Ai tỏ Địa lý nước Nam ?
Chân truyền “Thánh” ấy, danh rền Tả Ao.
Tục danh Nguyễn Đức, tên Huyên,
Tả Ao làng đó, huyện phường Nghi Xuân.
Nhà nghèo, cha mất khổ thân;
Mẹ lòa, anh cũng xơ bần xác luôn.
Thương mẹ, mắt đẫm "mưa tuôn",
Ngồi hiên tựa gió, quyết tìm thuốc thang.
Đêm ngày Trời khấn, van than:
Tìm ra Thầy thuốc, chữa lành mẫu thân.
Trời như thấu tỏ tình chân,
Phú Thạch nơi ấy, Thầy Tàu nổi danh.
Nhưng mà TIỀN chẳng bên mình,
“Hoa Đà” hiện đó, giận lòng tím gan.
Phận con, bất Hiếu rõ ràng;
Cho nên vứt hết dọc ngang thói đời.
Liều thân tự tới Thầy chơi,
Kể cho đầu cuối sự tình Mẹ, Cha.
Xin Thầy nghề thuốc “bảo gia”,
Nguyện thân khuyển mã, cho cha mẹ nhờ.
Thầy Tàu nghe tỏ trước sau,
Xem Huyên cũng hẳn Hiếu nhân có lòng.
Cho cơm, sai vặt việc trong;
Coi như ở đợ, thử lòng sắt son.
Thoăn thoắt đã bốn tháng tròn,
Xét xem đã tỏ, đức người Trí cao.
Khôn ngoan, lễ phép ra vào;
Tuy phận nghèo khó, tế - thanh có thừa.
Thế nên dặn bảo đó đây
Giao cho tán thuốc, dược viên chỉ bày.
Dù xin chỉ bảo nhiều thay,
Chỉ hẹn, chẳng bảo dạy răn thêm gì.
Như người khác, ắt bỏ đi;
Huyên đây gan sắt, lòng chì, vững yên.
Hai năm gian khó bao nhiêu,
Mà sao Thầy bỗng, đòi về cố hương.
Thầy đi, thì dắt con đi;
Thiên sơn vạn thủy, nguyện đi theo cùng.
Trí này, quả rất lạ lùng,
Khen người hiếm có, Thầy ưng trong lòng.
Tới kỳ Huyên cũng ngược dòng,
Về xin phép mẹ, nhờ anh giúp mình:
Anh ơi ! Hiếu nghĩa trọng khinh,
Ngặt vì em muốn tỏ tinh phép Thầy,
Mong anh, thương mẹ đủ đầy,
Cả phần em nữa, trong ngày em đi.
Quyết lòng, can đảm, lệ ghì;
Học cho thành nghệ, quyết vì độ nhân.
Gió lạnh thổi gáy lạnh chân,
Trời Nam khuất bóng, chim rền tiếng thương.
Quê Thầy, lạ nước, lạ nương;
Lạ người, lạ xứ, lạ đường vào ra.
Thân quyen không một bóng tà,
Ngữ ngôn chẳng tỏ, phong thanh chẳng tường.
Khó khăn đâu dễ cản đường,
Trí Huyên đã quyết, rồi sau cũng rành.
Thầy cười, chấp thuận, dạy răn;
Thuốc phương chỉ bảo, pháp đường chỉ tay.
Nức dạ Huyên tỏ lòng ngay,
Ngày đêm đem hết trí say học hành.
Chẳng lâu, chữa bệnh người đau;
“Mát tay” khỏi lẹ, có phần nhỉnh hơn.
Thầy e trò ấy “quá khôn”,
Tạm thử dấu bớt, những đường yếu chân.
Huyên hiểu, cũng phải lặng câm;
Tự mò tự mẫm, tự hành tự chiêm.
“Bí mật” tỏ sáng, dĩ nhiên;
Thầy càng kinh ngạc, tất liền chỉ ngay.
Toàn tâm toàn ý học Thầy,
Trăm thang nghìn thuốc, bài hay nắm lòng.
Quảng Đông, danh ấy nổi mau.
Thầy Tàu cũng phải gật đầu khen “tinh”.
Tự lòng xét rõ lý tình,
Xin Thầy, con muốn về gần mẫu thân.
Vì mẹ con mới dấn thân,
Học Thầy, được dạy, còn thầm khắc ơn.
Chỉ nay xin phép đền ơn,
Bệnh mẹ mà khỏi, con lại Thầy ngay.
Nguyên hầu sáng tối suốt ngày,
Tới Thầy trăm tuổi, lo yên giấc hồng.
Tuyệt nhiên, không dám kể công.
Ơn Thầy con mãi, muôn Đông con thờ.
Đồng thuận, Thầy chỉ hết cho;
Cách chi trị được, thuộc gì tất xong.
Hai viên diệu dược linh long,
Trao tay dặn hãy dùng xong, khỏi liền.
Y lời, hồi xứ trị liền;
Tài hay, thuốc diệu, mắt liền sáng ra.
Mẹ yêu, thuở ấy mù lòa;
Mà nay thấy tỏ, thấy tường con yêu.
Khóc vui hạnh phúc bao nhiêu;
Khổ công chịu đắng, có ngày được ân.
Sửa bởi HieuHcmVN: 26/05/2025 - 02:43