Jump to content

Advertisements




Truyện ngắn huyền bí - hiendde


1072 replies to this topic

#436 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 23/04/2012 - 03:03

VONG HỒN HIỆN HÌNH TRÊN BIA MỘ

Vào ngày 26-12-2011, dòng họ Đinh Quang ở xóm sáu, xã Yên Quang, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, trong khi đang trùng tu, sửa chữa lại lăng mộ cho dòng họ thì đột nhiên thấy hình ảnh hiện về trên bia mộ cụ Đinh Trung Cần, một người đã mất cách đây khoảng hai trăm năm về trước. Sự kiện trên được những người trong dòng họ, những người thợ xây và dân làng có mặt ngày hôm đó chứng kiến. Điều đặc biệt hơn, người trong dòng họ còn gọi được thợ chụp ảnh đến để lưu lại bức ảnh về người âm này.

Những ngày này tìm về xóm sáu, xã Yên Quang, chúng tôi vẫn còn nghe râm ran đâu đó người dân bàn tán xôn xao, câu chuyện về một ngôi mộ của dòng họ Đinh Quang. Câu chuyện đặc biệt ấy xuất phát từ việc dòng họ Đinh Quang tổ chức rước một số hài cốt cho những liệt sĩ đã hy sinh trong chiến tranh, trở về yên nghỉ nơi nghĩa trang quê nhà. Nhân tiện từ việc đưa hài cốt những liệt sĩ ấy, dòng họ Đinh Quang đã thống nhất bàn bạc với nhau là đóng góp tiền và công sức, để tu sửa lại nghĩa trang của dòng họ.

Việc sửa sang, tu bổ lại khu lăng mộ đã được hơn hai tuần nhưng vẫn chưa hoàn thành. Lần đó cũng như mọi ngày, đám thợ cùng với những người có trách nhiệm trong dòng họ Đinh Quang vẫn tiếp tục ra nghĩa trang để tiếp tục công việc còn lại. Có mặt vào hôm 26-12-2011, gồm một toán thợ mười hai người cùng với nhiều người nữa trong dòng họ. Cánh thợ xây việc ai nấy làm, cốt làm sao để nhanh chóng gấp rút hoàn thành nốt công việc theo như tiến độ và yêu cầu của gia chủ đưa ra.

Nhớ lại buổi hôm đó, cho đến bây giờ ông Đinh Quang Uẩn là bậc cao niên trong chi nhánh dòng họ Đinh Quang, như vẫn không tin những chuyện xảy ra mà chính mắt ông đã nhìn thấy. Khoảng tám giờ sáng, khi cánh thợ đang mải miết người cắt gạch, người trộn hồ thì ông Uẩn bất thần hô to:

- Mau lên… mau lên… lại đây mà xem!

Mọi người ngơ ngác chưa hiểu gì, nhưng nghe ông Uẩn gọi thế nên đám thợ cũng bỏ dở việc chạy lại. Ban đầu họ cứ tưởng mình xây dựng, trang trí sai với thiết kế yêu cầu. Nhưng khi đến nơi thì nhiều người nhìn thấy hình ảnh một người quá cố xuất hiện trên bia mộ. Rồi ông Uẩn bảo:

- Cụ Cần hiện về đó.

Biết được thông tin, đám thợ đang làm từ xa cũng bỏ công việc chạy lại xem. Chỉ mấy phút sau, thông tin này đến tai người dân quanh vùng khiến những người hiếu kỳ không tin đó là sự thật cũng phải có mặt mà chứng kiến.

Những ngày tu bổ lăng mộ trước, ông Uẩn là người thi thoảng vắng mặt, bởi gia đình cũng đang có một số chuyện đại sự chưa lo xong. Hôm đó vì đã xong việc nên ông Uẩn đến để đôn đốc, kiểm tra công việc và thắp hương cho từng ngôi mộ. Khi nén hương nhỏ vừa cháy tỏa mùi khắp khu nghĩa trang họ Đinh Quang, thì cũng chính là lúc ông Uẩn thấy hình ảnh của người quá cố hiện về trên bia mộ, nơi cụ Cần an nghỉ bấy lâu nay. Theo lời ông Uẩn kể lại thì đó là một người có đầy đủ đầu, mắt, mũi và tai như người bình thường lúc còn sống. Phía trước ngực có một dải khăn quấn chéo, trông như một chiếc áo choàng dùng làm áo ấm.

Ông Uẩn một mực khẳng định với chúng tôi rằng, đó là hình cụ Cần chứ không phải một ai khác. Dù cách xa bao đời và tuổi tác so với cụ Đinh Trung Cần, nhưng thuở nhỏ đến lớn, ông Uẩn đã từng được ghi chép và xem lại gia phả của dòng họ Đinh Quang chi tộc hiện nay tại xã Yên Quang. Hình ảnh trên bia mộ hiển hiện độ chừng bốn mươi lăm phút, rồi sau đó biến mất.

Theo những gì anh Nguyễn Văn Tân, người đã mang chiếc thẻ nhớ từ máy ảnh do chính vợ mình chụp lại đi rửa ảnh cho biết:

- Mười năm làm nghề chụp ảnh nhưng chưa khi nào thấy một bức ảnh lạ lùng như vậy.

Để kiểm chứng lại chiếc máy ảnh của mình, ngay sáng hôm sau anh Tân quay ra chỗ nghĩa trang nơi ngôi mộ có người quá cố hiện về để quan sát, chụp lại rồi mang đi rửa nhưng những bức ảnh đó hoàn toàn khác nhau.

Theo gia phả của dòng họ Đinh Quang ghi lại, dù không nhớ chính xác năm sinh và năm mất, nhưng rà theo phả hệ thì cụ Đinh Trung Cần thuộc đời thứ bảy trong dòng họ. Cụ Cần là tộc trưởng trong nhánh hai của dòng họ Đinh Quang. Tận mắt chứng kiến ngôi mộ cụ Cần, nơi được cho là hiện hình của người quá cố đã mất, thì ngôi mộ ấy nằm hàng trên cùng và đầu tiên, vì cụ Cần là tộc trưởng của dòng họ Đinh Quang ở chi nhánh hai này.

Cụ Đinh Trung Cần sinh được ba người con trai. Đưa tay nhẩm tính theo cách của ông Uẩn, thì kể từ khi cụ Cần mất đến nay cũng đã được ngót nghét trên dưới hai trăm năm, đấy cũng là quãng thời gian với bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Bởi vậy, nhiều thay đổi khiến con người ta không thể biết hay kiểm soát được hết những gì đã và đang diễn ra.

Chúng tôi quyết định đi tìm lời giải, theo như lời ông Uẩn nói thì trong ngôi mộ mang tên Đinh Trung Cần là không có hài cốt. Ngày đó, ngôi mộ của cụ Cần cũng được chôn cất đàng hoàng tử tế nơi phía dưới cánh đồng làng. Qua nhiều thế hệ, việc tôn tạo quy tụ mồ mả cũng đươc tiến hành như thông lệ dưới sự thống nhất của toàn họ. Vậy nguyên nhân do đâu? Các bậc cao niên nơi đây giải thích, rằng hiện nhiều ngôi mộ tại các nghĩa trang trên địa bàn xã Yên Quang là không có hài cốt. Nguyên do là từ xưa đến nay xã Yên Quang nằm bên bờ sông Đáy, mỗi khi mùa lũ về nước cuồn cuộn chảy qua thì cả xã ngập chìm trong biển nước. Lý giải về việc nhiều ngôi mộ sau khi cất bốc không tìm được hài cốt là do bị nước lũ cuốn trôi?

Một nguyên nhân nữa là người dân nơi đây cho rằng, do chiến tranh loạn lạc nên người dân sơ tán để lánh nạn. Dân đều bỏ làng ra đi chạy giặc, hết tiếng súng nổ đạn lạc thì cả làng lại kéo nhau về định cư, mưu sinh. Cũng tại bởi chiến tranh, đến người sống có khi còn không lo bảo toàn được tính mạng mình bất cứ lúc nào thì nói gì đến chuyện lo mồ mả cho những người đã khuất. Đấy cũng có thể chính là một trong những căn nguyên khiến ngôi mộ của cụ Cần bị mất hài cốt.

Vẫn câu chuyện ông Uẩn kể, sau khi thấy hiện tượng kỳ lạ trên thì ngay lập tức ông Đinh Quang Hùng là một bậc cao niên, đồng thời cũng là người nằm trong ban bệ điều hành trông coi việc tu bổ, tôn tạo lại nghĩa trang của dòng họ mình liền tức tốc đi gọi thợ chụp ảnh. Trước khi kể cho chúng tôi nghe về câu chuyện có một không hai này, ông Hùng cũng không quên cẩn thận lấy bút giấy ra ghi lại số Chứng minh nhân dân và giấy giới thiệu của chúng tôi. Bởi ông cho rằng, hiện tượng xảy ra trên bia mộ của cụ Cần trong dòng họ Đinh Quang nhà ông là độc nhất vô nhị ở vùng đất này.

Ông Hùng cứ phân vân rằng, không biết đó có phải là một điềm lành hay ẩn ý đằng sau đó là một điều gì mà chẳng ai có thể đoán trước được. Khi nghe chúng tôi nói muốn xin một ít thông tin để viết báo ,thì người đàn ông này lại càng đề phòng và lảng tránh. Theo như ý kiến của riêng cá nhân ông thì việc cung cấp những thông tin để cho báo chí viết bài thì ông luôn sẵn sàng, thế nhưng có điều ông hơi băn khoăn và do dự vì sợ một khi bài báo của chúng tôi đăng, sau đó lỡ may trong dòng họ xảy ra những chuyện không hay thì sẽ làm liên lụy đến ông.

Cũng giống như nhiều người có mặt ngày hôm đó, ông Hùng cũng được chứng kiến sự việc từ đầu đến cuối. Năm phút trôi qua, hình người quá cố trên tấm bia mộ bằng đá mờ dần đi. Lúc đó như có một ai mách bảo, ông Hùng liền lấy một nén hương thắp lên và khấn lạy. Thế rồi hình ảnh ấy lại hiện ra rõ dần như lúc ban đầu. Ông Hùng bảo:

- Sau khi tôi khấn, cụ Cần lại hiện về.

Thấy cụ hiện lại trong khoảng thời gian rất lâu, nên mấy người có mặt hôm đó còn chụp ảnh, quay phim bằng những chiếc điện thoại di động sẵn có. Riêng ông Hùng khi đó tức tốc chạy xe máy một quãng đường chừng hai cây số tìm đến nhà anh Tân, chị Huệ ở xóm ba để nhờ đến chụp ảnh. Người ghi lại hình ảnh đó chính là chị Nguyễn Thị Huệ, vợ anh Tân.

Chúng tôi ngược đường từ khu nghĩa trang của dòng họ Đinh Quang để tìm đến gặp người phụ nữ có duyên bấm máy người âm. Ra đón khách lạ, chị Huệ có phần e dè và ngại ngùng. Những người hàng xóm xung quanh bảo chị Huệ là người vui tính, hiền lành lại dễ bắt chuyện, vậy mà không hiểu sao hôm nay trông bộ dạng và tinh thần chị có vẻ không được ổn định cho lắm. Từ lúc chị tự tay mình bấm máy chụp lại hình người âm đến giờ, chị không rời khỏi nhà nửa bước. Không phải là chị sợ nhưng có điều gì đó khiến chị phải suy nghĩ.

Chia sẻ câu chuyện chụp ảnh người âm với chúng tôi, đến bây giờ chị cũng không thể lý giải được rằng, bình thường mình cắt tiết một con gà cũng không xong, nhưng không hiểu sao khi đó lại giơ chiếc máy ảnh về phía ngôi mộ có hình hài người âm mà chụp lia lịa. Chị Huệ kể lại, khi đó mới khoảng tầm 8h30, chị ở nhà đang trông đứa cháu nội, thì thấy ông Hùng lao xồng xộc chiếc xe máy vào sân. Ông gọi nhà tôi (ông Tân) nhưng không có ở nhà. Ông Hùng bảo chị, nhanh lên mang theo máy ảnh giúp ông một chút, có chuyện cực kỳ quan trọng.

Là người cùng xã nên chị Huệ cũng chẳng do dự hay hỏi han kỹ càng. Vội gửi đứa cháu cho nhà hàng xóm, chị Huệ mang theo máy ảnh đi cùng ông Hùng ra khu nghĩa trang phía cánh đồng. Ra đến nơi chính mắt chị Huệ cũng chứng kiến cảnh người âm hiện về. Nhanh tay lấy chiếc máy ảnh trong túi ra nhưng vì bất cẩn nên tay chị bị đứt tứa máu. Chị Huệ tâm sự:

- Tôi cũng không hiểu sao khi đó không nghĩ ngợi gì nữa. Mặc cho máu ở tay chảy nhưng vẫn cứ chụp. Chụp xong được một lúc thì hình ảnh trên bia đá mờ dần rồi mất.

Sau khi chụp xong ảnh, theo yêu cầu của những người trong dòng họ Đinh Quang nên anh Tân là chồng chị Huệ đã rửa sáu mươi bốn tấm ảnh có hình người âm. Chúng tôi được tận mắt chứng kiến tấm ảnh mà chị Huệ chụp. Đúng như những gì mà nhiều người chứng kiến thì trên bia đá của ngôi mộ cụ Đinh Trung Cần, có hiện một hình ảnh có đầu, mắt, mũi và tai. Chúng tôi ngỏ ý muốn xin dòng họ một bức ảnh đã được rửa ra để làm chứng cứ tư liệu phục vụ cho bài viết, nhưng ông Đinh Quang Hùng từ chối khéo với lý do, đây là vấn đề mang tính tâm linh, những người trong dòng họ Đinh Quang rất muốn có ngành chức năng đến để nghiên cứu, rồi đưa ra kết luận.

nguoiphattu


Thanked by 1 Member:

#437 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 23/04/2012 - 03:30

ĐẠI SỨ CỦA THẦN CHẾT

Khi có người sắp hoặc đang chết trong bán kính mười lăm km, người đàn ông này sẽ ngửi thấy mùi hoặc thấy tim đập mạnh, ngực khó thở. Vì biệt tài không ai muốn này mà dị nhân suýt bị tống vào trại tâm thần. Ông cũng là người duy nhất ở Việt Nam mắc chứng nghiện đám ma đến mức nếu không đi là phát ốm. Chỉ cần lắng tai nghe, lấy mũi ngửi, hoặc thấy tức ngực, khó thở hay tim đập nhanh là có thể nhận biết được có một người sắp hoặc vừa qua đời cách nơi mình đứng trong bán kính khoảng mười lăm km.

Dị nhân có khá nhiều biệt danh như người mê đưa tiễn hồn ma, người trời, ông đưa tiễn những linh hồn, là ông Ân Văn Ninh sáu chục tuổi, người dân tộc Sán Dìu, ngụ thôn Đồng Giao, xã Quý Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Chẳng cần dùng đến điện thoại để nhận thông tin, không được ai thông báo đến, thậm chí cả đời chưa từng một lần biết mặt người đó, nhưng oái oăm một điều là cứ người nào sinh sống trong bán kính mười lăm km, tính từ nơi ông đứng mà sắp chết thì ông đều biết trước. Biết rồi thì kiểu gì cũng phải mò đến dự đám tang, thế nên chẳng mấy khi ông có mặt ở nhà. Tìm đến nhà ông nhằm tìm hiểu thực hư biệt tài này thì vợ ông cười: "Ông ấy đi liền mấy hôm nay rồi. Hình như hôm nay đang ở đám ma thôn bên. Các anh chị cứ đến đâu nghe thấy kèn đám ma, lần đến đàm là gặp ông ấy.

Quả đúng là lần theo tiếng kèn đám ma tìm đến, hỏi người nhà đám "ông Ninh đám ma có ở đây không?" thì mọi người chỉ về hướng một người đàn ông trung niên có dáng dong dỏng, đội chiếc mũ lưỡi trai, mặc bộ quần áo cáu bẩn có lẽ là do lăn lộn mấy đám liền nên chưa kịp thay. Dị nhân này khi ấy đang bận túi bụi với việc rót nước mời các đoàn khách đến viếng hương hồn người chết. Khi đã vãn việc ông mới có thời gian tiếp chuyện, mở đầu câu chuyện bằng tiếng chép miệng than thở: “Tôi đi liền gần chục ngày nay rồi vì nhiều đám quá”.

Biệt tài của ông phát lộ cách đây khoảng hơn chục năm, đêm ấy khi ông đang nằm ngủ thì bỗng thấy tức ngực, bứt rứt không yên và không hiểu có giác quan thứ sáu hay không, mà cứ dựng dậy lần mò giữa đêm đi sang xã bên. Không hiểu có phải vì ma xui đường, quỷ dẫn lối hay không, mà ông lần đến nhà một người chưa từng quen biết khi người ấy đang hấp hối. Giữa đêm khuya khoắt, lại trong cảnh thê lương, nên những người trong nhà giật mình sợ vãi linh hồn khi thấy một ông lão lạ mặt lù lù hiện ra: “Ở đây có người sắp chết phải không?”.

Cứ tưởng là đêm đó bị ma nhập, nên cả ông và mọi người đều không để ý đến chuyện ông lão nghe được chuyện người sắp chết cách cả chục cây số. Ai dè vài bữa sau đi làm đồng, trong khi mọi người cùng làm chẳng nghe thấy tín hiệu gì thì ông kiên quyết: “Có tiếng kèn trống ở thôn kế bên” và tiếng kèn trống đám ma cứ như đập vào tai ông, thúc giục phải đi đến đó, không đi không được. Thế là ông vất cày cuốc, tìm sang đám ma để giúp người ta.

Từ hôm đó ông bỗng dưng sinh ra cái tật là luôn phải lắng nghe tiếng đám ma, không muốn nghe thì cũng như có người bắt phải nghe. Hễ cứ có ai mất là như có người xui khiến ông phải nghe bằng được tiếng kèn, tiếng trống. Thời gian đầu, khi muốn nghe được ông phải trèo lên cây xoài đầu nhà để nhận biết được. Nhưng càng ngày trình độ của ông càng cao, một hai năm sau ông chỉ cần áp tai xuống giường, hay vểnh tai chăm chú một lát là có thể nhận ra chỗ có đám.

Mấy năm gần đây thì ông không phải nghe nữa mà ông dùng mũi ngửi là biết được có người sắp hoặc vừa chết, hoặc cảm nhận được điều đó khi ông thấy tim mình đập nhanh hơn, hơi tức ngực hơn. Thậm chí giác quan thứ sáu của ông, còn cho phép ông cảm nhận được thời khắc mà người ta sắp đi vào cõi vĩnh hằng, như lời ông nói. Khoảng cách biết được người sắp chết của ông cũng thật đáng nể: Hàng chục cây số. Ông lão có vẻ tự hào: “Đám xa nhất tôi phát hiện cách nhà tôi ở khoảng mười lăm km”.

Nghe có vẻ khó tin nhưng khi hỏi những người dân nơi đây thì họ đều công nhận đó là sự thật 100% và ông cũng chẳng có lý do gì để nổ. Hãi hùng hơn nữa khi ông lão còn bật mí rằng, khi nghe có biến, ông còn đoán được người sắp chết khoảng bao nhiêu tuổi, nguyên nhân chết. Nếu trình độ như vậy mà đem so với những nhà ngoại cảm, chắc ông Ninh sẽ không hề thua kém, thậm chí còn có thể trội hơn.

Có điều ông không dùng khả năng của mình để lừa bịp người khác hay hành nghề cúng bái mà ngược lại, ông lại tự nhận mình là người rất duy vật khi không tin vào ma quỷ. Lời nguyên văn của ông: “Tôi không tin là có ma quỷ nào. Nếu tin là có thật thì tôi cũng chẳng dám đi đêm hôm như thế làm gì, hoặc tôi đã bị ma quỷ vật chết lâu rồi”.

Lý giải về khả năng nghe, ngửi được người sắp chết của ông Ninh, nhiều người đoán già đoán non rằng, có thể người sắp chết có tiết ra một thứ chất đặc biệt nào đấy, hoặc phát ra một thứ sóng siêu âm siêu từ gì đó, và cơ thể ông Ninh lại có một bộ phận giống như chiếc máy thu, nên hai bên nhận ra nhau; cũng có người mê tín cho rằng ông Ninh bị trời đày nên mới phải chuyên đưa tiễn âm hồn như thế. Nói về chuyện này, dị nhân thuật lại: “Không biết do có phải trước kia bố mẹ tôi luôn bảo tôi là “lớn lên mày sẽ bị trời đày” hay không mà bây giờ tôi như vậy?”.

Còn có một chi tiết khác người dân vẫn băn khoăn không biết có phải vì chuyện này mà ông bất thường như thế không? Được biết ông Ninh là một cựu chiến binh, vào chiến trường miền Nam chiến đấu năm 1972, đến năm 1975 thì xuất ngũ. Về nhà ông lấy vợ, sinh con nhưng hậu quả của chiến tranh vẫn theo đuổi người lính này khi hai đứa con đầu của ông bị nhiễm chất độc màu da cam, hai người con sau rất may mắn không ảnh hưởng gì.

Thế nên vợ ông đôi khi mới vẩn vơ ngồi tự hỏi: “Không biết có phải do chất độc màu da cam làm ảnh hưởng đến tâm trí của ông ấy hay không mà lộ ra cái biệt tài chẳng giống ai như thế?”. Thời gian đầu khi "tinh hoa mới phát tiết”, vợ con thấy ông gàn dở như vậy đã phản đối kịch liệt, không cho dự đoán người chết hay bén mảng đến đám ma nào, nhưng cứ như phản xạ của cơ thể, ông không nghĩ đến thì những dự báo vẫn cứ ập đến u u trong đầu. Thấy ông dở hơi quá, vợ con ông còn định lập mưu tống ông đi bệnh viện tâm thần.

Cũng chẳng trách được vợ con vì gọi là biệt tài thì phải có lợi như đoán… xổ số ngày mai về số gì, xem tướng số xem hậu vận ra sao, đằng này lại đi dự đoán cái tai ương đen đủi nhất trên đời là cái chết; mà khổ nỗi “đoán lần nào trúng lần ấy”. Biết được ý định của vợ nên ông hết thủ thỉ chứng minh mình hoàn toàn bình thường, rồi lên gân nhất quyết không đi, khẳng định mình không có vấn đề về tâm thần. Theo dõi mọi sinh hoạt của ông thấy vẫn bình thường, có mỗi bất thường là mê… đám ma nên mọi người dẫn cũng đành chịu, mặc kệ ông với đam mê độc nhất vô nhị.

Cũng vì cái biệt tài chẳng ai muốn có này ,mà từ khoảng hơn chục năm nay ở những khu vực gần xã Quý Sơn khoảng hơn chục cây số, khi nhà ai không may có người xấu số qua đời thì đều thấy một người đàn ông tuổi ngoài ngũ tuần xuất hiện. Mà có khi ông còn đến sớm hơn cả những con cháu trong nhà để giúp nhà có người qua đời những công việc tang ma.

Hình ảnh ông Ninh có mặt trong mọi đám tang tại địa phương đã quá quen thuộc với những người dân nơi đây. Đến mức thậm chí nếu thấy vắng mặt ông trong bất kỳ một đám nào đó thì đó mới là một chuyện lạ, có thể là do ông bị ốm nặng không đi được, hoặc nhiều đám ma quá nên chạy sô không kịp. Tham dự đám ma là nghề của ông, thậm chí còn được coi là nghề chính, vì ngoài đi đám ma thì hầu như ông chẳng còn làm gì được, thời gian phục vụ đám đã chiếm phần lớn thời gian, lấy đâu thời gian đi làm vườn tược, đồng áng. Điểm lạ của nghề này là không có một đồng tiền công, không một mục đích vụ lợi nhỏ nhất nào.

Ngoài lý do đi nhiều thành mê, còn một lý do khác theo lời ông tâm sự là không đi không được: “Biết có người sắp chết, biết đang có đám ma mà không đi được thì trong lòng nóng như lửa đốt, buồn bực đứng ngồi không yên, thậm chí còn sinh ra ốm đau”. Thành quả của ông sau khi phục vụ những đám ma là ông cảm thấy khỏe ra, tâm hồn thanh thản lạ thường. Thế nên đôi lúc mắc bệnh nghề nghiệp, không có đám ma lại...thấy nhớ.

Sau khi là đại sứ của thần Chết, công việc tiếp theo của ông sẽ là chân lon ton phục vụ đám ma, có thể làm bất kỳ công việc nào của nhà đám: Thay thợ kèn đánh trống, đánh tùng bèng để đưa tiễn người chết, trông coi bàn thờ bát hương của người chết cho hương lửa không khi nào tắt suốt mấy ngày tang lễ...Đến đám ma nào ông cũng nhiệt tình như đám ma nào, người lạ không biết chuyện cứ ngỡ ông phải là người ruột thịt trong gia đình người chết: Ông kê bàn ghế, đun nước uống, pha chè mời khách; đêm đến thì ông không ngủ mà thức trông đồ đạc, bàn ghế, trông xe cho gia chủ trong lúc tang gia bối rối sơ xuất...

Đám nào được ông giúp thì gia chủ luôn yên tâm về việc tiếp khách không lo thất lễ, đồ đạc không bao giờ sợ mất mát. Ông giúp đến khi nào gia đình họ hàng đưa người quá cố về nơi an nghỉ cuối cùng thì mới về nhà nghỉ; hoặc lại chạy sô đến một đám ma khác trong vùng. Dù sao thì khả năng dự báo người chết của ông Ninh cũng thường chỉ dừng lại ở ngưỡng dự đoán những người bệnh tật, hoặc ốm yếu sắp chết chứ không dự đoán những cái chết bất đắc kỳ tử, thế nên may mắn là ông chưa từng bị ai... đánh hay bị người địa phương xa lánh. Ngược lại công việc và biệt tài của ông còn được người dân địa phương cảm ơn và quý trọng vì đã giúp họ bớt được phần nào nỗi đau khi người thân nằm xuống.

"Sinh lão bệnh tử là quy luật của cuộc đời, ông ấy có dự báo trước hay không dự báo trước thì chuyện người bệnh tật rồi chết cũng sẽ xảy ra. Mà chắc chắn người chết cũng được an ủi phần nào khi nhắm mắt xuôi tay mà lại có một người không thân thích giúp đỡ nhiệt tình như vậy. Một người dân địa phương trải lòng.

Và cái biệt danh đại sứ của thần Chết cũng chỉ là cách nói vui của bà con khi nhắc về ông Ninh, không ai coi ông là người có vấn đề mà còn coi hành động của ông là một hành động nhân văn, chia sẻ nỗi đau thương.

Thu Phương


#438 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 03/05/2012 - 08:25

BÍ MẬT CỦA MỘT CÂU KINH PHẬT

Vừa rồi, chúng tôi, những người bạn chí thân từ thời còn đi học ở Việt Nam trước bảy mươi lăm, rủ nhau qua Canada thăm mấy ông bạn khác. Chúng tôi đến thành phố Montreal vào mùa hè nên không lạnh lắm.

Ở Mỹ hay Canada, nhà cửa, cách sinh hoạt không khác nhau mấy. Và việc đi thăm bạn bè thì cũng chẳng có gì đáng kể ra đây nếu không có một câu chuyện, mà nếu bạn nghe được, chắc cũng sẽ ngạc nhiên, đặt nhiều câu hỏi.

Chuyện hơi dài dòng, xin bạn kiên nhẫn.

Chúng tôi gồm ba cặp vợ chồng, được gia đình người bạn tiếp đón rất thân tình. Ông ta còn gọi các bạn khác ở gần đó, kéo đến, nên buổi họp mặt thật đông vui.

Khi bữa cơm gia đình đã mãn, các bà lo dọn dẹp chén bát để pha trà và các ông đang chuyện trò sôi nổi, thì ông bạn chủ nhà đổi đề tài: "Có một chuyện thực, xảy ra ở Việt Nam, khoảng năm 1982.

Một chuyện kỳ lạ mà bà chị tôi vừa là người trong cuộc vừa là nhân chứng. Lúc còn ở Việt Nam, chị tôi dấu kín vì sợ đến tai công an thì sẽ bị tra hỏi, có thể bị tù cũng nên. Nay chị tôi đến xứ tự do, sẽ kể thoải mái. Trong câu chuyện, có gì thắc mắc, xin cứ hỏi chị tôi".

Người chị của chủ nhà, đang ngồi với các bà, được yêu cầu kể chuyện. Chị ta xin phép vài phút để lên lầu, lát sau đi xuống, tay cầm một phong bì đặt trước mặt và bắt đầu kể. Mọi người yên lặng, lắng nghe.

- Gia đình tôi, sau bảy lăm, chỉ còn đàn bà vì đàn ông đều vô tù cải tạo hết cả. Khoảng năm tám mươi, chúng tôi được móc nối để vượt biên nhưng vẫn phải chờ ít nhất một người đàn ông đi tù cải tạo về mới quyết định được.

Năm đó, cậu em tôi được thả về, chúng tôi báo cho người tổ chức, họ bảo, có một chuyến, phải đi ngay.

Từ Sài Gòn chúng tôi đón xe về Cà Mau dự đám cưới. Đám cưới thật nhưng ăn cưới chỉ là cái cớ. Dân địa phương thấy người lạ từ Sài Gòn về ăn cưới thì biết ngay, nhưng rình bắt là công việc của công an.

Thế nên, ai cũng chờ đợi màn thứ hai là khuya nay, công an sẽ phục ở bãi đáp để tóm gọn quí vị quan khách nầy.

Trò nầy xảy ra thường xuyên, nhưng họ không biết rằng vụ vượt biên nầy lại do chính công an địa phương đứng ra tổ chức, nên tối đó quí vị công an với các viên chức xã ấp có nhiệm vụ phải nốc rượu cho thật say, để sáng ra, ai cũng không biết gì cả!

Khuya đó, chúng tôi bị gọi dậy, cấp tốc lên đường. Từ nhà ra biển chỉ vài cây số. Trời quá tối. Chúng tôi âm thầm theo người trước mặt, đi vòng vèo trên các con đường đất. Trong bóng đêm tối đen, thỉnh thoảng, bên đường lại có một toán chui ra nhập bọn, tôi đoán, cả đoàn chúng tôi, ít ra cũng hơn trăm người.

Mặc dù đã được dặn trước là khi xuống thuyền phải tuyệt đối yên lặng và trật tự, không được chen lấn cãi cọ, nhưng khi thấy mấy chiếc tắc xi (thuyền nhỏ đưa ra thuyền lớn), người ta ùa nhau lội xuống nước, tranh nhau leo lên thuyền. Cậu em tôi đi trước, tay bồng hai đứa con, vợ nó níu lưng đi sau, tôi níu áo cô ta để khỏi lạc nhau.

Chỗ bãi đó toàn sình, ngập đến đầu gối khiến ai nấy bì bõm mãi mà chưa đến thuyền. Cậu em tôi phải kéo hai người đàn bà chúng tôi phía sau nên càng vướng víu, chậm chạp. Mọi người như những bóng ma âm thầm, chen nhau leo lên thuyền.

Khi cậu em tôi bỏ được hai đứa nhỏ lên thuyền, đẩy được vợ nó lên, đến lượt tôi thì bỗng có tiếng súng, tiếng la hét:

- Tất cả đứng yên! Đưa hai tay lên. Ai bỏ chạy sẽ bị bắn bỏ.

Tôi thấy ánh đèn pin loang loáng cách chỗ chúng tôi vài trăm thước. Chủ thuyền vội đẩy thuyền ra. Cậu em tôi chỉ kịp níu lấy be thuyền, người vẫn còn ở dưới nước. Tôi và khoảng vài chục người đành đứng nhìn mấy chiếc thuyền lẫn vào bóng tối, mờ dần ngoài biển khơi.

Lúc đó tiếng súng và tiếng hô hoán "Đứng yên! Bỏ chạy bắn bỏ" càng như gần hơn khiến mọi người vội chạy ngược về phía bờ. Như đã dặn trước:

- Khi bị bể, phải chạy tránh xa ánh đèn của công an, trốn cho kỹ, chờ vài hôm, yên tĩnh mới tìm cách ra lộ đón xe về.

Vậy là mạnh ai nấy chạy. Tôi bương đại lên bờ, chạy ngược hướng tiếng súng. Vừa chạy vừa run, miệng niệm: "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát".

Cứ nhắm mắt, nhắm mũi chạy đại, vấp mô đất hay gốc cây té xuống thì vùng dậy chạy tiếp. Lúc đầu hình như có người cùng chạy với tôi, quay lại thì không thấy ai cả!

Tôi chạy độ nửa tiếng, thấy đã xa, vừa hoàn hồn thì hai chân rã rời, nhấc không lên. Tôi ngồi đại xuống đất, thở dốc. Lúc đó khoảng một giờ sáng.

Tôi nhìn quanh. Một bên là biển đen sì, rì rào tiếng sóng, một bên là bờ rừng, với hàng cây là những khối đen, cao hơn đầu người, trông như những con ác thú đang chờ mồi.

Tôi đoán, có lẽ công an rình bắt một vụ vượt biên khác, cách chúng tôi vài ba trăm mét, chủ thuyền tưởng bị bể, nên bỏ chạy, vì thế mọi người mới chạy thoát.

Từ lúc lên xe ở Sài Gòn đến khi về Cà Mau, tôi hoàn toàn không biết mình đang ở đâu? Bây giờ ngồi bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, chung quanh tối mù, tôi tự hỏi mình sẽ làm gì, hay phải ngồi như thế nầy cho đến sáng? Lúc nãy, chạy, người toát mồ hôi, bây giờ, gió biển thổi vào, tôi lạnh run cầm cập.

Tôi thầm ước cho công an đến bắt mình, có người cùng bị bắt với nhau cũng yên tâm, rồi sau đó muốn ra sao thì ra! Cái xách nhỏ trên vai tôi vẫn còn. Tôi tìm chai nước lạnh, uống mấy ngụm.

Trong xách chỉ có vài chai nước lạnh, mấy viên thuốc say sóng, mấy hộp sữa đặc, cái khăn nhỏ, một mớ đô la và vàng cùng quyển kinh Phật. Không hiểu sao, trong lúc hoảng loạn mà tôi còn giữ được cái xách?

Đang ngồi rầu rĩ, bỗng nhiên, tôi thấy từ xa, có ánh đèn thấp thoáng, có lẽ là đèn dầu hôi, loại thường thấy ở thôn quê, cách tôi hơn một cây số. Tôi mừng rỡ, quên cả mệt, đứng lên, nhắm ánh đèn mà đi.

Tôi đi như chạy, té lên, té xuống, mà không thấy đau, cứ nhắm ánh đèn bương tới, vì sợ người ta tắt đèn thì không biết làm sao tìm đến.

Độ nửa giờ sau, tôi đến nơi. Đó là một nhà lá, cửa mở, một cây đèn bão (loại đèn để đi trong gió mà không sợ tắt), đặt trên một chiếc ghế nhỏ, để ngay trước cửa, nhờ vậy mà từ hướng bên trái ngôi nhà, tôi vẫn thấy được.

Khi đến trước cửa, tôi kêu lên:

- Có ai trong nhà không? Cho tôi vào với.

Có tiếng đàn ông nói lớn:

- Vào đi! Đừng sợ!

Khi bước vô cửa tôi mới nhận ra là có một người đàn ông đang ngồi hút thuốc lào, cạnh một cái bàn để giữa nhà. Người đàn ông đứng lên, ra đem cây đèn bão và chiếc ghế vào.

Nghe giọng lơ lớ, với cách dùng chữ, tôi đoán ông ta là người Bắc giả giọng Nam. Tôi bước vào nhà. Nhà không rộng lắm nhưng đặt ba nơi ba chiếc giường rộng, có trải chiếu tươm tất. Ông ta chỉ chiếc ghế:

- Ngồi đấy đi!

Tôi nói cám ơn, vì áo quần dính sình, không dám ngồi, sợ dơ ghế. Ông ta bảo, giọng bình thản như việc nầy đã từng xảy ra nhiều lần:

- Thế thì đi tắm đi! Tôi có sẵn áo quần của bà xã tôi, thay tạm. Áo quần bẩn thì giặt đi, phơi ra ngoài gió, sáng mai khô ngay, thay trả lại cho tôi, rồi tôi sẽ đưa ra bến xe, đón xe về Sài Gòn.

Nghe nói sáng mai đón xe về Sài Gòn, tôi mừng quýnh, không ngờ mình may mắn gặp được cứu tinh. Tôi thấy có cảm tình với người đàn ông tử tế đó, định nói lời cám ơn, nhưng nhìn thấy hai con mắt của ông ta, tôi rùng mình khiếp sợ.

Ông ta khoảng năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, mặt sạm nắng, hai gò má cao, tóc ngắn, chân tay gân guốc... nghĩa là ông ta đúng là một nông dân, chỉ đôi mắt là khủng khiếp.

Tuy đèn dầu tù mù nhưng đôi mắt vẫn ánh lên những tia sáng lạnh lẽo, vừa uy quyền, tàn nhẫn vừa như giễu cợt. Tôi sợ quá, cảm tưởng như mình là con chuột đã bị con mèo chộp được trong móng vuốt nhưng vẫn giữ đấy chờ con mồi chết khiếp mới từ từ thưởng thức.

Thấy tôi đứng bất động vì sợ, ông ta cười, giọng dịu dàng nhưng vẫn uy quyền, như ra lệnh:

- Tôi không hại cô đâu. Cô đừng sợ. Tôi nghe tiếng súng nổ là biết ngay vượt biên bị bể nên thắp đèn lên để ai chạy thoát thì đến đây tá túc, sáng mai tôi lấy thuyền đưa ra bến xe về nhà.

Tôi đã cứu hàng mấy trăm người rồi. Ai cũng về nhà an toàn. Đừng sợ. Để tôi lấy áo quần cho cô thay tạm. Hôm nay vợ tôi ra chợ thăm đứa con gái, sáng mai, tôi đưa đi, nhân tiện đón vợ tôi về. Đói bụng thì có cơm nguội trong nồi với con cá khô trong bếp, lấy ra mà ăn.

Ông ta nói nhỏ nhẹ, từ tốn nhưng tôi vẫn sợ, răm rắp theo lệnh. Ông ta vào buồng đem ra một bộ đồ đàn bà màu đen, trao cho tôi rồi thắp một cây đèn cầy, chỉ lối đi ra sau chái nhà:

- Có cái phòng tắm sau kia. Sẵn nước với khăn lau. Tắm xong, mặc tạm, còn bộ đồ bẩn thì giặt đi, phơi lên, sáng mai khô, mặc vào, trả lại bộ đồ cho vợ tôi.

Tôi riu ríu cầm áo quần và cây đèn cầy ra nhà sau. Tôi tắm qua loa. Còn nửa thùng nước, tôi đổ ra cái thau nhỏ sẵn đó, vò bộ đồ dính sình rồi treo lên một sợi dây kẽm trong phòng tắm. Khi tôi lên nhà trên thì ông ta chỉ cái giường, có giăng sẵn mùng:

- Cô ngủ trên giường nầy. Tôi ngủ trong phòng. Ngủ đi cho khỏe, đừng sợ mà thao thức. Mai đi sớm.

Tôi nói:

- Dạ. Cám ơn! Rồi chui vô mùng. Ông ta tắt đèn, đi vào buồng.

Tôi nằm trên giường, mắt mở thao láo, không dám ngủ. Có chiếc mền mỏng, tôi lấy quấn chặt quanh người rồi nằm lắng nghe, không biết chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi chỉ mong được ông ta tịch thu hết số đô la và vàng tôi mang theo rồi tha cho tôi về nhà.

Tôi cứ lẩm nhẩm niệm Quán Thế Âm, cầu Phật Bà cứu khổ cứu nạn. Trong đêm tối, tất cả im lặng, chỉ có tiếng sóng biển rì rầm nghe như tiếng xe chạy rất xa.

Bấy giờ tôi mới thấy người rã rời, vừa mỏi vừa đau ê ẩm khắp nơi, nhất là những chỗ bị mô đất hay gốc cây đập mạnh vào khi tôi chạy bị ngã. Suy nghĩ miên man, tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay.

Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng. Vừa xếp mùng, mền xong thì ông ta từ trong buồng bước ra.

- Ngủ có được không?

- Dạ. Đi mệt quá nên ngủ say một giấc đến sáng.

Tôi nói mà không dám nhìn ông ta, sợ thấy đôi mắt kinh khiếp đó.

- Cô thay đồ rồi chúng ta đi ngay. Tôi chở cô ra bến xe ngoài chợ, họ sẽ đưa cô lên bến xe tỉnh, đón xe về Sài Gòn. Cô viết vào miếng giấy trên bàn kia, tên họ địa chỉ của cô. Tôi cần biết về cô để sau nầy dễ xác nhận.

Tôi ra sau nhà, thay đồ, đem bộ đồ của vợ ông ta để trên giường, đến chỗ cái bàn, viết tên họ, địa chỉ vào miếng giấy. Ông ta chỉ cái xách nhỏ của tôi "Đừng quên cái xách tay".

Tôi thấy quyển kinh của tôi để ra ngoài nhưng không dám lấy bỏ vào xách, mà làm như không thấy, chỉ vơ vội cái xách, cầm đi theo ông ta.

Ra ngoài sân, tôi mới biết, trước nhà là một con sông rất rộng, có lẽ là cửa sông, còn biển thì nằm bên trái căn nhà, cách một cây số.

Nhà ông ta nằm giữa một vùng hoàn toàn hoang vắng, chung quanh là sình lầy với cây đước, vẹt, sú gì đó mọc mênh mông, chạy đến mút mắt.

Tôi không hiểu vì sao vợ chồng ông ta lại đem nhau ra ở chỗ nầy? Không ruộng vườn, không thuyền bè đánh cá, không có người chung quanh, ngay đến con chim cũng không thấy bay qua.

Có chăng là mấy con cua còng gì đó nằm trên mặt sình dương mắt nhìn tôi. Con đường từ nhà ra bến sông được đắp cao, có lẽ là lối duy nhất đưa ông ta ra chiếc thuyền, đến với xã hội loài người.

Ông ta xuống thuyền, tôi bước theo. Nhờ mấy miếng bê tông làm thành tam cấp nên tôi xuống thuyền không khó khăn lắm. Chiếc thuyền nhỏ, dài khoảng sáu, bảy mét, rộng hơn hai mét, gắn máy đuôi tôm. Ông ta tháo dây cột thuyền, giật máy, đưa thuyền ra giữa giòng sông.

Chiếc thuyền chạy giữa hai bờ rừng vắng vẻ, hoang vu. Một lúc thật lâu thì xa xa thấp thoáng mấy mái nhà sau hàng dừa nước, rồi vài chiếc thuyền xuất hiện, chạy ngược chiều.

Thuyền ghé vào một bến đò, có nhà cửa, quán ăn, một chợ thôn quê nhỏ và một bến xe lam (xe Lambretta, ba bánh dùng chở khách).

Ông ta cột chuyền, ra dấu cho tôi cùng lên bờ. Mọi người thấy ông ta thì cúi đầu chào vẻ kính cẩn và sợ hãi. Ông ta không thèm nhìn ai, đi thẳng đến chiếc xe lam, nói gì đấy với người chủ xe. Người chủ xe khúm núm gật đầu, miệng dạ nhịp, rồi đến nói với tôi:

- Mời cô lên xe. Xe chạy ngay bây giờ.

Ông ân nhân không để ý đến lời cám ơn của tôi, cũng không nói với ai tiếng nào, xuống thuyền, giật máy, quay thuyền ra giữa giòng. Khi ngồi trong xe lam, tôi thấy mọi người đang tò mò nhìn tôi với vẻ sợ hãi rồi thì thầm với nhau gì đấy.

Ông xe lam nổ máy, chở một mình tôi, vòng vèo trên đường đất trong xóm rồi đưa xe ra đường lớn, chạy vào thành phố. Ông ta chạy thẳng đến bến xe khách, ngừng cạnh một xe đầy khách, mời tôi xuống, đưa tôi đến ông tài xế, thì thầm với ông ta.

Ông tài xế mời tôi lên ngồi ghế trước. Tôi lục trong xách nhỏ, thấy gói đô la và vàng còn nguyên, lấy ra một mớ tiền Việt đưa trả cho hai người, nhưng ai cũng khoát tay.

- Anh Năm dặn rõ là ảnh sẽ trả tiền xe cho cô, chúng tôi đâu dám nhận.

Chiều hôm đó, tôi về đến nhà. Khoảng một tháng sau, người tổ chức đến gặp tôi, báo tin là mọi người đến đảo an toàn, thân nhân sẽ gửi thư sau.

Ông ta hỏi tôi rất tỉ mỉ về vụ những người không kịp lên thuyền, tôi kể lại sự việc. Ông ta bảo những người kẹt lại đã bị công an bắt, chỉ thiếu hai gia đình, gồm bốn người, không có tin tức.

Hai gia đình nầy thì tôi biết, họ là thương gia xuất nhập cảng trước bảy lăm, rất giàu. Trước khi đi, họ đã bán nhà, vì tin chắc sẽ đi lọt, như vậy, họ ôm của cải theo (vàng và đô la), phải nhiều lắm.

Chuyến vượt biển lần đó khiến tôi sợ quá, không dám nghĩ đến, ai rủ đi cũng lắc đầu. Khoảng một năm sau, tôi nhận được một lá thư, tên người gửi lạ hoắc. Tôi hoàn toàn không biết ai đã gửi đến.

Chị ta cầm lá thư đưa lên. Mấy năm sau, chồng tôi đi tù về. Chúng tôi qua Mỹ theo diện HO. Vợ chồng tôi qua Canada ở chơi với gia đình cậu em. Gần mười năm mà tôi vẫn còn giữ lá thư nầy. Để tôi đọc cho quí vị nghe:

"Gửi bà H. (là tên tôi). Bà còn nhớ, lần vượt biển ở Cà Mau, bị bể và bà được tôi cho trọ qua đêm, hôm sau đưa ra bến xe, về thành phố. Tôi biết bà thắc mắc. Tôi là ai? Tại sao lại ở nơi vắng vẻ? Tôi sinh sống bằng cách nào?

Tôi cho bà rõ. Tôi là công an, có nhiệm vụ ở đó để đón lõng những người vượt biên bị bể chạy thoát được. Công an chúng tôi làm nhà cách nhau một vài cây số, dọc bờ biển, nơi thường có bến bãi vượt biên, có thuyền con đón ra thuyền lớn. Như vậy, khi công an đến bắt vượt biên, người nào chạy thoát cũng chỉ quanh quẩn đâu đấy, thấy đèn là tìm đến, thế là nộp mạng cho chúng tôi.

Tôi bảo rằng có vợ ở chung nhưng thật ra, vợ con tôi đều ở ngoài Bắc, tôi vào đây công tác đã được bốn năm, khi nào ổn định sẽ đưa gia đình vào thành phố, vì chẳng ai có thể ở nơi hoang vắng nầy.

Mỗi công an chúng tôi đã chuẩn bị sẵn các tiện nghi, nước nôi, lương thực, giường chiếu để đón những người vượt biên tìm đến nhờ cứu giúp.

Tôi cho ăn uống, ngủ lại, sáng hôm sau, cho họ xuống thuyền, nói là chở ra bến xe để họ về nhà, nhưng kỳ thực, thuyền đi được nửa đường là bị công an chận bắt. Tôi cũng bị bắt để không ai nghi ngờ.

Thông thường, nếu nhiều người tìm đến thì tôi bảo họ, có gì đem theo nên kê rõ, nhất là tiền bạc, quí kim, để tránh chuyện lấy cắp của nhau.

Nếu chỉ một người thì tôi chờ lúc người đó đi tắm sẽ lục xách tay, kiểm tra những gì đem theo. Tôi còn rình nhìn lúc họ đi tắm, cởi đồ ra, sẽ thấy những gì họ lận theo người?

Tôi không bao giờ lấy của ai bất cứ gì, nên khi giải giao họ (đưa lên thuyền để bị công an chận bắt), công an chấp pháp lấy lời khai, sẽ thấy rằng tôi rất trong sạch.

Tôi từng được công an tỉnh và trung ương biểu dương nhiều lần về thành tích chận bắt người vượt biên cũng như tinh thần chí công vô tư, không tơ hào đến của cải, vật chất của người bị bắt.

Nhưng không ai biết rằng, hễ người nào đem nhiều đô la, vàng ngọc, hột xoàn là tôi thủ tiêu, chôn xác trong rừng. Tôi đào sẵn những cái hố, muốn giết ai, khuya đó, tôi lận súng trong người, bảo họ đi theo tôi để tôi chỉ đường mà đi ra đường chính đón xe về.

Vào rừng, tôi bắn chết, đạp xuống hố, hôm sau ra lấp đất lại. Không người nào thoát khỏi tay tôi, vì chung quanh toàn sình lầy, có bỏ chạy một quãng là ngập người dưới sình, tôi chỉ rọi đèn pin, đi tìm và bắn họ rất dễ dàng.

Tôi có nói bao nhiêu người bị tôi thủ tiêu với bà cũng chỉ làm bà kinh hoàng chứ chẳng ích lợi gì. Tất cả của cải cướp được, tôi đưa cho vợ tôi đem về quê chôn giấu.

Hột xoàn, đô la, vàng ngọc, châu báu... Nghĩa là vợ chồng tôi rất giàu. Vợ tôi bảo, có thể bỏ vốn lập những công ty, mua máy móc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu hoặc mua nhà cửa ở Hà Nội hay thành phố cũng không hết của.

Dĩ nhiên gia đình tôi ngoài Bắc vẫn sống đạm bạc như bao nhiêu người khác, để tránh bị nghi ngờ.

Tôi dự định sẽ làm thêm vài năm, kiếm một số tiền vàng nữa rồi xin ra khỏi ngành. Tính ra, tôi ở đó đã được bốn năm, cho đến cái đêm bà tìm đến nạp mạng cho tôi.

Như mọi khi, chờ lúc bà đi tắm tôi lén kiểm tra xách tay của bà. Tôi thấy trong xách có nhiều vàng và đô la. Như vậy, số phận của bà đã được tôi quyết định. Bà sẽ bị tôi thủ tiêu. Trong lúc lục xét xách tay tôi thấy có một quyển kinh, khổ lớn hơn những quyển kinh khác, mà những người vượt biên khác thường đem theo. Quyển kinh lớn đó khiến tôi tò mò.

Theo thông lệ, tất cả kinh Phật của những người vượt biên, tôi giữ lại, khi nào lên tỉnh, tôi tặng cho người bạn đang trụ trì một ngôi chùa lớn, gần chợ.

Anh ta là công an, đi tu là công tác, vẫn lãnh lương công an. Tôi tặng các quyển kinh Phật cho chùa để ai đến lễ chùa mà "thỉnh" những kinh đó thì biết ngay, người đó sẽ vượt biên và chúng tôi theo dõi.

Vì tò mò và vì nghiệp vụ, tôi mở quyển kinh của bà ra, để sát ngọn đèn cho dễ đọc. Tôi đọc một cách tình cờ, một câu kinh nằm ngay giữa trang kinh.

Chỉ một câu thôi. Câu duy nhất đó khiến tôi lạnh toát người vì kinh sợ. Tôi sợ đến choáng váng, muốn té xỉu, đến độ ngồi chết lặng một lúc thật lâu. Tối đó, tôi không ngủ được .

Hiện nay tôi đã ra khỏi ngành công an. Tôi đã đi tu ở một vùng núi miền Tây Nguyên, rất hẻo lánh, xa hẳn phố phường, làng xóm. Ngôi chùa nhỏ được cất bên góc núi. Rất xa, dưới chân núi, cách nơi tôi ở, thấp thoáng những nhà sàn của những người thuộc sắc tộc thiểu số.

Mỗi buổi sáng, tôi lạy Phật, tụng kinh, rồi lên đồi cuốc đất, trồng khoai sắn, rau quả. Buổi tối tôi lại tụng kinh và suy ngẫm lời Phật dạy. Tôi bảo với vợ tôi là tôi làm nhiệm vụ trên giao, không nên gặp nhau nhiều, thỉnh thoảng lên tiếp tế lương thực mà thôi.

Của cải mà tôi kiếm được (vợ tôi đang giữ), tôi dặn, nên trích ra một phần, khi nào có thiên tai bão lụt thì đem cứu giúp người hoạn nạn, giúp bà con, bạn bè khi họ cần, giúp các người già lão, bịnh tật, không nơi nương tựa, giúp các trại mồ côi, các trại cùi hủi...

Tôi viết để bà rõ, nay tôi đã chọn con đường khác. Tôi chỉ muốn biến mất trên thế gian, nhưng còn các con tôi? Chúng là nguồn sống của tôi. Tôi lo sợ cho chúng...

Nếu bà là một Phật tử, xin bà đến chùa, cùng góp lời cầu xin Phật Tổ cho tôi sớm tìm được con đường giải thoát. Chúc bà sức khỏe".

Chị đàn bà giơ lá thư lên và nói:

- Thư chỉ viết thế thôi.

Chúng tôi hỏi:

- Chị có nhớ mình mang theo quyển kinh Phật tên gì không?

- Đúng ra, lúc nào tôi cũng để sẵn quyển kinh "Quán Thế Âm Bồ Tát" trên bàn thờ, hễ hô "đi!" là tôi chỉ việc bỏ vô xách tay và lên đường.

Hôm đó, cô em dâu tôi đây, lại lấy quyển kinh đó trước, tôi vội quá, mở tủ kinh Phật của ba tôi để gần đó, vơ đại một quyển, nghĩ rằng "Phật nào cũng là Phật, vị nào cũng phù hộ, độ trì cho chúng sinh tai qua nạn khỏi". Ba tôi, khi còn sinh thời, tu tại gia, nghiên cứu kinh Phật.

Ngoài chữ Việt, ông cụ còn biết chữ Hán, chữ Nôm nên thỉnh rất nhiều kinh về nghiên cứu. Thế nên, đến bây giờ tôi cũng không biết mình đã mang theo quyển kinh nào khi vượt biên.

Điều tôi tin chắc rằng. Chính quyển kinh đó đã cứu mạng tôi và câu kinh trong đó, như một lời phán của Đức Phật hoặc đấng Hộ Pháp, bảo thẳng với kẻ ác hãy ngừng tay lại. Lời phán đó phải có uy lực mạnh mẽ đến nỗi một kẻ giết người phải khiếp đảm".

Trong bọn chúng tôi, chẳng ai là đệ tử nhà Phật mặc dầu, thỉnh thoảng có đi chùa lạy Phật, tụng kinh trong những ngày lễ, tết. Chúng tôi hỏi nhau rồi phán đoán đủ thứ.

Câu "buông đao thành Phật" quá tầm thường, chẳng làm ai động tâm. Muốn biết bí mật của câu kinh đó, chỉ còn cách đi hỏi các nhà sư thì họa may.

Vì bị câu chuyện trên ám ảnh, nên trên đường từ Canada về lại miền Đông Bắc nước Mỹ, chúng tôi quyết định, ghé vào một ngôi chùa của sư PT để thăm và hỏi cho ra lẽ.

Sư trạc tuổi chúng tôi, là chỗ quen biết nên rất thân tình. Sư PT xuất gia từ lúc mười một tuổi tại chùa Diệu Đế ở Huế. Vượt biên qua Mỹ, sư học và tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Tuy còn trẻ, nhưng sư PT thông hiểu Phật pháp và có một cuộc sống rất đạo hạnh.

Trưa hôm đó, chúng tôi được sư khoản đãi cơm chay. Trong lúc thọ trai, chúng tôi kể lại câu chuyện trên cho sư nghe và hỏi sư có biết câu kinh nào đã khiến một người vô thần phải buông đao giết người và đi tu không? Nhà sư suy nghĩ một lúc và nói:

- Ông ta chẳng thù hận gì những người vượt biên, nhưng giết họ để cướp của, ông ta làm thản nhiên như người đồ tể giết heo, giết bò. Mục đích là để có nhiều tiền của cho con cái được sung sướng.

Kinh Phật chỉ nói về cái nghiệp và cái quả. Ai làm nấy chịu. Nhưng người Việt mình lại có câu "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước". Cha mẹ thương con cháu thì ăn ở nhân đức, để phước cho chúng. Con cháu, nhớ ơn đó mà thờ phụng các vị một cách thành tâm.

Đó là "Đạo Thờ Ông Bà". Ông công an nầy thì làm ngược lại, nên ông ta bị ám ảnh bởi việc ác của mình, "quả báo nhãn tiền", con cháu sẽ lãnh đủ. Có thể, con cái ông ta bị đâm chém hay bị giết chóc sao đó, khiến ông ta nghĩ rằng:

"Mình giết người ta thì con mình bị người ta giết" nên ông ta sợ. "Nhưng Phật đâu có dạy về chuyện quả báo cho đời con cháu mà ông ta, khi đọc một câu nào đó trong kinh Phật lại sợ hãi đến nỗi phải bỏ nghề, đi tu?"

"Đa số những người vượt biên đều đem theo người là kinh A Di Đà hoặc Bạch Y Thần Chú, coi như có Thần Phật hộ trì bên cạnh. Khi gặp chuyện hiểm nguy thì niệm "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát" chỉ đọc tới đọc lui câu đó thôi, coi như tiếng kêu cứu, các vị Bồ Tát sẽ ra tay tế độ, giúp cho tai qua nạn khỏi.

Những quyển kinh mà ông ta tịch thu, không nhất thiết đều giống nhau. Có thể người đàn bà kia đã mang một quyển kinh khác. Hơn nữa ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ, không có gì giải trí ngoài việc đọc các quyển kinh Phật, quả thật, ông ta đang bước về hướng của giải thoát.

Chính cái ý niệm muốn giải thoát khiến ông ta bỏ nghề, và câu kinh Phật kia chỉ như vật xúc tác, như cái nút điện mà ông ta đang mò mẫm trong bóng tối, đã bật sáng, cho ông ta thấy được con đường phải đi.

Mỗi người là Phật chưa thành là vậy. Con người dù độc ác, mê muội đến đâu, cũng còn le lói một chút ánh sáng của lương tri. Đúng ra, phải gọi ông ta là "ông đạo" chứ không phải là "ông sư".

Vì ngoài việc nghiên cứu, tụng niệm kinh Phật, sư, sãi phải có thầy giảng giải, hướng dẫn trên đường tu tập. "Giả dụ như ông công an đó đến xin thọ giáo với thầy. Thầy sẽ giảng những gì cho một người vô thần như ông ta hiểu về Phật pháp?".

Nhà sư cười:

- Thoát được "tham, sân, si" là tự giải thoát rồi.

Chính tôi phải học ông ta, làm cách nào đã bỏ được chữ "tham"? Chữ "tham" đơn giản, thường tình thôi, không cần phải triết lý xa vời. Tiền của vô tay dồi dào, dễ dàng như vậy mà lại bỏ hết, mấy ai làm được?

Còn hai chữ "sân, si", bản thân tôi như đang nằm trong cái rọ, không biết bao giờ mới thoát ra! Ông ta là thầy tôi mới đúng.

- Thầy có thể đoán được câu kinh nào nằm trong quyển kinh nào, đã khiến ông ta phải sợ mà đi tu không?

Nhà sư lắc đầu:

- Chỉ riêng ông ta biết được mà thôi. Có thể chỉ một câu

tình cờ, bình thường nào đó ông ta đọc được nhưng giải thích đúng những băn khoăn, thắc mắc, sợ hãi bấy lâu của ông ta, nó đánh động lương tâm ông ta, hướng dẫn ông ta tìm con đường giải thoát.

Xưa kia, lục tổ Huệ năng chỉ nghe một câu trong kinh Kim Cang liền ngộ được đạo.

- Nhưng nhất định phải có một câu kinh nào đó. Thầy thử nhớ xem sao?

Nhà sư lắc đầu:

- Bị hỏi thình lình, tôi không nhớ ra ngay. Hay là thế nầy. Bây giờ mời quí vị ra vườn sau chùa uống trà, ngắm hoa. Tôi xin được ít phút tập trung tư tưởng, họa may sẽ nhớ được điều gì chăng?

Mục đích không phải tìm hiểu mà chỉ như trò chuyện cho vui vậy thôi. Tôi không đủ trình độ để giải thích câu chuyện kỳ lạ nầy.

Nhà sư lên chánh điện. Chúng tôi ra sau chùa, vừa chuyện trò vừa lang thang ngắm hoa cảnh.

Có tiếng chuông ngân vang từ chánh điện, rồi tất cả yên lặng. Có lẽ nhà sư đang lễ Phật và trầm tư...

Độ một giờ sau, nhà sư xuất hiện ở ngưỡng cửa với nụ cười. Sư tiến đến, ngồi xuống với chúng tôi ở một bàn nhỏ dưới gốc cây. Chúng tôi vội hỏi:

- Tìm được câu kinh nào chưa thầy?

Sư lắc đầu và cười:

- Kinh Phật chẳng có câu nào hăm dọa người ta, bắt người ta phải đi tu cả! Để nói về cái nghiệp báo thì kinh Thủy Sám Pháp có nói nhiều, nhưng tôi chỉ nhớ chính xác được vài câu ở các quyển kinh khác, chẳng hạn, trong kinh Đề Bà Đạt Ma (Devadata-suta) có câu:

"Những việc ác mà ngươi đã phạm, không phải là tại cha ngươi, không phải tại mẹ ngươi, không phải tại thầy, chủ ngươi. Chính một mình ngươi đã phạm, và một mình ngươi phải chịu quả báo".

Trong kinh Pháp Cú (Damma-pada) cũng có câu:

"Dẫu rằng ngươi chạy lên trời cao, ẩn dưới biển sâu, trốn trong núi thẳm, không có nơi nào mà ngươi tránh khỏi cái quả ghê gớm về tội ác của ngươi"...

Nói xong nhà sư lộ vẻ bối rối.

- Rất tiếc, vì sự vô minh của tôi mà câu kinh đó vẫn còn là một bí ẩn. Xin lỗi đã làm quí vị thất vọng. Theo tôi nghĩ, sự thống hối của ông ta quá thành khẩn, đã cảm động đến đức Phật, và Ngài đã ra tay tế độ, đã khai ngộ cho ông ta.

Nhưng phải là người thật thành khẩn thì đức Phật mới làm được việc đó.



Phạm Thành Châu



Thanked by 2 Members:

#439 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 07/05/2012 - 07:46

KỲ LẠ THIẾT BỊ GIÚP NGƯỜI SỐNG CÓ THỂ GIAO TIẾP VỚI NGƯỜI CHẾT

Kỹ sư điện học Gary Galka, đến từ tiểu bang Connecticut, Mỹ, tuyên bố ông đã phát minh ra một thiết bị giúp người sống có thể giao tiếp được với người chết. Thiết bị đang trở thành một chủ đề được bàn tán nhiều trong thời gian gần đây. Sau khi đứa con gái mười bảy tuổi Melissa qua đời vào năm 2004 trong một vụ tai nạn xe hơi, Gary nói cô bé bắt đầu có những dấu hiệu như thường xuyên liên lạc với các thành viên trong gia đình. Những biểu hiện của việc cô con gái Melissa hiện về được vợ Gary Galka miêu tả lại:

- Đột nhiên chuông cửa nhà reo lên, TV đang xem bổng nhiên chuyển qua kênh truyền hình khác, những bóng đèn trong nhà cứ tắt đi rồi lại được bật lên như đèn nháy...

Thông qua những điều bất thường này, Gary nhận ra rằng, dường như cô con gái Melissa có điều gì đó muốn nói với mọi người trong gia đình. Gary bắt đầu nảy sinh ý tưởng sẽ tạo ra một thiết bị giúp con gái có thể nói chuyện được với người trong nhà. Và cuối cùng Gary tuyên bố đã chế tạo thành công thiết bị đó!

Thời gian gần đây, gia đình Gary Galka đã xuất hiện trên một chương trình truyền hình có tên “Ghost Adventures”. Trong chương trình Gary đã giải thích cách để có thể giao tiếp và liên lạc qua về, cũng như có thể nhìn thấy người con gái đã khuất của họ. Gia đình Gary cũng khăng khăng Melissa đã xuất hiện xung quanh nơi họ đang sống thông qua thiết bị do Gary phát minh. Thiết bị này có thể chứng minh được điều đó khi nó có thể phát ra tiếng nói:

- Chào bố! Con yêu bố.

Gary cho biết:

- Một lần khi tôi ngồi trên giường, tôi cảm nhận được Melissa đang gối đầu lên ngực tôi.

Ông Gary Galka nói thêm, mặc dù ông chưa bao giờ nhìn thấy Melissa, nhưng đứa con gái khác của ông (em của Melissa) đã nhìn thấy Melissa ba lần. Những thành viên khác trong gia đình và thậm chí là những người không liên quan, cũng đã nhìn thấy sự xuất hiện của Melissa trong ngôi nhà nơi họ đang sống.

Gary đã bán được hàng trăm thiết bị như thế, mỗi thiết bị có giá giao động từ 79 đến 350 USD. Gary còn phát minh ra hơn ba mươi loại thiết bị khác nhau, chuyên tìm kiếm và phát hiện những điều huyền bí trong giới tâm linh. Gary đã dành một phần ba số tiền bán các thiết bị này để làm từ thiện, giúp đỡ những người gặp hoàn cảnh khó khăn. Ông còn mong muốn có thể giúp đỡ những ông bố bà mẹ không may có con đã qua đời, có cơ hội được hỏi han và thăm nom con mình. Gary nói:

- Tôi mong muốn làm được điều gì đó để có thể giúp họ. Thiết bị sẽ chứng minh cho họ thấy được con của họ vẫn sống an lành ở thế giới bên kia, điều này giúp họ có niềm tin hơn vào cuộc sống.

Được biết, ông Gary cũng đã dâng tặng thiết bị này cho một nhà thờ, với mong muốn mọi người có thể nói chuyện được với Chúa, vì Gary tin là Chúa luôn xuất hiện quanh ta và luôn tồn tại thế giới bên kia.

Lê Kiên

Sửa bởi hiendde: 07/05/2012 - 07:50


Thanked by 2 Members:

#440 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 10/05/2012 - 22:47

CHUYỆN LY KỲ VỀ CHÙA TRINH TIẾT VÀ HÒN ĐÁ TỰ LỚN

Từ hàng trăm năm nay, chùa Trinh Tiết ở xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, được người dân nơi đây coi là biểu tượng cho sự trinh trắng của người con gái. Tuy nhiên, ngoài cái tên Trinh Tiết, xung quanh chùa còn có những câu chuyện và hiện tượng kỳ lạ khó lý giải, mà điển hình nhất là hòn đá có khả năng tự lớn.

Theo những tài liệu ghi chép còn lại thì không rõ ngôi chùa xuất hiện từ khi nào. Chỉ biết, cái tên Trinh Tiết thì mãi đến thế kỷ XIV mới có và gắn với tên tuổi của một công chúa nhà Trần. Trong những tài liệu lịch sử về chùa Trinh Tiết có ghi rằng: Vào giai đoạn hậu kỳ nhà Trần, chế độ cai trị thối nát, bách tính rơi vào lầm than. Hồ Quý Ly nổi dậy ép vua Trần Thuận Tông đi tu ở Cung Bảo Thanh và nhường ngôi lại cho Thái tử Trần Án lúc đó mới ba tuổi.

Lúc đó, võ tướng Nguyễn Bằng được lệnh cho đem công chúa Trần Thị Bạch Hoa vừa tròn mười bảy tuổi chạy trốn. Khi chạy đến Kẽm Trống nằm bên dòng sông Đáy thì lên bờ tìm nơi ẩn dật. Nơi được chọn là núi Bồ Đà thuộc dãy Cầm Long. Trên núi này có một ngôi chùa hoang, lâu ngày không có ai đèn nhang, tụng niệm. Sau khi chọn được chốn ẩn cư, công chúa đã ở đây đến hết đời và khi chết vẫn còn là trinh nữ. Vì thế, sau đó, người dân đã đặt tên cho ngôi chùa trên núi Bồ Đà là chùa Trinh Tiết.

Ông Đỗ Hữu Kỳ ở thôn Động Xuyên kể lại:

- Thời kháng chiến chống Mỹ, có một đôi trai gái làng Động Xuyên tên Thụy Vân và Hùng. Trước khi lên đường đánh giặc, đôi trai gái này lên chùa Trinh Tiết thề non hẹn biển rằng, hai người nguyện sống chết bên nhau và giữ trọn trinh tiết của mình. Về sau người con trai tên Hùng bị hy sinh nơi chiến trường. Biết tin đó, Thụy Vân thẫn thờ rồi đến bên chân núi Bồ Đà nơi có chùa Trinh Tiết để tự vẫn. Từ câu chuyện này nên người dân nơi đây đã cho rằng, chùa Trinh Tiết là biểu tượng cho sự trinh trắng của người con gái.

Hiện nay, trên núi Bồ Đà vẫn còn dấu tích về những văn bản chữ Nôm được khắc trên vách đá. Chỉ tiếc rằng, trải qua năm tháng, nhiều dòng chữ tạc đã bị mòn do không được bảo vệ. Nhưng nó vẫn là minh chứng sinh động cho lịch sử một ngôi chùa vào loại độc đáo nhất vùng. Ngoài ra, trên đỉnh núi Bồ Đà còn có một lăng mộ có tên là Lăng Quy tượng. Theo ông Đỗ Hữu Kỳ ở thôn Động Xuyên, trong lăng có rất nhiều tượng cổ. Mỗi pho tượng cao từ khoảng tám mươi centimet đến một mét với nhiều chất liệu khác nhau như đá, gỗ, đồng...

Cách đây chừng chục năm, nhà chùa cùng chính quyền địa phương đã cho quy tập những pho tượng này lại và chôn trên đỉnh núi. Vì những ngôi mộ này chôn tượng nên người dân đặt cho khu mộ là Lăng Quy tượng. Nếu tìm hiểu lịch sử chùa Trinh Tiết, nhiều người sẽ ngỡ ngàng vì những điều kỳ ẩn trên ngọn núi thiêng. Đó là chuyện về một hòn đá tự lớn lên như một chàng thanh niên lực lưỡng. Hòn đá đó nằm ở vị trí cao nhất của núi Bồ Đà. Theo quan sát của chúng tôi, mỏm đá cao khoảng một mét sáu, bán kính một mét, có hình mũi chông. Ông Đỗ Văn Sỹ, Trưởng thôn Động Xuyên quả quyết với chúng tôi rằng:

- Ngày còn bé ông cùng đám trẻ con lên núi chơi thấy mỏm đá này mới chỉ cao ngang lưng người, nhưng giờ nó đã lớn đến ngang vai.

Hồi đó, ngôi chùa đã bị hoang hóa trở lại do không có người ở. Trên núi rừng rậm, thâm u, dưới chân núi lại là một bãi nghĩa địa, chỉ có đám thanh niên choai choai thích thể hiện mới dám trèo lên ngọn núi, để chứng tỏ bản lĩnh không sợ ma của mình. Mỏm đá kỳ lạ trên không những có khả năng tự lớn, mà khi gõ nó còn phát ra âm thanh lạ. Ông Đỗ Văn Sỹ kể rằng:

- Khi lên núi chơi đám thanh niên đã dùng đá ném nhau, không may một số viên đá rơi trúng mỏm đá trên và thấy có tiếng kêu lạ. Âm thanh phát ra từ mỏm đá trầm, vang như tiếng chuông đồng.

Để minh chứng cho điều này, ông Đỗ Văn Sỹ đã dẫn chúng tôi lên mỏm đá kỳ lạ trên và cầm một cục đá khác đập vào. Sau mỗi lần gõ, từ mỏm đá phát ra âm thanh bùng bùng nhưng không vang như lời kể của ông Sỹ. Ông Sỹ giải thích:

- Mỏm đá càng lớn lên thì âm thanh càng giảm đi, phải dùng một hòn đá cứng và rắn chắc đập vào thì mới phát ra được tiếng kêu, nếu dùng gậy gỗ đập vào thì sẽ chẳng nghe thấy gì khác ngoài tiếng gõ cùng cục.

Ông Trần Ngọc Kim năm nay bảy mươi bốn tuổi, hai năm trông giữ chùa Trinh Tiết cũng khẳng định: Hòn đá có khả năng tự lớn lên là có thật. Vì việc này rất kỳ lạ nên dân làng Động Xuyên đặt tên cho hòn đá là Tượng Bụt Mọc, và đặt dưới chân hòn đá một bát hương để tháng ngày nhang khói. Việc hòn đá tự lớn có thể thấy được qua năm tháng. Tuy nhiên, việc đo xem mỗi năm hòn đá lớn thêm bao nhiêu thì chưa ai làm.

Hòa thượng, Đại đức Thích Thanh Hưng, trụ trì của Trinh Tiết cũng cho rằng:

- Tượng Bụt Mọc có khả năng tự lớn là có thật. Tuy nhiên, để kiểm định chính xác thì phải nhờ đến các nhà khoa học vào cuộc để tìm ra lời giải. Từ hàng trăm năm nay người dân trong và ngoài vùng Động Xuyên vẫn coi Tượng Bụt Mọc là biểu tượng của sự linh thiêng vĩnh cửu.


Kiến Thức



Thanked by 2 Members:

#441 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 10/05/2012 - 23:15

TẠI SAO CÁC PHÙ THỦY LẠI BỊ SĂN LÙNG RÁO RIẾT?

Nhà kinh tế học Emily Oster cho biết, theo các ghi chép lịch sử trên toàn thế giới, các cuộc săn lùng phù thủy thường xảy ra nhiều hơn trong thời kỳ khí hậu lạnh giá.

Bởi vì khi thời tiết lạnh giá, người dân khó có thể có được con dê làm đồ lễ tế thần do mùa màng thất thu và kinh tế khó khăn. Qua nghiên cứu, điều này cũng đúng với thảm họa phù thủy tại Salem nổi tiếng xảy ra vào năm 1692, với hơn hai trăm người bị bắt giam và hàng chục người bị giết vì bị cho là phù thủy. Lúc đấy nhiệt độ trung bình ở Salem đang trong thời kỳ lạnh giá nhất của một kỷ băng hà nhỏ.

Trước đây, người ta thường giải thích rằng, nhiều cô gái ở Salem lúc đó bị cáo buộc là phù thủy do đúng vào mùa đông năm 1691-1692, con gái của Mục sư Samuel Parris là Betty bị bệnh qua đời do phù thủy ám. Nhiều cô gái trẻ đã bị dân làng cho là phù thủy lúc đó đã mắc phải một bệnh tâm lý là chứng cuồng loạn đại chúng. Tuy nhiên, theo lý thuyết mới giải thích, sự cuồng loạn đó có thể do các điều kiện kinh tế thảm khốc gây ra.

- Qua nghiên cứu các trường hợp liên quan đến phù thủy cho thấy, ngay cả khi xem xét các sự kiện và hoàn cảnh về tâm lý, văn hóa thì một động lực chủ chốt dẫn đến hiện tượng đó có liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh kinh tế. Oster nói.

Tuy nhiên, lý thuyết mới cho thấy sự cuồng loạn có thể nổi lên từ các điều kiện kinh tế thảm khốc. Khi thiếu nhiên liệu đốt có thể làm cho các căn nhà trở nên u ám và làm cho người ta dễ có cảm giác nhìn thấy phù thủy.

- Các thử nghiệm phù thủy cho rằng, ngay cả khi xem xét các sự kiện và hoàn cảnh được cho là tâm lý, văn hóa, động lực chủ chốt cơ bản có thể có liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh kinh tế. Oster.

Sự biến đổi về thời tiết ở Châu Phi cũng gây ra những vụ cáo buộc phù thủy tại nhiều nơi với nhiều vụ giết người hành nghề phù thủy vẫn tồn tại. Theo phân tích năm 2003 của nhà kinh tế học Edward Miguel Berkeley, lượng mưa cực đoan (quá nhiều hoặc quá ít) ở đây, lại trùng hợp với sự gia tăng đáng kể trong số các vụ giết phù thủy ở Tanzania. Trong đó, nạn nhân thường là phụ nữ lớn tuổi nhất trong một hộ gia đình.

Sưu Tầm


Thanked by 1 Member:

#442 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 12/05/2012 - 20:54

PHONG ĐÔ ĐẠI ĐẾ XỬ ÁN

ĐÀN CƠ Ở NGỌC LINH THÁNH TỊNH

Tối ngày 25 tháng 9 năm Đinh Dậu 1957, ngoài trời tối đen. Ban Lễ đã lo chu đáo lễ phẩm nơi Thiên bàn, để đến 8 giờ 30 sẽ lập đàn cơ. Trên trần của chánh điện có treo hai ngọn đèn “măng xông” thắp bằng dầu hôi đã được bơm hơi đủ dùng cho đến khuya. Khi đàn cơ bắt đầu, đồng tử xuất khẩu. Hai ngọn đèn “măng xông” đang xì hơi đều đều sáng chói tỏa hơi nóng hầm hập vào không khí, từ khi cơ bắt đầu chuyển thì tự nhiên lu dần, hóa ra một cảnh âm u mờ mờ chỉ còn vừa đủ xem chữ để cho điển ký biên chép.

Trong cảnh trạng bất thường như thế, lại nghe qua bài thi xưng danh là Ác Độc Quỷ Vương giáng trấn đàn hộ giá Phong Đô Đại Đế xử án, mọi người hầu đàn khi đó bất chợt phát lạnh nổi da gà, im phăng phắt không dám thở mạnh. Sau khi Phong Đô Đại Đế dạy Đạo xong từ giã, lâu độ hai tiếng đồng hồ, thì hai ngọn đèn kia tự nhiên sáng trưng trở lại như lúc ban đầu mới thắp!

Thi:

ÁC Đạo khuyên chung chớ bước vào

ĐỘC tâm sẽ chịu cảnh sầu đau

QUỶ ma lưới rập đà bủa sẳn

VƯƠNG tướng không chừa kẻ thấp cao.

Bần Đạo chào chư thiện tín. Lành thay! Có lẽ chư thiện tín lấy làm ngạc nhiên mà nghe tên Bần Đạo, tuy tên có dữ mà lòng không dữ! Việc đó sau này chư thiện tín sẽ được giải rõ. Giờ nay Bần Đạo thừa sắc chỉ Ngọc Kinh để trấn đàn, hộ giá theo tùy tùng, sau ban phù cho mỗi vị. Vì trong chốc lát sẽ có Phong Đô Đại Đế giáng. Vậy hãy dâng lên đây cho Bần Đạo năm chén nước trong.

Hai vị nam, hai vị nữ đứng bốn góc đàn, còn một chén hiền Quế phải bưng khi nào Bần Đạo xướng phục (quỳ). Niệm ba lần: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Sau đó khi nghe Bần Đạo xướng hưng (đứng dậy) thì chư vị lần lượt đem năm chén nước, tùy theo phương hướng mình mà để lên Thiên Bàn. Vị chủ đàn phải lấy một bình lớn mà đựng chung nước ấy sau đây có chỗ dùng, nước sẽ cứu những người bệnh ấy. Nhưng không được lạm dụng, chỉ có người thành tâm với Bần Đạo.

Hãy nghiêm đàn trong khi hầu đàn “Đức Phong Đô Đại Đế”. Nếu có dạy thì bạch thầm, đừng có thốt ra lời ắt có sự phương hại quý vị. Nhớ nghe. Chia bốn vị bưng bốn chén nước đứng ra bốn góc, phần Quế đứng lại trung ương. Nữa giờ sau tái cầu, đồng tử quay về hướng Đông rán nhớ nghe. Phù này chư hiền đem về nhà dán trước cửa sẽ trừ được các tai nạn. Bần Đạo nhắc lại trong khi hầu đàn, mặc dù Ơn Trên gọi đến tên cũng làm thinh.

Thi:

PHONG quan lục đạo chưởng hồn linh

ĐÔ sát tam thiên thẩm tội tình

ĐẠI cáo trần gian kim hồi hướng

ĐẾ đình hậu nhựt Trẫm thân nghinh.

Trường thiên:

Quả nhơn phụng chiếu Thiên đình

Ngọc Linh giá ngự phước lành Trẫm ban

Chúng sanh được phép tọa thiền

Tịnh lòng nghe Trẫm lời vàng phán phân

Tấc thành đối với quả nhân

Hoàng huy tiếp giá ân cần hôm nay

Trẫm mong ở buổi hậu lai

Cái ngày dưới chốn tuyền đài gặp nhau

Gặp nhau mừng rỡ đón chào

Nơi Phong Đô điện ngồi chầu vui tươi.

Trẫm nay khuyên với các ngươi

Hãy lo giữ Đạo làm người thiện lương

Tam cang lại với ngũ thường

Khi còn sống ở trần dương vẹn gìn

Luật Trời rất thiệt nghiêm minh

Không tư không vị riêng tình một ai

Làm người gái cũng như trai

Thảo thân, ngay nước đừng phai tấc lòng

Trước lo trả nợ non sông

Tang bồng hồ thủy phỉ lòng nam nhi

Gẫm câu phu xướng phụ tùy

Tam tùng, tứ đức trọn nghì nữ lưu

Đừng toan ám chước âm mưu

Cũng đừng chuốc oán mua cừu làm chi

Rồi ra oan trái níu trì

Luân hồi lục đạo phải thì vương mang

Nếu đường cầm thú bước sang

Kiếp người trở lại phải ngàn muôn năm

Đôi khi Trẫm cũng thương thầm

Cho bao nhiêu kẻ ác tâm trên đời

Chỉ vì danh lợi trần vơi

Bao phen coi rẻ mạng người như rơm

Mấy ai chia áo sớt cơm

Làm điều âm chất cho thơm linh hồn

Nay nhờ trên Đức Chí Tôn

Hải hà mở lượng bảo tồn nguyên căn

Tam Kỳ Đại Đạo khai hoằng

Độ đoàn linh chưởng xa lằng Phong đô

Chúng sanh đạo đức điểm tô

Thiên ân nhuần gội u đồ thoát ly

Nhưng trong luật pháp Tam Kỳ

Chối Thầy phản đạo tội thì gia tăng

Trên dù có kẻ siêu thăng

Nhưng mà cũng có người lăn lửa hồng

Mới hay thiên địa chí công

Chúng sanh nghe đó tạc lòng từ đây

Trẫm nay vâng lệnh thiên đài

Thẩm đường phước tội của rày tên Năm

Truyền cho nam nữ bình tâm

Với người đương sự chỉ chăm nghe rành

Án văn đọc giữa đêm thanh

Cơ loan tiếp trọn điển lành bày phô

Xét vì tổ phụ tên Năm

Có công khai thác cơ đồ dựng xây

Qui dân lập ấp chốn này

Tiền hiền danh liệt ví tày thần tiên.
Chính danh hậu thế lưu truyền

Lẽ thì con cháu gương hiền rán soi

Xét vì bước trước không noi

Cường quyền núp bóng học đòi lố lăng

Xét vì tên Năm Nguyễn Văn

Đạo Thầy công quả mót cần bao niên

Xét vì có tánh cần siêng

Đòi phen Bửu Hiệp, Ngọc Tuyền gian lao

Nếu mà chung thủy một màu

Hôm nay đã được động đào hồi quy

Xét vì phàm tánh sân si

Luân thường điên đảo nặng vì con thơ

Xét vì theo gió phất cờ

Hùa theo kẻ nghịch đắp bờ xâm lăng

Xét vì Thiên luật công bằng

Tội trần đã trả dưới lằn đạn tên

Xét vì tội phước hai bên

Tội mười phước chín phải đền cho cân

Xét vì huynh đệ ân cần

Nguyện cầu cho đó hưởng phần siêu thăng

Ân Thiên tội phước trang bằng

Nhưng phần siêu thoát tưởng rằng còn xa

Chiếu theo luật định diêu tòa

Hồn Năm kia phải chịu mà đầu sanh

Thấy vầy Trẫm cũng thương tình

Nhưng mà luật pháp công bình biết bao

Y theo đương sự nguyện cầu

Cho hồn cha đó được vào chấp cơ

Hàn huyên cho phép nữa giờ

Cấm đem những việc trần nhơ luận bàn

Cũng không được phép khóc than

Cho hồn quyến luyến phải mang tội tình

Năm lai tiếp ngọn cơ linh

Quả nhơn chiếu điển chứng minh hộ thầm.

Qua đoạn trường thiên nêu trên, chúng ta thấy một đạo hữu tên Nguyễn Văn Năm, được hưởng phước đức của tổ phụ, qua nhiều năm cũng biết mót bòn công quả cho chùa thất. Nhưng lại “Cường quyền núp bóng học đòi lố lăng” và “Luân thường điên đảo nặng vì con thơ” để rồi “Hùa theo kẻ nghịch đắp bờ xâm lăng” đến nổi phải “Tội trần đã trả dưới lằn đạn tên”.

Chắc chắn là trước đó, tuy được bạn đạo ở Ngọc Linh Thánh tịnh đọc Kinh Cầu Siêu rất nhiều và ân cần nguyện cầu cho “Năm” sớm được siêu thăng. Nhưng vì “Tội mười phước chín” cho nên theo luật công bình, vong linh của “Năm” chỉ có thể được “siêu thoát” khỏi Uổng Tử thành và phải luân hồi trở lại chứ không được “cao thăng”. Trước khi đi đầu thai, vong linh đạo hữu Nguyễn Văn Năm được phép nhập cơ nữa giờ để thăm con và bạn đạo:

Đê đầu vọng bái Thiên ân

Ban cho con trẻ dương trần hồi quy

Âm dương hai ngả biệt ly

Con đâu có tưởng được thì hôm nay

Mong ơn mở lượng cao dày

Thứ tha tội lỗi cho rày môn sinh

Vì con vương vấn tội tình

Tưởng không thoát khỏi ngục hình Thầy ôi

Nay Thầy mở lượng biển trời

Cho hồn con trẻ được thời về đây

Bởi con đã cải lịnh Thầy

Nơi thành Uổng Tử đọa đày hồn con

Nay về thấy lại nước non

Kìa anh em đạo, kìa con tôi chào

Nghĩ thôi gan héo ruột xào

Nhìn con hai mắt lệ trào không ngưng

Con ôi! Đừng có bâng khuâng

Mà cha đây phải thêm phần đớn đau

Nhớ khi năm trước ngày nào

Cùng chư huynh đệ chung nhau một nhà

Anh em trên thuận dưới hòa

Chung thờ một đấng Trời Cha Cao Đài

Nào hay thế cuộc đổi thay

Đệ huynh ly tán ai hay mất còn

Tôi vì thương xót cho con

Đem thân ra chịu đở đòn hứng thương

Ai hay điên đảo luân thường

Lịnh Thầy, tôi đã xem thường đệ huynh

Tôi không chết phải Việt Minh

Thầy dùng viên đạn vô tình xử tôi

Nếu nay phải bị luân hồi

Bao giờ tôi mới được thời quy nguyên

Thương tôi huynh đệ cầu nguyền

Lập đàn xin Đức Cha hiền thứ tha

Nay nghe cho rõ lời cha

Bao nhiêu tội lỗi con mà biết chăng?

Từ nay sám hối ăn năn

Con nên đọc lại án văn sẽ tường

Nhìn con cha lại thêm thương

Phụ thù nóng trả phải vương tội tình

Chỉ vì một phút bất minh

Mà quên trên có luật hình vô vi

Bao nhiêu kẻ đã lụy bi

Trước thềm Diêm Chúa đã thì kêu ca

Con ôi! Hãy nhớ lời cha

Bỏ ngay những cái thói tà nơi tâm

Học Thầy lập đức bồi công

May ra Thầy cứu thoát vòng trầm luân

Của trần trả lại cho trần

Có chi con phải hận sân cho phiền

Bác con nay đã cao niên

Phần con là cháu trách phiền sao nên

Những lời cha dặn chớ quên

Hết giờ theo lịnh Ơn Trên đã truyền

Giã từ huynh đệ bình yên

Nay con hãy nhớ cầu nguyền cho cha

(Tiếp theo là lời của Đức Phong Đô Đại Đế)

Nghe Năm lời đã thiết tha

Quả Nhơn đây cũng xót xa nơi lòng

Rán mà lập đức bồi công

Cầu xin Từ Phụ rủ lòng xót thương

Cho Năm khỏi bước sáu đường

Ớ người đương sự thiện lương vẹn gìn

Trẫm hồi phục lịnh Ngọc Kinh

Hồi loan phản giá thượng trình Phong Đô.

Thăng.

Trước khi giã từ, vong của Năm khẩn thiết với bạn đạo:

Thương tôi huynh đệ cầu nguyền

Lập đàn xin Đức Cha hiền thứ tha

Và.. Nay con hãy nhớ cầu nguyền cho cha.

Một truyện đức tin ly kỳ, gây cảm giác rờn rợn nhưng đầy lý thú! Qua đó cho chúng ta thấy giá trị của việc cầu siêu cho người quá vãng, cho dầu kiếp sống đã phạm nhiều tội lỗi! Đây chính là kết quả của sự thành tâm cầu nguyện siêu rỗi, cho thập loại chúng sanh, trong suốt cả tháng bảy của mùa Địa Quan xá tội!


Đạt Tường



Thanked by 1 Member:

#443 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 12/05/2012 - 21:14

SỰ TRỢ GIÚP CỦA SIÊU HÌNH TRONG CHIẾN TRANH

Tháng 8-1914, John Charteris, sĩ quan của BEF lực lượng viễn chinh của Anh tại xứ Pháp báo cáo về cấp trên: trong cuộc chiến với Đức, quân Anh phải thối lui tại Mons trước sức mạnh của quân Đức, mười bảy năm sau 1931 lá thơ này được xuất bản:

...Và có chuyện về “các Thiên Thần tại đồi Mons” được đồn đãi trong quân đoàn hai, rằng Thiên Thần của Thượng Đế trong bộ đồ trắng, với cây kiếm lửa, trên con ngựa trắng cổ truyền, đã chận lại quân Đức. Một người lính viết cuốn sách về trận rút lui ở Le Cateau, vào ngày 26-8-1914 nói về sự xuất hiện của các Thiên Thần, và một tháng sau đó thì Machen cho xuất bản cuốn sách có tên là “Các kỵ sĩ mang cung tên” trên một tờ báo London. Báo Ánh sáng (light magazine) tóm tắt câu chuyện như sau:

Quân Anh đang thối lui truớc sự ồ ạt tiến lên của quân Đức, thì có tiếng la lớn của một binh sĩ:

- Xin Thánh George giúp cho xứ Anh.

Trận đánh được lắng dịu ngay sau đó và tiếng cầu kinh với Thánh George vang lên khắp nơi. Người lính đó nói, anh ta cùng những người lính trong vùng ánh sáng đang giương cung và sau một tiếng hô lớn, thì cả một rừng cung tên bay về phía quân Đức. Đội lính Anh đang nấp trong chiến hào đều ngạc nhiên khi thấy quân Đức bỗng tan rã và bị chết tới cả ngàn người. Bên quân Đức vì không tìm ra được bất cứ vết thương nào trên quân lính bị chết, nên cho là quân Anh đã dùng chất độc Turpinite, còn bên quân Anh thì cho rằng chính Thánh George và các kỵ sĩ vô hình đã cứu họ.

Tạp chí Ánh sáng viết một bài tựa là: Những đồng minh vô hình tại tiền tuyến:

...Sau khi chúng tôi đăng tin về tác giả Arthur Machen xác nhận câu chuyện Thiên Thần là do ông tưởng tượng, thì có một quân nhân đến tòa báo của chúng tôi xin đọc lại câu chuyện đó và nói rằng, cho dù chuyện của ông Machen là tưởng tượng hay không, thì trong các doanh trại có nhiều sĩ quan và binh sĩ, đã chứng kiến một hiện tượng lạ có liên quan tới cuộc thối lui tại Mons.

Họ thấy một đám mây lạ chắn giữa họ và quân Đức, và nhiều hiện tượng tai nghe mắt thấy liên quan đến đám mây này, họ đều tin là là những hiện tượng đó đã cứu họ. Vào ngày 30-4-1915 báo Công giáo La mã, The Universe đăng một lá thư của một sĩ quan Công giáo viết từ mặt trận: Một nhóm khoảng chừng ba mươi lính và một sĩ quan bị cô lập trong một cái chiến hào. Người sĩ quan đề nghị:

- Chúng ta hãy cùng la to lên: Thánh George giúp cho xứ Anh. Và xông ra tử chiến với quân thù.

Binh lính đều nghe theo, và vừa kêu tên Thánh George vừa xung phong tới trước. Người sĩ quan chợt thấy có rất đông binh sĩ mang cung tên đi chung với họ và dẫn tới chiến hào của kẻ thù. Họ đã chiến thắng và bắt được nhiều tù binh Đức. Một tù binh hỏi vị sĩ quan ai là người ngồi trên con ngựa trắng cao lớn dẫn đầu cuộc tấn công, ông ta nổi bật như vậy mà không ai bắn trúng được. Tôi xin nói thêm là không hề có một vết thương nào trên xác binh sĩ Đức. Người sĩ quan kể câu chuyện này là người bạn của chúng tôi, ông ta thì không thấy ai ngồi trên con ngựa trắng, nhưng chính mắt thấy các xạ thủ vô hình.

Tạp chí Parish tháng 5-1915.

Chúa nhật vừa qua tôi gặp cô Marrable, con gái của nhà danh tiếng Canon M, cô nói với tôi cô có quen hai người sĩ quan, đã chính mắt thấy các Thiên Thần đã cứu cánh quân của họ, trong khi quân Đức đang đuổi theo họ rất sát. Sự xuất hiện của các Thiên Thần đã làm quân Đức sững sờ và họ có thể chạy thoát. Có người nói cho cô M. nghe một cảnh mà anh chính mắt nhìn thấy:

- Khi đại đội đang rút lui, dự định đến một chỗ nào gần đó để cầm cự thì quân Đức đã tới bén gót, nên họ phải xoay lại để đối địch, ai cũng nghĩ mình sẽ chết trong khoảnh khắc. Nhưng kỳ diệu thay, một đội quân thiên thần đã xuất hiện giữa họ và kẻ thù, khiến cho mấy con ngựa bên quân Đức sợ hãi lồng lên, hí vang vì sợ hãi và chạy tán loạn. Anh ta đã chính mắt thấy cảnh này.

Một ký giả Ireland viết cho báo Ánh sáng: Có người đọc câu chuyện về thiên thần trên báo và không biết là chuyện thật hay không. Vài ngày sau, người này gặp một người lính trẻ đã từng bị thương, và hỏi anh ta có nghe gì về trận chiến ở đồi Mons không? Anh ta nói:

- Tôi không nghe tiếng người ta la danh hiệu của Thánh George, nhưng tôi có thấy các Thiên Thần và bên bọn Đức cũng thấy nữa, bởi vì ngựa của họ không thể tiến lên.

Trong đội ngũ của anh thì có người thấy Thiên Thần, có người nghe một tiếng hét lớn, và cũng có nhiều người không nghe cũng chẳng thấy gì. Và sau đó không lâu thì người này được nghe từ một chứng nhân của trận chiến trên đồi Mons.

- Kỵ binh Đức đang tiến tới rất nhanh và họ đông hơn quân ta rất nhiều. Bổng nhiên chúng tôi thấy một vầng mây sáng, hay một vầng ánh sáng xuất hiện ở giữa quân Đức và chúng tôi. Trong đám mây hình như có vật gì sáng đang di động, làm cho mấy con ngựa của quân Đức chồm lên và thối lui. Ông nói thêm:

- Nếu như không, thì chỉ trong vòng hai mươi phút là đội quân của tôi sẽ bị hoàn toàn tiêu diệt.

Báo Ánh Sáng còn đăng thêm nhiều nguồn tin khác nhau. Trong bài giảng của vị cha sở Fielding Ould, ông nói:

- Tôi nghe được một câu chuyện từ ba nguồn và tôi nghĩ là chuyện này có thật.

Một trung sĩ trong quân đội chúng ta, thường hay tới lui nhà hội các thanh niên cơ đốc giáo, anh ta rất có ấn tượng với bức hình của Thánh George, vị Thánh tổ của nước Anh, chém một con rồng. Tại mặt trận, trong lúc bị quân Đức cô lập tại chiến hào và lực lượng hùng mạnh của quân Đức đang xông tới, anh đã hô lớn:

- Hãy nhớ Thánh George của xứ Anh!

Và cùng các đồng đội tiến thẳng đến kẻ thù. Nhưng cánh quân Đức bổng dưng khựng lại và tự động thoái lui, để lại vài tù binh. Có một tù binh kinh ngạc hỏi chúng tôi:

- Cái vị mặc giáp ngồi trên ngựa dẫn đầu đội quân là ai? Vì quân phục của ông ta chắc chắn không phải của Bỉ quốc.

Một nguồn tin khác.

Một đội trưởng gác trại các tù binh Đức cho biết:

- Các tù binh Đức nói là họ không thể đánh người Anh, tại vì ở Mons có nhiều người đánh giúp cho họ.

Có một tù binh Đức nói là họ thấy các Thiên Thần ở trên cao và ở ngay trước phòng tuyến, và chuyện này cũng có xảy cho họ tại Ypres. Có rất nhiều tù binh đã bất ngờ đầu hàng. Khi hỏi tại sao họ đầu hàng khi bên họ đông hơn bên chúng tôi gấp bội, thì tù binh đó ngạc nhiên nói:

- Nhưng chúng tôi thấy bên các ông đông vô số kể!

Một báo cáo khác về bài giảng trong nhà thờ St Martin Worcester.

Tác giả bài báo viết rằng, lúc đó quân Anh đã lâm vào tình thế tuyệt vọng, và các ký giả báo Times đã gởi điện tín báo quân Anh đã bị tiêu diệt và các báo đều loan tin này vào ngày Chúa Nhật. Nhưng tình thế đảo ngược vào ngày thứ hai, nên các báo bị xem như đã đăng tin mâu thuẩn. Đó là do sự can thiệp bất ngờ của các Thiên Thần. Vị Mục sư trong nhà thờ St Martin nói có mười hai người nhìn thấy các thiên thần và trong đoàn quân thì người thấy người không. Có hai đại tá ngoài đạo, xác nhận chính mắt họ thấy Thiên Thần cứu giúp đám tàn quân của họ.

Manchester, Dr. R. F. Horton, của giáo đoàn mục sư còn kể một chuyện xảy ra tại Dardanelles.

- Lúc đó máy bay của kẻ thù bay đến tàu để dội bom. Đội trưởng là người mộ đạo kêu thủy thủ đoàn quỳ trên boong tàu cầu nguyện. Kết quả mười tám trái bom đều rơi hết xuống biển.

Jerm



Thanked by 1 Member:

#444 ewombat

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 31 Bài viết:
  • 31 thanks

Gửi vào 13/05/2012 - 04:46

Tôi đã nghe nhiều câu chuyện lạ về đá. Nhưng trong chuyện viến đá ngày càng lớn lên kia chỉ có thể có nghĩa là đỉnh núi bị xâm thực nên đất thấp dần khiến cho hòn đá trồi lên cao hơn mà thôi.
Khi hòn đá nhỏ , mảnh, tần số giao động riêng của nó cao hơn khi nó trồi lên cao kích thước to hơn nên âm thanh vang tất nhiên phải khác.

#445 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/05/2012 - 11:59

CĂN NHÀ MA TRONG CƯ XÁ HUỲNH HỮU BẠC

Tôi gia nhập đại gia đình Không Quân vào đầu năm 1971. Ðiều kiện để được gia nhập Không Quân thời bấy giờ là ứng viên phải qua một bài thi viết và phải có đầy đủ sức khỏe. Ðầy đủ sức khoẻ đây có nghĩa là ứng viên phải cao trên 1m 60 (5'3) và nặng trên 47 kg (103 lb), mắt tốt, tai tốt và không mang những chứng bệnh hiểm nghèo. Phần thi viết không có gì là khó khăn. Trình độ khảo sát của bài thi thuộc trình độ lớp đệ Tứ (lớp chín), vì vậy tôi qua được một các dễ dàng.

Sau khi qua được phần thi viết, tôi được gởi đến Quân Y Viện Không quân để khám sức khoẻ tổng quát. Với chiều cao 5'6 (1m67) tôi không gặp trở ngại trong vấn đề thước tấc, nhưng khi bước lên bàn cân, tôi chợt tái mặt khi thấy cây kim đỏ đã đứng lì ở mức 46.5 kg. Tại sao lại 46.5 kg mà không là 47 kg? Tôi đứng chết trân không nhúc nhích. Thấy tôi có vẻ thất vọng, người y tá phụ trách mách nước:

- Tôi không thể ăn gian để cho anh đủ cân, nhưng tôi có thể hoãn việc khám sức khỏe của anh cho đến chiều. Bây giờ cũng đã gần đến giờ ăn trưa, anh hãy đi ăn rồi trở lại đây.

Tôi thầm cám ơn người y tá tốt bụng đã cho tôi cơ hội. Trưa hôm đó tôi gồng mình nuốt hết hai ổ bánh mì không, cùng nốc thêm hai chai cô ca loại lớn. Kết quả, cây kim đỏ dễ thương của cái cân ở quân y viện Không Quân đã anh dũng bò lên khỏi mức 47 kg. Thế là tôi đã đủ điều kiện để trở thành một quân nhân thuộc binh chủng Không Quân, của đại gia đình Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Những ngày đầu của đời quân ngũ là một kỷ niệm đáng ghi nhớ của những thanh niên vừa mới lớn như tôi. Sau khi lãnh quân trang, ba chiếc xe GMC chở chúng tôi đến một ngôi nhà cổ thật lớn trong Tân Sơn Nhất.

Với cái tên gọi thật lạnh lùng nghe ớn lạnh: nhà ma. Căn nhà được xây theo kiểu Tây toạ lạc trên một khu đất rộng, cây cối um tùm chung quanh có hàng rào kẽm gai bao kín. Với nét cổ kính hoang tàn không chăm sóc, cộng với những bức tường loang lỗ, rêu phong phủ kín đã làm chúng tôi có cảm giác lành lạnh nơi sau ót. Sỡ dĩ căn nhà này có cái tên độc đáo này vì nghe đồn rằng, ban đêm ma thường hay hiện ra nhát những người ở trong nhà hay hàng xóm ở chung quanh. Chủ nhân của căn nhà có lẽ yếu bóng vía, nên đã dọn đi và tặng lại ngôi nhà cho binh chủng Không Quân.

Để dùng làm nơi tạm trú trong vài tuần lễ, cho những chàng lính mới trong khi chờ đợi thủ tục nhập khoá và gởi đi đến các trung tâm huấn luyện quân sự. Xe vừa đỗ trước sân nhà, chúng tôi đã được tận tình dàn chào bởi những khoá sinh đàn anh với những gương mặt lạnh như tiền, trông thật dữ dằn, sát khí. Trên tay mỗi người hình như là một cây roi mây. Họ hét lớn trong khi vụt những ngọn roi trên cái túi sắc-ma-ranh của chúng tôi:

- Các ông chạy cho tôi năm vòng sân lẹ lên.

Miệng hét tay cầm cây roi mây, họ lăm le dọa nạt như để dằn mặt chúng tôi. Chúng tôi lục đục nối đuôi nhau vác quân trang chạy vòng vòng chung quanh cái sân rộng.

- Ông kia biết chạy không?

Chát, chát, tiếng voi rụt vào cái sắc-ma-ranh.

- Các ông có biết so hàng không?

Tiếng hét của những bậc đàn anh lại vang lên. Rồi những hình phạt diễn ra.

- Ông kia bò hoả lực cho tôi xem...

- Ông này cho tôi hai chục cái cái hít đất...

- Còn ông nữa cho tôi năm chục cái cái nhảy xổm...

Lúc đó bao nhiêu khí anh hùng của chúng tôi dường như biến đi đâu mất cả. Chúng tôi riu ríu vâng lời như những chú cưù non trước bầy sói hung hăng. Mấy ngày sau tôi mới biết những bậc đàn anh này, chỉ thâm niên quân vụ hơn chúng tôi trên dưới hai tuần lễ. Chịu trách nhiệm tổng quát của ngôi nhà này là một ông Thượng sĩ tên là B. cùng hai người trung sĩ phụ tá. Ông thượng sĩ tuổi ngoài năm mươi, ốm, người dong dỏng cao. Gương mặt hốc hác, thiếu ngủ đã làm ông già trước tuổi mặc dù bộ tóc muối tiêu của ông đã được cắt thật ngắn.

Ðôi mắt sáng, lông mày rậm với bộ râu mép của ông cộng thêm vết thẹo dài trên cổ có thể làm người đối diện mất tinh thần. Chúng tôi được chia thành những trung đội, sắp hàng thẳng tắp, đứng ở thế nghiêm như trời trồng. Tất cả đều nín thở im lặng. Ông thượng sĩ, tay chắp sau lưng chậm rãi bước tới bước lui giọng sang sảng:

- Tôi không cần biết ngoài đời các anh là ai, làm gì, nhưng bây giờ các anh đã thuộc binh chủng Không Quân, thuộc quyền điều khiển của tôi.

Ngưng một lát, ông quét cặp mắt lạnh lùng trên chúng tôi:

- Ở đây chúng ta có kỷ luật. Kỷ luật là sức mạnh của quân đội. Bất cứ chuyện gì các anh đều phải làm theo lệnh của cấp trên. Khi tôi cho các anh ăn các anh mới được ăn, khi tôi cho các anh ngủ, các anh mới được ngủ. Thi hành trước khiếu nại sau. Nghe rõ chưa?

Chúng tôi đồng thanh:

- Nghe rõ

Nghe chừng không vừa ý ông quát lên:

- Tôi không nghe gì hết. Các anh có miệng không? Nghe rõ chưa?

Một lần nữa chúng tôi lấy hết giọng đồng thanh hét lớn:

- Nghe rõ

Ðêm đầu tiên xa nhà tôi không tài nào nhắm mắt được. Thao thức trăn trở một hồi, tôi ngồi dậy ra bờ hè hút thuốc. Nhìn những bạn đồng ngũ đang say sưa trong giấc điệp mà lòng tôi dậy lên một nỗi bồi hồi khó tả. Ðây là những người bạn mới của tôi, những người sẽ cùng tôi chung chiến tuyến, cùng chung một sứ mạng một lý tưởng. Mặc dù chưa từng quen biết, tôi vẫn cảm thấy giữa họ và tôi có một sự liên hệ rất mật thiết. Tuần lễ đầu qua mau, chúng tôi đã làm quen vớI đời sống tập thể. Chúng tôi cùng ăn cùng ngủ, cùng làm bất cứ việc gì, đều được chia đều cho mọi người.

Vì vẫn còn trong tình trạng tạm thời, nên chúng tôi tương đối rảnh rang. Ngoài việc tập họp điểm danh, làm vệ sinh chung quanh ngôi nhà, học đi đều bước, chúng tôi được tự do với những chuyện cá nhân. Khoá tôi được mang chỉ số 5.71, với tổng số ba trăm ba mươi hai khóa sinh, được chia thành tám trung đội. Mỗi trung đội khoảng hơn bốn mươi người. Tôi thuộc trung đội bốn. Ngày đầu tiên chia trung đội, tôi đã mạnh dạn nhận chức trung đội trưởng. Nhiệm vụ của người trung đội trưởng cũng chẳng có gì là nặng nhọc. Ðiểm danh, báo cáo quân số, nhận lệnh từ trên và chuyển đạt xuống cho anh em, hướng dẫn các anh em trong trung đội làm tạp dịch...

Những ngày còn ở trung học tôi đã từng làm trưởng lớp nên những công việc này đối với tôi cũng chẳng có gì là khó khăn cả. Hai tuần lễ trôi qua, chúng tôi đã thực sự quen với đời sống quân ngũ. Sáng hôm nay, những bậc đàn anh của tôi đã giã từ ngôi nhà ma lên xe GMC để về quân trường thụ huấn quân sự. Ngày mai, số đông của đại đội 5.71 cũng sẽ rời đây để chuẩn bị đời sống quân trường. Chỉ còn lại một số nhỏ, trong đó có tôi, ở lại để làm đàn anh cho khoá 6.71 mới nhập trại, và sẽ được đưa về ngôi nhà ma này trong những ngày sắp tới.

Ba chiếc GMC đỗ xịch trước sân nhà. Trên xe lố nhố những anh lính mới tò te, áo quần chưa một nếp nhăn, mặt mũi ngơ ngơ ngác ngác. Nhìn những nét sợ sệt lo âu trên gương mặt của họ, đã làm tôi chợt nhớ lại những hình ảnh của chính chúng tôi ba tuần lễ trước đây. Bỗng dưng tôi bật cười thầm...

- Các ông chạy cho tôi năm vòng sân lẹ lên...

Tiếng quát của một anh bạn đồng khoá mang tôi về với thực tế. Các anh lính mới riu ríu vâng lời. Rồi mọI chuyện xảy ra đúng y như đã xảy ra cách đây ba tuần. Họ được chia trung đội, sắp hàng thẳng tắp và nghe giảng mo-ran từ Thượng sĩ B. mà chúng tôi quen gọi là ông thầy. Cũng như chúng tôi vài tuần lễ trước, những khoá sinh thuộc 6.71 được giao công tác vệ sinh doanh trại, nhổ cỏ, đổ rác... Ngoài ra cũng như chúng tôi, họ còn có nhiệm vụ canh gác cổng ra vào.

Ngôi nhà ma này được bao bọc chung quanh bằng giây kẽm gai, với một cổng duy nhất để ra vào được kiểm soát 24/24. Mỗi phiên gác hai giờ, được luân phiên canh gác bởi mười hai toán, mỗi toán hai người. Nhiệm vụ của người gác cổng là kiểm soát sự ra vào của tất cả mọi người. Vì vẫn còn là tân binh nên những khoá sinh gác cổng không được trang bị vũ khí. Tối hôm đó trời vào khoảng giữa tháng hai. Bầu trời lãng đãng những cụm mây đen, nối kết tạo nên những hình thù quái gỡ. Ánh trăng tròn vằng vặc, ẩn hiện sau những tầng mây toả ánh sáng yếu ớt trên những ngọn cây đang xào xạc trong những cơn gió cuối đông.

Các khoá sinh 6.71 đang yên giấc trong phòng ngủ chính sau một ngày bị quần tơi bời mệt lả. Bộ tham mưu đàn anh chúng tôi vẫn còn thức, ngồi tán dóc trong phòng điều hành. Ðây là bản dinh và cũng là phòng ngủ dành riêng cho bọn cấp trưởng đàn anh chúng tôi. Căn phòng rộng được chia làm hai, ngăn bởi một bức tuờng với một lối đi không có cửa ở giữa. Phía ngoài là phòng điều hành kê hai cái bàn giấy, dăm cái ghế dựa và một tủ đựng hồ sơ. Một cái cửa sổ lớn cạnh bên cửa chính. Trên tường trên khung cửa là một cái đồng hồ lớn. Qua khung cửa sổ chúng tôi có thể quan sát được cổng trại, ở đó có hai anh khoá sinh đang thi hành nhiệm vụ gác cổng.

Phòng ngủ bên trong kê bốn cái giường tầng, sát nhau với một lối đi nhỏ ở giữa. Cái đồng hồ lớn trên tường chỉ đúng mười hai giờ. Chúng tôi đang huyên thuyên tán dóc, bỗng dưng mọi người im bặt, miệng há hốc, mắt cùng đổ dồn vào một hình thù quái dị đang từ trong phòng ngủ khập khễnh bước ra. Dáng dấp cao lêu nghêu, quái nhân mặc trên người bộ long-jon (đồ ngủ quân đội) màu trắng bó sát vào người, một ống quần sắn lên khỏi đầu gối, tay phải cầm một đoản tre dài. Trên đầu hắn đội một cái nón sắt chụp lên bộ mặt được phủ kín bằng cái mặt nạ gớm ghiếc mà chúng ta thường thấy trong những đêm Halloween.

Hắn khệnh khạng từng bước về phía chúng tôi. Bọn tôi trố mắt nhìn quái nhân một lúc và bỗng dưng bật cười lớn khi nhận ra cái dáng cao lỏng khỏng quen thuộc của y. Thì ra đằng sau cái mặt nạ và bộ quần áo hoá trang, quái nhân không ai khác hơn là Lương, anh chàng trung đội trưởng của trung đội bảy. Chúng tôi chưa kịp mở miệng hỏi xem anh chàng này định giở trò gì, thì Lương đưa ngón tay trỏ lên miệng ra dấu cho chúng tôi im lặng. Với dáng điệu nhẹ nhàng, Lương phóng mình ra cửa, chạy băng về phía cái giếng bên phiá trái của căn nhà.

Tất cả chúng tôi đồng loạt quay mặt nhìn theo về hưóng chạy của Lương. Khi tới gần cái giếng cạnh bên bờ rào, Lương dừng lại chống đoản tre xuống đất, nhảy tưng tưng như những tên mọi Phi châu, miệng rú lên một tràng âm thanh quái đản, ghê rợn nghe đến lạnh người. Dưới ánh trăng mờ Lương xuất hiện như một con ma một chân, với gương mặt thật gớm ghiếc đáng sợ. Hình ảnh thật ghê sợ có thể làm những người yếu bóng vía té xỉu. Hai anh khoá sinh đang gác cổng bỗng hét một tiếng thất thanh rồi khuỵu người xuống, bò lăn bò càng, cố gắng lết về chỗ cửa ra vào.

Tất cả khoá sinh 6.71 được đánh thức dậy, đèn đuốc được bật sáng choang. Mọi người xúm lại tò mò muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Hai anh khoá sinh mặt không còn chút máu, người run như cầy sấy. Vẫn chưa hoàn hồn, anh chỉ tay về phía cái giếng, ú ớ nói không ra lời:

- Ma.. ma... ma một chân...

Tiếng bàn tán to nhỏ nổi lên. Tất cả đứng sát vào nhau, mắt đổ dồn về phía bờ rào. Nơi cái giếng không có gì động tĩnh ngoài những bóng cây rung rinh dưới ánh trăng rằm cùng tiếng côn trùng kêu rỉ rả. Cảnh vật ở đó hoàn toàn yên lặng. Nữa giờ sau tất cả khoá sinh 6.71 được lệnh trở lại phòng ngủ. Cổng chính bây giờ được tăng cường với bốn khoá sinh cho nhiệm vụ canh gác.

Khoảng hai giờ sáng, con "ma" Lương lại xuất hiện, nhưng với một chiến thuật mới. Hắn lột mặt nạ, kéo cái áo ngủ lên khỏi đầu và ụp cái nón sắt lên trên. Cũng vẫn tiếng rú quái đản ghê rợn, đoản tre dài và điệu nhảy tưng tưng, "con ma" bây giờ trở nên cụt chân và không đầu.

Cũng như hai khoá sinh trước, bốn anh khoá sinh thay thế cũng hét lên rồi bò lăn bò càng, lê lết về cửa chính. Mặt họ cũng tái mét người run lập cập, miệng lắp bắp:

- Ma..ma...ma không đầu...

Các khoá sinh 6.71 lại được đánh thức. Ðèn đuốc lại được bật lên sáng trưng. Lần này không ai có can đảm ngủ nữa. Mọi người đều lộ vẻ sợ sệt hoang mang. Ðèn được thắp sáng suốt đêm và tất cả khoá sinh 6.71 đêm hôm đó đã thức trọn cho tới sáng. Con ma Lương hầu như vui đã đủ, rút lui về phòng điều hành thay quần áo. Ðêm đó chúng tôi được một bữa cười nghiêng cười ngả, cười ra nước mắt. Ngày hôm sau chuyện con ma không đầu, được các bà bán quán ở khu gia binh đem ra bàn tán sôi nổi. Người thì bảo là ma không đầu, kẻ nói là ma cụt chân, có người còn cho là quỷ dạ xoa cao hai thước. Huyền thoại ngôi nhà ma tha hồ được truyền miệng nhau nhanh chóng. Chị Tư bán bánh ướt cao giọng nói:

- Tui đã nói rồi không ai chịu tin. Mấy con ma ở đây lộng hành lắm. Tôi đã từng chứng kiến tụi nó đi lềnh khênh dễ sợ lắm. Có lần tụi nó còn dám vô bếp lục cơm cháy của tui, báo hại tui phải lấy cây chổi chà đánh nhau với tụi nó một trận quá trời. Tui hổng có ngán tụi nó đâu.

Người nghe đều gật gật đồng tình và khâm phục lòng can đảm của người đàn bà có một không hai này. Riêng nhóm cấp trưởng đàn anh chúng tôi, phần lớn chỉ im lặng mỉm cười, ngoại trừ một vài tên còn cố ý thêm mắm thêm muối câu chuyện thêm phần hấp dẫn. Tôi đoan chắc rằng huyền thoại về ngôi nhà ma này sẽ sống lâu, sống vững muôn đời và càng ngày sẽ càng thêm phong phú, với những sự thêu dệt thổi phồng truyền miệng, của những người dân sống chung quanh.

Trần Quốc Sỹ







Thanked by 2 Members:

#446 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/05/2012 - 10:12

BÍ ẨN BÉ GÁI MƯỜI MỘT TUỔI CÓ KHẢ NĂNG GÂY CHÁY ĐỒ VẬT

Cha của em bé có khả năng gây cháy đồ vật xác nhận, những thông tin báo chí đăng thời gian gần đây là đúng sự thật. Hiện con gái của anh đang được chăm sóc cẩn thận, theo dõi sát sao 24/24 giờ.

Liên quan đến vụ việc một bé gái mười một tuổi có khả năng gây cháy các đồ vật ở khu A75 Bạch Đằng, phường hai, quận Tân Bình, Sài Gòn, chiều ngày 13-5, chúng tôi đã tiếp xúc với anh T. bố bé gái. Anh T. cho biết, những ngày qua anh nhận được nhiều cuộc điện thoại liên hệ để tìm hiểu việc con gái anh có khả năng gây cháy các đồ vật trong nhà.

Thời gian đầu, gia đình không muốn thông tin đến báo chí nhưng sau vài lần đắn đo, anh T. và gia đình quyết định cho báo chí tiếp cận thông tin. Anh T. cũng mong muốn, qua báo chí có những chuyên gia, nhà khoa học trong, ngoài nước biết đến tìm hiểu kỹ tình trạng bé gái nhằm giúp bé chữa trị dứt bệnh, gia đình sớm có cuộc sống ổn định, bình thường.

Đỉnh điểm vừa rồi là vụ cháy xảy ra lúc chín giờ sáng ngày 12-5. Nhiều đồ vật còn sót lại trên lầu ba như ổ cắm điện, máy quạt, giường, tủ quần áo...có nhiều vết cháy nham nhở, có cái cháy rụi. Nguyên nhân vụ cháy được cho là do con gái anh T. gây ra, bởi bé có khả năng đốt cháy đồ vật bất cứ lúc nào có thể. Không phải do bé nghịch lửa gây cháy mà do khả năng tự thân bé phát ra “nguồn siêu năng lượng”.

- Hơn một tháng qua, những sự việc liên quan đến sự cháy của bé khiến gia đình tôi lo lắng, mệt mỏi, căng thẳng.

Anh T. chia sẻ. Anh T. nhớ lại, ban đầu những CB ngắt điện trong nhà anh bị sự cố ngắt điện liên tục. Gia đình nghi có hiện tượng chập điện nên gọi nhân viên điện lực xuống tìm hiểu. Qua nhiều lần kiểm tra, không ai phát hiện chuyện gì bất thường. Một tuần sau đó gia đình anh T. sinh hoạt bình thường, nhưng sau đó lại chuyển sang tình trạng các ổ điện trong nhà bị cháy liên tục.

Những đồ vật như dây dẫn điện, cầu dao, công tắc điện bỗng chảy nhão ra, có khi bốc cháy khi bé gái đến gần. Ban đầu gia đình không nghĩ đến nguyên nhân cháy liên quan đến bé, nhưng vài lần như thế gia đình nghi ngờ nên chuyển bé đến nhà người bà con để kiểm chứng, thì những đồ vật trong nhà mà bé đang cư ngụ cũng bốc cháy tương tự.

Bé lại được đưa về nhà thì sự việc lại tiếp tục xảy ra như tình hình ban đầu. Đến lúc này gia đình khẳng định những vụ cháy khác thường có thể tác nhân chính là bé gái. Thời điểm nghỉ lễ 30-4 gia đình cho bé đi chơi tắm biển ở Vũng Tàu, khi bé đến ngụ phòng khách sạn thì các ổ cắm trong phòng cũng cháy đen. Có lúc bé đang ăn cơm tầng dưới nhà thì phía tầng trên nhà bị cháy.

Sự việc ngày càng nghiêm trọng, cách đây vài ngày, trong khi đang ngồi chơi với mẹ, áo của bé bất ngờ bốc cháy nhưng được dập tắt kịp thời. Lần khác, trong khi ngồi trên bồn cầu đi vệ sinh, bé bảo nóng đùi, gia đình chạy vào thì phát hiện miếng nhựa của bồn cầu bị cháy xém một góc.

Vụ cháy xảy ra gần đây nhất là khi bé lên lầu ba lấy đồ, lúc quay xuống nhà thì tầng trên đó phát cháy, gia đình luống cuống bất ngờ nhưng không thể dập tắt được nên đã báo cảnh sát. Nhận tin báo cảnh sát PCCC với bốn xe nước đến khống chế và dập tắt sau ba mươi phút. Hậu quả toàn bộ vật dụng tại tầng ba cháy rụi.

Hiện tại những đồ vật liên quan đến điện và có thể gây cháy như máy giặt, ti vi, tủ lạnh, quạt máy, quần áo... được gia đình di chuyển ra khỏi nhà. Anh T. cũng cắt cử người túc trực 24/24 giờ bên cạnh bé phòng chuyện bất trắc xảy ra.

Buổi tối, khi ngủ bé được chỉ định nằm giữa bố mẹ, bên cạnh là các xô nước để kịp thời dập lửa, kèm đó là chiếc khăn tắm nhúng sẵn nước...Gia đình cũng đã đưa bé đến nhà cảm xạ Dư Quang Châu, Giám đốc trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng cảm xạ địa sinh học thuộc Đại học Quốc tế Hồng Bàng, để khám và chữa trị. Sau khi tiến hành đo đạc, nhà cảm xạ cho biết, cơ thể bé phát ra năng lượng, bán cầu não của bé có vấn đề.

Biện pháp chữa trị tạm thời nhằm cân bằng năng lượn,g là đeo một chiếc vòng thạch anh vào cổ tay. Tuy nhiên sau khi về nhà được vài ngày, bé gái lên cơn co giật. Riêng sự cháy của bé thì không xảy ra nữa. Sau đó gia đình đành tháo vòng thạch anh khỏi tay cháu bé. Nhà cảm xạ cũng cho biết, xét về mặt khoa học đến thời điểm này vẫn chưa giải thích được tại sao bé gái có khả năng kỳ lạ đó. Đây là trường hợp đầu tiên ở Việt Nam. Trên thế giới, có những trường hợp nghiêm trọng hơn là người có thể tự bốc cháy.

Được biết, năm lên ba tuổi, bé gái bị một tai nạn nghiêm trọng, tuy nhiên, sau đó bé không có gì bất thường cho đến khi có biểu hiện lạ cách đây hơn một tháng. Những ngày qua, gia đình đã đưa bé đi khám ở Bệnh Viện Chợ Rẫy và Bệnh Viện Nhi đồng hai, nhưng đều không phát hiện điều gì bất thường trong cơ thể bé.

Ngày 13-5, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, chủ nhiệm bộ môn thông tin dự báo Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, cho biết gia đình bé T. đã liên lạc với ông và trình bày chi tiết tất cả diễn tiến tình trạng gây cháy của cháu. Theo ông Hải, đây là hiện tượng rối loạn lửa nội sinh hay luồng hỏa xà (kundalini).

- Trong cơ thể con người ta có nhiều trung tâm lực gọi là sacra. Trong điều kiện nào đó, nếu các trung tâm lực này được khai mở sẽ tạo ra những khả năng mới. Trong đó có một trung tâm lực ở đốt sống cuối cùng có thể gây nên luồng nóng của cơ thể gọi là luồng hỏa xà tỏa sức nóng. Các tu sĩ yoga thường điều khiển sức nóng này để chống rét cho cơ thể giữa trời băng tuyết. Nếu không điều khiển được luồng hỏa xà này, khiến nó phát ra một cách hỗn loạn thì sẽ gây nên sự điên loạn của cơ thể gọi là tẩu hỏa nhập ma. Ông Hải nói.

Ông cũng cho biết trên thế giới đã ghi nhận nhiều trường hợp phóng năng lượng tương tự gây nổ cầu chì, nổ bóng đèn, hoặc có cả trường hợp nặng nhất gây hiện tượng tự cháy của cơ thể.

Cũng theo ông Hải, các trường hợp gây cháy như trên không phải là hiếm và thường xảy ra ở tuổi mới lớn, thuộc giai đoạn bắt đầu tuổi dậy thì. Ở giai đoạn này, trẻ thường có sự thay đổi rất mạnh về nội tiết, cộng với sự thay đổi của thời tiết, sẽ ảnh hưởng điều khiển lên các trung tâm lực trong cơ thể gây nên những rối loạn đã nói.

VTC





Thanked by 1 Member:

#447 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 26/05/2012 - 22:52

ĐÁNH VÕ VỚI MA

Quê tôi, chỉ nói tới trước năm 1975 thôi thì cũng đã có nhiều thay đổi. Hồi xưa, thật đúng là đất rộng người thưa. Đi từ đầu này đến đầu kia, nhiều khoảng đất trống, có nhiều bãi đất hoang vu. Sau này thì dầy đặc, nhà cửa san sát. Nơi mà sau này, người ta biết đến dưới cái tên là "Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp", có mấy ai biết rằng xưa kia, nó là "trường đua". Đó là nơi ăn chơi: đua ngựa, cờ bạc, đủ thứ khác... và là nơi thi đấu võ đài. Nhiều người khi đến chơi, mặt mày hăm hở, khi ra về, mặt mày buồn hiu, trắng tay: thua sạch. Nhiều người thua nhiều, thất chí, tự tử. Trong khoảng giữa Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp với bờ rìa châu thành, hồi xưa là nghĩa địa Quảng Đông, nơi chôn cất những người Hoa sống trong vùng, rồi sau trở thành rừng hoang.

Bên ngoài vòng rào nghĩa địa, người ta sẽ thấy rải rác đó đây vài nấm mộ. Đó là mộ của những võ sĩ đã chết sau trận đấu, không ai đem về, chôn luôn ở đó. Thời đó, ở đâu không biết, chớ tại quê tôi, trước khi lên võ đài, vỏ sĩ phải ký tên chấp nhận "đánh chết bỏ, chết không đền mạng". Nhưng do phần thưởng khá cao, và do danh dự, do máu anh hùng, nhiều người chấp nhận. Nhiều người từ phương xa cũng tìm đến, và rồi ở lại đó dưới nấm mồ hoang.

Lúc tôi còn nhỏ, từ mí trường đua cũ trở về tới bờ rìa châu thành là đám rừng hoang. Ít ai dám "liều mạng" đi lang bang ở đó vì có thể gặp cọp, thứ hai là mỗi lần đi ngang đó sao thấy lạnh lùng quá, nghe ớn lạnh ở xương sống. Nghĩa địa Quảng Đông khi đó cũng đã hoang tàn, không còn bờ rào xung quanh, không còn ngôi mã nào nguyên vẹn. Nhiều ngôi mã đã bị đào lên, bộ xương nằm trơ ra đó, nhe răng cười! Chỉ nói ban ngày thôi, đi ngang qua đó, thấy vậy, yếu bóng vía cũng chạy vắt giò lên cổ, nói gì ban đêm. Vậy mà lần đó, ban đêm, tôi đã đến đó...

Hồi đó ngay cả ban ngày, ai mà mướn tôi một ngàn đồng để đi đến đó một mình tôi cũng không dám chớ nói tới chi tới ban đêm. Mà quý vị nên nhớ, lúc đó một tô hủ tiếu thiệt to giá có năm cắc, thì một ngàn lớn lắm chớ phải ít đâu. Nhưng mà đi tới bãi đất đó, toàn là cát, bước chân đi nghe sột sột, nghe như có ai đi theo sau lưng mình. Bước đi mấy bước lại phải quay lại nhìn phía sau coi có "ai đó" đi theo không. Gió ở đây cũng kỳ, khác với gió mấy chỗ khác. Nó thổi nghe xèo xèo, nghe vù vù làm mình cứ tưởng như có ai đang kêu mình! Để cho có thêm tự tin khi đi ngang qua đó, người ta thường cầm theo cây rựa, hay khúc cây để vừa đi vừa đập vô mấy bụi cây cho nếu có cọp trong đó, cọp nó "sợ" nó chạy, hay nếu có ma, gặp ma yếu bóng vía, thấy mình có rựa, ma sợ, ma biến đi! Rồi khi đang đi, mắc dịch mấy con thỏ rừng hay con sóc, nó nghe tiếng chân mình đi tới, nó bỏ chạy đi nghe cái sột làm cho tim mình như muốn rớt ra ngoài.

Hôm đó tới học, thầy tôi hỏi:

- Tối nay tụi bay đi với tao không?

- Dạ đi đâu bác?

- Đi vô nghĩa địa Quảng Đông

Trời đất! Vừa nghe xong mấy tiếng nghĩa địa "Quảng Đông" tự nhiên mình mẩy tôi nổi ốc, tay chân nổi da gà, một luồng điện lạnh chạy dọc theo xương sống!

- Dạ đi!

Anh Lai này ảnh ẩu tổ cha đi, chưa có gì hết mà trả lời ẩu. Chưa có bàn tán với nhau coi sao mà đã vuột miệng trả lời! Bác hai, võ sư Trương Công Cẩn, cũng chẳng thèm hỏi thêm, dặn:

- Tối nay, gần mười giờ, tụi bây xuống đây đi với tao!

Trời ơi! Tự nhiên tôi thấy rùng mình. Mà anh em ai cũng đi, học với bác có bảy thằng, ai cũng đi hết hổng lẻ tôi không đi? Trời ơi! Tôi kêu "Trờ"i vì giận anh Lai, anh này ảnh hại tôi, miệng mồm ẩu xị, ăn nói không cẩn thận...

*****

Hơn chín giờ thì tất cả đã có mặt tại nhà tôi, vì nhà tôi là trạm cuối cùng trên đường tụi tôi đi tới nhà bác hai. Ngồi nói dóc với nhau một hồi, tôi cằn nhằn anh Lai quá trời, nhưng mà anh em khác trấn an: Đi có thầy mà lo gì! Gần mười giờ, tụi tôi lên đường đi tới nhà bác hai. Ai cũng mặc áo treillis (áo lính Tây hồi đó) cho nó ấm, quần xà lỏn (loại quần dùi, ngắn), chân mang guốc. Tới nơi thì bác hai cũng đã sẵn sàng. Một giỏ lễ vật bác đã chuẩn bị trong đó có một nải chuối sứ, một bình bông và một cây đèn dầu nhỏ, một bó nhang, giấy tiền vàng bạc. Lên đường!

Bác đi trước, tụi tôi nối bước theo sau, vì hồi xưa có đời nào mà trò đi ngang hàng với thầy. Từ nhà bác hai tới nghĩa địa Quảng Đông đi bộ chừng hơn nửa tiếng đồng hồ. Đoạn đường đầu, còn đi trong châu thành, có đường nhựa, tiếng guốc của tụi tôi khua lốc cốc trên đường nghe cũng vui tai. Nhưng mà tới bờ rìa châu thành, bắt đầu vô đường ruộng, tiếng chân đi bắt đầu nghe phịch phịch như tiếng tim tôi bắt đầu hồi hộp đập. Đi một đoạn nữa thì tới nơi. Lúc đó gần mười một giờ đêm, giờ khuya, giờ của cõi âm! Chỗ đó có một lùm cây, bên trước lùm cây là một miếng đất trống. Trong miếng đất trống rải rác có mấy "mô" đất. Bác hai dừng lại, bác dặn tụi tôi:

- Lát nữa tụi bây đợi tao ở đây nghe!

Cũng anh Lai, ảnh vuột miệng trả lời:

- Dạ!

Tôi hỏi liền:

- Bác đi đâu?

- Thì tao ở chỗ này nè.

Bác vừa nói vừa đưa tay chỉ đám đất trước mặt. Hôm nay, tôi thấy bác hai mặc đồ chỉnh tề. Bác mặc cái quần dài đen, áo bà ba đen, chân đi guốc chớ không như ngày thường lần nào tụi tôi tới cũng thấy bác chỉ mặc có cái quần xà lỏn, ở trần.

- Tụi bây ngồi đây chơi, đợi tao hén.

Nói xong, bác xách giỏ đi lại mấy mô đất gần đó. Tụi tôi ngồi xuống bãi cỏ nhỏ trước lùm cây. Tôi ngồi ở giữa làm cục nhưn. Tới mô đất nào bác cũng cắm nhang, nhưng đặc biệt mô đất này, bác còn để cây đèn và dĩa chuối, đốt giấy tiền vàng bạc. Bác đứng ngay ngắn trước mô đất, cấm mấy cây nhang đưa lên trán: bác đang vái. Xong, bác trở lại chỗ chúng tôi ngồi. Bác cởi quần áo, chỉ còn mặc cái xà lỏn. Rồi bác đi trở lại mô đất. Bác đứng im đó một hồi. Trời ơi! Tôi kêu trời thầm trong bụng. Bác hai đứng bên này mô đất, còn phía bên kia, úy chu cha ơi: có một bóng người! Cái bóng có vẻ mờ mờ, nhưng rõ ràng là dạng hình người, đàn ông. Cái bóng có vẻ rõ ràng hơn. Tim tôi sao nó đập mạnh quá, tôi sợ bễ ngực quá!

Đằng kia, bác hai xuống bộ: bái tổ. Bóng kia cũng bái tổ. Hai người bắt đầu "quần" nhau. Bác hai sàng bộ qua trái, "lấy gân", xong bác bỏ "chảo mã thủ". Kế bác rút co chân trái lên, kéo giăng tay phải xéo lên cao, tay trái xéo xuống, bác đang vô bộ "Phượng hoàng". Bóng kia xà ngang "đinh tấn ngang", hai tay bỏ bộ "xà" liền. Tôi liền nghĩ ngay đến thế trận "Điểu Xà ác chiến" mà bác hai đã có lần nói tới. Thiệt đúng như vậy, bác hai vừa "đá" xuống thì bóng kia "mổ" lại liền. Rồi hai người quần nhau chí tử, từ bên này mô đất lan qua bên kia, rồi trở lại. Những đòn không trúng, "đánh gió" nghe xèo xèo. Những đòn trúng đích cũng nghe bịch bịch.

Coi thiệt đả mắt. Lưng tôi đã đẩm mồ hôi dù lúc đó đã gần khuya, sương xuống lạnh. Nhưng mà rồi! Bác hai nhảy ra bái tổ. Bóng kia cũng bái tổ. Hai "người" cúi đầu chào nhau. Xong, bác hai đi trở lại chỗ tụi tôi ngồi. Ủa! Mất tiều rồi! Bóng kia mới thấy tức thì giờ đâu mất tiêu. Bác hai chẳng nói chẳng rằng, lấy khăn lau mồ hôi, rồi mặc quần áo vô, dẫn tụi tôi về. Về tới nhà bác, bác dặn tụi tôi:

- Mai sáng tụi bây lại tao nghe hôn.

- Dạ

Tụi tôi ra về, lòng đầy hoang mang. Sáng sớm trở lại nhà bác hai, đâu đó xong xuôi, anh Lai hỏi liền:

- Hồi hôm ai vậy bác hai?

- Ma chớ ai!

Trời đất! Mà thiệt, tụi tôi cũng đã nghĩ như vậy, nhưng còn bán tín bán nghi. Hồi vừa tới đám đất đó thì đâu có ai, mà sau khi bác van vái rồi, khi bác thay đồ xong trở lại thì có "người" đứng ra đó. Rồi đánh nhau đả đời rồi thì bóng đó biến đâu mất. Mà đó là ai vậy?

- Tụi bây hổng biết hả? Đó là một võ sĩ đã chết hoang ở đây. Thằng nầy nó khá lắm, nhưng mà nó ham tiền, nó đánh thắng ba trận rồi, tiền độ cũng khá rồi. Thấy tiền nhiều, nó ham, nó đánh thêm trận thứ tư, bị người ta biết đòn hết rồi, người ta nghiên cứu đòn của nó cho nên khi nó sử dụng ngón "hoàng xà nghịch địa" định lăn vô thì bị thằng kia hạ với đòn "long phi giáng địa", bổ từ trên bổ xuống, cụp xương sống, rồi thằng kia chơi ác, dứt luôn với đòn "hổ trảo thám hoa", nó giẫy giẫy mấy cái rồi chết luôn trên đài. Người ta khiêng xuống chôn ở chỗ đó.

Nghe cũng thấy thương tâm, mà nghe cũng thấy ghê. Nhưng việc của quá khứ thì thôi không bàn tới nữa, chỉ nói chuyện bác hai thôi. Bác đấu gì kỳ khôi vậy? Mặc dầu bác đấu với ma nhưng mình mẩy bác cũng có chỗ bầm đây nè. Sao bác không đấu với ai là người "thiệt" mà lại chơi bất nhơn bất tử đi đấu với ma:

- Tao cũng không biết mặt "thằng" này, nhưng mà sau khi về ở xứ này, tao nghe chuyện nó. Năm ngoái, không có tụi bây đi theo, tao đâu có biết mã nào là mã nào, tao cứ vái đại, nhè lên một cô. Đánh không lại tao, nghề còn non, với lại yếu tay yếu chân, đánh một hồi kế nó chịu thua tao. Năm nay, gặp thằng này, đánh được. Đánh một hồi, tao thấy nó chuyên môn vô bộ xà là tao biết thằng này liền. Không lẻ "đánh chết" nó chớ, cho nên tao nhảy ra bái tổ kể như huề, tụi bây không thấy sao?

Trời đất thánh thần thiên địa ơi! Ma mà ông thầy tôi ổng còn đòi đánh chết, thì huống hồ gì là người ta. Mà thiệt, nghe ông thầy nói, tôi mới nhớ lại: dạy thì dạy, chỉ thì chỉ, chớ ít khi nào bác hai chịu "vô đòn" với tụi tôi lắm. Sau này, sau khi tôi đi học ở Sài Gòn về, tìm thăm bác thì bác đã về hưu, bác trở về quê bác, ở dưới Bạc Liêu. Mấy người biết chuyện có nói: Mầy không biết chớ ổng ít có dám đánh ai lắm. Ổng làm lính coi tù nên ổng sợ ở tù lắm. Ổng đánh hay đá mà đỡ bậy thì tay chân chịu không nỗi, mà đỡ không được, trúng đòn một cái có thể hộc máu chết như chơi. Cho nên ổng không dám đấu với ai hết, lâu lâu, "văn ôn võ luyện", ổng đi dượt với ma thôi...

Sưu Tầm



Thanked by 1 Member:

#448 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 29/05/2012 - 22:10

CÚNG KỲ YÊN

1. Lệ cúng kỳ yên

Lễ cúng kỳ yên là lễ cúng vị thần làng. Mỗi làng đều có một vị thần riêng. Đó là một vị có công với đất nước, khi sống được vua ban quan tước, hưởng bổng lộc triều đình, chết đi rồi được vua sắc phong làm thần một làng nào đó để phù hộ dân làng và được hưởng phần cúng tế hằng năm của dân làng. Ngày cúng kỳ yên cũng tùy từng nơi. Đó có thể là ngày sinh, ngày tử của vị thần, hay là ngày vị thần được sắc phong.

Vị thần làng được thờ cúng tại đình làng, thường có một ông từ chăm sóc, ngày đêm nhang đèn. Đình làng cũng là nơi để dân làng họp lại để bàn bạc chuyện đặc biệt liên hệ tới làng, hay lắm khi để mừng vị tân khoa trong làng "vinh qui bái tổ". Đình thường được xây cất theo lối xưa, có mái cong. Bên trong đình, có nơi, cột được sơn son phết vàng, chạm rồng chạm phượng. Có nơi, đình được xây cất ở ngay nơi cổng vào làng nên thường ngày ai cũng có dịp đi qua đó. Bởi vậy cho nên mới có câu: Qua đình ngã nón trông đình. Đình bao nhiêu ngói anh thương mình bấy nhiêu

Đình làng là một cái gì đó rất đặc trưng của làng của dân ta.

Tỉnh Bà Rịa, quê tôi ngoài những làng xã khác, đặc biệt có chín nơi có tên khởi đầu bằng chữ Long, như: Long Điền, Long Tân, Long Xuyên, Long Kiên, Long Hải, Long Lễ, Long Hòa, Long Lâm? và mười nơi có tên khởi đầu bằng chữ Phước, như: Phước Lễ, Phước Bửu, Phước Triêm, Phước Thọ, Phước Hải, Phước Tỉnh, Phước Thạnh, Phước Hiệp, Phước Lợi, Phước Hòa, nên được gọi là xứ "Cửu Long Thập Phước". Làng tôi ở là làng Phước Lễ. Vị thần làng là tướng Châu Văn Tiếp.

Ông Châu Văn Tiếp là người huyện Phú Mỹ, tỉnh Bình Định, sau về ở Phú Yên, huyện Đồng Xuân. Ông rất tinh thông võ nghệ, lập được nhiều chiến công giúp vua Gia Long. Ông làm quan đến chức Tả Quân Chưởng Phủ Sự, tước Lâm Thao Quận Công. Ông và Lê Văn Duyệt được vua Gia Long xem là cánh tay mặt và cánh tay trái của mình.

Trong lúc vua Gia Long bôn tẩu nơi Phú Quốc, tại Lương Sơn, ông chiêu mộ binh mã rồi kéo vào Gia Định để tiếp viện cho nhà vua. Để có đủ binh mã chiến đấu với Tây Sơn, ông đã sang Xiêm để cầu viện binh. Trong trận thủy chiến tại Mân Thít với tướng Tây Sơn Chương Bảo, vì ham chiến, ông đã nhảy qua thuyền địch, bị Trương Văn Ba đâm lén, thương tích nặng rồi mất. Ông được liệt vào hàng "khai quốc công thần" của triều Nguyễn.

Đình làng Phước Lễ nằm cạnh chợ mới. Sở dĩ được gọi là chợ mới vì trước kia, làng Phước Lễ đã có một ngôi chợ, có nhà "lồng" đàng hoàng, nằm cạnh sông Dinh, con sông nhỏ chảy ngang Bà Rịa. Rồi năm đó, do chạm dây điện (?), chợ cháy, chánh quyền sẵn dịp cho xây cất ngôi chợ mới nằm cạnh xa lộ từ Sài Gòn đi Vũng Tàu. Ngôi chợ mới này do cao hơn, đã che khuất nên người xa đến ít có dịp thấy được ngôi đình làng, mà theo ngày tháng đã càng lúc càng rêu phong.


Thanked by 1 Member:

#449 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 29/05/2012 - 22:30

2. Kỳ yên ở làng tôi

Làng tôi cúng kỳ yên vào khoảng cuối tháng mười một âm lịch, mà thiệt dở quá, tôi không nhớ rõ được vào ngày nào. Lúc đó mùa màng đã xong, dân làng thoải mái tham gia, không còn bận bịu với chuyện ruộng nương. Vả lại, lúa má xong rồi, dân cũng có tiền để đóng góp với làng xã. Cứ cách ngày cúng khoảng một tháng, làng cử người đến nhà bà con kêu gọi đóng góp. Được bao nhiêu hay bấy nhiêu, phần còn lại làng sẽ trích tiền ruộng của làng ra để lo cho chu đáo buổi lễ cúng thần làng.

Làng có một số ruộng, cho dân làng mướn để canh tác, hằng năm đong lúa cho làng. Năm nào trúng mùa, dân làng đong lúa đúng theo giao kèo, làng có khá tiền, cộng thêm phần đóng góp của dân làng, lễ cúng năm đó xum xuê. Năm nào thất mùa, dân làng đong lúa thiếu, làng trông cậy vào phần đóng góp của dân. Gặp dân năm đó cũng nghèo, đóng góp không được bao nhiêu, làng phải đi vay mượn của những người giàu có.

Lễ vật ngoài phần trái cây đơm đầy ắp các mâm trên các bàn thờ, tôi mê nhất là hai mâm xôi và hai mâm heo quay. Hai con heo quay bự, da đỏ bóng, thơm phưng phức. Hai con heo này, làng mua heo con rồi gởi cho ai đó thí công nuôi dùm mấy tháng trước khi cúng. Nuôi đặc biệt, cho ăn đặc biệt nên con heo mập tròn. Phần quay thì làng thay phiên nhờ một trong hai tay chuyên môn quay heo có tiếng: ông Bảy Lu và ông Chín Xíu.

Còn xôi cũng không kém phần rườm rà, rắc rối, nói lên lòng thành kính và cũng có sợ hải trong đó, đối với vị thần làng. Các bà phụ trách, mua loại nếp ngon, thường là đặt cấy riêng, đem về ngồi lựa bỏ ra từng gạt gạo, hạt thóc lộn vô. Nước dùng để nấu xôi là nước biển lấy từ Long Hải về. Làng mướn xe ngựa ra Long Hải chở từng lu nhỏ nước biển, đem về đổ vô lu lớn để lâu ngày lắng xuống. Rồi chiết nước trong từ lu này qua lu khác cả chục lần cho đến khi nào được nước thật là trong, sạch. Nước này được dùng để nấu xôi cúng thần, cho nên ăn xôi vào thấy măn mẳn, ngon thiệt là ngon. Cả tuần trước ngày cúng thần, để đảm nhận công tác nấu xôi, các bà phải ăn chay và...chay tịnh.

Đình làng Phước Lễ là một ngôi nhà, tường bằng đá núi, lợp ngói, dài khoảng gần một trăm thước tây. Phần trong cùng là nơi để bàn thờ thần. Trên bàn thờ có sắc vua phong, có dấu ấn, để trong khung kiến lớn. Bên dưới có áo mão của thần đã dùng khi còn sống. Phần này có vẻ hơi vắng vẻ, âm u, vì ít có ai được lui tới.

Đi trở ra cũng là phần để thờ cúng. Phần này khá rộng, có ba gian. Gian giữa có bàn thờ lớn, có bức họa chân dung của thần, mặc phẩm phục triều đình, trông rất oai nghiêm. Ngày cúng, trước bàn thờ này có để hai mâm xôi, hai mâm heo quay, cũng có những mâm trái cây và các món ăn khác, nhưng hai mâm xôi và heo quay là lôi cuốn nhất. Hai bên bàn thờ thần, có hai bàn thờ khác nhỏ hơn, nghe nói đây là hai danh tướng phò tá thần ngày xưa.

Hai bàn thờ này cũng có nhang khói, bánh trái, thức ăn. Trong phần này có treo nhiều cờ phướn. Có hai khung gỗ để hai bên trước bàn thờ thần, trên đó có treo các thứ binh khí thời xưa, có lẻ đó những món binh khí xưa kia thần quen dùng hay sở trường. Trong phần thứ hai này là nơi diễn ra các nghi lễ cúng bái. Phần cuối cùng bên ngoài cũng khá rộng, có một sân khấu để "hát cúng đình", thường là hát bội. Sân khấu chỉ là một bục bằng xi măng khá rộng, khi hát chỉ có treo một ít màn phía trong để làm phông, do đó khán giả ngồi xung quanh sân khấu có thể xem được từ ba phía.

Ngày cúng kỳ yên đúng là một ngày hội ở làng tôi. Không những chỉ có dân làng tụ tập thôi mà dân các làng khác gần đó cũng đến chơi. Xung quanh đình, người ta bán buôn đông đảo, phần nhiều là các hàng bán thức ăn, đủ thứ: hủ tiếu mì, chuối nướng, nước đá, nước ngọt, cháo gà, bánh canh, chả giò, bì bún bì cuốn... Cũng có các người bán nhang đèn. Ai nấy, áo quần tốt tươi, tới chen chúc nhau để xem cúng đình.

Các vị chức sắc trong làng thì khỏi nói, ăn mặc rất chỉnh tề, trang nghiêm. Ông nào cũng mặc áo dài, đầu đội khăn đống. Các vị tham gia cuộc cúng thì mặc áo dài thụng xanh, bông to, tay áo rộng thùng thình, đầu đội một thứ mão hơi cao, coi thiệt là vui mắt. Tôi nhờ còn nhỏ, chui bên dưới chân người ta nên lọt được vào bên trong. Không biết cuộc lễ đã bắt đầu từ bao giờ, khi tôi vào đến nơi thì thấy các vị đó đứng trang nghiêm, hai tay cầm mấy cây nhang, để cao ngang trán. Rồi các vị đó đi tới, đi lui. Mỗi lần đi thì dở chân cao lên tới gối rồi mới bỏ tới trước hay bỏ lui. Rồi ngồi xuống, sụp lạy...

Nhưng cái đinh của lễ cúng kỳ yên chính là phần hát bội (theo tôi). Cúng bái xong, các vị ngồi vào bàn tiệc. Bánh trái được chia ra đem tới các bàn. Xôi cũng được chia ra từng dĩa nhỏ. Heo thì phải do bàn tay chuyên môn của ông Bảy Lu hay ông Chín Xíu chia ra rồi cũng được đem đến các bàn cho các vị chức sắc. Bà Ba Kỷ, bạn của bà ngoại tôi cũng là một bà chức sắc, lo phần ăn uống, thấy tôi, bà ngoắt lại đưa cho một gói xôi với một mớ heo quay, gói trong lá chuối. Mừng quá, tôi ôm chặt vô ngực, rút lui trở ra để dự phần hát bội. Cũng nhờ còn nhỏ, nhỏ con, tôi chui một hồi là tới sát bên sân khấu, đứng đó, cô đào có mấy mụt ruồi tôi thấy đủ hết.

Phần mặt tiền của sân khấu là phần dành cho các vị. Các ông vừa ngồi ăn, vừa coi hát. Bên cạnh chỗ các ông ngồi có để một cái trống chầu. Cầm chầu là một việc khá quan trọng. Người cầm chầu phải là người am tường nghệ thuật hát bội: điệu bộ, giọng ca... Khi nghệ sĩ đang hát tuồng trên sân khấu, chỗ nào hay, người cầm chầu sẽ đánh trống để khen. Đánh một tiếng: được; hai tiếng: khá; ba tiếng: hay. Còn hay nhiều thì ông đánh liên hồi, đứng gần nghe tức cái ngực.

Nghệ sĩ xuất hiện ra sân khấu ca diễn mà không nghe một tiếng trống nào thì rồi rồi: bị chê. Còn ca diễn mà trống vang inh ỏi thì cũng nên mừng thầm trong bụng, vì thứ nhứt là được khen, thứ hai là sẽ được thưởng. Tiền thuởng sẽ được cột vào một cái quạt, quăng lên sân khấu, một "tay con" cũng ăn mặc hát tuồng, nhưng mặc đồ quân, sẽ bò ra để lượm mấy cái quạt đó, đem vô hậu trường, xong rồi bò trở ra đưa trải lại quạt "không" cho khán giả.

Cầm chầu cũng tùy người, có người dễ tánh, dễ dàng xí xóa, thỉnh thoảng thấy được, nện cho một chầu khen; gặp vị khó tánh, ngồi nghiêm nghị, tai thì lắng nghe, mắt thì nheo nheo quan sát điệu bộ của người nghệ sĩ, tay trái vịn vô thành trống, tay phải cầm dùi trống để tựa lên mặt trống, cứ ngồi im lìm cả tiếng đồng hồ, rồi nghĩ sao đó, nhấc tay lên gõ nhẹ một tiếng! Gặp những vị này, đào kép hát cũng quíu tay quíu chân...



Thanked by 1 Member:

#450 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 29/05/2012 - 22:51

3. Kỳ yên năm đó

Năm đó, ba năm liền nắng hạn, thất mùa. Khô hạn làm lúa cháy, hạt lúa lép xẹp. Chỉ một ít phần ruộng gần sông Hàn còn khá khá, phần lớn còn lại, dân rầu thúi ruột. Làng cũng rầu không ít. Dân làng không đong lúa đủ, cũng phải châm chước cho họ là vì hạn do Trời chớ ai mà muốn. Mà không lúa thì không tiền, tiền đâu có đủ để mà lo cúng thần theo lệ hằng năm. Làng họp tới họp lui cũng không tìm ra được câu giải đáp. Cuối cùng, các vị hương chức trong làng đồng ý giải pháp là đi vay, vay chỗ nào chịu lời ít cho đở. Người có lòng cho mượn không lấy lời thì không có nhiều tiền. Còn người có tiền thì không có lòng, ai đành cho mượn không. Mà cho làng mượn để lo lễ cúng thần làng mà lấy lời thì lại cũng không dám, cho nên hay nhất là nếu làng tới hỏi mượn, cách hay nhất là phải than khó khăn, không có dư.

Bà Mười Út ở bên làng Long Hương thì nhiều người nhớ đến, bởi bà có nhiều tiền, hơn nữa bà chuyên môn cho vay. Nhiều người là thân chủ hay nói trắng ra là con nợ của bà. Bà thuộc loại cho vay cắt cổ. Bao nhiêu bà cũng có khả năng cho vay hết. Nhưng ai mà đem đồ đến cầm thì bà thích hơn, vì bà nắm phần chắc. Bà ăn nói một một hai hai dứt khoát: hai chục phân là hai chục phân, không bớt. Không muốn cho vay nữa, bà nói hết tiền là hết tiền, đừng hòng năn nỉ thêm mất công.

Để kiếm thêm tiền lo cho lễ cúng ký yên năm nay, ông Cả Bảy được giao phần đi vay tiền bà Mười Út. Ông Cả Bảy là người rất có uy tín, được rất nhiều người kính nể, bởi phong cách và tài nghệ của ông. Ông là thầy thuốc, thuốc Bắc và cả thuốc Nam. Ông rất mát tay, trị được bệnh cho nhiều người. Ông còn là thầy võ, nghề của ông cao lắm. Tướng ông ốm ốm, cao cao, dong dải người. Mấy ông lớn thường tới năn nỉ ông dạy dùm con họ. Ông còn là thầy bùa, thầy ngải, bởi vậy ông tuyệt tự, hai ông bà không có người con nào hết. Do tài nghệ và tánh hay giúp đời, ông được nhiều người quí mến.

Lãnh nhiệm vụ, ông đi đến nhà bà Mười Út. Ông vừa đến cửa thì người ở nhà bà Mười ra chào và nói liền là bà không có ở nhà. Làm như không nghe, ông đi tuốt vô nhà, lại bộ ghế giữa nhà, kéo ghế ngồi. Đứa ở lập lại là bà chủ không có ở nhà, ông liền nói tỉnh bơ:

- Vô nói bà Mười ra nói chuyện chơi, bả đang mặc áo bông xanh bông đỏ nằm trên võng đằng sau nhà chớ đi đâu.

Đứa ở thấy ông nói trúng ngay phóc, bèn đi vô trong nhà kêu bà chủ. Bà đi ra, thấy mặt ông Cả Bảy liền vả lả:

- Chào ông Cả! Bị tôi nhức đầu quá, nằm nghỉ ở đằng sau, có dặn sắp nhỏ là hễ ai tới thì nói là tôi không có ở nhà đặng tôi nằm nghỉ một chút, đâu có biết là ông Cả tới.

Rồi bà kêu rót nước, nói chuyện vui vẻ. Sau khi nói chuyện trời trăng mây gió, ông liền đề cập tới nhiệm vụ của ông. Nghe đến vụ mượn tiền cúng đình, bà liền giảy nảy:

- Lúc này tôi kẹt quá ông Cả ơi! Mấy người mượn tiền họ chưa chịu trả nên tôi không còn tiền trong nhà, chớ có tôi cũng đưa cho ông Cả chớ, ngặt là không có.

Thôi thì không có thì thôi, bà đã nói vậy rồi thì biết làm sao bây giờ! Ông Cả đứng lên chào từ giả:

- Tiếc quá, chị không giúp được cho làng lần nầy thì thôi, không ép gì chị, chớ còn hai ngàn ba trăm bốn mươi sáu đồng chị để trong tủ, trong hộp bánh "bít qui" đó...

Ông nói bỏ lửng rồi ra về. Bà Mười Út nhìn theo vừa ngạc nhiên vừa tức giận, không biết làm sao mà ổng biết được đúng ngay phóc số tiền trong tủ của mình: "Thằng cha già dịch!".

Năm đó, như mọi năm, làng cũng cúng kỳ yên. Nhờ mấy năm liền trúng mùa lúa, tiền quỷ làng dồi dào nên năm nào cũng cúng lớn, mấy mâm xôi to bóng mượt, mấy con heo quay mập tròn, thơm phức. Làng cũng mời được gánh hát bội trên Biên Hòa xuống, nghe đâu gánh này danh tiếng lắm. Đình được sửa sang lại, sơn phết tốt tươi. Trúng mùa, có tiền, ai cũng mong đến ngày hội để được vui chơi.

Nhà tôi cũng có chuyện mừng vì cậu bảy Hạnh, người thân tín trong gia đình và cậu bảy Mới, người em họ xa của má tôi được làng chọn, cho khiêng lễ vật cúng thần. Tất cả tám người, bốn khiêng hai mâm xôi, bốn khiêng hai con heo quay. Cậu bảy tôi, nhỏ con được sắp với một người cũng nhỏ thó để khiêng xôi. Còn cậu bảy Mới, cao, được sắp khiêng heo quay, đi phía sau mâm xôi. Đêm đó, tôi nghe mấy cậu bàn chuyện khiêng ngày mai: khiêng xong được lãnh mỗi người hai đồng, còn được mỗi người một gói xôi và một miếng heo quay. Tôi nhớ cậu bảy Hạnh nói:

- Mai cậu bảy khiêng về, cậu bảy cho con ăn heo quay với xôi, ngon lắm. Cậu bảy lấy một miếng nhỏ thôi, cậu bảy nhậu rượu.

Sáng sớm thức dậy, dằn bụng ba hột cơm cho có sức, cậu bảy Mới hí hửng khoe:

- Bữa nay dìa là tui có hai đồng. Kệ, rán khiêng nặng một chút mà có tiền mà lại có heo quay ăn, mấy đời mình được ăn heo quay.

Gần tới giờ hành lễ, đoàn lễ vật cúng thần lên đường, từ nhà ông Hương Quản Lình đi đến đình. Dẫn đầu đoàn có mấy ông hương chức, mặc áo dài khăn đống, có hai người cầm cờ đi hai bên, rồi tới hai mâm xôi; đi tiếp theo hai mâm xôi là hai mâm heo quay. Hai bên bờ ruộng thì có con nít chạy theo coi. Đi phía sau cũng có mấy ông, và mấy bà nữa. Mâm xôi, mâm heo quay gì cũng đều nặng hết, bốn cái mâm nhún lên nhún xuống theo nhịp bước của mấy người khiêng.

Càng đi, mâm càng nhún; càng nhún, mâm càng nặng thêm. Càng lúc mâm càng lắc lư. Đến một khúc quẹo, con heo quay to, nặng chập chờn lên xuống, đảo qua đảo lại rồi lôi luôn cậu bảy Mới và người bạn khiêng, hai người ốm gầy ngả nhào xuống ruộng! Con heo lăn tròn dưới ruộng. Mấy đứa con nít chạy theo hai bên vỗ tay cười. Mấy ông làng hoảng hốt, tức giận, la hét, mắng chửi. Ông Quản Lình cầm cây đập hai người khiêng heo. Cậu bảy Mới vội đứng dậy, chạy né tránh đòn, chạy luôn về nhà, sợ quá, bỏ xứ trốn biệt...



Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

5 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 5 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |