn của quý lộc ở nhâm tý, nhâm ở trên tý ẩn tàng lộc ở hợi, cho nên quý lấy hợi làm thiên trù.
(Pháp nói: Giáp đinh thì tỵ là thiên trù; bính chuột, nhâm gà, quý bạn heo; ất mậu tân đều hướng ngựa; kỷ khỉ canh cọp là phúc thần đặc biệt. Bên trên hai chủ lộc thực).

"Thiên nguyên lộc": vị trí "lâm quan" tức là thực lộc. Giáp mộc sanh ở hợi, lâm quan ở dần; ất mộc sanh ở ngọ, lâm quan ở mão; bính mậu sanh ở dần lâm quan ở tỵ; đinh kỷ sanh ở dậu lâm quan ở ngọ, âm dương thuận nghịch, những can khác tương tự như vậy.
(Nguyên tắc "thiên nguyên lộc": tới vị trí lâm quan là được, vị trí thứ tư là lâm quan tức là tên của lộc vị, như giáp mộc sanh ở hợi, đi thuận đến vị trí thứ tư là lâm quan ở dần, cho nên giáp lộc ở dần; như ất mộc sanh ở ngọ đi nghịch bốn vị trí là lâm quan ở mão, cho nên ất lộc ở mão).

"Thiên địa tài": độn giáp lấy mậu kỷ là "ngũ mã" "lục tài", mà mậu kỷ toạ ở trên thìn tỵ cho nên tháng giêng lấy thìn làm thiên tài, tỵ làm địa tài, thuận theo mà kết thúc chính là thiên địa tài.
(Mã tức là tài. Pháp nói: tháng giêng tháng bảy khởi rồng rắn; tháng hai tháng tám ngựa dê; ba chín theo thân dậu; bốn mười chó heo cắn; tý ngọ tìm chuột trâu; sửu mùi xét dần mão, độn giáp bởi mậu kỷ, vấn lợi tự gạn đãi)

Văn chương đức nghiệp tất nhiên dùng lâm quan để thiết lập, sau ba năm thì đạo của ta bắt đầu sáng tỏ, do đó gọi là văn xương. Giáp lộc ở dần, di chuyển ba vị trí là tỵ vậy. Tân thì không như vậy, vì đi ba vị trí là đến tý, tý là chỗ vua ngồi, chẳng dám mạo phạm, vạn vật không thể tự mạn, ẩn tàng ở văn khố, vì thế mà tân lấy tuất làm văn xương.
(Pháp nói: giáp rắn ất mã hiệu văn xương; đinh kỷ tìm gà tân tới chó; canh heo quý thỏ nhâm theo cọp; bính mậu dê khỉ rất tốt lành. Bởi hoả mộ ở tuất, ly là văn minh, cho nên gọi là văn khố; kim mộ ở sửu, kim thuộc về quân sự chiến tranh, cho nên gọi là vũ khố).

Vị trí ở giữa thì cao quý gọi là tướng tinh, cho nên hợi mão mùi tướng tinh ở mão, dựa vào thìn là yên ngựa (攀鞍: phàn an), điều khiển ngựa là tỵ (駕馬: giá mã), trước mã là "lục hại" làm cảnh báo, trước lục hại là "hoa cái", có đầy đủ cờ phướng, sau tướng là là "thất thần", lực lượng giáp sĩ theo sau, có tên gọi "kiếp sát", "tai sát", "thiên sát", "địa sát", "niên sát", "nguyệt sát", "vong nhân sát". Vì thế "hoa cái" làm sao dẫn đầu, "kiếp sát" là sao cuối, để mà bảo vệ tướng tinh ở giữa.
(Nguyên tắc tướng tinh bắt đầu từ thần ở chính giữa, tý, ngọ, mão, dậu là vị trí chính giữa, cho nên hợi mão mùi thì tướng tinh ở mão, thìn là phàn an, tỵ là giá mã, trước mã là lục hại là ngọ, trước hại là hoa cái là mùi, sau tướng là "thất sát" từ thân đến dần là bảy vị trí).

"Thiên mã" tức là càn mã (乾馬), tháng giêng bắt đầu ở ngọ, đi theo vòng tròn, sao này chỉ lợi cho bói thăng thiên. "Dịch mã" cũng theo tướng tinh mà suy xét, như dần ngọ tuất: tướng tinh ở ngọ, lấy mùi làm phàn an, thân là giá mã, sao này cần thiết cho hành nhân.
(Tháng giêng dùng hào tứ quẻ càn làm thiên mã, tháng hai hào năm thân, lần lượt dùng. Pháp nói: tháng giêng, tháng bảy cùng cưởi ngựa; tháng hai, tháng tám hướng khỉ thân; tháng ba, tháng chín đều theo chó; tháng tư, tháng mười tới gần chuột; tháng năm, tháng mười một ngay trên dần; tháng sáu, tháng chạp nương về thìn. "Thiên mã": văn nhân dùng chỉ cho địa vị cao trong xã hội, người có tang bệnh thì quở trách, bởi người có bệnh thì ngựa là sắp về trời (馬向天遊: mã hướng thiên du), tức là có tang phục vậy. Dịch Mã Pháp nói: dần ngọ tuất mã ở thân; hợi mão mùi mã ở tỵ; thân tý thìn mã ở dần; tỵ dậu sửu mã ở hợi).

"Thiên hỷ": là sao, đầu xuân tháng dần, thì hỷ ở tuất, giữa xuân tháng mão thì hỷ ở hợi, cuối xuân tháng thìn thì hỷ ở tý, đại khái lấy phần tử làm hỷ. "Hỷ thần" chuyên dùng trong độn giáp. Độn giáp không tiếp nhận canh mà ẩn giấu giáp. Chỉ có bính đinh làm được điều đó, cho nên giáp kỷ ngũ độn được bính dần, thì hỷ thần ở dần; ất canh ngũ độn được bính tuất, thì hỷ thần ở tuất vậy.
(Nguyên tắc thành hỷ: dần tới tuất mà thành; mão tới hợi mà thành; thìn tới tý mà thành, còn lại giống như vậy. Pháp nói: xuân tuất hạ sửu là thiên hỷ; thu thìn đông mùi nhiều mong đợi (三三指: tam tam chỉ). Hỷ thần pháp nói: giáp kỷ đông bắc ất canh càn; bính tân chỉ một vị trí ở chữ khôn, hai ngày đinh nhâm ở trên cung ly, mậu quý đông nam hỷ sự liên tục. Nếu mà hỷ thần ở tử tôn động, xuất hành được thuận lợi, còn những thứ khác động thì ngưng lại cũng nên hướng tới thôi).

"Thiên xá": giúp đỡ người hối cải sửa đổi lỗi lầm. Vào đầu lịch, bắt đầu ở đông chí giáp tý, cho nên đông chí giáp tý là "thiên xá"; xuân hướng về mậu dần; hạ chí giáp ngọ; thu hướng về mậu thân, tội phạm bói được cởi bỏ. Thiên giải: xuân dùng dần, hạ dùng tỵ, thu dùng thân; đông dùng hợi. Bởi mộc tuyệt ở thân, dần có thể phá được, nên là "thiên giải".
(Vua thánh thời thượng cổ dùng nhị chí (đông chí, hạ chí) cùng với xuân phân, thu phân mà đại xá cho thiên hạ, cho nên đời sau dùng ngày này làm "thiên xá". "Thiên giải": đại khái vì tuyệt là khó khăn, khốn ách cuả mình, xung khắc thì khó khăn của mình sẽ trừ khử).

"Nguyệt giải": là thái âm, từ tuất mà chiếu sáng, đi về phía nam bán cầu, chiếu sáng cực bắc, cho nên tháng chín, tháng mười ở ngọ; tháng giêng, tháng hai ở thân. Cắt bỏ mầm rễ thì sinh trưởng không thích hợp. "Hát tán": mùa xuân mộc mầm rễ ở hợi, tỵ có thể cắt bỏ, nên nó là "hát tán".
(Nguyên tắc "nguyệt giải" tháng chín tháng mười ở ngọ; tháng tý, tháng sửu ở mùi; tháng giêng, tháng hai ở thân, tháng ba, tháng tư ở dậu, tháng năm, tháng sáu ở tuất, tháng bảy, tháng tám ở hợi. Hai tháng một vị trí ý nghĩa là thượng thi hạ ngưỡng (trên ban cho dưới trông lên), tháng chín tháng mười ở ngọ là ngọ thi mà tý ngưỡng. Ngọ là chỗ khởi đầu hợi là chỗ tận cùng chính là thi ngưỡng. Xung đứt mầm sống là "hát tán", mùa hạ hoả sanh ở dần, dụng thân xung dần; mùa thu thường sanh ở tỵ, dùng hợi xung tỵ. Pháp nói: xuân ở tỵ, hạ ở thân, thu ở hợi, đông đến dần).

"Thiên y": chức quan của thượng đế, là thần chữa bệnh, cứu giúp. Vốn ở độn giáp, phụ giúp bính mà ngăn chống canh, tức là "đinh thần" (丁神). Có lòng hiếu sinh, cho nên không giẫm lên nơi yên lặng mà thay thế chổ. Tròn một năm mới hoàn phục bổn tính, năm mới mới trở lại biến đổi. "Hoạt diệu": thượng đế sai khiến cai quản thần của sự sống, do theo thượng đế nên xuất ở chấn, giúp bói thai sản, con cháu.
(Dùng ngũ hổ độn, tháng giêng giáp độn tìm kiếm "đinh thần" được đinh mão, đinh sửu, cho nên tháng giêng lấy đinh mão làm "thiên y", còn thừa đinh sửu; tháng hai ất độn được đinh hợi; tháng ba bính độn được đinh dậu, là nơi không cư trú mà hoán đổi với sửu, cho nên tháng ba thì dùng đinh sửu làm thiên y, vì dậu là cảnh giới của phật, là nơi hoàn toàn yên lặng, cho nên không cư trú; tháng tư đinh dộn được đinh mùi, tháng năm mậu độn được đinh tỵ; tháng sáu kỷ độn lại được đinh mão thừa đinh sửu; tháng bảy canh độn lại được đinh hợi; tháng tám tân độn lại được đinh dậu, tránh dậu mà theo sửu; tháng chín nhâm độn lại được đinh mùi; tháng mười quý độn lại được đinh tỵ; tháng mười một giáp độn lại được đinh mão; tháng mười hai ất độn lại được đinh hợi là kết thúc vậy, xong lệnh của thượng đế năm mới lại tiếp như vậy. Phát Vi Thông Thư sai lầm lấy thiên hỷ làm thiên y vậy. Pháp nói: thiên y tháng giêng mão tháng hai heo; tháng ba theo trâu tháng tư tìm dê; tháng năm rắn tháng sáu thỏ tháng bảy ở hợi; tháng tám sửu tháng chín dê tháng mười gửi ở tỵ, tháng mười một tìm trên mão, tháng mười hai trên hợi làm thầy thuốc. Nguyên tắc "hoạt diệu", tháng giêng theo mão đi thuận).

"Lôi hoả sát": công danh thuận lợi, bởi sấm (雷: lôi - sấm) có khả năng khởi dầu vạn vật. Tháng dần ngọ tuất khởi ở dần; tháng thân tý thìn khởi ở thân, đúng là phải lập thành như vậy, chấn là "tinh kỳ sát" cho nên khởi ở mão, tiếp nhận binh ở bốn phương gọi là tinh kỳ.
(Cây cỏ mọc mầm sống, sấm sét làm kinh hải, bởi đức của chấn có thể phổ biến rộng khắp vạn vật. Nguyên tắc tháng giêng ở dần, tháng hai ở hợi tháng ba ở thân, tháng tư ở tỵ, chu kỳ lặp lại ba lần. Tất nhiên thiên la địa võng cũng giống vậy. Lòng trời cao chỉ giết vật cản đường sống (上天之為心,惟惟以生道殺物: thiên thượng chi tâm, duy duy dĩ sanh đạo sát vật), danh là "võng la van vật" (網羅萬物: võng la vạn vật - giăng lưới bao trùm vạn vật), chỉ dùng để bắt kẻ phản bội. "Tinh kỳ": xuân mão, hạ ngọ, thu dậu, đông tý). [Trong bản tiếng Hoa viết là "hạ tý" tôi sửa lại hạ ngọ].

"Thiên nhĩ", "thiên mục": lấy tý, khảm làm dái tai; lấy ngọ, ly làm mắt, mắt nhìn ở trên, cho nên bắt đầu ở 'thiên môn' theo thứ tự hợi thân tỵ dần. Tai nghe ở dưới, cho nên bắt đầu ở "địa hộ" theo thứ tự tỵ dần hợi thân. Chức năng tai mắt để nhìn nghe, cho nên nó động là có tin tức đang đến. thien6 nhĩ, thiên mục vốn là sao tốt, làm dụng thần thì sẽ được nghênh đón, cho nên nó đi nghịch.
(Theo bốn mùa đi bốn vị trí, xuân tỵ, hạ dần, thu hợi, đông thân là thiên nhĩ; xuân hợi, hạ thân, thu tỵ, đông dần là thiên mục).

"Thiên cương sát": vị trí ở dần mão thìn tỵ, vì sanh tồn gọi là kiếm sống mà được sinh sôi, cũng là sao tốt cho bắt cá, săn thú. "Thiên khuyển" tốt, ở tuất đi thuận, chó thì lợi ích cho việc săn thú. "Thiên trư", "thiên thử", "thiên ngưu": xấu và đi nghịch từ hợi tý sửu, chăn nuôi súc vật thì kỵ.
(Vì các tháng dần ngọ tuất là hoả cục, hoả thì sanh ở dần gọi là sanh mà khởi đầu, tháng hai mão, tháng ba thìn, tháng tư tỵ, tỵ dậu sửu là kim cục, kim sanh ở tỵ, đúng là đã được sanh, trở lại dần nhiều lần thì tròn một năm vậy. Thiên Khuyển tháng giêng theo tuất đi thuận, Thiên Trư, Thiên Thử, Thiên Ngưu tháng giêng theo hợi, tý, sửu mà đi nghịch, Thiên Trư kỵ nuôi heo, Thiên Thử kỵ nuôi tằm, Thiên Ngưu ky nuôi trâu bò, gần như gặp quỷ cùng phát động).

Biệt hiệu "đại đằng xà" gọi là "câu trận sát", nó sẽ chiến đấu chống lại thủ lãnh. "Ám kim" vì mỗi mùa ẩn giấu kim cục, cho nên tỵ dậu sửu là "ám kim". "Phá toái" cho là kim khố ở sửu, vì kim cục tự làm phản mà ly khai, bốn lượt thay đổi nhiều lần làm trái lại chính là mất kho tích trữ, nên có tên là "Phá Toái", là hao tổn của dất nước.
(Tháng giêng khởi từ thìn đi nghịch, chuyên làm kinh hãi, đình trệ, lấy tỵ dậu sửu làm 'ám kim", từ tháng giêng lần lượt thay đổi làm trái lại, cũng có tên là "hồng sa", kỵ cho phụ nữ sanh đẻ. "Phá Toái" lấy sửu dậu tỵ: từ tháng sửu khởi "tứ luân" phục linh (四輪复靈) chính là "Phá Toái". Sửu là kim khố, cho nên bắt đầu ở đây. Pháp nói: các tháng thìn tuất sửu mùi ở sửu, các tháng dần thân tỵ hợi ở dậu, các tháng tỳ ngọ mão dậu ở tỵ, phá vỡ như vậy tiền của nào được suôn sẻ).

Nguyệt phá gọi là "hao": "đại hao" và "tiểu hao" theo sau; quý phế là "hoang vu"; nguyệt phế là "nguyệt không"; không vong suy là "nguyệt sát".
(Tháng giêng khởi từ thân đi thuận là đại hao; khởi từ mùi là tiểu hao. Nguyên tắc hoang vu: mùa xuân tỵ dậu sửu; mùa hạ thìn thân tý; mùa thu mão mùi hợi; mùa đông dần ngọ tuất. Nguyên tắc nguyệt không: tháng dần ngọ tuất nhâm phế là nguyệt không. Nguyên tắc nguyệt sát: nhâm thuỷ suy ở sửu cho nên sửu là nguyệt sát, các tháng hợi mão mùi thì canh phế, tuất sát; các tháng thân tý thìn bính phế, mùi sát; các tháng tỵ dậu sửu giáp phế, thìn sát, có thể xem những ngày này trong lịch).

Vạn vật đầy thì làm vỡ, vỡ rồi sau đó mới mở ra, đây là ý nghĩa của "thiên tặc"; sủa theo kẻ trộm là "thiên cẩu", ý nghĩa của nó là mong thay đổi (除: trừ), tróc nã (執: chấp), bắt giữ (收: thu). Thiên tặc của mùa xuân, thìn đầy dậu làm vỡ dần mở ra; thiên tặc của mùa thu tuất đầy mão phá, thân mở ra. Mùi là phủ của khôn, sửu có thể công kích, cho nên địa tặc sinh ra ở sửu và đi nghịch hành. Tỵ là cung song nữ, vốn là hoả tinh là vị thần làm cho mê hoặc, thiên chúc thuận theo đó mà đi thuận hành. Thiên hoả tức là chỗ thai của hoả, vì hoả thần tiện thể giám sát tứ vực, một năm lập lại ba lần (歲三復焉: tuế tam phục yên).
(Pháp nói: tháng giêng rồng tháng hai gà tháng ba cọp; tháng tư dê, tháng năm chuột tháng sáu rắn; tháng bảy chó tháng tám thỏ tháng chín khỉ; tháng mười trâu tháng tý ngựa tháng sửu heo là thiên tặc. Thiên cẩu theo sau mà xung kích. Địa tặc là bọn đào tường khoét vách. Pháp nói: thiên chúc tháng giêng khởi ở tỵ, bình thản đi thuận đến thìn, chủ vế hoả tai. Thiên hoả: các tháng dần ngọ tuất hoả cục thai ở tý. Tứ vực: tý, ngọ, mão, dậu cũng là tứ chánh, tháng năm tháng chin cũng khởi ở tý, cho nên là một năm lập lại ba lần [一歲三復: nhất tuế tam phục]).

Thiên quan phù tức là vị trí của lâm quan, lấy lâm quan của niên cục ở trung cung khởi dần, tỵ, thân, hợi, tiến ba vị trí rồi mới quay lại lui khỏi trung cung, đi thuận theo cửu cung, nếu cùng với quỷ động là hung xấu trong kiện cáo. Dương sanh gọi là sanh khí; âm sanh gọi là tử khí, vì dương thì chủ sanh còn âm thì chủ sát.Ngũ tý động bảy vị trí là canh ngọ, canh ở trên khắc giáp là quan phù, vì vậy quan phù khởi ở ngọ, thuận theo tử khí thuận hành là tử khí quan phù. Đầu năm mùa xuân, tháng dần, nguyên tắc quẻ cấn hào quan dần trì thế, chính là búa giữ cửa quan phù, sau đó lặp đi lặp lại nhiều lần.
(Dùng ngón tay đốt thứ nhứt khởi là khảm nhất bạch; đốt thứ hai là khôn nhị hắc; đốt thứ ba là chấn tam bích; đốt thứ tư là tốn tứ lục, đốt thứ tư ngón giữa là trung cung ngũ hoàng, đốt thứ tư ngón áp út là càn lục bạch; đốt thứ ba là đoài thất xích, đốt thứ hai là cấn bát bạch, đốt thứ nhứt là ly cửu tử, chính là cách khác của cửu cung. Như năm tý chính là thuỷ cục, lâm quan ở hợi nhập trung cung (đốt thứ tư ngón giữa là trung cung), tức là tháng mười ở trung cung đi thuận, tức tháng mười một ở càn, tháng mười hai ở đoài; tiến tam phục thối: tức là năm nay tháng giêng nhập vào trung cung, tháng hai ở càn, tháng ba ở đoài, tháng tư ở cấn, tháng năm ở ly, tháng sáu ở khảm, tháng bảy ở khôn, tháng tám ở chấn, tháng chín ở tốn thì chấm dứt. Giả dụ như tháng bảy bói nếu như hào quỷ động ở cung khôn, là thiên quan phù vậy, đó là từ năm nay trở đi, sanh khí tháng giêng thuận theo tý đi thuận; tử khí cùng với quan phù theo ngọ đi thuận, đầu năm giống như khởi ở mùi ý nghĩa của cái búa giữ cửa. Dùng quẻ cấn từ trên xuống, pháp nói: tháng giêng, bảy đi xem xét làng xóm, tháng hai tháng tám chuột ở cửa, tháng ba tháng chín ở vị trí tuất, tháng tư tháng mười trêu chọc khỉ, tháng năm tháng mười một cưởi ngựa chạy, tháng sáu tháng mười hai vượt cửa rồng).

Tuyệt: là ngừng bước, sẽ có nỗi lo sợ thiên ngục, dần ngọ tuất tuyệt ở hợi; tỵ dậu sửu tuyệt ở dần; đó là thiên ngục. Bước nghịch ở địa võng là địa ngục sát. Khảm là huyết quái, sửu là nhận khố, máu ở trên lưỡi đao, vì thế các tháng giêng, ba, năm, bảy, chín, mười một thì lấy sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ làm huyết nhận, nhận hướng vào nhau, chẵn tiếp nhận lẻ, lại có tên là huyết kỵ, máu ở trên kỵ, cho nên các thánghai, bốn, sáu, tám, mười, chạp thì lấy mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý làm huyết kỵ. Vũ khí sắc bén trước mặt dương nhận, uy thế giống như vác mác, ở trước lộc một vị trí, là chỗ vợ và nô bộc sợ hãi.
(Tuyệt là thiên ngục, như thân tý thìn thuỷ cục tuyệt ở tỵ, pháp nói:tháng nguyệt gặp hợi, tháng hai ở thân; tháng ba theo rắn tháng tư ở dần, tháng năm trở lại tuyệt ở hợi, giáp một vòng xác định thần của nó. Tuất là địa võng, cho nên địa ngục khởi từ tháng tuất đi nghịch, pháp nói: tháng giêng ở sửu tháng hai ở mùi tháng ba dần; tháng tư thân, tháng năm mão, tháng sáu dậu tai vạ; tháng bảy thìn, tháng tám tuất, tháng chín tỵ; tháng mười hợi, tháng mười một ngọ tháng chạp tý lai. Huyết kỵ thì giống với huyết nhận. Bói châm cứu hay châm ngãi [phép trị bệnh lấy kim chích và dùng ngải đốt nóng huyệt đạo] xác định là không tốt, trước lộc một vị trí là dương nhận, như giáp lộc ở dần, đi thuận bên phải tới mão là dương nhận; ất lộc tới mão, nghịch bên trái dần là dương nhận, bính mậu lộc ở tỵ, thuận bên phải đến ngọ là dương nhận, đinh kỷ lộc ở ngọ nghịch bên trái tỵ là dương nhận. Pháp nói: ất gặp dần động nên là nhận, tân thấy thân động sao không xấu; đinh kỷ ghét tỵ, quý sợ hợi, anh em bạn bè phải thận trọng. Thời nay người ta không phân biệt âm dương thuận nghịch, nhất loạt lấy trước lộc một vị trí làm nhận, nên có trường hợp ất lộc ở mão thì lấy thìn làm dương nhận, thuyết này dặc biệt đúng là sai lầm).

Dương hãm ở âm gọi là âm sát, tháng giêng khởi ở hào sơ quẻ khảm, tuần hoàn từ trên xuống, là quan trọng của sự tránh xa tai hoạ. Chết mà chết non tên gọi là chiết sát, vì thế dần ngọ tuất lấy dậu làm chiết sát, thân tý thìn lấy mão làm chiết sát. Chỗ dưỡng không có cơ hội, tức là bỗng nhiên bị hao tổn như mùa xuân dưỡng ở tuất mà thìn huỷ đi, vì thế tên gọi là dục bồn sát. Hàm trì sát còn có tên đào hoa, bởi lấy mộc dục làm đào hoa, mộc dục thì bẩn thỉu, ô uế, tác phong dâm ô, bại hoại, vì thế mà có tên gọi như vậy.
(Quân tử bị tiểu nhân hãm hại gọi là âm sát, nếu như có thêm quỷ động nên đề phòng tai hoạ. Nguyên tắc lấy tháng giêng tháng bảy ở dần, tháng hai tháng tám ở thìn, tháng ba tháng chín ở ngọ, tháng tư tháng mười ở thân, tháng năm tháng mười một ở tuất, tháng sáu tháng mười hai ở tý, tức là chập hai lần tượng quẻ khảm. Vì hoả cục tử ở dậu, thuỷ cục tử ở mão, như các tháng hai, sáu, mười ngọ là chiết sát, các tháng tỵ dậu sửu tý là khán sát (看煞), như hoả dưỡng ở sửu bị mùi bạo chiết. Pháp nói: xuân thìn, hạ mùi, thu gặp tuất; mùa đông tìm tới ở sửu thần, vì huỷ hoại giống thi sát (屍煞: thi sát) cũng cùng nghĩa là bạo chiết, tiểu nhân kiêng kỵ. Hàm trì sát: dần ngọ tuất hoả cục mộc dục ở mão; hợi mão mùi mộc cục ở tý, Cầu nói: dần ngọ tuất thố (thỏ) tòng mão lý xuất; hợi mão mùi thử (chuột) tý đương đầu kỵ; thân tý thìn kê () khiếu loạn nhân thâu; tỵ dậu sửu dược mã (ngựa) nam phương lai).

Suy nên khô héo, khống khó, thường luôn khóc lóc bi ai, có tên gọi là"thiên khốc"; đang mộ gọi là "tang môn"; đóng mộ là "điếu khách" "tang xa"; vì vị trí tuyệt là người mất là chỗ đóng xe, chính là "tang xa" vậy. Đại khái đông thuỷ lấy tỵ làm tuyệt, đóng ngọ là "tang xa". "Ngũ mộ" tức là mộ thần, cho nên xuân mộc mộ ở mùi; hạ hoả mộ ở tuất. "Tam khâu" là thổ chồng chất trên mộ, cho nên xuân lấy sửu làm "khâu" (gò đống, mồ mả) chọn lấy vị trí thứ ba của thổ, cho nên gọi là "tam"; "ngũ" tức là ngũ hành mộ vậy.
(Khô héo là suy, các tháng dần ngọ tuất hoả cục suy ở mùi; các tháng tỵ dậu sửu kim cục ở tuất, ba lần khóc bi ai, cho nên tháng giêng ở mùi, thán hai ở thân, tháng ba ở dậu, tháng tư ở tuất, ngũ (mộ) lặp lại ba lần vì thế có tên là "thiên khốc". Vì các tháng dần ngọ tuất mộ ở tuất; các tháng hợi mão mùi mộ ở mùi; các tháng thân tý thìn mộ ở thìn; các tháng tỵ dậu sửu mộ ở sửu. Như tháng giêng tuất là "tang môn" thì thìn là "điếu khách". Xung tượng là khấu (mộ), pháp nói: "tang xa" xuân gà hạ chuột lai; thu mão đông ngọ hảo an bài, cả hai phương pháp đều kỵ tật bệnh. Vì thổ xung thổ gọi là chồng chất, nên từ mùi tuất đếm đến ngày sửu là ba (tam), pháp viết: sửu thìn mùi tuất tam khâu sát, dê chó trâu rồng tìm ngũ mộ).

Gần phía trước gọi là "cô"; gần phía sau gọi là "quả", là tục truyền cô quả sát, các tháng dần mão thìn tỵ là "cô" sửu là "quả". Phía trước thì ngăn cấm gọi là "quan" (đóng); phía sau là tuyệt gọi là "toả" (khoá), do đó lập thành nguyên tắc "quan toả", các tháng thân dậu tuất, hợi quan toả.
(Mất tụ hội mất phép tắc (失聚失類: thất tụ thất loại), như không có chỗ dựa, tỵ sửu là phía trước phía sau chẳng giống nhau. Pháp nói: dần mão thìn thì tỵ cô sửu quả; tỵ ngọ mùi thì thân cô thìn quả; thân dậu tuất hợi cô mùi quả; hợi tý sửu thì dần cô tuất quả, giống nhu là ý niệm nam ở trước, nữ ở sau. Ngăn đóng ở phía trước và sau của nó gọi là "quan tả". Pháp nói: xuân 'quan" ở trâu với rắn, hạ "toả" ở rồng khỉ ; thu ghen ghét vị trí dê heo; đông chó cọp giáp nhau).

Từ các tháng xuân mà hành động xằng bậy, không theo đường lối, không theo đạo lý, nếu đi khắp nơi, sẽ bị đại bại vì thế có tên là "vãng vong". Dần tới mão là đường thẳng,trực tiếp, không theo mà đến tỵ chẳng có đạo lý; từ mão đến thìn, từ thìn đến tỵ là đường thẳng, trực tiếp, không theo ngọ mà đến mùi, chẳng có đạo lý, hành giả đề phòng. Lấy tý sửu dần mà nương theo mạnh trọng quý thì chẳng đúng thời. Chẳng đúng thời mà nương theo là chỗ kiêng cữ, vì thế mà có tên là "quy kỵ". "Tuyệt lộ" không vong: gặp thuỷ thì đường đi bị cắt đứt, giáp kỷ ngũ độn nhâm quý ở thân dậu, cho nên thân dậu là "tuyệt lộ". Mão trông cậy dần tượng là thuyền, mà mộc tuyệt ở thân là "phúc chu sát", thuyền gặp tuyệt ắt là bị lật, cho nên từ thân khởi "phúc chu" đi thuận; xung với thuyền là sóng, cho nên từ dần khởi "bạch lãng" đi thuận.
(Tháng giêng khởi dần đi thuận, thì tháng hai đang đi đến mão, chính là vượt qua đường thẳng đi đến tỵ thân hợi mới trở lại mão, lập lại không theo đường đi, đi thẳng đến ngọ dâu tý mới trở lại thìn, lập lại không theo đường đi (復不由徑: phục bất do kính),đi thẳng đến mùi tuất sửu là hết. "Vãng vong" pháp nói: tháng giêng dần, hai tỵ, ba thân vị; bốn heo năm thỏ sáu mã bi; bảy gà tám chuột chín thìn kỵ; mười dê mười một chó, chạp trâu nguy. Tý sửu dần là thiên địa nhân tam tài, vì tháng mười một đang ở tý nên trái lại với mạnh (tháng đầu) dần, tháng chạp đang ở sửu nên trái lại với trọng (tháng giữa) tý, tháng giêng đang ở dần nên trái với quý (tháng cuối) sửu, là "phi thời quy kỵ", sau ba tuần cũng vậy. Pháp nói: dần thân tỵ hợi trâu xâm phạm nhau; tý ngọ mão dậu cọp công khích nhau; thìn tuất sửu mùi đều đề phòng chuột; hào gặp "quy ky đường đi xấu. "Tuyệt lộ không" pháp nói: giáp kỷ thân dậu rất là sầu; ất canh ngọ mùi không nên mưu tính; bính tân thìn tỵ hỏi làm gì; đinh nhâm dần mão một đoạn buồn; mậu quý tý sửu ngồi nhà lớn, nếu phạm không vong chớ đi xa. Mộc tuyệt ở thân là "phúc chu", tháng giêng theo thân mà đi thuận; dần xung thân là "bạch lãng", tháng giêng theo dần đi thuận).

Hạc thần từ trên trời giáng xuống, bắt đầu đạp lên ở cấn, kỳ môn giáp tý khảm cục, tỵ dậu cấn cục, vì theo tỵ dậu xuống đất, lưu chuyển tám phương, tứ duy (đông tây nam bắc) sáu ngày mà thay đổi, tứ chánh năm ngày chuyển động, ngày thứ bốn mươi lăm lên trời ngự ở phòng hướng bắc, năm ngày lại vào trong phòng, kết hợp với số diễn mẫu; sau hai ngày lại chuyển về phương nam, âm trước dương sau, kết hợp với số thiếu âm; ba ngày sau lại chuyển về phương tây, kết hợp số thiếu dương; một ngày sau lại chuyển về phương đông, kết hợp với số thái dương; bốn ngày sau lại chuyển về trung cung, kết hợp với số thái âm; mậu thân ở giữa, rồi sau giáp tý mới vòng quanh, nếu quỷ động là cung xuất hành thì phải cẩn thận.
(Hạc thần tức là du thần vậy).

Ngũ phù: tức là thiên phù vậy, như quan cai quản được nhận thiên phù, có mười một vị thần ở phía trước thiên phù: thiên tào, địa phù, phong bá, lôi công, vũ sư, phong vân, đường phù, quốc ấn, thiên quan, địa hạp, thiên tặc.
(Lấy âm dương lộc mà khởi ngũ phù, dương đi thuận, âm đi nghịch, đi quanh mười hai vị trí. Bởi vì nguyên tắc giáp lộc ở dần, nên dần chính là ngũ phù, trước mộ trưng bày "bộ khúc", bộ khúc tức là thiên tào. Mùi bằng ba vị trí lại là tích phù, cho nên thiên phù là "kim dư" (金輿: kim dư - xe vàng), địa phù là "ngọc liễn" (玉輦: ngọc liễn - ngồi xe ngọc), phong bá chính là vị trí quẻ tốn, lôi vũ là thần mây đi đầu. Mùi chín vị trí cấp cho mệnh lệnh lớn lao chính là đường phù, quốc ấn. Hợi là thiên quan, tý là địa hạp, dựng lên vũ khố vì tranh đoạt bất nhân, cho nên cuối cùng là thiên tặc, cũng có danh là sao "đà la", chẳng nên lầm lẫn với mãn phá khai của thiên tặc. Đấy là theo nhật mà khởi).

Cương khôi có mười hai tướng, thể là thìn tuất mà dụng là tỵ hợi: thiên cương, thái ất, thắng quang, tiểu cát, truyền tống, tòng khôi, hà khôi, đăng minh, thần hậu, đại cát, công tào, thái xung. Cương khôi lâm hào quỷ động, tai vạ, hoạ nạn bỗng đến rất nhanh, cương thì chủ kiện tụng; còn khôi thì chủ trộm cướp.
(Thiên cương tháng giêng khởi ở tỵ đi thuận, hà khôi tháng giêng khởi ở hợi đi thuận, còn mười tướng còn lại không cai quản cát hung trong quẻ, cho nên không ghi chú tỉ mỉ).

Thái tuế: bắt đầu khởi lên ở giáp tý, âm dương trợ giúp nhau, cát tinh ở đây, các sao xấu tốt riêng lẽ, hay theo nhóm cũng lập ở đây. Dần là quỷ lộ, cho nên mười hai năm tang môn lấy dần làm chỗ khởi đầu. Thân là thần môn, cho nên mười hai năm bạch hổ lấy thân làm chỗ khởi dầu, phi liêm dựa theo đó. Bởi vì cái mà khắc mình là quan quỷ, tý bị thìn khắc, cho nên mười hai năm lấy thìn khởi quan phù, lại ở vị trí thứ năm, nên ngũ quỷ nương theo đó. Xung với thái tuế gọi là tuế phá, lan can nương theo. Tuất cũng khắc tý, và tam hợp với tang môn cho nên có tên là điếu khách, thiên cẩu nương theo. Tỵ là chỗ cuối cùng của lục dương; hợi là chỗ cao nhất của lục âm, cho nên tỵ bắt dầu tử phù, hợi bắt đầu bệnh phù. Âm hỗ trợ dương, trời tạo ra vạn vật, cho nên tam nguyên, tứ lợi, mười hai năm lấy sửu khởi thái dương, mão khởi thái âm, mùi khởi long đức, dậu khởi phúc đức nguyên tắc đi thuận hành.
(Nguyên tắc tứ lợi tam nguyên: một là thái tuế, hai là thái dương, ba là tang môn, bốn là thái âm, năm là quan phù, sáu là tử phù, bảy là tuế phá, tám là long đức, chín là bạch hổ, mười là phúc đức, mười một là điéu khách, mười hai là bệnh phù những sao này đều khởi theo năm. Tứ lợi là bốn cát tinh: thái dương, thái âm, long đức, phúc đức. Tỵ và hợi không có sao tốt vì là chỗ cuối của dương và chỗ cao nhất của âm, có tứ hung nương theo, chẳng phải tại thứ tự cũ của tam nguyên. Lại có phi liêm trên tháng, tháng giêng từ thân đi nghịch; ngũ quỷ trên tháng tháng giêng theo dần đi nghịch. Phi liêm do bạch hổ cũng khởi ở thân; ngũ quỷ do quỷ lộ cũng khởi ở dần).

Người xưa bắt đầu đặt tên các sao hoặc là do sự việc mà gọi, hoặc là theo ý nghĩa mà thành, hoặc do hình tợng mà lập, tất nhiên đều có nguồn gốc, nó không có nguồn gốc mà truyền tuỳ tiện sẽ không hiệu nghiệm ở cát hung, dù nhiều cũng không thể tin theo được. Thông thường cát tinh chuyển động theo chiều thuận, còn hung tinh chuyển động theo chiều nghịch. Các sao của địa chi thì theo tháng; các sao của thiên can thì theo ngày chi phối, các sao của năm tuy có liệt kê nhưng ở xa nên ảnh hưởng nhẹ; các sao của giờ lần lượt đã lâu (時星間陳: thời tinh gian trần), người già nên dễ mất (叟而易逝: tẩu nhi dị thệ), chỉ có nhật nguyệt được trọng dụng. Nguyên tắc chiêm tinh phần nhiều xem xét những thứ cùng loại, chẳng phải cùng loại thì không tiếp xúc, mỗi cái đều chờ nó vận chuyển, nếu không vận chuyển thì không chờ đợi. Tất nhiên theo dụng thần làm chủ mà sao chỉ là phụ, tốt thì càng thêm tốt, xấu thì càng thêm xấu, vì thế không có gì đáng trách, học giả có thể phân biệt được.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#41

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm qua, 10:39

Dịch Mạo - Quyển Bốn

40- Quái nghiệm

Dùng hào để bói mà ứng nghiệm gọi là dụng thần; dùng quẻ bói mà ứng gọi là quái nghiệm (quẻ ứng nghiệm). Quái nghiệm thì chỉ dùng ở quẻ mà không dùng hào.
(Người xưa thường chế giễu đoán cát hung bằng tên quẻ. Tuy nhiên xưa cũng có cách dùng ý nghĩa của quẻ để đoán mà có ứng nghiệm, không thể xa rời nó).

Hôn nhân kỵ tam xung, tức là không áp dụng dụng thần suy vượng; đất nước chiến tranh kỵ nội phản phục ngâm mà không dùng bằng tử tôn, quan quỷ; dời đổi chỗ ở kỵ ngoại phản ngâm, phục ngâm mà không căn cứ hào quan quỷ an tĩnh; bói bệnh chủ thuộc hoá mộ, tuyệt, cho dù hào dụng vượng vẫn hung, đấy là đều là xem theo quẻ trước hào sau.
(Điều thứ năm đặc biệt rất kiêng kỵ là người bói thường hay chấp ở dụng thần mà lầm lỗi, sơ hở).

Vì thế bói trời nắng hay mưa, được quẻ càn, quẻ ly thì trời tạnh ráo, quang đãng; được quẻ khảm, quẻ đoài tức là mưa, nếu không phải vậy, thì sau đó quan sát hào phụ mẫu, hào tử tôn để biết trời âm u hay trong sáng. Bói mồ mả gặp quẻ tốn phong, khảm thuỷ chính là đại hung, vì phạm phong thuỷ mới xung; chỉ mùa thu trở về sau bói đất đai được quẻ khôn, hay trước mùa xuân bói mồ mả được quẻ cấn trái lại là điềm tốt lành; quẻ cổ có mối, kiến (蟲蟻: trùng nghĩ); quẻ tỉnh có nguồn nước; quẻ minh di có xác chết cũ; nếu không phải như vậy thì sau đó mới dùng hào thế, hào phúc mà định cát hung vậy.
(Phong thuỷ rất kỵ lục xung, nếu bói đất bằng, sau mùa thu ba khí được quẻ khôn hay bói đất núi, trước mùa xuân một khí được quẻ cấn, trái lại là điềm tốt lành, không luận lục xung).

Ra quân đánh giặc gặp quẻ minh di có phục binh mà bại, gặp quẻ khảm, quẻ kiển, quẻ khốn đề phòng nơi có tụ tập, nếu đúng vậy thì không cần luận lại theo tử tôn, quan quỷ; bói cầu tài gặp quẻ tuỵ gọi là hao vốn; bói xuất hành gặp quẻ tiết, quẻ cấn, quẻ khảm, quẻ minh di đều nói là không tốt lành; kiện cáo, tù ngục gặp quẻ đại tráng với quẻ quải nói là đắc lý, gặp quẻ khảm, quẻ kiển, quẻ minh di gọi là nhà tù (囹圄: linh ngữ); bói bệnh gặp quẻ minh di, quẻ ký tế, quẻ phong, quẻ tiết mà hào thổ quỷ độc phát cho là chết.
(Kinh Phòng chỉ ra quẻ tuỵ là khuyết số, các quẻ còn lại đều là chỗ người xưa nghiệm ra).

Bói hôn nhân được các quẻ: hàm, hằng, tiết, thái thì tốt lành, biến xung thì không tốt; còn các quẻ: khuê, cách, giải, ly thì xấu, cho dù có hoá lục hợp cũng vẫn xấu. Hỏi có con nối dõi không, xưa bói được quẻ đại súc là có con, bói được quẻ mông là có con; bói được quẻ hoán là có mang, ý là phụ nữ có thai, bói được các quẻ: đại hữu, đồng nhân, cùng với quẻ càn hay quẻ bác là có song thai, nói thế là vì cả hai bính mậu đều thai ở tý.
(Tích xưa Thương Cù tướng nước Tề, bốn mươi chưa có con kế thừa, ông mới bói cỏ thi được quẻ đại súc hào ba dương, sau ông cũng có ở tuổi năm mươi; Chu Dịch giải thích mông là đồng mông; Bổ Di cho rằng quẻ hoán là trong bụng có người (tức là có thai). Các quẻ kể trên đều là đoán bằng quẻ mà không bằng hào dụng, do người xưa đã trải qua mà đúc kết kinh nghiệm).

Lại có trường hợp chọn theo ý nghĩa của tượng quẻ , do đó mà lợi dụng ý nghĩa của quẻ. Như bói đất nước được quẻ bỉ hay quẻ thái tức là có thể biết được quân tử hay tiểu nhân; được quẻ tổn hay quẻ ích tức là có thể thấy trước được mùa hay mất mùa; bói đạo nghiệp được các quẻ: cấn, phục, hàm, vô vọng thì thành tâm học tập; bói nho nghiệp được các quẻ: bí, lữ, khôn, ly thì văn chương sáng sủa, rực rỡ; bói khoa đệ (thi cử) được các quẻ càn, chấn thì đậu giải đầu bảng (魁黃甲: khôi hoàng giáp); dâng sớ lên vua chớ nên gặp quẻ truân, quẻ kiển; gặp mặt vua (面聖: diện thánh) rất mừng được quẻ tấn, quẻ thăng.
(Thầy tự bói được quẻ lữ, bói được quẻ thì lo lắng cho học trò, bởi vì quẻ khôn, quẻ ly là văn chương; còn quẻ chấn, quẻ càn là thi đậu. Tất cả đều là chuyện xưa).

Như quẻ phệ hạp là chợ trong ngày, nên thích hợp cho hàng quán buôn bán; mộc ở trên nước của quẻ hoán nên lợi ở chốn sông nước; quẻ ly đánh bắt cá; quẻ tuỳ thì cưỡi ngựa; quẻ ích thì làm ruộng; quẻ khuê thì cày cuốc; như các quẻ: cấn, ly, hàm, cổ mà bói nuôi tằm thì có thu hoạch; các quẻ: phệ hạp, đỉnh, di bói chăn nuôi súc vật thì chủ giết và nấu ăn; bói khởi tạo thì quẻ đại tráng là quẻ tốt lành; bói cha mẹ bệnh thì quẻ đại quá là quẻ xấu; đề phòng hoả hoạn được quẻ ly, đề phòng trộm cướp gặp quẻ khảm; đề phòng lầm lỗi gặp quẻ phệ hạp với quẻ tụng; đề phòng bị hại gặp quẻ minh di, tiểu quá, cùng với tổn, các quẻ liệt kê đều là kiêng kỵ.
(Quẻ được coi trọng (右卦: hữu quái) cũng được ghi chép trong tích xưa, thường có kết quả đúng như dự đoán, tuy nhiên gồm thêm cả quan sát dụng tượng thì càng thêm chính xác).

Lại có những ghi chép về người bói ứng nghiệm trong lịch sử cổ đại, như quẻ quán biến mà họ Quy sanh con nối dõi cho họ Khương; quẻ quy muội biến khuê mà Tấn nương nhờ hôn nhân với Tần mà khôi phục dất nước.
(Trần Cảnh Trung sang nước Tề, sau trở thành họ Điền, con gái của Tấn Công là vợ của Tần Mục, sau lại theo Tần trở về nước Tấn).

Quẻ khốn biến đại quá nên chồng chết, không có lợi cho lấy vợ lập gia đình; ra quân gặp quẻ phục nên bị bắn vào mắt, không lợi đối phó với giặc.
(Trần Văn Tử nói chồng đi theo gió và bị mất vì gió nênkhông lợi cho việc cưới vợ; họ Thôi sau thất bại, bị bắn vào mắt, tích Tấn phạt Sở).

Quẻ truân biến tỷ mà có tiếng tăm; quẻ truân biến dự mà được nước (得國: đắc quốc); gặp quẻ cổ nên kẻ thù thua trận; gặp quẻ thái nên mưu tính hoàn thành.
(Tất Vạn nhậm chức quan đời Tấn được quẻ truân biến tỷ xem Tả Truyện [Ngày xưa, người làm quan trước khi nhậm chức, xem bói cỏ thi (thệ 筮) để biết lành hay dữ. Cho nên sau gọi nhậm chức quan là thệ sĩ 筮仕]. Tấn Công Tử Trọng Nhĩ, bói đến nước Tần được quẻ truân biến dự; Tần Bá đánh Tấn được quẻ cổ; Tấn Công Tử khôi phục đất nước được quẻ thái; những quẻ được coi trọng tạm lấy chuyện xưa nổi tiếng kể lại, tuy nhiên với ý nghĩa của quẻ bói bằng đồng tiền, đoán cũng có ít khác biệt, không nên chấp nhất mà quyết định).

Lại có trường hợp lấy đức làm địa vị, kết hợp cỏ thi mà sáng tỏ, mất đức nghịch với thiên nhiên dù người được quẻ tốt lành cũng có thể bị tiêu diệt. Tử Nghi thích hợp là đại nhân của hào năm quẻ càn, ở lều tranh tối tăm bảo vệ thiên sơn mầu mở, Tống Thái Tổ bói cỏ thi được quẻ ly nên lìa xa khu vực; Minh Tông được quẻ càn nên khôi phục đất nước; Nam Khoái được quẻ khôn hào năm âm nên trở lại thất bại, ý hướng nghịch với trời vậy; Mục Khương bói cỏ thi được quẻ cấn hào hai thiếu âm (八二: bát nhị) nên điềm báo xấu, đề phòng đánh mất đức hạnh.
(Người xưa cũng có bói cỏ thi tốt mà được sự việc hung xấu, đức không đủ để phối với cỏ thi. Tiên sư Tinh Nguyên đối với người bỏ vợ được quẻ thái mà nói là xấu, khuyên răn nên hoà hợp đến cùng; người mù loà đối với kiện tụng được quẻ dự đề phòng chớ nên kiện đến cùng, không nghe nên hung xấu. Quẻ thái, quẻ dự vốn là tốt lành, nhưng người bói cỏ thi quyết là xấu, tức là tốt xấu thay đổi trái ngược, đấy cũng là khuyên răn cho người bói vậy).


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#42

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm qua, 11:48

Dịch Mạo - Quyển Năm

41- Loại tổng chương

Phương pháp bói toán là dựa vào hình tượng mà xem tốt xấu; thấy được tốt xấu mà báo trước sự việc nên theo hay nên tránh; điềm báo trước nên theo hay nên tránh chính là có liên quan đến dụng thần; chỗ liên quan đến dụng thần, đường lối có khác nhau nhưng mà cùng thống nhất, nhiều thay đổi mà thống nhất. Biện bác không rõ ràng, mà tốt xấu theo hay tránh nên không thể đúng được.
(Đấy là đàm luận về nguyên tắc của môn bói toán, lấy dụng thần làm gốc).

Nguyên tắc dụng thần: hoặc theo quẻ; hoặc theo hào; hoặc theo trong ngoài; hoặc theo hào thế, hào ứng; hoặc theo ngũ hành lục thân mà khảo sát; hoặc theo tám quẻ lục thân mà bói. Sau đó mới căn cứ theo năm tháng ngày giờ; ý nghĩa tiên tri của phi phục hỗ biến; vượng tướng, kiến, sanh, không, phá, tán, tuyệt, tiến, thối, hình, hại, tiêu tức, đại để bỏ hào tĩnh tìm hào động, bỏ hào suy tìm hào vượng, bỏ hào bệnh tìm hào không bệnh, mà ứng nghiệm tốt xấu, nặng nhẹ, nhanh chậm vậy.
(Đây là đàm luận về dụng thần không chuyên nhất, không thông dụng với người chỉ chấp vào lục thân).

Nguyên tắc của nó là trước phân tích quẻ sau mới phân tích hào: quẻ có chỗ dùng của quẻ; hào có chỗ dùng của hào. Công năng của quẻ có tàm: một là nội ngoại; hai là xung hợp; ba là phản phục; bốn là mộ tuyệt; năm là quy du; sáu là dấu hiệu của quẻ; bảy là ý tứ của quẻ; tám là quẻ đúng như dự đoán. Thế nào là nội ngoại? Như bói gia trạch thì nội là người, ngoại là chỗ ở; nội thì nên giữ, đợi; ngoại thì nên dời đổi. Thế nào là xung hợp? Như các quẻ tam xung: trời và người không giao kết, luôn luôn không hoà hợp; các quẻ lục hợp: quý nhân giúp đỡ, nhân sự hanh thông. Thế nào là phản phục? Phản ngâm là mưu tính trái ngược, sự việc mâu thuẩn; phục ngâm thì hoàn cảnh, trạng thái nơm nớp, thắc thởm, chỉ kỵ cho bói quốc gia, bói quân đội, và nhân trạch. Thế nào là mộ tuyệt? Như quẻ chấn hoá khôn, mộc mộ ở mùi và tuyệt ở thân; quẻ ly hoá càn hoả mộ ở tuất và tuyệt ở hợi, chỉ xấu cho bói quốc gia, bói quân đội, thân mệnh, chỗ ở, cơ nghiệp, tật bệnh. Thế nào là quy du? Quy hồn thì không thể ra ngoài, hiển lộ.. ; du hồn thì chủ vô định. Thế nào là quái hậu? Chờ gặp vượng tướng, không lấy nhật xung làm phá, quẻ đang tử tù không lấy nhật kiến mà hưng thịnh, chỉ dùng trong bói bờ cỏi đất nước, nhân trạch. Thế nào là quái nghĩa? Như bói cỏ thi về trời tạnh hay mưa mừng quẻ càn, quẻ ly là trời tạnh, trong sáng, bói mồ mả thì sợ các quẻ phong, quẻ thuỷ. Thế nào là quái nghiệm? Như bói cỏ thi được quẻ hoán nói là có thai, quẻ phệ hạp thì nói là chợ trong ngày, đấy là các chỗ dùng của quẻ. Cho nên người ta chọn dùng quẻ trước khi dùng đến hào.
(Đây là chuyên chú trọng đến bản chất của quẻ mà luận. Quái hậu thì lâu xa cho nên không lấy nhật làm hưng phế, như quẻ chấn đương vượng tướng tuy gặp ngày dậu mà chấn không bị phá; quẻ khảm đương hưu tù tuy gặp ngày tý nhưng mà khảm vẫn chết).

Kế đến phân tích hào, chỗ dùng của hào có sáu: một là thế ứng; hai là lưỡng thân; ba là lục thân; bốn là lục thần; năm là hào vị; sáu là biến hỗ. Thế nào là thế ứng? Thế là gốc, ứng là ngọn, thế làm chủ ứng là người, chủ tể của quẻ đã thành. Thế nào là lưỡng thân? Một là quái thân , hai là thế thân, quái thân quan trọng hơn. Thế nào là lục thân? Thê tài, quan quỷ, phụ mẫu, huynh đệ, tử tôn, mỗi thứ đều có chỗ dùng. Thế nào là lục thần? Thanh long, châu tước, cậu trận, đằng xà, bạch hổ, huyền vũ, mỗi thứ đều có chỗ kiêng kỵ. Thế nào là hào vị? Như hào sơ là đất, hào thượng là trời, hào năm là vua, hào hai là tôi thần, do sự việc phó thác mà có. Thế nào là biến hổ? Hào động thì phải quan sát hào biến, hào tĩnh thì xem ở hào hỗ, do tìm cầu dụng thần, đấy là hào dụng vậy. Vì thế chỗ dùng là chọn lấy ở hào, bò quẻ mà theo hào vậy.
(Đây là chuyên chú trọng vào hào tượng mà luận).

Tuy nhiên chủ của quẻ đã thành thì thế ứng là quan trọng, nó cũng có mười điều kiêng kỵ: nếu không vong; nếu phá; nếu tuyệt; nếu mộ; nếu động; nếu hợp xung; nếu tuỳ mộ; nếu trợ thương; nếu thăng giáng tiến thối. Không vong thì không thành sự; phá thì thường thất bại; tuyệt thì thường gian nan, khó khăn; tán thì hoàn toàn mất mát, mộ thì khó cất tay chân, ngẩng đầu; động thì thường biến đổi; hợp xung thì thấy sắp thành lại thất bại; tuỳ mộ là ác địa của bói tật bệnh, kiện cáo; trợ thương dấu hiệu xấu của tai vạ, hoạn nạn; tiến thăng thì như lửa bắt đầu cháy bùng lên; giáng thối như gỗ bị cắt bỏ, đấy là các tượng của nó. Vì thế mọi việc cần mình hoàn thành thì dùng hào thế; trì quan thì thành danh, trì phụ mẫu thì thành văn; nhưng mà hào thế không vong thì không thành; sự việc do người được thì dùng hào ứng, thê tài thì được tài, phụ mẫu thì được phụ mẫu, nếu ứng không vong thì không được. Cho nên người dùng chọn thế ứng, bỏ quẻ tượng, hào dụng mà theo thế ứng vậy.
(Đấy là nói về thế ứng làm chủ quẻ, cho nên phải hiểu rõ chỗ nó kiêng kỵ).

Nếu tìm cầu nhiều loại thì lục thân là dụng thần, dụng thần không thể vượt qua được phép tắc, mỗi thứ đều tìm cầu theo loại của nó. Có dụng thần thì tất nhiên có kỵ thần: kỵ thần thì nên tĩnh, nên suy, nên được chế (cai quản); có dụng thần thì tất nhiên có nguyên thần: nguyên thần thì nên động, nên vượng, nên được sanh. Cho nên trong lục thân: quan quỷ thường là hung xấu, tuy nhiên có trường hợp hiềm nghi vì không có quỷ hay quỷ vô khí; phụ mẫu là nhọc nhằn, mệt mỏi, tuy nhiên có trường hợp không có phụ mẫu thì không có đầu mối bảo rõ; trong lục thân: tài phúc thì tốt lành, nhưng lại là ác khách của việc cầu danh; huynh đệ không công lao, nhưng cũng là nguyên thần của phúc thần tử tôn, đây chính là cái dụng của lục thân. Cho nên dụng thần nếu chọn ở lục thân cũng đại khái như thế ứng thuận theo lục thân vậy.
(Đây là nói về lục thân làm dụng thần, cho nên đều phải tỏ tường nguyên thần, kỵ thần).

Vì thế hãy quan sát trạng thái quỷ thần, chớ nên gần gũi ở động biến, biến có thể khắc hào động, hào động không thể sanh hào biến, hào động có thể sanh hào tĩnh của quẻ gốc, hào biến không thể khắc hào tĩnh của quẻ gốc. Hào biến không vong, phá, tử, tuyệt thì động hào không tiếp nhận được sự sanh khắc của nó; hào động không vong, phá, tử, tuyệt mà hào biến hồi đầu sanh thì được cứu trợ, còn hồi đầu khắc thì càng thêm hung xấu. Chỉ duy nhất một hào động càng quý để biết rõ điều ẩn tàng. Đây là đang lý giải về hào động biến.
(Đây là nói về hào dụng, hào động biến thì quan trọng, hào biến chỉ sanh khắc với hào động, không sinh khắc cho hào tĩnh trong quẻ).

Tìm dụng thần ở đâu, không thể hoàn toàn ở phi phục. Phục khắc phi thì hiện ra, phi sanh phục cũng được; phi khắc phục thì trừ tuyệt, phục sanh phi thì kết thúc; phi phục bỉ hoà thì có thể kéo ra; phi thần không vong thì dễ đẩy đùn; phục thần không vong, phá, tử, tuyệt thì không thể cất lên, nên xuất hay không xuất cũng như nhau. Vì thế phục thần bị tiêu diệt thì cho dù được lâm nhật nguyệt cũng không dùng được; phi thần phá, tán phục thần dầu sanh vượng cũng vô công. Trước tiên dùng phục dưới hào thế, kế đến là phục dưới hào động, sau nửa mới đến phục dưới hào tĩnh. Đây là đang tìm kiếm phi phục vậy.
(Đây là nói về tìm cầu hào dụng, phi phục trở thành tỉ mỉ, tuy rằng lâm nhật nguyệt mà không dùng được chỉ vì dụng hư ảo không thật. Đấy là diệt, một, phá, tán nói là nó không cử động).

Định sức mạnh của vượng suy, chớ chuyên chú ở nhật nguyệt. Tượng của nhật nguyệt là vua chúa, là tướng lệnh; hào thần nào có thể làm trái, không thuận tòng? Cho nên tuy hào thế ứng vượng động mà không tin theo biến hoá của nó. Nhật nguyệt khắc mà hào động biến sanh nói là "tham sanh vong khắc"; hào động biến khắc mà nhật nguyệt sanh, như là đang bị chìm đắm mà được cứu trợ. Nhật kiến không tiếp nhận phá ba tuần; nguyệt kiến không bị rơi vào tuần không vong, hoá khắc, phá vẫn không thương tổn, hoá không vong, hoá thối thần cũng không trở ngại gì. Cho nên nguyệt kiến làm chủ của nguyên tắc vượng, tướng, hưu, tù, tử, cho nên phải biết nơi kim trường sanh có khắc, nơi thổ tuyệt có sanh vậy; nhật tướng thì tham khảo mười hai pháp trường sinh. Nguyệt xung thì phá; nhật xung thì tán; nguyệt quan trọng là khắc, nhật quan trọng là tuyệt, nhật có tuỳ mộ, trợ thương mà nguyệt thì không có, cho nên nhật rất gần gũi. Đây là sức mạnh cai quản của nhật nguyệt.
(Đây là nói về vượng suy hoàn toàn bằng nhật nguyệt, nguyệt quan trọng ở năm nguyên tắc vượng, tướng, hưu, tù, tử; còn nhật thì quan trọng ở trường sinh, đế vượng, mộ, tuyệt vậy).

Vì vậy để phân biệt hợp xung: có quẻ va hào. Quẻ lục xung tức là xung ngay ở khởi điểm; hợp xứ phùng xung, là xung ở bên trong nó; hợp xứ biến xung là xung ở sau nó. Nếu hào hợp mà lại xung, việc thành lại tan vỡ, hào xung mà lại hợp, chiến đầu mà lại hoà hợp, động hợp thì gò bó, ước thúc, tĩnh hợp thì khởi lên. Cho nên có ba nguyên tắc hợp: có sanh hợp; khắc hợp; và hình hợp. Đại khái sanh hợp thì tốt mà khắc hợp thì hung xấu, hình hợp thì nhẹ hơn. Có năm nguyên tắc xung: một là hào tương phù mà xung gọi là "ám động"; hai là hào tương tuyệt mà xung gọi là "tán", không bằng ám động; ba là hào tương thai mà xung, mình khắc là động, khắc mình là tán; bốn là xung của hào thai tuyệt: hào vượng tướng là động, hào hưu tù là tán; năm là ám xung thuộc về tán; vượt qua động xung thuộc về tán, động tán chớ không có ám tán. Tượng của ám động: cát hung, hoạ phúc không hiện rõ ra nhưng sẽ đến; tượng ám tán cát hung hoạ phúc lặng yên nhưng mà rời bỏ. Tự xung có ba: một là hào động trong quẻ tự xung nhau, lực ngang bằng nhau đều tan hết; hai là hào lâm nhật nguyệt thì không tán; ba là một hào vượng, một hào suy tức là hào suy thì tán còn hào vượng thì động. Đây là đang phân tích của hợp xung.
(Đấy là nói về hợp xung nặng nhẹ, xung pháp càng rõ hơn ở chương nhật xung của sách này).

Vì vậy phân tích nguyệt phá, tuần không của nó. Có tám nguyên tắc về tuần không: một là nguyệt phá là không, gọi là "hoại không"; hai là nguyệt khắc thành không, gọi là "toàn không"; ba là nguyệt sanh nhật khắc hay nhật sanh nguyệt khắc gọi là "khắc không"; bốn là không sanh không khắc, gọi là "an không"; năm là chỉ nhật hay nguyệt sanh, gọi là "bán không"; sáu là nhật nguyệt sanh phù gọi là "vượng tướng không", không vong trong tuần ra khỏi tuần thì điền thật; bảy là nhật xung tắc thật, động không tắc thật, lâm nguyệt kiến tức là thật, đều gọi là điền thật không; tám là động không mà gặp phá, tuy rằng động nhưng không có ích lợi, không xung mà gặp tuyệt tán, tuy rằng xung nhưng không có sức lực. Nếu phục tàng mà không, không của âm dương, không của đầu tuần cuối tuần đều thuộc về số học, nhưng không có thảo luận sâu. Nguyên tắc nguyệt phá có ba: một là phá lâm hào quỷ động thì hung xấu, còn phá lâm hào động xung thì không; hai là hào lâm nhật không bị phá; ba là hào lâm thời không bị phá. Đây là đang phân biệt về không, phá.
(Đây là nói về không phá một cách thâm thiển, gặp lúc hào bị nguyệt phá, đến sau trị nguyệt thì không còn phá).

Đây là xem xét về "hình", "hại", "cục", "hoá". Nguyên tắc "hình", "hại" chiếu theo quyền sanh khắc của ngũ hành mà phân nặng nhẹ, tý mão hình, hình nhẹ mà sanh nhiều hơn; dậu tuất hại, sanh thì nhiều mà hại thì ít. Đại để hình là làm cho hổ thẹn; còn hại là làm cho oán hận, xa cách. Nguyên tắc "cục", "hoá": cục dùng đia chi ở giữa, hoá quan trọng ở nhật can của nó, vì vậy mình gặp phá, không, tuyệt, tán thì nói rằng "hợp không" (徒合: đồ hợp); có dần tuất mà không có ngọ, gọi là "giả cục" (假局: giả cục). "Lục khí" [Lục khí 六氣 gồm: âm, dương, gió, mưa, tối và sáng (âm, dương, phong, vũ, hối, minh 陰, 陽, 風, 雨, 晦, 明)] thường dùng, ngũ vận thì dùng khác hẵn, can của hào không phát động tức là không dựa theo vận, can của ngày không hợp tức là không có nguyên nhân biến hoá. Đây là điều khó thi hành của "hình", "hại", "cục", "hoá".
(Đây là nói về bốn nguyên tắc của "hình", "hại", "cục", "hoá", tham khảo để dùng nhưng khó mà thi hành [不可執: bất khả chấp]).

Đây là xem xét về "lục thần", "tinh sát". Dụng của lục thần tất nhiên là lấy lục thân làm gốc, tử tôn cưởi thanh long chủ có việc mừng; huyền vũ mất quan quỷ không nhất thiết là mất trộm. "Tinh sát" cát hung tất nhiên lấy hào thần làm gốc, quý nhân kiến mà cả hai hào quan quỷ, phụ mẫu bị hãm thì đường công danh chưa toại ý; tử tôn không vong mà thiên hỷ bổng lâm vào, chì là mơ mộng trong ngày cho vui. Đây là khó khăn (难泥: nan nệ) của lục thần, tinh sát không thể câu nệ.
(Đây là nói về "lục thần", "tinh sát", xem xét mà không nên câu nệ).

Tổng hợp tức lấy dụng thần làm trọng, phân tích tốt xấu, nặng nhẹ của nó đã từng trải qua, có mười tám nguyên tắc: một là nhật thần; hai là nguyệt tướng, là nói dụng thần lâm nhật nguyệt vậy; ba là vượng, cai quản của nhật nguyệt; bốn là tướng, là nhật nguyệt sanh; năm là sanh, sanh là nói tham sanh vong khắc, uyển chuyển tới sanh vậy; sáu là biến sanh; bảy là động sanh, biến sanh thân cận hơn còn động sanh thì không thân gần; tám là an, là không thương tổn mà cũng không bị rút khí; tám dụng thần kể trên đều là tượng tốt lành. Chín là có tỳ vết, hoặc là nhật khắc mà nguyệt sanh, hoặc là nguyệt khắc mà nhật sanh, được phân nửa tốt lành; mười là vượng tướng không, tốt lành cũng chỉ phân nửa; mười một là an không, được sanh mà không bị khắc, cầu thường không được nhưng mà không đến nổi thất bại; đấy là các loại dụng thần được phân nửa tốt lành. Mười hai là tiết khí, là nhật nguyệt hay động hào đều làm thoát khí của dụng thần, vật không sanh, đặc biệt là an không, nếu sanh thì gần như toàn vẹn, nếu khắc thì không (有克乃沒: hữu khắc nãi một); mười ba là tử khí, dù không gặp không vong, phá, nhưng nhật nguyệt hay động hào khắc nhiều lần, mà không được sanh, cũng đặc biệt là an không; mười bốn là nhât phá, nhật nguyệt khắc thương, ngay lúc hưu tù, địa chi của hào bị xung, là bị phá phân nửa vậy, cũng đặc biẹt là tử khí; mười lăm là nguyệt phá, phá mà còn giữ bản chất của nó; mười sáu là khắc không, nhật nguyệt hay động hào khắc mà lại không vong, thì không cứu được; mười bảy là "cánh vô" (竟無 cánh vô - không có cái nào cả): là nhật nguyệt, phi phục, biến, hỗ đều không có dụng thần, cũng đặc biệt là ở khắc không; mười tám là "tán": là động mà gặp nhật thần xung hào biến, hào động nên tán, dù cứu giúp cũng không được, tức là rất xấu, đấy là các dụng thần có tượng xấu ác. Dựa trên cơ sở này, chúng ta nên nghiên cứu nó một cách chuyên sâu, và sau đó sẽ không có sự nhầm lẫn về mức độ nghiêm trọng của điều tốt và điều xấu.
(Đây là mười tám nguyên tắc xem xét dụng thần, rất quan trọng của bói toán, chỉ "cánh vô" nếu đang tướng, cùng với được một tượng đến sanh, giống như vượt qua được "tử khí").

Hiểu rõ các điều này thì có thể bói tốt xấu, định được hạn kỳ. Nguyên tắc của hạn kỳ: quẻ không có hào dụng đến ngày trị nhật thì hoàn thành; hào kỵ động nên lấn áp tiêu diệt hào dụng; chủ tượng không vong mà gặp xung có thể thu hoạch được; hào dụng vượng mà mộ liền thu nhận ngay; tuyệt mà gặp sanh nên vượt qua; suy mà gặp phù nên thành.
(Đây là bí quyết xác định hạn kỳ. Kỵ thần động nên dụng cần tránh xa, ngày tránh xa, sau dụng gặp điền thật, nên thận trọng).

Hiểu rõ ý tứ của bậc thánh nhân đời trước, không chạy trốn trạng huống. Ý tứ của thánh nhân: trước khi mong cầu điều tốt lành hãy mong cầu điều không tốt lành, chưa tìm việc lợi ích thì trước hãy tìm cái điều không lợi ích. Nếu không có điều không tốt thì tìm điều tốt mà làm cho tốt thêm, đã không có điều bất lợi thì hãy tìm điều lợi mà làm cho lợi ích thêm, đấy là bí quyết của bói toán. Người mù loà vì đức mỏng, không may mắn mà bị đui mù, may mắn được theo thầy bạn mà nghe được lời dạy của thánh hiền, thông biến rõ ràng đến chỗ cùng cực, dám trân trọng lợi ích đạt được của bản thân, mà khiến những lời kỳ diệu thành kiến thức siêu việt chăng? Chỉ những người học dịch sau này, chớ nên coi thường những vấn đề nhỏ.
(Đây là nguyên tắc lớn để xem tổng quát tượng quẻ, hào dụng vậy).


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#43

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm qua, 12:15

Dịch Mạo - Quyển Năm

42- Quốc sự chương

(Qua chương này hiểu rõ các câu hỏi về: dời đô; xây dựng điện trước cung vua; chọn lựa vợ vua; lập thái tử, thay đổi pháp chế; cúng tế dất nước).

Vì cần thiết của đất nước: tất nhiên tiến cử trung lương (忠良: trung lương) là phúc của vạn dân, vì ậy hào phúc không thể lạc mất; tất nhiên là để đẩy lui bọn gian tà làm loạn, trừ khử thống khổ bốn phương, vì vậy hào quỷ không nên động.
(Thông thường bói đất nước đều mừng gặp được hào phúc mà chán ghét hào quỷ động, đó là đại tượng vậy).

Vì vậy lấy quẻ nội làm bờ cõi đất nước, quẻ ngoại là nhân dân. Quẻ cung an vượng thì phúc khí đất nước lâu dài, hào tượng hợp hoá thì tông xã lâu bền, xung chớ nên thấy ở chánh sách, hợp chớ nên bị làm huỷ hoại, thức là thiên hạ được thái bình mà nước nhà được yên ổn.
(Lần lượt xem xét vượng suy; động tĩnh; hợp xung).

Tự thân hoàng đế bói thì lấy hào thế làm chủ tượng, nên được nhật nguyệt lâm, phù; bầy tôi bói đất nước thì lấy hào năm dương làm ngôi tôn kính, kỵ bị tuỳ mộ, không vong, phá. Vua bói nên được ứng hợp thế được ghi lại (trên gỗ) những đức tình về sau; bầy tôi bói thì hào hai nên trì phúc; nghi thức hoàng hậu đăng quang ở dịch đình (掖庭: dịch đình - nhà ở bên cung vua, dành cho phi tần ở và làm việc trong cung vua).
(Bầy tôi bói hào năm là vua, hào hai là hoàng hậu, xưa nói vậy).

Nghiên cứu hào vị: hào sơ là đất nước mình; hào hai là học giả, trí thức; hào ba là quan đứng đầu ở các địa phương; hào bốn là lá chắn ở chín châu; hào thượng là tông miếu, tất cả đều không ưa quỷ mà mừng phúc, mừng yên ổn, vượng tướng mà ghét lay động. Nghiên cứu lục thân: hào quan quỷ là tai hoạ của đất nước; hào phúc là tích trữ của nước nhà, cũng là lương thần (良臣: lương thần - quan tốt lành, thiện lương); hào thê tài là thuế má của đất nước, cũng là hoạn quan, lính gác cổng; hào huynh đệ là thu góp thuế, cũng là tay chân cùng họ (宗支: tông chi); hào phụ mẫu là sông núi, thành quách, cũng là mệnh lệnh của vua.
(Xem xét nó thuộc về chỗ nào, như hào quỷ động ở cung càn thì tây bắc xảy ra biến cố; hào ba tử tôn, quan địa phương được lòng dân).

Vì thế lấy quỷ không vong ở quẻ nội là không có kích động trong nước; hào quỷ phát động ở quẻ ngoại là có ngoại xâm; ở gần hào năm là nên đề phòng nịnh thần; ở hào tam đề phòng quan lại địa phương tàn ác; hoạn (患: hoạn -lo lắng tai hoạ, tật bệnh cũng nghĩa là quan quỷ vậy) ở hào hai thì trí thức ngang ngược; hoạn ở hào sơ thì dân khốn khổ. Bạch hổ quan quỷ không động ở kim hương (thân dậu) tức là không có chiến tranh; huyền vũ quan quỷ không khích động ở thuỷ địa tức là không có lũ lụt; như hào hoả quan quỷ đằng xà, một năm lo lắng về hoả hoạn; hào thổ quan quỷ châu tước một năm lo nạn châu chấu.
(Thông thường quan quỷ động ở quẻ nội, quẻ ngoại thuộc cung nào? Hào nào? Đều nên thận trọng: nhóm mê hoặc nên phòng gian kế; (幹蠱防奸: can cổ phòng gian); cũng nên tham dự vào bói toán ở miếu đền (廟算當豫: miếu toán đương dự)).

Hào tử tôn gặp mộc nên vượng tướng, một năm có thu hoạch; hào thê tài gặp thổ nên thịnh vượng thì cả năm ruộng vườn được mùa; hào phụ mẫu là tỵ ngọ mà hiện ra nên khai mở nền văn minh; hào tử tôn ở thanh long sẽ là học giả uyên bác; hào tử tôn ở bạch hổ thì mạnh mẽ oai phong; hào châu tước động tài giỏi về văn chương đàn hặc; hào huyền vũ động ôi đức hạnh của cung vi (nơi ở của hoàng hậu và cung phi); hào câu trận mừng được quan khuyến dân làm ruộng; hào đằng xà tài năng của một sứ thần.
(Thông thường hào phúc lâm ngũ hành, lục thân, lục thần đều là ứng vào điềm lành, cát tường, cho nên hào phúc lâm huyền vũ động cũng là người con gái đẹp ở hậu cung).

Như hỏi dời đô; giống như dời chỗ ở, nên nương tựa vào quẻ ngoại vượng, hào quan quỷ hưng động là điều kiêng kỵ. Như hỏi việc xây miếu đền, giống như thờ kính thần linh, nên kiêng kỵ tam xung, lục hại, hào quỷ động, quỷ tật, quỷ khắc.
(Dời đô, xây dựng miếu đền đều kiêng kỵ bói được quẻ xung, hối xung, hợp xứ phùng xung. Hào sáu thuộc về "thái miếu", cho nên không thể bị phá, tán; hào quỷ là "thái linh" (太靈: thái linh - chỉ vong linh người cao quý), vì thế không thể có hào quỷ động, quỷ không, quỷ tán, cũng như hào quỷ khắc hào thế).

Tuyển chọn hoàng hậu giống như hôn nhân, hào thê tài ở cung nào thì ứng vào nơi chốn đó.
(Như hào thê tài ở hào giữa, nên được gái nước Tấn; hào thê tài ở quẻ nội nên ứng với quê nhà [本乡: bổn hương]).

Lập thái tử mừng hào tử tôn đắc nhật kiến, nguyệt kiến; sửa chửa chế độ chính sách thì lo ngại (強梁: cường lương - quan ngang ngược) hào quan quỷ động. Nếu bói giữ nước được bao lâu (享國幾何: hưởng quốc kỷ hà) thì lấy tuế làm tuổi, nếu có một năm thì một vị trí là một nguyên, rồi sau cũng một vị trí một nguyên, nhưng phải xem xét vượng suy của bổn cung, hào quỷ động hay tĩnh, mới có thể định được.
(Tuế quản vận nước qua bao năm, như năm kỷ hợi được thái tuế là đinh hợi có vận khí là sáu nguyên, cũng lấy quẻ nội để nghiên cứu sức mạnh quỷ động (鬼動權之: quỷ động quyền chi) mới có thể nghiên cứu).

Nghe lời tiên hiền nói: người dùng chánh nghĩa mà được đất nước, dùng đức hạnh mà bảo vệ đất nước là đạo lý; người dùng sức mạnh để được đất nước, dùng bạo lực để bảo vệ đất nước thì không có đạo lý. Mệnh trời thà đợi bói mới tính hay sao? Vả chăng trời ban học giả có trí tuệ mà nhân ái, người truyền dạy cho học giả cũng nhiều như vậy, có thể sự học do người truyền dạy để thăm dò những ẩn tàng của mệnh chăng? Chỉ nghe lời kể xưa, đầy đủ các nhân cách sáng sủa, người bói nên thận trọng vậy.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#44

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm nay, 02:29

Dịch Mạo - Quyển Năm

43- Quân cơ chương

(Trong phần này hiểu rõ các câu hỏi về lập chỗ trú đóng quân; công hay thủ; thuỷ lục (trên bờ dưới nước); chậm hay nhanh; điều khiển tướng; dùng mưu kế; phong quan chức; dùng gián điệp; thủ hay giao chiến; quy thuận hay đầu hàng; ngày giờ phòng thủ; đề phòng thích khách; nội ứng hoả công; vì quân dụng mà tranh đoạt; yêu cầu viện bang trợ; yêu cầu cứu viện thủ thành đang bị giặc bao vây).

Việc nước lớn nhất chẳng gì bằng việc dùng quân, các vua sáng suốt thời xưa rất cẩn thận, tận hết sức mình để tiếp nhận sự nghiệp trời trao cho, cũng từng mưu tính bằng cỏ thi mà làm việc với bên ngoài. Quan trọng của việc xuất binh: trước tiên phân biệt địch với ta để hình thành thế chủ và khách, chuyên căn cứ theo hào thế và hào ứng. Bàn bạc yên ổn hay nhiễu nhương thì dùng hào phúc và hào quỷ mà đoán; hào thế là mình, hào ứng là địch, mừng hào thế cường mà chế phục hào ứng; hào phúc là quân đội, hào quỷ là giặc, hào phúc nên vượng mà khắc hào quan quỷ, mưu tính của nhà vua (廟算: miếu toán) thắng thua phải thị hiện vậy.
(Bói quân đội, chiến tranh trước tiên phải xem hào thế, hào ứng: thế khắc ứng tức mình thắng; ứng khắc thế tức ta thua; thế ứng tỷ hoà thì cơ hội thắng như nhau; hào thế sanh hào ứng mình khiếp sợ; hào ứng sanh hào thế bên kia nhường nhịn. Lại xem xét hào tử tôn là quân đội của ta: vượng tướng phát động tức là dũng cảm xông pha, còn hưu tù, không vong, phá thì không chuẩn bị lo liệu; hào quỷ là quân giặc: vượng tướng thì bọn xâm lược mạnh, còn hưu tù thì chia rẽ, yếu đuối. Nếu như hào thế bị huỷ hoại, tuy khắc ứng động hào tử tôn, cũng kéo giáp mà trở về; nếu như hào ứng bị huỷ hoại, tuy khắc thế động hào quan quỷ, trái lại cũng cướp được cờ).

Như hỏi dựng trại lập đồn, an nguy căn cứ vào hào quỷ, quẻ nội, quẻ ngoại đều không nên bị mộ, tuyệt, phản phục, không vong, phá; nếu phạm phải thì sở chỉ huy không yên ổn; cả hai tượng không nên bị xung kích, nếu phạm thì lòng binh tướng xa lìa, không thể cư trú.
(Bói nơi cư trú của binh lính, rất kỵ hào quỷ động, e là quân địch cướp đoạt. Rất là ghét quẻ nội phạm thương tổn, cùng với lục xung, trên dưới chia ly không hợp tác).

Hỏi công phá thành: dùng thuỷ binh hay bộ binh, đánh nhau lợi ở nhanh hay chậm, cùng với dùng kế để điều khiển binh tướng, mong muốn chiến thắng, đều lấy hào thế ứng để bói. Nếu triều đình phong chức quan, cũng như chọn người làm do thám, chính là trách nhiệm lớn lao của toàn thể quân đội, tất nhiên nhân từ dũng cảm phải uyển chuyển, nên dùng lễ đối đãi với khách mà phân tích.
(Sáu cái bói đều bàn luận thắng thua, chỉ kỵ hào thế bị phá hoại cùng với hào ứng khắc hào thế, hay tuỳ quan nhập mộ, trợ quỷ thương thân đều chủ quân đội bị mai phục. Duy chỉ dùng người do thám thì không giống nhau: tương tự như uỷ thác, hào ứng không vong, phá, tán, tuyệt thì cơ mưu bị tiết lộ; hào ứng khắc xung hào thế, chính là bọn gian dối phản nghịch. Vua bói trao chức cho tướng thì nguyên tắc cũng giống như chọn người làm do thám. Bởi vì cách dùng binh của thời xưa, chẳng có gì khác hơn là nhờ tướng giỏi, chẳng khó ở dùng do thám, hoặc là thu nhận anh em cốt nhục, hoặc là giao hảo cả với thầy và bạn, vì thế nên dùng lễ đối đãi vậy).

Hỏi nên phòng thủ hay chiến đấu nên dùng thắng thua mà phân biệt địch và ta; hỏi nên cầu hoà giao hảo hay đầu hàng, nên xem hào ứng là trung thần hay là gian tế. Thời gian lợi cho chiến đấu, được thời thì mình có lợi, phòng thủ không nghi ngờ lo lắng, quỷ động thì tới xâm lược. Hào ứng khắc hào thế thì xâm lấn dần dần.
(Gặp hào ứng bị thương tổn hay thế khắc ứng, sẽ thành công trăm trận trăm thắng; còn hào thế bị thương tổn hay hào ứng khắc thế, sẽ xấu hổ vì nhiều lần lắm lượt chịu đựng, run rẫy. Địch dầu hàng mình; mình giao hảo với dịch đều nên xem hào ứng thật giả, tránh gặp hào ứng khắc thế. Nếu như bói quẻ dự định thời gian, như dùng binh vào mùa thu, thì có lợi ở kim trì hào thế; ra quân ở ngày hợi thì có lợi ở hào ứng là hoả vậy).

Đề phòng thích quỷ là thích khách, nó không nên động; hành thích hào ứng là cái mình đâm, mừng nó bị thương tổn.
(Nếu như tuỳ mộ, trợ thương, nên đề phòng đại hành thích, hào quỷ động, hào quỷ khắc thế cũng xấu, chỉ hào quỷ không vong, phá thì tốt. Hành thích hào ứng huỷ hoại số của địch nhân chấm dứt, có thể vui mừng, hoặc hào thế huỷ hoại, tuỳ mộ, trợ thương, dù địch nhân bị tiêu diệt mình cũng bị tiêu diệt theo; hoặc là hào quỷ động mà hào thế vượng, dù địch đâm mình, số mình vẫn chưa dứt. Trong tốt có chừa xấu, trong xấu có chứa tốt, phải phân biện).

Dùng ứng như dùng gián diệp, dùng binh như kế sách, quỷ động tức mưu kế không thàn. Bởi vì binh lương của địch, nên cắt đứt đường vận chuyển, hào tài vượng thì mưu kế sẽ thành.
(Ứng quẻ nội có thể đảm đương, nguyên tắc như dùng gián diệp, chỉ không nên là hào quỷ động vì việc chưa thành mà đã bại trước rồi; dùng binh như sách lược, chuyên chú ở thắng bại, nhưng lửa và nước là tai hoạ của dân lớn nhất, cũng không nên có hào quỷ dộng, hoặc là mưu kế bị tiết lộ mà lưu hoạ).

Đại khái hoặc vì giặc cướp có đất nên dùng hào ứng; giặc cướp không có đất nên dùng hào quỷ. Vì vậy cả hai binh đội cư xử, đón tiếp nhau, nguyên tắc khắc sanh của thế ứng, bốn phương tiêu diệt hết, nên so sánh mạnh yếu của hào quỷ với hào phúc.
(Nếu như nương nhờ thành quách, thành cái thế hai binh đội, tức là phải xem xét hào thế, hào ứng sanh khắc; hư thật; để mà biết thắng bại. Như giặc cướp di chuyển bất định, nhất định ngoảnh về bốn hướng mà tiêu diệt, nên cần luận hào phúc hào quỷ mạnh yếu).

Phát tán hịch để tìm cứu viện, hào ứng bị thương tật tức là không có cứu viện; khắc hào thế tức là không tuân theo phép tắc. Hào thượng yêu cầu giúp đỡ, hào sáu xung hào năm thì nghi hoặc, tượng vua xung khắc hào thế, tức là không đồng ý cứu giúp. Đồng bạn cứu trợ lẫn nhau tức là như dùng quân đội.
(Hào ứng không vong, phá, tán tức không có ý niệm cứu tế vội vàng; hào ứng khắc hào thế, chẳng những chỉ không giúp đỡ mà còn có gian dối. Hào năm không vong, phá, tán, tuyệt gọi là hào năm nghi ngờ, bởi vì hào năm là vua, khắc xung hào thế e lời nói không thuận tai mà không chấp nhận. Họ khốn đốn thì mình cứu giúp, đoán như dùng binh.

Có nỗi lo thành trì bị công phá nên bói, hào quỷ động, quỷ khắc thì khốn đốn. Bói khi nào giặc đến, hào ứng khắc, hào ứng động thì nhanh. Bói quân đội bị khốn đốn, hào thế mộ, hay hào thế bị thương tổn tức là hung xấu.
(Nếu như lo lằng thành bị công phá, thì không câu nệ hào phụ mẫu, trái lại chuyên chú vào vào quan quỷ, phát động mà khắc hào thế tức là nguy).

Cho nên binh pháp không giống nhau, phép tắc mẫu mực cũng không giống nhau, đại khái chủ soái không vong nên bộ chỉ huy bị tổn thất; thủ lãnh bọn giặc không vong nên bọn giặc bỏ trốn. Hào động sanh mình mừng có viện binh; hào động khắc mình, sợ nó giúp kẻ thù. Giống như trường hợp bên kia thua nhưng không thể thắng nó bởi vì nó có được sanh phù; mình tuy thương tổn nhưng không thể hại mình, vì mình được phù trợ. Hoàn toàn thịnh vượng trở thành lụn bại; sắp tan nát trở thành khởi sắc, thăng tiến thoái lui, lặp đi lặp lại đều tồn tại nơi thần linh vậy.
(Chủ soái là hào thế; thủ lãnh giặc là hào ứng, thịnh vượng trở thành lụn bại là vì hào động xung; sắp tan nát mà khởi sắc là vì đang tuyệt mà gặp sanh).

Tuy quỷ không thể được thời thế, e nó hại , không được gặp trường sanh e là nó khó diệt, cũng không thể lâm thai dưỡng, e là nó sẽ sắp hưng thịnh, không thể ám động cùng với phục quỷ khắc thế, e sợ nó ám sát, Không thể trên dưới khắc thế, e rằng nó nội ứng ngoại thông.
(Thượng hạ quỷ khắc hào thế tức là nội ngoại quỷ vậy).

Muốn thấy bọn giặc sử dụng sách lược gì, dùng binh như thế nào, đường tiến như thế nào, ta sẽ dùng cách gì để ứng phó, dùng cách gì để khắc, dùng cách gì để thủ, đều nghiệm theo ngũ hành, bát quái, tiêu tức. Cho nên quỷ động ở quẻ nội nên đề phòng âm mưu chia rẽ; quỷ động ở quẻ ngoại nên lo dân gian tranh đấu. Quỷ động ở cung càn binh núp ở miếu đền; quan động ở quẻ tốn ẩn giấu tung tích ở rừng; quỷ ở quẻ khôn nên đề phòng thu nạp hàng binh; quỷ ở quẻ chấn biểu thị sự nổi loạn; quẻ cấn khốn đốn ở núi đồi; quẻ ly lo sợ phố chợ bị công kích; quẻ đoài không tin địch thương thuyết thành thật; quẻ khảm không nghe lời nó dụ dỗ.
(Đây là nói theo bát quái thủ dụng, bởi vì chỗ quỷ hiện tức là mưu kế của địch, quẻ khôn thuận theo quỷ động nó đầu hàng chẳng phải thật, quẻ chấn nên chặn quỷ động tức nổi loạn sẽ thay đổi; đoài là miệng, là vui thích nên lời thương thuyết tất nhiên là giả dối; khảm là tai, là hãm khuyết, nên lời thấp kém ắt là có mưu mô vậy. Phần còn lại cũng suy theo đó).

Hào hoả quỷ động: chẳng phải cướp thành mà là định phóng hoả; hào thuỷ quỷ động: chẳng phải dìm chết mà mưu kế ở túi cát; hào kim là hung xấu vì tên bay đạn lạc; hào mộc là keo dán thuyền gian trá; khoản là trận chiến ở đồng bằng; nổi dậy ở quẻ ly từ phương nam đến; động ở quẻ khảm nổi lên từ phương bắc; quẻ cấn, quẻ khôn địch xuất phát từ núi, đất liền; quẻ chấn, quẻ tốn giặc cướp từ nơi rừng rậm; quẻ càn thì dùng già yếu, suy nhược để lường gạt lòng quân sĩ của ta; đoài thì dùng trai gái mê hoặc ý chí quân binh của ta.
(Lại nói theo nghĩa của bát quái với ngũ hành, hoặc là nói rằng mộc có binh lính thiếu kinh nghiệm; thổ có hầm hố. Chiến lược tiến thoái của địch chỉ nên dùng cái tâm sâu sắc mà đo lường tình trạng của quan quỷ, chọn tượng chọn nghĩa có thể đạt được vậy).

Hào thuỷ tử tôn động tức là lợi ở thuỷ chiến; hào hoả phúc động tức là lợi ở hoả công; hào thổ thì thắng bằng đạn pháo; hào kim thì thắng bằng cung tên; hào mộc thì thắng bằng thuyền xe. Tử tôn động ở cung khôn có quân đồn trú giúp đỡ lẫn nhau; phúc động ở quẻ chấn, trai tráng đến gia nhập; càn là sách lược của người lớn tuổi; cấn là kế hoạch bí mật của thiếu niên; khảm: bên ngoài làm như yếu đuối; ly: bên trong coi như trống rỗng; đoài: nguỵ trang bằng lời hèn hạ, thấp kém; tốn: nên dùng sức mạnh mà đuổi theo, đều là do hào tử tôn phát động mà thủ thắng.
(Bói về chiến tranh hào phúc lâm đều là tốt, hoặc là tuỳ theo ngũ hành, hoặc là hiện ở cung nào, mỗi thứ đều suy theo hình tượng).

Tuy nhiên hào phụ mẫu là mưu kế của ta và địch; hào thê tài là binh giáp của ta và địch; hào huynh đệ là mai phục của ta và địch; hào quan quỷ là bọn giặc cướp; hào tử tôn là tướng sĩ. Phải xem xét sanh khắc, suy vượng để mà phân tốt xấu vậy.
(Bói về chiến tranh thì lục thân thì phân như vậy; hào phụ mẫu là kế sách cũng là quân sư).

Vì thế quỷ lâm vào cát thần dù tốt cũng không tốt; phúc ở vào hung sát dù hung cũng không hung. Lại thêm có trường hợp hào tử tôn hoá quan quỷ là phản bội; hào quan quỷ hoá tử tôn là đầu hàng; quan quỷ giảm hay khởi tuỳ theo phi phục; tử tôn ở nội ngoại thường thi đua chiến đấu thường có chiến lợi phẩm. Hào dương là chánh binh; hào âm là kỳ binh (奇兵: quân đội đặc cách, chuyên đánh bất ngờ); tử tôn hay quan quỷ đều có ưu điểm của riêng mình. Hợp thì gắn kết với nhau; xung tức là sẽ cắt đứt; tĩnh thì nên thủ; động thì nên công. Thường nghe "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên";. Đại để thuận theo bói cỏ thi, chí nguyện của quỷ thần, thích thẳng thắn mà ghét ẩn khúc, giúp thiện lương mà dẹp bạo ngược, người bói nên noi gương.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#45

FM_daubac



 

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9908 Bài viết:
  • 6633 thanks

 

Gửi vào Hôm nay, 04:53

44- Thiên thời chương

(Qua đây sẽ rõ sáu nghi vấn về bói sấm sét, bói gió, bói sương mù, bói tuyết, bói nước, bói băng).

Bói nắng mưa, không thể tự thực hiện một cách tuỳ tiện mà bất kính quỷ thần, như nắng quá nên cầu mưa, mưa dầm nên mong tạnh, thấy dân thống khổ, thánh hiền đến báo cho biết vậy.

Thường nếu bói cần phải phân chia tình trạng. Bói tạnh ráo, phương pháp là lấy tử tôn làm nhật nguyệt, bởi nhật nguyệt chiếu đến khắp vật trân quý để thành tựu, cho nên chọn tài đầu tiên hoặc là đang khi phát động, hiện ra vượng tướng, trị nhật nguyệt tức là trời sắp tạnh vậy.
(Phân chia tình trạng tức là ý mong muốn trời tạnh ráo, hay ý mong muốn trời mưa. Tạnh thì lấy hào tử tôn làm hào dụng, mưa thì lấy hào phụ mẫu làm hào dụng là nguyên tắc của lý luận về dịch).

Người bói mưa thì nguyên tắc lấy hào phụ mẫu làm trời đất, bởi trời đất đóng (閉: bế) nên nhật nguyệt bị che lấp (掩: yểm), phụ mẫu động thì tử tôn bị thương tổn, cho nên chọn kỵ thần của tử tôn. Hào phụ mẫu vượng động thì mưa nhanh; suy động thì mưa nhỏ; xung tán sắp mưa lại tạnh, ám động trời sắp mưa, nguyệt phá thì không mưa, hoá khắc thì sắp ngưng, hoá tử tôn trong mưa có mặt trời, hay mặt trăng, hoá huynh đệ sau mưa có gió nỗi lên, hoá quan quỷ thì mưa và sấm sét cùng lúc, hoá phụ mẫu thì mưa càng lâu.
(Mong cầu trời tạnh thì quan sát hào tử tôn, cũng suy luận giống như vậy, không ngoài vượng suy, động tĩnh, hợp xung mà đoán vậy).

Người xưa lấy hào thuỷ làm mưa, hào hoả làm mặt trời, hào âm là tăm tối, hào dương là trong sáng, hào thế là đất, hào ứng là trời, nếu không hoàn hảo thì phải quan sát hào tử tôn, phụ mẫu lâm thuỷ hoả, âm dương, thế ứng rồi mới quyết định. Nếu như chấp theo học thuyết này thì chắc là mùa hạ thường quang đãng, mùa đông thì thường luôn mưa; tuần giáp thân ngọ không vong vậy không tạnh ráo; giáp dần thì tý không vong không có mưa hay sao? Vì thế mùa hạ mà hào hoả phụ mẫu động thì mưa đến; mùa đông hào thuỷ tử tôn thì mặt trời xuất hiện, không thể nào mê lầm, nghi hoặc vậy.
(Đây là nói về quan trọng của hào phụ mẫu, tử tôn, không thể câu nệ vào thuỷ hoả, âm dương. Như tháng ngọ ngày tân mão bói trời quang đãng, được hoả trạch khuê biến hoả thuỷ vị tế, mưa đến ngày kỷ dậu mới tạnh có thể làm kiểu mẫu vậy).

Tuy nói rằng phụ mẫu là mưa, tử tôn là quang đãng, mà có nguyên tắc hợp xung của tượng quẻ thì không cố chấp vào hai hào đó. Cho nên được quẻ càn ly, mặt trời, mặt trắng chiếu chín phương trời; được quẻ khảm đoài, mưa dầm khắp bốn phương, đấy là theo quẻ đoán vậy. Quẻ lục hợp thì mây ùn đến mà mưa rơi; quẻ lục xung thì trời âm u sẽ tan mà mặt trời hiện ra; xung trước hợp sau: ngày trong sáng đêm mưa; trước hợp sau xung: sớm âm u mà trưa thì trong sáng, đấy là đoán theo quẻ xung hợp vậy. Cho nên đoán theo xung hợp thì hào dụng thần thứ yếu; còn đoán theo tượng quẻ thì hợp xung cũng thứ yếu không thể không biết điều này.
(Đây là học thuyết xem trọng về tượng quẻ cùng với xung hợp, hào phụ mẫu, tử tôn không thể chấp. Như tháng thân ngày giáp dần bói mưa được quẻ hoả sơn lữ, ngày kế mưa lớn, quẻ tuy không có hào phụ mẫu bởi vì quẻ lục hợp mà ngày ất mão là phụ mẫu nên mưa vậy).

Thiên địa quỷ thần gọi là sấm sét dùng tượng quan quỷ; thiên địa hô hấp là gió mây dùng tượng huynh đệ; nuôi dưỡng ta là trời đất dùng tượng phụ mẫu; nhật nguyệt chăm sóc hoa quả, thảo mộc được sanh trưởng, dùng tượng tử tôn; tiếp nhận âm hối của thiên địa là cầu vồng, dùng tượng thê tài.
(Quỷ thần là sấm sét, cũng là mưa đá; huynh đệ là gió mây cũng là cát bụi).

Bói có gió hay không, chỉ theo suy vượng của hào huynh đệ; bói gió thuận nghịch nên theo sanh khắc của huynh đệ. Sương mù là hào huynh đệ, tuyết là hào phụ mẫu, mừng vì có những hào này; e dè vì không có, cùng thay thế việc khác, lại xét theo ý nghĩa.
(Như tháng tý ngày bính thân, khách đến lo trời có tuyết được quẻ thiên lôi vô vọng biến thiên địa bĩ, ngày đó không tuyết, khách đến. Lại bói hành nhân, hào ứng khắc thế cho nên đến. Nếu mà lấy hào phụ mẫu động làm tuyết thì mê lầm. Đại để dụng thần tại ý nghĩ của người bói thì quan trọng).

Người di chuyển bằng thuyền thường hay bói băng và nước, nếu như hào phụ mẫu vượng động, mặt nước bằng phẳng nên đi xa; nếu như hào phụ mẫu phá hay không vong gặp băng liên kết không thể tiến tới được, bởi thuyền xe lấy hào phụ mẫu làm hào dụng.
(Băng thuỷ không cản trở thuyền dễ tiến; băng thuỷ bị ngăn trở thuyền khó tiến, cho nên ngược lại lấy hào phụ mẫu làm hào dụng. Như bói hạn hán có hại cho ruộng, hay mưa lâu hại tằm thì lấy hào thê tài, tử tôn làm hào dụng. Còn lại cũng suy theo đó).

Lạy trời ngày nào mưa, hào phụ mẫu phùng sanh gặp xung là ngày ứng kỳ vậy; ngày nào trời trong sáng hào tử tôn nên gặp thần. Nguyên tắc bói hoặc là theo tháng; hoặc là theo ngày; hoặc là theo tuần; hoặc là theo giờ không thể lẫn lộn được. Như hào tỵ tử tôn, ngày tỵ trong sáng mà ngày sau ngày tỵ mưa vậy, cho nên phải phân ra mà hỏi cho rõ ràng.

(Đang hiện gọi can chi là trị. Như năm canh thìn, cổ (瞽: cổ - Các nhạc quan ngày xưa dùng những người mù nên cũng gọi là cổ) bắt đầu du hành võ lâm, mưa mốc không ngừng, tháng ngọ ngày giáp thân nhìn lại xem xét lo cho mùa màng của dân tình, sai người bói trời tạnh được quẻ phong sơn tiệm biến phong thuỷ hoán, hào thân tử tôn động, trong ngày đó không tạnh, phải đến ngày bính thân tử tôn đang hiện nên mới tạnh. Tuy nhiên quẻ nội không có hào thê tài, đến mùa thu thành nạn đói, bởi nó thuộc ý niệm bói trời tạnh, ý niệm ở thu thành, cho nên không có hào thê tài cũng ứng nghiệm vậy. Đạo trời mơ hồ, nắng mưa chẳng đều, thường khi ở hà bắc thì trong sáng mà ở hà nam thì tối tăm, vì vậy nơi bói ứng với ở vùng đất bói, nơi cầu đảo ứng với cầu nguyện, phải phân ra mà hỏi cho rõ).


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.






Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

3 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |