Jump to content




Advertisements




Truyện ngắn huyền bí - hiendde


1072 replies to this topic

#406

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 20/01/2012 - 14:50

CHA BẮT RẮN CON BỊ NHẬP TRƯỜN NHƯ RẮN

Dưới gốc đa giữa làng Kính Nỗ, xã Uy Nỗ, Đông Anh, Hà Nội, có một ngôi miếu thờ rắn thần. Ngôi miếu mới được xây dựng cách đây chừng nữa năm. Người dân trong xã đến nay vẫn rỉ tai nhau những câu chuyện ly kỳ, rùng rợn quanh miếu rắn thần với thái độ thành kính và...sợ hãi! Chuyện kể rằng, cách đây hơn một năm, ông Nguyễn Văn Thảo, người thôn Kính Nỗ có bắt được một con rắn màu xám, to bằng bắp tay. Điều đặc biệt là trên đầu nó có cái mào đỏ chót như mào gà. Ông Thảo sợ con rắn cắn nên đã lấy kim chỉ khâu miệng rắn lại rồi mang ra chợ bán. Nhưng kỳ lạ là dù đã rao bán khắp nơi, nhưng không một ai mua con rắn của ông. Một số người buôn rắn xem xong rồi lắc đầu quay đi. Một số tay buôn rắn lâu năm ngắm nghía con rắn xong rồi khuyên ông lên thả con rắn đi. Theo họ, loài rắn có mào thường là loại rắn thần bảo vệ đình, miếu, không lên động vào.

Nghe những lời khuyên rùng rợn như vậy, ông Thảo đâm hoảng. Ông liền xách con rắn về nhà và thả con rắn ra cái nơi mà ông đã bắt được nó. Tuy nhiên, ông đã quên làm một việc, đó là tháo chỉ khâu miệng nó ra. Tưởng việc thả con rắn đến đấy là xong, nhưng cũng từ đó, gia đình ông gặp rất nhiều chuyện kỳ lạ, khiến ông tin rằng: Mình đã bắt nhầm phải Thần Rắn! Một ngày cuối năm 2010, người con trai lớn của ông Thảo tên Toàn năm nay đã gần ba mươi tuổi, bỗng dưng có biểu hiện lạ kiểu bị ma nhập. Anh bỗng dưng không nói không rằng mà cứ bò trườn khắp nhà như con rắn. Bò xong anh lại cuộn tròn người nằm dưới gầm tủ, mắt trợn tròn, đỏ lòm, lưỡi thè dài ra. Rồi anh đòi ăn trứng gà sống, chị Hoa, vợ anh Toàn vẫn nổi da gà khi kể lại câu chuyện hãi hùng của chồng mình.

Người nhà đưa ra quả trứng gà nào là anh Toàn trườn tới, dùng miệng cắn nát quả trứng rồi nuốt chửng, ngon lành như một con rắn. Ăn xong anh Toàn lại bò khắp nhà, rồi miệng không ngừng nói:

- Ta là rắn thần đây, sao chúng mày dám khâu miệng ta lại.

Người nhà ông Thảo sợ quá, liền cho người đi gọi bà Còng, một bà lão đồng cốt ở làng bên đến để cúng giải hạn. Vừa mới đến nơi, bà Còng đã hốt hoảng:

- Chết rồi, nhà ông làm việc gì phạm phải Thần Rắn rồi!

Lúc này ông Thảo mới giật mình nhớ tới chuyện bắt được con rắn có mào đỏ, thả nó đi mà quên chưa tháo chỉ ở miệng cho rắn, nên bây giờ thần rắn mới nhập về con trai ông báo oán! Chuẩn bị đồ nghề cúng bái xong gồm mười quả trứng sống, muối, gạo, rượu trắng, tiền vàng lễ và một số thứ vàng mã khác, bà Còng bắt đầu cúng giải hạn, xin Thần Rắn buông tha khỏi người anh Toàn.

Cúng bái suốt cả buổi, người anh Toàn không còn bò trườn nữa mà nằm mềm ra như bún. Anh dần tỉnh táo trở lại. Mọi người hỏi chuyện anh có nhớ mình vừa làm gì không thì anh lắc đầu kêu không nhớ, chỉ kêu mệt và buồn nôn. Sau đó anh nôn ra toàn dịch trứng gà sống! Chuyện gia đình ông Thảo kể như thế, còn thực hư ra sao, thần thánh ma quỷ thế nào, thì chưa kiểm chứng được. Theo lời ông Thảo, tưởng cúng bái như thế là thoát nạn, nhưng có vẻ thần rắn vẫn chưa buông tha anh Toàn. Thỉnh thoảng anh Toàn lại giở chứng, bò khắp nhà và đòi ăn trứng gà sống. Ông Thảo biết rắn thần lại đang đói. Vì miệng rắn thần chưa được cởi bỏ nên không thể kiếm được thức ăn. Và cứ lúc đói thì rắn thần lại nhập vào người anh Toàn để phạt vạ! Cả gia đình ông liền kéo đến điện thờ của bà Còng khấn vái, mong thần rắn buông tha cho gia đình ông.

Hôm ấy, cả gian điện thờ của bà Còng chật cứng người đến xem cảnh anh Toàn hóa rắn. Sau khi bà Còng cúng xong, anh Toàn lại bị thần rắn nhập vào, bò trườn khắp điện khiến ai cũng hoảng hồn. Sau khi cho anh Toàn ăn trứng gà sống, người anh Toàn bỗng biến sắc, anh ngồi dậy và phán:

- Ta là Thần coi làng ở đây đã bao năm nay. Con rắn thần của ta đã trông giữ cho cả cái làng này, vậy mà các ngươi dám khâu miệng nó lại... Bây giờ phải lập Miếu thờ nó.

Người nhà ông Thảo hốt hoảng hỏi muốn lập miếu ở nhà, ở chùa, ngài đều không đồng ý. Theo ý Thần thì Miếu phải xây ở gốc cây đa ở giữa làng, cũng chính là nơi mà ông Thảo đã bắt được con rắn có mào.
Sau khi được sự đồng ý của chính quyền địa phương cũng như tham khảo ý kiến của các vị cao niên trong làng, gia đình ông Thảo tiến hành xây miếu thờ tại vị trí gốc đa giữa làng, nằm liến kề trên đất của nhà văn hóa thôn. Chúng tôi đã trao đổi với anh Nguyễn Văn Thành, công an viên phụ trách thôn về câu chuyện trên. Anh Thành vốn không tin vào chuyện ma quỷ, mê tín dị đoan. Tuy nhiên, anh cũng như bất kỳ người dân nào trong thôn đều có thể xác nhận câu chuyện anh Toàn biến thành rắn là có thật. Rồi anh đưa chúng tôi ra tận nơi xem miếu Long Thần.

Ngôi miếu có chiều cao 2,50m, rộng 1,8m sâu 0,8m. Miếu nằm dưới gốc cây đa cổ ở giữa làng đúng như yêu cầu của thần rắn. Vào buổi khánh thành ngôi miếu, lúc mọi người vừa cúng vái nhập thần xong, thì bỗng từ đâu, một con rắn rất to bò đến khiến mọi người vô cùng hoảng sợ. Con rắn trườn quanh ngôi miếu một lượt rồi bò lên nóc. Ông Thảo cùng mọi người càng ngạc nhiên hơn khi trông thấy trên miệng con rắn vẫn còn vương những sợi chỉ mảnh mà ông Thảo đã khâu trước đó, khiến mọi người càng tin sự linh thiêng của rắn thần. Ngôi miếu được đặt tên là miếu Long Thần với sự kính cẩn và khiếp sợ của người dân trong làng.

Kể từ ngày xây Miếu đến nay, nhà ông Thảo vẫn thường xuyên trông nom việc thờ cúng miếu Long Thần. Trong không gian nhỏ của gian Miếu ngoài tiền vàng, hương hoa, lúc nào cũng có mười quả trứng gà sống, một đĩa gạo và một đĩa muối trắng. Thỉnh thoảng, những quả trứng trong miếu bị mất dần, người ta đồn nhau là do rắn thần đến ăn. Loài rắn vốn nổi tiếng linh thiêng và được thờ ở nhiều nước, nhưng đến nay, vẫn chưa ai khẳng định có đủ bằng chứng về sự tồn tại của loài rắn có mào đỏ chót như mào gà. Theo như câu chuyện của các cụ cao niên trong làng thì rắn có mào là loài rắn thần, còn được gọi là Rồng, có nguồn gốc rất thần bí. Rắn chỉ xuất hiện ở những nơi linh thiêng hoặc những nơi đất lành... Vì thế, không ai được phép xâm hại đến loài rắn thần này cả. Cho đến nay, câu chuyện về miếu Long Thần vẫn được người dân xã Uy Nỗ rỉ tai nhau một cách kính cẩn và hoang mang sợ hãi.

VTC


#407

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 28/01/2012 - 12:08

RÙNG RỢN BỊ MA HÀNH KHI PHÁ MỘ VUA TRẦN

Sau cuộc đào phá mộ, bị ma hành náo loạn, người dân thôn Bãi Dài không ai dám đến khu vực Khe Nghệ nữa. Thung lũng Khe Nghệ càng trở nên huyễn hoặc. Những câu chuyện ly kỳ, rùng rợn quanh lăng mộ được anh Nguyễn Văn Chạm ghi chép lại cẩn thận. Tôi rời lăng mộ vua Trần Anh Tông trong cảnh trời mưa tầm tã, sấm chớp đùng đùng. Người chèo đò gọi tôi về bờ gấp, bởi chỉ lát nữa, nước sẽ dâng ngập hồ và nhấn chìm khu lăng mộ vua trong dòng nước bạc.

Từ đập Trại Lốc, đi vòng vèo trên những con đường đất đỏ trơn trượt dọc chân Yên Tử về phía Tây thì đến khe một dãy núi. Khe núi này có tên là Khe Nghệ, thuộc xóm Bãi Đá, thôn Bãi Dài, An Sinh, Đông Triều, Quảng Ninh. Có lẽ, khe núi này là nơi đặt lăng mộ vua Trần Nghệ Tông, nên người ta mới gọi là Khe Nghệ. Vòng vèo mãi, xuyên qua những trang trại rậm rịt vải, nhãn, na, rồi tôi cũng tìm được nhà anh Nguyễn Văn Chạm. Gia đình anh Chạm nằm ngay chân dốc, muốn đi vào lăng mộ vua Trần Nghệ Tông thì buộc phải đi qua ngõ và sân nhà anh.

Tôi nhờ anh Chạm dẫn đường lên mộ vua, anh Chạm cứ ngần ngừ, vẻ ngại ngùng. Sau này, trò chuyện, tôi mới biết có vô vàn chuyện đồn thổi khủng khiếp mang màu sắc mê tín dị đoan, khiến người dân trong vùng rất sợ, không dám tìm đến khu mộ này. Tôi phải thuyết phục mãi, anh Chạm mới đồng ý dẫn đi. Anh thắp nhang trên bàn thờ, khấn vái Thần linh, Thổ Địa, khấn vái cả vua Trần Nghệ Tông cho phép anh được dẫn nhà báo lên đồi.

Đứng trên sườn dốc, anh Chạm vòng tay chỉ khu vực thung lũng Khe Nghệ. Toàn bộ diện tích thung lũng khoảng trăm ha, kéo dài từ sườn Tây Yên Tử xuống đến đồng bằng. Mộ vua Trần Nghệ Tông nằm trên mỏm đồi cao nhất của thung lũng. Mặt bằng ngọn đồi rộng tới năm héc-ta. Theo lời anh Chạm, những ngày trời trong, đứng trên mỏm đồi sẽ nhìn thấy dãy núi Kinh Môn, Hải Dương án ngữ và di tích chùa Cao trên đỉnh dãy núi đó. Đi qua khu vườn na khá sạch sẽ của gia đình anh Chạm thì đến khu vườn vải. Khu vườn vải rộng mênh mông, choán hết mỏm đồi, như một khu vườn hoang, cỏ mọc lút gối. Chúng tôi phải vạch cỏ mới đi được. Những cây vải khá lớn, song do không được chăm sóc, nên xác xơ, chẳng có quả. Anh Chạm bảo:

- Mấy năm nay không có bóng người nào mò vào khu vực này đâu. Người dân trong vùng cũng chẳng dám thả trâu bò lên đồi. Ai cũng sợ vua trừng phạt vì tội phá mộ. Đất này là đất của vua, nên không ai dám xâm phạm.

Sau một hồi luồn lách trong đám cỏ gianh thì đến một khu đất thoáng đãng, không có cây vải nào. Tuy nhiên, giữa khu đất ấy, lau lác mọc um tùm, cao đến ngực. Tại khu đất trống ấy, có một miếu thờ vua Trần Nghệ Tông. Nói là miếu thờ cho đỡ tủi, chứ thực tế quá thảm hại. Anh Chạm bảo, mấy năm trước, các nhà khoa học về nghiên cứu, đo vẽ một hồi, rồi họ bỏ đi. Các nhà khoa học xót xa cho khu lăng mộ vua Trần Nghệ Tông, nên đã chi tiền mua hai tấm phi-brô-ximăng, còn anh Chạm thì nhiệt tình chặt mấy khúc cây, rồi dựng lên cho có chỗ đặt bát hương. Từ bấy đến nay, cũng chẳng có ai hương khói, thờ tự. Bát hương lạnh lẽo phơi nắng gió mấy năm nay rồi.

Tôi vạch từng gốc cây, bụi cỏ, song chẳng tìm thấy di vật nào ngoài mấy cục đá vỡ nát chả khác gì đá nung vôi và một cái chân bia hiện làm nơi đặt bát hương trong miếu thờ. Anh Chạm dẫn tôi ra phía sau miếu rồi vạch bụi cỏ lau cao quá đầu chỉ tay và giải thích rằng, đó là nơi đã diễn ra cuộc cướp phá lăng mộ vua Trần từ hai mươi năm trước. Trước đây, khu vực ven núi thuộc địa bàn An Sinh là nơi người Hoa sinh sống. Tuy nhiên, sau năm 1979, người Hoa bỏ vùng đất này đi đâu không rõ. Toàn bộ thung lũng Khe Nghệ rộng lớn không có người ở, cây cỏ rậm rạp. Người Hoa đi, người Kinh ở nơi khác kéo về phát rừng làm vườn. Vào tháng ba năm 1990, một nhóm người phát rừng làm nương đã phát hiện lăng mộ đặc biệt này. Nghĩ rằng trong ngôi mộ có kho báu, nên người ta đã đào tung lên.

Thông tin nhóm người đào mộ được...kho báu nhanh chóng lộ ra, cả xóm Bãi Đá kéo đến... hôi của. Người dân đã đào một khoảng đất rộng tới ba chục mét vuông và sâu xuống lòng đất bốn mét. Khi đào xuống độ sâu này, người dân moi được những súc gỗ lớn. Những người tham gia đào bới đều được chia phần, mỗi người một vài súc. Người xẻ ra đóng giường, người đóng tủ, người đóng cánh cửa, bàn ghế. Những sản phẩm làm từ gỗ lấy ở ngôi mộ này hiện nhiều gia đình vẫn dùng và vẫn rất tốt.

Theo lời kể của ông Đào Văn Hồng, người trực tiếp tham gia đào mộ, thì gỗ làm mộ không phải là gỗ lim mà là gỗ nghiến và gỗ táu. Những súc gỗ lớn này được xếp thành một gian phòng kín trong lòng đất, được đóng mộng với nhau rất chặt, khít. Qua mô tả của ông Hồng, có thể khẳng định rằng, vua Trần Nghệ Tông được chôn trong một ngôi mộ gỗ đóng cũi, còn gọi là mộ cũi. Đây là loại mộ có từ thời Bắc thuộc, tồn tại song song với mộ gạch. Tuy nhiên, đến thời Lý và Trần, mộ gạch và mộ gỗ có quy mô nhỏ hơn rất nhiều so với thời Bắc thuộc. Theo lời ông Hồng, bên trong ngôi mộ gỗ mà người dân đào phá có rất nhiều than gỗ, khối lượng lên đến vài tấn. Bên trong lớp than là lớp vôi bột, rồi đến lớp hắc ín.

Ông Hồng cũng như người dân trong xóm không biết chất này là gì, chỉ thấy nó màu đen, mềm, giống hắc ín, nên gọi như vậy. Tuy nhiên, theo phán đoán của tôi, có thể chất này là một loại nhựa cây, có tác dụng bảo quản di hài vua Trần Nghệ Tông, vì như lời ông Hồng, thì chất này đốt cháy đùng đùng và tỏa ra mùi thơm dễ chịu. Khi đó, vợ ông Hồng cùng nhiều người khác nữa đã tranh nhau gánh than, hắc ín, vôi bột về để...bón ruộng. Mỗi người lấy cả chục gánh mà không hết. Người dân trong xóm đồn rằng, ông B. lấy được rất nhiều bạch phiến màu trắng trong mộ cùng với vàng bạc, bán được rất nhiều tiền. Sau khi trúng quả, ông B. bỏ người vợ từng đồng cam cộng khổ nơi quê nhà, vào Nam hưởng cuộc sống giàu có. Từ bấy đến nay, không thấy ông B. về làng nữa. Tôi thì không tin chuyện có bạch phiến trong ngôi mộ này. Có thể đó chỉ là một chất bảo quản di hài có màu trắng mà thôi.

Theo lời ông Hồng, khi mọi người đang tranh nhau gánh than, hắc ín, vôi bột về bón ruộng, thì một người ở đâu mò đến kêu lớn:

- Sao mọi người lại lấy những thứ này về? Ngôi mộ có than, lại rắc vôi bột là mộ chôn người hủi đấy. Người ta rắc vôi để tránh bệnh hủi lây nhiễm.

Khi đó, không ai biết đây là mộ vua. Nghe người đàn ông bảo đây là mộ hủi, những người đào bới, cướp phá mộ vua Trần Nghệ Tông bỏ chạy tán loạn. Mọi người nhảy xuống suối kỳ cọ rất sạch sẽ. Từ đó, người dân trong xóm Bãi Đá gọi ngôi mộ này là... mộ hủi. Nghe mà xót xa cho một vị vua nổi tiếng của một triều đại thịnh trị. Trong số tám lăng mộ vua Trần ở An Sinh, Đông Triều, Quảng Ninh, có lẽ hai lăng mộ vua Trần Minh Tông và Trần Nghệ Tông là thảm hại nhất. Lăng vua Trần Minh Tông bị ủi mất hoàn toàn khi đắp đập nước. Người ta đã ủi, lăn cổ vật làm vật liệu đắp chân đập, rồi dồn cả vào một hố để lấp lại. Lăng mộ vua Trần Nghệ Tông thì bị rất nhiều người trong xóm Bãi Đá, thôn Bãi Dài, đào bới tranh cướp tài sản.

Theo lời anh Nguyễn Văn Chạm, người sống cách lăng mộ vua Trần Nghệ Tông chừng ba trăm mét, sau khi người dân trong xóm bỏ chạy tán loạn vì có người nói đây là mộ hủi, thì một thời gian sau, có một nhóm người săn đồ cổ tiếp tục tìm đến đào bới. Nhóm người này đào rộng và sâu xuống lòng đất. Tuy nhiên, khi xuống dưới lớp gỗ một chút, thì gặp một phiến đá lớn. Phiến đá này rất dày, rộng cả chục mét vuông, nặng hàng chục tấn. Nhóm người này đã dùng đủ phương pháp, kéo nhiều thiết bị lên cẩu trục, song phiến đá khổng lồ vẫn không nhúc nhích. Không làm gì được, nhóm người săn đồ cổ đành bỏ cuộc. Họ mặc lăng mộ tan hoang trên mỏm đồi giữa thung lũng Khe Nghệ.

Theo lời kể của ông Hứa Văn Phán, thủ từ đền Sinh, sau khi đào phá lăng mộ vua Trần Nghệ Tông, hàng loạt tai họa đã đổ lên đầu người dân trong xóm. Đầu tiên là ông Nguyễn Văn H., người xóm Bãi Đá. Ông này là người tích cực nhất trong việc đào phá mộ. Sau khi đào mộ, vài tháng sau ông bị chết đuối ở con sông nhỏ chảy qua xã khi xuống sông tắm. Lúc xác nổi lên, mọi người ra vớt, thì kinh hoàng với cảnh tượng đỉa bâu đen xác. Người dân phải dùng thòng lọng kéo xác ông lên bờ, rồi lấy que gạt từng con đỉa. Cái chết của ông H. khiến người dân vô cùng sợ hãi, liên tưởng đến cuộc đào phá... mộ hủi.

Tiếp đó, rất nhiều biến cố xảy đến với người dân nơi đây. Những gia đình gặp tai họa đều mang những thứ lấy từ mộ trả lại. Nhiều người đã nung những chân tảng, tượng đá thành vôi, dù đã tô vôi, cũng gánh vôi ra trả. Nhiều người mang bàn, ghế, giường, tủ đóng bằng gỗ lấy dưới mộ cũng đem ra mộ đốt. Những cục đá dùng lăn lúa, kê bờ ao cũng được khiêng ra trả lại cho vua. Ông Đào Văn Hồng vẫn còn sợ hãi khi nhớ lại cuộc đào mộ hai chục năm trước. Tôi đến thăm ông khi ông đang nằm còng queo trong giường vì ốm. Vợ ông bảo, từ ngày đào mộ, ông Hồng trở nên ốm yếu hẳn, lại lắm bệnh tật. Theo ông Hồng, sau cuộc đào phá mộ vua, cả xóm đều gặp vận rủi, các gia đình lục đục, đau ốm, vợ chồng đánh chửi nhau lung tung phèng... Ông Hồng rầu rĩ:

- Không biết có phải vì người dân trong xóm xâm phạm mộ vua, rồi bị vua phạt hay không, mà cái xóm này cứ mãi nghèo xác nghèo xơ, nghèo nhất xã, nhất huyện.

Ngày đào phá mộ, ông Hồng lấy gỗ, vợ ông gánh vôi về bón ruộng. Lúc gánh vôi thì vợ ông mang bầu bảy tháng. Khi sinh, con đứa con đã chết vì nhau thai phủ mặt. Nói rồi, vợ ông Hồng dẫn tôi ra thăm mộ con bà. Ngôi mộ vừa được vợ chồng ông xây lại, nhỏ bé xinh xắn. Tai họa không chỉ đổ lên đầu vợ chồng ông Hồng, mà đứa cháu ngoại ông cũng thi thoảng lại dở chứng lạ. Thi thoảng bé lại lăn ra nhà, mắt mũi trợn ngược. Em trai ông Hồng thì bị ung thư phổi, vừa mới chết năm ngoái. Người dân trong làng cũng đồn rằng, do anh này làm nhà vệ sinh quay thẳng về phía mộ vua, nên mới chết.

Vợ chồng anh Chạm mới chuyển về khu vực đồi Khe Nghệ từ năm 1996. Trước đó, gia đình chú ruột ông Chạm ở mảnh đất này. Chú anh mua từ năm 1990, ngay sau cuộc đào phá mộ. Tuy nhiên, cả gia đình đau ốm triền miên, trẻ con quấy khóc. Sợ quá, nghĩ bị ma hành, ông chú đã bán rẻ cho anh Chạm, bỏ đi chỗ khác ở. Gia đình anh Chạm về ở, vợ chồng cũng lục đục, nay ốm mai đau, mắc đủ các bệnh. Vợ anh mắc bệnh gì chả rõ, thở không ra hơi, sức khỏe suy kiệt không đi nổi. Lúc trèo cây vải, anh Chạm ngã gãy rời xương tay. Sau này, biết ngôi mộ trên đồi là mộ vua, vợ chồng anh phá nhà làm theo hướng khác (ngôi nhà cũ hướng thẳng vào mộ), đặt bát hương thành tâm cúng bái cả ở mộ lẫn trong nhà.

Ngay sau lưng nhà anh Chạm, cách lăng mộ vua Trần Nghệ Tông không xa là nơi vợ chồng người em trai của anh sinh sống. Tuy nhiên, vợ chồng suốt ngày lục đục, quanh năm bần hàn vì bệnh tật. Mấy năm trước, hai người bỏ nhau, vợ đi nơi khác, còn em trai anh chuyển xuống chân đồi sinh sống. Mảnh đất ở Khe Nghệ không dám ở nữa, bán cũng chẳng ai mua. Hãi hùng nhất là câu chuyện liên quan đến mảnh đất của ông Thảnh và ông Viện. Hai ông này ở huyện Kinh Môn, Hải Dương, không biết đồi Khe Nghệ có mộ vua, nên đã mua chung 2,5 héc-ta đất trên đồi. Toàn bộ mảnh đất của hai ông này nằm trọn trong khu vực có lăng mộ.

Có đất rồi, hai ông đã dựng nhà, trồng vải. Tuy nhiên, những sự kiện kinh hoàng diễn ra liên tục với hai ông này. Theo lời anh Chạm, vợ ông Thảnh khi lên đồi bẻ vải, tự dưng lăn đùng ra đất giãy dụa, trợn mắt, sùi cả bọt mép. Lúc đó, nghe dân làng kể nhiều chuyện ma hành rùng rợn, ông Thảnh và ông Viện sợ hãi, không dám sống ở thung lũng Khe Nghệ nữa. Ông Thảnh và ông Viện đã thuê ông Sỹ trông coi nhà cửa, vườn vải thiều ở Khe Nghệ. Trong khi ông Sỹ đang nhặt những tảng đá, di vật ném xuống hố để lấp lại, thì đột nhiên ông Sỹ lăn đùng ra đất, mắt cứ trợn ngược, co giật toàn thân. Mọi người phải đưa sông Sỹ đi cấp cứu.

Theo anh Chạm, tiếp sau đó, hàng loạt người dẫy cỏ, hái vải thuê cho ông Thảnh và ông Viện, gồm chị Huệ, chị Thu, chị Chiếm, anh Tuấn, trong lúc làm việc trên đồi, cũng đột nhiên chung một triệu chứng là lăn đùng ra đất, mắt trợn ngược như người bị động kinh. Nhưng khi khiêng những người này vào nhà, họ lại hồi tỉnh, đưa đi viện khám thì không ra bệnh gì. Sau khi hàng loạt người làm vườn thuê cho ông Thảnh và ông Viện bị ma hành, lời đồn thánh vật càng trở nên ghê gớm. Không ai dám làm thuê cho hai ông này nữa, khu vườn bỏ hoang hoàn toàn, lau lác mọc cao hơn cả vải. Ngôi nhà dựng trong vườn vải, gần khu mộ cũng không có ai ở, mưa gió thổi bay cả mái, trâu húc đổ tường.

Phạm Ngọc Dương


Thanked by 1 Member:

#408

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 01/02/2012 - 23:29

MỘT CHIỀU THĂM NHÀ THẦY CÚNG TRÊN BẢN MÔNG

Nhà thầy cúng Lý A Sằng nằm thấp hơn những nhà khác ở Trống Páo Sang, chếch sâu trong một hẻm núi kín, đường vào tương đối khó đi. Thầy Sằng còn rất trẻ, nếu so với những đồng nghiệp khác. Năm nay thầy mới hai mươi chín tuổi đời, nhưng đã có đến hơn chục năm kinh nghiệm trong nghề. Thầy trông khá hiền lành, thậm chí có vẻ hơi nhút nhát nữa, nhưng khi làm việc thì rất tập trung. Hôm tôi đến, thầy đang làm lễ cúng khai xuân, mừng năm mới và đuổi tà ma của năm cũ đi, trọn cả một buổi chiều. Những người thân trong nhà thầy, hàng xóm, và cả khách hàng quen, đến quây quần bên bếp lửa hơ tay, hút thuốc lào, và xem thầy làm phép. Không phải người Mông nào cũng có thể được làm thầy cúng. Nghề này không phải là nghề cha truyền con nối, mà phụ thuộc rất nhiều vào cái duyên.

Làm thầy cúng, theo người Mông, là được con ma nó dạy, qua một lần ốm thừa sống thiếu chết thì sẽ tự nhiên biết được tiếng Quan Hỏa cổ, thứ ngôn ngữ linh thiêng của người Mông, biết được cách liên lạc với nhà trời, thần linh, tà ma, và quan trọng hơn cả là biết làm phép. Thế nên dẫu nghề này theo lý thuyết là có thể học việc được, người Mông vẫn tin vào thầy cúng tự nhiên hơn. Thầy cúng Lý A Sằng cũng là một trường hợp được con ma nó dạy. Năm mười chín tuổi thầy bị ốm rất nặng, mê man trong suốt hai năm liền. Người nhà cầu cứu khắp nơi không được, thì bỗng dưng một ngày thầy tỉnh lại, và đột nhiên nói bằng tiếng... Quan Hỏa cổ. Từ đấy thầy làm nghề thầy cúng.

Trường hợp của thầy là khá lâu, vì bình thường một thầy cúng bị ốm chuyển đổi chỉ khoảng từ nữa năm cho đến kịch kim là hai năm. Qua lời của một anh người Mông biết tiếng Kinh phiên dịch (thầy không nói được tiếng Kinh), thầy Lý A Sằng tâm sự rằng khi làm phép thì thầy cúng như bị ma nhập, bị cướp hồn, trở thành một con người hoàn toàn khác. Cho nên nhiều khi làm phép xuyên đêm, từ sáng mờ cho đến tối mịt, thầy cũng không thấy mệt.

Mà cái nghề này cũng phải gìn giữ rất ghê, không phải thích làm gì cũng được. Vì thầy cúng, như cách nghĩ của người Mông, là người nhà trời, phải ăn sạch, uống nước từ tận đầu nguồn. Thầy mà không tuân theo các quy phép nghề nghiệp đó thì sẽ đổ bệnh, chỉ có thể làm phép cầu xin nhà trời tha thứ thôi, chứ còn càng đưa đi bệnh viện thì bệnh sẽ càng thêm nặng. Thầy cúng khác với thầy mo, dù cả hai công việc này đều rất được người Mông coi trọng. Thầy mo chuyên lo các thủ tục, lễ nghi cho họ hàng, và mỗi họ thì lại có một thầy mo riêng, thầy Sằng cho biết. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nghề thầy cúng là đuổi con ma mang bệnh tật đến cho dân bản.

Cụ Lý Bốt Kí, một người Mông đã gần tám mươi cái xuân xanh, cho biết rằng:

- Ngày xưa ốm đau bao giờ cũng phải mời thầy cúng đến nhà trước tiên. Bây giờ xã hội thay đổi rồi, thì người ta mời thầy cúng đến nhà cũng ít đi. Bây giờ có bị ốm đau thì phải đưa đi viện trước, nếu không chữa khỏi thì mới mời thầy cúng đến nhà.

Mời thầy cúng có thường xuyên hay không thì cũng phải tùy thuộc vào tình hình sức khỏe nữa, như ông Kí thì kể rằng một năm ông mời thầy đến nhà hai lần, mỗi lần thầy làm phép khoảng hai tiếng đồng hồ. Tiền làm phép nói chung cũng khá tốn kém, nếu đem ra cân đong đo đếm với cuộc sống còn khó khăn của người Mông nơi đây. Tiền mua đồ cúng mất khoảng ba trăm nghìn đồng, còn tiền công cho thầy cúng là từ ba mươi đến năm mươi nghìn đồng.

- Có cho thêm tiền thì thầy cúng cũng không nhận. Thầy Sằng nói.

Vì cái nghề mang đầy tính tín ngưỡng như vậy, cho nên mỗi một bản chỉ có trung bình ba, bốn thầy cúng. Riêng ở Trống Páo Sang, chỉ có hai thầy, thầy Sằng và một thầy còn lại khoảng chừng bảy mươi tuổi. Dụng cụ làm phép không thể thiếu của thầy cúng là hai mảnh sừng trâu cắt ngang. Sau khi chuẩn bị hết đồ để cúng, làm xong các nghi lễ, thầy cúng mới tung hai mảnh sừng trâu xuống đất để đoán bệnh. Nếu cả hai đều ngửa thì tức là đã bắt được cái bệnh, sau đó thầy cúng sẽ phán cho gia chủ biết là tổ tiên đang muốn mình làm gì, cần cúng tiếp những cái gì để khỏi bệnh. Tầm từ ba đến mười ngày sau, nếu bệnh tình đã đỡ thì lại mời thầy cúng đến tiếp.

Nếu hai cái mảnh sừng kia đều úp thì là điều tốt, điềm báo rằng không lâu sau thì sẽ khỏi bệnh. Nếu tung được một mặt sấp một mặt ngửa thì thầy sẽ làm phép và tung lại đến khi nào tung được hai mặt như nhau thì thôi. Cách chữa bệnh của thầy cúng nói chung là hơi...mơ hồ, nhưng thật kỳ lạ là, như cụ Lý Bốt Kí nói, nhiều trường hợp bệnh nhân đưa đi viện không chữa được, về nhà cúng ma thì lại khỏi. Trong bản của người Mông thì nhà của thầy cúng bao giờ cũng giữ được cái chất truyền thống rõ nhất, kể cả thói quen...hút thuốc phiện bằng bàn đèn. Khi thầy cúng còn đang mải làm lễ, một số cụ già leo lên giường và lôi bộ bàn đèn ra để lau chùi, rồi châm lửa...hút. Tôi ngạc nhiên quá, mới hỏi là chính quyền không cấm à, sao các cụ vẫn hút được thuốc phiện, thì cụ Lý Bốt Kí mới gãi đầu cười:

- Cái phong tục của người Mông là thế, người già như tao không bỏ được.

Cụ Lý Bốt Kí thấy phóng viên nhìn sự việc có vẻ nghiêm trọng quá, nên mới vội vàng nói tiếp là cái này hút ít thì cũng không nghiện đâu, nên thi thoảng cụ mới hút chơi thôi. Thêm nữa, cái giống thuốc phiện này thực ra là cũng có nhiều công dụng, như là chữa được kiết ly này, đau khớp này, và nhiều loại bệnh khác nhau nữa. Tất nhiên dùng nhiều thì có hại, cái này tao biết mà. Cụ Kí bảo. Tôi có hỏi cụ là mua thuốc ở đâu, cụ chỉ cười và nói rằng mua ít ít ở vùng khác thôi, mà chính quyền làm dữ quá cho nên dạo này cũng khó mua lắm rồi. Trồng anh túc thì hồi xưa dân bản nhà nào cũng trồng, vừa để mình hút, vừa mang đi bán. Thế nên vùng La Pán Tẩn này lúc trước mới được mệnh danh là cấm địa bàn đèn.

- Bây giờ chính quyền cấm rồi, nên không ai trồng nữa. Cụ Lý Bốt Kí nói.

Khi các cụ già dứt ra bữa tiệc bàn đèn thì thầy Lý A Sằng cũng đã làm phép xong, những mảnh giấy bùa được gỡ ra và đốt đi để tiễn biệt năm cũ. Màu lửa cháy vàng rực, xen lẫn với tiếng chiêng ngân vang của thầy cúng, khiến không gian của căn nhà trở nên mờ mờ ảo ảo như trong huyền thoại, và như sức mạnh tâm linh huyền bí của thầy cúng trong văn hóa người Mông.

Khắc Giang



Thanked by 3 Members:

#409

DIMATTEO



 

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 321 Bài viết:
  • 277 thanks

 

Gửi vào 04/02/2012 - 09:33

Bạn Hiendde có ebook Cuộc chiến giữa các Pháp Sư 2 cõi âm dương ko?

Thanked by 1 Member:

#410

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 04/02/2012 - 12:00

Chào bạn HuyenMinhThanChuong

Sẽ cố gắng đăng lên cho các bạn đọc.

hiendde

#411

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 10/02/2012 - 09:46

GIẢI MÃ BÍ ẨN NGÔI ĐỀN - CỨ BƯỚC VÀO HẬU CUNG LÀ TRẢ GIÁ BẰNG CÁI CHẾT

Phần hậu cung của đền có thể hiểu như nơi nghỉ ngơi của Thánh, không phận sự tuyệt đối không được bước chân vào nếu không muốn gặp những tai họa khủng khiếp.

Cánh cửa ấy tưởng chừng cũng đơn giản như bao cánh cửa khác trong vô vàn những ngôi đình đền trên khắp Việt Nam, cũng mang đặc trưng sơn màu cánh gián và đường nét sơn son thếp vàng, ngả màu cũ kỹ và bốn góc cánh cửa tróc lở theo thời gian. Vậy nhưng từ bao đời nay, hàng chục vạn người từng đến thăm ngôi đền Cao, thôn Đại, xã An Lạc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, đều tò mò vì không ai biết phía sau cánh cửa hậu cung này là bí mật gì mà người nào phạm lời nguyền, cứ bước chân qua là mất mạng, nhận những reo rắc đen đủi cho người thân.

Cụ ông Dương Văn Luyện bảy mươi bốn tuổi, cùng ngụ địa chỉ nêu trên, cho biết theo phong tục địa phương quy định từ ngàn năm nay, mỗi năm đến ngày lễ hội thì làng phải bầu ra một quan trùm và bốn quan đám. Bốn quan đám phụ trách việc lễ tế ở bốn ngôi đền trong quần thể đền Cao, còn quan trùm thì phụ trách chung mọi việc. Từng hàng chục năm liên tục được làng bầu làm những chức sắc này và năm nay được phong làm quan trùm, nên không ngõ ngách nào trong ngôi đền này ông không biết, nhưng riêng những bí mật sau cánh cửa hậu cung thì có chết cũng không nói.

Phong tục quy định điều cấm kỵ đầu tiên mà các quan trùm, quan đám, phải tuân thủ là họ có trách nhiệm mỗi tháng phải hai lần vào hậu cung để dọn dẹp và biết được một phần cảnh trí trong đó. Thế nhưng trong suốt thời gian còn giữ chức, họ phải tuân theo luật, có biết cũng không nói, tò mò không biết thì cũng không hỏi và sau này dù có còn giữ chức hay không, thì những gì đã được nhìn thấy trong hậu cung, thì cũng sống để bụng, chết mang đi. Vì thế mà cho đến giờ, trong hậu cung của đền Cao có những bí mật gì vẫn là một điều bí ẩn.

Đền Cao được bao bọc bởi rừng cây xanh mướt, càng thêm uy nghiêm bởi sự hiện diện của năm mươi bốn cây lim cổ thụ hàng trăm năm tuổi, trong đó cụ lim thọ nhất thì đã hơn tám trăm tuổi, cao tới hai mươi mét. Mới đây, những cây lim này đã được hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, công nhận là cây di sản Việt Nam. Nếu biết rằng trước đó, cả nước mới chỉ có mười cây cổ thụ nhận được danh hiệu này, thì việc tới năm mươi bốn cây hội tụ cả ở đền Cao đã là một sự lạ kỳ. Việc thờ cúng ở đền Cao cũng là một sự lạ vì đền không thờ tượng như một số nơi khác mà thờ bài vị của Thánh. Vào lễ hội, bài vị được mặc áo trông như người ngồi trên ngai, qua bao năm mà bài vị vẫn mới tinh, dọc theo bài vị là hai hàng chữ Hán vàng óng chưa hề trầy xước.

Phong tục oái oăm này còn ràng buộc những vị chức sắc những quy định cực kỳ ngặt nghèo khác. Trong những ngày lễ hội, dù có giỗ chạp thì các chức sắc cũng không được thắp hương lên bàn thờ gia tiên, thậm chí không được... ăn các món trên bàn thờ nhà mình. Cũng thời gian này họ đều phải ăn chay, tắm rửa sạch sẽ; khi làm lễ phải mặc đội khăn, che miệng; đặc biệt thuộc nằm lòng quy tắc khi vào hậu cung thì bước chân phải trước, ra khỏi cung bước chân trái trước.

Lệ làng thì cứ thế mà tuân theo, trong tâm tưởng của những người dân trong vùng dù vẫn có lúc tò mò, nhưng sự tò mò ấy rồi cũng bị quên đi khi các cụ cao niên cho biết:

- Phần hậu cung có thể hiểu như nơi nghỉ ngơi của Thánh. Mọi người quan tâm làm gì!

Những người dân đến vãn cảnh, cúng bái có lỡ lạc chân qua khu vực có cánh cửa luôn được khóa cẩn thận này, cũng chẳng ai dám ghé mắt vào vì sợ lời nguyền người xưa truyền lại là, không phận sự tuyệt đối không được bước chân vào, nếu không muốn gặp những tai họa khủng khiếp. Chuyện về cánh cửa bí ẩn chỉ rộ lên khi khoảng hai mươi năm trước, một du khách đã trả giá bằng chính mạng sống của mình khi nằng nặc đòi vào tận nơi để chụp hình.

Cụ Luyện kể lại năm ấy ông cũng là quan đám của đền và sự việc xảy ra ngay dịp kỷ niệm đền được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Hôm ấy sau buổi lễ, một nam du khách trung tuổi vốn là một người quen biết đến từ tỉnh Hải Dương cứ nằng nặc đòi quan đám phải mở cửa hậu cung cho mình vào chụp ảnh. Dù ông Luyện can ngăn thế nào, vị khách này cũng không nghe rồi khẳng định:

- Tội vạ đâu tôi chịu. Chết tôi cũng chịu.

Ông Luyện đành phải mở cửa hậu cung cho khách vào, còn mình quỳ khấn ở ngoài. Trong hậu cung, ánh đèn flash lóe liên tiếp vài cái, sau một hồi vãn cảnh và chụp ảnh xong, vị khách đi ra mang nét mặt rất hoan hỷ. Trong trí nhớ của ông lão đã bước vào tuổi thất thập cổ lai hy này, đây là lần đầu tiên có người lạ dám bước vào hậu cung của đền như thế. Những chuyện lạ với vị khách này xảy ra từ ấy. Bảy bức ảnh trong hậu cung người này chụp, khi mang về rửa thì phim đều đều đen sì, tối như đêm ba mươi. Rồi ba ngày sau, tin từ tỉnh báo về vị ấy đã bị đột quỵ sau một buổi họp. Được đưa đi chữa ở khắp các bệnh viện nổi tiếng ngoài Hà Nội, nhưng chưa đầy một tháng sau, du khách bạo gan này không qua khỏi.

Tai họa chưa dừng ở đó. Khoảng ba tháng sau, con trai duy nhất của người này thắt cổ tự vẫn, nghe nói là phẫn uất vì chuyện bị vợ ngoại tình. Tiếp một tháng nữa, một người trong gia đình ấy khi đang đi công tác xa bỗng bị có người chỉ mặt mà bảo:

- Nhà mày có người xúc phạm đến Thần Thánh. Nếu không về làm lễ cầu xin thì còn có thêm người chết nữa.

Người này về kể chuyện thì gia đình mới móc xích các sự việc lại với nhau và tá hỏa tam tinh ngờ rằng đó là hậu quả của việc phạm Thánh. Ông Luyện kể rằng phải sau khi sắm lễ tìm lên đền tạ tội, thì gia đình ấy mới được yên.

Dư luận trong khu vực lại thêm một lần dậy sóng với sự việc một thanh niên ngỗ ngược, đã trả giá vì muốn thử độ thiêng của đền những ngày cuối năm 2011. Một thanh niên ở xã Đồng Lạc, cạnh xã An Lạc, nhiều năm nay ấm ức trước luật đại kỵ trước khi vào lễ đền Cao không được ăn thịt chó, nên đã rủ vài người bạn đi làm một bữa thịt chó xả xui cuối năm, rồi mặt đỏ bừng bừng lên lễ đền. Chỉ vừa bước lên đến sân nghỉ, còn cách sàn đền chừng chục bậc tam cấp nữa thì chàng trai bỗng ngã dập đầu, chúi mặt xuống đất. Người đi lễ hốt hoảng chạy lại xem thấy nạn nhân miệng cứ há hốc ra, không kêu được mà cũng không cựa quậy gì được.

Những người bạn của anh chàng vội vàng chạy vào cầu cứu quan trùm và khi nghe rõ sự tình, người coi đền lập tức thắp chín nén hương kêu cầu trước bài vị Thánh, rồi mang ra cho một chén nước đã được đặt làm lễ cho đám bạn cạy miệng đổ vào mồm thanh niên“ngông cuồng. Lạ thay từ lúc đó anh chàng kêu được ra tiếng và cà nhắc đi về nhà. Sau sự việc, bố mẹ của chàng thanh niên nghịch ngợm này đã phải sắm lễ lên đền, khẩn cầu Thánh tha thứ cho cái việc trẻ đầu xanh lỡ nghịch dại.

Một người khác tự nhận mình gặp phải những tai ương ghê gớm hơn vì dám phạm kỵ húy ở đền Cao, là bà Lương Thị Cải, người huyện Nam Sách, lấy chồng thôn Đại. Cuối năm 2010 bà dâng một mâm lễ lên đền gồm toàn những món chay do người con dâu cả của bà bày biện. Bà Cải thuật lại, bà không nhớ ngày hôm trước người con dâu này vừa phải về quê để làm lễ sang cát cho bố đẻ, trong khi một đại kỵ khác khi dâng lễ lên đền Cao, theo tục lệ là người biện lễ, tuyệt đối trước đó ít ngày không được dính vào chuyện tang trở.

- Xăng xái đội lễ lên đền, vừa bước vào cửa Thánh và có cảm giác tôi chỉ sượt qua rất nhẹ, mà đôi lục bình nặng trịch trên bàn thờ bỗng rơi vỡ tan tành. Lúc ấy tôi sợ đến tái mét cả mặt mày nhưng nghĩ mình vô tình làm vỡ lọ nên chỉ kêu cầu xin lỗi Thánh về việc đó thôi, đâu ngờ Thánh quở về việc khác. Bà Cải thuật lại.

Ngày đó cứ nghĩ rằng mình phạm lỗi làm vỡ lục bình của đền nên người phụ nữ này đã cung tiến trả đền những lọ lục bình khác, nhưng chỉ được dăm ngày là những đồ đền bù này lại rơi vỡ hoặc sứt mẻ như kiểu, lời xin lỗi không được chấp nhận. Trong suốt nữa năm sau đó gia đình bà liên tục gặp tai ương: Người con trai cả hành nghề lái xe đường dài đã hàng chục năm, bỗng gây tai nạn liên tiếp, không đến nỗi chết người nhưng cũng phải bán cả xe để trang trải; người con trai thứ thì làm ăn gặp thất bát, bị bạn hàng lừa mất cả tỷ đồng rồi bỏ trốn; đen đủi nhất là người con trai út, anh này đang đi chơi với bạn bè thì gặp hai băng nhóm đuổi đánh nhau, chẳng hiểu nhìn gà hóa cuốc thế nào, mà trong đám đánh nhau có đối tượng tưởng nhầm anh là đối thủ nên bị đánh nhầm, bị tặng” trận đòn thừa sống thiếu chết, phải đi viện khâu hàng chục mũi trên đầu, lại gặp nhiều rắc rối khi bị cơ quan công an gọi lên làm việc mấy lần, vì nghi có liên quan đến hai băng nhóm côn đồ đó.

Thấy gia đình gặp nhiều tai họa bất thường, bà mẹ điên đầu tìm gặp người làng để hỏi ý kiến và soát xét lại mọi việc từ đầu, cuối cùng đã phát hiện ra sơ xuất vì đã dùng lễ do người con dâu có tang sửa soạn. Một lần nữa, bà lại biện lễ lên đền thống thiết kêu cầu và cho rằng:

- Từ ngày đó gia đình tôi không gặp thêm tai ương gì nữa. Bây giờ tôi gần như đã thành người nhà đền, gặp việc gì cũng lăn xả vào làm, không bao giờ dám quản ngại, chỉ mong Thánh chứng cho lòng thành của tôi.

Người trong khu vực còn rỉ tai nhau việc cấm kỵ ngồi lên lưng đôi voi và ngựa bằng đá chầu trước cửa đền. Điều cấm kỵ này xuất phát từ sự việc một nhóm thanh niên từ trên huyện về đền, dám cưỡi voi tranh với thánh. Chuyện xảy ra vài năm trước khi nhóm thanh niên dạo quanh thăm thú cảnh đền, chụp ảnh rồi một thanh niên hứng khởi muốn có bức hình mình đang cưỡi voi đá ngựa đá. Dù người nhà đền đã hết sức ngăn cản nhưng rình lúc không ai trông coi, cậu thanh niên vẫn cố tình ngồi lên lưng một chú voi để chụp vội kiểu ảnh. Mọi chuyện vẫn bình thường đến khi nhóm thanh niên ròi đền ra về. Vừa bước khỏi cổng đền, cậu thanh niên bị trúng gió bỗng ngã vật ra đất, miệng sùi bọt mép, được đưa tới bệnh viện nhưng cả đời chịu cảnh bị liệt nửa người bên phải.

Với những câu chuyện như truyền thuyết, người trong khu vực cho rằng ngôi đền này như một mảnh đất thiêng của họ. Có những người từ xa tới nghe chuyện đã phản bác:

- Nếu là đền thiêng thì tại sao gần đây mới xảy ra chuyện?

Những người cao niên bèn dẫn ra một loạt những dẫn chứng xa xưa khác: Từ những năm khi thực dân Pháp xâm lược, vùng đất này luôn là nơi bị giặc càn quét và có những đêm từ bên kia sông giặc bắn sang đến hàng trăm quả đại bác, nhưng chưa từng một quả đạn nào rơi vào khu vực đền Cao. Đó là lý do khiến ngôi đền có tuổi thọ hàng ngàn năm mà vẫn giữ nguyên được bài vị thờ Thánh, ngọc phả và mười hai đạo sắc phong từ thời tiền Lê để lại. Một người già khác cho biết, còn có một khu vực cấm khác trong ngôi đền, là lạch nước ngăn cách bàn thờ Thánh, bày các loại vũ khí và cửa hậu cung được coi như biên giới của người đi lễ. Dù lạch nước chỉ rộng chưa đầy mười cm, nhưng dân trong thôn chưa bao giờ từng dám bước qua ranh giới đó. Khách thập phương khi đến đây cũng được nhắc nhở cẩn thận để không phạm vào cấm kỵ này.

Lý giải về những câu chuyện người ta cho rằng bị Thánh vật, một vị cán bộ UBND xã cho biết cũng có nghe nhiều lời đồn đại, nhưng rất có thể đó chỉ là những tai nạn ngẫu nhiên.

- Ví như trường hợp cậu thanh niên ăn thịt chó, uống rượu, say mèm như thế mà leo mấy chục bậc cầu thang lên đền, ngã dập mặt cũng không có gì lạ cả, ông nói.

Vị cán bộ xã cũng đặt vấn đề:

- Những câu chuyện mang đầy chất tâm linh ấy có thể do chính người dân địa phương đồn thổi, mục đích là để tăng thêm sự huyền bí cho ngôi đền của thôn mình. Tuy nhiên dù chưa rõ thực hư những câu chuyện như thế nào nhưng đền Cao từ nhiều năm nay vẫn là địa điểm thu hút khách thập phương về vãn cảnh, tế lễ.

Và cái lợi lớn nhất từ những câu chuyện đền thiêng mà khách đến thăm nhận thấy là, từ rất nhiều năm nay ngôi đền chưa từng một lần mất trộm. Ông Nguyễn Văn Đức, Trưởng ban quản lý di tích đền Cao khẳng định:

- Đồ thờ tự của đền không ai dám tơ hào, nhiều năm qua không xảy ra việc mất mát dù trong đền có nhiều đồ cổ, quý giá dù có những thứ rất dễ lấy, dễ giấu như những chiếc chén đựng nước cúng làm bằng ngọc.

Về việc dân làng có khó chịu khi phải sống chung với những điều cấm kỵ khắt khe khi bước vào đền Cao hay không, ông Đức cười:

- Những quy định này đã trở thành luật tục của làng, nên nhất nhất ai cũng tuân theo, đã không khó chịu mà thậm chí còn có phần tự hào vì đã giữ được bản sắc của làng mình mà bao đời cha ông lưu truyền.

Theo ngọc phả đền Cao ghi lại, vào thời Đinh ở Nga Sơn, phủ Hà Trung, Thanh Hóa, có vợ chồng ông Vương Đức Tĩnh và bà Đào Thị Thanh sống với nhau đã lâu nhưng chưa có con nên quyết đi tìm cuộc sống mới. Khi đến vùng đất này, thấy đây là nơi bình yên, thuần hậu nên ông bà đã ở lại sinh cơ lập nghiệp. Làm ăn ngày càng khá giả nhưng ông bà vẫn không quên ngày ngày cầu Trời khấn Phật cho sinh quý tử, rồi lời khẩn cầu thấu tới thần linh. Một đêm bà đang tắm bên bến sông bỗng gặp gió lớn sóng to, ầm ầm như rồng hút nước, sau đó bà thụ thai, đủ chín tháng mười ngày thì sinh một lúc được năm người con, gồm hai gái ba trai, đặt tên là Vương Thị Đào, Vương Thị Liễu, Vương Đức Minh, Vương Đức Xuân, Vương Đức Hồng. Năm người con lớn lên học hành binh thư chữ nghĩa rất tinh thông. Một hôm hai ông bà về quê hương bản quán, đến bến đò Thần Phù, Thanh Hóa, không may gặp bão đắm thuyền và mất tại đó vào ngày mồng 6-3.

Năm 981 quân Tống xâm lấn bờ cõi nước ta. Vua Lê Đại Hành truyền hịch đi khắp nơi tìm người hiền tài ra phò vua giúp nước. Lúc này năm người con họ Vương đang có tang cha mẹ nên không dám về triều ứng thí. Đến khi nhà vua hành quân đi đánh giặc qua nhận thấy ở đây địa thế hiểm yếu liền cho lập đồn trại đóng quân. Hàng ngày thấy những người con họ Vương đi ngang qua cửa doanh đồn, Vua nhận thấy họ đều là người tài năng liền cho thử tài và chiêu dụng, phong chức cho ba anh em trai là Quyền chưởng Trung hoa tể đại tướng và phong cho hai chị em gái là Mẫu nghi chí tôn thiên hạ.

Sau khi nhận tước phong, các ngài cùng xin phép nhà vua cho được cầm quân ra đánh giặc. Khi ấy năm vị tướng cầm quân tiến đánh theo đường bộ, giáp chiến một trận cực kỳ ác liệt khiến giặc thua to bỏ cả đồn tháo chạy. Sau này bờ cõi Đại Việt được giữ vững, vua cho mở tiệc khao thưởng quân sĩ và nhân dân. Nhà vua dẫn quân trở về kinh đô, còn năm ngài xin ở lại mãn tang cha mẹ sẽ về triều bái yết. Tục thắp hương đen ở đền Cao xuất phát từ tích này. Hương màu đen tượng trưng cho năm vị mặc quần áo đen để tang cha mẹ, thể hiện lòng chí hiếu của con cái.

Không ngờ ý trời linh hóa, đêm hôm đó trời đất tối tăm mờ mịt, mưa gió ầm ầm, năm ngài đều thăng hóa về trời (đêm 24 tháng Giêng). Sáng hôm sau trời đất lại trong sáng trở lại, dân kéo đến xem thì đã thấy mối đất đùn thành những ngôi mộ lớn. Người dân liền lập biểu dâng lên triều đình. Nhà vua nghe tin vô cùng thương xót bậc quân thần có công lao với đất nước, liền sai quan triều đình về tận nơi làm lễ phúng viếng và phong mỹ tự cho năm ngài: Vương Thị Đào là “Đào hoa trinh thuận công chúa”. Vương Thị Liễu là “Liễu hoa linh ứng công chúa”. Vương Đức Minh là “Thiên Bồng Đại tướng quân đại Vương”. Vương Đức Xuân là “Dực thánh linh ứng đại vương”. Vương Đức Hồng là “Anh vũ dũng lược đại vương”. Năm vị được nhân dân tôn làm “Thượng đẳng phúc thần” và đã xây dựng đền thờ phụng.

DHT - Sưu Tầm




Thanked by 2 Members:

#412

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 11/02/2012 - 10:15

NỮ CHÚA THỔI ĐỘC VÀ BÍ TRUYỀN BÀI THUỐC TỪ RỪNG MA

Quanh các khu rừng ma của người Vân Kiều vùng cao Quảng Trị, các thầy vẫn âm thầm lưu truyền phương thuốc bí ẩn thổi giải độc, thổi gẫy tay, cầm máu... mà theo họ, muốn càng linh nghiệm thì lấy loại cây mọc sát bên rừng ma.

Trời tối mịt, bà Chơn, tên thật Hồ Ta Pưng, bản Kớp, xã Hướng Phùng, Hướng Hóa, Quảng Trị, mới cắt rừng trở về nhà, trên tay cầm lá cây để chuẩn bị thổi giải độc cho một thanh niên chờ sẵn. Anh Hồ Cất hai mươi lăm tuổi, người cùng bản không may ba ngày trước, trên đường đi lấy củi bị con rắn cắn vào bàn tay khiến toàn thân đau nhức, cánh tay sưng rộp, chữa miết không khỏi... Bà Chơn ít nói, chăm chú nhìn đứa trai bản, rồi vào nhà lấy ra khay đựng một chai rượu, một tấm vải, hai cái bát, một cây đăng làm bằng sáp ong rừng và tháo chiếc vòng bạc dầy đặc ở cánh tay phải đặt xuống dưới khay... Tức thì, bà lầm rầm niệm chú những lời thì thào trong khóe miệng, ngấp ngụm rượu, lấy cây đăng bỏ vào miệng, hơ hơ vào chiếc lá rồi cứ thế vừa xoa lá, vừa phun rượu vào vết thương của chàng trai bản.

Buổi trị độc có một không hai này kéo dài chừng gần nửa tiếng đồng hồ giữa cái âm u, bí hiểm cùng tiết trời lạnh buốt đêm triền núi. Bà Chơn hết niệm chú lại phun rượu, hơ lửa cũng phải đến chục lần.

- Mai mày phải đến tiếp nhé, một ngày ba lần. Độ hai ba ngày nữa là mày khỏi thôi. Bà dặn người trai bản.

Nếu không trực tiếp chứng kiến cảnh thổi độc này, thì có cạy răng bà cũng không tiết lộ với người ngoài những chuyện trong nghề. Bà Chơn bảo:

- Cái lá đó tác dụng làm tan máu, cầm vết thương, còn lành hay không là ở câu chú niệm trong miệng. Trước và sau mỗi lần niệm đó phải làm lễ, mời ông bà tổ tiên về phù giúp, để lời chú đó công năng mạnh nhất.

Đưa ánh mắt ra khoảng tối bao la, bà Chơn khẽ khọt như sợ ai nghe thấy:

- Cái lá này cũng dễ kiếm thôi. Nó là lá từ bi nhưng phải lấy ở những khu sát rừng ma thì mới tốt. Sát thôi chứ không phải trong rừng ma nhé, vì nếu chặt lấy cây ở rừng ma sẽ bị rừng phạt, bệnh không khỏi mà càng nặng hơn đó.

Theo chỉ dẫn của bà, khu rừng ma của bản Kớp phải đi qua hai quả đồi, đến gần bên dòng suối thì nhìn tay trái sẽ thấy cây cối um tùm đó là nghĩa địa của người Vân Kiều trong bản. Mỗi lần lấy lá từ bi, bà Chơn phải cắt rừng từ sớm có khi đến tối mịt mới về. Gần sáu mươi mùa rẫy qua, bà Chơn được dân bản nhắc đến như nữ chúa, người kỳ cựu nhất còn sót lại của phương cách bí truyền thổi giải độc. Chẳng ai nhớ nổi đã có bao nhiêu người đến bà để thổi giải độc, cứu sống. Ngay cả người Kinh lên trồng cao su, làm kinh tế khi bị độc, gẫy tay cũng tìm đến bà.

- Thổi giải độc chỉ những người trong nhà mới truyền được cho nhau. Một người chỉ truyền lại cho hai người mà thôi. Mười tuổi tui được học rồi, phải kiêng kỵ nhiều năm. Ít là ba năm, nhưng muốn hiệu nghiệm thì phải kiêng đến suốt đời.

Bà Chơn bật mí quanh cách truyền bí thổi giải độc riêng có của dân tộc Vân Kiều mình. Muốn truyền thổi phải ăn các loại con còn sống và có đầu, nhưng phải kiêng ăn các loại cá chìm, sống dưới bùn đất: chình, lươn, trê...mà chỉ ăn loài cá nổi như cá mương, diếc, rô...đồng thời kiêng ăn thịt cầy, mè, gà rừng và các loại thú, bò sát dữ: hổ, sói, rắn... khi uống, chỉ được uống nước lấy từ sương rừng đọng trên các kẽ lá, trường hợp uống nước sông, suối thì phải uống ngược tức là xoay mình ngược lại với dòng chảy của con sông mới được uống; thậm chí nếu phát hiện dây phơi quầy áo thì nhất định không được chui qua; không được dùng tay bẻ cây rừng mà chỉ được dùng rựa, dao chặt cành...

Bà Chơn bảo:

- Khó nhất là học các câu thần chú. Mỗi câu phải mất ít nhất gần nữa năm mới được. Đúng ngày rằm các tháng phải ôn luyện. Vừa kiêng vừa học, nếu vi phạm chỉ một điều cấm kỵ thôi thì mọi phép thổi sẽ mất hết, không học lại được nữa. Khóa học đặc biệt này kéo dài đến tận ba năm. Tuy nhiên sau hai năm đầu không được thổi cho ai, để các phép này già đi mong có hiệu nghiệm cao nhất.

Tôi đánh liều hỏi về những câu chú, tức thì bà Chơn chau mày:

- Đó là điều tuyệt mật nhất. Chỉ khi truyền người ta mới được nói cho nhau. Ngay cả khi thổi độc nếu bị người ngoài nghe được cũng sẽ hỏng phép.

Ông Phan Văn Lực, Chủ tịch UBND xã Mò Ó, Đăkrông, Quảng Trị cho biết:

- Chuyện người được thổi khỏi bệnh là có thật, nhưng vẫn chưa có cơ sở nào nghiên cứu cách khoa học. Trước đây do y học chưa được phổ biến ở bản làng, người dân dùng các cách dân gian để chữa trị. Giờ phát triển rồi, xã tuyên truyền, vận động người dân khi bị thương, gặp tai nạn trước hết nên để các cơ sở y tế để điều trị để đảm bảo an toàn tính mạng.

DHT

#413

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 16/02/2012 - 08:59

GƯƠM THẦN VÀ SÁCH TIÊN TRI NƠI ĐẠI NGÀN TRƯỜNG SƠN

Thanh gươm biết chỉ dẫn đúng sai, phải trái; cuốn sách cổ biết rõ chuyện được, mất, chuyện quá khứ, tương lai... là hai báu vật mà người Mày, người Khùa nơi đại ngàn Trường Sơn tôn sùng, thần kính. Người Mày và người Khùa sống tập trung ở hai xã Dân Hóa và Trọng Hóa, huyện Minh Hóa, Quảng Bình, những nơi được coi là vùng đệm của vườn quốc gia Phong Nha, Kẻ Bàng.

Theo chân Hồ Vóc, Phó Chủ tịch Hội CCB xã Dân Hóa, chúng tôi tìm đến nhà ông Hồ Pom ở bản Hà Vi, cách trung tâm xã vài cây số. Ông Hồ Pom là chủ nhân của thanh gươm có nhiều phép lạ mà dân bản bao năm nay vẫn thường sùng kính. Theo đó, ở bản, bất kỳ ai gặp chuyện gì khó xử, khó nghĩ, khó giải đáp thì đều đến nhờ sự phân giải của thanh gươm. Thậm chí, khi làm bất cứ việc gì lớn lao nhưng còn đang phân vân, do dự người ta cũng viện tới thanh gươm, để sức mạnh siêu nhiên của nó chỉ lối, mách đường xem có nên làm hay không. Khi có người cậy nhờ, ông Hồ Pom sẽ làm phép gọi ma mút về nhập vào thanh gươm để phân xử công việc.

Nhà ông Hồ Pom nằm ở đầu bản Hà Vi, chênh chênh nơi chân núi. Tuy có tới sáu người con nhưng ông ở một mình, chẳng mấy khi giao tiếp với ai. Càng bí ẩn hơn là từ ngày đứa con trai thứ tư của ông bỗng dưng đổ bệnh rồi lăn ra chết, ông ít ra ngoài. Người ta bảo, khi có con ruột chết thì trong vòng ba năm ma mút trong nhà sẽ bỏ về núi không tài nào giữ được. Khi nghe cán bộ Hồ Vóc giới thiệu chúng tôi là nhà báo, muốn tận thấy việc ông biểu diễn phép thuật bằng thanh gươm quý, ông lắc đầu nguầy nguậy. Ông bảo, từ đời ông cố, rồi đến đời cha, đời ông chưa từng có việc đó xảy ra.

- Không thử được đâu, ma mút không nghe đâu, chỉ có người thật sự có nhu cầu mới làm được! Nếu cố tình làm, ma mút nổi giận là khổ đấy! Không được đâu!.

Vừa hốt hoảng nói ông vừa xua tay từ chối. Theo ông Hồ Pom thì thanh gươm này dòng họ ông lấy từ bên Lào. Chẳng biết nó từ đời nào nữa, chỉ biết nó được truyền lại trong họ từ đời này qua đời khác. Nể cán bộ Hồ Vóc, ngại chúng tôi lặn lội từ xa tới, sau một hồi lưỡng lự ông mới vào buồng lấy thanh gươm đó ra cho chúng tôi xem. Thanh gươm nặng chừng một cân, dài hơn nửa mét, được nhét trong chiếc vỏ làm từ da trâu nhẵn bóng. Lưỡi gươm sắc lẹm, cảm tưởng có thể ngọt lịm cắt phăng bất cứ chướng ngại vật nào. Ông Hồ Pom bảo, từ khi nhận thanh gươm từ tay cha ông tới nay, ông chưa một lần phải mài lưỡi gươm nhưng nó vẫn cứ sắc lạnh.

Trước khi nhắm mắt về với Giàng, cha ông đã truyền dạy cho ông lời chú để gọi ma mút nhập vào lưỡi gươm. Bài chú ấy ở đây chỉ mình ông biết và nó là bí mật của dòng họ. Muốn gọi mời ma mút, người làm lễ phải chuẩn bị bốn chum rượu cần, một chiếc đầu lợn hoặc một con gà. Tất cả được biện ra sàn nhà, đối diện chiếc mâm có để bát gạo con đầy, cùng những cây nến được nặn từ sáp ong. Khi lễ vật đã biện xong, ông Pom vào buồng lấy thanh gươm quý ra đặt lên mâm và ngồi khoanh chân trước mặt người có việc muốn hỏi. Nến được thắp lên, khi lửa cháy đều thì ông bắt đầu nhắm mắt lẩm bẩm đọc chú hệt như những đạo sĩ vẫn thấy trên phim ảnh.

Đọc chú xong, ông tuốt gươm ra, huơ huơ mấy đường rồi từ từ cắm mũi gươm xuống mép bát gạo. Khi tay vẫn còn giữ chặt thân gươm, ông lại nhắm nghiền mắt và lại lầm rầm đọc chú. Chừng gần phút sau, khi câu chú cuối cùng vừa dứt thì cũng là lúc ông buông tay khỏi thanh gươm. Lẽ thường, nếu buông tay, đương nhiên thanh gươm sẽ đổ bởi những hạt gạo tơi rời trong bát không thể giữ cho thanh gươm đứng thẳng. Thế nhưng, vô cùng kỳ lạ, nếu ma mút đồng ý việc người đối diện thỉnh cầu thì thanh gươm sẽ đứng thẳng hệt như có bàn tay vô hình nào nâng giữ. Ông Hồ Pom bảo, chỉ có những việc cực kỳ quan trọng người trong bản mới phải xin ý kiến ma mút qua thanh gươm này.

Rời nhà ông Hồ Pom, chúng tôi ngược ra bản Y Leng, tìm lên nhà ông Hồ Kết, người đang sở hữu những cuốn sách có khả năng tiên tri lạ lùng. Ông Hồ Kết năm nay đã chín mươi sáu tuổi, nguyên là Phó Chủ tịch UBND xã Dân Hóa. Tuy đã ở gần ngưỡng bách niên nhưng ông Kết còn khỏe mạnh lắm. Cầu thang nhà sàn chênh vênh nhưng ông vẫn lên xuống thoăn thoắt. Cuốn sách thần bí có khả năng tiên tri kỳ lạ ông được thừa hưởng từ một pháp sư cao tay ở mãi bên Lào. Ông kể, thời gian đó, giặc Pháp vẫn thỉnh thoảng lùa quân lên vùng này càn quét. Cứ mỗi lần như vậy, cả bản ông lại rồng rắn kéo nhau sơ tán ở bên kia biên giới.

Và, trong một lần chạy loạn đó, ông đã vô tình gặp được một người Lào có nhiều khả năng đặc biệt. Người này có thể nhúng tay vào nồi nước đang sôi, lè lưỡi liếm lưỡi dao đã được nung hồng rừng rực. Đặc biệt, bằng khả năng dị thường của mình, người này có thể biết được chuyện quá khứ, tương lai khi chỉ nhìn vào cuốn sách được làm bằng lá cây rừng. Ngạc nhiên, kinh hãi trước những khả năng siêu phàm đó, ông đã tình nguyện ở lại nhà người này với hy vọng ông ta sẽ truyền cho mình những bí quyết siêu nhiên, lạ lẫm đó. Sau năm năm mòn mỏi sống nơi đất khách quê người, không phụ sự kiên trì của ông, người này đã tặng ông cuốn sách bằng lá cây đó và tận tình chỉ dạy cho ông cách thức khi đọc những điều tiên tri trong sách.

Khi trở về quê cũ, có cuốn sách thần bí trong tay, ông đã nổi tiếng khắp vùng. Dân bản hễ có băn khoăn gì về tương lai đều đến cậy nhờ ông xem giúp, đặc biệt là những việc liên quan tới chuyện mất mát tài sản. Việc này thì nhiều cán bộ xã, cán bộ biên phòng đang công tác ở đây đều thừa nhận khả năng lạ thường từ cuốn sách bí hiểm này. Tuổi này, khi ngày về với Giàng cũng không còn xa nữa, Hồ Kết lại chẳng biết trao lại bảo bối đó cho ai. Các con ông không biết chữ Lào, lại chẳng đủ kiên nhẫn để học cách thức xem những hình vẽ, những mật mã loằng ngoằng trong sách nên bảo vật ấy có quý đến đâu cũng là thứ vô tri.

Ông bảo, có lẽ khi về với đất, ông sẽ đem theo cuốn sách cùng những bí kíp lạ lùng mình đã dày công học được. Theo đó, không biết do trùng hợp ngẫu nhiên hay do một khả năng khác thường nào nữa mà rất nhiều lần, sau khi xem sách, ông Hồ Kết có thể phán chắc như đinh đóng cột là món đồ mà ai đó mất có thể tìm lại được hay không. Những món đồ ấy có thể là con trâu, con lợn, cái bàn, cái ghế, thậm chí chỉ là chiếc chìa khóa bé xíu bị bỏ quên hay rơi vãi ở tận những nơi xa lắc xa lơ. Cuốn sách ông Hồ Kết nhận được từ tay thầy mình được viết bằng chữ Lào trên lá cây rừng cán mỏng. Những trang sách được đục lỗ rồi xuyên bằng dây và ép vào nhau nhờ hai thanh gỗ làm bìa.

Không biết người ta đã tẩm ướp thế nào mà suốt mấy chục năm cuốn sách đó vẫn không bị mục nát, hư hỏng. Lật giở những trang sách lạ lùng ấy, ông Kết bảo, căn cứ vào những gì ghi trong sách thì việc tìm lại tài sản đã mất không đơn giản chút nào. Theo đó, người bị mất tài sản phải nhớ được khoảng thời gian mất. Mỗi một đồ vật, con vật bị thất lạc đều có những ngưỡng thời gian khác nhau, nếu vượt quá ngưỡng quy định đó thì phép mầu hết thiêng, không thể đoán biết có tìm thấy hay không được. Ông Hồ Kết coi cuốn sách là tài sản vô giá của mình. Ngày trước, có một người giàu có trong xã đến gạ ông đổi hẳn ba con trâu mộng nhưng ông đã khước từ.

DHT


Thanked by 1 Member:

#414

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 24/02/2012 - 00:48

THÀNH LỘC TỪNG BỊ VONG THEO VỀ NHÀ

Vì thấy anh diễn có duyên làm cho khán giả cười dữ quá, một người đã khuất theo anh về nhà khiến Thành Lộc ốm liệt giường.

PV: Anh vừa tham gia một bộ phim có đề cập đến vấn đề tâm linh và những lời nguyền bí ẩn. Anh có tin là có thế giới huyền bí không?

TL: Ngay từ đầu phim đã nói đây là bộ phim không có thật rồi (cười). nhưng tôi tin bên cạnh người sống còn có thế giới khác của những con người chưa siêu thoát. Tôi đi xa nhiều, đóng phim cũng nhiều và từng chứng kiến những chuyện khiến đoàn phim có người bỏ chạy rồi. Phim khác chứ không phải phim này.

PV: Trong quá trình đóng phim này, anh có làm gì chạm đến khía cạnh tâm linh không?

TL: Trong phim, có cảnh tôi đọc thần chú, thực ra là tôi bịa hết đấy. Tôi bịa ra từ những lần chứng kiến người ta lên đồng, nói những điều rất bất thường. Tôi đã sáng chế ra một ngôn ngữ không phải mình, không phải của ai mà cũng chẳng phải của nhân loại luôn. Nhưng bạn biết không, trước khi quay những đoạn đó, tôi lầm rầm khấn trong lòng là tôi không biết ở đây có sự hiện diện của ai, nếu tôi đọc câu gì mà trúng cái gì của các ông, các bà thì xin bỏ qua vì tôi không cố ý, đây là công việc nghệ thuật thôi. Cảnh đó được quay trong một khu vườn trống ở vùng quê ngoại thành Hà Nội, lạnh và có nhiều bối cảnh ghê lắm.

PV: Bộ phim được quảng cáo là một cuộc trinh thám của thế giới huyền bí. Bản thân anh có quan tâm khám phá thế giới đó không?

TL: Tôi thích kịch bản này không phải ở vấn đề ma mị mà vì tư tưởng trong câu chuyện. Tác giả chỉ mượn câu chuyện mang tính chất huyền bí để giải thích vấn đề mang tính con người hơn. Tôi rất thích câu slogan của phim: ”Người mở đầu phải là người kết thúc”. Điều này mỗi người sẽ hiểu theo gốc độ sống, qua kinh nghiệm sống của mình. Không phải ở Việt Nam mà cả những nước phát triển như Mỹ cũng làm phim ma. Hầu hết các phim đều toát ra chủ đề chung từ những sự việc có thật. Khi anh chơi với quỷ, sẽ có ngày anh là ma quỷ, nếu không anh sẽ là vật tế thần cho chính thế lực ma quái mà anh thích chơi với nó.

PV: Bản thân anh có bị ám ảnh về ma hay không?

TL: Tôi chưa thấy ma bao giờ nhưng tôi tin là có một thế giới khác. Vì tin và tôn trọng họ nên tôi nghĩ mình không bị ai nhát.

PV: Anh có tin vào những câu chuyện về bùa ngải tồn tại trong giới showbiz như nhiều người bàn tán không?

TL: Tôi tin là có thế giới khác nên những gì liên quan đến nó đều có khả năng có thật. tôi đã quen với thế giới trình diễn từ lúc là cậu bé tám tuổi. Trong nghề này, có những người chơi bùa ngải, điều này tôi chứng kiến từ nhỏ nên không lạ gì. Họ làm chuyện đó vì muốn thành công, nhưng cái gì cũng có cái giá của nó. Nếu anh đi ngược lại với quy luật tự nhiên, đến giờ G nào đó anh sẽ phải trả giá lại tất cả.

PV: Trong lời nguyền huyết ngải, ba thành niên tình cờ rơi vào câu chuyện rất lạ với những khám phá về thế giới huyền bí. Điều này có khiến anh liên tưởng đến thời tuổi trẻ của mình với những khám phá về cuộc sống như vậy?

TL: Tôi không có những khám phá như thế. Từ hồi nhỏ, ba má dặn tôi là đi chơi đâu xa đừng có nói bậy bạ xúc phạm đến ai. Nhiều khi đi trên xa lộ, thấy miếu thờ người chết, nếu mình biết thì nên đến đó đốt cây nhang, bái kiến họ thì đi luôn chứ đừng đứng đó nhìn chằm chằm, nếu hợp tuổi, họ đi theo mình luôn đó.

PV: Đó chỉ là niềm tin dân gian thôi chứ anh đã bao giờ gặp như vậy chưa?

TL: Tôi nhớ hồi mình còn là diễn viên Đoàn kịch trẻ Thành Phố Sài Gòn, người ta di dời nghĩa trang đi chỗ khác để làm nhà hát nhân dân, vì diễn ngoài trời cho công chúng xem nên gọi như vậy (cười). Một lần tôi đi diễn ở một nhà hát như thế ở Củ Chi, nghĩa trang đó binh sĩ chết rất nhiều. Tôi còn nhớ lúc diễn hài kịch, khán giả cười lăn, cười bò. Diễn kịch xong vì xa quá nên chúng tôi không thể về Sài Gòn ngay được, phải trải chiếu ngoài sân khấu ngủ luôn. Anh em nghệ sĩ có bao giờ ngủ liền đâu mà còn hát hò, đàn sáo đến ba, bốn giờ sáng mới ngủ, lúc đó tôi giỡn hăng lắm.

Về Sài Gòn được hơn một tuần lễ, tôi lăn đùng ra ốm. Lúc đó có dịch nhiễm siêu vi viêm gan A, tôi sốt vàng hết da, mắt đỏ ngầu nhìn rất ghê. Gia đình đưa tôi đi bệnh viện cấp cứu. Tôi uống thuốc hoài mà không hết bệnh, trong khi những người bị giống như tôi, họ uống thuốc vài ngày là được về nhà rồi.

Lúc đó, tình cờ có ông anh họ của tôi đi coi bói, ông thầy nói về xem có người nào trong gia đình hoạt động nghệ thuật, diễn ở nghĩa trang không. Người ta theo mình không phải hại đâu mà vì diễn cho khán giả cười dữ quá, quậy tưng bừng, họ thấy có duyên nên đi theo... Từ đó, tôi rút kinh nghiệm là đi đâu xa không bao giờ nói bậy bạ, giỡn hớt hay nói những câu vô tình xúc phạm đến người đã khuất đâu đó.

PV: Con người ai cũng nắm giữ những bí mật của riêng mình. Bản thân anh, một người nghệ sĩ nổi tiếng với công chúng, anh có cảm thấy áp lực phải che giấu một điều gì đó không?

TL: Tôi nghĩ mỗi người có một thế giới riêng, một góc khuất bất khả xâm phạm trừ khi mình muốn mở cánh cửa đó ra cho ai đó bước vào. Tôi tôn trọng không gian riêng của người khác thì người khác phải tôn trọng không gian riêng của tôi. Góc khuất đó chỉ là 1% còn 99% tôi luôn rộng mở. Cho nên tôi không có chuyện gì phải che giấu hay áp lực. Tôi nghĩ những điều bạn hỏi là khi sống không lành mạnh, không tốt, người ta mới che giấu, còn tôi sống lành mạnh thì không có gì phải che giấu cả.

Cuộc Sống


#415

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 04/03/2012 - 08:17

KỲ LẠ CHUYỆN HAI NỮ SINH BỊ VONG NHẬP

Chuyện hai nữ sinh của một trường THPT ở huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh bị vong nhập đang là vấn đề nóng được bàn tán xôn xao ở trường và khu vực dân cư nơi xảy ra sự việc lạ. Nhiều chi tiết khó tin, cả nhà trường và gia đình đều thừa nhận sự việc và đều không thể lý giải. Chúng tôi tìm về Trường THPT Nguyễn Văn Trỗi, nơi xảy ra hiện tượng hai nữ sinh từng bị ngất xỉu nhiều lần rồi có những hành vi khác thường mà mọi người xôn xao là bị vong nhập.

Dò hỏi, rất nhiều người dân sống cạnh trường cho biết, khoảng từ tháng 10-2011 thấy có một số học sinh thường xuyên ngất xỉu, nghe đâu bị ma ám. Ông Phan Văn Đạo, bốn mươi bốn tuổi, nhà cạnh cổng trường khẳng định đã nhiều lần nhìn thấy hai em học sinh nữ bị ngất, nói nhảm được bạn bè đưa lên phòng y tế của trường. Có khi, còn được gọi xe taxi vào tận trường chở về nhà. Với những học sinh tại trường, hầu như ai cũng biết chuyện hai nữ sinh lớp mười hai bị vong nhập. Cho đến bây giờ, đó vẫn đang là đề tài được các em xì xào, bàn tán lúc trên lớp cũng như khi về nhà.

Hai cô học trò được nói đến lâu nay chính là Nguyễn Thị H. và Trần Thị T. ở xã Tùng Lộc, cùng sinh năm 1994, là học sinh lớp mười hai, Trường THPT Nguyễn Văn Trỗi. Em Nguyễn Thị Thảo, xóm Tân Quang bốn, một người bạn cùng lớp rất thân với H. và T. cho biết:

- Em đã nhiều lần dìu H, T từ lớp học xuống phòng y tế trường, hay chở các bạn về nhà mỗi lần bị ngất nên em chứng kiến nhiều lần các bạn ấy nói sảng kiểu như bị ma nhập.

Rồi Thảo kể, có lần xỉu xong, tỉnh dậy T. nói ở phía dưới dãy nhà của lớp mười hai...có nhiều hài cốt chưa được bốc đi, họ đói rách, lạnh lẽo lắm. Rồi xin nhà trường lập bàn thờ, đốt hương vàng, áo vải cho...Lần khác, lúc T. bị nhập, nhóm bạn vẫn xưng hô bình thường kiểu tao - mày, liền bị T. quát lại với giọng rất lạ của người đàn ông trạc tuổi:

- Bây (bọn mày) mất nết, tao đáng tuổi cha, ông mà dám xưng hô thế à.

Cô nữ sinh này còn khẳng định, đã rất nhiều lần nghe T.và H. lúc ngất đi, tỉnh lại tự xưng mình là người rất xa lạ, khi nói là đàn ông năm mươi mốt tuổi, khi thì xưng là trẻ con. Lúc nào bị người lớn nhập là cứ đòi hút thuốc, uống rượu. Lúc trẻ con nhập vô là gào khóc, kêu đói bụng, đòi ăn kẹo, ăn quà vặt.

- Có lần, T. đòi rượu, một số người trong lớp đã đi mua cho năm ngàn được một cốc, T. uống một hơi là cạn. Rồi T. còn đòi hút thuốc, rít như một người nghiện thật sự, còn nhả khói ra được cả lỗ mũi... Bình thường, em không thể làm được như thế. Một bạn học của T. kể lại.

Em Nguyễn Văn Quân, là bạn cùng lớp với T.và H. cũng kể lại những lần chứng kiến hai bạn nói sảng nội dung trùng hợp với lời kể của Thảo và một số em khác. Chúng tôi tìm đến nhà của em Trần Thị T. ở xóm Liên Sơn xã Tùng Lộc để hiểu rõ hơn sự việc từ người trong cuộc. Ngồi bên mẹ, T. vẫn giữ vẻ trầm lặng, ít nói. Cố bắt chuyện, em kể, vào một buổi tối thứ bảy của tháng 10-2011, em đi học thêm ở nhà thầy Dũng (GV trường THPT Nguyễn Đổng Chi), khi tan học khoảng hơn tám giờ tối, chỉ còn em với một cô bạn thân ra về sau thì bất ngờ bị ngất xỉu rồi ngã giữa đường. T. được bạn gọi người nhà rồi đưa đến trạm xá huyện Lộc Hà. Sáng hôm sau, T. tỉnh táo rồi về nhà.

Những lần đến lớp sau đó, T. thấy choáng, đầu cứ hay lâng lâng. Rất khó tiếp thu bài. Nhiều lúc ngất xỉu lúc nào, nói sảng gì T. cũng không hề nhớ. Chỉ nghe bạn bè kể lại kiểu như mình bị ma nhập, tự xưng là người xa lạ, gào khóc, cứ đòi ăn uống. Nhiều lần còn xưng hô ngang, chửi bới. Những lúc bị nhập, cứ ngã bình bịch, đập đầu vào vật cứng nhưng T. không hề có cảm giác đau. Chỉ khi bình thường trở lại, em mới thấy đau nhưng không biết mình bị ngã lúc nào, ở đâu. Chị Đặng Thị Xuân, mẹ T. tâm sự:

- Nó bị chứng bệnh quá lạ lùng, cứ đến trường là ngất rồi nói sảng như một người xa lạ. Rất lạ là chỉ thấy bị ở trường, còn về nhà thì chưa hề bị.

Với em H. khi chúng tôi hỏi về những lần bị ngất nói sảng ở trường em không hề nhớ. Em nói:

- Em không nhớ mình đã ngất xỉu và nói sảng gì cả. Chỉ khi tỉnh lại nghe bạn bè kể thôi. Sau những lần ngất rồi tỉnh, em thấy mệt như một trận ốm dậy.

Anh Nguyễn Chí Luyện sinh năm 1971, bố của H. cho biết, con gái anh bị ngất xỉu vào khoảng tháng 9-2011 khi mới học lớp mười hai. Từ chỗ tuần ngất ba, bốn lần, sau đó nhiều hơn rồi nói sảng kiểu như bị ma nhập. Những lúc đó, con gái trở thành một người xa lạ, nói những chuyện người khác nghe mà sợ, rợn da gà. Theo anh Luyện, có lần khi con gái anh và T. bị ngất ở trường, anh chạy đến thấy T. tự xưng mình là bác, gọi anh bằng chú, còn đòi uống rượu, hút thuốc.

Trần Văn

Duy Tuấn


#416

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 19/03/2012 - 23:46

HÒN ĐẢO BỊ QUỶ ÁM Ở ITALY

Dù có vẻ đẹp quyến rũ và mê hồn, Poveglia vẫn là một hòn đảo hoang với truyền thuyết ma quỷ khiến người nghe phải dựng tóc gáy.

Đảo Poveglia nằm ở phía bắc Italy. Hòn đảo này không có chủ nhân, lối vào cũng bị cấm nghiêm ngặt. Hòn đảo chỉ có người đặt chân đến vào mùa thu hoạch nho trong năm, thậm chí những người câu cá cũng không bao giờ đi câu ở những nơi quanh đảo, vì sợ rằng có thể sẽ câu phải xương người.

Poveglia từng thuộc sở hữu của nhà nước Italy, nhưng sau đó được bán cho một thương nhân vào những năm sáu mươi. Sau một thời gian ngắn sinh sống trên đảo, thương nhân này cũng bỏ đi. Mới đây, có một gia đình đã mua lại hòn đảo này với mục đích biến nó thành khu du lịch. Nhưng chỉ sau một đêm, họ lại từ bỏ ngay ý định. Theo lời đồn, người con gái trong nhà bị rách mặt và phải khâu tới mười bốn mũi. Vậy điều gì đã khiến cho hòn đảo xinh đẹp này trở thành một trong những nơi ma quỷ và đáng sợ nhất thế giới?

Mọi chuyện bắt nguồn từ thời La Mã cổ đại. Đảo Poveglia là nơi những người bị bệnh dịch được đưa đến sống nhằm cách ly họ với những người xung quanh. Nhiều thế kỷ trôi qua, hòn đảo này vẫn được sử dụng với cùng một mục đích, đặc biệt là vào thời kỳ dịch bệnh hoành hành cao điểm ở châu Âu vào giữa thế kỷ mười bốn. Xác chết được nhóm thành những bãi to trên đảo rồi hỏa thiêu.

Trong giai đoạn khủng hoảng ấy, thậm chí cả những người chỉ bị nhiễm bệnh rất nhẹ cũng bị đày tới đảo Poveglia và thiêu sống. Theo truyền thuyết kể lại thì có tổng khoảng 160.000 bị hỏa thiêu tại đây. Thậm chí đến ngày nay, lớp đất cùng với những dấu tích còn lại của xác người đã tạo thành một lớp bụi dày bao phủ toàn bộ hòn đảo.

Đến năm 1922, những điều tồi tệ hơn lại bắt đầu xảy đến. Một bệnh viện tâm thần lớn đã được xây dựng trên đảo, trên đó có gắn một tháp chuông. Trong khi các bác sĩ và y tá nhận thấy không có gì bất thường, các bệnh nhân tâm thần thường báo rằng họ nhìn thấy bóng ma của nạn nhân bệnh dịch. Họ nói rằng họ có thể nghe thấy tiếng than khóc của những người bị tra tấn và tiếng la hét suốt đêm.

Tuy nhiên không ai tin lời của họ mà lại xem rằng đó là biểu hiện của bệnh tâm thần ở những bệnh nhân này. Và điều khủng khiếp nhất nằm ở câu chuyện về một người bác sĩ độc ác thường xuyên ngụy biện rằng mình đang tìm cách chữa trị cho bệnh nhân, nhưng trên thực tế là tra tấn họ. Ông bác sĩ này thường lôi bệnh nhân lên chiếc tháp chuông và tiến hành những cuộc phẫu thuật thùy não với búa, khoan và dùi đục.

Theo truyền thuyết, sau nhiều năm tra tấn dã man, chính ông ta cũng nhìn thấy những hồn ma của những người bệnh nhân hiện về. Trong lúc điên loạn, ông ta leo lên tháp chuông và nhảy xuống nhưng không chết. Các nhân chứng kể rằng, lúc vị bác sĩ tàn ác đang nằm đau đớn thì có một làn sương mù từ đâu đến và siết cổ đến chết. Xác của hắn sau đó bị treo lên tháp và từ đó lại tiếp tục làm ma trên hòn đảo cho đến tận ngày nay.

Tờ Odditycentral cho hay các nhà tâm lý học đã đến hòn đảo để điều tra sự việc nhưng mỗi lần rời đi đều trong tình trạng sợ hãi tột độ và không bao giờ muốn quay trở lại. Những người từng đến đây kể lại rằng đảo Poveglia luôn bị bao trùm bởi một không khí ma quỷ và tối tăm. Thỉnh thoảng những tiếng gào khóc cứ tự nhiên phát ra.

Theo lời kể của một người đàn ông từng can đảm ngủ qua đêm trên đảo thì ngay khi đặt chân lên hòn đảo, có một giọng nói lạ vang lên, bắt ông phải rời đi ngay lập tức và không được quay lại.

Linh Đan


#417

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 26/03/2012 - 11:18

NGÔI CHÙA BỎ HOANG

Lời Tác Giả: Nhân dịp năm mới Canh Dần 2010, chúng ta thử trong một khoảnh khắc tưởng tưởng như đang sống lùi lại thời gian hơn nửa thế kỷ trước, để đi vào câu chuyện có thật về một ngôi chùa trong Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, nằm ven đô thành phố Sàigòn năm xưa. Kính dâng lên hương linh của Thầy Tâm, cố Hòa Thượng Thích Thiện Chánh.

Ngôi chùa Thới Bình với bức tường gạch xây chung quanh, nhìn từ xa thì trông như một cái am lớn dành cho những người muốn tìm một nơi chốn yên tịnh để quên đi những phiền toái và trầm luân của cuộc đời. Khi vào bên trong sân để vãn cảnh thì thấy chùa cũng khá rộng và khang trang, gần cuối sân có một cây đa cổ thụ với tàng cây che phủ rợp cả một góc sân chùa, nhưng hình như thiếu tay người chăm sóc, cho nên cỏ mọc đầy cả sân và tường thì loang lổ nhiều chỗ vị thấm nước mưa, trong chánh điện thì một lớp bụi dầy phủ trên nền xi măng và nhện giăng mấy góc.

Theo dân mấy thôn làng kế bên kể lại thì trước kia đây là một doanh trại của lính Lê Dương, thuộc quân đội Pháp trấn đóng để bảo vệ cửa ngõ vào thành phố Sàigòn. Sau khi đại đội lính Lê Dương rút đi thì một thời gian sau người ta thấy ngôi chùa được xây dựng lên, với sự đóng góp tài vật của dân làng và những gia đình mộ đạo Phật và bá tánh trong vùng lân cận và do lực lượng công binh của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung đảm nhiệm phần kiến tạo.

Mấy năm trời sau khi khánh thành ngôi chùa nhưng vẫn chưa tìm ra được vị sư để trụ trì, vì thời gian đó luật quân dịch không chừa một ai và các chú tiểu hay nhà sư đến tuổi vẫn phải thi hành nghĩa vụ quân sự và nhập ngũ. Đại Đức Minh Tâm, pháp danh Thích thiện Chánh lúc đó hai mươi hai tuổi, cũng nằm trong số những vị sư được đưa vào Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung để thụ huấn về quân sự. Thầy đã quy y Tam Bảo từ thuở nhỏ lúc còn để chỏm và theo học đạo với Sư Ông từ lúc thiếu thời, tại chùa Châu Viên nằm dưới ngọn Núi Lớn thuộc vùng Thất Sơn, tỉnh Châu Đốc.

Thất Sơn là vùng linh địa với bẩy ngọn núi và có lẽ là nơi quy tụ nhiều chùa chiền nhất trong nước và cũng là nơi nổi tiếng về sự linh thiêng huyền bí. Thất Sơn là nơi mà dân gian truyền tụng rằng Đức Phật Di Lặc là vị Phật Tương Lai sẽ hiện thân xuống trong Hội Long Hoa, và khi đó thì thế giới mới có hòa bình và hạnh phúc thật sự mới đến với nhân loại. Ước mơ của thầy là được xuất gia nương nhờ cửa Phật để theo chân Đức Phật Tổ, nhưng quốc gia đang trong thời chinh chiến nên thầy đành tuân theo luật pháp, tạm gác việc tu hành để làm tròn bổn phận của người dân.

Chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung lúc đó là Thiếu Tá Trần Tử Oai, một hôm nằm mộng thấy một vị Bồ Tát hiện xuống với ánh sáng chói lòa, mà ông nghĩ rằng đó là Đức Phật Bà Quán Thế Âm. Ngài nói rằng trong tay Thiếu Tá đang có một viên ngọc quí và hiếm, hãy cho người đó được trở lại cuộc sống tu hành và cho về trụ trì ngôi chùa bỏ hoang kia thì sẽ được nhiều phước đức.

Buổi sáng khi thức dậy Thiếu Tá Oai vẫn còn ghi nhớ như in giấc mộng thần linh tối hôm qua, nhưng bán tín bán nghi nên bèn kêu viên sỹ quan phụ tá tìm xem thử trong đám người mới nhập trại, có ai tên là Minh Tâm hay không. Sau khi được xác nhận là có một vị đại đức tên họ tục danh như vậy, ông bên cho kêu vào để gặp mặt. Khi thấy Đại Đức Minh Tâm với khuôn mặt hiền hòa và từ con người của thầy như toát ra một cái gì thật là nhân hậu, thì ông nổi giận và gọi viên Trung Úy vừa thì hành xong nhiệm vụ đưa các tân binh vào Trung Tâm để thi hành nghĩa vụ quân dịch, và khiển trách viên sỹ quan này sao lại bắt một người tu hành như vậy.

Đại Đức Tâm liền được thả ra khỏi trại lính và được đưa qua trụ trì chùa Thới Bình, để thầy từ nay sẽ lo vấn đề đạo pháp cho các tân binh và sỹ quan tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Từ khi thầy về trụ trì thì ngôi chùa Thới Bình được tu sửa quét vôi lại, và dân làng chung quanh lại được nghe tiếng tung kinh gõ mõ và tiếng chuông chùa ngân vang mỗi khi chiều xuống. Chẳng bao lâu sau thì Chùa Thới Bình trở thành một ngôi chùa được nhiều thiện nam tín nữ kể cả các tân binh quân dịch đến thăm viếng, nhất là những ngày Rằm và Lễ Tết trong năm. Bên cạnh chánh điện là một căn phòng nhỏ được thiết trí thành một nơi để thờ vong linh những người quá cố.

Dân làng bên và ngay cả một số gia đình từ Sàigòn cũng đem ảnh thân nhân quá vãng của họ đến để tại chùa để mong thân nhân họ được nghe kinh kệ và sớm siêu thoát. Thế rồi trong Trung Tâm bỗng xôn xao vì một tin là nhiều tân bình quân dịch thường hay bị quấy phá ban đêm khi đang say ngủ bởi những ma nữ dấu mặt. Các tân binh thường vẫn ngủ chung với nhau trên những sạp bằng ván gỗ trong những lán trại, nhiều người trong đêm bỗng giật mình thức giấc vì có những bàn tay lạnh toát đang kéo giật chân mình hay đầu tóc họ hoặc phà hơi lạnh vào gáy của họ.

Gọi là ma nữ dấu mặt vì nhiều tân binh khi tỉnh dậy thì đều thấy giống nhau là có hai bóng người nữ mảnh mai trắng toát đi lướt ngang qua nhưng không nhìn rõ được mặt của họ. Tin nầy loan truyền đến tai của vị chỉ huy trưởng trung tâm nhưng ông cho rằng các tân binh ban ngày luyện tập nhiều quá và mỏi mệt nên đêm thường ngủ mộng mị như vậy mà thôi chứ làm gì có ma quái nào. Có tân binh đem chuyện ma nữ nhát họ qua kể cho thầy trụ trì chùa Thới Bình nghe và hỏi ý thầy thì thấy thầy nghe rất là chăm chú và có vẻ trầm ngâm như đang suy nghĩ và đối chiếu một điều gì.

Sự việc đó lại xảy ra lần nữa nhưng không phải trong trung tâm mà ngay tại chùa Thới Bình. Một buổi tối lúc trời đã khuya rồi, và thầy Tâm đang cùng một chú tiểu nữa đang ngồi trong chánh điện để tụng kinh niệm Phật thì thấy nghe như gió thoảng qua từ phía cuối sân chỗ cây đa cổ thụ và cái giếng nước có tiếng ai đang than khóc thảm thiết và tiếng những miếng gach đá ném lên nóc chánh điện. Thầy từ từ đứng dậy và khoác trên vai một miếng vài thô có dệt những sợi chỉ ngũ sắc mầu lóng lánh và một tay cầm chiếc roi mây và tay kia lần chuỗi hạt bước ra cửa và hướng về phía giếng nước.

Thầy thấy hai bóng trắng vừa vụt chạy như bay quanh miệng giếng và quanh cây đa và vừa liệng mấy miếng gạch đá nghe loảng xoảng lên nóc chùa. Thầy chợt quắc mắt lên và chỉ roi mây về phía hai bóng trắng:

- Các người có khôn hồn thì lại đây nghe ta dạy bảo, không được phá phách như vậy! Ta nói các người có nghe không? Các người ở đâu và cớ gì đến chùa phá phách?

Hai bóng trắng như khựng lại một lúc rồi vụt bay tới quỳ xuống dưới chân thầy và gục đầu khóc nức nở.

- Chẳng hay các ngươi có điều gì oan ức nói cho ta nghe. Có phải các ngươi là thủ phạm quậy phá giấc ngủ của các tân binh bên trung tâm hay không? Tại sao các người dám lộng hành như vậy?

- Bạch thầy đúng là chúng con đã chọc phá họ nhưng vì chúng con bị giết quá ư là tàn nhẫn và oan ức cho nên chúng con không siêu thoát được và cứ phiêu dạt bao nhiêu năm nay cho nên mới tìm người quậy phá cho vơi đi niềm u uất trong lòng.

- Hay kể cho ta nghe thì ta sẽ giúp cho còn nếu cứ khuấy động lên như vậy thì chiếc roi này không tha cho hai ngươi đâu nghe chưa?

- Thưa thầy câu chuyện rất dài nhưng chúng còn vì kính trọng đạo đức của thầy nên xin nhờ thầy giúp cho sớm được siêu thoát nếu không chúng con sẽ không bao giờ ra khỏi được nỗi khổ nhục nầy. Nguyên chúng con là hai chị em trong thôn Hai của làng bên kia cánh đồng, cách đây gần tám năm trước có việc phải đi ngang qua khu trại lính Lê Dương này vào buổi chiều sắp tối, thì bị bọn chúng bắt giữ vào trong trại và hại 2 chị em con cho đến chết, rồi ném xác xuống chiếc giếng kia và đổ gạch đá phủ kín giếng nước từ đó. Gia đình đã đi tìm kiếm khắp nơi và có xin vào cả trại này hỏi thăm nhưng đâu ngờ xác con mình đang nằm dưới giếng sâu kia. Nỗi oan ức và nhục nhã này chúng con cứ mỗi đêm gào thét mãi mà không sao vơi được.

- Hai người nữ tên họ là gì, con cái nhà ai và ở đâu? nếu nói đúng, ta sẽ tìm cách đưa về chùa và sẽ cầu siêu giải oan cho. Thật là oan nghiệt!

- Bạch thầy, chúng con ở nhà gọi là cô Hai và cô Ba, con ông bà N. V. Ng. trong thôn Hai.

- Được rồi! Để mai ta sẽ nhờ người đào giếng xem sao đã.

Hai bóng trăng không còn than khóc nữa và vụt chạy như bay về phía giếng nước và biến mất. Sáng hôm sau, thầy Tâm bèn qua bên trung tâm và xin gặp vị chỉ huy trưởng để trình bày sự việc và xin một số binh sĩ qua đào giếng để xem sự thật có đúng như hai hồn ma nữ thuật lại hay không. Chiếc giếng nước này khi thầy về trụ trì thầy thấy nó rất lạ với đường kính rộng đến gần hai thước nhưng lại cạn khô và phủ đầy đất đá và gạch vụn lấp lên đến gần một phần tư của chiều sâu của nó.

Một mặt thì thầy sai chú tiểu vào thôn Hai hỏi dò xem có gia đình nào họ tên như vậy không. Buổi chiều hôm đó có hai ông bà dáng người khắc khổ, chống gậy vào chùa và xin gặp thầy trụ trì. Lúc đó toán lính đang đào bới đến đáy giếng thi lòi ra hai bộ xương người. Khi đem hai bộ xương với những mảnh vải còn sót lại lên trên mặt đất thì hai ông bà già từ thôn Hai đến đã nhận ra ngay là hai đứa con gái của mình đã mất tích tám năm về trước.

Hai ông bà già nắm lấy tay thầy Tâm mà nước mắt tuôn rơi trên hai khuôn mặt mà những khổ đau đã in hằn lên những vết nhăn của năm tháng. Hai người con gái xấu số đó cuối cùng đã được yên nghỉ trong cái nghĩa trang nhỏ bé của thôn Hai bên cạnh giòng suối có nước chảy róc rách ngày đêm. Gia đình đã nhờ người vẽ lại chân dung hai người con và đem qua chùa nhờ thầy để trong căn phòng nhỏ thờ vong để được nghe kinh kệ và sớm siêu thoát. Từ đó trong trung tâm huấn luyện không còn cảnh ban đêm ma nữ chọc phá các tân binh quân dịch nữa. Chùa Thới Bình nằm trong phạm vi của trung tâm và được các tân binh theo đạo Phật thương yêu gọi là ngôi chùa của Trung Tâm.

Qua thập niên sáu mươi, nhờ công đức đóng góp của các Phật tử, thầy Thích Thiện Chánh này là Thượng Toạ đã xây xong một ngôi chùa mới là chùa Thới Hòa nằm trên đường Quang Trung, Quận Gò Vấp. Thầy rời chùa Thới Bình giao lại cho một vị sư khác trụ trì và về trông coi ngôi chùa Thới Hòa cho đến sau tháng Tư năm 1975 khi Cộng Sản vào xâm chiếm Miền Nam thì thầy Tâm và các vị sư trong Nha Tuyên Úy Phật Giáo thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bắt đi cải tạo tập trung. Thầy và thầy Thích Thành Long, quyền giám đốc nha Tuyển Úy, cùng các vị Đại Đức, các Linh mục và Mục sư khác được thả ra khỏi trại Ba Sao, Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh sau mười ba năm giam giữ.

Khi trở về chùa Thới Hòa thì ngôi chùa này đã tan hoang chỉ còn cái xác chùa. Thầy ra sức tu sửa lại và từ chối ra đi theo chương trình Nhân Đạo của Hoa Kỳ (HO: Humanitarian Operation) để ở lại với ngôi chùa thân yêu của mình cũng giống như tháng Tư năm 1975, thầy đã từ chối rời bỏ Sàigòn để qua Hoa Kỳ theo chương trình di tản của sứ quán Mỹ. Ngôi chùa Thới Hòa đã được trùng tu trở lại và bắt đầu có đông đảo các Phật tử đến thăm viếng như xưa, sau năm năm thầy trở về nhưng đó cũng chính là lúc mà thầy viên tịch, rời bỏ chốn hồng trần này để trở về với cõi vĩnh hằng.

Phạm G. Đại



Thanked by 1 Member:

#418

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 27/03/2012 - 06:58

MA ÁM SAU TRẬN ĐẠI SÓNG THẦN Ở NHẬT BẢN

Hãng tin AFP trong một bài viết đăng tải ngày 08-03 nói rằng, sau trận động đất sóng thần lớn ở Nhật Bản người dân thành phố Ishinomaki đang phải lo âu trong nổi sợ khủng khiếp về nạn ma ám.

Ishinomaki nằm ở miền đông bắc Nhật Bản, thành phố có hơn mười chín ngàn người chết trong trận sóng thần xảy ra hồi tháng 3 năm 2011. Phóng viên Miwa Suzuki trở lại Ishinomaki và thấy sau đại thảm họa thành phố đã sống lại với những khu nhà được xây dựng lại, những đứa bé đến trường, các cửa hàng bách hóa cũng bày bán trở lại như xưa. Có lẽ do có quá nhiều chết trong một thành phố, dù cuộc sống đã trở lại nhưng nhiều người vẫn còn ám ảnh bởi linh hồn của những người đã ra đi trong thảm trạng kinh hoàng.

Miwa Suzuki cho hay đã có thêm một công trình tái thiết thành phố bị đình trệ do nhiều công nhân phải bỏ làm bởi tình đồn có ma đang quấy rối. Chỉ vào một siêu thị đang bỏ dỡ, Satoshi Abe sáu mươi bốn tuổi, nói chuyện với phóng viên AFP với vẻ mặt căng thẳng:

- Tôi nghe nói nhiều công nhân làm ở đây bị ma ám và bị ốm liệt giường. Thành phố này ở đâu cũng có người chết và lời đồn ma trở về ám người sống thì đầy rẫy.

Anh Shinichi Sasaki giải thích rằng, có lẽ ký ức ám ảnh về ngày 11-3 quá nặng nề, người ta không thể quên được nó và có cảm giác mình bị ma cỏ ám ảnh.

- Tôi không tin vào mấy chuyện hồn ma nhưng nếu có một người nào đó bị chết trong bất ngờ và hoảng loạn thì người ta sẽ cảm thấy họ còn hiện diện quanh đây.

Một tài xế taxi dấu tên nói với phóng viên AFP, có một số nơi trong thành phố này ám ảnh đến nổi anh không dám dừng xe. Anh ta sợ gặp phải một hồn ma nào vẫy taxi trong đêm bởi mấy khu đó có quá nhiều người đã bị nước cuốn đi. Một người phụ nữ khác cho biết bà nghe rất nhiều người kể lại câu chuyện họ thấy hình ảnh những người chạy đến sức cùng lực kiệt lên các ngọn đồi để tránh các con sóng, những cánh tay vùng vẫy trong tuyệt vọng trong giây phút cuối đời.

Chuyên gia Takeo Funabiki cho biết những ám ảnh như thế xảy ra sau đợt thảm họa lớn là bình thường và cần có thời gian để người ta hàn gắn lại vết thương.

- Dù có quan điểm duy vật hay duy tâm người ta vẫn sợ hãi cái chết. Và nếu cái chết đến đột ngột thường thì người ta cũng khó chấp nhận hơn.

Takeo Funabiki nói rằng cần phải có những buổi lễ cầu siêu bởi những thầy tu của Thần đạo cho những người đã khuất. Linh mục Shinto được nhờ cậy để an ủi linh hồn của người chết, đưa họ tái sinh và tẩy sạch nơi xác chết đang nằm. Nhà tâm lý Koji Ikeda, giảng viên và là nhà tâm lý trị liệu của Viện tư vấn Nhật Bản, cho hay:

- Những người sống sót có rất nhiều dạng xúc cảm, sợ hãi, lo lắng, đau khổ và vật vã đòi người chết trở về. Có lẽ cả một khối cảm xúc đa dạng và mãnh liệt như thế đã khiến những người không thể chấp nhận thực tế phải tìm đến các câu chuyện về hồn ma. Xúc cảm mãnh liệt đó cần được giải tỏa để người ta có thể chấp nhận và thích nghi với thực tại mới, để tiếp tục sống với nỗi đau thương.

Dù nhiều người trong thành phố này không khẳng định chính mắt họ đã thấy ma, nhưng đa phần đều đồng ý rằng có lẽ các hồn ma đang vương vất trên những con phố vắng tanh. Yuko Sugimoto, một cư dân, cho biết chị không thực sự duy tâm và cũng chưa từng thấy ma. Nhưng chi tin tưởng tuyệt đối rằng đâu đó có thể có những hồn ma trong bóng tối.

- Rất nhiều người đang sống bình thường bỗng ra đi, chị nói. Tôi chắc rằng họ khó mà chấp nhận thực tế ấy. Sẽ rất kỳ lạ nếu ta không nghe ai nói gì về họ.

Theo AFP



#419

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 29/03/2012 - 13:10

NHỮNG HIỆN TƯỢNG HUYỀN BÍ TẠI LONG BÌNH ĐIỀN - MỸ THO

Chuyện cô Thủy

Cô Thủy năm nay hai mươi hai tuổi, đã có một hiện tượng huyền bí xảy ra cho bản thân cô. Người cô ruột của cô đã mất cách đây ba mươi năm, đã về nhập xác cô (mỗi lần như thế cô hoàn toàn hôn mê), khai khẩu và làm một số việc lạ thường khiến cả nhà cô phải tin tưởng và đã chuyển hóa được cả gia đình của cô Thủy quy y Tam bảo và thọ trì ngũ giới cấm.

Trong những buổi đầu tiên cô Thủy bị nhập xác, gia đình cô đã tỏ ra rất lo lắng và người chị của cô là chị Bích (hiện nay đã sum họp với chồng ở Anh Quốc) đã đem cô qua Linh Quang Tịnh Xá để nhờ Hòa Thượng Phổ Ứng chữa trị (chị Bích là đệ tử của Hòa Thượng Phổ Ứng gần hai mươi năm qua). Tuy nhiên vì phải chữa trị cho nhiều người, Hòa Thượng thường không có thời giờ để giải thích riêng cho gia đình người bệnh và vì biết chúng tôi, nên chị Bích đã nhờ chúng tôi giúp đỡ và giải đáp các mối lo của gia đình cô. Chúng tôi đã tiếp xúc với cô Thủy qua sự chứng kiến của gia đình chị Bích và đã mời phần hồn của người Cô Út về xác cô Thủy để trao đổi ý kiến, tìm giải pháp thích ứng giúp gia đình chị Bích.

Người cô cho biết: “Cô về xác đứa cháu gái vì cô thương nó giống cô y hệt, cô đã âm thầm giúp nó kể từ khi nó ôm bức hình cô đem về chùa. Lúc này cô về xác nó là vì cô muốn chuyển xoay cả gia quyến của cô biết con đường Đạo đức cho kịp thời kỳ tiến hóa. Cô còn cho biết là đã tu tập được hai khóa rồi và sắp đến thời kỳ tu tập thêm nữa và cô không có thì giờ để trở về độ cho cháu gái và gia đình. Cô yêu cầu chúng tôi giúp đỡ cho cháu gái và gia đình cô được tu tập theo Mật Tông Phật Giáo để có chư Thiên Long Bát Bộ dạy dỗ và độ trực tiếp cho gia đình cô. Cô cũng xin đôi lúc rỗi rãi sẽ được về thăm gia đình”.

Chúng tôi đã ưng thuận lời xin của cô và sau đấy lần lượt cả gia đình cô: người chị, người anh, người em rể và cả bà mẹ của cô Thủy và chính cô Thủy đã thọ truyền pháp Chuẩn đề của Mật Giáo. Sau đấy cô hoàn toàn hết hẳn chứng bệnh.

Bác sĩ Quốc Hùng là anh em cô cậu của cô Thủy và mỗi tuần đều có dịp lên Saigon ở tại nhà của Thủy, nên đã biết và theo dõi câu chuyện từ đầu đến cuối, nên sau cùng đã nhờ cô Thủy giới thiệu để được truyền bí pháp của Mật Giáo. Anh đã hành trì chú Chuẩn Đề trên ba tháng và sau đó đã đạt được một số thần lực đáng kể.


Sửa bởi hiendde: 29/03/2012 - 13:13


Thanked by 1 Member:

#420

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 29/03/2012 - 13:28

NHỮNG HIỆN TƯỢNG HUYỀN BÍ TẠI LONG BÌNH ĐIỀN - MỸ THO

(Phần Hai)

Cách đây khoảng trên bốn tháng, trước ngày chúng tôi ra đi, bác sĩ Quốc Hùng có nhã ý mời chúng tôi xuống Mỹ Tho, vì theo ý anh một số huynh đệ của anh đã có ý muốn tìm hiểu thêm trước khi chính thức bước vào Mật Giáo và một số người khác muốn xin gặp chúng tôi để được giải thích về một số hiện tượng huyền bí xảy ra cho chính bản thân của họ, và chính anh cũng cần được trợ duyên về phương thức chữa các loại bệnh phần âm. Bác sĩ Quốc Hùng đã phân phát khoảng năm trăm cuốn “Lăng Nghiêm, Đại Bi, Thập Chú” và “Ngũ Bộ Chú” cho các thân chủ của anh tại Mỹ Tho và hướng dẫn họ trì chú để lập công bồi đức theo hạnh pháp thí mà anh phát nguyện.

Chúng tôi đến Mỹ Tho vào tám giờ sáng và ghé đến nhà bác sĩ Quốc Hùng. Buổi sáng đó anh cùng các huynh đệ và chúng tôi đến thăm một ngôi chùa cổ cất có khoảng trên một trăm năm nay và cho biết đây là một trong các kỳ quan lớn của miền Nam và là một ngôi chùa có tiếng tại Mỹ Tho.

Buổi trưa chúng tôi đã đến nhà của một huynh đệ của chúng tôi tại Mỹ Tho do sự sắp xếp của anh Hùng, và lên bàn thờ Phật trên lầu yên tĩnh để giải quyết một số thắc mắc và những hiện tượng lạ mà anh Hùng đã giới thiệu, và chúng tôi chỉ đơn cử 2 trường hợp điển hình sau đây:

1. Trường hợp thứ nhất là anh Lâm. Qua sự giới thiệu thì anh Lâm là người trong họ của anh Hùng. Trước kia anh học nhu đạo với Thượng tọa Thích Tâm Giác đến đệ nhứt đẳng huyền đai. Sau 30-4-75, vì để tránh nghĩa vụ quân sự, anh đã gia nhập vào trường Thể Dục Thể Thao của thành phố Saigon và được huấn luyện thêm về bộ môn võ thuật. Vì có năng khiếu và chịu đựng được sự huấn luyện, anh đã được dự tranh và đề cử tham dự các trận đấu tại Nga Sô về môn võ thuật. Kết quả anh đã quật ngã được một số võ sĩ Áo trong trận sơ kết và đạt được một huy chương cho Việt Nam, và sau đó ở đợt bán kết anh đã bị một võ sĩ Nhật cho đo ván.

Sau khi về nước, vì không biết ton hót và nhất là tánh khí bộc trực của anh, anh đã bị ban giám hiệu trưởng hãm hại bằng cách sắp xếp trái với quy chế để lên danh sách của anh đi nghĩa vụ quân sự. Bất mãn anh đã bỏ trường Thể Dục Thể Thao và làm đơn tố cáo những hành động phi lý và một số hành động tham lam khác của cán bộ quản lý trực tiếp của anh. Và kết quả là ban giám hiệu trưởng đã bị khiển trách và thuyên chuyển. Riêng cá nhân anh đã trở về làm việc với cha anh trên ban xây dựng Đường Lộ (cha anh là một công chức Công chánh có khả năng đã lưu dụng) tại Mỹ Tho.

Trước đó khoảng năm tháng, anh đến Đình Long Bình Điền tại Mỹ Tho chơi, và trong dịp đó anh đã bất ngờ bị nhập xác và hoàn toàn không còn tự chủ và làm nhiều việc mất bình thường. Khi tỉnh lại, anh rất ngạc nhiên không biết bằng cách nào mà anh đã leo lên để ngồi trên cây kèo của Đình, vì độ cao của nó cách mặt đất và không có phương tiện nào để vịn vào, nên anh rất bối rối và không biết làm cách nào để xuống được dưới đất.

Dân làng tín ngưỡng Đình có mặt trong dịp đó đã phải tìm một cái thang dài để bắt cho anh xuống. Họ đã thuật lại cho anh biết là khi anh đã bị nhập xác anh đi một số đường võ rất đẹp và khai khẩu cho biết chính là Thần Long Bình Điền mượn xác và đã kể lại tiểu sử của ông: là một kiện tướng đã từng theo phò ngài Lê Văn Duyệt và vì có nhiều chiến công và đã trung cang với tổ quốc và oanh liệt tử trận nên được Vua sắc chỉ phong Thần và cất Đình để dân chúng thờ cúng.

Ông Từ đã luống tuổi, trông coi ngôi Đình này từ bấy lâu nay, đã chứng kiến tận mắt vụ này, cho biết là việc Thần mượn xác khai khẩu bằng tiếng Nôm (Hán) rất trôi chảy (anh Lâm không biết tiếng Hán) và kể các chuyện trên hoàn toàn đúng với tiểu sử thực tế. Từ đó về sau cứ mỗi lần anh Lâm đến thăm Đình là anh bị nhập xác và làm nhiều việc kỳ bí trước mặt dân làng. Nên từ đó về sau anh không dám đến Đình nữa, phần vì mắc cỡ và phần vì rất mệt khi bị nhập xác. Hôm anh đến gặp chúng tôi là đã hơn ba tháng, anh không dám bén mảng tới Đình và đã không còn bị nhập xác nữa. Việc này dân chúng ở Long Bình Điền ai cũng biết.

Chúng tôi đã giải thích vắn tắt cho anh Lâm biết là anh có căn duyên với vị Thần này nên đã được mượn xác, để thị hiện một số việc kỳ bí mà trí phàm không thể hiểu nổi hay giải thích được, để thức tỉnh những người khó tin và ,dân chúng trong làng để cảnh tỉnh họ chớ quá đắm mê cõi trần giả tạm này quá lắm mà tạo nhiều ác nghiệp cho phần hồn của họ. Anh cũng có một phần công đức trong việc gây xôn xao dư luận về việc thần kỳ này trong làng.

Chúng tôi đã minh xác với anh là chúng tôi có thể mời vị Thần này về xác anh, trước nhất là để trợ duyên thêm cho những người trì chú tại đây và sau để chuyển những ý kiến của anh với vị Thần đó, những gì anh muốn hỏi và yêu cầu.
Anh cho biết nếu anh còn nhơn duyên với Thần, thì xin Thần làm cách nào khi nhập xác anh, anh vẫn tỉnh táo, thì anh mới sẵn sàng để cùng Thần giúp người, cứu đời để lập công bồi đức và khi xuất ra làm sao cho anh đừng bị té, đau và coi kỳ quá. Và nếu được thì để anh tu tập theo bí pháp của Mật Tông Phật Giáo.

Sau đó, qua kinh nghiệm chúng tôi đã cẩn thận cho anh ngồi xếp bằng và dựa sát vào tường và chuẩn bị hai người ngồi kế cận để sẵn sàng đỡ anh trước khi chúng tôi kính mời Thần Long Bình Điền về để tiếp chuyện. Chúng tôi đốt nhang bàn Phật khấn nguyện theo nghi thức Mật Giáo để xin ấn lệnh mời Thần Long Bình Điền về để trợ duyên thêm cho các bạn đạo, chúng tôi đã cùng tụ họp khoảng trên mười người tại đây. Xác anh Lâm bắt đầu chuyển động, đôi tay múa máy nhè nhẹ, gương mặt bừng đỏ. Chúng tôi lên tiếng chào và xin vị về xác cho biết danh tánh và chúng tôi tiếp tục đánh tiếng trao đổi từng câu hỏi một.

Trước hết chúng tôi hỏi:

- Thần có thể khai khẩu được không?

Xác anh Lâm lắc đầu, cho biết là không được phép khai khẩu.

Chúng tôi hỏi tiếp:

- Có phải Thần Long Bình Điền về xác không?

Thì lắc đầu cho biết là không.

- Vậy ai đang về xác anh Lâm, có phải là một vị phụ tá của Thần được gởi về không?

Vị thần phụ tá lay đầu anh Lâm cho biết là phải.

– Vì sao Thần chánh không về đây, có phải là bận chuyện của Thiên Đình mà không đến được không?

Lắc đầu cho biết là không phải.

Chúng tôi tiếp tục hỏi:

- Có phải vì bận việc quan trọng tại cuộc đất nên không thể đến được phải không?

Gật đầu cho biết là đúng.

- Ý anh Lâm muốn là khi các vị về xác xin không bị mê và khi xuất không bị ngã té, điều này có được hay là không?

Thần lắc đầu cho biết là không được.

- Anh Lâm có ý, nếu các vị không ngăn cản, thì anh xin quy y với Năm Phương Phật thuộc Kim Cang Giới của Mật Tông Phật Giáo, ý thần có cho không?

Thần gật đầu cho biết là ưng thuận. Chúng tôi lập lại câu hỏi cuối cùng này ba lần và cả ba lần thần đều vui vẻ chấp thuận. Sau cùng chúng tôi đã ngỏ lời cảm ơn vị phụ tá này đã về trợ duyên thêm cho chúng tôi trên bước đường hành đạo và xin nếu không có điều gì để nhắn nhủ thêm với chúng tôi, thì xin thần cho xác trở lại bình thường. Mặc dầu đã chuẩn bị sẵn, xác anh Lâm bị bật mạnh ngã nghiêng qua một bên, đầu đập vào tường một cái “cộp”, không kịp cho ai nâng đỡ. Anh tỉnh lại và hoàn toàn chẳng biết việc gì đã xảy ra và được kể lại tự sự.








Similar Topics Collapse

3 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |