Jump to content

Advertisements




KINH DỊCH có gì hay ?


96 replies to this topic

#46 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 310 Bài viết:
  • 148 thanks

Gửi vào 29/05/2025 - 21:38

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

JavaC, on 29/05/2025 - 21:32, said:

Thiên Hỏa Đồng Nhân

同人于野, 亨.利涉大川.利君子貞.

Đồng nhân vu dã, hanh. Lợi thiệp đại xuyên. Lợi quân tử trinh.


Đồng Nhân:
Thượng Càn(trời), hạ Ly(mặt trời), hàm ý nếu muốn làm việc, cộng tác với người thì mọi chuyện cần bàn luận với nhau mình bạch rõ ràng tự như mặt trời tảo ánh sáng dưới trời[không bị che khuất, dấm diếm gì cả], tất cả suy nghĩ, ý kiến của mình cần được nói ra

Hay đấy bác, bác lãm rõ hết những quẻ em luận trên đi, như thế thì mọi người đều được lợi ích.



#47 JavaC

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 403 Bài viết:
  • 350 thanks

Gửi vào 29/05/2025 - 22:41

Phong Thiên Tiểu Súc


小 畜 . 亨 . 密 雲 不 雨 . 自 我 西 郊 .

Tiểu súc: Hanh. Mật vân bất vũ, tự ngã Tây giao.



Phong thiên tiểu súc
Quẻ này có nhiều lời khuyên của thánh cho cuộc sống: ví dụ
1- Hạ càn(cái đầu, ý nghĩ), thượng tốn(lời nói), tiểu súc ngăn lại hàm ý đừng nói hết những suy nghĩ của mình
2- Tiểu Súc, thượng tốn(khó khăn, trở ngại,...), hạ càn(quân tử) hàm ý quân tử đang mắc kẹt, thì cần phải trau dồi kiến thức, kinh tế,... để vượt qua được trở ngại
X: Còn nữa(nhưng do quẻ tiểu súc, nên không thể nói hết suy nghĩ)

Sửa bởi JavaC: 29/05/2025 - 23:08


Thanked by 1 Member:

#48 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 310 Bài viết:
  • 148 thanks

Gửi vào 30/05/2025 - 02:04

Hỏa Thủy Vị Tế


未濟: 亨.小狐汔濟, 濡其尾, 无攸利.

Vị tế: Hanh. Tiểu hồ ngật tế, nhu kì vĩ, vô du lợi.


“Tế” tức là tế độ (cứu giúp), là xong (hoàn thành), cũng có nghĩa là qua sông. “Vị” nghĩa là chưa. Việc gì chưa xong, sự cứu giúp chưa xuất hiện, một dòng sông chưa vượt qua ấy đều là thời của “Vị tế”.

Kinh nói: Vị tế, hanh.

“Vị tế” nghĩa là chưa xong, chưa thành, là việc đang làm hãy còn dang dở. Đã chưa thành ắt phải còn chướng ngại, hà cớ gì Thánh nhân lại nói là “hanh” thông ? Vì việc ấy vẫn đang cố gắng để hoàn thành nên “hanh”; vì việc ấy đã rõ ràng đích đến, mục tiêu cụ thể có thể đo lường được nên “hanh”; vì cách thức thực hiện đã tỏ, hướng đi đã định nên “hanh”; Vậy điều gì khiến cho việc đang làm chưa thành tựu được ? Do không đúng thời điểm nên con đường đã chọn bỗng xuất hiện chướng ngại và chông gai; cái chướng ngại ấy sẽ không hiện hữu nếu chọn làm việc đó vào thời điểm khác, khi điều kiện đầy đủ hơn.

Giống như cây cầu nâng bắc qua sông lớn, nơi có tàu bè qua lại tấp nập, vào lúc bình thường thì xe qua người lại đều không có vấn đề gì cả, bỗng đâu lúc ấy có tàu lớn, chiều cao quá khổ đi tới, khiến cho cầu nâng phải tách nhịp làm hai, để trống khoảng giữa cho tàu ấy vượt qua, vì vậy mà xe cộ hai bên cầu phải dừng lại chờ đợi, sự chờ đợi ấy chính là lý do khiến sự việc qua cầu chưa thể hoàn thành, đó là “chướng ngại” thứ nhất.

Như tàu đi biển muốn vào bờ giữa đêm đen, tầm nhìn hạn chế, giả như thiếu ánh sáng hải đăng thì không biết lối biết phương mà tiến mà đi, ấy là do cảnh đêm nên sinh ra chướng ngại như vậy mà cần có hải đăng tương trợ, chứ nếu là ban ngày thì mọi việc vẫn diễn ra tốt đẹp, không cần sự trợ giúp của hải đăng, đó là “chướng ngại” thứ hai.

Cả hai thứ gọi là “chướng ngại” này nếu kiên nhẫn chờ đợi và nhận định sáng suốt, ắt thì tức thời việc đạt sự thành một cách dễ dàng, cho nên tuy chưa thành tựu, xong chướng ngại chẳng phải cứ cưỡng cầu cố gắng làm liền mà được, chỉ có thể chú ý căn chỉnh cho phù hợp với các điều kiện cần đủ để thực hiện mà thôi, do đó dù việc chưa thành, Thánh nhân vẫn nói là “hanh” thông.

Kinh nói: Tiểu hồ ngật tế, nhu kì vĩ, vô du lợi.

“Tiều hồ” là chú cáo nhỏ, “ngật” có nghĩa là chỗ nước cạn, cũng có nghĩa là gần tới; “tế” nghĩa là qua sông. “Nhu” nghĩa là thấm ướt, “kì vĩ” là cái đuôi của nó. “Vô” nghìa là chẳng có; “du” nghĩa là nơi, là chốn, cũng là dáng nước chảy êm đềm; “lợi” nghĩa là có ích cho cái gì, việc gì.

Toàn câu Kinh trên nghĩa là: chú cáo nhỏ lội qua khúc sông cạn, khi gần tới nơi thì bỗng đâu cái đuôi nó bị ướt, nhìn quanh khắp nơi chẳng có chỗ nào nước chảy êm đềm để mà giúp cho việc đi qua dễ dàng cả.

Cáo là loài vật biết bơi, khi bơi thì đuôi chúng thường vểnh lên như một cái phao giúp nổi dễ dàng hơn, khi đi thì đuôi chúng sẽ gần như song song với mặt đất, còn khi chạy săn mồi thì đuôi chúng thẳng, lông xòe giúp tăng lực cản không khí hỗ trợ chuyển hướng nhanh gấp. Do cái đuôi cáo có nhiều tác dụng linh hoạt và quan trọng cho sự tồn tại của nó như vậy, nên Thánh nhân chọn lấy cái đuôi (vĩ) làm tượng cho sự nhận ra “chướng ngại” mà thời “Vị tế” sinh ra. Cái đuôi cáo là một bộ phận quan trọng của con cáo; như sự kiên nhẫn, sự linh hoạt nhạy bén chọn lựa thời cơ là những đức tính quan trọng của người Quân tử khi hành động làm việc. Thành cũng nhờ nó, mà phát hiện ra “chướng” cũng nhờ nó nhận biết ra. Cho nên, Kinh nói: nhu kì vĩ – cái đuôi bị ướt, là ý này đây.

Lại cáo là giống ăn tạp nên có thể kiếm cả động vật trên cạn lẫn dưới nước để làm thức ăn, nay còn là cáo nhỏ cáo con lại phải lội qua sông để rồi mắc kẹt, thế thì hoặc vì lạc tổ lạc mẹ, hoặc là đói khát nên liều thân qua bờ để kiếm ăn, cả hai tình cảnh ấy đều thể hiện sự khó khăn, vất vả cả. Chẳng khác nào đưa bé tuổi nhỏ phải lăn lộn sớm ngoài đời nhưng không có người lớn theo cùng dịu dắt, rất là cực nhọc, đầu đội nón tẹt, mặt mày đen nhẻm, chân dép chân đất, đứng ở ngã ba ngã tư đèn đỏ, cầm theo sấp vé xố, hễ đèn đỏ xe dừng lại thì chạy tới chìa vé số ra, chìa nón xin tiền, đầu vừa gật, chân vừa đi, rất là đáng thương xót. Tuy là mắc kẹt, nhưng nước lên thì nước sẽ rút, sông đầy thì sông lại cạn, trước do cạn nên liều qua, thì nay nước lên phải tìm cách bảo toàn tính mạng mà chờ đợi thời điểm phù hợp sức mình thì ắt sẽ qua được thôi. Vậy lòng sông lúc cạn lúc đầy, ý chỉ thời kỳ lựa chọn không đúng, hãy căn chỉnh cho chính xác thì tự khắc sẽ được “hanh” thông.

Thánh nhân lấy tượng loài cáo vốn là vật tinh anh, thông minh để chỉ cho người Quân tử khi đang có việc dang dở, cần phải nhanh nhậy nhận biết những thay đổi xung quanh, phải lường trước những khó khăn bất ngờ có thể xảy đến, khi đặt chân bước trên con đường nào nhiều rủi ro nguy hiểm, thì phải tính tới lúc xấu nhất mà dành sẵn cái đường lui cho mình, giúp tính mạng được bảo toàn, lại đạt được mục đích mong muốn. Tuy nhiên, tuyệt đối không ỷ lại mình lanh lợi mà chủ quan vọng động, ắt sẽ gặp phải điều tai ương bất chợt xảy ra.

Hễ khởi sự thì sẽ luôn luôn có những điềm báo tế nhị xuất hiện trước đó, việc càng hệ trọng thì điềm báo càng sáng tỏ rõ ràng , như đun nước sắp sôi thì tiếng reo vang tới, trái cây sắp chín thì hương thoảng bay bay , nhóm lửa sắp thành thì khói tỏa bốc lên, mây đen gió lộng thì cuồng phong đang tới, chim bay tứ ngả là gió lớn đang qua v..v cứ thế, người Quân tử phải có sự nhạy bén và sức mạnh của loài cáo trưởng thành, chớ để mình rơi vào cảnh loài cáo nhỏ lạc lối mà “tiến thoái lưỡng nan”. Phải nên cảnh giác, nhạy bén, tỉnh táo và cẩn trọng trước khi khởi sự làm bất kỳ việc gì, ấy là chỗ Thánh nhân thương xót trí mờ, mà dặn dò ân cần chu đáo.

Sửa bởi HieuHcmVN: 30/05/2025 - 02:33


#49 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 310 Bài viết:
  • 148 thanks

Gửi vào 30/05/2025 - 11:41

Danh Lợi tiền tài cuốn bay Tâm Đức,
Việc chưa thành cũng tại bởi lòng Tham.
Dẫu cho của cải đang chất đầy giang san,
Một cơn gió Nghiệp sẽ cuốn bay đi hết.

Giàu sang vững bền là bởi Tâm, bởi Đức
Chớ không phải nhờ lừa lọc dối gian,
Phép Tiên Thánh để cứu độ nhân gian,
Nào đâu hàng hóa mà đem ra trao đổi.

Lấy Đạo pháp mà mua danh bán lợi,
Trời nào dung, mà Đất cũng không tha.
Ngồi chờ xem quả báo nhãn tiền mà,
Lúc ấy nhớ Trời Phật thì đã trễ.

Cho nên Thánh nhân xiết bao lần dặn kỹ,
Gắng giữ hằng tâm và gắng luyện thành Tài.
Đem Tri thức mà giúp Nước giúp Đời,
Sau sẽ đồng cùng về nơi Tiên Thánh.

Sửa bởi HieuHcmVN: 30/05/2025 - 11:42


#50 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 310 Bài viết:
  • 148 thanks

Gửi vào 30/05/2025 - 15:13

Thủy Hỏa Ký Tế


既濟: 亨小, 利貞. 初吉, 終亂

Ký Tế: Hanh tiểu (hay là “tiểu hanh” - 小亨), lợi trinh. Sơ cát, chung loạn


“Ký” có nghĩa là rồi, là đã. “Tế” thì cũng như nói ở trên, tức là tế độ (cứu giúp), là xong (hoàn thành). "Ký tế" nghĩa là việc đã thành, việc đã xong.

Rất nhiều bản in, sách luận giải Kinh Dịch cả Hán lẫn Việt, từ xưa tới nay, đều ghi là “hanh tiểu”, mặc dù rõ ràng về mặt ngữ nghĩa nó “tối”, lại sai ngữ pháp phổ thông (Thánh nhân làm Dịch để cứu đời, để cứu người có Đức, thế mà người hiểu không được thì còn tác dụng gì nữa); nhưng vì sự tôn trọng với tiền nhân, lại sợ do mình không rõ ẩn ý của câu đó chứ không phải tại lời văn và cũng như sự khiêm hạ của người học giải nên chẳng giám thay đổi, xét ở khía cạnh này thì cũng thật đáng tán thán rồi ! Nhờ tấm lòng kính ngưỡng chẳng dám “mạo phạm” này mà Kinh Dịch dù trải qua ngàn năm, tới nay văn bản ngữ nghĩa vẫn còn giữ nguyên được giá trị.

Nay nhân dịp tốt đẹp này, em đính chính lại và cũng giải thích tại sao cần sửa đổi như thế luôn để cho mọi người thông tỏ, ai thấy hợp lý và đúng với thực tế thì tiếp nhận (vì thực tế, thực tiễn mới là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm, khẳng định lý thuyết này hay kia, đâu mới là chân lý), chẳng đúng thì y như cũ, đó là quyền tự do trong học thuật. Cũng chính vì để thể hiện sự tôn trọng ấy, em chỉ chua thêm vào văn bản âm Hán, chứ không sửa đổi ở chánh văn, không phải là em sợ sai, mà là em muốn y theo tiền nhân mà giữ nguyên Lễ thức, còn ngữ nghĩa thì tất nhiên sẽ làm sáng tỏ ở phần tự luận. Kính báo để mọi người được rõ.


Kinh nói: Ký tế, tiểu hanh, lợi trinh.

Trên “Vị tế” là chưa thành thì lại “Hanh”, dưới “Ký tế” đã thành lại chỉ là “tiểu hanh”, rõ thật là vô lý ? Chắc vì đây mà các vị tiền bối do dự ! Lại sai thì chỗ này chỗ kia phải sai, đây chỉ sai có mỗi một chỗ này thì lại tăng thêm phần ngập ngừng. Nhưng lý do vì sao Thánh nhân nói “hanh” khi việc chưa thành, thì em đã làm sáng tỏ ở trên kia rồi, nên nay em lần nữa cần phải phân tích rõ tại sao việc đã thành rồi mà Thánh nhân chỉ cho là “tiểu hanh” thôi nhỉ ?

Người đã khởi sự thì mong cho việc chóng thành, việc một khi đã thành thì lòng tin vào bản thân nó có, đã thành việc này thì phải làm việc khác, tự tin trong mình sẵn đây thì việc khác phải có mục tiêu lớn hơn to hơn thì mới đúng là không ngừng phát triển, mục tiêu nhỏ được rồi thì phải theo đuổi mục tiêu lớn, có tiền mua Tiên cũng được nên việc kiếm tiền phải đặt lên trước tiên, kiếm được 1 triệu phải tìm cách kiểm sao được 1 tỷ, rồi 10 tỷ, rồi 100 tỷ v…v rồi cho tới Tỷ tỷ đô la thì càng tốt. Có vợ đẹp xinh rồi, thì phải có em út chân dài phục vụ giải khuây vì lúc vợ bầu vợ bí nhan sắc suy tàn, tiền mình có trong tay, lẽ nào lại chịu “ăn” của tàn của tệ, cứ thế được voi đòi Tiên, được một đòi hai, được ít đòi nhiều v…v đòi đến khi nào mà hết đời thì mới thôi, đôi khi còn nằm trên giường bệnh mà miệng vẫn không ngừng than trách và tâm thì không ngững nghĩ về những thứ của mình đang có lại không thể sử dụng hay mang theo được gì nơi cửu tuyền lạnh lẽo ! Than ôi, nhân sinh khổ nạn cũng vì “việc thành rồi” lại không biết thế nào là đủ để dừng lại, rồi nuôi dưỡng lòng tham lam vộ độ không đáy, mà nảy sinh ra “biết bao chuyện ưu phiền làm rối cả lòng ta”.

Lão Tử nói: “Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi” – người biết thế nào là đủ thì tránh khỏi bị nhục, người biết dừng lại đúng lúc thì chẳng gặp nguy nan; Trái với “biết đủ” tức là “tham lam” (Tử Vi Đẩu Số đọc lái thành Tham Lang để đặt tên cho Sao chủ mệnh của người có tính đức này), là không biết đủ.

Đi dự đám cưới, đám tiệc, cơm canh có phần có lượng, kẻ biết đủ thì nhìn người có mặt tại bàn mà lấy phần cho phù hợp, kẻ tham lam chẳng biết đủ thì thích món nào gắp lia lịa món đó, chẳng ai nói gì, chỉ cười thầm và nhường cho, nhưng sau này thì coi rẻ, ấy chẳng phải là do tham mà chịu “nhục” hay sao.

Lại như người ham uống rượu, người ham đánh bạc, người ham thịt ngon, người ham lợi, người ham danh v..v chữ “ham” là tên khác của sự “tham”, cũng là chỉ cho không biết đủ. Thế thì ham rượu, tối ngày say sỉn, “rượu vào lời ra” ăn nói luyên thuyên, mà làm gì cũng chẳng tỉnh táo nên có việc chi mà thành công, xã hội khinh chê thì tất nhiên phải chịu nỗi “nhục”. Chẳng những bản thân chịu nhục, mà con cái cha mẹ cũng phải chịu tiếng xấu dèm pha. Thật đáng thở than.

Người ham bài bạc thì tiền tài theo mây theo gió, của núi cũng đi theo con Ma “đỏ đen”, thân bại danh liệt cũng do “ham”, do “tham”, lười làm mà muốn an nhàn giàu sang nhanh chóng, rốt sau chịu cảnh “nhục” nhã cũng đâu có khác.

Ham thịt thì dư đạm thành bệnh Gout, ham lợi thì thích “việc nhẹ lương cao” bị lừa đảo mà theo kẻ lạ qua Campuchia rồi chịu cảnh thân tàn ma dại; ham danh thì thích tiếng khen yêu sự nịnh nọt, làm được một mà người tâng bốc lên thành mười, lâu ngày nảy sinh tự tưởng mình là đệ nhất, tâm sinh kiêu ngạo mà hành sự bất cẩn, chuốc lấy thất bại, rốt sau cũng do “tham” mà ra.

Thế thì, muốn được yên thân, muốn được an nhàn phải biết tiến dừng đúng lúc, biết đủ đầy thì nên ngưng, đã lùi lại chẳng tranh với ai thì nguy nan tự khắc lìa xa chẳng tới, cho nên nói “bất đãi” là ý này đây.

Khổng Phu Tử nói: “Tham nhi vô oán nan” – người có tính tham lam mà không đem lòng oán hận thì khó mà làm được, “cầu” đã “bất đắc” thì tất nhiên là oán Trời trách Đất giận người, một ngọn lửa sân giận thiêu đốt “cả rừng công đức”, oán giận sinh rồi thì “khôn ngoan” nào đâu thấy được nữa mà lại chẳng không phạm phải sai lầm để mà hối tiếc mãi về sau.

Cho nên Kinh nói: Tiểu hanh – chỉ là chút hanh thông nho nhỏ, nhằm uốn nắn răn nhắc tâm người, sự mưu cầu đã thành thì chớ nên tự mãn, nên lấy chữ “tiểu” mang nghĩa nhỏ bé, kém cỏi để cẩn thận phòng giữ cho người Quân tử được sự lợi ích lâu dài. Đã tự thấy mình làm được việc này thành công, cũng chỉ là nhỏ bé chẳng có gì lớn lao, thế thì tâm kiêu mạn do đâu mà sinh ra được. Đã chẳng kiêu căng, thì mưu tính sự sau tất dè dặt cẩn thận, nhìn trước đón sau tự kiểm điểm mà giữ gìn đức “Trinh” cho được trọn vẹn, bởi thế mà Thánh nhân mới nói là “lợi trinh”.

Kinh nói: Sơ cát, chung loạn.

“Sơ” nghĩa là mới đầu, “chung” nghĩa là kết thúc. “Loạn” nghĩa là lẫn lộn, lộn xộn, “Cát” nghĩa là vui vẻ, tốt lành.

Việc mới thành thì ai mà lại chẳng vui vẻ cơ chứ ? Chúc tụng nhau, mở tiệc ăn mừng, một mình cười vui, vừa đi vừa huýt sáo, nhìn thấy cuộc đời thật là tươi đẹp, số phận mình thật là may mắn, chẳng khác nào mùa Xuân đang về lại ngay ngày Tết sang pháo hoa rực rỡ. Cho nên “sơ cát” là lẽ tự nhiên.

Nếu việc này đã thành mà bước tiếp theo chưa biết phải làm sao thì ắt là bị “loạn” – lộn xộn, do đó, khi việc thành rồi thì phải chớ vui mừng lâu ngày quá mức, mà quên mất việc lập định kế hoạch cho ngày tháng về sau. Lại việc thành rồi mà sa ngã xảy chân, bị cuốn theo cái dòng “tham sân” vô độ không biết đủ, thì như trên đã nói, sẽ phải trả giá đắt ở bên đó trong dòng đời bất tận mà thôi.

Do đó, Thánh nhân nói "tiểu hanh" để phòng ngừa cho người Quân tử chẳng phải gặp cái “loạn” về sau, còn “chung loạn” thốt ra cũng là vì “tiểu hanh” mà nói, cho nên trước sau thống nhất bổ nghĩa cho nhau, mà không có gì khiến cho cảm thấy chênh vênh sai khác.

Thân người khó được, Đạo pháp khó gặp !

Sửa bởi HieuHcmVN: 30/05/2025 - 15:33


#51 fanMu0330

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 2 Bài viết:
  • 1 thanks

Gửi vào 30/05/2025 - 18:52

4 quẻ : hằng , hàm , ích , tổn . có liên quan gần gì với nhau không nhỉ ? thấy quái cứ xáo qai xáo lụa . có cái lý gì chăng , chủ thớt nghĩ thế nào

Thanked by 1 Member:

#52 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 310 Bài viết:
  • 148 thanks

Gửi vào 30/05/2025 - 19:33

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

fanMu0330, on 30/05/2025 - 18:52, said:

4 quẻ : hằng , hàm , ích , tổn . có liên quan gần gì với nhau không nhỉ ? thấy quái cứ xáo qai xáo lụa . có cái lý gì chăng , chủ thớt nghĩ thế nào

Bác hỏi hay quá, cái lý dễ thấy nhất là em thấy ý nghĩa quẻ nó hay với em đó bác, nên em lập đề Kinh Dịch có gì hay ? á, chứ không em phải làm quả chủ đề gây sốc như là: Trật tự 64 tượng quẻ Dịch chuẩn nhất mọi thời đại cho nó hút khách câu view, hí hí

#53 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 310 Bài viết:
  • 148 thanks

Gửi vào 30/05/2025 - 21:42

Thái Ất Thần Kinh, diệu lại minh;
Nước Nam xưng tụng có Trạng Trình,
Ứng dụng được hay phép toán ấy,
Làm thành bài Sấm động Trời kinh.

Bạch Vân cư sỹ, hiệu của Ngài;
Người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lai.
Cha mẹ khéo dạy, lại siêng học;
Ân sư Đắc Bằng kể cũng tài.

Quán thông văn chương, kiêm Lý Số;
Thức thời nước loạn nên chẳng lộ.
Triều Mạc lập rồi, đỗ Trạng Nguyên,
Tả Thị Lang Đông Các Học Sỹ.

Làm quan tám năm cáo về quê,
Ngâm, vịnh, xướng, họa khoái khoái ghê.
Thích trí lại mở trường dạy học,
Lúc nhàn bầu bạn với non khê.

Vua cần, sai xứ đến hỏi thăm;
Lại Bộ Thượng Thư Trịnh Quốc Công.
Tinh thông thuật số, tiên tri giỏi;
Đời đời Thơ tụng vẫn nức lòng.

Tiền lùi linh hoạt khéo khéo ghê,
Thức thời, thuận thế tỏ chẳng mê.
Danh vàng lợi bạc đâu màng tới,
Ích Nước lợi dân, khó chẳng nề.

Nay nhớ về ông Trịnh Quốc Công,
Luận tiếp hai quẻ tỏ mến công,
Vừa hay "Độn" "Tấn" khéo như nguyện,
Mong ông chứng giám, ứng cảm lòng.

#54 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 310 Bài viết:
  • 148 thanks

Gửi vào 30/05/2025 - 23:16

Thiên Sơn Độn


遯: 亨, 小利貞.

Độn: Hanh, tiểu lợi trinh.



Kinh nói: Độn, hanh.

“Độn” có nghĩa là trốn lánh, là lui về, là thoát đi. Người Quân tử trí cao muôn trượng, hoài bão tựa biển khơi, đạp bằng chông gai mà đi, thế thì có khó khăn chướng ngại nào mà phải “trốn lánh” nghe sao nó thảm thương tới như vậy ? Người xưa nói : “tồn thân viễn họa” – đứng trước tai họa phải khéo bảo toàn bản thân mình, cái thứ “tai họa” mà người Quân tử cần phải trốn lánh đó là “tai họa” do thời thế xoay vần tạo nên.

Dân gian có câu : “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” – trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa, nghĩa là giống loài nào thì đi theo giống loài ấy, người học đạo Tu – Tề - Trị - Bình, kính trọng Nhân – Nghĩa – Lễ - Trí – Tín thì không thể vào hùa với kẻ Bất Nhân – Bất Nghĩa – Thất lễ - Thất tín và Si cuồng cho được, tại vì như thế thì chẳng những xóa nhòa hoài bão cùng lý tưởng sống của chính mình, lại khiến cho ngàn vạn đời sau nhìn vào nêu tên nguyền rủa. Bởi Tài cao Trí lớn phải dựng Quốc an Bang, lập nên công trạng mà lưu danh sử sách. Trịnh Quốc Công cũng là một người thức thời như thế, cuối Triều Lê sơ, quan lại chỉ lo hưởng lạc, nội bộ thì tranh giành quyền lực, hãm hại lẫn nhau, đây là thời “pháp nhược ma cường”, là thời “Quốc chi tương vong, tất hữu yêu nghiệt” – Sự diệt vong của một Quốc gia, tất có điềm xấu báo trước, điềm xấu ở đây chính là “tham quan ô lại”, hại nước hại dân, tham hưởng dục lạc, bỏ bê chính sự, kết bè kết cánh, mưu tính lợi riêng; “điềm báo” ấy ứng với hoàn cảnh cuối Lê sơ, do đó Trình Công mới tạm thời lánh cái “nạn” này. Ấy là thức thời thế, thuận thời hành nên được sự “hanh” thông, đó là quyết định sáng suốt của bậc Anh Tài khéo léo xử thế đó vậy.

Kinh nói: Tiểu lợi trinh.

Bằng trí tuệ, tỏ rõ thời thế thịnh suy mà khéo léo bảo toàn được tính mạng, thân mình được an mà thân của bách gia trăm họ gặp nguy thì cái an ấy cũng chỉ là “tiểu lợi”, dù cho chẳng phải là kẻ ham sống sợ chết, thấy tai họa mà trốn tránh, cái tâm “lui về”, “lánh đi” nó trong sáng vì muốn bảo toàn đức Trinh trọn vẹn, nhưng xét ra thì uổng công học hành mà chỉ quanh quanh ở nơi xóm nhỏ, Danh chẳng có gì với đời, Lợi chằng làm gì cho người, nghĩa là một cuộc sống tầm thường ẩn dật, nên mới gọi là “tiểu lợi Trinh”.

#55 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 310 Bài viết:
  • 148 thanks

Gửi vào 31/05/2025 - 13:59

Hỏa Địa Tấn


晉: 康侯用錫馬蕃庶, 晝日三接.

Tấn: Khang hầu dụng tích mã phồn thứ, trú nhật tam tiếp.


Trên nói “Độn” nghĩa là lui về; ở đây “Tấn” lại có nghĩa là tiến lên.; “tiến lui” cũng như “cương nhu” là những nhóm cách xử thế tùy thời cơ phổ biến mà phàm làm người khi hành sự đều dùng tới. Trong “tiến”, “lui”, “cương”, “nhu” lại chia nhỏ thêm ra thành nhiều loại khác nhau, trong các tình huống cụ thể, đa dạng biến hóa vô cùng. Do đó cùng một sự việc, cùng một hoàn cảnh, cùng một đối tượng nhưng khác cách ứng xử thì sẽ sinh ra vô vàn các kết quả khác nhau.

Khổng Phu Tử nói: “Bất học Thi, vô dĩ ngôn”, “Bất học Lễ, vô dĩ lập” – nghĩa là chẳng học Kinh Thi thì chẳng biết nói năng ứng đáp ra sao; chẳng học Kinh Lễ thì chẳng biết điều khiển hành vi cử chỉ thế nào; ấy là bậc Hiền nhân lo cho hiện thời và mai sau nên cẩn trọng mà soạn đặt, tự mình học tập để làm gương, rồi truyền trao lại cho hậu thế, để khi tới độ tuổi cất bước vào Đời được nhiều sự lợi ích lớn lao, tránh được những sự khó khăn không lường trước hết được. Đúng thật là quá đỗi mẫu mực và vô cùng chu đáo. Cảm thán thay !

Kinh nói: Tấn, khang Hầu dụng tích mã phồn thứ.

“Khang” nghĩa là khỏe mạnh, là bình an. “Hầu” nghĩa là tước Hầu, một trong năm tước quý Vua ban (Công, Hầu, Bá, Tử, Nam) như đã nói trước đây; nó cũng có nghĩa là “cái đích” - như tấm bia sử dụng trong thi bắn cung. “Dụng” nghĩa là sử dụng. “Tích” nghĩa là gậy chống, người ta hay nói tích trượng – gậy chống của các vị Đại đức Cao Tăng, đại diện cho Đạo Đức cao thâm). “Mã” là con ngựa, đại biểu cho sức mạnh sự bền bỉ dẻo dai. “Phồn” nghĩa là sinh sôi. “Thứ” nghĩa là nhiều; là dân thường.

Toàn câu Kinh trên nghĩa là: Tiến lên - cố gắng phấn đấu không ngừng - trở thành Quan phụ mẫu, mang lại ấm no hạnh phúc cho Dân, biết sử dụng Đức Tài làm gậy chống (làm điểm tựa), thật mạnh mẽ bền bỉ và dẻo dai, để khiến cho đời sống nhân dân được sinh sôi phồn thịnh.

Người làm Quan là cha mẹ của dân (“Quan vi dân phụ mẫu”), dân có việc phải lo thì Quan chưa thể yên tâm an dưỡng. Nay nói “khang Hầu” là Quan an yên thế thì dân nơi xứ mà được Quan quản trị đang được ổn định, đời sống đang được ấm no hạnh phúc.

Chúng ta đi tới các vùng các xứ, thấy ghi chữ “Làng văn hóa”, “gia đình văn hóa” v..v ý chỉ là vùng ấy chỗ ấy, người dân cư xử với nhau có Tình có Nghĩa, có Đạo có Lý, do đó mới gọi là “văn hóa”. Các mối quan hệ tương tác như: chồng vợ, cha con, anh em , hàng xóm, bạn bè, huynh đệ, tỷ muội v..v đều hòa thuận vui vẻ, tương trợ lẫn nhau, ấy cũng gọi là “văn hóa”. Xứ mà Quan trị vì, nhà nhà văn hóa, người người văn hóa thì xứ ấy Quan khéo trị dân, Quan đó có công với Nước, xứng với bổng lộc Vua ban (lương bổng – trích ra từ tiền thuế mà dân đóng góp, thông qua lao động của chính họ). Vì thế làm cha mẹ của dân, thì Quan phải là người có Đức có Tài, mới hòng làm dân yên nước ổn, thịnh trị thái bình, như thế mới gọi là “khang Hầu”.

Lấy “Hầu” làm đích để phấn đấu, để tiến lên thì phải rõ cái Đạo Hạnh, Tài Trí mà tước Hầu đòi hỏi, phải thấy rõ trách nhiệm cao cả mà tước Hầu đảm đương, gánh vác; mà tự xét tự rèn sao cho trên thì không thẹn với Trời, với Vua; dưới không thẹn với Dân với Đất nước. Như thế mới là đạo “tiến lên” mà Thánh nhân răn dạy.

Kinh nói: Trú nhật tam tiếp.

“Trú nhật” nghĩa là buổi sáng trong một ngày. “Tiếp” nghĩa là tiếp đón, cũng có nghĩa là liên tục. “Tam” là ba.

Vua và các Đại thần ngày xưa thường Thiết triều nghị sự (họp bàn việc nước) khoảng từ 5-7 giờ sáng, sau đó Quan trở về địa phận, nếu có tiếp Dân hay tiếp khách thì diễn ra tiếp tục từ 7-9 giờ. Việc tiếp dân có khi trong một tuần chỉ diễn ra 2-3 lần. Chính vì vậy mà sau này Bao Thanh Thiên, có Đức thương dân, đặt trước Khai phong phủ, dán cáo thị rằng: Hễ dân có gì oan khuất, bất kể ngày giờ, cứ đánh vào trống này thì lập tức thăng đường; việc làm ấy cảm tới lòng dân, cho nên được tán dương tôn thờ; sau này trở thành huyền thoại và người ta đã dựng thành phim truyền hình, tất nhiên có thay đổi tăng thêm nhiều tình tiết hư cấu, nhằm mục đích tăng sự hấp dẫn cho người xem, nhưng về cơ bản thì vẫn lột tả được sự Thanh liêm của Ông.

Quay lại lời Kinh, các quan tiếp dân 2-3 lần trong tuần không bỏ cũng đã được coi là siêng lo chính sự, nay lại tiếp tới ba lần chỉ có một buổi sáng “trú nhật tam tiếp” thì muốn chỉ cho cái sự siêng năng, bận rộn chăm lo việc Nước việc dân của vị quan ấy là hiếm có. Thánh nhân dùng lời ấy vừa làm mục tiêu cho người làm Quan xưa và nay phấn đấu, vừa nhằm chỉ cho Đạo đức của người làm Quan là cần siêng năng làm việc, không nên ngại khó khổ; luôn cố gắng như vậy thì đảm đương được trọng trạch mà Nhà nước và Nhân dân tin yêu trao gửi.

Sửa bởi HieuHcmVN: 31/05/2025 - 14:17


#56 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 310 Bài viết:
  • 148 thanks

Gửi vào 31/05/2025 - 21:16

Lỡ nay trong cảnh khốn cùng,
Ngày mai có thể lên tầng Trời mây.
Đời người lúc đó, lúc đây,
Giàu nghèo, hoạn hỷ, phúc may nhờ Trời.
Nhờ Trời mà cũng tại người,
Sống sao cho phải, được người nhớ thương.
Nào ai muốn thoát vấn vương,
Nào ai lại muốn trăm đường giàu sang.
Nào ai muốn được bình an
Nào ai lại muốn, râm ran xóm giềng.
Dù cho lang bạt khắp miền,
Đời người cũng phải có nơi để dừng.
Cuộc sống có lúc tưng bừng,
Nhiều khi cũng phải âm thầm đơn côi.
Kết duyên, kết bạn khắp nơi,
Thi ân như bỏ chẳng cầu cám ơn.
Nhưng mà ơn vẫn là ân,
Gieo nhân gặt quả, phúc may tới mình.
Phúc này chẳng rõ tội tình,
Phúc này chẳng rõ do mình, do ai.
Cho nên nhận chẳng, đúng sai,
Tùy thời đón nhận, miễn người được vui.
Chớ nên chấp chặt người ơi,
"Của cho của nợ", ấy lời dạy răn.
Dạy răn là việc dạy răn,
Nào đâu cứ phải trăm phần đinh ninh.
Khéo ra tỏ rõ, đừng kinh,
Đừng nên sợ hãi khiến mình lo toan.
Mình vay mình trả rõ ràng,
Người cho cứ nhận, kết đàng về sau.
Một mai đường Đạo bắt đầu,
Nhờ duyên kết ấy, mới mau thành Tài.
Cho nên Trời Đất an bài,
"Vô tâm" cứu độ, tùy thời "nhận cho".

Ai người "Tiết" hạnh chớ lo,
Tới thời "Đại hữu" của kho tràn đầy.

Sửa bởi HieuHcmVN: 31/05/2025 - 21:22


#57 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 310 Bài viết:
  • 148 thanks

Gửi vào 31/05/2025 - 23:31

Phật Thích Ca Mâu, khi chưa vượt thành xuất gia, là thái tử Tất Đat Đa, con của Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da, trước khi Ngài ra Đời, tinh tượng có sự thay đổi khác thường nên các Tiên nhân và các vị chiêm tinh gia đều có linh cảm rằng sắp có Thánh nhân xuất thế. Ngài được sinh trên đường Hoàng hậu đi về cung. Vua Tịnh Phạn có mời các vị đạo sỹ, tiên nhân nổi tiếng trong nước tới xem tướng cho Thái Tử, trong đó có vị tiên nhân A Tư Đàm, Ngài vừa trông thấy Thái tử, liền bật khóc; Vua thấy lạ nên hỏi:
- Thưa Tiên nhân, phải chăng có điềm gì không may sẽ xảy đến với con Ta sao ?
- Tâu Bệ hạ, sẽ chẳng có gì xấu xảy ra với Thái tử đâu, chỉ là tôi khóc vì tôi thương cho số phận của mình, tôi sẽ chết trước khi Thái tử lớn lên và vì vậy mà tôi sẽ không thể nghe được những Lời dạy cao siêu thốt ra từ miệng của Thái tử. Tâu Bệ Hạ, Thái tử sẽ lớn lên và trở thành Chuyển Luân Thánh Vương trị vì cả bốn cõi, hoặc Ngài sẽ đi tu rồi thành Phật. Nói xong rồi, tiên nhân A Từ Đàm xin phép Vua Tịnh Phạn rồi lui về rừng sâu.

Vua Tịnh Phạn nghe lời tiên nhân biết được Thái tử sẽ đi tu, nên ra lệnh cho tất cả toàn thành, không được phép cho Thái tử thấy những cảnh khổ đau bệnh tật. Vua cho xây những lâu đài nghỉ dưỡng tráng lệ ở các xứ, tùy theo thời tiết từng mùa, để Thái tử có nơi nghỉ ngơi. Lại sai kẻ hầu người hạ chăm sóc kỹ càng, Thầy dạy các môn toán số thiên văn địa lý và kinh Vệ Đà. Thái tử lớn lên thông minh, học giỏi, lại có sức khỏe hơn người, tới tuổi thành hôn, Thái tử Tất Đạt Đa dành quyền kết hôn với công chua Da Du Đà La, khi chiến thắng cuộc thi tỷ võ. Công chúa sinh cho Thái tử một người con trai, tên là La Hầu La.

Nhân một dịp dạo khắp trong thành, tới từng cổng thành, Thái tử thấy người già, người bệnh, người chết mà trong lòng nảy sinh suy nghĩ về việc tương lai mình cũng như vậy, cho nên có trí xuất trần để giải quyết việc lớn sinh tử, làm sáng tỏ vì sao con người lại phải chịu cái cảnh sinh lão bệnh tử khổ đau như vậy ? Ngài vượt thành xuất gia trong đêm, trao đổi trang phục với người lạ gặp dọc đường, từ đấy có hiệu là Sa môn Cồ Đàm.

Ngài dành 5 năm tìm khắp các danh sư trong nước để học tập, mỗi khi thành tựu được như các Thầy thì Ngài lại dời đi nơi khác, cuối cùng vẫn không thỏa mãn vì chưa làm sáng tỏ được vấn đề Sinh tử. Ngài tự mình tu hành, ở nơi rừng sâu, cách xa làng mạc thôn xóm. Ngài thực hành khổ hạnh tới cùng cực, có khi một ngày chỉ ăn một hạt thóc, hạt mè; lâu dần cơ thể suy nhược, Ngài sau này tả cho để tư nghe: khi ta muốn thở thì da bụng phía trước nó như dính vào với da bụng phía sau. Khổ hạnh cùng cực tới kiết sực, mà Đạo vẫn chưa sáng. Ngài nhớ lại quá trình tu học của mình, có những lúc Ngài ngồi thiên an nhiên, hài hòa, cảm thấy rất an lạc; Ngài muốn trở lại trạng thái đó, thoát lý những cảm giác thống khổ hiện tại đang chịu đừng. Ngài rời khỏi hang, đi được mấy bước thì gục ngã vì kiệt sức.

Tình cờ có cô gái tên Sujata mang đồ vào rừng cúng Thần linh, thấy Ngài nằm bất động, cô liền mớm nước và thức ăn cho Ngài. Ngài nhân đó hồi phục trở lại. Ngài kể rõ đầu đuôi sự tình, Sujata cảm mến hạnh tu, ý chí mãnh liệt và mục tiêu cao thượng của Ngài, nên phát tâm mỗi ngày vào một giờ nhất định sẽ mang đồ ăn vào cúng dường cho Ngài. Ngài rất biết ơn và chấp thuận,

Nhờ sự tương trợ của Sujata, sức khỏe Ngài hồi phục, tinh thần Ngài sáng suốt. Ngài tự lập thệ nguyện, ngồi bất động tại gốc cây Bồ Đề, nếu Đạo không sáng thì không đứng dậy. Trải 49 ngày, nhân khi sao mai vừa mọc, Ngài thành Chánh giác, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Từ đây, nhân loại có được dòng chảy chánh pháp, dẫn đường chỉ lối cho con người vượt thoát khỏi vòng Sinh tử khổ não.

Qua câu chuyện của Phật, ta thấy, sự cực đoan hành hạ thân xác, không giúp cho Đạo cả chóng thành. Việc tiếp nhận sự trợ giúp đúng lúc từ người khác, việc thực hành con đường hài hòa cân bằng tức Trung Đạo, lại giúp khai mở ánh sáng Trí Tuệ, diệt ưu bi khổ não, được tâm tự tại giải thoát nhẹ nhàng. Vậy thì nếu không có sự "tiếp nhận", sự "thọ ân" làm sao có cái việc thành Đạo của Phật thuở trước, vì thế "thi ân" không chỉ là giúp người, mà nó còn tạo nên điều kiện thuận lợi hỗ trợ chính người thi ân, thành tựu được trí nguyện cao cả của mình nữa vậy.

Sửa bởi HieuHcmVN: 31/05/2025 - 23:48


#58 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 310 Bài viết:
  • 148 thanks

Gửi vào 01/06/2025 - 01:31

Thủy Trạch Tiết


節: 亨.苦節不可貞.

Tiết: Hanh. Khổ tiết bất khả trinh.


“Tiết” có nghĩa là giảm bớt đi. “Khổ tiết” nghĩa là cố gắng hết sức để giảm bớt đi. “Bất” nghĩa là không. “Khả” nghĩa là có thể. “Trinh” là tâm hồn trong sáng, là trong trắng, là tiết hạnh.

Kính nói: Tiết, hanh.

Như trên đã nói, việc thứ nhất đã thành thì mong việc thứ hai cũng được, việc nhỏ thành thì mong việc lớn cũng phải xong, được ít thì mong có nhiều, được nhiều thì mong có nhiều hơn nữa v..v đó là tâm lý chung của con người đang mưu cầu Danh Lợi tại thế gian. Vì đa phần mọi người đều nghĩ rằng: Càng có nhiều bao nhiêu thì lại càng tốt đẹp bấy nhiêu. Trong quá trình phát triển đi lên không ngừng ấy, nếu người chẳng biết “tiết” chế, biết giảm bớt đi những gì đã dư thừa, những gì không cần thiết, rồi đem chia sẻ và cho đi tới những nơi cần cái đó hơn mình, thế thì “Nguyệt mãn tắc khuy, thủy mãn tắc dật” – Trăng tròn rồi trăng lại khuyết, nước đầy thì nước phải vơi; của cải dư thừa rồi ắt phát sinh những điều “tệ, loạn” để làm cho mọi thứ quay về chỗ cân bằng chính trung của nó.

Cho nên, Thánh nhân dạy người Quân tử phải biết “tiết” giảm khi cần, để luôn đạt được sự “Hanh” thông như ý; chớ để đến khi quá mức quá độ, thì Trời cao sẽ tạo ra thử thách, cám dỗ, thuận nghịch đủ phương, rồi thì người cũng phải buông tay san sẻ mà thôi. Nếu đã nhất định phải làm, chỉ bằng chủ động tự mình làm trước, thế có phải thu về được thêm nhiều niềm vui nữa, thay vì mặc kệ thời thế tới lúc “Trời chiều”, đột nhiên “màn đêm” nó lấy đi tất cả, lúc đó thì lại thành khổ não vô cùng.

Kinh nói: Khổ tiết, bất khả trinh.

“Khổ tiết” là sự cố gắng tiết giảm quá mức, tới ngưỡng suy kiệt; giống như trường hợp của Phật Thích Ca trong quá trình tu hành khổ hạnh. Kết quả của việc “khổ tiết” luôn là sự bất như ý, ngay cả đối với việc duy trì đức Trinh của người Quân tử. Những trường hợp do lòng mong cầu quá mãnh liệt, thôi thúc con người ta bỏ qua những nhu cầu cần thiết của cơ thể và tâm trí; đầy cơ thể và tâm trí vượt qua giới hạn an toàn để duy trì một nền tảng khỏe mạnh, nó khiến cho các bệnh tật phát sinh: suy dinh dưỡng, căng thẳng thần kinh, lao lực v..v ấy đều là kết quả bất như ý của những ai đang trên con đường chinh phục ước mơ của mình, vô tình hay cố ý bước vào, đều chịu chung một kết cục là “giữa đường đứt gánh”. Thánh nhân nói “bất khả” để nhất mạnh sự sai lầm, nhấn mạnh rằng con đường “khổ tiết” dù ở Đời hay trong tu Đạo, đều không thể thành công bền vững được đâu.

Mỗi người hãy tự cân bằng, để thành tựu ước mơ của chính mình !

Sửa bởi HieuHcmVN: 01/06/2025 - 01:45


#59 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 310 Bài viết:
  • 148 thanks

Gửi vào 01/06/2025 - 09:54

Hỏa Thiên Đại Hữu


大有: 元亨.

Đại hữu: Nguyên hanh.


“Đại” nghĩa là to, lớn. “Hữu” là sở hữu, là sung túc. “Đại hữu” là vô cùng dồi dào, vô cùng sung túc, cũng có nghĩa là “sở hữu rất nhiều”.

Thế thì dồi dào sung túc cái gì ? sở hữu rất nhiều cái gì vậy ? Có phải là của cải gia tài, năm thê bảy thiếp, dục lạc phồn thịnh, vật chất dư thừa, danh vọng cao tột hay chăng ? Tất nhiên là không rồi, đó là hoa trái, là ngọn không phải là cái gốc của "sở hữu" bền vững thực sự. Lại nữa việc ai đó sở hữu nhiều của cải trong thực tế không nhất thiết là người có Đức Tài, đôi khi chỉ là người có mánh khỏe, sử dụng mưu mẹo và sự khôn lỏi để mà thu thập về thật nhiều tài sản; vì vậy mà Thánh nhân không dùng "Đại hữu" để mô tả cho sự phồn thịnh về Danh lợi địa vị vật chất, bởi nó không xứng và không thể vươn tới “nguyên hanh” được, nó rất tạm thời và không bền vững (như hoa trái thì bốn mùa thay qua thay lại, còn cây cối thì vẫn cứ ở đó chờ đợi đúng lúc để sinh sôi), người sung túc về Danh Lợi cùng lắm chỉ gọi là “tiểu hanh" hoặc "hanh" mà thôi. Thứ mà xứng với “nguyên hanh” thì chỉ có thể là Đạo Đức, Tài Trí.

Ở các quẻ trước đây đã nói rõ về nguồn gốc của sự giàu sang là Tài năng, là khả năng tạo ra của cải, mà muốn có Tài thì phải có đủ thứ Đức hạnh như siêng năng, thành thực, nhẫn nại, nhạy bén, thành kính v..v rất nhiều thứ cần phải hội tụ mới có thể thành tựu được Tài năng và sẽ cần phải rèn luyện không ngừng thì mới trở thành bậc Kỳ Tài xuất chúng. Trải qua rất nhiều gian nan rèn luyện mới có thể tinh thông một lĩnh vực nào đó tới tận gốc rễ, từ đấy mới tạo thành giá trị để trao đổi với thiên hạ mà đổi về lấy của cải gia tài. Gốc của sự giàu sang, sự sung túc bền vững luôn luôn là Đức Tài, đó là chân lý chắc thật.

Do đó ở đây, “đại hữu” tức là dồi dào, sung túc Đức Tài, vì thế mà gần với Đạo, tức “nguyên”, lại chẳng bị chướng ngại trên đường đời, chẳng có gì thực sự là khó khăn không thể vượt qua nên “hanh”. Ấy là ý nghĩa thực sự của “Đại hữu, nguyên hanh”.

Sửa bởi HieuHcmVN: 01/06/2025 - 10:06


#60 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 310 Bài viết:
  • 148 thanks

Gửi vào 01/06/2025 - 14:41

Đời người lắm lúc thăng trầm,
Tưởng yên một chỗ, Trời không toại lòng.
Muốn cho lăn lội non sông,
Đề mài kiếm bén, để lòng vững thêm.
Chí trai đã quyết thì nên,
Nề chi khổ ải, ngại gì chông gai.
Làm trai cho đáng nên trai,
Vót đũa cho dài, vươn gắp cho xa
Sóng gió, bình tĩnh vượt qua;
Nghề này chưa đủ, nghề kia bù vào.
Lo lắng thì cũng chẳng sao,
Nhưng mà đừng quá dựa vào thế nhân.
Tự mình rèn luyện bản thân,
Nề chi tuổi tác, ngại gì xa xôi.
50 Bác vẫn đơn côi,
Mà sau dựng cả cơ đồ vững yên.
Noi theo, trí vững tâm bền;
Vợ con no ấm, muộn phiền sẽ tan.

"Lý", "Quải" dẹp hết lo toan.
Vững chân đạp bước, vượt miền trần lao.

Sửa bởi HieuHcmVN: 01/06/2025 - 14:59







Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

3 người đang đọc chủ đề này

1 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn



Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |