Jump to content

Advertisements




Truyện ngắn huyền bí - hiendde


1072 replies to this topic

#391 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/12/2011 - 09:23

SỰ THẬT VỀ MÔN PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN

Phần Một

Thất sơn Thần quyền có những kiểu tương tự như Rung động thư giãn của bộ môn Năng lượng Cảm xạ, tuy nhiên Cảm xạ là phương pháp "tự lắng nghe chính mình" và không phải cầu cạnh bất cứ thần thánh hay phật nào cả. Dưới đây tôi sẽ thuật lại một câu chuyện có thật mà anh bạn Pháp sư từng chứng kiến. Qua đó sẽ hiểu rõ hơn về vị thần trong thần Quyền. Các vị cũng là những người có nghiệp võ nhưng chưa dứt bỏ được nghiệp nên muốn trường tồn cùng thời gian. Các câu thần chú dùng để đọc chính là những lời hiệu triệu cho phép các vị Thần nhập vào Cơ thể mình để các vị tùy nghi sử dụng. Do vậy võ sinh TSTQ có nhiều khả năng đặc biệt ngoài khả năng thực của mình (được thần lực trợ giúp thì phải khác chứ). Tuy nhiên khi đệ tử Phạm giới cấm hoặc làm điều xấu thì cũng sẽ bị Thần trừng phạt rất nặng tay vì các vị vẫn còn sân hận nhiều như câu chuyện dưới đây.

Dưới đây tôi sẽ thuật lại một câu chuyện có thật mà anh bạn Pháp sư từng chứng kiến. Qua đó sẽ hiểu rõ hơn về vị thần trong thần Quyền. Các vị cũng là những người có nghiệp võ nhưng chưa dứt bỏ được nghiệp nên muốn trường tồn cùng thời gian. Các câu thần chú dùng để đọc chính là những lời hiệu triệu cho phép các vị Thần nhập vào Cơ thể mình để các vị tùy nghi sử dụng. Do vậy võ sinh Thất Sơn Thần Quyền có nhiều khả năng đặc biệt ngoài khả năng thực của mình (được thần lực trợ giúp thì phải khác chứ). Tuy nhiên khi đệ tử Phạm giới cấm hoặc làm điều xấu thì cũng sẽ bị Thần trừng phạt rất nặng tay vì các vị vẫn còn sân hận nhiều như câu chuyện dưới đây.

Có một ông Thầy lại thăm huynh đệ có người con học Thần quyền. Trong lúc ông Thầy và người Cha đang nói chuyện, bỗng nhiên có một tiếng hét thất thanh buồng bên vọng sang. Người Thầy và người Cha lật đật qua buồng bên xem chuyện gì xẩy ra, thì thấy người con bai bàn tay đang nắm chặt theo thế Kim Cang quyền, đôi tay không ngừng run rẩy. Còn người vợ thì la lên rằng:

- Anh tính xé xác con tôi.

Người Thầy và Cha liền kêu đứa con ra ngoài nói chuyện. Người Thầy nói:

- Mày học Thần quyền mà lại vào hốt phân nên ông Thần chịu không nổi, ông nổi điên và có hành động như vậy.

Ông Thầy nói chuyện với ông Thần trong xác đứa con đối trước bàn thờ:

- Xác đệ tử ông nhỏ dại, ông tha cho nó vì nó không hiểu và tôi thỉnh nước Phật Chuẩn Đề cho ông hưởng và bỏ qua cho nó.

Vị Thần liền gật đầu. Ông Thầy chú nguyện Chú Chuẩn Đề vào ly nước và đọc chú hồi hướng xong đưa cho ông Thần. Ông Thần liền cầm ly nước xá trước ngôi Tam bảo xong rồi uống xuất ra khỏi cái xác của đệ tử. Sau này người vợ chịu không nổi phải bỏ ra đi vì hay bị chồng đánh đập thường xuyên (thật ra ông Thần tà trong người đánh thẳng tay, vì đệ tử hay phạm luật do người vợ. Khi xác đệ tử bị hành có khi thì đập đầu vô tường, có khi thì đá vách tường, khi thì đập cũa cũng do ông Thần quở phạt). Đó là hậu quả của người học mà không hiểu qui luật của mấy vị Thần thì rất là nguy hiểm. Đa phần khi còn thanh niên thì ham học Thần quyền vì thích múa võ mà chưa nghĩ đến hậu quả về sau khi có vợ có con.

Lại cũng ông Thần quyền trên và vị Thầy kể lại chuyện người con bắt ấn đòi đánh cha, mà người cha cũng có phần căn nói tiếng âm. Một bữa nọ, tình cờ vị Thầy vào thăm người cha, thấy hai cha con đang bắt ấn sửa soạn đánh nhau (đấu phép). Vị Thầy liền can và nói với người con, xác của ông Thần rằng:

- Ông tuy giỏi hơn người cha, nếu ông đánh phép thì ông sẽ thắng. Nhưng xác của ông sẽ đọa A tỳ muôn kiếp, vì theo luật là con đánh cha. Quay qua người cha vị Thầy nói:

Ông không được chửi cái xác này, dù nó là con vì trong xác đó có Thần quyền, nếu ông chửi nó chính là ông chửi ông Thần. Vị Thầy liền nói với ông Thần:

- Ông phải nghe lời tôi mà bỏ qua.

Ông Thần còn muốn chưa chịu, vẫn hậm hực. Vị Thầy liền đọc Bạch Y thần chú cho vị Thần nghe, và giải thích sắc lịnh Quan âm “Thiên la thần, Địa la thần nhân ly nạn nạn ly thân nhất thiết tai ương hóa vi trần”. Trên 36 tầng trời, dưới 72 tầng địa ngục đều phải hộ trì phục lịnh, nếu ai hộ trì phục lịnh bài chú này thì công đức vô lượng về hộ trì chánh pháp, nếu ai bất tuân sẽ bị mất Phước thần sau này sẽ bị đọa! Nghe xong vị Thần liền rụt tay lại và tỏ ra ra hoan hỉ. Vị Thầy liền đọc chú hồi hướng cho vị Thần. vị Thần liền xá và xuất ra khỏi xác người con.

Người Cô ruột ngồi kế bên, liền đứng dậy tát lia lịa vào mặt người con và rủa:

- Đồ bất hiếu.

Người con nước mắt lã chã, quì xuống xin lỗi cha mẹ và cô:

- Con không cố tình.

Lại cũng ông Thần quyền và vị Thầy trên. Một bữa nọ cái xác bị hành, cứ đập đầu vào tường, vị Thầy đến chơi bắt gặp, liền khuyên vị Thần hãy từ bi hỷ xả cho cái xác vì còn trẻ nên ham vui, nên ngài cũng hoan hỷ cho. Vị Thầy hứa chú nguyện Chú Chuẩn Đề vào ly nước cho ông Thần hưởng, ông Thần liền gật đầu. Hai người lên trước ngôi Tam bảo, sau khi uống nước xong vị Thần xuất ra. Vị Thầy liền ngồi nói chuyện với người con. Bỗng cặp mắt người con trợn trừng, người con hỏi vị Thầy:

- Thầy có chữa con khỏi hết không?

Vị Thầy liền trả lời:

- Mày hỏi hay là ông Thần đang hỏi, chứ thật ra Thần đang hỏi! Vị Thầy liền giải thích:

- Muốn hết tự mình kỉnh hương trước Tam bảo và Cửu huyền sám hối là con lỡ dại học Thần quyền, nay xin ơn trên cứu con cho vị Thần ra khỏi người con thì Thầy sẽ chữa và ông Thần sẽ ra.

Nhưng bản thân cái xác, tâm vẫn muốn ông Thần trong người, nên vị Thầy không thể nào đưa vị Thần ra được vì “hữu thỉnh hữu lai, hữu cầu tất ứng”. Có nghĩa là bản thân cái xác phải tự nguyện thắp nhang nguyện cầu thì mới chữa được. Vị Thần liền cười và cuối cùng cái xác không thực hiện. Thần quyền có nhiều môn phái như Ngũ Hổ Thần Quyền, Vạn Thiên Giới Linh Thần Quyền, tôi có bảo mẩu chuyện trên là về Thất Sơn Thần Quyền đâu. Đây chỉ là câu chuyện cảnh tỉnh để các đệ tử luyện thần quyền cẩn trọng trong việc giữ giới hạnh.

Thần Quyền còn được gọi là Vỏ Tổ, Phật Quyền, Thần vỏ Đạo... nhưng tựu chung cũng là cấp Thần mà thôi! thường kẻ mới nhập môn thì được ông Thầy dùng nhang khoán Bùa thổi trên đỉnh đầu, tam tinh (trán) hai bên hai lổ tai, trước ngực sau lưng, hai cánh tay, rồi cho môn sinh đó uống một ly nước Bùa có cấp vị Tổ vỏ nào đó theo hộ từ đó, và để cho tân môn sinh đó kêu, luyện mỗi ngày cho tới thành thục rồi sẻ luyện môn khác! Sau khi uống xong ly nước phép đó rồi ông Thầy đó sẻ cho đệ tử ấy đứng chắp hai tay lại hoặc hai tay cầm hai cây nhang giăng ngang thẳng ra và đọc câu thần chú để xuất quyền, đọc liên tục, đọc đến khi nào người đệ tử thấy người mình chuyển khác lạ thì nương theo đó mà luyện, có người lên mạnh, người lên yếu, người chậm người nhanh tùy căn cơ và xác nặng, nhẹ, đặc điểm của Thần Quyền là bị đánh không đau, sức mạnh phi phàm, ra đòn nhanh lẹ và dũng mãnh không sợ đao kiếm, roi côn...tay không đở dao, gậy, chém không đứt, đâm không lũng.

Cấm kỵ của Thần Quyền cũng nhiều cái khác nhau giửa các môn phái, tuy nhiên những điều cơ bản chung là: Không Phản Tổ, phản Thầy. Không tửu sắc, tà dâm Không tham lam, trộm cắp. Không cậy mạnh hiếp yếu
Không ăn chó, trâu, mèo, khỉ, cá gáy. Nếu phạm thì sẻ bị Tổ hành, vật, bắt ăn miểng chai, ngâm mình dưới sông, leo lên tuột xuống cây dừa, cây đa cao nào đó...trầy sát cả mình mẩy, khi đó phải có những người trong Môn Đạo đến đọc Chú đốt nhang xin giải thì mới hết!

Thần Quyền lên nhập xác có thể đánh Hầu quyền, Long quyền, Hổ quyền, Ưng quyền..nói chung là thập bát ban vỏ nghệ cùng các thứ binh khí (chỉ có phi đao tui chưa có dịp thấy qua), có kẻ khi Thần về nhập xác phi thân nhảy lên nóc nhà bón, năm thước như chơi, khi đi bài quyền chuyển tấn, dậm tấn nghe rầm rầm rúng động cả mặt đất, sức mạnh dử lắm, mắt của kẻ Thần nhập xuất quyền lúc đó đứng tròng, đồng tử không đảo, không liếc ngang dọc chỉ nhìn thẳng, nhưng rất tinh tế không hề ngả, đụng bất kỳ chướng ngại đồ vật nào xung quanh! người luyện Vỏ Thần thì thường có luyện luôn môn Gồng, những người học các môn này thường thì rất hiền, và không bao giờ ra tay đánh người trước (trừ những kẻ "ba mớ" ngựa non háu đá), chỉ để hộ thân và làm việc nghĩa cứu khổn phò nguy giúp bá tánh mà thôi, những người luyện lâu môn này cũng có thể biết thêm các thứ: chửa bệnh, mở ếm, gở thư, trừ tà... gọi là nghề văn nghiệp vỏ theo tiếng bình dân của họ! sau đây là bài chú xuất quyền của Vạn Thiên Giới Linh Thần Quyền:

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT (12 lần)
NAM MÔ BÁT VƯƠNG PHẬT (9 lần)
NAM MÔ SƯ TỔ HỘI VẠN THIÊN GIỚI LINH (9 lần)
NAM MÔ SƯ PHỤ HỘI VẠN PHÁP TÔN LINH (7 lần)
NAM MÔ ĐẠI HÙNG LỰC CHÍ NGUYỆN ĐỘ TÂM LINH (3 lần )
Độ đệ tử..tên họ tuổi..Thần Quyền vô địch, thần cước vô song, để đệ tử phò trì chánh Đạo.

Còn hai câu chú cuối, xin phép không đăng kẻo mang tội trộm pháp. Phần trên coi như giới thiệu thôi.
Câu chuyện trên là kể về gia đình mà cha học bùa phép con học Thần Quyền. Nhưng vì ông con nhỏ tuổi ham vui, học thần quyền lại không có người thầy giỏi chỉ dạy, ăn uống nhậu nhẹt phạm giới lung tung cho nên bị vị Thần phạt. Nhìn chung khi học bất khi một môn gì mà có sử dụng thần chú, hoặc chịu sự chi phối của Thầy thì tức là mình đã giao phó thân xác của mình cho Thầy, cho môn Phái, thân xác của mình cũng là thân xác chung cho các vị Thần. Do vậy nếu các vị bắt ăn uống, giữ giới thanh tịnh thì phải nghiêm túc tuân thủ, nếu phạm giới tất sẽ bị trừng phạt nặng nề.

Ngoài ra cũng có nhiều tà phái cũng lợi dụng huyền thuật để chi phối người khác. Ngay như trường hợp giáo phái AUM bên Nhật là một ví dụ điển hình. Không phải tự nhiên mà những người trong giáo phái đó cứ tin tà tà theo ông Thầy. thực chất ông Thầy này cũng đã bị Ma chướng (phải là loại Ma rất cao như Thiên Ma) nhập vào người. Nhiều người tu hành một thời gian đệ tử theo rất đông, có nhiều tài phép rồi sau đó bị Ma chướng nhập vào làm điều bậy bạ...mất hết uy tín, cái đó đều do bị các ma chướng lớn xâm nhập. Với người bình thường chúng ta, thân đầy ô uế thì chỉ cần vài loại ma nhỏ như tinh mỵ là đủ chết rùi!




Thanked by 1 Member:

#392 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/12/2011 - 10:35

SỰ THẬT VỀ MÔN PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN

Phần Hai

Quê tôi ở gần biển, người dân ở vùng này chủ yếu làm nghề thợ mộc phải làm xa ở các tỉnh có rừng và anh em thợ tìm thấy môn này đầu tiên ở Cao Bằng. Anh em trong xã hầu hết tập luyện môn này và đấu nhau rầm rầm gây dư luận không tốt, có những đệ tự còn bị công an xã bắt giam, bà con không ai ủng hộ vì những hiện tượng thắp hương, khấn vái và đánh nhau gây mất trật tự làng xã.

Trong đó hai em trai của tôi cũng làm thợ mộc và theo môn này. Điều chú ý đầu tiên, tôi thấy cậu em trai út của tôi tập ngoài vườn. Em tôi thì chưa từng học võ bao giờ nhưng đi những đường quyền rất đẹp: đá vút cao, ngã lộn người xây xát mà không thấy đau, thậm chí đá vào vật cứng lột cả da chân mà không thấy ngại. Tôi bắt đầu tìm hiểu xem có điều gì mê tín không và tôi hỏi các bí quyết của môn này. lúc đó tôi đã vào ngành công an rồi, tôi vào ngành công an năm 1976.

Thế nào là tự do tìn ngưỡng?
- Tự do: là được quyền lựa chọn
- Tín: là niềm tin
- Ngưỡng: là sự ngưỡng mộ
- Mê tín: là tin vào điều không có sự thật
- Chính tín: là tin vào điều không có sự thật
Như vậy những điều gì mà qua thực tế có thực,làm thực thì ta ko sợ mê tín

VÀO MÔN

Tôi cũng rất lo một môn võ có nhiều điều kỳ diệu như vậy mà vẫn nằm trong huyền bí, hay còn gọi là môn võ bí truyền bị mai một thì sẽ dần quên lãng. Đệ tử ít dần và những người làm được những điều kỳ diệu không còn và thế hệ tiền bối cao tuổi sẽ mất đi thì tiếc quá! Người nhập môn ngoài những tiêu chuẩn đã nêu trên thì khi nhập môn còn có những lời thề của môn hay còn gọi là môn quy. Nói chung những lời thề thường nêu cao cái đức của con người. Ví dụ: hết lòng hiếu thảo với cha mẹ, không phản thầy, không phản môn, hết lòng hiệp nghĩa, không ham mê tửu sắc. Điều kiêng kỵ: kiêng thịt chó, thịt trâu, cá chép, bia rượu không uống say, sau đó người thầy sẽ thổi hương vào người mình, các vị trí huyệt, chỗ yếu điểm của cơ thể, chổ hay tiếp xúc với va chạm sẽ được thổi kỹ hơn và sau đó thầy sẽ cho mình câu thần chú để đọc, câu này sẽ đọc suốt khi tập, khi chiến đấu và khi xin các việc khác.

Người đang vào khi đọc thần chú sẽ có cảm giác ngã đổ xuống và khi đổ xuống là được (có cả thức ăn riêng khi tập luyện môn này, gọi là bùa). Người mới vào môn này ta ví như đứa trẻ mới sinh ra. Bắt đầu là cựa quậy, rồi lẫy, ngồi dậy, bò rồi từ từ đứng dậy và đi chập chững...chạy. Người mới vào môn này cũng vậy: phải lăn lộn trên mặt đất, cát sỏi đá..tất cả những nơi mình tập. Người lăn ít thì một ngày, người lăn nhiều thì nửa tháng đến một tháng. Nhưng theo kinh nghiệm thì lăn càng nhiều càng tốt sau đó chao đảo đứng lên như người say rượu, tay khua khoắng, chân đi chuệnh choạng chữ chi, dần dần co duỗi quỳ lộn..đá tạo thành các đường võ tuyệt đẹp, càng về sau tập luyện có phần nhàn nhã hơn và hơi thở đọc chú phát ra to dần(nghe như bơm xe đạp). Phần khí trong người phát triển dần (đây là phần chịu đòn, chịu lực ngã)thậm chí dộng đầu gối xuống gạch tím cả đầu gối mà vẫn chịu được (có phần về tâm linh giúp đỡ).

Trước khi vào môn này tôi nghe anh em nói khi vào môn sẽ có những khả năng sau: bản thân chịu đòn tốt, đòn của mình đánh ra mạnh gấp sáu đòn thường (tựa như có nọc, khó chữa), được hộ mạng khi gặp lâm nguy, tự xin được các thế võ mà mình chỉ biết tên hoặc muốn đi lại các thế võ hay khi xem trên phim ảnh. Vào ba tháng là có thể hạ được võ sĩ. Khi chiến đấu hầu hết phụ thuộc vào đường quyền của tự nhiên dẫn, chữa bệnh và chữa thương bằng thổi hương. Có thể ăn được chén bát, bóng đèn (nếu ai muốn tập thêm). Nếu ai vi phạm lời thề sẽ bị xử phạt tự nhiên.

Tôi ngồi với nhiều đệ tử, sư nhưng toàn tôi nói là chính. Tôi nói những điều tôi làm được và bất cứ lúc nào tôi cũng làm được ví dụ như thuật khám bệnh. Tôi có thể dùng ba ngón tay rê từ đỉnh đầu xuống chân, vị trí nào có bệnh là tui biết ngay (có thể chuẩn đoán 80-90% bệnh của người đó, nhanh hơn các loại máy móc và thày lang khám bệnh). Tôi đã thử ở hai bệnh viện lớn: bệnh viện 198 và bệnh viện 103 và tất cả những người tôi đã thử đều đúng. Khi khám bệnh hay cứu người tôi cũng chỉ dùng thần chú như lúc tập luyện và tôi đã cấp cứu được nhiều người bị ngất, trẻ em sốt giật ở nhiều nơi.

Ta có thể nói dối cho người trần nghe nhưng ta không thể nói dối Thần Phật trên đầu. Bản thân tôi người ta gọi là có chân tu tính hiền lành đức độ. Tôi lại nói về môn Thất Sơn Thần Quyền mà môn tôi tin yêu và kính trọng, các đấng thiêng liêng tối cao đã giúp tôi thành đạt như ngày hôm nay mà khi vào môn tôi không dám nghĩ đến. Trước khi vào môn tôi bị bệnh thần kinh tọa rất nặng (què cả hai chân), đã chữa ở bệnh viện 198 nhưng họ trả về. Khi vào môn tôi chỉ mong chữa được bệnh thần kinh tọa là tốt lắm rồi. Tôi cũng phải lăn lộn khoảng hơn mười ngày sau khi nhập môn. Thấy anh em vào trước động viên lăn càng nhiều càng tốt tôi càng kiên trì tập luyện. Lúc nào cũng ở tâm trạng như say xe. Nhiều lúc nôn cả ra bãi tập. Sau khoảng ba tháng thấy đường quyền cũng tàm tạm và khi đó bệnh thần kinh tọa của tôi cũng giảm dần (gần như mất hẳn).

Lúc vẳng vẻ ở cơ quan tôi vào phòng làm việc đóng cửa và thử xin một thế võ mà mình đã biết rồi (là thế CHÀO MÃ). Tất nhiên lúc mình đi thế phải vô tư, không cố tình và đọc thần chú, tự nhiên tay chân mình được đưa dẫn vào vị trí thế tương tự. Tôi mừng quá xin luôn một thế của một con vật vồ mồi và tôi thấy ngon lành luôn, tôi nghĩ vậy là được nên tôi liền chạy sang nhóm giáo viên võ thuật của trường công an (lúc đó tôi đã công tác tại trường CA). Tôi nói sơ qua về môn Thất Sơn Thần Quyền, sau đó tôi nhờ mấy anh em đọc cho mấy thế võ của thiếu lâm tự tôi chưa biết trong đó có một anh giáo viên có học qua TLT. Tôi xin và đi thử. Anh em nhận xét có thế rất đúng, có thế hơi đúng, có thế người nói đúng người nói sai. Tóm lại, tạm để lại niềm tin cho tôi và nhóm giáo viên võ thuật.

Sau đó tôi ra sức tập luyện, cứ rảnh rỗi là lại tập. Theo môn Thất Sơn Thần Quyền, khi tập người tập phải liên tục đọc thần chú sẽ có các vị Phật, Bồ Tát, Sư Tổ, sư phụ của môn Thất Sơn Thần Quyền (trên không trung) chỉ dẫn cho mình. Lúc đầu cảm thấy lơ mơ chưa rõ rệt vì các vị còn trên cao mà mình thì mới vào còn chưa rõ. Ví dụ thấy tay chân muốn co muốn duỗi, muốn nhảy muốn quỳ, xoay người ngã lộn...Khi cảm thấy tưng tức ở tay hoặc ở chân đó, là muốn đấm hay muốn đá thì cứ dùng hết lực toàn thân để thực hiện một quả đấm thẳng hoặc ngang, hoặc móc hoặc cú đá cao, thấp, quét. Qua nhiều ngày thì cảm giác đó rõ rệt có thể dẫn những chi tiết rất nhỏ như khám bệnh mà vẫn cảm thấy. Điều đặc biệt là khi tập luyện, ngã, va chạm đều yên tâm không sao cả, vẫn chảy máu trầy da nhưng không sao cả.

Rồi một bước thử thứ hai của tôi là: tôi tự nghĩ khi đã có các vị Bồ Tát, sư tổ, sư phụ giúp mình vậy ví dụ như đang đi đường gặp một vài người xấu ôm chặt khóa tay, lúc đó mình xin các ngài và đọc thần chú thì các ngài có giải thoát cho mình không? nếu cứ chờ thực tế thì cả đời chắc gì đã gặp. Nghĩ vậy một hôm tôi sang hội trường võ thuật chớ các học sinh học võ về chỉ còn lại một đồng chí tôi nói:

- Bây giờ em giúp anh khóa tay anh nằm sấp xuồng sàn tập (phải khóa thật sự), tưởng tưởng như một tên cướp có dao nếu không khóa nó sẽ vùng dậy đâm em chết.

Và học sinh đó cũng khóa tay tôi nằm úp sấp đầu gối thúc vào sườn, cả thân đè lên tôi đúng động tác đã học khóa tội phạm của công an, và tôi khấn nhỏ xin gỡ khóa địch thủ và tự nhiên tôi có sức khoẻ phi thường bật dậy hất đồng chí học sinh đó văng xa khoảng hai thước. Đồng chí học sinh đó nện mông xuống sàn tập còn mặt thể hiện rất ngạc nhiên và hỏi:

- Thầy làm thế nào mà nó như vậy?

Trong tôi rất vui sướng và tin tưởng. Sau đó hàng ngày tôi vào lớp võ thuật của trường cho những ai xung phong khóa, càng to càng khỏe càng hấp dẫn. Lúc đông nhất là bốn học sinh khóa cùng một lúc. Khóa tất cả các kiểu tôi đều gỡ được. Tôi có hỏi các đồng chí học sinh lúc đó tâm trạng ra sao? học trả lời là tay của họ cứ tuột ra và văng đi không theo ý muốn của mình nữa. Tôi nghĩ vậy là có các vị giúp mình rồi. Sau đó tôi nhờ một đồng chí giáo viên võ thuật đã học bấm huyệt xem tôi xin bấm huyệt có đúng khong? Lúc đó tôi xin bấm huyệt chữa đau lưng.

Tôi làm xong đồng chí đó nói:

- Không biết mày đã học bấm huyệt ở đâu chưa nhưng tao thấy rất đúng.

Vậy là tôi thành công. Thời gian trôi qua, hôm đó tôi đứng xem các đồng chí công an đánh bóng chuyền vì cứu bóng ở vị trí chuyền hai khi ngã xuống chống ngược tay phía sau. Lúc đó tôi thấy đồng chí đó khớp khuỷu tay phải bị lòi ra kéo căng ra trắng hếu (trật khớp). Anh em xốc nách vào y tế trường, Bác sĩ và y sĩ trường đang nẹp tạm thời để đưa vào bệnh viện cấp cứu. Tôi đứng hồi hộp suy nghĩ không biết mình có làm được không? từ bé chưa nhìn ai sai khớp và vào khớp bao giờ cả nhưng tôi bỗng thấy tự tin vì những gì tôi đã xin và làm được.

Lúc đó tôi xuống y tế người xem rất đông. Tôi rẽ đám đông vào chắp tay xin vào khớp tay cho đồng chí của mình trước sự lạ lùng và khó chịu của cán bộ y tế và học sinh. Tôi cúi xuống và làm thao tác theo chỉ dẫn của các vị. Đôi tay nhịp nhàng điêu luyện. Sau khoảng một phút thấy khớp xương biến mất còn tay gập vào được. Tôi thoáng nghĩ đã được rồi. Sau này tôi mới biết thường phải hai đến ba người giữ và giật mạnh khớp tay mới vào được, mà giật mạnh thì gây đau đớn cho bệnh nhân và vì kéo mạnh nên sau này nếu xách cái gì nặng là dễ bị tuột ra như cũ, còn như lần đó tôi làm thì không gây đau đớn gì cả mà cũng không tái phát. Tôi lấy làm mừng vì các vị Thất Sơn đã mượn tay tôi mà cứu nhân độ thế. Từ đó các vị học sinh ở trường rất tin yêu và kính mến tôi. Khi tập luyện có gì đau các đồng chí hay nhờ tôi kiểm tra giúp đỡ. Tôi xin tạm dừng bài viết tại đây.


ST



Thanked by 1 Member:

#393 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/12/2011 - 03:59

CHUYỆN MA ÁM

Phần Một

Câu chuyện này xảy ra với một người họ hàng nhà vợ và tôi được bà mẹ vợ kể cho nghe.

Trước hết xin kể qua về quê quán nhà vợ tôi, đó là một vùng quê đồng bằng Bắc bộ, nằm ở gần ngã ba đường đi Thái bình, Hải phòng và Hưng yên, phía sau làng khoảng vài cây số là sông Thái bình. Vì vị trí như vậy nên trong thời kỳ chống Pháp 1946-1954, vị trí này đều được cả hai bên Liên hiệp Pháp & Việt minh giành giật rất quyết liệt. Làng vợ tôi đã bị càn quét nhiều lần bởi các đơn vị rất hung dữ của Pháp như các binh đoàn Bắc phi hay Lê dương (đơn vị này đa số binh lính là dạng tù tội, cướp của giết người ở Châu Âu, rồi được Pháp tuyển dụng làm lính). Người chết rất nhiều, đặc biệt là dân thường. Chưa kể đến nạn đói năm 1945, trong mấy tháng trời ngày nào cũng phải chôn hàng chục người chết đói.

Câu chuyện này xảy ra vào thời chống Mỹ. Ngày đó cô em họ mẹ vợ tôi đi thanh niên xung phong ở một nông trường trên Yên bái, cô này có người yêu đi làm công nhân ở mỏ Quảng ninh. Vì có lệnh động viên nên chú người yêu phải nhập ngũ, trước khi lên đường thì đơn vị cho về một tuần để cưới vợ. Mặc dù lúc trước đã đánh điện (telex) để báo, nhưng khi về đến nhà chờ hai ngày không thấy người yêu đâu, nên chú này đành lên nông trường để tìm, vì đường xa, lại vào thời kỳ chiến tranh, nên mất hai ngày mới đi đến nơi, đến đó thì người ta báo là cô này đã về vào hôm qua rồi. Vì thế chú này lại phải lăn lội hai ngày nữa mới về đến nhà. Đám cưới được tổ chức vội vàng vì chỉ còn một đêm nữa là chú rể phải về đơn vị, khách đến rất đông cho nên đến khuya hai vợ chồng mới được gần nhau, rồi chỉ trong chốc lát, người chồng đã phải ra bến xe.

Một năm sau đó thì cô họ vợ tôi nhận được giấy báo tử của chồng, quả thật là lúc đó cô ấy bị khủng hoảng nặng nề và gần như thần kinh. Hàng đêm ở nông thôn trời tối nhanh lắm, chỉ bảy giờ là tối đen như mực, nếu không có sáng trăng. Cô vẫn thường hay ra ngoài cánh đồng ở rìa làng (nhà cô ở ven làng) ngồi đến gần sáng mới về nhà. Mới đầu gia đình còn đi theo để xem cô ấy có bị làm sao không, nhưng được vài lần chỉ thấy cô ấy ngồi một mình đến gần sáng thì cũng thôi, không ai đi theo nữa. Một đêm như vậy, mà đêm ấy có sáng trăng, cô ấy quay về nhà người lạnh ngắt, đến hôm sau không ăn uống gì. Cả nhà tưởng bị ốm bèn nấu cháo, nhưng cứ đưa đến gần là cô ấy gạt đi không chịu ăn. Rồi vài ngày tiếp theo, cô cũng không hề ăn gì, chỉ uống nước và nằm một chỗ.

Có điều là thỉnh thoảng mắt cô ấy long lên trông rất kinh. Gọi y tá đến khám rồi đưa lên bệnh viện huyện thì không thấy có bệnh gì, vả lại trong chiến tranh gia đình đành để như thế. Cách đi khoảng hai tuần thì hàng đêm gia đình thấy có tiếng đập cửa, mọi người đều nghĩ là trẻ con hàng xóm nghịch, nhưng mở cửa ra, thậm chí ngồi rình cũng chẳng thấy gì mà tiếng đập vẫn có. Rồi tiếng đập không những ở cửa, mà ở các vách và trên mái nhà (nhân đây cũng xin tả về nhà ở quê vào thời kỳ đó là kiểu nhà khung tre, vách trát bằng rơm trộn bùn, lợp rạ và cửa là dạng phên nứa). Cả nhà đều sợ, đêm không ngủ được, ai cũng cho là có ma và ma có lẽ đã nhập vào người cô này.

Tuy nhiên việc cúng ma thì không thể được, vì vào thời kỳ chiến tranh, những việc như vậy được coi là mê tín dị đoan, nhiều gia đình thời đó thậm chí còn không có bát hương để thờ cúng, và nếu có thì cả người tổ chức và thầy cúng đều bị bắt ngay. Nhưng do sợ quá nhà cô này đành lên nói với ủy ban xã, tất nhiên là mới đầu người ta không chịu. Tuy nhiên do sự van nài của gia đình, hàng xóm cũng nói là có nghe tiếng đập cửa và cũng do là gia đình liệt sĩ, nên người ta cử hai dân quân mang súng đến ngủ đêm xem sao. Đêm đầu không thấy gì, không biết có phải là do sát khí ở súng hay không, người ta định kiểm điểm gia đình, nhưng ông bố vẫn đề nghị người ta ở lại thêm một đêm nữa.

Đêm sau, quả thật là khoảng mười một giờ thì có tiếng gõ cửa, hai anh dân quân đứng dậy lên đạn và nói:

- Mày có giỏi thì gõ thêm xem sao!

Lập tức có tiếng gõ mạnh hơn. Sau đó nếu bảo gõ trên mái là gõ ngay, có khi đang gõ ở chái nhà đằng này mà bảo gõ phía đối diện thì tiếng gõ có ngay lập tức. Hai anh dân quân chạy ra ngoài bắn chỉ thiên, thì lập tức có tiếng ầm ầm trên mái nhà. Hai anh này sợ quá vứt cả súng mà chạy. Vì thế uỷ ban mới cho tìm thầy cúng. Việc tìm thầy cúng đâu có dễ dàng gì, vì chẳng ai muốn làm (làm có thể bị bắt bất cứ lúc nào). Tìm được đến, thì có người vừa trông thấy cô ấy đã vội vã xin về ngay, có người thì tiến vào xem thì bị cô ấy trừng mắt lên quát rằng:

- Mày mà động đến tao thi tao bóp cổ cả nhà mày.

Rồi cũng phải chuồn. Thậm chí có người cố bày đồ nghề cúng ra, thì bị cô ấy đạp đổ, mặc dù cả nhà đã xúm vào giữ lại, nhưng mà không hiểu sao cô ấy khoẻ khủng khiếp, rồi bóp cổ đến nghẹn cả thở. Cho nên mãi chẳng thấy bệnh tình đỡ gì cả. Một hôm do có đám chèo ở sân đình, cả nhà rủ nhau đi xem, chỉ để bà mẹ ở lại trông cô này. Bà mẹ cũng rất sợ, nhưng để con gái ở lại sao đành bèn lén đút một con dao xuống phía đầu giường của cô này. Sau khi cả nhà đi được một lúc thì cô này kêu mệt đòi mẹ cho uống nước rồi lại đòi mẹ đỡ lên. Đến khi bà mẹ đỡ lên thì cô ấy quàng tay ra sau gáy rồi kéo bà mẹ xuống. Lúc ấy bà mẹ kể là:

- Mắt nó long lên xòng xọc, mồm đầy nước dãi, rồi nó thè lưỡi dài ra cả gang tay liếm vào mặt tôi, nó níu rất khoẻ và chuẩn bị bóp cổ tôi.

Bà mẹ bèn rút con dao ở dầu giường nói là:

- Bây giờ mày không phải là con tao, mày không bỏ tao ra thì tao cho mày một nhát rồi tao cũng chết.

Thế là cô này buông mẹ và nằm vật ra. Thấy bệnh tình của cháu ngày một nặng, bà ngoại của vợ tôi (là bác của cô này), bèn đi xuống gần miền biển tìm một ông thầy cúng nghe nói rất cao tay. Đường đi thật vất vả, vì chỗ đó cách vài chục cây, mà chỉ có đi bộ, đến nơi chờ vài ngày thì ông ấy mới về. Nghe kể chuyện ông ấy không muốn đi, nhưng mà bà ngoại vợ tôi van nài quá nên cuối cùng thì ông ấy cũng đi. Vừa đến nhà, cô này nhảy bổ lại thì bị ông ấy lấy kiếm trừ tà chỉ vào mặt và quát cho một tiếng, nên ngồi phệt xuống. Nhưng mà hai con mắt long lên, tóc tai xoã ra trông rất khiếp. Đầu tiên ông sai người trói cô này lại, mà trói rất chặt. Sau đó cũng nói với cả nhà là cái hồn ma này là đàn ông, nó đã nhập sâu vào rồi, đại khái có chín vía thì nó đã bắt mất bốn vía rồi, nó chỉ bắt thêm một, hai vía nữa thì chắc chắn chết.

Tuy nhiên ông ấy cũng không dám chắc là có cứu được không. Rồi tiến hành cầu cúng hai ngày liên tục, đến ngày thứ ba ông ta đi chặt một bó roi bằng cành dâu (lấy lá cho tằm ăn) về, rồi bảo cả nhà ngồi sau ông để lấy roi vụt hết trong nhà (theo kiểu lần lượt sao cho không có khe hở nào trên nền nhà cả), rồi vụt bốn xung quanh nhà. Trong khi đó thì cô này rên rỉ, sùi bọt mép và chửi rủa hay kêu la rất khiếp. Sau cùng ông ấy nói với người nhà lôi cô này ra ngoài sân, buộc vào ghế dài và dùng roi dâu vụt liên tục, vừa vụt vừa lẩm bẩm gì đó. Rồi ông ấy nói với bố mẹ cô này lột áo sau lưng lên xem, nếu thấy đen kịt như bồ hóng (hắc ín) thì có nghĩa là hồn ma đã được đuổi đi, còn nếu không chắc chắn sẽ chết.

Bà mẹ lột áo lên thì thấy đen như nhọ nồi, còn cô này mê man không biết gì cả. Hôm sau cô này tỉnh lại, vết đen biến mất hoàn toàn, cô kêu đói và đòi ăn cháo. Mọi người hỏi thì bảo là không biết gì cả, mà chỉ nói là đêm đó ra ngoài bờ ruộng ngồi thì thấy có bóng đàn ông đi từ dưới mé sông lên, nhưng cô này vẫn thấy cái bóng này nhiều lần trước đó rồi nên cũng chẳng sợ. Vả lại cô cũng chẳng thiết sống nữa nên có ma cũng không sợ gì. Được một lúc thì nghe thấy dưới con mương (dẫn nước ở cạnh sông), có tiếng cá quẫy, nhìn xuống thì thấy có con cá chép rất to đang bơi, nên lội xuông đắp bờ để bắt. Có điều kỳ lạ là cứ dồn cá vào đầu mương này thì lại không thấy đâu mà lại thấy cả ở đầu kia, được một lúc cô thấy người mệt mỏi và lạnh toát còn cá thì biến mất.

Sau đó cô đi về nhà và không biết gì cả. Còn hỏi ông thầy cúng thì ông ấy nói là cái hồn này là của một người khách trú (Tầu), chết do đạn bắn, không nơi nương tựa, không người thờ cúng, vạ vật lâu ngày. Nó muốn bắt cô này để có người hầu hạ và lại sẽ được ăn ké theo suất thờ cúng của cô này. Về sau hỏi ra thì quả thật là vào trận can Dây lưng (Cinture?) của Pháp, có một người khách trú đi buôn qua đó bị đạn lạc, xác được chôn ở mé sông. Từ hôm mê mệt cho đến hôm tỉnh lại là gần ba tháng mà cô họ vợ tôi không hề ăn bất cứ cái gì mà cũng chẳng gầy đi.




Thanked by 2 Members:

#394 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/12/2011 - 04:09

CHUYỆN MA ÁM

Phần Hai

Để tiếp tục về chuyện người cô họ bất hạnh này tôi xin nhắc lại là làng quê vợ tôi nằm ở vùng tranh chấp giữa Việt Minh và Pháp vì thế bị chiến trận càn quét diễn ra rất nhiều. Vì thế đương nhiên ngoài việc người chết nhiều thì nhà cửa và chùa chiền cũng bị đốt trụi cả.

Nhiều năm sau cái chết của người chồng một đêm, cô họ vợ tôi lại tái giá lần nữa với một người thương binh nhẹ. Họ được ba người con, hai trai một gái. Cuộc sống gia đình của họ không có vấn đề gì: con cái tuy không học hành gì nhưng đều chịu khó làm ăn, họ sống khá tốt, thu hoạch từ đồng ruộng thì thừa ăn mà lợn gà cũng tốt vì thế họ cũng xây được nhà ngói, sân gạch... trong thời bao cấp thế là tốt lắm rồi. Mọi việc bình thường đến khi người chồng được cử làm xã đội trưởng, đây là một dạng chỉ huy dân quân của xã. Cũng chẳng có chuyện gì ghê gớm xẩy ra nếu không có vụ việc ông này chỉ huy dân quân phá sập một cái chùa do dân xây lại.

Xuất xứ là cái chùa này bị phá trong thời kỳ chống Pháp, chẳng ai để ý nữa cho đến khoảng cuối những năm tám mươi, do đời sống khá hơn thì người dân mới quyên tiền để xây lại trên nền chùa cũ một cái đền nhỏ và vì có tiếng là thiêng nên ngày rằm, mồng một có nhiều người đến lễ bái. Mê tín, dị đoan! Không được! Và thế là chính quyền vào cuộc, họ cho dân quân dưới sự chỉ đạo của chồng cô này phải phá sập cái miếu. Lệnh của xã đương nhiên là phải được thi hành. Khi ông này đưa dân quân đến hiện trường thì bà mẹ vợ tôi có mặt ở đó đã ra can ông này dù cho thế nào đi nữa cũng không được phá đền, ngoài ra ông anh trai ông này cũng đến nói là:

- Ngay cả chú không làm xã đội trưởng nữa cũng không được phá đền.

Tuy nhiên không hiểu vì sao ông này vẫn chỉ đạo phá sập cái đền này. Nhân đây tôi cũng xin kể qua một số việc liên quan đến cái đền này: khi chùa bị sập có một số người dân ở quanh đến lấy đá (đá xanh có khắc chữ nho) ở chùa về dùng cho nhà mình: như làm cầu ao, chuồng lợn... rồi sau đó cả mấy nhà đó nhà thì cả hai bố con bị chột mắt, nhà thì mấy người lăn ra ốm quặt quẹo, nhà thì có mấy người bị thần kinh... Vì thế mấy nhà này sợ quá vội đem đá trả lại chỗ cũ của chùa, mặc dù vậy sau đó họ còn chịu khá nhiều điều bất hạnh.

Sau đó, trong vòng vài năm thì tai hoạ dồn dập xảy đến với gia đình cô này: đầu tiên là lợn gà lăn đùng ra chết, nuôi mấy cũng không được; rồi ông chồng đột nhiên dẫm phải đinh, bị uốn ván rồi chết; đứa con gái đi lấy chồng thì bị đánh đập tàn nhẫn; con trai thì cả hai đứa đều nghiện ngập thuốc phiện, vợ không chịu được đều bỏ cả; cô này đột nhiên đang đi đường thì bị xe máy đâm, sau đó vết thương nhiễm trùng phải tháo bỏ một bàn tay; tóm lại là nhà cửa tan hoang không còn gì, thậm chí còn là nơi tụ tập của đám nghiện hút, cờ bạc, trộm cắp.

Tôi đã gặp cô này cách đây vài năm, khi cô ấy chăm sóc bà ngoại của vợ tôi, một cách khách quan mà nói thì đây là một người đàn bà chịu khó, nhẫn nhục và không có gì tỏ ra là ác độc hay ranh ma cả. Một kiếp người như vậy đấy!

Cuong



Thanked by 2 Members:

#395 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/12/2011 - 04:24

THẾ GIỚI ÂM

Về thế giới âm thế nào thì tôi không dám chắc lắm, tuy nhiên xin kể nguyên văn câu chuyện của bà mẹ vợ tôi. Ông bố vợ tôi mất lúc năm mươi tuổi, hồi còn sống ông là người đẹp trai và rất hào sảng vì thế bà mẹ vợ tôi yêu chiều ông lắm. Do nhà nghèo nên mắc bệnh hiểm nghèo mà ông không hề nói ra, nên từ lúc phát bệnh đến khi ông mất chỉ khoảng một tháng. Do vậy khi đó bà mẹ vợ tôi bị sốc nặng, không ăn uống gì và không thể đi dạy học được. Sau này bà nói lại với mọi người là nếu không vì con còn nhỏ (lúc đấy vợ tôi mới mười tuổi) thì chẳng còn thiết sống nữa. Tôi cũng nói luôn là bà mẹ vợ tôi bị bệnh tim khá nặng bị cao huyết áp, hở van tim, vì thế trong giai đoạn đó mà bà chịu được thì quả thật là giỏi.

Sau khi ông mất xong thì rất nhiều lần bà mẹ vợ tôi nhìn thấy chồng, cả ban ngày và ban đêm, thậm chí ở sân nhà liên tục trong nhiều tháng cứ tám giờ tối, là có một con đom đóm rất to bay vào sân theo một đường nhất định, đậu lên cái cây phi lao ở trước sân rồi quay về đậu ở trên vách nhà, mùa hè cũng như mùa đông (xin lưu ý là ở miền Bắc đom đóm chỉ có vào mùa hè).

Một đêm bà mẹ vợ tôi nằm ngủ thì thấy ông chồng về, ông mặc đúng bộ quần áo, tay cầm đúng cái chăn đắp cho ông lúc chết. Ông về rủ bà đi, khi đi ông còn dặn rằng:

- lát nữa đi qua đò có một bà già lắm điều lắm, nhưng bà ấy có chửi mắng gì thì cũng cứ kệ bà ấy.

Bà đi theo ông được một lúc lâu thì đến một con sông, không phải gọi là một con mương vì nó khá hẹp, có một cái thuyền đậu dọc theo con mương, trên thuyền có một bà già đầu trọc, mặc váy đụp kiểu cổ lắm. Điều kỳ lạ là nếu con thuyền này quay ngang ra thì thừa sức nối chiều dài của hai bờ mương. Bà già trên thuyền miệng không có răng mà chửi mắng rất ác. Đến sát bờ mương thì ông bố vợ tôi cứ giục bà lên thuyền, sau này bà kể lại là lúc đó quả thật cũng muốn bước lên thuyền vì bao nhiêu năm nay ông nói gì bà cũng nghe hết. Không biết tại sao lúc đó bà lại nhìn về phía sau và thấy trời chiều, mặt trời sắp tắt, chợt nghĩ là mình cần phải về vì lúc này không có nhà thì ai lo cơm nước cho con.

Vì thế bà nói với ông là:

- Thôi anh cứ đi em phải quay lại xem con thế nào.

Rồi mặc cho ông giục giã, bà đưa trả lại ông cái chăn rồi bước quay về. Đến đây thì chợt tỉnh giấc mơ.
Chuyện cũng tưởng quên đi nếu sau này không gặp một người thầy cúng, ông này nói:

- Đấy là sông sang cõi âm, nếu lúc đấy cô mà bước lên thuyền thì chắc chắn chết.

Mà có lẽ cũng đúng vì bà mẹ vợ tôi bị hở van tim, nếu rơi vào hôn mê nặng thì chắc chắn chết. Về bà già chở đò tôi có thêm một truyện khác để kiểm chứng, là trong làng có một người chết đã sắp nhập quan thì sống lại. Tỉnh lại ông này kể chuyện cũng đi đến một con mương như thế, gặp một bà già lái đò đầu trọc, móm và lắm điều như vậy. Ông này định sang đò thì thấy bà nội của vợ tôi (vì thế mới đến kể chuyện với nhà vợ tôi) bên kia mương mắng chửi rất ác, đồng thời còn nhặt cả hòn đất to để ném, vì thế ông này sợ quá mà phải quay lại.

Cuong



Thanked by 2 Members:

#396 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/12/2011 - 04:50

TRUYỀN THUYẾT GHÊ RỢN VỀ HỒ MA SHAMBHALA

Có vô vàn hồ nước tại Nga và các nước trong cộng đồng độc lập gắn liền với những lời đồn thổi và giai thoại kỳ bí liên quan tới tôn giáo. Một số trở thành nơi linh thiêng của người Cơ đốc, số khác thì được người dân địa phương thờ cúng từ thời xa xưa như là nơi hành lễ và các nghi thức khác. Các giai thoại hay được kể lại nhất là các nhà thờ bị chìm dưới đáy của các hồ. Người dân kể lại rằng có một nhà thờ nằm dưới đáy của hồ Svetloyar, tại thị trấn bí hiểm ở Kitezh, vùng Novgorod. Theo lời kể thì xa xưa, một lần nữ thần Turk đã cưỡi một con ngựa dũng mãnh đã tới đây và trừng phạt loài người vì các tội lỗi mà họ gây ra. Sau đó nữ thần đã biến cả vùng đất chìm trong biển nước bằng vó ngựa, cả vùng đất này trông giống như một hồ lớn. Sau này, khu vực bao quanh Kitezh mọc lên ở duyên hải của hồ.

Thời kỳ tiếp theo, khi Batu Khan, tức Bạt Đô, cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, xâm lược nước Nga, một tù nhân ở địa phương đã không chịu được đòn roi tra tấn, đã chỉ cho quân Tatar-Mông Cổ các lối đi bí mật đến thị trấn Kitezh. Nhưng người dân địa phương đã cầu nguyện, và thị trấn đã chìm xuống đáy hồ, cùng với ngựa và các nhà thờ. Một giai thoại khác thì nói rằng Kitezh đã chìm dưới nước từ thời ly khai. Tới nay, người dân địa phương và các du khách tới thăm khu vực này đều quả quyết rằng đôi khi, họ vẫn nghe thấy tiếng chuông nhà thờ vọng lên từ dưới đáy hồ.

Có lúc có người còn nói rằng họ nhìn thấy hoa văn của một nhà thờ phản chiếu qua làn nước. Nhiều người còn nói rằng nước trong hồ Svetloyar còn có khả năng chữa bệnh. Các nhà nghiên cứu đã đi tìm thị trấn dưới nước ở Kitezh mà truyền thuyết vẫn gọi là “Shambhala Nga” ("Shambhala" có nghĩa là vương quốc kỳ bí) nhưng không có kết quả gì. Có vẻ như chỉ có rất ít người nhìn thấy được thị trấn này.

Tại các hồ nước khác ở Nga cũng có những câu chuyện tương tự như vậy. Chẳng hạn như hồ Svyatovskoe ở vùng Tambov vốn hình thành nhờ nước mưa. Họ nói rằng hồ này không có đáy, vì khi thả dây cùng với vật nặng xuống hồ thì không bao giờ chạm tới tận cùng. Có rất nhiều người đánh cá đã bỏ xác tại đây. Một nhà thờ đã bị chìm xuống hồ, và giờ đôi khi mọi người vẫn có thể nghe thấy tiếng chuông vọng lên dưới mặt nước. Giai thoại kỳ bí về các nhà thờ bị chìm dưới nước còn được kể lại ở hồ Svetloye gần Zhukovka Vùng Bryansk. Từ dưới đáy hồ, nhiều lần mọi người nhìn thấy một luồng ánh sáng lạ lóe lên.

Ở Belarus cũng có một hồ nước chứa đầy kỳ bí, đó là hồ Grebenitskoe ở Vitebsk. Vào ngày 28.5.2004, một nhóm người trẻ tuổi từ làng Liozno đã liên hoan tại ven hồ và chụp hình. Không có điều gì bất thường xảy ra, nhưng khi ảnh chụp được rửa, ở một số tấm hình, người ta có thể nhìn thấy rõ đường nét của một ngôi nhà thờ với một vật như thể biểu tượng gì đó. Tuy nhiên, quanh khu vực hồ không có bất kỳ nhà thờ nào cả. Các bức ảnh này đã được chuyển tới tay một của một giáo viên lịch sử ở một trường học trong vùng. Giáo viên này đã tới Minsk để đưa các bức ảnh này cho các nhà nghiên cứu. Nhưng các nhà khoa học cũng không thể giải thích được hiện tượng trên. Các thầy tu đã gọi đó là “điều huyền diệu của Chúa”.

Sau khi hiện tượng kỳ lạ này lan ra, các nhà báo đã đổ xô tới hồ. Tuy nhiên, hầu như tất cả bọn họ đều gặp trục trặc với các thiết bị máy móc tại đây. Các trường hợp phổ biến khi nghiên cứu hiện tượng kỳ lạ này có thể được giải thích là do tại khu vực này có bức xạ điện từ quá lớn. Nhưng nhà thờ kỳ bí trong các tấm ảnh trên có ý nghĩa là gì? Tại khu vực này, từng có một sự tích về ngôi nhà thờ xưa kia bị rơi vào lòng đất. Nhà thờ này cách hồ 7km về phía bắc. Người dân kể lại rằng nhà thờ này bị rơi ngay trong lúc đang tiến hành lễ, cùng với những người cầu nguyện. Sau này, có lúc nó trồi lại lên mặt đất.

Một hôm, một cậu bé chăn cừu đã dẫm chân phải một hình chóp nhọn và bị thương ở chân. Những người nông dân sau đó đã cố gắng đào xới khu vực này lên, nhưng ngay khi họ nhìn thấy chóp của nhà thờ, nó lập tức lại rơi xuống lòng đất kéo theo cả những người nông dân đó. Tuy nhiên, cho tới giờ vẫn chưa ai giải thích được hình ảnh kỳ bí mà họ nhìn thấy được trên hồ. Cũng không loại trừ khả năng rằng những hình ảnh đó có thể được “phát ra” từ khoảng cách rất xa.

Ở ven bờ hồ Saint vùng Arkhangelsk, có các cây thánh giá Orthodox bằng gỗ được người dân quấn nhiều mảnh vải quanh đó. Người ta tin rằng nếu như mỗi mảnh vải được quấn lên cây thánh giá cùng với một điều ước, điều ước đó sẽ trở thành hiện thực. Tại khu tự trị Khanty-Mansi, có một hồ nước mà nhiều người cho rằng ở đó có một con rắn thiêng khổng lồ đáng sợ. Vào ngày nắng, vẩy của con rắn này lấp lánh trong ánh nắng mặt trời. Cho tới nay, những người Mansi vẫn tiến hành các nghi lễ tôn giáo trên hồ.


Lê Thu

Thanked by 1 Member:

#397 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/12/2011 - 12:01

KỲ BÍ CHUYỆN GIA CHỦ THỎA HIỆP VỚI MA

Kể về những câu chuyện bí ẩn xảy ra ngay trong chính ngôi nhà mình, ông Phạm Quang Tứ sinh năm 1954, ngụ thôn Hà My, xã Điện Dương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, một mực khẳng định:

- Tôi không hề mê tín dị đoan, tuy nhiên có những câu chuyện trong nhà tôi vì không ai có thể lý giải được, nên nếu không chấp nhận “sống chung với ma” thì cả nhà hoặc là bỏ nhà mà lang thang tay trắng, hoặc chết dần chết mòn vì hoang mang lo lắng. Những hành động mà tôi đã và đang làm cứ tưởng như… tâm thần này là giúp gia đình mình có một cuộc sống yên ổn.

Câu chuyện bắt đầu vào năm 1999, khi gia đình ông Tứ đã dành dụm được một khoản tiền kha khá và quyết tâm xây dựng một ngôi nhà tại xã Điện Dương để vợ chồng cùng bốn đứa con có một chốn đi về ấm cúng. Tuy nhiên, ngày ăn mừng ngôi nhà khang trang lại không thể nào diễn ra như dự định. Con lũ lịch sử năm ấy đã xô ập tường rào, làm sụt lún nền móng nhiều công trình phụ khác trong nhà… Buổi khánh thành nhà phải hoãn lại để sửa sang lại những chỗ hư hỏng, rồi buổi khánh thành cũng không diễn ra nữa mà chỉ có mâm cơm gọi là dọn về nhà mới.

Sau một khoảng thời gian cả nhà dọn về nơi ở mới, vợ chồng ông bỗng cảm nhận được nhiều lục đục bỗng dưng nảy sinh mà vốn trước đây ở trong căn nhà tranh vách đất họ chưa từng gặp. Cứ mỗi lần ông đi công tác xa về là bà vợ lại hục hặc vô lối, con cái cũng đâm ra hư hỏng, ăn chơi phá phách mà ba mẹ có dạy bảo cũng không nghe. Đỉnh điểm của những nỗi đau và rắc rối ập đến, ông Tứ gọi như vậy là vào năm 2003. Ngay ngày đầu năm, ông bị tai nạn giao thông nhưng lý do thì hết sức trời ơi. Khi đó ông đã cẩn thận đi bộ men theo sát lề đường tránh xe cộ nhưng chiếc xe gây tai nạn thì lại cố tình leo lề tông trúng phải ông rồi thản nhiên chạy về lòng đường và chạy mất tích, không ai phát hiện ra chiếc xe đó màu gì, người cầm lái có đặc điểm như thế nào. Đã đang ấm ức vì tai nạn trên trời rơi xuống khiến ngày đầu năm đã phải nằm viện điều trị, gia đình lại tiếp tục gặp vận đen khi vợ ông bỗng nhiên nổi cơn đau viêm đường ruột cấp tính và theo chồng nhập viện.

- Gia đình tôi cứ như loạn hết cả lên khi hai người trụ cột lo kinh tế gia đình, chăm con ăn học thì đều đã nằm một chỗ bất động, ông Tứ nhớ lại.

Tai họa chưa buông tha gia đình này. Khi vợ chồng vừa gượng ngồi dậy được thì bàng hoàng nhận được tin dữ bay đến từ Quy Nhơn. Đứa con trai của ông bà sinh năm 1982 khi ấy đang học tại một trường đại học ở đây ngày thường thì hiền như đất, bỗng hôm đó gây hấn với người khác nên bị đâm một nhát vào ngực đang cấp cứu trong bệnh viện. Tức tốc gom góp vay mượn tiền bạc, hai vợ chồng dìu nhau lên xe vào Quy Nhơn lo cứu chữa cho con. Điều lạ lùng mà đến bây giờ khi nhớ lại, ông Tứ vẫn không khỏi rùng mình lẫn thở phào: Bị đâm nhưng con trai ông vẫn còn may mắn nên thoát khỏi bàn tay tử thần. Con dao gây án là một con dao cực bén, thế nên khi mũi dao chạm lồng ngực con trai ông thì xuyên qua xương sườn.

- Bác sĩ nói hôm đó nếu là con dao cùn thì sẽ trượt xương sườn mà thấu vào tim và con tôi sẽ cầm chắc cái chết, ông Tứ thuật lại.

Những tai họa liên tiếp giáng xuống không chỉ khiến các thành viên trong gia đình mệt mỏi mà còn hao tốn tiền của và chỉ biết trách số phận. Đều là những tai nạn nên khi đó ông Tứ chẳng mảy may suy nghĩ đến vấn đề ma tà quỷ quái mà trước sau chỉ khẳng định đó là vận đen. Quan niệm này của ông sau đó ít ngày đã lung lay vì những chuyện lạ khác tiếp tục kéo đến. Ít ngày sau khi bị đâm xuyên cái xương sườn nên may mắn thoát chết, con trai ông về thăm nhà và rủ bạn là anh Phạm Anh Tuấn sinh năm 1980, ngụ tỉnh Kon Tum, cùng về chơi. Đối với người xứ Quảng, tính hiếu khách là điều có thừa nên sau khi cho con trai cùng bạn tự nhiên ăn uống, vui chơi, ông Tứ bố trí cho bạn của con trai ở trong căn phòng trên tầng hai, nơi mà các con ông dành để học bài.

Sáng hôm sau, khi gọi khách dậy đánh răng rửa mặt ăn sáng, cả chục lần gọi mà không thấy thưa nên ông vào lay người khách. Không có tiếng đáp trả mà chỉ thấy người khách cứng đơ. Thì ra khách đến chơi nhà trong đêm đầu tiên đã chết bất đắc kỳ tử, không khi nào tỉnh lại. Công an lúc ấy đến nhà khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi điều tra nguyên nhân cái chết của nạn nhân đã nhanh chóng xác định người này đột tử vì cảm gió. Thế nhưng lời khai của con trai ông Tứ khiến nhiều người không lý giải được về lý do dẫn đến mối quan hệ thân thiết giữa anh và nạn nhân. Con trai ông khi đó cho biết:

- Tuy học khóa trên và hơn tôi hai tuổi, thông thường thì ít khi sinh viên khác khóa chơi với nhau, nhưng tôi và anh Tuấn lại tình cờ gặp và khá thân thiết nhau, quý nhau như anh em. Trước đó anh Tuấn khá khỏe mạnh và không có tiền sử bệnh gì. Việc anh theo tôi về thăm nhà cũng hoàn toàn ngẫu nhiên. Khi thấy tôi có ý định về nhà, tự nhiên anh cũng mang ba lô đến xin đi cùng chứ anh em không bàn tính trước.

Cũng theo lời khai của con trai ông Tứ:

- Tối ấy, trước khi đi ngủ tôi có rủ anh đi uống cà phê nhưng anh từ chối và bảo “Thích ở nhà với ba má”. Nghe câu trả lời này tôi rất ngạc nhiên nhưng không hỏi vì nghĩ có khi anh quý mình, coi ba mẹ mình như bậc cha mẹ anh ấy nên mới nói thế. Rồi không hiểu vì sau, nói xong câu đó anh vào phòng nằm và không thức dậy lần nào nữa.

Sau khi sự việc xảy ra, gia đình nạn nhân vội vã từ Kom Tum xuống nhận xác con cũng không có cớ gì để gây khó dễ cho gia đình ông Tứ vì cái chết chỉ là tai nạn. Song có lẽ trong mắt họ lúc bấy giờ, gia đình ông Tứ cứ như tội đồ vì đứa con trai của họ đã đen đủi chết trẻ trong căn nhà ông, bị ám cái dây đen gia đình nhà ông. Những chuyện không may tiếp tục đeo bám căn nhà này vì chưa đầy một tuần sau khi gia đình nạn nhân nhận xác con để đưa về quê an táng, ba mẹ Tuấn tiếp tục quay lại nhà ông Tứ để cầu siêu và xin đưa “hồn” Tuấn theo xác. Thế nhưng những chuyện mâu thuẫn mới vừa phát sinh của hai gia đình bỗng nhiên quay ngoắt 180 độ thay đổi theo hướng trở thành thân thiện, khi bất ngờ “hồn” Tuấn không chịu theo xác về cùng ba mẹ ruột.

Ông thầy cúng đi cùng gia đình nạn nhân sau khi làm lễ cầu an, cầu siêu, xin kêu (thảy đồng xu, một tập tục cúng bái theo quan niệm mê tín để hỏi xem người chết có đồng ý hay không, bỗng phán:

- Nó thấy cả nhà mình xuống nên lẩn tránh không chịu về. Nó nói rằng vốn là con của ông bà Tứ, trước đây được đầu thai và phải mượn tạm xác để sống cùng nhà ông bà trên Kon Tum. Nay khi cần yên nghỉ thì Tuấn muốn về lại ngay nhà ba mẹ ruột của mình. Bây giờ Tuấn chỉ ở đây chứ không theo xác đi đâu cả.

Cả hai bên gia đình khi nghe đến đây đều điếng hồn nhưng khi ngẫm lại họ mới thấy có nhiều điều trùng hợp: Tuấn cũng mang họ Phạm như ông Tứ, ngày Tuấn còn ở Kon Tum chưa đi học, gia đình Tuấn cũng đôi lần thấy con trai nói về chuyện sẽ đi Quảng Nam để tìm người thân ở đó, nhưng người cha lúc này không hề để ý đến vì nghĩ con mình học hành xa, có quen biết, kết thân người ở nơi khác cũng là chuyện thường. Vậy là sau khi bàn bạc với nhau, hai bên gia đình chọn giải pháp cho nạn nhân “hồn một nơi, xác một nơi” để ông Tứ thờ cúng cho Tuấn và coi cậu sinh viên trước đây là người dưng nay thành… con trong nhà. Cứ cách năm một, gia đình trên Kon Tum và nhà ông Tứ lại thay phiên nhau làm giỗ to cho con, bên kia sẽ từ Kom Tum xuống Quảng Nam để thắp nén nhang cho hương hồn con, hoặc bên này lại từ Quảng Nam chạy ngược Kom Tum lên để dọn cỏ, quét tước mộ, thay bát nước trên mộ “con đầu thai”.

Dành riêng một tầng lầu làm nhà cho… ma, rồi ký giao kèo với ma có nội dung “cùng sống chung yên ổn dưới một mái nhà” thì có lẽ trên cả nước Việt Nam chỉ có mình gia đình ông Tứ. Những câu chuyện của người đàn ông này kể về sự lạ trong nhà mình đầy những tình tiết khó lý giải khiến người bạo gan cũng cảm thấy rờn rợn.. Liên tiếp xảy ra những bất trắc nhưng vốn không tin vào những chuyện ma quái nhảm nhí, mê tín dị đoan nên ông Tứ đã gạt phăng những bán tín, bán nghi của một số người trong gia đình: Lẽ nào trong nhà có ma. Ông Tứ nửa thật nửa đùa:

- Nhưng có lẽ trời không chịu đất thì đất phải chịu trời, nếu có ma thì lúc đó chắc chúng thấy tôi cứng đầu quá nên tự tìm đến đối chất với tôi.

Mệt phờ người sau chuỗi ngày tai ương, khi chưa kịp nghỉ lại sức sau hết những chuyện bệnh tật, án từ, người chết rồi “con đầu thai” thì một buổi trưa, chuyện lạ lại tiếp tục tìm đến. Chuyện là trưa ấy, chị Võ Thị Phước hai mươi bảy tuổi, em vợ của ông Tứ, đang là giáo viên của một trường tiểu học trong xã bất ngờ ghé nhà chơi. Trước đây bà dì chẳng bao giờ bén mảng vào phòng của anh rể, nhưng không hiểu sao hôm ấy chị Phước cứ nhơn nhơn tiến thẳng đến phòng ông anh. Vừa bước vào phòng, chị đã la lối, quát tháo ông Tứ và cả nhà khiến ai nấy cũng đều kinh ngạc. Nói một hồi, Phước lại đi tìm trầu để ăn là điều lạ lùng đối với một cô gái trẻ, miệng liên tục bỏm bẻm trầu khiến nước miếng tứa ra cả hai bên khóe miệng. Lạ hơn nữa là cô gái chưa từng ăn trầu này dù ăn cả chục miếng trầu mà không nhổ nước đi nhưng vẫn không hề bị say.

Phước tự xưng là bà, ta, gọi mọi người trong nhà là nhà ngươi, rồi ra lệnh cho ông Tứ đến để nói chuyện. Phần ông Tứ, lúc này cũng có uống một chút rượu nên nóng mặt phừng phừng, hơn nữa nghĩ nó là bà dì của mình, ngày thường quát một câu đã chực khóc nên sợ gì nó, như lời ông kể lại. Ông Tứ liền kéo ghế ngồi đối diện chuyện trò. Lúc ấy, cô gái Phước xưng bà và cho rằng bà chính là một trong năm người đã chết ở khu đất bên cạnh, đang nằm yên ổn thì nhà người quấy rầy.

- Vậy tôi quấy rầy gì bà?.

- Lại còn cãi à? Khi làm nhà, nhà ngươi đã hốt đất có nắm xương của chúng ta cho vào nền nhà. Bây giờ bà yêu cầu cả nhà chúng bay phải đến nơi khác mà ở. Nhà này thuộc về bà rồi. Nếu không đi thì cả nhà nhà người sẽ liên tiếp gặp những chuyện chẳng lành.

Phát hoảng vì căn nhà cả đời dành dụm xây dựng có nguy cơ bị mất, ông Tứ kể lại khi ấy chẳng cần tin hay không tin chuyện có ma mà cứ gân cổ cãi chày cãi cối:

- Nếu là người cõi âm thì có nhiều cách để báo cho tôi trước khi làm nhà chứ tại sao để đến lúc này rồi mới cho biết. Cái sai thuộc về bà nên bà ráng chịu, đừng có xử ép nhà tôi.

Cuộc cãi vã giữa ông chủ nhà và cô gái ma nhập cứ thế kéo dài cả nửa tiếng đồng hồ mà bất phân thắng bại. Ông chủ nhà bạo gan này cuối cùng cũng tìm ra phương thức hài hòa nhất:

- Thôi, bà lấy phấn vẽ cho tôi khu vực nào bà đang nằm thì tôi xúc đất đưa đi nơi khác. Thể xác của thổ thì hoàn thổ là xong chứ sao.

Tuy nhiên, ông Tứ kể lại:

- Khi đó cô em vợ bị lảm nhảm cũng cho rằng phần trả lại chỉ là thể xác, còn vong hồn thì vẫn nằm trong ngôi nhà của tôi nên tôi mới đưa thêm ý kiến gia đình sẽ dành một không gian riêng cho các hồn ma cùng ở trong ngôi nhà này và sẽ được gia đình thờ cúng đàng hoàng.

Sau khi “con ma” đồng ý cầm phấn vẽ khu vực đất trong nhà phải đổ đi và trả lại thể xác cho Phước, cô em vợ lăn đùng ra ngất xỉu. Cả tiếng đồng hồ sau cô mới mở mắt ngơ ngác nhưng không hề nhớ hay biết gì về điều đã xảy ra. Cũng theo ông Tứ, không chỉ dừng lại ở đây, “con ma” còn có lần hiện về bày cho ông cách… chữa phong thủy xấu. Chuyện là khu đất vốn là nền nhà ông trước đây có một cái giếng. Khi xây nhà, ông đã không lấp giếng đi mà chỉ đúc một tấm bê tông để đậy lên miệng giếng rồi xây nhà ở lên trên. Chính vì việc làm trái khoáy này mà có lẽ phong thủy nhà ông có vấn đề. Thêm một lần đến chơi nhà anh rể, chị Phước lại bị ma mượn xác để chỉ dạy cho ông Tứ cách nối một ống nhựa để thông khí vào giếng dưới nền nhà, rồi nối tiếp một ống nhựa nữa lên trời để đón ánh sáng.

- Có như vậy, gia đình nhà ngươi mới đầm ấm, ăn nên làm ra và tránh những điều thị phi cũng như con cái học hành ngoan ngoãn, cô gái bị ma nhập khi đó giảng giải tinh vi.

Đưa chúng tôi đi một vòng quanh nhà, ông Tứ cứ một mực:

- Có những điều mà ta không thể lý giải nổi nên giải pháp cuối cùng là sống chung trong hòa bình. Mà thật ra tôi cũng chỉ cần có thế thôi, được yên ổn là điều hạnh phúc.

Tầng hai của căn nhà rộng khoảng 80m2 là nơi gia đình ông Tứ hoàn toàn dành cho những người thuộc về “thế giới của cõi trên” sinh hoạt. Bắt gặp đầu tiên là căn phòng nơi người khách đến chơi lần đầu tiên rồi chết bất đắc kỳ tử, đến nay vẫn giữ nguyên với chăn nệm, chiếu gối xếp ngay ngắn. Mở một cánh cửa đi vào tiếp là nơi thờ Phật và thờ nạn nhân. Căn phòng phía sau là phần thờ gia tiên trong dòng họ. Riêng khoảng không gian rộng rãi phía trước, ông dành làm nơi ở của những hương hồn từng nhập về báo ứng, cùng với một am thờ nhỏ. Đi đến đâu, ông cũng lầm rầm khấn vái, xin cho “người lạ” được lên nơi ở của “các vị” tìm hiểu, tham quan, rồi sau đó mới quay sang giải thích từng nơi thờ riêng. Lý do thờ Phật ông Tứ đưa ra là làm theo ý kiến của người thầy cầu an và gọi hồn Tuấn năm xưa chỉ dẫn, để có vị cầm cương trong ngôi nhà, không cho những hồn ma được tác oai tác quái…

Ông Tứ cũng cho biết, lúc mới lập khu dành riêng để thờ tự này, vợ và con cái ông sợ xanh mắt mèo, nên không ai chịu ở trong nhà, kiên quyết “thôi ma ở thì mình bỏ nhà đi chỗ khác”. Thế nhưng, sau đó do vợ ông phần thì chẳng biết đi đâu, phần thì liên tục chiêm bao thấy khi thì nạn nhân trở về kể vốn là con ruột của bà nên mọi người trong nhà không phải lo lắng sợ hãi; khi thì trấn an rằng những “hồn ma” mà ông Tứ đã từng lỡ tay xúc vào nhà cũng không có phá phách… nên bà vợ ông Tứ cũng dần dần bớt sợ hơn. Bà vợ nay cũng mê tín nên thường xuyên hương khói, xem những “người cõi trên” như người một nhà, là “thành viên” của gia đình bà. Con cháu mỗi khi vào chơi đều được bà căn dặn lên trên “chào” hết các cô, các chú, chào anh Tuấn… rồi mới được xuống nhà đi đâu thì đi.

Ngồi kể lại những bất trắc đã trải qua khiến gia đình khốn đốn, bất giác ông bà Tứ thở dài:

- Cũng có thể chẳng có ma mà đó chỉ là những tai ương liên tiếp không buông tha, chỉ là cô em bỗng nhiên nói lảm nhảm vì say nắng, nhưng chúng tôi vẫn lựa chọn cách này, thôi thì có bị xem là mê tín hay gì đấy cũng được, miễn sao những người trong gia đình thấy yên ổn để chí thú làm ăn, sinh sống hòa thuận. Người chết thì đã chết rồi và người sống đã lo vẹn toàn rồi, thì nay phải lo cho người sống mới là điều quan trọng.

Dân làng thì người sợ sệt, cứ khi đi qua nhà ông lại nổi da gà, cũng có người cười chê rằng thế kỷ XXI còn đâu quan niệm ma quái nên ông bà Tứ rõ ràng là những người mê tín dị đoan.

Vân Anh

Thanked by 2 Members:

#398 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 22/12/2011 - 03:43

KỲ BÍ NGÔI ĐÌNH CÓ NHỮNG CỔ VẬT BẤT KHẢ XÂM PHẠM

Người làng Xuân Đỗ, phường Cự Khối, quận Long Biên, Hà Nội, từ nhiều năm nay vẫn truyền tai nhau những câu chuyện lạ lùng về ngôi đình làng nổi tiếng thiêng nhất vùng. Nhiều vụ trộm đã xảy ra tại đây nhưng kỳ lạ thay, cứ vài bữa sau khi mất thì đồ bị trộm thế nào cũng được những đối tượng hành nghề “hai ngón” trả lại vì sợ hãi.

Sử làng còn chép, cách đây đã hai ngàn năm, thưở xưa làng Xuân Đỗ có sáu giáp nhỏ heo hắt nằm dọc bờ sông Hồng. Năm ấy có vị tướng giỏi của Hai Bà Trưng là Đào Khỏa Ba Sơn, sinh năm hai mươi bảy sau công nguyên, chỉ huy năm trăm binh sĩ trên đường tiến đánh thành Luy Lâu, tỉnh Hà Bắc cũ nay là tỉnh Bắc Ninh, đã dừng chân nghỉ lại bên miếu thờ công chúa con gái Lạc Long Quân. Đêm đó, điềm lạ đã đến khi công chúa hiển linh báo mộng với vị tướng rằng:

- Nếu đánh thắng quân giặc thì sẽ cùng cho về trời.

Sớm ngày hôm sau, vị tướng tài xuất quân đầy khí thế và chẳng mấy chốc thành giặc đã tan tành xác pháo. Nhớ lời báo mộng của công chúa đêm hôm trước, vị tướng lệnh lui quân về bên miếu báo tin vui cho dân làng và mở tiệc khao quân tại một cánh đồng. Liền đêm hôm đó, trước sự chứng kiến của mọi người, vị tướng từ từ biến thành đám mây màu hồng thác lên trời. Từ đó cánh đồng xưa có tên gọi là vườn hồng, còn nhớ ơn công lao vị tướng tài đã có công diệt giặc, dân làng đã xây đình Xuân Đỗ, tôn ngài làm Thành Hoàng làng.

Hàng ngàn năm, ngôi đình thờ vị tướng năm nào vẫn sừng sững dù đã trải qua bao thăng trầm biến cố. Ghé chân quán ven đường trước cửa đình, người phụ nữ bán quán không chút ngần ngại khẳng định chắc chắn:

- Đã năm mươi tuổi đời, cũng đi nhiều nơi nhưng tôi không thấy đâu có ngôi đình thiêng như làng tôi.

Trước tiên, chị chứng minh sự linh thiêng của đình bằng dẫn chứng “kiệu bay” trong hội làng mùng 9-10/2âm lịch hàng năm. Theo sự mô tả của người phụ nữ này, chiếc kiệu bát cống nặng cả ngàn cân, thế mà chỉ cần "ngài" nhập vào thì sẽ nhẹ chẳng khác như kiệu giấy, bốn thanh niên lúc đó chân tay cứ dẻo như kẹo, múa may xoay tít như ngựa phi trên đường làng. Khối lần cả người cả kiệu xoay xuống ao đình; thế nhưng dù trời lạnh cắt da cắt thịt, nước ngập tới cổ mà bỗng chốc cả người cả kiệu lại nhảy phốc từ dưới ao qua bức tường bao cao cả hai mét lên đường mà không ai hề hấn gì, cũng không đồ cúng lễ nào rơi vãi, chị cho biết.

Người dân trong làng cho biết, sợ nhất là ai trong đoàn lễ vô tình hoặc cố ý báng bổ sẽ cũng đều bị thánh vật, bị ngài hành làm chiếc kiệu bỗng nặng cả ngàn cân, trĩu người không lê chân được trong khi người bên cạnh thì vẫn… chạy như bay. Kiểm chứng câu chuyện, chúng tôi tìm gặp ông Nguyễn Khắc Chứ sáu mươi tuổi, Trưởng tiểu ban quản lý di tích đình, thì cũng được khẳng định đó là câu chuyện thật. Ông Chứ cho biết, từ xưa tục làng đã vậy, mỗi năm một lần trước ngày hội mười ngày, làng sẽ lựa chọn những thanh niên ưu tú để tham gia rước kiệu "ngài". Trong thời gian này, tất cả những người rước kiệu đều không được ăn tỏi, hành, đồ ăn mặn và tuyệt nhiên kiêng kỵ chuyện tình cảm.

Thế nhưng những câu chuyện đặc sắc nhất về ngôi đình, theo ông Chứ phải là chuyện những món đồ tại đây không thể bị mất, dù tương đối quý hiếm và đình cũng không canh phòng cẩn mật. Thời xưa, đình làng có đôi quạt ngà một không ai rất quý giá, được xem là bảo vật của cả làng nhưng không may một lần đạo chích viếng thăm đã cuỗm đi khiến cả dân làng tiếc ngẩn ngơ. Bẵng đi một thời gian, tự dưng người từ một ngôi chùa cách làng năm, sáu cây số bắn tin về báo đến nhận lại đôi quạt ngà của đình làng đang thất lạc ở đó. Tin lạ loang nhanh cả làng, các cụ bô lão liền tất tưởi tới xem thì được sư thầy ở chùa đó cho biết có người tự dưng mang đôi quạt ngà đến để ở chùa nhờ trả hộ. Rồi vào những năm 1970, trong một lần tu sửa đình có một kẻ gian tự mang nộp chiếc đỉnh đồng mà hắn đã ăn trộm trước đó. Ông Chứ cười khà:

- Tôi đoán chắc do kẻ gian đã lấy trộm nhưng rồi rốt cuộc cũng gặp không ít những chuyện chẳng lành nên sợ quá mà đem trả lại thôi. Thành làng tôi thiêng lắm, không để kẻ gian toại ý đâu.

Rồi lần mất trộm gần đây nhất cách đây ba năm, ông Chứ vẫn nhớ buổi sáng hôm đó khi cụ từ trông đình mở cửa đền thờ thì phát hiện toàn bộ đồ đồng gồm đỉnh đồng, chuông, khánh... không cánh mà bay. Tin động trời ấy chẳng chốc loang khắp cả làng xóm, ai cũng hoang mang nhưng rồi lại một lần nữa chuyện đồ đạc bị mất tự nhiên quay lại lại xảy ra. Gần một năm sau cụ từ bỗng phát hiện một bao tải lạ được đặt ngay ngắn ở sân đình. Gọi các cụ trong làng đến xem thì quả thực toàn bộ đồ lễ đã mất nay được trả lại đầy đủ trước sự vui mừng khôn tả của cả làng. Ông Chứ tự hào:

- Trong đình cũng còn rất nhiều vật dụng quý giá, thậm chí có cả dát vàng nhưng mảy may chẳng kẻ trộm nào đủ gan để lấy đi.

Theo dân làng, ngài hiển linh còn… xua đuổi được quân thù. Những năm giặc Pháp xâm lược, một ngày cuối năm 1946 một nhóm giặc Pháp kéo đến chiếm đóng trong đình bất chấp sự phản đối của dân làng. Đêm hôm đó, trong đình không biết đã xảy ra điều lạ gì người trong làng chỉ thấy đám lính cứ nhộn nhạo, kẻ thì la hét, người ngã méo xẹo mồm miệng, đến sáng hôm sau ra thì đã thấy chúng cuốn xéo đi hết không còn một tên. Thấy vậy, người trong làng khấp khởi mừng đồn đại ngài đã hiển linh đuổi lũ giặc bảo vệ dân làng.

Nói về sự lạ của đình làng, ông Chứ cũng không thể nhớ hết có bao nhiêu chuyện nữa. Mới đây, chẳng hiểu sao có cháu bé người làng khác đến chơi, xuống ao trước đình nghịch ngợm rồi không hiểu sao thằng bé khốn khổ cứ nổi bồng bềnh ở giữa ao không tài nào bơi được vào bờ. Hoảng quá, người nhà cháu bé đến phải vào đình làm lễ vái van xin thì đứa bé mới bơi vào bờ được. Còn có những chuyện cách đây ít năm, có người trong làng trèo cây doi trong đình hái quả không may làm gãy cành, thế là người cứ dính tịt trên cây không thể xuống được, người nhà lại phải vào đình vái xin ngài tha cho. Kể là vậy, nhưng ông Chứ cười xòa cho biết thêm:

- Thánh thiêng là vậy nhưng từ trước đến nay cũng không hành ai đến mức thập tử nhất sinh bao giờ, biết mà vào xin khấn tội thì ngài ắt sẽ xá cho.

Điều lạ là dù những câu chuyện nhuốm màu tâm linh ly kỳ đến mấy thì từ hàng trăm năm nay, không ai bảo ai người làng Xuân Đỗ cứ truyền từ đời này sang đời khác. Dân làng Xuân Đỗ vẫn tin đó là chuyện có thực, người ta cho rằng những câu chuyện đó trước tiên để thể hiện lòng tôn kính với Thành Hoàng, sau nữ để cảm hóa, giáo dục con cháu phải biết thờ tụng tôn kính những bậc cha ông ngày xưa đã dựng làng giữ nước để con cháu có những miền quê bình yên, trù phú như ngày nay.


PLTD


Thanked by 2 Members:

#399 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 23/12/2011 - 08:07

CAO THỦ GIẢI BÙA

Đó là ông Hoàng Phúc Vậy, năm mươi tám tuổi người dân tộc Tày ở bản Đon, xã Nghĩa Đô, Bảo Yên, Lào cai. Ngoài biệt danh ấy ra, ông còn là một thầy Tào chuyên nói chuyện với người âm. Gặp chúng tôi trong bộ trang phục của thầy Tào kể về cái nghề nói không ai tin, ông Vậy khề khà về công việc giải bùa huyền bí này.

Trong phong tục tập quán của người dân tộc, ma cà rồng (ma gà) là loại ăn sống cũng được, ăn chín cũng xong. Loại ma này thực chất là vía của một nhóm người biến thành, người ta quan niệm ma cà rồng không làm cho người chết được. Nhưng khi nó nhập vào người nào thì người đó bị ốm yếu, đau đớn triền miên, tinh thần hoảng loạn, gia đình sẽ bị khuynh gia bại sản dẫn đến đổ vỡ. Ma cà rồng muốn hại người thì phải bán “khoăn” (vía) cho quỷ để đổi lấy cái mà nó cần. Theo ông Vậy, ma cà rồng chẳng khác gì những kẻ nổi loạn của loài người, con ma này thường xúi bẩy cho làng xóm mất đoàn kết, gia đình lục đục. Để đối phó với loại ma này, thầy cúng phải mời đến một loại ma khác là “ma cao công” đến mới trị nổi vì nó là anh em ruột thịt với vua Xích Ca.

Hiện nay, người Tày khắp nơi vẫn cho rằng bản Đon là thung lũng sống của ma cà rồng, và đó cũng là nơi sinh ra các thầy phá bùa giỏi nhất để trừ ma diệt quái. Trước khi trở thành một cao thủ phá bùa, ông Vậy từng là thầy bỏ bùa nổi tiếng. Ông bảo, có nhiều loại bùa như: bùa yêu, bùa ghét, bùa phát, bùa diệt… Mỗi loại bùa tương ứng với một loại thần chú và một con ma. Để bỏ bùa không hề đơn giản, người bỏ bùa sẽ bị nguy hiểm nếu không am hiểu pháp thuật. Sau nhiều năm tháng chứng kiến cảnh người dân bị bỏ bùa, ông Vậy quyết định chuyển sang phá bùa giúp người. Tính đến nay, ông Vậy đã phá bùa được cho hàng nghìn người bị hại. Từ những trường hợp thường xuyên ốm yếu, điên khùng đến những thanh niên bị bỏ bùa yêu… họ đã tìm đến ông Vậy nhờ hóa giải.

Lễ vật giải bùa khá cầu kỳ, ngoài một con gà và con lợn nhỏ, còn có một món cỗ tạp là thịt sống nhuộm máu gà, một bát tiết tươi, củ nâu, chuối xanh thái lát nhuộm máu. Các thứ ấy bày thành một mâm cỗ tạp đặt cạnh mâm gà và đầu lợn. Địa điểm đặt mâm ở một góc ngoài của ngôi nhà. Ông Vậy cho biết, mỗi loại bùa đều có một con ma nên không thể đưa mâm cỗ vào nhà, khi hành lễ phải mời khéo con ma về nhận lễ. Khi con ma này đi ra khỏi nhà, thầy phá bùa phải dùng thần chú yểm không cho nó quậy phá. Trong bài cúng giải bùa phải mời tổ thư, pháp thư, binh thư, binh mã… đến nhà sau đó đọc thần chú xin quẻ. Tuy nhiên, cũng có những kiểu phá bùa đơn giản bằng cách dùng mẹo dân gian, chứ không cần thiết phải lễ vật hay thần chú.

Trong các cuộc phá bùa, đệ nhất cao thủ này không ít lần thoát chết vì sức mạnh siêu nhiên do bùa ngải gây ra. Cách đây ba năm có trường hợp của chị Nguyễn Thị Đào bị bùa làm cho điên dại, suốt ngày chỉ khóc lóc, chửi rủa, gia đình đưa đi chạy chữa khắp các bệnh viện nhưng không thuyên giảm. Không còn cách nào, chồng chị Đào đã tìm đến cao thủ bản Đon để xin ông giải giúp. Vì bùa chú chị Đào dính phải thuộc dòng sừng sỏ hiểm hóc nên trong lúc giải, bùa chú ấy đã vật lại cả ông Vậy. Hai lần giải, ông Vậy đều thất bại, chỉ có thể giúp chị Đào bình thường được một hai ngày rồi lại tái phát. Giải đi giải lại mấy lần, cuối cùng ông phải mời tất cả anh em họ hàng của chị Đào trực tiếp làm lễ. Từ đó đến nay chị Đào đã bình phục hoàn toàn.

Nghề thầy bùa thường là cha truyền con nối. Ông Vậy là đời thứ tư trong gia đình theo nghề này, khi còn sống bố của ông cũng là một cao thủ giải bùa có tiếng ở miền Bắc những năm 1970. Đến nay, ông Vậy hành nghề được hơn ba mươi năm, đã lặn lội khắp các bản làng để giải bùa. Từ đó, ông đã thu thập được nhiều cách giải bùa khác nhau và những câu thần chú có một không hai trong thế giới bùa ngải. Đến nay tuổi đã như mặt trời xế núi, sức trai bản điền đã hết, ông đang đi tìm một đệ tử chí nghĩa có thể đón nhận từ ông kho pháp thuật huyền bí.

- Nhưng ai dám theo nghề tôi? Nghề giải bùa nguy hiểm gấp vạn lần so với việc đi bỏ bùa. Tôi cần một người có tâm và rất thông minh để truyền nghề. Ông Vậy cho hay.

Hiện chưa có khảo cứu khoa học nào về bùa ngải. Các nhà nghiên cứu cho rằng, những người đi xin bùa thường có ý thức giải quyết những vướng mắc của mình. Bùa chỉ giúp họ củng cố niềm tin, yên tâm hơn trong những sự việc không hay đang xảy đến cho gia đình. Do vậy nên nhìn nhận bùa ngải dưới góc độ văn hóa dân gian với tư cách là một hiện tượng tồn tại từ rất lâu trong đời sống của bà con dân tộc và loại trừ các quan điểm mê tín dị đoan.


Nam Trần



Thanked by 2 Members:

#400 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 27/12/2011 - 12:49

MƯỜI HAI NĂM ĐIÊN LOẠN VÌ NGƯỜI ÂM BÁO OÁN

Suốt mười hai năm những kẻ đào trộm mộ dật dờ sống với cảm giác luôn luôn có những bóng ma bám mình... Sau cái đêm vì tham tiền mà đi đào trộm ngôi mộ cổ giữa cánh đồng rồi sợ vãi linh hồn khi gặp dòng nước năm màu xanh đỏ tím vàng chảy ra từ áo quan, nhóm thanh niên đào trộm mộ tự nhận mình đã tàn đời. Một người thì liên tiếp gặp tai ương, gia đình ly tán bỏ làng đi lang thang không biết còn sống hay chết; người dật dờ sống với cảm giác luôn luôn có những bóng ma bám mình. Ma ám thì chỉ là những lời đồn thổi, nhưng sự dằn vặt lương tâm đến phát điên thì có thật với những chàng trai từng lỡ dại có hành vi táng tận lương tâm này.

Nằm bên dòng sông Nhuệ, làng Từ Châu xã Liên Châu, huyện Thanh Oai, Hà Nội, có cuộc sống luôn bình lặng như dòng Nhuệ Giang hiền hòa chảy quanh làng. Thế mà cách đây hơn chục năm, đã xảy ra một vụ án khủng khiếp còn được kể cho đến tận bây giờ. Không có đốt nhà giết người, không máu chảy đầu rơi, nhưng đó là tội ác thuộc loại táng tận lương tâm: Đào trộm mồ mả, làm cho người chết cũng không được yên thân. Bấy giờ, trên cánh đồng làng ở sát chân đê từ lâu đã hiện diện một ngôi mộ không người thân thích cũng chẳng có bia đá ghi tên tuổi. Theo các cụ cao niên trong làng thì đó là ngôi mộ cổ đã có từ hàng trăm năm nay. Không nắm rõ xuất xứ nhưng các cụ cả quyết người nằm dưới mộ là một vị quan thời xưa trên đường công cán về qua đây thì mắc bạo bệnh qua đời.

Cũng có lời đồn thổi rằng vị quan đó rất giỏi về phong thủy, qua đây thấy nơi này có thế đất đẹp nên quyết định hóa, rồi sai gia nhân chôn mình theo đúng phương vị tựa núi nhìn sông, để sau này có thể phù hộ cho con cháu được phát đạt. Tất cả những lời đồn đại giống như thần thoại ấy đều dẫn đến một điểm chung là ngôi mộ của vị quan nên có lẽ dưới mộ sẽ có rất nhiều cổ vật và đồ quý. Nhưng chỉ là đồn đoán vậy thôi, truyền thống ngàn đời của dân tộc là tối kỵ việc xúc phạm nơi ở của người đã khuất nên ngôi mộ vẫn cứ sừng sững giữa đồng, tưởng như sẽ mãi mãi cùng năm tháng. Cho đến năm 1999, có hai gã thanh niên sinh ra và lớn lên ở làng trong cơn quẫn bách vì nợ nần cờ bạc đã ngắm nghía đến những của cải nằm trong ngôi mộ cổ.

Đó là hai chú cháu họ Nguyễn Minh T sinh năm 1977 và Nguyễn Duy T sinh năm 1975. Một buổi chiều mùa đông năm 1999 gió lùa hun hút, mưa lay lắt bay, lợi dụng tiết trời rét mướt nên người đi làm đồng thưa thớt, hai chú cháu lỉnh kỉnh mang theo nào cuốc, nào xà beng, nào búa, men theo bờ ruộng áp sát ngôi mộ. Có sự tính toán từ trước nên hai gã không hề vội vã. Cứ vắng người là hai chú cháu chồm lên cuốc đất vạt cỏ. Có bóng người lại nằm bẹp xuống chân mộ náu mình. Đến sẩm tối, phần nấm của ngôi mộ đã bị đánh bay. Hai gã trộm buông cuốc nghỉ lấy hơi, cũng là để chờ trời tối hẳn.

Khoảng sáu giờ chiều mùa đông cảnh vật đã ngập trong màn tối, cánh đồng tịnh không còn một bóng người. Hai gã trộm lúc này mới bắt đầu đào, cuốc hối hả. Chẳng mấy chốc cái nắp áo quan trăng trắng đã lộ ra, lạ thay đã bị mẻ một góc to tướng. Không kịp suy nghĩ nhiều đến điều này, hai gã dùng xà beng và búa giáng xuống thật lực. Vừa nhìn thấy cỗ áo quan dài gần gấp đôi kích thước bình thường, hai gã trộm đã mừng như mở cờ trong bụng. Đúng là ngôi cổ mộ. Bởi quan tài được làm từ thân cây nguyên khối, khoét ở giữa giống hình chiếc thuyền, gọi là mộ thuyền, một đặc trưng khi chôn cất người chết của các gia đình quyền thế thời phong kiến.

Hai gã trộm như được tiếp thêm sức mạnh, lùa xà beng để nạy nắp ván thiên. Phần nắp dày có đến chục phân, được thợ mộc lành nghề làm mộng chìm nên rất chặt. Nhiều chỗ, hai gã trộm phải dùng lưỡi búa làm nêm, rồi tì xà beng theo mà bẩy. Trong lúc vội vã lại mệt mỏi, gã chú Minh T đã đánh trượt lưỡi xà beng, phá vỡ một miếng ở phần đầu, bên trái cỗ mộ thuyền. Hì hục đến gần ba tiếng đồng hồ, hai gã trộm cũng cạy xong được nắp ván thiên. Hai chú cháu nhảy ào xuống huyệt ngập nước thò tay khua khoắng. Không có gì cả. Chỉ dọc theo phần đầu của bộ xương, chúng mò được sáu chiếc bát mà phong tục chôn cất vẫn gọi là bát kê đầu. Có lẽ vì ngâm nước quá lâu nên thành bát đã có hiện tượng mủn nát. Chán nản, gã cháu Duy T vớt vát:

- Bộ xương màu xám lạ lắm. Hay là chú cháu mình nhấc thử lên xem có phải kim loại không, may ra còn được chút tiền.

Thế là hai gã trộm hè nhau nhấc bộ xương lên khỏi mặt nước, để rồi thất vọng vẫn hoàn thất vọng. Mười hai năm sau, khi thuật lại câu chuyện với chúng tôi, gã thanh niên đào trộm mộ vẫn nổi da ốc, mắt như lồi ra vì sợ hãi:

- Đúng lúc ấy, tôi cảm thấy tóc gáy dựng đứng. Cảm giác ớn lạnh ập vào từ gót chân chạy dọc lên tận đỉnh đầu. Hình như có ai đó đứng sát sau lưng.

Gã quay phắt lại. Chỉ là màn đêm đen kịt. Gã quát cháu đậy nắp áo quan, mặc cho thằng cháu đứng ngây người thắc mắc: Ai đời kẻ đi đào trộm mộ lại tử tế đắp trả mộ bao giờ. Giờ đây, Nguyễn Minh T đang ngồi trước chúng tôi, kể lại câu chuyện dại dột ngày xưa. Dù rất giận vì gã đã phạm vào một tội ác tày trời nhưng nhìn nét mặt thất thần của gã, chúng tôi không khỏi thương cảm. Minh T nói rằng cảm giác có người đi sau lưng đã luôn ám ảnh gã suốt mười hai năm nay. Và chừng ấy thời gian, gã không làm được việc gì ra hồn cho bản thân cũng như cho gia đình, bởi cảm giác bị trì kéo ấy.

Hôm đó, sau khi giao cho thằng cháu sáu chiếc bát để đi tìm người mua, Minh T trở về nhà tắm rửa. Tầm chín giờ rưởi tối, khi đang xỏ giày chuẩn bị đi chơi, gã bỗng rùng mình ngẩng lên. Sừng sững sau liếp cửa có hình bóng của ba người đàn ông. Họ đều có bộ râu dài và mặc áo dài khăn đóng như thời phong kiến. Minh T có cảm giác bị đè chặt dưới đất. Không thể nói cũng không thể cử động, gã chỉ ú ớ kêu cứu trong cổ họng. Minh T nói rằng có thể gã đã chết nếu mẹ gã không có mặt kịp thời. Thấy con trai nằm lăn dưới đất giãy giụa như trúng phong, bà mẹ vội dìu gã lên giường, giã gừng xoa bóp. Gã ốm liệt giường gần một tháng trời. Trong những cơn ác mộng của hắn luôn xuất hiện hình bóng ba người đàn ông ấy.

Sau này Minh T mới biết hành trình đi bán đồ cổ của thằng cháu mình. Qua vài đầu mối, thằng cháu liên lạc được với một người chuyên buôn bán đồ cổ có biệt danh Thảo đồ cổ ở phố Lê Duẩn Hà Nội. Tuy khẳng định là đồ cổ nhưng do hiện trạng bát đã bị mủn, con buôn chỉ trả cho sáu chiếc bát giá sáu chục ngàn đồng. Vào năm 1999, số tiền ấy cùng lắm chỉ đủ ăn mười bát bát phở. Sợ bị hố, thằng cháu mang bát về. Trên đường về thì gã bị tai nạn xe máy, tuy không bị thương nặng nhưng toàn bộ kho báu đã vỡ vụn ra như đất. Đêm ấy về làng thì thấy ông chú đã ốm thập tử nhất sinh, thằng cháu táo tợn bực mình vì công sức thành công cốc, lại túng quá hóa liều nên tiếp tục mò vào chùa làng, trộm cắp được mấy đạo sắc phong, hai cái đỉnh đồng cùng một khúc trầm. Khi đang tiêu thụ những vật đó thì hắn bị bắt. Gã bị kết án năm năm tù. Minh T cho biết đã lâu không gặp được thằng cháu. Gia đình thằng cháu giờ tan đàn xẻ nghé, bố mẹ chia tay, anh em ly tán, Duy T sau khi ra tù cũng bỏ làng đi đâu không rõ. Minh T quả quyết:

- Nhà nó bị người âm báo oán.

Riêng với Minh T, gã cảm nhận sự báo oán hàng ngày. Mọi việc gã làm theo dự tính ban đầu đều rất suôn sẻ nhưng đến phút cuối cùng, vì một lý do nào đó sẽ lại đổ bể. Gã chứng minh rằng vào năm 2001 đã hùn vốn theo một số bạn bè đánh hàng điện lạnh. Mấy xe của bạn bè gã đều trở về bình yên, đem lại lợi nhuận không nhỏ. Chỉ riêng xe hàng của gã về đến Bắc Ninh thì gây tai nạn chết người. Xe bị giữ, hàng mất, bao vốn liếng cho vụ đi buôn hết sạch. Rồi đơn giản như việc ăn uống hàng ngày. Ví dụ như gã nấu bát mì ăn liền, mọi thứ tinh tươm, chỉ việc mang đũa thìa ra để ăn. Nhưng rất nhiều lần, đến lúc chuẩn bị ăn thì gã quờ tay làm đổ. Đến nỗi bây giờ, hầu như Minh T chỉ ăn hàng, rất hiếm khi dám tự nấu nướng cho mình.

Nhưng tai ương nặng nề nhất giáng xuống Minh T là năm 2006. Sau khi dự đám giỗ ông nội, đi chơi với bạn bè, em trai gã sinh năm 1980 đã chết trong một tan nạn giao thông trên cầu Thăng Long. Khi đến nhận thi thể em, Minh T kinh hoàng bởi vết thương trên đầu em trai cũng ở phía bên trái, tròn vo, giống hệt như vết xà beng gã nện nhầm vào thành cỗ mộ thuyền. Không dám nói với người thân nhưng gã cứ ám ảnh rằng em trai ra đi thay cho gã. Rồi khi mời thầy về làm lễ cắt trùng (Theo quan niệm dân gian, gia đình có hai người mất cùng ngày trong năm là bị trùng tang, phải làm lễ cắt trùng) ông thầy phán gã có người âm đi theo, không làm lễ tạ thì mãi mãi không ngóc đầu lên được. Nhà ngay gần ngôi cổ mộ khi chúng tôi tìm đến, bà lão có tên Nhị kể câu chuyện chẳng rõ thực hư:

- Không chỉ mình tôi, nhiều người làng cũng đã nhìn thấy “ngài” về.

Theo bà Nhị, vào những đêm trăng thanh gió mát, hoặc thi thoảng vào giữa trưa những ngày đẹp trời, bà nhìn thấy bóng hình một ông quan cưỡi ngựa, theo sau là ba người hầu, đi thong dong dọc bờ mương rồi mất hút gần nơi cổ mộ. Mỗi lần như thế, bà vẫn mang hương hoa vái vọng, mong ngài phù hộ cho xóm làng yên ấm, an vui. Chẳng rõ bà lão mê tín nên tưởng tượng, hay hoa mắt nên nhìn gà hóa cuốc? Ngôi mộ cổ sau ngày bị đào trộm thì chính quyền xã thậm chí đã cắt cử người canh trạm bơm kiêm nhiệm luôn nhiệm vụ gìn giữ ngôi cổ mộ, để làng khỏi xảy ra những chuyện động trời. Ông lão thủng thẳng:

- Giờ khỏi mất nhiều công canh gác như trước. Có cho tiền cũng chẳng ai dám đến.

Bởi sau vụ dòng nước có năm màu, ai cũng sợ xanh mắt mèo. Ngôi mộ cổ giờ nằm an nhàn giữa mương nước, trông xa như một hòn đảo nhỏ. Thậm chí người làng còn không dám trồng trọt gì quanh đấy, sợ phạm vào ngài. Trở lại câu chuyện với Minh T, gã đào trộm mộ năm nào luôn cho rằng mình còn được sống bởi hai lý do. Thứ nhất, lúc bạt nấm, nắp mộ lộ ra đã bị mẻ một góc. Theo Minh T thì cổ mộ đã bị đào phá từ trước rồi và những kẻ nhanh chân đã luồn tay qua lỗ hổng và khoắng hết các vật quý. Chú cháu gã chỉ là kẻ đến sau, chẳng kiếm chác được gì nên nhẹ tội hơn. Lý do nữa là chú cháu gã đã thành khẩn đậy lại nắp áo quan. Minh T kể rằng, nắp áo quan gắn với phần thân bằng mộng chìm, tháo ra được nhưng đóng lại thì rất khó. Chú cháu gã đã phải dùng búa đánh vỡ hết các thó gỗ ở chân mộng, và phải rất vất vả mới đậy được nắp áo quan như cũ.

Chẳng biết an ủi như thế nào, chúng tôi chỉ biết động viên gã:

- Dù sao anh cũng còn may mắn khi sự việc chưa nghiêm trọng đến mức cơ quan chức năng vào cuộc điều tra; hành vi xâm phạm mồ mả của anh sau mười hai năm đến nay mới phát hiện thì đã hết thời hiệu truy cứu.

Minh T nhỏ nhẹ nói gã đang rất ăn năn hối cải. Gã nói rằng chỉ mong ai đó chỉ cho cách sửa lễ để về tạ tội với người trong ngôi cổ mộ. Gã không dám tự tay biện lễ bởi theo gã, nếu làm không đúng cách thì tội còn nặng hơn nữa. Ám ảnh về tội ác đã dằn vặt khiến Minh T trở thành người không bình thường như thế. Nhiều người làng biết chuyện thì cho rằng chẳng có con ma nào theo những thanh niên này báo oán, mà chỉ có quy luật cuộc đời: Cái ác sẽ luôn bị trừng phạt. Mười hai năm nay đi tìm lại sự thanh thản cho tâm hồn mà chưa thấy bình yên, nên chính những day dứt lương tâm đã dằn vặt những kẻ phạm tội tày đình này sống trong cảnh sống dở, chết dở.

Đem theo ngờ vực về những liên tưởng người âm báo oán, chúng tôi tìm về thôn Từ Châu. Trưởng thôn Nguyễn Xuân Thủy khẳng định chuyện ngôi cổ mộ có hình dáng mộ thuyền và đã từng bị đào trộm là có thật. Ông cũng cho rằng vùng đất có cổ mộ rất linh thiêng, nhiều người từng chứng kiến. Theo ông Thủy, cách đây ít năm khi xẻ đất đào mương gần cổ mộ để làm trạm bơm thủy lợi, người làng đã từng chứng kiến cảnh tượng không thể lý giải. Mạch nước ngầm khi đó chảy ra có năm màu: đỏ như máu, tím biếc, đục lờ lờ như sữa, nâu óng ánh như kim cương và cuối cùng, trong suốt như nước suối. Những người tham gia làm thủy lợi đã phải dừng một ngày biện lễ tạ, rồi mới dám tiếp tục công trình.


PLTD

Thanked by 2 Members:

#401 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/12/2011 - 05:42

PHÉP KHÂU

Ngoại tôi có người em trai thứ năm, lấy vợ người Hoa gốc Triều Châu, người Việt mình hay gọi là người Tiều. Hồi nhỏ mỗi khi đến nhà ông, bà, chạy chơi các nơi xong, tôi thường vào ngồi nghe mẹ tôi và bà nói chuyện. Những câu chuyện xoay quanh việc buôn bán, gia đình, giỗ quải trong họ, cách làm bánh, mức, và chuyện về quê hương mù xa của bà bên Tàu, về chiến tranh, đói khổ, phong tục, tập quán, truyền thuyết… Có lần bà kể chuyện học bùa chú bên Tàu:

Hồi đó bên Tàu học bùa chú, làm thầy khó lắm.. Mới vô, căn bản phải học khâu. Trước học thuộc chữ bùa rắc rối như mạng nhện. Rồi suốt ngày rảnh lúc nào là ngồi tịnh tâm, dùng tay vẽ lại chữ bùa trong khoảng không trước mặt. Ai mau thì ba tháng, thường thì phải một năm mới rành rẽ. Xong phần khâu mới được học tiếp mấy phần khác. Phép nầy để bắt phi tiêu, phòng thân khi những người học bùa phóng phi tiêu, ám khí thử mình, hoặc hại mình. Khi tâm máy động, biết có người từ xa lén phóng ám khí, hoặc nghe tiếng phi tiêu tới gần, phải kịp thời vẽ xong chữ bùa trước mặt, phi tiêu đến sẽ ghim vào chữ bùa, như kim ghim vào vải, nên gọi là khâu. Nếu lúc đó người thường nhìn vào sẽ thấy phi tiêu đứng im trong khoảng không. Người bị phóng chỉ việc bắt phi tiêu là xong. Chuyện như huyền thoại, tuổi thơ vô tư, nghe rồi để trong ký ức.

Mấy năm sau tiếp cận với huyền môn, tôi hay theo một vị thầy, sau này là thầy tôi, coi trục tà, chữa bịnh, điểm đạo, vô thần quyền cho học trò, sau này là những huynh trưởng của tôi. Rồi lần mò coi mấy huynh luyện quyền, luyện phép… coi vô tư, chỉ thấy đã mắt, lâu lâu chợt thấy thèm được như mấy huynh. Chưa bao giờ tôi có ý so sánh cách học của mấy huynh với cách học của người Tàu, bà tôi kể năm nào. Cũng chưa bao giờ tôi thắc mắc, hỏi thầy về phép khâu. Tuổi thơ vô tư vậy đó. Cuộc đời như dòng sông trôi, rời bến bờ bình yên, qua những khúc quanh, nhánh rẽ, đến cửa sông rộng nước xoáy, sóng lớn, rồi đỗ ra biển cả mênh mông… Hơn hai mươi năm sau tôi mới có dịp về ngồi lại bên thầy.

Lúc chuẩn bị đồ cúng tổ, để cấp phép cho tôi, thầy lấy một dĩa nhỏ trên bàn thờ tổ xuống. Dĩa nhỏ nhưng đựng được nhiều món, nhờ xếp gọn gàng theo tầng lớp, thứ tự. Dưới cùng là trầu cau, thuốc lá cúng tổ, các món khác được xếp chồng lên trầu cau, thuốc thành nhiều tầng. Trong các món đồ, có con dao nhỏ, bề dài khoảng tám cm, bề ngang khoảng hai cm, hình dáng như thanh đao, tiện khắc tinh vi, thủ công sắc xảo, nhìn rất đẹp mắt. Thầy tôi chậm rãi têm trầu, rồi nhìn quanh tìm dao bổ cau. Tôi cầm thanh đao nhỏ đưa thầy. thầy tôi mĩm cười nói:

- Dao đó nhỏ chút, bửa cau đâu được. Tui có con dao nhíp để dành bửa cau. Chắc còn trên bàn tổ, bây tới coi, có lấy xuống dùm tui.

Tôi lấy dao xong hỏi:

- Ủa vậy con dao nhỏ này dùng làm phép gì thầy?

- Phép gì đâu, tui để chơi vậy thôi. Hồi đó người ta thử nghề, phóng tui bắt được đó.

Tâm cơ tôi chợt máy động, buột miệng phát ra hai tiếng:

- Phi đao?

- Ừ, người ta dùng phép phóng phi đao đó.

- Rồi làm sao bắt được thầy?

- Phi đao gần tới có luồng âm thanh, nghe biết chớ. Phải lẹ tay vẽ bùa tom nó lại rồi mới thâu được. Mà người này lực phóng cũng dữ dằn nhe, tui vẽ xong chữ bùa, con dao này ghim vô vẫn còn sức muốn gượng xôm tới, tui phải gạt nó xuống, ghim vô cạnh tủ thờ mới thâu được đó. Hồi đó tui có cái tủ thờ nhỏ, hổng phải cái lớn dưới phòng khách bây giờ…

- Phải cái tủ thờ thầy để chỗ bộ ghế sô pha bây giờ hông?

- Ừ, đó, cái tủ nhỏ đó. Thằng nhớ dai dữ. Bây coi cái tủ cẩm lai, vậy mà cây dao này ghim vô tới nữa cây luôn, tui phải lấy kềm nhổ ra đó.

- Chèn ơi, dữ vậy, nếu hổng bắt được, nó ghim tới, da thịt nào chịu nỗi. Vậy rồi biết ai phóng không thầy?

- Biết chớ, cũng người quen không. Nó trẻ hơn tui mà giỏi nhe. Sau gặp nó tui hỏi, giờ bây muốn tui trả dao lại, hay để tui giử dùm bây. Nó cười cầu hòa, nói thôi anh giử dùm tôi đi. Tui mới nói với nó, vậy cám ơn nhe, cho thì tui giử làm kỹ niệm hé. Rồi tui để dành chơi cho tới bây giờ đó chớ.

Tôi ngờ ngợ hỏi thêm:

- Vậy lúc người ta làm phép phóng dao bay đi, dọc đường có ai thấy không thầy?

- Ý, đâu thấy được nè. Lúc ở nhà người phóng thì là con dao này, có hình ai cũng thấy, nhưng lúc dùng phép phóng ra thì mất hình, chỉ tới gần mình là người bị phóng mới hiện ra hình. Trên đường nó bay, người thường đâu nghe thấy gì.

- Thử nghề vậy, lỡ ai non tay, bắt không được, chết sao thầy?

- Nói vậy chớ người ta muốn thử nghề, cũng nhắm chừng mình đỡ nỗi mới làm, chớ có thù oán, xích mích gì với nhau đâu mà cố sát. Bây chưa biết đâu, chừng học lên cao, càng thông linh, càng sợ. Quả báo trước mắt nhe. Làm sai một cái, kết quả xấu tới liền. Mà nặng nhứt là lỡ tay làm chết một người hiền rồi, tu luyện thiên thu cũng không thành đạo. Bây coi, phép phóng dao nầy thấy dữ dằn vậy chứ cũng chưa ghê đâu. Còn một món nữa ghê hơn nhiều, giỏi mà không biết cách bắt cũng chết, mà chết chùm, chết lây tới mấy người trong nhà nữa đó.

- Phép gì mà ghê dữ vậy thầy?

- Cái phép đó là… mà thôi, bây chuẩn bị đi, để tui cúng rồi vô phép cho bây cho rồi!

Chuyện nghe lúc tuổi thơ, tưởng như huyền thoại, không ngờ gần ba mươi năm sau tôi được biết là có thật qua vật chứng là con dao kia, và nhân chứng sống là thầy tôi ngồi đó… Bà tôi đã mất mấy năm rồi. Thầy tôi rồi cũng có ngày sẽ về với thầy tổ. Và tôi vẫn chưa học được phép khâu.

ST

Thanked by 2 Members:

#402 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 02/01/2012 - 04:33

SỐNG CÕI DƯƠNG LÀM VIỆC CÕI ÂM

Người ở với ma, ăn cùng ma, ngủ cũng cùng ma thì ngoài khoản bạo gan, hẳn phải có thêm một sự giao cảm thầm kín nào đó với những vong linh, người trần mắt thịt khó thấy được...Đa số những nhân vật chúng tôi tiếp xúc để cho ra đời bài phóng sự dưới đây đều thừa nhận: Trước khi lựa chọn cho mình cuộc sống gắn liền với cõi âm, họ chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ gần cái chết đến như thế. Để có những cảm nhận chân thực nhất về cái nghề quản trang, chúng tôi tìm đến nghĩa trang phường Thanh Trì, quận Hoàng Mai.

Đêm cuối năm không trăng sao, bao trùm lấy khu nghĩa trang nằm giữa cánh đồng là bóng tối rợn người, đứng cách vài bước chân cũng không nhìn thấy nhau. Căn nhà quản trang ở ngay cổng vào được thắp một bóng đèn vàng vọt, tù mù. Trong nhà không có ai, nghe nói đêm nay có mấy nhà cải táng nên chắc mọi người đã ra ngoài đó, chỉ có con mèo đón chúng tôi bằng một tiếng “ngoào” nghe dựng tóc gáy. Đứng đợi một lúc, ông quản trang đã qua tuổi bảy mươi Hồ Xuân Dũng, mới lò dò xuất hiện. Mặc áo mưa, trên đầu đeo chiếc đèn kiểu thợ lò, ông xoa xoa hai tay cho biết vừa bốc xong một ngôi mộ.

- Tháng cuối năm bao giờ cũng nhiều nhà làm cải táng cho người thân, có đêm đông nhất tới tám nhà, thức trắng đêm là chuyện bình thường, ông Dũng cho biết.

Ông Hồ Xuân Dũng có khuôn mặt hơi đặc biệt, khuôn mặt khiến người ta cảm giác ông được chọn để làm cái nghề cũng rất đặc biệt này. Mà quả đúng vậy. Hồi trẻ đi bộ đội, hòa bình lập lại thì giải ngũ, lấy vợ, sinh con. Năm 1989, người em rủ đấu thầu san lấp, dọn dẹp khu đất vốn là nơi sơ tán của trường đại học Sư phạm bị bom cày xới tan hoang, ông nhận việc mà không biết nơi đó được xã quy hoạch làm nghĩa trang. Chính tay ông đã đào cái huyệt đầu tiên chôn người chết ở đây. Khu trường cũ còn lại duy nhất một ngôi nhà ngói thấp tè đã xuống cấp, lụp xụp. Ông dọn hẳn đến ở trong đó, thỉnh thoảng mới về nhà. Hơn hai mươi năm ông làm quản trang, xã thành phường, qua tới ba thế hệ chủ tịch, nhưng đến giờ ông vẫn chưa được hưởng lương từ bất kỳ nguồn ngân sách nào.

- Lễ tết cũng chẳng được suất quà mang về cho bà nhà phấn khởi, ông Dũng tặc lưỡi.

Gắn bó với nghĩa trang, trông nom người chết, ông sống nhờ vào “lộc cõi âm”. Nhà nào có đám ông đứng ra cùng lo chôn cất, ít nhiều tùy gia chủ cảm ơn. Nhà nào cải táng, theo quy định cũng chỉ phải nộp cho quản trang bốn chục ngàn đồng, nên đến điện thắp sáng cũng phải dè sẻn đến mức tối đa. “Lộc” thì nhiều, nhất là dịp tết, thanh minh tảo mộ, người ta đến thăm mộ, xôi thịt, bánh trái thắp hương xong thì để biếu ông một phần, gọi là đắp đổi qua ngày. Hơn hai mươi năm đó, những chuyện mà thiên hạ cho là rùng rợn ông Dũng gặp cũng không ít, nhưng với ông mọi thứ cứ dửng dưng như không.

Đứa con trai lớn, Hồ Xuân Long theo ông từ khi còn bé tí, giờ cũng theo nghề của bố, sống trong nghĩa trang nhiều, nhưng như lời ông nói, anh “cứng vía” nên chẳng hề gì. Song cậu con thứ, Hồ Xuân Tuấn thì khác. Mười hai tuổi, Tuấn đến ở cùng bố trong ngôi nhà mục nát ngay cổng nghĩa trang. Sáu năm liền không có chuyện gì xảy ra, cho đến một ngày Tuấn nhất quyết đòi bố cho về nhà ở. Gặng hỏi mãi, anh mới nói: đêm nào ngủ cũng thấy có “người” dựng giường dựng chiếu lên, không sao ngủ được. Sau lần đó, ông Dũng cùng con trai chuyển sang ngủ trên trần nhà để xe đòn. Lạ một cái, hễ quay đầu sang hướng Nam là lại bị bóng đè, chuyển sang hướng Bắc thì thôi.

Có một dạo, ông Dũng nằm ngủ hay thấy một người đàn bà chừng bốn mươi tám tuổi, chít khăn mỏ quạ, mặc áo bà ba đen đứng ở cửa nhà, chỉ cười mà không nói, đến khi ông ngồi dậy thắp hương thì bỏ đi. Sau này anh Tuấn đi xem bói, mới nghe thầy phán ông có bà chị chết trẻ đi theo che chở, nên gặp chuyện đó không phải lo lắng gì. Quả thật, có lần đang đêm ông dậy đi tiểu, bị trúng gió ngã gục ở nhà xí phía sau tưởng chết, nhưng cứ thấy có tiếng nói ở bên tai:

- Đừng dậy, đừng dậy.

Lúc ấy đang còn lơ mơ nên ông cố nằm im một lát, được độ ba chục phút ông dần dần hồi tỉnh rồi dậy được bình thường.

- Mình chăm sóc người âm, giữ cái tâm nên chắc được họ che chở, ông Dũng bảo vậy.

Nhưng trước cửa nhà quản trang, ông cũng phải trồng mấy cây dâu để trừ tà. Do nghe mấy người sống quanh đó kể về chuyện mới đây thôi, một cô bán xôi ở chợ Thanh Trì bị vong linh một thanh niên chết trẻ tên Long nhập suốt một tuần, sau phải đến nhà mẹ đẻ anh này nhờ thắp hương cúng bái mới hết, chúng tôi hỏi ông về chuyện ấy.

- Thì cũng có, ông Dũng thủng thẳng: Có lần bốc mộ, cháu gái người đã chết đứng cạnh huyệt đã mở, tự dưng xưng bà với người thân, cứ nói:

- Vẫn còn.

Cho đến khi xương cốt dưới mộ đã được đưa lên đầy đủ mới nói:

- Hết rồi.

Nghe mà thấy sởn da gà.

SỐNG CÓ TÂM ĂN LỘC "ÂM PHỦ"

Người ta vẫn bảo, lúc sống thì phân biệt sang hèn, còn trước cái chết con người bình đẳng như nhau. Cái chết chẳng phân biệt giàu nghèo, quyền chức, càng không thể là nguyên nhân tạo nên những lý do để có thể làm hại người sống bằng những chuyện ma quỷ, hồn, vong. Có chăng chỉ là chính người sống mượn cái chết để hại lẫn nhau mà thôi. Khác với ông Dũng, anh Đặng Trần Ngọc có thâm niên làm bảo vệ tại nghĩa trang phường Bồ Đề, quận Long Biên từ năm 2004. Bắt đầu nghề bốc mộ từ năm 1996 sau khi ra lính, anh Ngọc bảo:

- Tớ sống nhờ... ma đã mười lăm năm nay, ăn lộc ma cũng chừng ấy thời gian, nhưng bị ám ảnh bởi cõi âm thì không phải chuyện ma quỷ, mà ngược lại toàn vì những chuyện nhân tình thế thái của những người đã chết.

Theo anh Ngọc kể thì cũng vài lần anh đã nhìn thấy những “hồn ma bóng quế” chập chờn trên các ngôi mộ sắp cải táng, thường thì đó là hình hài một con người ngồi ủ rũ ở đầu các ngôi mả cũ. Nhưng theo kinh nghiệm của anh cứ ngôi mộ nào xuất hiện các hồn ma bóng quế đó, thì về đối chiếu với sổ sách chôn cất, y như rằng sắp tới ngày phải cải táng.

- Bóng người đó chỉ hiện lên trong mắt tôi độ vài giây rồi tan biến ngay.

Và khi thấy như vậy là anh biết rằng đó chỉ là những dấu hiệu mà người nằm dưới mộ muốn được chuyển sang một ngôi nhà mới.

- Mỗi lần thấy… ma như vậy anh có sợ không?, chúng tôi hỏi.

Anh Ngọc gạt đi ngay:

- Có gì mà sợ, chỉ có người sống hại người sống, chứ người đã chết thì làm sao mà làm điều ác được.

Nghĩa trang Bồ Đề nằm sát ven sông Hồng nên bảo vệ ở đây ngoài cái nghề chôn cất, sang cát, xây mộ còn có thêm nghề phụ là vớt người chết đuối bởi có khá nhiều xác chết trôi dạt vào địa phận phường. Anh bảo:

- Nếu với nhiều người việc bốc hốt hài cốt chỉ nghe cũng đủ rùng mình thì tớ còn phải vớt lên những xác chết trương phình mà chẳng có bất cứ phương tiện bảo hộ nào ngoài chiếc găng tay. Đầu tiên thì cũng hãi, có những xác chết nửa người thâm đen vì phơi nắng, nửa người thì trắng bợt vì ngâm dưới nước lâu ngày, vớt lên xong về ám ảnh cả tuần, cơm không nuốt nổi. Thế nhưng năm nào cũng vài vụ như vậy nên cánh công nhân ở nghĩa trang này làm mãi thành quen. Mà mình không làm thì còn ai? Thôi thì làm phúc cho người xấu số vậy.

Rời nghĩa trang phường Bồ Đề, chúng tôi ghé qua nghĩa trang xã Thuỵ Phương, Từ Liêm tìm gặp anh Hải, một người chuyên xây mộ. Đúng dịp bận rộn, ngồi chuyện trò một lúc mà thấy liên tục có người gọi điện, tìm đến hỏi anh việc xây mộ cho người thân.

- Vì sao anh theo nghề này?, chúng tôi hỏi.

- Tự nhiên thôi, sau này mới nghe một thầy tướng số nói mình có “căn” phục vụ người âm, anh Hải hồn nhiên.

- Đắt khách thế, chắc thu nhập của anh cũng khá?

Chúng tôi vừa dứt lời, anh Hải cả cười:

- Làm nghề này đừng tính chuyện tiền nong, tích đức để cho con cái thôi. Xây một ngôi mộ bình dân hết chừng mười, mười hai triệu đồng, gia chủ muốn sang hơn thì chi phí cũng đắt hơn, nhưng có khi gặp người làng, gia cảnh khó khăn, muốn cho “các cụ” có nhà mới tươm tất, mình sẵn sàng “tặng” luôn công xá. Sống có tâm, ăn lộc âm chẳng bao giờ sợ thiệt...


Gia Vinh - Nguyễn Long



Thanked by 2 Members:

#403 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/01/2012 - 19:50

THẦY PHÁP THUẬT Ở TUYÊN QUANG HÉ MỞ VỀ BÙA YÊU

Ở một xóm nhỏ của tỉnh Tuyên Quang, người ta thường truyền tai nhau rằng, thích một người là có cách để lấy, những đôi vợ chồng hục hặc đột nhiên trở nên êm ấm...tất cả đều nhờ vào pháp thuật của những lá bùa yêu gia truyền của người Cao Lan, bao đời nay gọi là bảo bối. Những câu chuyện này lôi cuốn theo những điều bí ẩn hư hư thực thực, đầy mầu sắc huyền bí. Phải chăng bùa yêu có một sức mạnh phi thường khiến bao người tin đến vậy?

Ở thôn Song Lĩnh, xã Lưỡng Vượng, Thành Phố Tuyên Quang, nhiều người biết đến ông Hoàng Tiến Đồng. Người lưu giữ nhiều cuốn sách quý về cách làm duyên, hay còn gọi là bùa yêu. Và chẳng hiểu từ đâu ông được người dân khắp làng trên xóm dưới gọi với cái tên: Người ban tình yêu theo ý muốn. Ông Đồng đã biết làm bùa yêu từ năm ba mươi tuổi và có hàng chục cuốn sách hợp duyên bằng chữ Hán do cha ông để lại. Ông bảo, theo tiếng Cao Lan bùa yêu được gọi là Pháp Linh Lợi, một tên gọi bí ẩn. Trước những thắc mắc về sự tồn tại của bùa yêu có thật sự hiệu quả như bấy lâu người dân đồn đại, ông Quang cười bí hiểm:

- Tôi đã làm bùa yêu là cưới. Nguyên trong thôn Song Lĩnh, tôi đã làm duyên cho tám cặp và những đôi này đều sống với nhau êm ấm, hạnh phúc.

Để khẳng định phép thuật của mình, ông đưa cho tôi xem những cuốn sách làm duyên và có những hình ảnh của các đôi nam nữ khi kết duyên. Đối tượng thường tới cậy nhờ ông thường là những người đàn ông hiếm vợ, gái muộn chồng muốn tìm cho mình một nơi nương tựa, se duyên... Nhưng đông nhất vẫn là những người đã xây dựng gia đình không may vợ chồng có chuyện cơm chẳng lành canh không ngọt, đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Với các hoàn cảnh như thế, họ tin ông có thể hóa giải được mối hiềm khích vợ chồng nhờ vào bùa.

Có một quy tắc được ông Đồng tuân thủ nghiêm ngặt là sau khi ra tay, việc thực hiện yểm bùa đều phải tuyệt mật. Các bảo bối để ông làm bùa có khi chỉ là đôi nhẫn bạc, một nhúm muối, quả cây, gần gũi hơn thì đệ tử mang áo quần đối tượng cần yểm đến rồi thầy trò cùng nhau... làm phép. Khi làm phép phải chọn giờ đẹp, chỉ thực hiện trong khoảng một tiếng. Các đệ tử sau khi được truyền bí kíp lẳng lặng ra về rồi làm theo chỉ dẫn mà không bao giờ được phép tiết lộ ra ngoài. Theo bà Phạm Thị Cát, vợ của ông Đồng, làm bùa này người ta phải đến lấy liên tục nếu không một thời gian sau nó tự khắc bị mất đi, nếu hết mùi thuốc, hai người nhìn thấy nhau là ghét nhau lắm.

Tiếng lành về một vị cao niên có khả năng yểm bùa lan rộng khắp vùng. Chính vì vậy người tới nhờ ông không chỉ là ở trong thôn xóm, trong tỉnh, mà có rất nhiều người tới từ Bắc Giang, Phú Thọ, hay Hà Nội...Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu việc có hay không sự tồn tại của bùa yêu, chúng tôi đã gặp nhiều trường hợp cũng đã từng được ông ra tay se duyên. Và thật ngạc nhiên khi nhiều trường hợp các cặp đôi đã tan đàn xẻ nghé sau khi đến ông nhờ giúp đỡ. Phải chăng, thứ bùa như lời truyền tai nhau chỉ là câu chuyện phù phiếm? Bao người dân trong vùng cứ kháo nhau rằng, trước đây có trường hợp gia đình anh Hoàng Văn Thanh và chị Đàm Thị Lan ở xã Lưỡng Vượng, Thành Phố Tuyên Quang mới lấy nhau về chưa được một năm, anh Thanh có thói trăng hoa, bồ bịch ở ngoài, vợ chồng thường xuyên va chạm. Vậy mà đột nhiên, người ta thấy vợ chồng vui vẻ tình cảm hẳn, anh Thanh ở nhà cùng vợ làm ruộng, vợ bảo gì thì nghe răm rắp. Người ta bảo rằng chị Lan đã tới nhờ thầy yểm bùa yêu nên anh Thanh mới ở nhà và bỏ hẳn cô bồ kia.

Tuy nhiên, có một số trường hợp khi chúng tôi gặp đã cho hay rằng, họ đã từng đến gặp ông Đồng nhờ giúp đỡ nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, vợ chồng vẫn phải chấp nhận cảnh sống ly tán. Ngay như chính bản thân ông Đồng, dù có sẵn bùa, phép nhưng vẫn phải thừa nhận một điều rằng: Yêu thật vẫn là cách tốt và bền vững nhất trong hôn nhân, hạnh phúc. Trong cuộc sống trai gái, vợ chồng, ai cũng có những khó khăn, mâu thuẫn, nếu cả hai quyết tâm vượt qua giai đoạn khó khăn thì đó mới chính là thứ bùa thật sự. Ai cũng biết rằng khi phải xa một người mình hết mực yêu thương thật khó nhưng thà buồn một chút, đau khổ một chút còn hơn là dính vào bùa ngải. Hơn nữa, ngay như chính cao thủ bùa mà tôi đã gặp cũng phải thừa nhận rằng, thứ bùa mà ông đang sử dụng để giúp nhiều người không có thực nhưng không hiểu vì sao mọi người vẫn lầm tin.

BĐVN


#404 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/01/2012 - 20:12

TRUYỀN NHÂN CỦA BÙA CHÚ VÀ BÍ ẨN CÂU BÙA TRONG CỔ HỌNG

Núi rừng Tây Bắc, nơi rừng thiêng nước độc, là nơi cư trú của cộng đồng các dân tộc ít người: Tày, Nùng, Dao, Thái… Nét sinh hoạt truyền thống và tín ngưỡng văn hóa đặc trưng là một điều huyền bí tạo nên sự tò mò, thán phục đối với những con người từng đặt chân đến đây. Đặc biệt, niềm tin vào thầy mo, thầy mằn với những câu bùa chú, là một bí ẩn mà trải qua biết bao thời gian khoa học vẫn chưa tìm được lời giải đáp.

Vượt qua những con đường dốc đá và hàng chục km đường rừng là nơi ở của thầy bùa Hà Thị Kim Cự, Xã Hưng Thịnh, huyện Trấn Yên, Yên Bái. Thầy nói tôi may mắn hôm nay đi vào ngày tốt nên mới gặp, bởi thông thường thầy lên núi hái thuốc Nam đến tối muộn mới về, nhiều khi thầy ngủ đêm trên núi. Vừa rót nước lá mời khách thầy vừa kể cho tôi nghe những câu chuyện về sự huyền bí của những lời bùa chú. Qua mấy chục năm học bùa và làm bùa thầy Cự vẫn chưa hiểu hết được những bí ẩn của nó. Nói về bùa chú, thầy Cự giảng giải:

- Mỗi dân tộc có một cách làm bùa và sử dụng bùa khác nhau. Tên gọi của nó ở mỗi dân tộc cũng khác, như người Thái gọi bùa chú là chài, người Tày gọi nó là mằn, một số dân tộc lại gọi là hèm... Một số bùa chú sinh ra với tác dụng rất tốt, nhưng có những loại được tạo nên chỉ với mục đích xấu là yểm bùa gây hại.

Thầy Cự là người dân tộc Tày nên cư dân địa phương vẫn thường gọi thầy là mằn Cự hay thầy mằn. Thường thì thầy mằn Cự chỉ làm bùa cho người dân quanh vùng. Nhưng cũng có những người ở xa tận Tuyên Quang, Lào Cai xuống nếu thấy được thầy cũng sẵn sàng giúp đỡ. Loại mằn thầy Cự hay làm nhất là mằn thuốc, ngoài ra cũng còn các loại mằn khác: mằn yêu, mằn ghét, mằn say.. nhưng những loại này thầy ít khi sử dụng vì nó có thể gây hại. Hiện nay, số lượng những thầy biết sử dụng bùa chú làm mằn là rất ít, có thể nói là đếm trên đầu ngón tay. Một phần vì mỗi thầy chỉ truyền nghề lại cho duy nhất một người và tiêu chuẩn để truyền nghề cũng rất khắc khe, nếu thấy không phù hợp thầy mằn sẽ mang theo bí ẩn về bùa chú suốt đời mà không truyền lại cho bất cứ ai. Một số thầy mằn lựa chọn cho mình cuộc sống ẩn dật, bình dị nên nhiều khi những người sống xung quanh cũng không biết đến sự tồn tại và khả năng của thầy.

Những câu chuyện bí ẩn về tác dụng của bùa thì nhiều người được nghe kể nhưng việc làm bùa như thế nào, sử dụng nó ra sao thì rất ít người biết. Theo lời thầy Cự thì nguyên nhân của việc đó một phần thầy bùa không truyền nghề cho người ngoài và cũng giữ rất kín phương thức làm bùa của mình. Bùa có thể sử dụng vào việc tốt như chữa bệnh cứu người, nhưng nếu rơi vào tay những người không có đức, không biết cách sử dụng thì nó cũng có thể là gây ra những hậu quả vô cùng lớn. Để thực hiện bùa chú nói chung hay làm mằn của người Tày nói riêng, cần phải chuẩn bị rất nhiều thứ. Trước khi thực hiện, thầy cần được biết tên tuổi, địa chỉ, lý do cần xin mằn. Nếu là mằn thuốc, thầy cần biết thêm triệu chứng, vị trí phát bệnh và thời gian bệnh xảy ra bao lâu. Đối với mằn yêu, thầy cần có thêm các vật hỗ trợ: tóc, vật dụng cá nhân của đối phương... Ngoài ra, thầy còn tự mình chuẩn bị các dụng cụ khác: Nước suối, đá cuội, sỏi, gạo, cơm nếp hoặc lá cây hái trên núi... những thứ này thầy thường tìm kiếm và trữ sẵn trong nhà để dùng trong những lúc cần.

Khi đã chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ cần thiết, thầy mằn bắt đầu công việc làm bùa chú của mình. Tuy nhiên, trước khi làm bùa thầy cần xông mình bằng nước lá thơm, việc đó theo thầy là để giữ mình sạch sẽ và rũ bỏ bụi trần từ những công việc thường ngày. Điều đầu tiên thầy mằn luôn phải làm là khấn vái tổ tiên, những thầy mằn đi trước đã truyền nghề lại cho mình. Sau đó, thầy đặt trước mặt những vật dụng đã được chuẩn bị và gọi tên người đến xin mằn, thầy xin tổ tiên chứng giám và giúp đỡ để thầy thực hiện bài mằn thành công. Sau đó, thầy nín hơi, mím chặt môi và đọc những câu bùa chú trong vòm miệng và cổ họng. Tất cả những câu bùa này thầy nói bằng tiếng Tày và không để lộ người khác nghe thấy. Thầy nói rằng:

- Những câu bùa chú này là bí mật nên thầy không thể tiết lộ.

Sau khi khấn câu bùa xong, thầy sẽ thổi hơi vào các vật hỗ trợ, cũng có thể gọi là vật trung gian, và gói lại cẩn thận. Thổi bùa vào các vật hỗ trợ xong thì việc cuối cùng phải làm là cho vật hỗ trợ đó tiếp xúc với người cần sử dụng mằn, theo lời thầy Cự thì: Bắt buộc những vật này phải tiếp xúc được với người cần sử dụng thì mằn mới phát huy tác dụng. Nếu là nước có thể sử dụng để uống, tưới lên người, đá cuội hay sỏi dùng để búng về phía người sử dụng mằn, gạo thì dùng để rắc ra xung quanh còn cơm nếp khi làm mằn yêu thì được dính vào sợi tóc của hai người, rồi mang giấu đi, cũng có thể dùng nó đặt lên đầu giường. Ngoài ra, đối với mằn yêu hay mằn bệnh, thầy mằn có thể thổi trực tiếp bùa chú vào vị trí bị bệnh hay vào tay. Nếu thổi vào tay, mằn chỉ phát huy tác dụng nếu cánh tay đó được quàng vào vai hay chạm được vào người của đối phương, nếu để phát hiện hoặc phản đối thí mằn yêu đó phải bỏ đi. Hiệu quả làm mằn cũng phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của thầy và sự thành tâm của người đến xin, thầy Cự không chắc chắn tất cả mằn mình làm sẽ cho hiệu quả tuyệt đối, nhưng thành công của nó theo thầy có thể lên tới bảy hoặc tám phần.

Những bí ẩn xung quanh câu bùa chú vẫn là điều chưa thể giải thích. Từ đời này qua đời khác, người dân tộc Tày khi có bệnh vẫn tìm đến thầy Cự để xin mằn. Rất nhiều câu chuyện vẫn được người đời truyền tai về sự thần kỳ của những câu bùa chú. Những trường hợp gia súc bị bệnh lở loét tưởng không cứu được, thầy mằn đến làm bùa rồi những con bọ từ vết thương cứ thế chui ra, chết rồi rơi xuống lả tả dưới chân. Hay những người dân bị bệnh bướu cổ, u to phình hai bên má rồi nhờ thầy cũng xẹp xuống và lành bệnh. Những đôi trai gái không đến được với nhau, những gia đình xa cách đến xin mằn yêu của thầy rồi cũng được tác hợp và đoàn tụ. Tất cả những câu chuyện đó làm nên sự bí ẩn về một tín ngưỡng tôn giáo và tâm linh huyền bí mà khoa học vẫn chưa thể lý giải.

Chí Dũng

Thanked by 1 Member:

#405 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/01/2012 - 20:38

BÍ ẨN NHỮNG CÂU THẦN CHÚ CỦA NGƯỜI TÀY

Các thầy bùa nắm giữ chìa khóa để vén mở tấm màn bí mật của bùa chú đang ngày một ít đi. Trải qua thời gian, những câu bùa chú bí ẩn cũng đang dần biến mất...Các thầy bùa luôn cất giữ rất cẩn thận bí mật về những câu bùa chú của mình. Tuy nhiên, họ cũng tìm cách chuẩn bị cho mình một người học nghề nhằm tiếp tục lưu giữ bùa chú, một nét văn hóa truyền thống của các thế hệ đi trước. Việc chuẩn bị này là rất quan trọng bởi việc truyền nghề diễn ra trong thời gian khá dài và người kế tục phải hội tụ đầy đủ những điều kiện vô cùng khắc khe. Nếu không ưng ý về truyền nhân của mình, các thầy bùa sẵn sàng đem theo bí mật về gặp tổ tiên chứ nhất định không truyền lại một cách khiên cưỡng.

Đối với bùa chú của người Tày, thầy mằn sẽ lựa chọn và theo dõi quá trình phát triển của truyền nhân ngay từ khi người đó còn nhỏ. Trong quá trình phát triển tự nhiên, nếu người được chọn bộc lộ các yếu tố: Tính khí ôn hòa, thông minh, trung thực, nhanh nhẹn, đạo đức tốt thì thầy mằn sẽ xem xét quyết định truyền nghề cho người đó. Việc chọn người truyền mằn phải diễn ra trong thời gian dài và kỹ lưỡng như vậy là bởi theo quan niệm của người Tày ở vùng cao, mằn có đa tác dụng nên nó sẽ tốt nếu thầy mằn có tư cách tốt. Ngược lại, nếu thầy mằn không tốt, mằn có thể biến thành cái gây hại, như vậy là có lỗi với các bậc tiền nhân. Thông thường, thầy mằn chỉ truyền nghề lại cho con cháu trong gia đình chứ ít khi truyền cho người ngoài. Việc truyền nghề cũng diễn ra bí mật và phải đảm bảo chỉ hai người biết chuyện. Trong quá trình dạy dỗ đệ tử, thầy mằn cũng đặt ra những thử thách để rèn luyện khả năng của học trò.

Đặc biệt, trong một năm, việc truyền mằn chỉ diễn ra trong một ngày duy nhất là đêm ba mươi Tết, thời khắc trước giao thừa. Thầy mằn Đinh Văn Duyên lý giải việc này: Từ xa xưa, việc truyền mằn luôn phải đảm bảo diễn ra trong bí mật. Theo phong tục truyền thống thì thời điểm trước giao thừa tất cả mọi người phải có mặt tại nhà để đón năm mới nên việc truyền mằn có thể diễn ra mà không sợ người khác đến học trộm. Thời khắc giao thừa với dân tộc Tày cũng là thời khắc rất linh thiêng và khi đó có tổ tiên quay về chứng giám. Trong thời gian này, thầy mằn sẽ lần lượt truyền lại cho học trò những câu bùa chú tiếng Tày, cách thức thực hiện mằn cùng với việc cần phải tránh. Đáng chú ý, mỗi năm, thầy mằn chỉ truyền dạy cho học trò cách làm một loại bùa chú và thầy cũng chỉ hướng dẫn duy nhất một lần. Cứ như vậy, để học hết bùa của thầy thì thời gian có thể lên tới hàng chục năm. Những yếu tố lựa chọn khắc khe, thời gian học lâu dài, thầy mằn không truyền cho người ngoài và truyền nhân phải biết tiếng dân Tày là nguyên nhân chính khiến việc chọn lựa truyền nhân làm mằn ngày càng khó khăn. Các thầy mằn khi không tìm được người kế tục thường giữ kín bí mật của mình và sống ẩn dật, lãnh đạm trong vùng núi sâu khiến những bí ẩn bùa chú theo đó cũng lẩn khuất nơi sơn dã.

Thầy mằn Duyên kể rằng: Bùa chú được chia thành nhiều loại và khác nhau theo từng dân tộc. Có những bùa chú sinh ra vì mục đích xấu nhưng cũng có những bùa chú được tạo ra vì mục đích tốt. Tuy nhiên, loại bùa chú tốt đó cũng có thể gây họa. Do đó, các thầy bùa cao tay thường ít khi sử dụng hết kho bùa chú của mình. Nếu quyết định truyền bùa cho thế hệ sau, họ cũng lựa chọn chỉ truyền một số loại nhất định. Vì lý do đó nên một số loại bùa chú đã bị thất truyền và chỉ còn xuất hiện trong những câu chuyện mang màu sắc tâm linh huyền bí. Các cụ già tại các bản trên núi cao vẫn thường kể cho con cháu nghe những câu chuyện về lời nguyền của thầy bùa. Trong đó, đáng sợ vào bậc nhất phải kể tới loại chài của người Thái, vì quả chài khi được ném đến đâu thì người bị yểm bùa sẽ phải chết ở đó. Ném trên rừng, chết ở rừng. Ném xuống nước, chết bởi nước. Ném vào lửa, ắt sẽ bị lửa thiêu.

Tương truyền, cách duy nhất để giải được tai vạ là tìm bằng được quả chài và mang đến nhờ thầy bùa hóa giải. Cũng có chuyện kể rằng, nếu thầy chài ghét ai và yểm bùa thì người đó coi như mất hồn và sẽ về làm thân trâu ngựa cho nhà thầy. Dù những câu chuyện đó là 100% hư cấu dưới ánh đèn khoa học nhưng kỳ lạ một nỗi là ít ai dám coi thường sức mạnh của những lời bùa bí ẩn. Thầy mằn Đinh Văn Duyên nói về các loại bùa chú mà ông ta có thể làm ra: Những loại bùa như “mằn của người Tày thì đơn giản hơn, tác hại của nó cũng nhỏ hơn nhưng không phải là không nguy hiểm, đặc biệt là: mằn say, mằn yêu, mằn ghét... Tỷ dụ như mằn say. Đây là loại bùa chú mà thầy mằn sẽ thổi bùa vào một chén rượu nhỏ. Một người bình thường dù không biết uống rượu thì với một chén nhỏ chắc chắn chưa thể say.

Thế nhưng, những ai uống phải chén rượu được thầy mằn thổi bùa thì tửu lượng có cao đến mấy cũng phải nằm say mê mệt hai, ba ngày. Hay như mằn yêu hay ghét. Mằn yêu có thể khiến những người chưa từng gặp gỡ hoặc yêu thương nhau nhưng sẽ phải sống chung với nhau dưới một mái nhà. Những đôi uyên ương, những gia đình hạnh phúc khi bị yểm mằn ghét có thể sẽ tan rã, chia ly. Cũng vì uy lực của hai loại mằn tình cảm này nên thầy mằn thường tìm hiểu rất kỹ nguyên nhân của người đến xin mằn rồi mới quyết định làm hay không.

Có tìm hiểu thì mới thấy rằng tạm bỏ qua thực hư tác dụng thần kỳ của bùa chú thì ít nhất bùa chú cũng có tác dụng làm yên gió bão trong lòng người. Ngoài ra, cứ nhìn vào những yêu cầu khắc khe khi các thầy mằn làm bùa và việc họ tuyển lựa truyền nhân, thì mới thấy rằng mục đích cơ bản của bùa chú là giúp đỡ con người và mang đầy tính thiện. Tuy vậy, với việc các thầy bùa đang dần biến mất, có lẽ chỉ một vài năm nữa, họ sẽ là những con người của quá khứ và chỉ được nhắc đến trong những câu chuyện huyền bí kèm theo những câu hỏi về một thế giới bí ẩn mang tên bùa chú mà thôi.

Chí Dũng









Similar Topics Collapse

13 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 13 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |