Jump to content

Advertisements




Truyện ngắn huyền bí - hiendde


1072 replies to this topic

#376 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 11/11/2011 - 21:25

ÁM ẢNH NỖI KHIẾP SỢ MANG TÊN TRÙNG TANG

Có những cái chết đến đột ngột và liên tiếp trong một gia đình, dòng tộc khiến nhiều người không khỏi khiếp sợ và gọi đó là thảm họa “trùng tang”. Dân gian truyền tụng, cách duy nhất để hóa giải là phải “nhốt trùng”. Xưa nay dân gian vẫn truyền tai nếu người nào đó chết đúng vào giờ trùng (Dần, Thân, Tỵ, Hợi) thì sẽ “mang theo” hàng loạt những người thân thích trong một khoảng thời gian ngắn sau đó. Nhiều người khẳng định nguồn cơn của thảm họa này là do âm binh nổi loạn, tuy nhiên khi giải thích dựa trên các luận cứ khoa học, “thảm họa” này hoàn toàn có thể kiểm soát được.

Những cái chết bí ẩn

Nói về hiện tượng “trùng tang”, nhiều người thừa nhận đây hoàn toàn là câu chuyện có thật. Thậm chí có người còn khẳng định đã từng chứng kiến nhà có nhân đinh đông đúc đến 5-6 người nhưng chỉ vài ba năm lại phải chịu cảnh tuyệt tự. Bản thân là một cán bộ công chức tại tỉnh Thái Nguyên, chưa khi nào anh Thành tin vào chuyện cúng bái, lễ lạt nhưng rồi mọi nếp nghĩ đã thay đổi sau khi anh chứng kiến những cái chết ly kỳ ngay trong chính gia đình mình.

Ông nội anh sinh năm Mậu Thìn 1928, mất năm 2001 vì ung thư gan vào đúng giờ Tỵ, ngày Tỵ, tháng Tỵ. 2 năm sau đó, bà nội anh đột nhiên ốm nặng. Khi biết bà khó qua khỏi, gia đình vội vã lo cải táng cho ông nhưng khi chưa cắt tang xong thì sáng cùng ngày bà đã mất. Kế đó, khi chưa qua 100 ngày bà mất thì anh trai cả anh Thành không may bị điện giật qua đời ở tuổi 52. Quá lo sợ vì những người thân thích đột ngột ra đi liên tiếp, vợ chồng anh Thành đã phải đánh xe xuống tận Hà Nội xem bói theo lời giới thiệu của người quen và được thầy phán là "trùng tang", cần phải làm lễ hóa giải mới mong thoát tai ương.

Trường hợp của gia đình anh Hải (Thái Thuy, Thái Bình) còn thương tâm hơn. Anh cho biết ông nội anh mất từ khi anh chưa ra đời, đến cuối năm 1997 bà nội mất. Năm 1998 liên tiếp mẹ anh, bố anh rồi bà ngoại mất trong vòng chưa đầy 80 ngày. Mộ cũ chưa xanh cỏ, mộ mới lại đắp lên, gia đình lo lắng, hoảng hốt đến mất ăn mất ngủ. Vợ anh đêm nào cũng nằm mơ các cụ quay về dọa bắt tiếp con cháu. Bạn bè mách nước, gia đình anh phải đi đón pháp sư tận Bắc Ninh về trấn bùa. Theo giải thích, “trùng” chỉ bắt những người cùng huyết thống, không bắt những người có quan hệ dâu, rể. Những gia đình bị trùng tang, cách duy nhất để hóa giải là phải “gửi vong” lên chùa Hàm Long (Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh).

Đồn đoán về nơi đệ nhất giữ vong

Theo khuyên nhủ của nhiều bậc cao niên, khi nhà có người chết trùng, phải lập tức gửi người đó lên chùa. Nếu trùng nhẹ có thể gửi lên một ngôi chùa gần nhà, hàng ngày các nhà sư sẽ đọc kinh niệm phật để vong hồn siêu thoát. Còn nếu trùng nặng, bắt buộc phải gửi vào chùa Hàm Long, được đồn đoán là trung tâm “nhốt trùng” lớn nhất cả nước. Tương truyền chùa được xây dựng vào thời Lý, là nơi tu hành của Thiền sư Dương Không Lộ. Từ xưa các vị sư tăng đã có những phương pháp trấn trùng rất huyền bí nhưng hiệu quả. Nơi đây hiện còn lưu giữ những bộ ván khắc in phù giải trùng tang liên táng từ hàng trăm năm. Hàng ngày vào mỗi buổi chiều các sư ở đây phải nấu một nồi cháo thật to để cúng thí thực cho trùng và vong bị nhốt. Người dân còn kể lại bữa nào quên là y như rằng gà vịt, chó của dân quanh vùng thay nhau chết la liệt không rõ nguyên nhân.

Thông thường sau khi đưa di ảnh của người quá cố lên chùa gia đình sẽ được phát lá bùa đeo giữ trong suốt 3 năm. Bùa này có một mặt là chữ nho, một mặt là hình phật bà quan âm. Sau khi gửi vong, gia đình sẽ được hướng dẫn cụ thể về cách kiêng kỵ. Theo đó bắt buộc ở nhà không được lập bàn thờ cúng người đã chết kể cả ngày giỗ, Tết. Vì có hương là có hồn, chỉ cần đọc tên người đã khuất, coi như là chìa khóa mở ngục để vong thoát ra ngoài. Khi đưa vong lên chùa phải nhờ người không phải là họ hàng còn nếu không cũng phải nhờ người bên họ ngoại. Vì vong chết trùng thường rất khôn ngoan, nếu thấy người quen đưa đi thì thường sẽ đi theo về hoặc tệ hơn là vong đã biết trước và không đi theo. Do vậy tuyệt đối không được bàn chuyện tiễn vong lên chùa ở nhà có người khuất. Sau 3 năm, gia đình mới được thờ cúng lại bình thường. Dân gian đồn đoán mỗi năm nhà chùa tiếp nhận hàng trăm vong từ khắp mọi nơi. Có người tận Cà Mau, Bạc Liêu cũng đáp máy bay gấp rút ra gửi vong, nhốt trùng.

Hóa giải thảm họa "trùng tang"

Vẫn có không ít người cho rằng "trùng tang" là một hiện tượng bí ẩn có thật trong đời sống và gia đình nào không may mắc phải thảm hoạ này thì chỉ còn nước cậy nhờ các pháp sư cao tay. Tuy nhiên khi nhìn nhận dưới góc độ khoa học, bức màn này đang dần được hé mở.

Dân gian bày cách chống trùng

Từ quan niệm “trùng tang” có thật, dân gian đã nghĩ ra nhiều cách để hoá giải dù chưa thật rõ bản chất của hiện tượng này là gì. Theo kinh nghiệm, sau khi tính toán, phát hiện ra người chết phạm vào giờ trùng thì ngay lập tức phải áp dụng các phương pháp “điều trị”. Trong đó ưu tiên việc gửi vong lên chùa để “nhốt trùng”. Những ngôi chùa được chọn phải là chùa có uy tín trong việc giữ vong. Tuy nhiên theo đánh giá, cách này tuy hiệu quả nhưng lại rất nguy hiểm. Nếu “công lực” của người trấn yểm không cao, thì khi người đó chết đi, trùng sẽ thoát ngục ra ngoài, gây ảnh hưởng nặng cho bản thân người đến cậy nhờ và cả gia đình của người trấn yểm.

Do vậy, phương pháp tốt nhất là sử dụng các bài thuốc trấn trùng với các vị như thần sa, chu sa, sương luật, địa liền… cho vào túi rồi yểm trong quan tài. Hoặc có thể dùng các bộ linh phù để trấn bằng cách dùng linh phù để gối đầu người đã khuất, dán lên giữa ngực, giữa rốn, hoặc lót dưới quan tài… Cũng có thể dùng bài thuốc kết hợp giữa Sớ, Phù Bắc Tông và Kỳ nam để xông vào mộ và người sống, để cầu siêu, giải thoát cho trùng, biến từ âm binh thành thiên binh…

Một số người còn cho rằng có thể áp dụng phương pháp làm huyệt giả, đổ tỏi vào huyệt khi lấp đất hay dùng thần chú, Bát quái trận đồ trấn âm trạch để hoá giải… Dù vậy, đây chỉ là những phương pháp hoá giải đầy huyền bí, không có cơ sở và thiếu tính thuyết phục.

Chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên

Cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về bản chất của hiện tượng “trùng tang”. Ngay đến một số nhà nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người cũng không muốn đưa ra bất kỳ phát biểu nào xung quanh hiện tượng này. Chúng tôi tìm đến Đại tá, TS. Đỗ Kiên Cường, tác giả của nhiều cuốn sách, lý giải các hiện trường dị thường trong đời sống dưới góc nhìn khoa học để mong tìm được lời giải đáp thoả đáng. Đứng trên quan điểm khoa học, TS. Đỗ Kiên Cường cho rằng “trùng tang” chỉ đơn giải là sự trùng hợp mang tính ngẫu nhiên. Trong đó bản chất của sự trùng hợp là luật số lớn trong lý thuyết xác suất và thống kê. Định luật này phát biểu đơn giản là: Với một mẫu xét đủ lớn, bất kỳ hiện tượng kỳ lạ nào cũng có thể xảy ra.

TS. Đỗ Kiên Cường cho biết nhà toán học Littlewood từng chỉ ra, một hiện tượng được xem là hiếm gặp đến mức ngạc nhiên khi có xác suất 1/1.000.000. Chẳng hạn trúng xổ số giải độc đắc khi quay với 6 số chính là một hiện tượng đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên nếu xổ số được quay hàng ngày, với dân số trên 80 triệu người như nước ta hiện nay, hiện tượng được xem là hiếm gặp đến mức gây ngạc nhiên đó cũng xảy ra 80 lần/ngày, tức là gần 30.000 lần/năm trên toàn Việt Nam. Ngay cả khi nó chỉ xảy ra hàng tháng, kết quả cũng là 1.000 lần/năm. Còn với 7 tỷ người trên toàn hành tinh, cái sự kiện “hiếm gặp” đó sẽ xảy ra như cơm bữa.

Cũng tương tự như vậy, với dân số trên 80 triệu người, và khoảng thời gian dài tới 1.000 ngày (3 năm) thì theo luật số lớn, hiện tượng “trùng tang” xảy ra đủ nhiều để khiến không ít gia đình khiếp sợ. Để hóa giải “trùng tang”, TS. Đỗ Kiên Cường cho rằng yếu tố tâm lý là nhân tố quyết định. Trên thực tế, sự cầu cúng, “nhốt vong”…mà nhiều gia đình thực hiện thực chất chỉ là hoạt động trấn an, khiến những người đang hoảng sợ sẽ tĩnh tâm trở lại, bình tĩnh hơn trong mọi tình huống. Và khi đã thư thái trở lại, tâm lý thoải mái, diễn tiến của các căn bệnh có thể gây tử vong cũng có chiều hướng tốt hơn (yếu tố tâm lý có thể ảnh hưởng tới khoảng 9- 40% người bệnh). Y học cho rằng niềm tin có thể giúp con người khỏe mạnh hơn về thể chất và tinh thần là vì vậy...

Đơn giản là sự cộng hưởng sóng

Nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng, hiện tượng trùng tang tương tự như một loài vật sống ký sinh trên xác người chết phạm vào giờ trùng. Đó chính là một trường năng lượng xấu tồn tại cùng với trường năng lượng của người chết phạm trùng. Cố GS Nguyễn Hoàng Phương (Hội Vật lý Việt Nam) cũng đã từng đưa khoa học vào nghiên cứu bước đầu vén bức màn bí mật về hiện tượng “trùng tang”. Theo kiến giải của cố GS Nguyễn Hoàng Phương: "Vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và tần số của trùng nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số đôi bên khác nhau nhiều, nên theo lý thuyết về nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (tần số này là bội số của tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống".

Điều này cũng giải thích được hiện tượng chỉ có những người cùng huyết thống với người chết phạm phải giờ trùng tang mới bị, còn những người khác và con dâu, con rể cùng sống trong gia đình không bị ảnh hưởng. Vì lẽ đó, cần phải hiểu một cách đúng đắn dưới góc độ khoa học để những nỗi sợ hão huyền về “trùng tang” không còn tồn tại. Theo TS. Đỗ Kiên Cường, việc có kiêng, có lành là quan niệm từ lâu trong dân gian, và chúng ta nên nhìn nhận nó dưới góc độ là bộ môn tâm lý học hiện đại chứ không phải theo các quan điểm siêu hình. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều “thầy” lại vin vào đó để lập đàn cúng tế, đốt vàng mã… gây tốn kém, hoang mang trong nhân dân là điều khó chấp nhận.

Đức Tâm


#377 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 11/11/2011 - 22:06

BÍ ẨN VỀ KHO BÁU VÀ CHUYỆN YỂM BÙA KHÓ TIN Ở HÀ NỘI

Theo nhiều người dân trong làng, không chỉ có ông Hận mà những người tham gia vào cuộc tìm kiếm vàng trên núi thủa trước, giờ ai cũng “gặp chuyện xui”. Có người phá sản, người nghèo đói túng quẫn, người bệnh tật, người chết trẻ hoặc con cái lục đục… Cách trung tâm Hà Nội chưa đầy 15 km, thôn Vân Đồn, xã Vân Côn, huyện Hoài Đức nhờ nằm men theo đại lộ Thăng Long, đại lộ lớn nhất Việt Nam, mà nay đã thay da đổi thịt nhiều lắm. Không còn nhà cửa lúp xúp của một ngôi làng thuần nông, Vân Côn giờ nhộn nhịp với những ngôi nhà cao tầng mọc lên như nấm, chợ búa sầm uất… Thế nhưng, đằng sau vẻ ngoài hào nhoáng, ít ai biết rằng, có một câu chuyện mang đầy tính huyễn hoặc, liêu trai tồn tại cả trăm năm nay trên ngọn núi Bạch Tuyết. Câu chuyện được lưu truyền trong ngôi làng mà mỗi khi nhắc đến những người biết chuyện cũng 5, 7 phần run sợ…

Truyền thuyết về chuyện yểm bùa khó tin trên núi thiêng

Khi chúng tôi tìm đến nhà Nguyễn Văn Phê (72 tuổi) nằm san sát bên sườn ngọn núi thiêng, ông đang bận rộn dọn dẹp nhà cửa. Nhưng vừa nghe chúng tôi nói lý do, ông vội vàng ngừng tay và nói khe khẽ như sợ ai nghe thấy: “Mời chị vào nhà, uống nước rồi nói chuyện”. Ông bảo, ông vốn là bộ đội về hưu, cũng không hẳn là người duy tâm, tuy nhiên, nhắc đến những chuyện linh thiêng thì phải giữ mồm giữ miệng. Cứ oang oang như chuyện buôn bán ngoài chợ, “thánh” quở chết.

Nhấp ngụm nước chè, ông lim dim nhớ lại: “Chẳng biết câu chuyện được lưu truyền từ bao nhiêu đời, nhưng từ khi tôi còn bé đã nghe người lớn kể lại rất nhiều truyền thuyết về ngọn núi. Theo lời cha ông, từ thời Trung Quốc xâm lược nước ta, chúng để lại dưới chân ngọn núi rất nhiều vàng bạc, kho báu, của nả. Và để giữ của, chúng đã nuôi một cô gái trong vòng 100 ngày. Thế rồi, sau 100 ngày, người con gái trinh nữ có nước da trắng ngần, mái tóc đen dài óng ả ấy bị thả xuống hố để chôn sống làm thần giữ của. Từ đó, linh hồn người con gái bị yểm bùa ấy cứ quanh quất bên ngọn núi. Có người quả quyết khi đi ngang qua ngọn núi nhìn thấy những con trăn khổng lồ hay con lợn vàng. Những câu chuyện như thế càng khiến người làng đinh ninh rằng, ngọn núi này rất thiêng, vì thế, không ai dám bén mảng gần. Nếu có chuyện gì phải đi qua ngọn núi thì cũng gắng đi thật nhanh hoặc đi vòng đường khác dù xa gấp mấy lần.

Thế nhưng, trong làng có ông Trẻ Cu, người chẳng sợ gì ma quỷ thánh thần. Ông Trẻ Cu cứ lùa trâu lên núi đó chăn, rồi vào tán cây cạnh những phiến đá đó nằm ngủ. Một hôm, đang ngủ, ông giật mình bởi thấy có tiếng nói từ trong núi vọng ra rằng nếu ông mang một mâm xôi, một con gà trống thiến đến núi thắp hương thì thần núi sẽ trả một con gà bằng vàng. Nghe thế, ông Trẻ Cu mừng rỡ về nhà vay mượn tiền mua xôi, gà như thần núi đã dặn. Thắp hương xong thì quả thật, từ trong kẽ đá, một đàn gà bằng vàng kéo nhau chạy ra. Tuy nhiên, thần núi chỉ cho ông bắt con gà què đi phía sau cùng. Ông đã không đồng ý với giao kèo đó và đàn gà biến mất. Tức khí, ông Trẻ Cu mang chõng lên núi nằm ăn vạ. Tuy nhiên, cứ đêm kê võng nằm trên núi thì sáng mở mắt ra, ông lại thấy mình nằm ở dưới đồng. Chuyện đó lặp đi lặp lại nhiều lần, lại không thấy đàn gà trên xuất hiện nữa, nản chí ông Trẻ Cu đành bỏ cuộc…”.

Khép lại những câu chuyện được “thừa hưởng” từ đời trước trên, ông Phê bảo, ông không tin nhiều vào những chuyện đầy yếu tố hoang đường trên nhưng không có lửa thì làm sao có khói. Chắc chắn trong lòng núi Bạch Tuyết có cất chứa một điều gì bí mật. Và, sự hồ nghi đó càng có cơ sở khi cách đây chừng 30 năm, một đại gia ở Vân Côn đã tổ chức một cuộc khai quật quy mô lớn ở ngọn núi này. Cuộc tìm kiếm đó tuy không tìm thấy bạc vàng châu báu nhưng những gì đoàn tìm kiếm tận thấy, trải qua càng làm mọi người tin hơn chuyện người Tàu giấu của ở ngọn núi này. Đó là ông Nguyễn Tài Hận, cũng là một người dân trong xã.

Cuộc săn vàng và sự lụn bại của một đại gia

Theo lời chỉ dẫn của ông Phê, chúng tôi tìm đến nhà ông Nguyễn Tài Hận, người được mệnh danh là một đại gia nức tiếng một thời. Nhắc đến chuyện cũ, ông Hận vẫn còn ngẩn ngơ: “Đúng là cách đây 30 năm tôi có đứng ra tổ chức một cuộc tìm kiếm vàng dưới chân ngọn núi. Nhưng quả tình, tôi cũng không muốn nhắc lại chuyện này nữa, có lẽ, cũng vì nó mà tôi khuynh gia bại sản, việc làm ăn chao đảo đến 5, 7 lần”.

Theo lời ông Hận, vào những năm 80 của thế kỷ trước. Ông vốn là một người nức tiếng giàu có nhất làng, xã thậm chí nhất huyện lúc bấy giờ. Việc kinh doanh buôn bán của ông trải dài khắp trong Nam, ngoài Bắc. Ông buôn từ gỗ lạt, than củi, rồi đốt lò gạch rồi đến trâu bò… Ông bảo, cứ cái gì sinh lời là ông buôn. Cũng chính bởi đầu óc nhanh nhạy nên việc kinh doanh của ông phất như diều gặp gió. Độ ấy, nhìn phong thái ung dung đĩnh đac, quần áo là lượt và gia tài kếch xù, ông đi đâu cũng được người dân trong làng xã đôi phần kính nể. Ngôi nhà khang trang 5 gian của ông khi xây lên phải đóng mất một số tiền tương đương với 10 chiếc xe “kích” thời ấy. Nhưng tất cả sự giàu có ấy đã trở thành một câu chuyện dĩ vãng khi ông bắt tay vào việc tìm kiếm kho báu dưới chân núi cô Tiên.

Theo lời ông Hận, đó là vào khoảng năm 1982. Khi đó, người dân trong xã đa phần là đói kém. Dù rất sợ ngọn núi thiêng, nhưng nhiều lúc thiếu ăn, một số người vẫn làm liều, khoét đất khoanh chân núi đem bán để lấy tiền đong gạo. Khi đào hết lớp đất mỏng thì bỗng hiện ra một luồng đá được lát như một con đường chạy thẳng vào núi mà chỉ nhìn qua cũng biết đó là do bàn tay con người làm. Vốn vẫn tin là ngọn núi có vàng, vì thế, khi nhìn thấy con đường này nhiều người đã mừng như mở cờ trong bụng, nhưng vẫn e ngại sợ “thần giữ của”. Khi ấy, ông Hận vốn là người cùng xã nhưng khác thôn đi qua, thấy ông mấy người đàn ông liền “rủ rê”: “Ông có chung với chúng tôi không?”. Rồi nháy mắt chỉ vào lối đi được lát những phiến đá xanh kỳ bí. Ông Hận gật đầu.

Ông đồng ý tài trợ mọi kinh phí cho cuộc tìm kiếm bao gồm tiền ăn cho hơn chục trai đinh, tiền mua dụng cụ khai quật. Tuy nhiên, chẳng ham hố chuyện của nả từ đất chui lên, từ trời rơi xuống, ông chỉ bảo mọi người thực hiện cam kết nếu tìm được vàng bạc thì mọi người chia nhau, còn tìm thấy cổ vật thì ông được hưởng. Cứ theo hai hàng đá ấy, sau chục ngày đào bới, mọi người đã khoét một đường hầm ăn xiên vào núi theo hướng nghiêng 30 độ. Đào được chừng 15 m thì bắt gặp một phiến đá lớn chắn ngang giao thông hào. Bị chặn đường, mọi người đào rộng ra hai bên đến vài mét nhưng phiến đá vẫn chắn ngang trước mặt. Đào sang hai bên không được, ông Hận chỉ đạo mọi người đào sâu xuống chân phiến đá. Và, thật bất ngờ, khi đào xuống được chừng hơn mét thì thấy trên phiến đá đó có một lỗ nhỏ bằng chừng bắp chân người. Lỗ ấy đã bị đất mít kín. Thuốn sắt, thấy phiến đá không dày, ông Hận hạ lệnh dùng búa mở rộng lỗ thông có sẵn đó. Khi “cửa hang” được mở ra, chui vào trong, đoàn tìm kiếm phát hiện một khoảng trống rộng chừng nửa gian nhà. Khoảng trống đó do ba phiến đá chụp ngọn vào nhau tạo thành. Soi đèn kiếm tìm, ông Hận thấy ở phiến đá đối diện cửa hang có hình con rùa đang chũi đầu xuống đất.

Ông Hận kể, lúc đầu ông và mọi người cũng tưởng hình con rùa đó là do tự nhiên vô tình tạo nên nhưng khi cạo lớp đất dính trên phiến đá ấy ra thì hoàn toàn không phải. Những họa tiết, hình khối trên phiến đá đó rất rõ ràng, sắc nét. Ngoài hình con rùa trên thì trong khoang trống đó mọi người không thu được bất cứ vật gì. Bị ba phiến đá bủa vây, ông Hận và mọi người đã cố sức mở lối đi sâu vào trong nhưng vô hiệu. Không như phiến đá ở ngoài, hai phiến đá khép góc phía trong cứng hơn thép. Búa tạ phang vào chỉ thấy tóe lửa sáng lòa, khét lẹt chứ chẳng hề sứt mẻ, xây xát, sức người không tài nào đánh sập nổi. Thế là cuộc tìm kiếm khép lại. Ông Hận bảo, cũng từ bận ấy, chẳng biết là sự trùng hợp hay sự trừng phạt của “thánh thần” mà chuyện làm ăn của ông liên tiếp gặp vận rủi. Từ một đại gia tiền nhiều không kể xiết, mấy lần ông chịu cảnh trắng tay. Làm ăn thua lỗ, phá sản, và khó khăn lắm ông mới trụ được, nhưng mãi chỉ ở mức trung bình. Thời vàng son của đại gia Nguyễn Tài Hận cũng chấm dứt từ đây.

Ngọn núi linh thiêng

Theo nhiều người dân trong làng, không chỉ có ông Hận mà những người tham gia vào cuộc tìm kiếm thủa xưa, giờ ai ai cũng “gặp chuyện xui”. Có người phá sản, người nghèo đói túng quẫn, người bệnh tật, người chết trẻ hoặc con cái lục đục… Một trong số ít những người còn lại trong làng không bị “vận” là ông Vũ Văn Tỵ. Khi chúng tôi đến nhà, ông Tỵ đang đi vắng chỉ còn vợ ông, bà Vũ Thị Đang ở nhà. Vừa nghe hỏi chuyện, bà Đang đã vội vàng xua tay: “Thời ấy chồng tôi cũng tham gia nhưng chỉ một vài ngày thôi. Thấy nhiều chuyện hãi hùng thì vội vàng dừng lại, sau chỉ đứng xem”. Bà Đang bảo, không chỉ thời xưa, mà ngay hiện nay người dân trong làng vẫn luôn tin có vàng dưới chân ngọn núi. Nhưng từ câu chuyện thủa trước mà chẳng ai dám nghĩ đến việc đào bới lần nữa. Bản thân bà hiện nay cũng chẳng mấy khi dám đi ngang qua ngọn núi thiêng ấy vì… sợ.

Bà bảo, không ít người con gái đi ngang qua đây đã bị “bắt vía”. Cứ trở nên ngớ ngẩn, ăn nói lảm nhảm, lúc khóc lúc cười. “Như nhà cô Hạnh đầu xóm, người mới nhất bị “bắt vía” đấy. Phải mất mấy tháng mới lại trở lại bình thường đấy. Chính vì sự linh thiêng của ngọn núi nên khách thập phương ngày rằm, lễ Tết tìm về đây cúng bái đấy”, bà Đang kể, như để minh chứng cho câu chuyện của bà. Ngọn núi Bạch Tuyết hay núi Cô Tiên linh thiêng của làng giờ đã được san lấp gần như bằng phẳng thành đường đi, nhà ở. Giờ chỉ còn dấu tích là 4 tảng đá chụm vào nhau, người dân trong xã đã xây tường bao trở thành nơi thờ cúng.

Lê Trang


#378 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 11/11/2011 - 22:27

KỲ BÍ DỊ NHÂN CHỮA RẮN CẮN BẰNG THẦN CHÚ

Người bị rắn độc cắn, dù nặng đến đâu, nhưng ông chỉ cần dùng ống nứa, ba quả cau, ba lá trầu tươi là người đó khỏi bệnh. Cách chữa trị kỳ lạ của ông rất ly kỳ nhưng lại hiệu quả.

Chữa rắn cắn bằng ống nứa, cau trầu và câu thần chú

Tình cờ tôi nghe một người quen kể về cách chữa rắn độc cắn bằng phương pháp có một không hai của ông Bùi Hồng Thái 73 tuổi, trú tại thôn Châu Sơn, xã Thạch Bình, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. Vốn không tin vào mê tín dị đoan nên khi nghe câu chuyện nói trên tôi một mực không tin và quyết tâm đến diện kiến bậc cao niên “dị nhân” này. Con đường về xã Thạch Bình trở nên khó đi hơn do những ngày vừa qua trời đổ mưa khiến nó lầy lội, trơn trượt. Mãi rồi tôi cũng tìm đến được nhà ông khi đã xế trưa, căn nhà cấp bốn đơn sơ nằm ven bên con sông Bưởi thơ mộng.

Ông Bùi Hồng Thái nay đã bước sang tuổi thất thập cổ lai hi nhưng trông dáng vóc còn quắc thước, nhanh nhẹn lắm. Mái tóc bạc trắng, vầng trán nhô cao là những ấn tượng đầu tiên đọng lại trong tôi khi tiếp xúc với “dị nhân” này. Bước vào câu chuyện, ông Thái cho biết, chữa rắn cắn bằng ống nứa và cau trầu là nghề gia truyền bao đời nay của gia đình ông. Mẹ ông là cụ bà Bùi Thị Thao, chính là người tìm ra phương pháp chữa rắn cắn kỳ lạ này. Chính cụ Thao đã cứu sống rất nhiều người bằng cách chữa trị này. Sau khi cụ qua đời đã tryền lại cho ông kèm theo lời dặn: “Để trở thành một lương y tốt là việc rất khó, con phải biết trân trọng nghề để tận tâm cứu chữa người bệnh”.

Thừa hưởng bí quyết được mẹ truyền lại cho, ông Thái đã vận dụng nó cứu sống hàng trăm người thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Nói rồi ông thắp hương khấn vái bàn thờ tổ tiên xin lấy vật dùng để chữa rắn cắn cho tôi xem. Ông Thái kể, dụng cụ chữa rắn cắn của mẹ ông để lại chỉ có một ống nứa và mấy câu thần chú. Khi có người bị rắn cắn dù độc đến đâu nhưng ông chỉ cần lấy ống nứa, ba quả cau, ba lá trầu tươi chia làm 9 miếng đều nhau, sau đó dùng ống nứa, cau trầu thổi 81 lần lên người bệnh rồi đọc mấy câu thần chú là người đó sẽ khỏi ngay, không cần bôi thuốc hay dùng bất cứ một thứ gì khác.

“Mỗi đời chỉ có thể truyền lại cho một người trong gia đình cách chữa trị này. Người đó phải lĩnh hội được bí quyết mà người trước truyền lại cho mình thì mới chữa trị khỏi bệnh được. Ống nứa mà tôi dùng chữa rắn cắn cho bà con hiện nay là do mẹ tôi để lại, nó được thờ cúng trên bàn thờ tổ tiên, chỉ khi nào có người đến nhờ cứu giúp thì mới thắp hương xin phép đưa ra dùng, xong việc lại để lên bàn thờ cúng”, ông Thái cho hay.

Theo quan sát của chúng tôi, ống nứa chỉ dài khoảng 30cm, bề ngoài ống nứa trơn bóng do sử dụng đã nhiều năm, ngoài ra thì không thấy gì đặc biệt cả. “Bí quyết của nó nằm ở những câu thần chú, mà chỉ có người được truyền nghề biết được, ngoài ra không thể cho ai biết nữa cả”, ông Thái lý giải. Với cách chữa trị như trên, dù người hoặc con vật bị rắn cắn có nặng đến đâu thì khi được ông chữa khoảng 30 phút sau là khỏe lại, vết thương cũng tự nhiên biến mất và lành lặn như thường.

Khi hỏi về bí quyết về cách chữa bệnh của mình, ông Bùi Hồng Thái thành thật nói: “Thật sự chính bản thân tôi cũng không lý giải được điều đó, có thể đó là một điều tâm linh, duy tâm của ông bà xưa truyền lại, nhưng khi áp dụng vào thực tế thì hoàn toàn hiệu nghiệm. Giờ tuổi già, tôi muốn truyền lại cách chữa bệnh độc đáo ấy cho thế hệ sau, thế nhưng cả sáu người con của tôi vẫn chưa ai lĩnh hội được”.

Đi tìm những nhân chứng từng chữa trị bắng cách thổi ống nứa

Người dân trong vùng cho biết, có tận mắt chứng kiến cách chữa trị của ông Thái thì càng thấy nó ly kỳ vô cùng nhưng cũng rất hiệu quả. Năm ngoái có một người dân trong vùng vào đừng đốn cúi không may bị rắn cạp nia cắn vào cổ, toàn thân bị thâm đen, bất tỉnh. Ai cũng nghĩ người này sẽ không qua khỏi nhưng khi được ông Thái chữa trị bằng phương pháp dùng ống nứa, cau, thổi 81 lần lên người, đọc thần chú thì người này sau một lúc đã tỉnh lại, dần dần hồi phục và khỏe hẳn.

Một trong những người được ông Thái cứu sống bằng cách trên là Bác sĩ Nguyễn Hữu Việt, nguyên là phó giám đốc bệnh viện đa khoa huyện Thạch Thành cho hay: “Đợt đó tôi bị rắn độc cắn, người nhà nhờ ông Thái đến chữa trị, chỉ với cách làm đơn giản trên, tôi đã thoát khỏi cái chết. Trước đó gia đình có đưa tôi đi bệnh viện nhưng không được, quả thật tôi đã may mắn khi được ông Thái cứu sống. Mặc dù cách chữa trị của ông Thái rất kỳ bí, khó hiểu, thậm chí là rất tâm linh nhưng lại hiệu quả vô cùng, tôi là Bác sĩ lâu năm mà cũng rất nhạc nhiên về cách chữa trị này. Dù sao đây cũng là một việc đáng mừng cho người dân trong vùng vì quê tôi là đồi núi, rắt rết rất nhiều, người bị rắn cắn xảy ra thường xuyên nên ông Thái là cứu tinh cho bà con nơi đây khi bị rắn cắn”.

Nhiều trường hợp khác bị rắn cắn nặng hơn ông Việt như trường hợp của anh Bùi Văn Sơn, trú tại xã Thành Long, cháu Bùi Thị Lan, ở xã Thạch Bình bị rắn cạp nia cắn tưởng không qua khỏi nhưng khi được ông Thái chữa trị đều qua cơn nguy kịch. Hiện tại, họ vẫn sống khỏe mạnh và không hề có di chứng gì để lại. Hay như trường hợp của anh Trương Văn Hạnh, trú tại thôn Yên Phú, xã Thạch Bình cũng tương tự như vậy. Anh Bình cho biết: “ Năm ngoái tôi bị rắn cạp nia cắn, nọc độc quá mạnh, phát tán rất nhanh, chỉ sau mấy phút bị rắn cắn toàn thân tôi đã cứng đờ, gia đình tưởng không qua khỏi nên đã chuẩn bị hậu sự, người thân ai nấy khóc ầm lên. May mắn thay, có người hàng xóm sau khi biết sự việc đã nói người mời ông Thái đến chữa trị cho tôi. Sau hơn 30 phút được ông thái chữa trị tôi đã tỉnh dậy, cảm giác đau đớn do rắn cắn dần biến mất và sau đó thì tôi khỏe hẳn. Tôi cũng không biết được ông thái chữa bằng cách nào nhưng có điều là ông ấy không chạm vào cơ thể và vết thương trên người tôi, thế mà sau đó tôi lại khỏi, đúng là một điều thần kỳ”.

Làm phúc cứu người không màng danh lợi

Cho đến nay, khi được hỏi về những nạn nhân bị rắn cắn được ông chữa trị thì bác Bùi Hồng Thái cũng không nhớ nổi nữa. Nhưng chắc chắn một điều là con số đó lên đến hàng trăm người.
Ông Bùi Hồng Thái vốn là một nhà giáo về hưu, trước đây ông học ngành sư phạm chứ không phải là nghành y. Sau khi ra trường ông làm ở phòng giáo dục huyện Thạch Thành và được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng ở nhiều trường THCS, tiểu học trong huyện. Mãi năm 1988, ông mới nghỉ hưu khi đang giữ chức vụ Phó hiệu trưởng Trường tiểu học Thạch Cẩm.

Mặc dù đã cứu nhiều người thoát khỏi tay thần chết nhưng chưa bao giờ ông Thái màng đến danh lợi hay hậu tạ của gia đình nạn nhân. Với ông Thái, chữa rắn cắn ông không xem là một nghề mưu sinh mà đó là cái tâm làm phúc, cứu người. Những người đưa người thân bị rắn cắn đến nhờ ông cứu không được nhắc đến chuyện trả ơn. Ông chỉ coi như họ gặp nạn đến xin thuốc của tổ tiên mình nên nhiệt tình giúp chứ không màng đến vật chất. Người thành tâm thì mua một chai rượu, lạng chè và vài quả cau trầu để thắp hương dâng lên Thánh sư, tổ tiên của ông là được.

Cũng chính vì cái tâm cao cả đó của ông mà nhiều người sau khi được ông cứu chữa khỏi bệnh quay lại hậu tạ ông bằng cách nhận ông làm cha nuôi. Và tất nhiên ông Thái rất vui mừng vì điều đó. Người dân ở đây thường nói vui, cả cái vùng này không ai nhiều con bằng ông Thái, không phải ông sinh nhiều mà chủ yếu là con nuôi. Hiện tại ông có trên 30 người con nuôi. Họ là những người bị rắn cắn được ông chữa trị, xem ông là ân nhân cứu mạng sống của mình, tất thảy họ đều xem ông như cha của mình. Ông Thái cũng rất tự hào khi được bà con nói như vậy. Giờ đây, bước sang cái tuổi 73, ông Bùi Hồng Thái vẫn tận tâm cứu chữa những người bị rắn độc cắn. Ngay trong căn nhà nhỏ ba gian của gia đình, ông vẫn dành riêng một nơi để đặt chiếc giường cho những người đến nhờ ông chữa trị có chỗ ngả lưng và sau khi chữa bệnh được nghỉ ngơi. Hiện ông là Trưởng ban chấp hành Hội người cao tuổi thôn Châu Sơn.

Bưu điện Việt Nam

#379 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/11/2011 - 00:51

BÁO OÁN

Ở cuối lịch niên hiệu Duy Tân năm thứ mười, bia vàng nhòe nét son sấy kim ấn toà Khâm Thiên Gián, thấy tiết thu phân và ngày lập thu qua đã lâu rồi. Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt than vãn triền miên của kỳ Ngâu còn kéo dài mãi đến bây giờ. Xứ đồng chiêm Sơn Nam hạ đã biến thành một vùng nước rộng nhấp nhô những con đò đồng li ti. Sóng đồng hỗn loạn vỗ vào mép những con đường đất thó nhuyễn và những bờ luỹ tre già ướt át. Làng mạc vùng quê Nam Định nhói lên khỏi làn nước trắng lạnh như những quần đảo xanh một màu hoang vu. Nước mùa mưa hợp các xứ đồng chiêm lại thành một khối lớn và trên nước đồng mông quạnh, những con thuyền thúng đi về nhiều như tre rụng lá mùa thu. Đêm mưa gió, mặt nước bình rộng âm hưởng rất xa cái tiếng kêu đánh cướp nhóm lên từ những làng cù lao lẻ loi.

Bên bờ đường cái quan, hoa hòe nở vàng ối. Dậm hòa đất Sơn Nam hạ trổ bông đã từ lâu. Hoè đã rầu cánh, vàng úa tối mãi xuống. “Hòe hoa vàng, cử tử mang”. Thấy dậm hòa ngả màu vàng, lòng những người có chữ bắt đầu bận bịu. Dưới mảnh trời sụt sùi, hòe vàng nở đều, làm ấm lại lòng người sĩ tơ tưởng đến sự hiển đạt về sau này. Màu vàng của sắc hoa nơi dậm hòa đã nhắc bao nhiêu học trò vùng Sơn Nam hạ phải nghĩ đến cái màu vàng một tấm giấy cáo trục phong tặng, hoặc là phần hoàng mai sau cho hai đấng sinh thành.

Một hôm kinh truyện sũng ướt nước mưa, ôm khư khư mà ngồi trong lòng một chiếc đò đầy đang tìm lại bến cũ, ông Đầu Xứ Em nghĩ xem giờ xuống tỉnh, nên trọ nhà ai cho tiện trong suốt một kỳ thi. Cái nhà bà Phùng quen kia đã chật hết chỗ rồi. Hoa hòe lả tả đánh rớt những cánh vàng nâu cuối cùng lên bả vai bao nhiêu học trò các vùng đổ về tỉnh Nam. Năm nay nhà nước lại mở khoa thi. Một khoa thi cuối cùng. Có những ông đồ già tóc râu đã ngả bạc màu vì sự đùa nhả của công danh đánh lừa suốt mấy phen, chuyến này cũng cố chen ra hồ vớt lấy một chút phấn hương cuối chầu của triều đình.

Trường Hà Nam hợp thi khoa Mậu Ngọ có ông Đầu Xứ Em dự, còn nhộn nhịp gấp mấy khoa Ất Mão trước. Khoa Ất Mão trước, ông Đầu Xứ Anh bị loại ngay vòng đầu, bay kỳ kinh nghĩa. Khoa Mậu Ngọ này, ông Đầu Xứ Anh nhất định không đi nữa, mặc dầu đây là khoa cuối cùng, rồi đây bãi hẳn sự thi cử. Ở vào buổi giao thời, nếu người ta còn cái lòng công danh thì khoa thi Mậu Ngọ là một chuyến thuyền vượt biển cuối cùng. Từ Mậu Ngọ về sau, sẽ mở một thời khác, chữ Hán chỉ còn là một thứ xa xỉ phẩm trong học vấn của một lớp người. Từ sau khoa này, cái lều chõng chỉ là những vật cổ tích mỗi khi nhắc tới lại gợi một chút nhớ tiếc trong lòng một đám người, còn sống thêm một ngày là càng chỉ thêm một ngày bỡ ngỡ với phong hội mới.

Ông Đầu Xứ Anh nhất định không nộp quyển khoa này, tuy bao nhiêu người, từ Quan Đốc tỉnh cho đến anh em đồng song, thảy đều gởi hy vọng vào ông. Thơ phú làm rất nhanh: sách nhớ có thể vạch ra từng chương từng tiết một. Tính người lại điềm đạm hồn hậu; ai nấy đều khen nhà ông có đất học. Khen rồi lại lấy làm lạ cho ông. Có một ông tam trường khoa trước lại ngờ hay là khoa này, tại nhà nước bắt đám sĩ tử phải chụp ảnh dán vào quyển nộp mà ông Đầu Xứ Anh không đi chăng... Có một hôm, đang cùng mấy người dạo chơi ở phố Hàng Thao, nhận được tin này, chính ông Đầu Xứ Anh đã kêu: “Từ trước tới nay, có bao giờ như thế. Nhà nước Bảo hộ, đãi đám sĩ phu trong nước, thật không ra quái gì. Chụp hết ảnh ông Thám, ông Đề, chụp đến nhà pha, nay lại chụp nốt học trò."

Hôm người em là ông Đầu Xứ Em xuôi tỉnh để soạn sửa đi thi; ông Đầu Xứ Anh đưa ra khỏi cái dốc đầu làng và lúc ông Đầu Xứ Em đã ngồi gọn trong lòng đò đồng, ông dặn:

- Xuống tỉnh, nhà bà Phùng đã đông người ở trọ rồi, có phải ở chỗ khác, chú có ở đâu, cũng cứ tạt lại đấy mà nhắn hộ cho tôi. Đến hôm các quan tiến trường, cữ hạ tuần tháng này, thế nào tôi cũng có mặt dưới tỉnh.

Người em đứng dậy, nói với lại, làm chiềng con đò đầy.

- Cô Trinh, con gái út bà Phùng, hình như vẫn chưa lấy chồng phải không anh... Khoa Tý năm trước anh cũng trọ ở đấy phải không...

Người em cũng muốn tiết nỗi vui ra ngoài một cách quá đáng để trấn tỉnh cái rối ren trong bụng một người đi thi. Ông Đầu Xứ Anh nói lảng ra ngoài câu hỏi:

- Cứ quanh quẩn ở phố Cửa Trường ấy thôi nhé. Đi về nó tiện hơn. Ở đây dễ gặp anh em các nơi về thi.

Mấy đám hàng xáo người làng trên qua đây ghé đò xuôi chợ, không nhao nhao lên nữa như lúc mới nghiêng mạn đò vừa rồi. Họ ra vẻ nể nang, ngồi thu hình lại, quơ lại một góc mấy lũ tay nải và bì cói, cốt để dọn cho người học trò xuống tỉnh đi thi kia một chỗ ngồi rộng rãi. Đáy con đò, dính chắc vào đất sét lòng bến nông. Cô hàng gạo, buộc lại múi khăn mỏ quạ, nhìn cậu khóa không mỏi mắt, mỗi lúc ngượng nghịu lại nhổ cốt trầu xuống đồng nước. Gió đồng hôm nay không thổi. Bãi quết trầu đỏ lặng im giữa làn nước nhợt nhạt, rồi chậm chạp tan hòa vào nước cánh đồng chiêm, mỗi khi nhìn rộng ra, chỉ rặt một màu bao la nhờ nhờ. Người lái đò mặc áo tơi kín phủ thân, chụp nón mê lấp cả mặt, đã rút đầu sào khỏi mặt nước. Con đò đầy cựa quậy, bốc nhẹ, rồi trườn mình ra xa. Trời bắt đầu nổi gió rét. Mưa thu lộp độp gõ xuống áo tơi nón lá của một chuyến đò đồng. Dưới gốc cây hòe già chỗ dốc đê làng, ông Đầu Xứ Anh vẫn đứng nhìn theo.

Tinh mơ ngày hai mươi nhăm tháng chín, tại khu trường thi Nam Định, các quan làm lễ tiến trường. Hai chiếc lọng vàng nghiêng phủ xuống lá cờ và tấm biển có chữ “phụng chỉ”, “khâm sai”, bốn cây lọng xanh ghé thấp tịt xuống một cái đầu bạc đại khoa. Mùi nghi vệ mới phảng phất ít hôm trước thì sớm nay đã nổi dậy trên khắp một mảnh đất mà mọi khi chỉ có gió chạy trên hoa cỏ may hiu hắt từng cơn. Ánh sáng ban ngày vắng đi mãi đến những đâu mà đến bây giờ vẫn chưa thấy trở về. Từ hôm có gió vàng pha mùi cơn bấc đến nay, chưa bao giờ thấy cái âm u tẻ lạnh đến nhường ấy. Gần giữa giờ thìn rồi mà tối và sáng chưa phân tách hẳn được ra. Người đứng bao quanh đàn cúng, vẫn chỉ thấy ánh sáng mấy chục ngọn nến bạch lạp rọi vào đàn tế, trên đàn phủ phục ba cổ tam sinh còng queo: một con trâu và một con dê đen thui kèm con lợn cạo trắng mở to cặp mắt chết.

Mặt đất sáng hơn nền trời. Cuộc tế tiến trường như đang lắng chờ một sự biến gì. Gió cũng không muốn thổi. Mấy ngọn sáp không lung lay, vệt khói xám nơi bình hương bốc lên thẳng thắn trên bàn tam sinh. Nền trời phương Đông đáng lẽ đã phải hửng lên rồi. Thế mà ở đấy cứ rặt một thứ mây đục đùn lên những hình quỷ Đông. Phía Tây, một cái cầu vồng cụt một chân, tô lên tạo vật những màu xanh đỏ dại dại và nghịch mắt. Trong cảnh âm dương không chia biệt rõ, quan Chánh Chủ khảo trường Hà Nam hợp thi khoa Mậu Ngọ, đang tế cáo giời, đất, vua, thần và thánh; xuýt xoa khai xong tên, tuổi, quê, quán, khấn to:

“...Báo oán giả, tiên nhập; bán ân giả, thứ nhập...”

Có lẽ đoạn khấn này là khoản chú trọng nhất của lễ tam sinh và đã được quỷ thần chứng giám. Người lính tuần mặc áo nẹp đỏ vừa được lệnh đổ chén rượu cúng xuống tàn lửa đống vàng đang hóa dở thì những đầu ngọn cỏ may im lìm nơi bãi trường thi đều rung lên một nhịp và rung theo một chiều. Người ta, hồi nãy sống một cơn mơ giữa khoảng ban ngày u uất, bây giờ trông thấy một cơn mơ đang tàn dần. Một thứ gió u hiền thổi thốc vào bãi trường, nghe lào xào như có tiếng các hồn oan hồn lành chen chúc và ùa vào choán chỗ. Những cây nến cháy vạt ngọn bỗng tắt phụt hết, không gì xa vắng bằng cái động đậy trong đìu hiu của muôn loài. Trời đất trong sáng lại dần dần. Hai anh em ông Đầu Xứ Ngoạt, lấy tên tục của làng nguyên quán Cổ Nguyệt, lững thững ra về.

Ông Đầu Xứ Anh bụng buồn lắm mà không dám nói ra. Ba năm trước, cũng ngày tế tiến trường. Năm Tý, cảnh trời đất cũng âm thầm giông giống như ngày này. Quan Chánh Chủ khảo khoa ấy, theo tục lệ quen của mỗi khoa thi, cũng cúng tam sinh khấn mời những oan hồn nên nhập vào trường trước hết để mà báo oán trả thù. Rồi ông Đầu Xứ vào trường, rồi oan hồn hiện ngay dưới lều, ngay chỗ đầu chõng, kêu khóc giữ rịt lấy tay không cho viết quyển nữa. Gào khóc chán, người đàn bà ấy lấy mớ tóc xõa quấn vào mặt ông cứ bỏng rát lên. Lại cười sằng sặc, lấy nghiên mực hắt vào quyển của ông. Lần ấy ông xin đổi quyển đến hai ba lần. Vẫn người đàn bà ấy quấy nhiễu không tha để quyển ông cứ tỳ ố mãi. Lúc gần chiều, ông nổi một cơn đau bụng hoắc loạn, phải bỏ dở kỳ thi, nhờ người dìu về nhà trọ. Thế là ông bay ngay kỳ kinh nghĩa.

Một người đầu xứ hay chữ và được quan Đốc khen ngợi luôn mà hỏng nhanh nhất trường thì có thảm thương không. Cũng may mà còn có người lấy được cái bản thảo nháp bài của ông đem về, ông còn giữ được đến giờ, nếu không thì nhục cho gia sáo biết là chừng nào. Ông cụ thân sinh ra ông, cụ Huấn là người nổi tiếng một vùng, đem xem lại bản nháp và đưa cho các bạn đọc, ai cũng lấy làm tiếc. Hơi văn đi mạnh như thế, có vào đến kỳ hội thì cũng cứ lọt. Mọi người đều chặc luõi tiếc rẻ. Cái người bạn cùng ngồi một vi với ông, sau khi đem trả ông cái bản nháp đó, đã tìm đến phòng trọ đưa tạ ông ba chục quan tiền kẽm: “Đại huynh lúc không may lâm bệnh mà rời bãi trường, phải bỏ lại trên cỏ bản nháp bài kinh nghĩa. Là một người tự biết là bất tài, tiểu đệ đã mạn phép hiền huynh điền vào quyển của đệ những lời gấm hoa đanh thép bị bỏ phí kia. Nay được vào kỳ đệ nhị, gọi là có món quà mọn gửi lại, xin đại huynh nhận cho”.

Biết là có oan hồn hiện lên cố phá không cho mình mở mặt với thiên hạ, ông Đầu Xứ Anh để tâm tra cứu lại chuyện nhà. Thì ra, lúc sinh thời, cụ Huấn đẻ ra ông đã phạm vào một việc thất đức. Hồi còn mồ ma cụ Huấn, cụ đã mang lấy trách nhiệm tinh thần về cái chết của một nàng hầu tài hoa nổi tiếng một thời. Người thiếp đó lúc tự ải, có mang được sáu bảy tháng. Cái âm oán ấy còn theo đuổi ông mãi, nếu ông còn cứ lều chiếu ở cửa trường thi. Đấy là lời người thiếp đó lúc ốp vào con đồng khi phụ lên. Nàng xưng là cô và gọi ông Đầu Xứ Anh là nó, cười sặc sụa và giọng nói the thé. “Nó còn đi thi, cô còn báo mãi. Các người hỏi cô muốn những gì ấy à! Cô muốn, cô muốn nó phạm huý, cho nó bị tội cả nhà kia. Nhưng nhà nó cũng có một ông mãnh thiêng lắm, cô không tàn hại nó được như lòng cô muốn. Nên nó chưa viết phạm đến tên các vua”. Con đồng lắc lư nói có thế. Có gặng hỏi thêm chỉ khóc hu hu rồi phá ra mà cười như bị ma ếm, ông Đầu Xứ Anh thấy lạnh đến tuỷ xương sống. Và đâm ra lo nghĩ từ ấy.

Khoa thi này, ông đành nhẽ không ra nữa, để ông Đầu Xứ Em nộp quyển thôi, thử xem hồn oan có còn đòi báo nữa không... Ông tin ở học lực người em ruột, sao cũng lấy về cho làng Ngoạt, có hèn ra cũng được cái cử nhân. Khoa cuối cùng, thêm phần luận quốc ngữ và phép đo lường tính theo lối học mới, nhưng chú nó thông minh vốn thiên bẩm và gần đây tân thư và toán học cũng nhiều, cũng không lấy gì làm ngại lắm. Nhưng mà phúc phận con người ta, ở một người thi chữ Hán, biết sao mà định trước được.

Còn năm hôm nữa mới nhập trường. Mãi đến ngày sóc tháng mạnh đông mới gọi tên bốn năm ngàn người vào kỳ đệ nhất. Cơm nhà trọ, luôn mấy ngày nay, bữa nào cũng hết một bình rượu. Hai anh em ông Đầu Xứ, những lúc trời ngớt hột mưa, vào mấy ngày mong chờ, thường nhẩn nha ở phố Hàng Giấy, chọn một thỏi mực, thử lông một cây bút thỏ hay là soi một tờ giấy bản lên ánh sáng. Ông Đầu Xứ Anh cố quên chuyện cũ, hết sức vui vẻ trong khi đi lục lọi giấy bút cho em ở các cửa hàng sách phố Hàng Giấy. Những con người văn nhân lượn lên lượn xuống nơi phố này nhiều đến nỗi không thể nào mà nhớ được mặt, ví có gặp lại ngay đó một lần thứ nhì.

Cái cửa hàng sách gọn ghẽ xinh xắn được nhiều thầy khóa lui tới nhất là cửa hàng cô Phương. Đám học trò vào cửa hàng cô để mua hàng, và để nghỉ chân và giải trí cũng có. Cô Phương ở phố Hàng Giấy, ngày trước là một người đanh đá chua ngoa có tiếng. Có một lần, một cậu học trò vào hàng cô chọn bút. Cô đưa bút Song Lan, Thanh Chi, Nhất Chi, rồi Kiều Lan, rồi đến Trúc Lan; người thư sinh mặt trắng rút tháp bút, cho bút vào miệng, ấn tòe đầu bút vào lòng bàn tay xòe, để thử soi lông bút lên ánh sáng có đến mấy mươi lần rồi mà cứ lắc đầu hoài, chê xấu. Anh chàng nhất định hỏi cho được cái thứ bút Tảo Thiên Quân mới chịu lấy. Thấy thầy khóa ăn mặc đồ vải xuềnh xoàng, cô Phương ra giọng bỉ thử: “Có Tảo Thiên Quân lông trắng nhưng mà những hai quan một chiếc”, tiếp cái nguýt dài của cô hàng sách càng ngồi dãi thẻ thêm ra, người thư sinh mặt trắng chỉ tay lên tít trên đầu tủ: “Phải Tảo Thiên Quân lông trắng; có còn thứ nào những năm sáu quan một quản, cô lấy cho tôi chọn”. Lúc nói câu này, thầy khóa cố dằn giọng vào chữ những có ý bảo thầm cho nhà hàng biết rằng nên khinh người vừa vừa chứ.

Cô Phương bẽn lẽn, nhưng cũng cố đứng dậy lấy thứ bút quý cất mãi trên cùng tột lớp tủ, đưa cho thầy khóa, chỉ đợi nếu anh chàng không mua nổi chiếc nào thì sẽ mắng một trận như tát nước vào mặt cho bõ ghét. Lấy luôn một lúc bốn chiếc Tảo Thiên Quân, trả tiền xong xuôi, người thư sinh mặt trắng dúng một ngòi bút mới vào nghiên mực, vờ thử ngòi bút vào một mảnh giấy nơi mặt hàng. Những dòng chữ viết rất tốt kia, sự thật chỉ là một bài thơ chữ nói mát mẻ cô hàng có tính chỏng lỏn. Từ đấy, cô Phương đâm ra gờm những thầy khóa có tính ỡm ờ và trở nên rất ngoan ngoãn đối với bạn hàng, bất cứ là ai. Sau cô hỏi thêm, mới biết người thư sinh rất khó tính trong sự lựa bút và tác giả bài thơ bóng gió ấy là cậu Đầu Xứ Ngoạt. Năm Mão, phong thanh người thiếu niên tài hoa ấy thụ bệnh trong trường và bỏ dở khoa thi, cô Phương đã ra mặt ái ngại tiếc than với những người chung quanh. Trong tâm một cô hàng sách nho phố Hàng Giấy, đang nhú lên cái mầm sơ đầu của yêu thương gắn bó và đợi chờ.

Cho đến mãi năm Ngọ năm nay, ông Đầu Xứ Ngoạt mới trở lại cửa hàng cô Phương. Ông Đầu Xứ Em còn lần lữa ngoài mặt hàng, chưa bước vào nhà. Trên mấy tấm cửa lùa ngả xuống hai cái mễ gỗ nhỏ hẳn ra vỉa hè, một cuốn Chinh Phụ Ngâm diễn Nôm đã ghìm bước ông Đầu Xứ Em lại. Thấy có bóng khách vào hàng, cô Phương đặt cuốn truyện Lục Vân Tiên xuống, lấy móng tay đánh dấu vào cái đoạn nàng Kim Liên đang đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê, sắp cất tiếng chào khách, bỗng cô ngờ ngợ, tủm tỉm muốn bật như cười. Cô nhìn không chớp mắt, đôi má lúm đồng tiền phơn phớt nhuộm đào, cái màu đào một ngày năm nọ.

Ông Đầu Xứ Anh hơi luống cuống, chưa biết hỏi món hàng gì thì may mắn quá, ông Đầu Xứ Em đã tiến theo vào phá hộ cái yên lặng:

- Này anh, lấy một cuốn Chinh Phụ bản Nôm, về nhà trọ, ta ngâm nga chơi cho nó hết mấy ngày đợi bảng nhập trường.

- Ờ thích được ngâm nga thì cứ lấy về. Có gì mà phải bàn.

Cô Phương hết nhìn người anh, lại nhìn sang người em. Cô đoán họ phải là anh em ruột thì mới giống nhau như tạc đến thế. Vả chăng hồi gần đây, cô có nghe đồn ông Đầu Xứ Anh cũng có người em đỗ Đầu Xứ và tài hoa đã làm trôi cả một vùng tỉnh Nam. Chắc là người mua truyện này đây. Chưa biết câu chuyện ông Đầu Xứ Anh không nộp quyển thi khoa này, cô Phương tự nói với mình: “Huynh đệ đồng khoa! Cái làng Cổ Nguyệt chuyến này tha hồ mà rước xách. Trong hai anh em, chả biết ai sẽ Tú Tài, ai Cử Nhân. Mọi năm hai trường Hà Nội và Nam Định hợp lại, lấy sáu mươi tư Cử Nhân. Năm nay khoa rốt, Nhà nước đặc cách lấy những chín mươi Cử Nhân và cũng như mấy lần thi trước, cứ một Cử Nhân thì ba Tú Tài. Lọt sao được hai cậu Đầu Xứ này”. Cô kéo cái ấm giỏ trong bục ra, giở nắp ấm thăm cái nóng chiếc ấm sứ, rót hai chén, cô hạ thấp vòi ấm xuống để nước không nổi bọt.

- Mời hai thầy quá bộ vào trong này xơi nước. Nước trà nụ ướp sói vừa pha đấy, nên mới dám mời hai thầy tân khoa.

Cô Phương đưa tay che miệng cười, tự cho câu chúc sớm sủa đó là có duyên lắm, hẳn là phải hay và anh em ông Đầu Xứ Cổ Nguyệt phải thưởng thức. Thấy họ cứ đứng trân trân ra đấy, cô Phương thu dần nét mặt xởi lởi lại và ngồi ngẫm, càng nhận thấy cái vô duyên và vô lý của câu nói vừa rồi. Ai người ta đã thi cử được một kỳ nào, mà đã chúc với tụng. Cho đỡ ngượng, cô lại mời:

- Hai thầy xơi chén nước.

Ông Đầu Xứ Em chẳng biết cái gì cả, cầm chén, uống luôn, tưởng hễ cứ vào mua hàng người ta là mình có quyền xơi ngay nước mời. Khốn nạn, nào từ trước tới giờ anh mình có bao giờ nói cho nghe cái đoạn tình duyên thầm kín đã mấy năm nay giữa anh với cô hàng sách đâu mà biết. Ông Đầu Xứ Em thấy anh còn trùng trình chưa chịu ngồi xuống cầm lấy một chén nước mà đầu lưỡi rất tinh của ông phải nhận là thơm ngon, ông càng chèo kéo ồn mãi lên. Cô Phương, cũng phải phì cười và làm cho ông Đầu Xứ Anh cười luôn thể. Con người nào đã biết e dè với cuộc sống, những lúc cảnh ngộ tinh thần sớm không cho mình phỉ sức hưởng thụ khi ở vào một cái tuổi ăn và ngủ đáng lẽ phải nhiều mỗi lần được vui cười trên mặt thì cái cười ấy thật là thoả đáng, thật đầy đủ và lại xinh đẹp là khác nữa. Nhân một cái vui tươi thế chỗ nét mặt trang nghiêm luôn luôn của ông Đầu Xứ Anh, cô Phương nói một câu mà sự thân mật riêng tây đó đã không cần thầm kín nữa:

- Khoa Ngọ này là khoa cuối cùng. Ông Đầu Xứ nên giữ mình làm trọng, chớ có đau bụng như kỳ năm Mão mà để thiệt thòi nhiều cho vùng Sơn Nam hạ lắm đấy, ông ạ.

Đến chữ “ông ạ” ở cuối một câu nói, giọng rất thành thật và cảm động, cô hàng sách cố làm ra giọng bông lơn cho nó nhẹ bớt sự tha thiết của một câu nói đã lỡ nhời, đã thốt ra từ đáy một tấm lòng để đi sâu vào một tấm lòng khác bấy lâu nay cũng vẫn chờ lúc được đãi đằng. Sự rất hữu tình mà cố làm ra vô tình bằng một cái giọng cố gò lấy, làm sao cho tránh khỏi sự nhận xét thông minh của ông Đầu Xứ Anh được. Ông biết lắm. Ông hiểu cô Phương để ý đến ông lắm. Không cần các bạn nói cho hay, không cần gặp gỡ, không cần âm tín tiêu hao, ba năm nay rồi, linh tính bảo ông biết thế.

Nhưng từ ngày vấp ngay khoa thi đầu tiên, ở một kỳ đệ nhất, ông buồn uất vô hạn khi nhận thấy mình ra có còn lều chõng nữa cũng là chỉ để làm sống dậy, trong vòng oan trái, một cái oán cừu xưa cũ của ông cha di lại. Một cái oan hồn đã hiện lên, đã ốp đồng vào miệng người sống mà thốt ra toàn những lời hằn học, cái oan hồn ấy hẳn không chịu buông tha ông nữa rồi. Hóa cho nên, rớt khoa Ất Mão ngay kỳ kinh nghĩa, ông nhận luôn cho nó là khoa cuối cùng, chẳng cần phải đợi đến khoa Mậu Ngọ cuối cùng này. Ngay dạo ấy, ông đã tuyên bố rất to rằng ông là thí sinh của một khoa thi thôi. Cô hàng sách không rõ, vẫn tưởng ông còn có bụng với sự lều chõng.

Ngắm kỹ cô Phương, ông thấy cái đẹp của cô già dặn hơn ngày năm trước. Còn muốn nói thêm vài ý nghĩ vui tươi nữa vào việc đánh giá cái đẹp, nhưng ông Đầu Xứ Anh bỗng ngừng lại. Bởi vì... quái, sao mãi đến giờ, ông mới nhận ra, khuôn mặt cô Phương đã hao hao tợ như diện mạo người đàn bà ẵm con xõa tóc ngồi rù than khóc nơi đầu chiếc chõng che trong trường thi khoa nọ. Tự nhiên ông thấy cô Phương không còn hiền hậu nữa. ông nghĩ đến những cái ghê sợ mà một sắc đẹp có thể giấu dưới nụ cười. Ông nghĩ đến những truyện ma quái lúc thay hình biến thể khi muốn hãm hại học trò. Ông nhớ lại cái cười gằn của oan hồn khi hiện thành người, quất đuôi tóc trần vào mặt ông cho ông hồn mê đi và cầm nghiên mực đổ chan hòa xuống quyển thi. Cái oan hồn ấy đã lên tiếng nói, thề quyết làm cho người sống phải lụn bại mới nghe. Biết đến lúc nào cái người nàng hầu cụ Huấn mới nguôi giận và cái âm oán kia hết đi theo ông... Chuyện cũ của cha, hồi sinh thời đi lại với người ta thật ông cũng chưa rõ hẳn đầu đuôi như thế nào.

- Vâng, nhà có thứ mực Kiêu kỵ đấy ạ. Cô Phương nhanh nhẩu trả lời ông Đầu Xứ Em.

Choàng tỉnh cơn suy nghĩ, ông đã vội bắt lấy việc mua mực, khuyên em không nên lấy mực Kiêu kỵ:

- Đi thi không ai dùng mực Kiêu kỵ. Mực của xã Kiêu kỵ chế rất tốt, chỉ hiềm mỗi khi viết xuống giấy, nó cắn xuống giấy chắc quá khó tẩy đi lắm. Cô lấy cho mấy thỏi Hoàng tam xương, vàng, nếu hết thứ chữ vàng rồi, cô có thứ chữ bạc cũng được. Cái thứ mực hiệu Diệu tự nhà ta bán có được chạy lắm không hả cô...

Chà, người ta ăn nói sao mà xuôi tai, dễ nghe đến thế. Cô Phương nhìn ông Đầu Xứ Anh, nhẩm trong óc mấy chữ nhà ta, tưởng đến cái ngây thơ của một đôi vợ chồng son kia ngửa mặt lên trần giời cao mà bảo nhau rằng trước khi làm bạn với nhau, mỗi người có một ông giăng, và nay thì mảnh giăng của cả thiên hạ kia cũng chỉ là vầng giăng của riêng của nhà ta. Cô vui lòng quá, xuýt quên cả việc soạn thoi mực cho khách.

- Luôn thể cô cho tôi ít chục tờ giấy lịch nữa.

- Mấy chục tờ ạ...

- Cô đợi cho tôi tính xem dùng hết độ ngần nào thì không là thừa phí.

Làm ra bộ thông thạo thì ít, mà muốn tỏ sự thân mật thì nhiều, bao giờ được nên thân tình nữa nhỉ! cô Phương co tay tính nhẩm những cái gì gì, rồi cô ngấc đầu, vuốt mái tóc, nói với ông Đầu Xứ Em, giọng nhẻ nhót mà tự nhiên:

- Nộp ba quyển: kỳ đệ nhất, kinh nghĩa một quyển bảy tờ, kỳ đệ nhị, thơ phú, một quyển sáu tờ và kỳ đệ tam, văn sách một quyển mười hai tờ nữa, có dày lắm cũng chỉ đến mười bốn tờ là cùng. Ông định mua trữ giấy mang vào trường đề phòng những lúc phải cánh quyển hoặc đổi trang hư hỏng, chỉ nên trữ lấy từng kỳ một.

Ông Đầu Xứ Anh, vừa soi giấy lịch, vừa hỏi:

- Tại sao thế hở cô...

- Thưa, tại...tại là giấy chuyến này, thú thật với hai ông rằng không được mịn lắm. Chuyến sau, có thuyền hàng phường neo về, thế nào cũng có giấy tốt hơn nhiều. Có lẽ kịp kỳ đệ nhị của các ông đấy. Để tôi xem nào.

Cô hàng sách, bán giấy bút cho học trò trường Nam đã mười năm có lẻ, đã không phụ cái tiếng là một người thông thuộc những phong tục nơi trường ốc. Cô Phương lại co tay tính nhẩm một hồi.

- Được rồi. Mùng một tháng mười là ngày vào kỳ đệ nhất. Có chóng thì cũng phải hết cữ thượng tuần tháng mười mới có bảng vào kỳ đệ nhị. Phường giấy của tôi thể nào cũng có thuyền về bên trên mom sông trước ngày mùng mười. Đúng cái hôm tết trùng thập cúng cơm mới, các ông lại đây mua mở hàng cho kiện giấy lịch Bưởi. Giờ các ông lấy tạm ít chục tờ dùng đỡ trong kỳ đệ nhất vậy.

Cô đếm giấy, thổi những tờ giấy chập đôi, nâng tờ giấy lên với cái nâng niu nhẹ nhàng của một người chị cả săn sóc em thơ lúc mẹ già đi chợ xa. Chỉ có những người đàn bà đẹp và phúc hậu thì mới thổi được giấy như thế thôi. Cô đếm thành hai xấp, mỗi xấp đâu hai chục tờ, đùn một xấp vào phía ông Đầu Xứ Em, còn cái xấp thứ nhì là lấy sau ở trong ruột tệp khác, cô trao tận tay ông Đầu Xứ Anh, cặp mắt tình tứ linh động như muốn nhắc thầm ông rằng cái xấp sau đây tốt hơn xấp trước, và sự đối xử chênh lệch này trong lúc soạn giấy không phải là do ngẫu nhiên. Ra chiều tin chắc vào cái tài và cái may của hai anh em ông Đầu Xứ thi khoa này, cô hàng sách vẫn lấy cái cười duyên dọn đường cho một câu nói mà ở một cái miệng khác thì không khỏi thành ra thiếu lễ phép:

- Cánh quyển mà dùng bấy nhiêu giấy là nhiều quá lắm rồi. Phải thay quyển, đổi quyển đến quá ngữ giấy này, thì chỉ còn có ngồi mà lắng ba hồi chín tiếng trống ngoại hạn...

Lúc ra về, ông Đầu Xứ Anh, trong một phút sầu hận, đã muốn trả lại cô Phương tập giấy, để thầm bảo cô hay rằng cô đã làm một việc thừa, riêng đối với ông Khoa Ngọ này, ông có đi thi đâu.

... Mấy bữa nay mưa to gió nặng. Nước trên trút xuống, nước ở dưới dâng lên, người thiu và cảnh ướt át sống trong một bầu không khí nồm ê ẩm và lo lắng. Trăm nhà vùng Sơn Nam hạ lại mới nhận được thêm cái tin đê vỡ đường trên vùng Kinh Bắc.

Nằm nghe mưa rơi trên quán trọ xóm Cửa Trường, một đêm nguyệt tận năm Ngọ, ông Đầu Xứ Anh những hết lo xa rồi lại nghĩ gần. “Mình không đi. Chú nó đi khoa này, hay dở sao đây...”. Trong một lúc mơ hoảng ông lại trông thấy bóng người đàn bà mặc đồ trắng, xõa tóc, kiểng gót, thu một đứa trẻ con vào tà áo sổ gấu, đi tuột vào phía nhà ngang. Ông ú ớ như người bị ma mộc đè, cố gắng mà không quẫy mình dậy được. Cái người đàn bà mặc đồ trắng, chân không sát đất, lại lẻn trở ra, và, khi lướt qua mặt ông, cười gằn mà không nghe thấy tiếng, tà áo quất vào má ông, nhức nhối và buốt lạnh như chưa bao giờ cảm thấy.

- Anh nói mê những gì thế...

Ông Đầu Xứ Em lắc mãi, ông mới hoàn hồn, nhìn em một lúc lâu rồi hỏi:

- Chú đã sửa soạn lều chõng đủ cả rồi...

Trống đêm cuối thu và đông non điểm bốn tiếng giục. Uống hết một nai rượu để chống lạnh và trừ gió mà nhà trọ đã dọn sẵn từ khuya, ông Đầu Xứ Anh bỏ thêm một đinh vàng vào tráp của em.

- Khi nào thấy “khang khác” trong trường thi, chú đốt vàng cho nhiều vào. Thôi ta đi đi. Anh đưa chú vào đến cửa trường. Đưa tôi cái bộ gọng lều và chõng. Chú đeo lấy ống quyển và tráp, Đi đôi tất vào cho nó ấm.

Đêm mưa dầm vẫn tối như bưng lấy mắt. Hai cái tài hoa anh em kia, cộng lại không được bốn mươi nhăm tuổi đầu, bì bõm dắt nhau đi về phía cửa trường thi. Có tẩm mưa gió và đi đêm như thế này, người ta mới thấy bước công danh là một con đường chật vật, nên xét lại xem có nên tiếp tục đi nốt hay không! Giá cô Phương Hàng Giấy có đứng đây mà nhìn này! Ông Đầu Xứ Anh cắn vào môi mà bước. Trong tối tăm, tiếng hơi thở người anh dẫn lối cho người em lặng thinh từng bước một.

Bãi trường thi thấp hơn mặt nền tỉnh. Nước mưa lụt dồn về, cỏ mây chôn ngập lút cả ngọn. Đứng xa trông những cây đình liệu rọi trên bãi cỏ xâm xấp nước, người không có chữ tưởng đâu như dân cả một làng chài nào đó đốt đuốc là nghề trên bãi nước. Càng tiến gần lại trường, người ta có những cảm tưởng rùng rợn như khi chịu bó tay đứng nhìn một đám cướp lớn bật lửa hồng phá nhà lấy của trên xóm trên, trong những ngày lụt lội ở xứ bị thuỷ tai, quân cướp toàn đi bằng thuyền. Cái tiếng mắt nứa nổ to ở cây đình liệu cháy sáng, có khác gì cái tiếng quân hồi vô lệnh đốt ống lệnh bật hồng của phường đạo tặc.

...Ông Đề Điệu đã leo lên ghế chéo. Một người lính thể sát bắc ống loa, lia ống loa qua lại. Giọng loa hô:

- Báo oán giả tiên nhập

- Báo ân giả thứ nhập

- Sĩ tử thứ thứ nhậ...ập.

(Những oan hồn báo oán vào trước

Những oan hồn báo ân vào sau

Các thầy khóa vào sau rốt.)

Tiếng loa đồng xoáy sâu vào màn mưa lạnh. Trời còn tối đất. Ông Đầu Xứ Anh nghe tiếng hô, nhợt nhạt, luôn luôn nhìn trộm em. Người em bây giờ chỉ là một thân cây cột cứng đờ mà sự thi cử đã mắc vào đấy biết đến bao nhiêu là thứ múi dây lòng thòng: dây lều, dây chõng, dây buộc bộ gọng, ống quyển...Cùng với ngàn ngàn người khác, hai anh em đứng nghểnh mãi cổ lên, kiểng mãi người lên như muốn nhìn rõ mặt người lại phòng xướng danh. Đã lâu chôn chân xuống bãi sũng nước, lòng dạ người người đều bàng hoàng. Bỗng ông Đầu Xứ Anh dun mạnh người em:

- Kia...làng Cổ Nguyệt! Tên chú! Vào đi.

Trời sáng tỏ đã từ lâu. Cái hàng rào sĩ tử có đủ các hạng tuổi từ một cái đầu xanh mặt trắng cho đến một chòm tóc bạc, một lớp da mồi, đã bị xé thủng. Ông Đầu Xứ Em lách mình qua rồi, nhưng lều chõng còn vướng mắc lại sau lưng, gỡ mãi mới ra. Nhốn nháo một lúc lâu, cái bể người, đã lấp được chỗ trống của một con sóng người tràn đi, lại bằng phẳng như cũ để chờ đợi một cái đổi dời khác. Ông Đầu Xứ Anh ra về, chỉ hận rằng, lúc tới tấp, quên không dặn lại em nên đốt một lúc cho hết đinh vàng lá trong tráp nếu ở trong trường có thấy “cái gì khang khác”. Dọc đường, ông gặp một toán lính khố xanh đội nón đĩa, nai nịt súng ống gọn ghẽ. Người ta bảo đấy là bọn lính nhà nước phái thêm vào trường giữ trật tự.

... Ông Đầu Xứ Em dựng lều, dọn chỗ ngồi dự thi giữa sự giằng dỗi của trời đất. Mưa to gió lớn trên một trường thi. Cứ thế mãi mãi, cho đến qua giờ ngọ, cho đến quá giờ mùi. Vậy mà xưa nay người ta vẫn bảo mưa không qua ngọ gió không qua mùi. Sĩ tử khắp bốn vị ất giáp tả hữu, co ro trong lều dột, thật đã coi tính mạng mình không quý bằng quyển thi chỉ luôn muốn những chuyện tì ố. Chốc chốc cái loa đồng ngoài cửa trường lại kêu inh ỏi gọi các tư gia ai có thùng gỗ hay thùng sắt tây thì cho đem vào trường bán cho học trò kê quyển viết và độn thêm lều chõng ngồi.

Cái bản nháp viết xong lâu rồi mà quái lạ, hễ cứ động ngòi bút lên mặt quyển là ông Đầu Xứ Em lại thấy đau bụng, đau quằn quại tựa chứng hoắc loạn cứ như dùi vào từng miếng tỳ vị. Ông cựa quậy nhiều lắm, vừa ôm bụng, vừa giữ ống quyển. Cái chõng tre đặt trên bãi cỏ ngập lún xuống lần lần. Giữa hai cơn đau bụng, những lúc trời ngớt mưa, từ khu nhà thập đạo, vẳng về lều ông những tiếng sĩ tử kêu nài: “Lạy các quan, còn chỉ có một khoa thi này, xin các quan thương cho anh em được đổi quyển. Trời mưa ướt lấm, anh em có muốn như thế làm gì...”

Thấy ở một vài lều chung quanh có khói lửa và tàn vàng bay ra, ông Đầu Xứ Em sực nhớ đến đinh vàng cất trong tráp, bèn lấy ra gỡ từng tờ một xếp ngay ở đầu mép chõng, một tay chận cơn đau nơi bụng dưới, một tay châm mồi lửa bùi nhùi. Gió thổi vào đống lửa vàng hóa bùng bùng, lửa kêu vù vù. Trong tiếng ngọn lửa reo, lại như có tiếng người nói cười lanh lảnh. Khói bốc lên, khói trụt toả xuống soai soải, những vệt nước thời gian trượt từ đầu ngọn tường xuống vách gạch những đền chùa xưa cũ có mốc vẽ hình có rêu phong dấu. Những vờn khói nhẹ đổ xuống nhanh, đổi màu rất nhanh chóng. Trước mắt ông Đầu Xứ Em mê mệt và hoảng hốt, những vờn khói thoảng mùi gây gây, khen khét và tanh lợm, bỗng sẫm hẳn lại thành một mớ tóc xõa u hiển đóng khung lấy một khuôn mặt người.

Lửa vàng gần lụn, vụt bùng lên. Trời đất tối sầm xuống. Ông Đầu Xứ Em thấy bãi trường thi hình như nó rộng lớn hơn cả cái kiếp người. Trường thi âm u và không quạnh. Gió thổi bay quyển thi xuống làn cỏ dầm nước. Ông Đầu Xứ Em gắng nhoài người ra, muốn vớ lấy quyển bị gió vừa thổi bốc khỏi mặt tráp. Ông hụt tay, chỉ đủ giữ mình khỏi ngã. Cơn đau bụng trở nên dữ dội. Ông gục xuống tráp, thiếp dần. Ông Đầu Xứ Em tỉnh giấc, thấy trong người nhẹ hẳn, tưởng chừng như cơn đau dữ dội ban nãy chỉ là một cơn ác mộng. Ông bỡ ngỡ, mất hết cả ý thức về thời gian và không gian. Ông ngơ ngác trước hoàng hôn như một người còn ngái ngủ ngày. Từ một chòi cao, người ta đã điểm mau hồi trống ngoại hạn.

Ông Đầu Xứ Anh đã đón ở cửa trường. Bỏ lại cả lều và chõng, cầm chỉ vỏn vẹn có một bản nháp, ông Đầu Xứ Em đã rời bước trong một giấc thẩn thờ. Hai anh em gặp nhau không nói một câu nào suốt từ cửa trường về đến nhà trọ.

Tại nhà bà Phùng, ở mâm cơm tay đôi ấy, có một người hỏng thi khoa thi chữ Hán cuối cùng đã uống cạn ba bình rượi cúc, vào một đêm dài nhất trong đời người.

Nguyễn Tuân



#380 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 18/11/2011 - 23:48

XUẤT HỒN VỚI CÂY NHO NAM MỸ AYAHUASCA?

Mọc hoang dã trong khu rừng rậm Amazon, dÂy nho Ayahuasca được các pháp sư vùng Nam Mỹ điều chế và sử dụng như một phương thuốc chữa bệnh, tẩy uế linh hồn và có thể giúp người ta nhìn thấy sự luÂn hồi của mình trong nhiều kiếp sống. Từ ngữ “ayahuasca” trong ngôn ngữ của người Quechua (vùngAndescủa Nam Mỹ) có nghĩa là “dÂy nho tinh thần” hay “dÂy nho của những linh hồn”. ĐÂy là giống nho mọc trong các khu rừng rậm thuộc Peru và Ecuador, được các cư dÂn vùng Amazon xem là thần dược có tác dụng chữa khỏi bệnh về thể chất lẫn tinh thần. Tác dụng kỳ lạ của dÂy do ayahuasca được nhà thực vật học Schultes Richard Evans (Đại học Harvard) ghi nhận vào đầu những năm 1950, sau một thời gian dài ông sống cùng các pháp sư người Nam Mỹ.

Vào thế kỷ 16, các nhà truyền giáo Kitô đến từ TÂy Ban Nha và Bồ Đào Nha đã chứng kiến dÂn bản địa sử dụng chất ayahuasca và gọi họ là bọn tà đạo ma quỷ. Các pháp sư thu hoạch dÂy yahuasca, tước vỏ của nó, trộn với lá cÂy chacruna và đun sôi với ba lít nước trong tám giờ để thu hoạch được chất keo sền sệt màu nÂu đỏ. Sau khi chưng cất hoàn tất, thuốc yahuasca được điều trị cho người bệnh sau một nghi lễ tẩy uế thÂn thể kéo dài từ 3 đến 7 ngày. Nghi lễ tẩy uế là phương pháp xông khói với lá thuốc, ăn kiêng với chuối và một vài loài cá hiếm ở vùng Amazon. Khi cơ thể được chuẩn bị sạch sẽ, các pháp sư sẽ cho người bệnh uống chất ayahuasca trong buổi lễ Ikaros. Bệnh nhÂn sẽ ngủ và mơ thấy những điều kỳ lạ, họ nhìn thấy hình ảnh đã quên mất hồi tuổi thơ và cả những sự kiện sắp xảy ra ở tương lai…

Các cuộc khảo sát nghi nhận, chất ayahuasca có tác động tới ý thức con người kéo dài khoảng 6 giờ, bắt đầu ảnh hưởng sau nửa giờ và cao nhất sau hai giờ sử dụng. Mặc dù có gÂy ra chứng ảo giác nhưng các chất trong ayahuasca không nằm trong danh sách các chất bị kiểm soát bởi các tổ chức y tế thế giới, được nhìn nhận có tác dụng chữa bệnh và chính phủ Barazil đã cho phép sử dụng vào năm 1988. Đặc tính chữa bệnh của ayahuasca đã thu hút hàng ngàn lượt khách du lịch từ chÂu Âu và Mỹ tìm đến, trải nghiệm cùng các nghi lễ tôn giáo của người da đỏ Nam Mỹ. Tư liệu video về những buổi lễ ayahuasca cho thấy nhiều bệnh nhÂn cảm thấy khó nuốt với chất ayahuasca và đã nôn ra. Weiskopf, một du khách từng trải qua nghi lễ ayahuasca cho biết ông dường như đang ở trong cái chết bởi cơn ác mộng kéo dài trong nhiều tiếng đồng hồ nhưng sau đó thì có cảm giác tốt hơn về cuộc sống.

Tổng hợp từ Internet

#381 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/11/2011 - 07:56

"NGƯỜI CHẾT ĐẦU THAI" NÁO LOẠN ĐẤT HÒA BÌNH

Những trường hợp “đầu thai” tại bản Chiềng Châu, Mai Châu, Hòa Bình diễn ra từ hàng chục năm nay. Những đứa trẻ khi sinh ra hoàn toàn bình thường, đến khi ba, bốn tuổi lại nhận mình là… con của những gia đình khác xa đến cả chục cây số. Trưởng phòng Tôn giáo. Sở Nội vụ tỉnh Hoà Bình, ông Nguyễn Trường Sơn xác nhận: “Những trường hợp người dân gọi là đầu thai ở huyện Mai Châu là có thật...".

Hà Thị Mai Anh sinh năm 1995, hiện đang học lớp chín, trường phổ thông cơ sở thị trấn Mai Châu, con gái duy nhất của anh Hà Văn Bái và chị Hà Thị Tý là một trường hợp như thế. Anh Bái cho biết, vợ chồng anh lấy nhau từ năm 1990 nhưng hiếm muộn, mãi năm năm sau mới sinh được Mai Anh. Từ lúc mới sinh cho tới khi cháu bốn tuổi, mọi biểu hiện cũng bình thường như những đứa trẻ khác và vì chỉ có một mình con nên đi đâu vợ chồng cũng cho con đi cùng. Trong một lần đi dự đám cưới một người quen tại bản Nhót, xã Nà Mèo là xã kế bên, vợ chồng anh bận giúp chủ nhà làm cỗ nên gửi cháu cho mọi người trông giúp. Khi công việc đã xong, anh quay ra tìm thì thấy cô con gái của anh đang lẵng nhẵng theo một phụ nữ tầm tuổi vợ anh khóc mếu: “Mẹ ơi”.

Lạ lùng ở điểm nhìn thấy cha mẹ đẻ thì cô bé cứ “bơ” đi mà bám chặt lấy người phụ nữ lạ mặt liên tục gọi “mẹ”. “Lúc đầu vợ chồng tôi nghĩ chắc con mình tưởng nhầm. Thấy lạ, mọi người trong đám cưới xúm vào hỏi thử: “Vậy bố mẹ cháu tên là gì, nhà ở đâu?”. Chúng tôi chết điếng người khi rõ ràng mình đẻ ra nó mà nó không nhắc đến, lại nhận là con của ông bà Lường Văn Tuấn, Hà Thị Ân lạ hoắc nào đó. Nó còn nói “Cháu có anh trai tên Lường Văn Tú, còn cháu tên là Lường Văn Hải nhà ở bản Nhót, trước nhà có cây muỗng to, nhà được làm bằng đất hai tầng (ý nói nhà sàn)”. Đến lúc này mọi người trong đám cưới mới ồ lên kinh ngạc, anh Bái thuật lại. Nghĩ con mình bị… dở hơi nhưng anh vẫn phải chiều theo ý con, đưa cháu theo người phụ nữ lạ về nhà thì càng ngạc nhiên hơn khi mọi điều cháu nói đều chính xác. Ông bà, cô bác tới chơi cháu đều gọi tên chính xác từng người, cháu còn nhận ra quần áo, nơi “con là Lường Văn Hải thường ngủ”. Cả làng xôn xao: “Đúng là nhà này trước đây bốn năm, có đứa con trai tên Lường Văn Hải đã mất, đúng vào dịp sinh con bé này”.

Lòng dạ của anh Bái rối bời, đợi đến gần tối thì con gái anh mới chịu theo về nhà. Trên đường đạp xe trở về, vừa sợ chuyện lạ kỳ vừa sợ mất con, anh ngã dúi dụi mấy lần. Người mẹ đẻ của cháu gái lúc về đến nhà ngồi trấn tĩnh lại mới nhớ lại, đúng là có lần chị đi qua bản Nhót mua hàng và đó cũng chính là thời điểm chị có mang cháu. Mấy hôm sau, bé gái liên tục bị ốm sốt cao, chẳng chịu ăn uống, miệng luôn đòi về “nhà ở kiếp trước”. Cuối cùng anh chị cũng phải chở cháu về nơi cháu đòi và vừa đến “nhà kiếp trước”, dù vừa ốm lăn lóc nhưng nay đã không còn biểu hiện gì của ốm sốt nữa, sắc mặt tươi tỉnh hẳn lên.

Anh Bái trầm ngâm: “Tôi phải mổ lợn làm mười mâm cỗ để xin vía cháu về dưới này, tôi cũng chỉ có duy nhất mình cháu là con. Từ đó hai gia đình từ chỗ không quen biết nay trở thành thân thiết như hai anh em. Con bé khi nào thấy nhớ bố mẹ trên ấy là lại lên với bố mẹ, với anh, chán thì lại về đây. Những dịp lễ Tết, nghỉ hè có khi nó lên ở cả tuần, nếu lâu không lên là lại lăn ra ốm”. Khách lạ len lén nhìn mặt cô bé “người Trời đầu thai” Mai Anh, thì cô bé chợt khanh khách khiến giật thót mình: “Kiếp trước cháu là con trai đấy. Cháu có tới hai bố, hai mẹ và một anh trai, mọi người đều yêu thương cháu”.

Trường hợp “người Trời đầu thai” trong nhà anh Hà Văn Tuốt và chị Hà Thị Tuỗn thì xảy ra cách đây đã hơn hai mươi năm. Anh chị năm nay đã ngoài bốn mươi tuổi, có cậu con duy nhất là Hà Văn Dược hai mươi mốt tuổi, hiện đang theo bố làm nghề dựng nhà sàn. Mọi người cho biết chàng trai này cũng là “con truyền kiếp”. Mẹ đẻ của Dược cho biết vợ chồng chị lấy nhau từ năm 1990, một năm sau đó thì sinh con trai. Năm lên ba tuổi, đang chơi với các bạn ngoài sân, thấy một người thu mua sắn là anh trai của một người trong làng đi qua, Dược nói với các mọi người: “Đấy là bác của em đấy”.

“Nghe bọn bạn nó nói lại nhưng vợ chồng tôi nghĩ là trẻ con nói nhảm nên cũng không để ý đến. Chuyện lạ xảy ra tới khi đi học mẫu giáo, mỗi lần bố mẹ đưa Dược đi học qua nhà một người tên Vì Văn Xiêm thì cậu bé đều nhắc đi nhắc lại: Nhà của con đây này”. Thấy con nói huyên thuyên, cha mẹ đẻ thậm chí còn khi phát con đến đỏ mông nhưng sau đó, cậu bé bỗng lăn ra ốm và ngày ngày đều đòi bố mẹ đưa ra “nhà bố Xiêm”. Anh chị cũng đánh liều bế con đến nhà lạ và kỳ lạ thay, mọi bệnh tình của cậu bé đều biến mất. Cậu bé không chỉ biết hết mọi người trong gia đình lạ mà còn nói rõ mình chết từ lúc mới được năm tháng tuổi và bố mẹ chưa kịp đặt tên con. Vợ chồng ông hàng xóm tên Xiêm cũng ngã ngửa người ngạc nhiên bởi những điều bí mật sâu kín đó chỉ có ông bà mới biết. Vậy là ông hàng xóm cũng làm lễ xin được nhận bé Dược làm con nuôi.

Cậu bé Dược nay đã trưởng thành và vẫn nhận mình là người “đầu thai”. Khi được hỏi: “Em có cảm giác gì khi nhận gia đình nhà lạ hươ lạ hoắc làm bố mẹ, các em”, cậu trả lời: “Em cũng chẳng biết vì sao nữa, nhưng khi gặp bố mẹ em ở kiếp trước thì em nhận ra một cảm giác gần gũi, thân thiết và sau đó em cứ nhớ dần đấy từng là bố mẹ và các em mình… Những lần bố mẹ bên ấy đau ốm em cũng đều có linh cảm báo trước”. Bà mẹ “kiếp trước” của Dược cũng khăng khăng: “Nó chính là đứa con đầu của tôi đã chết. Vợ chồng tôi sinh cháu đầu năm 1982 được năm tháng thì cháu bị bệnh vàng da, dù đã đi bệnh viện, nhờ nhiều thầy lang nhưng cháu không qua khỏi. Thật bất ngờ là cháu lại lộn vào làm con gia đình nhà hàng xóm. Với linh cảm của người mẹ, tôi nhận thấy Dược cũng giống như hai đứa con đẻ của tôi. Hoàn cảnh của gia đình bên ấy neo người nên gia đình tôi cũng chỉ nhận cháu làm con nuôi, khi nào nhà có công việc thì cháu mới tới”.

Thế nhưng hàng chục năm qua, trường hợp “đầu thai” rùng rợn nhất mà mọi người thường nhắc đến là trường hợp xảy ra tại gia đình anh Khà Văn Ôn, bản Nà Sài. Biết chúng tôi muốn tìm hiểu về trường hợp bất thường trong gia đình, anh Ôn xúc động thắp nén nhang, thì thầm đến trước di ảnh cô con gái Khà Thị Dịu Hiền sinh năm 2007, khấn con bằng tiếng dân tộc Thái. Trong di ảnh trước bàn thờ là một bé gái kháu khỉnh, được anh giới thiệu là “con đầu thai” của mình.

Anh Ôn nhẩm tính, nếu con mình còn sống thì đến nay đã được khoảng năm tuổi một tháng. “Khi mới sinh ra cháu hoàn toàn bình thường như những đứa trẻ khác trong bản. Lạ là lúc lên ba tuổi, ai hỏi “Cháu con nhà ai, ở đâu?” thì cháu lại chẳng nói tên vợ chồng tôi mà nói: “Tên bố là Lò Văn Chún, mẹ là Hà Thị Nguyên, anh chị là Lò Văn Ngọc, nhà ở xóm Vãng, trên thị trấn Mai Châu” (cách đó gần chục cây số). “Thực sự trước đó đến tôi cũng chẳng biết những người này là ai, chứ nói gì đến nhà người ta như thế nào”, vẫn lời anh Ôn buồn rầu thuật lại.

Dù trước đó ở địa phương đã có những trường hợp “con đầu thai” nhưng anh chị vẫn không tin và chỉ nghĩ cháu còn nhỏ nên nói vu vơ. Thế nhưng thấy cháu nhắc nhiều quá thì buộc họ phải lần theo địa chỉ cháu “hướng dẫn” để tìm hiểu. Cặp vợ chồng vô cùng kinh ngạc vì cháu bé mới hơn ba tuổi nhưng cháu kể chính xác tên những người trong gia đình này, còn còn nói rõ trước nhà có cây dừa, nhà rộng ba gian và tả cụ thể đường vào nhà như thế nào, phải qua bao nhiêu khúc quẹo. Anh Ôn khi đó ướm hỏi con: “Vì sao con lại theo bố mẹ về đây?”. “Con đã ở nhà cũ nhiều năm thì bị đuổi đánh nên chạy ra khỏi nhà. Lúc ấy gặp mẹ đang nấu cơm bên đường nên con theo mẹ về”. Nghe con nói, anh chị giật mình, ngồi xâu chuỗi lại thời gian thì đúng là vào thời điểm đó anh chị đi công nhân làm đường trên địa bàn xóm đó và chị chuyên nấu cơm cho tổ công nhân. Đó cũng chính là thời điểm vợ anh mang thai.

Anh kể tiếp, khi con gái mình được bốn tuổi thì cháu có những hành động rất lạ như lục tìm và cắt nát hết những tấm ảnh của mình. Thời gian sau cháu kên đau đầu gối, anh chị đưa cháu lên bệnh viện khám, qua chụp X quang, theo kết luận của bệnh viện cháu bị khuyết xương đầu gối và viêm khớp. Bệnh viện khuyên anh chị nên đưa cháu về Hà Nội chữa trị. Tại bệnh viện Nhi trung ương, các bác sĩ đã điều trị và bó bột rồi cho về, hẹn gia đình sau hai tuần cho cháu lên kiểm tra lại. Tuy nhiên, đến ngày 5-6-2010, thấy cháu bệnh tình không giảm lại kèm theo sốt cao, anh chị đưa cháu xuống khám ở bệnh viện K. Qua khám bệnh kết luận, các bác sĩ khuyên gia đình nên đưa cháu về nhà chăm sóc, vì cháu bị bệnh bạch cầu cấp (ung thư máu) hiện y học trên thế giới vẫn đang bó tay trước căn bệnh nan y này.

“Có điều lạ là dù cháu đau thế nào nhưng cháu đều mím môi chịu đựng không để bố mẹ và mọi người trong gia đình biết. Ông ngoại đến làm vía (cúng vía theo phong tục địa phương) cho cháu thì cháu bảo: “Con không khỏi bệnh đâu, ông cho con đi chơi nhà các cô, các bác”. Đến hôm sau thì cháu mất”, anh Ôn thuật lại. Thế nhưng điều kinh hoàng nhất với vợ chồng anh Ôn xảy ra khi gia đình mời ông thầy mo trong bản đến làm lễ cúng ma cho con theo phong tục địa phương. “Ông thầy mo ban đầu gọi hồn là cháu thì kiểu gì cũng cúng không thành, phải đến khi gọi cháu là… chị thì mới ngồi làm lễ được. Thầy mo bấm tuổi rồi bảo chúng tôi: Người trời này hơn bốn mươi tuổi, là con chúng mày nhưng còn… nhiều tuổi hơn cả chúng mày”, anh Ôn sợ hãi kể. Anh Ôn hiện đang là cán bộ UBND xã Chiềng Châu, anh buồn rầu cho biết: “Vợ chồng mình làm cán bộ nên cũng không tin vào những chuyện ma quái. Nhưng thật sự chuyện con mình là như vậy. Nó là đứa con đầu thai, nó chê nhà mình nghèo, nó không ở thì mình cũng đành phải chịu”.

Để kiểm chứng câu chuyện của anh Ôn, chúng tôi cũng đã vượt quãng đường hơn mười cây số tìm đến nhà anh Lò Văn Ngọc tại xóm Vãng, được cho là người có cô em gái đã “đầu thai” làm con anh Ôn. Đúng như lời anh Ôn kể, đó là một căn nhà sàn ba gian, phía trước nhà có cây dừa. Anh Ngọc cho biết: “Bố mẹ tôi chỉ sinh được hai anh em. Tôi sinh năm 1964, còn cô em gái sinh năm 1966 nhưng nó bị bạo bệnh mất sớm. Đêm con anh Ôn mất, chẳng hiểu vì sao mà cả gia đình tôi không ai ngủ được, cứ lục xục suốt đêm. Về sau mới biết tin em gái mình đã đầu thai vào nhà dưới ấy”. Những “nghi án đầu thai” không phải là chuyện mới, và cũng đã từng có ý kiến cho rằng người ta dựng chuyện “đầu thai” để lợi dụng việc cho nhận con nuôi hay mục đích vụ lợi gì khác. Đem ý kiến này đến những người cao tuổi trong bản Chiềng Châu để hỏi, chúng tôi được cụ Hà Văn Thẩm tám mươi tuổi cho biết, chuyện con đầu thai ở đây không phải giờ mới có, mà trước đây cũng đã có nhiều trường hợp như vậy.

Trước năm 1954, thời lang đạo và thực dân Pháp cai trị, có những người vì nhận nhà lang làm nhà mình nên cả gia đình bị nhà lang hãm hại vì sợ tranh giành quyền thế, nhiều gia đình phải bỏ đi biệt xứ hoặc bị đánh đến chết. Còn bây giờ muốn nhận con nuôi thì Nhà nước mình có cấm đoán gì đâu mà họ phải bịa chuyện để lách luật?”. Một thầy lang cao tuổi khác trong xã cho biết: “Tôi đi chữa bệnh nhiều, gặp trường hợp như vậy nếu các cháu muốn nhận bố mẹ mà lại hay đau ốm luôn thì tôi cũng khuyên gia đình nên cho các cháu nhận. Điều lạ là hầu như các trường hợp con đầu thai đều rơi vào trường hợp con một và những bệnh các cháu mắc phải đều khó tìm ra nguyên nhân, nhưng khi nhận bố mẹ, anh em “kiếp trước” thì bệnh tình đều qua khỏi”.

Ông Hà Trọng Lưu, Chủ tịch UBND xã Chiềng Châu cho biết: “Con luân hồi, đầu thai ở địa phương không phải là trường hợp cá biệt. Trong xã đã có nhiều trường hợp xảy ra và hai bên gia đình đều nhận anh em hoặc con nuôi. Tôi cũng nghe có nơi người ta nhận như thế cho hợp lý hóa việc nhận con. Nhưng ở Chiềng Châu, tôi khẳng định không có một trường hợp nào mang tính vật chất hay đánh đổi. Gần như những gia đình có con truyền kiếp đều có kinh tế khá hơn những gia đình các cháu nhận là gia đình kiếp trước”. Cũng theo Chủ tịch xã Hà Trọng Lưu, việc nhận con nuôi như thế đã diễn ra nhiều năm nay ở địa phương, dù xôn xao dư luận nhưng không gây ảnh hưởng xấu đến đời sống, phong tục tập quán của người Thái ở đây.

“Vì vậy chúng tôi coi đó cũng là những câu chuyện hết sức bình thường giống như chuyện cây lúa trên nương, con thú trên rừng vậy. Có chăng bà con trong bản cũng chỉ nói: Thì ra con nhà ấy lại là con ông bà ở bản này, bản kia lộn về. Các gia đình sau đó đều nhận bố mẹ, anh em, con cái và coi nhau như người một nhà, quây quần đù bộc nhau qua sợi dây luân hồi, tiền kiếp”, nguyên văn lời ông Lưu. Trưởng phòng Tôn giáo Sở Nội vụ tỉnh Hoà Bình, ông Nguyễn Trường Sơn cũng xác nhận: “Những trường hợp người dân gọi là “đầu thai” ở huyện Mai Châu là có thật. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Hoà Bình còn một vài trường hợp ở huyện Lương Sơn và Lạc Sơn. Tôi cũng đã từng đến tận nơi tìm hiểu nhưng kết quả chỉ là ngạc nhiên và không giải thích nổi. Có những đứa trẻ khi sinh ra chẳng đi đâu mà biết rõ gia đình nhà người khác cách hàng chục cây số như trong lòng bàn tay, như việc mình đã trải qua”.

Theo ông Sơn, trong những trường hợp này dân gian sẽ dựa vào quan điểm Phật giáo để giải nghĩa. “Phật giáo không cho rằng con người chết là hết mà có linh hồn bất tử tiếp tục đầu thai vào kiếp khác. Cứ như thế con người vào vòng luân hồi không ngừng từ đời này qua đời khác, từ kiếp này sang kiếp khác. Con người của quá khứ là nhân của con người hiện tại, con người hiện tại là nhân của con người tương lai. Dù khoa học chưa chứng minh được quan niệm này là đúng hay sai, nhưng những người tin theo quan điểm Phật giáo thì vẫn cho rằng có kiếp trước, kiếp sau”, ông Sơn cho biết.


PLVN



#382 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/11/2011 - 06:00

Bùa Lỗ Ban

Nhà thằng Chiến, thằng bạn thân nhất của tôi lúc còn học Mạc Đĩnh Chi nằm ngoài mặt tiền con đường gì tôi cũng không nhớ tên, chỉ biết đi hướng về Lái Thiêu gần bên cây cầu tên là Giao Khẩu. Thật ra đây là nhà bên vợ của nó, ngày xưa lúc còn đi học, nó không phải là học sinh giỏi, nhưng trong xã hội hôm nay, kết quả của sự học tập thường không phải là thước đo cho cuộc sống kinh tế sau nầy. Lấy vợ, về ở bên nhà vợ, thằng Chiến đã nhìn ra vị thế thuận lợi của miếng đất nhà cha mẹ vợ nó nếu được khai thác để buôn bán vật liệu xây dựng... Và trong đà thi đua xây cất nhà của mọi người, không mấy chốc khu nhà ở của gia đình bên vợ thằng Chiến đã là một địa điểm buôn bán vật liệu xây dựng bề thế nhờ bên hông giáp bờ kinh cha mẹ vợ nó đã cho người ta thuê để bốc dỡ cát từ ghe chài lên cho xe tải mọi nơi trong thành phố về lấy.

Với tài tháo vát, nói năng, giao thiệp, thằng Chiến đã là con cưng của gia đình bên vợ nó. Khách hàng cũng rất thích mua hàng của gia đình nó vì được giao tận nơi nếu gần hay chỉ tính tiền xăng nhớt chút đỉnh nếu xa, vì nó có sắm sẳn hai chiếc xe ba gác gắn máy với hai người lái xe giao hàng cho khách ăn lương tháng. Thằng Chiến mới có một đứa con trai tên Nhân, năm nay khoảng bốn tuổi và khỏi nói cũng biết nhóc tì ta là cục vàng của gia đình nầy rồi.

Thằng Chiến hẹn tôi chín giờ sáng hôm nay sẽ đưa tôi đến tiệm hủ tíu cá, nghe nó nói ở đâu trên Quận Gò Vấp đường LQ Đ thì phải, mà theo lời nó về Việt Nam mà không ghé vô đó là chết nửa cuộc đời nên tôi cũng muốn thử coi như thế nào. Tôi đến nhà nó cũng đã hơn mười giờ, vì không đến trể không phải người Việt Nam kia mà, hơn nữa vì đêm qua đi chơi về quá khuya thì dậy trể là lẽ đương nhiên, nhưng lý do chánh là tôi cũng muốn để cho nó sấp xếp công việc buổi sáng của nó đâu ra đó rồi có lôi nó đi suốt ngày cũng không sợ mặt vợ nó đen. Tôi chạy chiếc Honda 50cc vào chổ để xe chưa kịp khoá, thì thấy Xuân, em vợ của thằng Chiến đi ngang qua tôi:

- Anh Bình, anh Chiến đang ở trong nhà đó, thằng Nhân nó bị té...

Tôi chưa kịp hỏi gì thêm thì Xuân đã đi nhanh ra phía trước hỏi to:

- Mấy anh thấy anh Lực đi giao hàng về chưa vậy?

Có tiếng ai trả lời đâu đó:

- Chưa thấy cô Xuân ơi.

Tôi bước đến bên Xuân:

- Thằng nhỏ có sao không Xuân?

Xuân không trả lời câu hỏi của tôi:

- Anh vào nhà đi, anh Chiến cũng đang có ý chờ anh đó...

Tôi bước vào trong. Mọi người trong nhà thằng Chiến hầu như đều có mặt. Thằng Chiến ngồi trên ghế, ôm Nhân trong lòng, vợ nó ngồi bệt dưới đất đang xoa dầu chổ mắt cá chân thằng nhóc mà lúc nầy đang sưng thật to và thằng nhóc khóc đã không thành tiếng. Ba vợ nó thì đứng vuốt tóc thằng nhỏ vổ về "nín, nín đi con, giỏi Ngoại thương... mai Ngoại dắt con đi ăn hủ tíu bò viên..." còn Má vợ nó thì đang làu bàu mắng vợ nó "tao không biết bây tối ngày lo làm cái gì á, có thằng nhỏ không coi chừng, để cho nó té, sao không giết nó luôn đi..." Thằng Chiến ngước đôi mắt buồn bả nhìn tôi:

- Nó đi trợt chân, té từ trên thang lầu, cũng may chỉ bị trặc mắt cá chân thôi...

Nghe thằng Chiến nói với tôi như vậy, Má vợ nó quay lại trợn mắt:

- Vậy chứ mầy còn muốn sao nữa...

Thằng Chiến cúi đầu, nín khe. Tôi biết Má vợ thằng Chiến rất hiền lành và tốt bụng vì nóng ruột thằng cháu cưng mới nặng lời như vậy nên bước tới đở lời cho nó:

- Nếu cháu Nhân chỉ bị trặc mắt cá chân thì thật may mắn lắm rồi đó Bác, bây giờ nên đưa cháu vào bệnh viện gấp để Bác sĩ sửa lại khớp cho cháu, để lâu không tốt...

- Bác đã biểu con Xuân đi kêu thằng Lực rồi, không biết nó kêu chưa mà tới giờ cũng chưa thấy mặt tụi nó.

- Thằng Lực đi giao gạch cho người ta rồi, bộ thằng Hồ đi không được sao? Ba vợ Chiến xen vào.

- Thôi, thằng Hồ chạy xe ẩu lắm không được đâu. Má vợ nó cải.

- Nhưng hai Bác định đưa cháu vào nhà thương nào? Tôi hỏi

- Tao định đưa nó tới Ông Đông Y Sỹ Trương Quốc Cường... nghe người ta nói ông ta giỏi về mấy vụ nầy lắm. Thằng Chiến trả lời tôi thay cho Ba Má vợ nó.

Ngày còn ở Việt Nam tôi cũng thường nghe nói về Ông Đông Y Sỹ nầy, nhưng ông ta hay như thế nào và hiện tại ở đâu thì tôi mù tịt.

Vừa lúc đó thì một thanh niên lực lưởng, da mặt sạm đen đi vào:

- Dạ Ông Bà, Cậu Tư kiếm con hả?

Mọi người sáng mắt lên khi thấy anh ta, và Chiến nói ngay:

- Lực à , ra lấy xe chở tao đưa thằng Nhân đến Ông Trương Quốc Cường nắn cái chân cho nó ngay đi.

- Chân nó bị gì vậy Cậu Tư?

- Nó bị té xuống mấy bậc thang nên bị trặc mắt cá...

- Nhưng....

- Biểu thì mầy đi ngay đi, còn ở đó mà nhưng với nhị... Má vợ Chiến gắt.

- Nhưng... con đâu biết ông Trương Quốc Cường gì đó ở đâu chứ... Lực nói.

- Mầy chạy vô chổ nhà hàng Á Đông trong Chợ Lớn đó, rồi hỏi người ta chỉ cho. Ở đó ai mà không biết ông ta chứ. Ba vợ Chiến nói.

- Dạ.

Lực ra nhà xe, lấy chiếc Dream 100 của Chiến đẩy ra cửa đề máy chờ Chiến. Chiến xốc thằng Nhân lên định bồng ra xe. Thằng nhỏ có lẻ lại bị đau nên khóc thét lên. Chiến dổ con:

- Ráng chịu đau chút đi con... Ba đưa con đi ông thầy nầy hay lắm sẽ hết đau liền à...

Thằng nhỏ không biết vì đau thiệt hay muốn được chìu thêm, chẳng những không nín mà khóc lớn hơn và cái chân không bị đau lại chòi lia lịa vào hông ba nó...

Tiếng khóc của thằng Nhân và cảnh tượng chạy ra chạy vào của Xuân cùng những thành viên khác trong gia đình Chiến đã gây chú ý cho hầu hết những khách đến mua vật liệu xây dựng hôm nay, trong đó có một thanh niên trạc chừng hai mươi tuổi, tóc để dài hình như cả năm rồi chưa đi hớt, mặc bộ đồ kaki lính còn dính bê bết xi măng, đang xếp gạch lên chiếc xe ba gát của anh ta gần bên Lực đang ngồi trên chiếc Dream đợi Chiến.

- Thằng nhỏ bị gì mà khóc dử vậy anh? anh ta gợi chuyện với Lực.

- Nó bị té trặc mắt cá chân. Lực trả lời anh ta.

- Trặc mà có bị gảy xương không?

- Tao cũng có biết đâu, mà mầy hỏi chi vậy?

Cậu thanh niên cười thật hiền:

- Nếu bị gảy xương thì em không biết, chứ chỉ bị trặc khớp thì em có thể chỉ giúp người sửa dùm.

- Mầy lại muốn nói Ông Trương Quốc Cường chứ gì. Lực hỏi.

- Em đâu biết ai là Trương Quốc Cường chứ, chú Ba Lành cũng ở gần đây thôi... mới tuần trước em đi đá banh bị trặc mắt cá, chú ấy sửa cho em, chỉ một ngày là hết à...

- Mầy nói thiệt hay nói chơi mậy? Lực trợn mắt.

- Em gạt anh làm gì chứ. Nói xong hắn kéo quần lên cho Lực coi cái mắt cá bình thường của hắn rồi nói thêm :

- Vậy mà tuần trước nó sưng còn to hơn cái tô nữa, em nằm liệt một chổ có đi làm được đâu.

Vừa lúc đó thì Chiến bồng thằng Nhân đi ra. Lực nói ngay với Chiến, khi Chiến xốc thằng Nhân lên ngang bụng mình để định ngồi lên xe:

- Cậu Tư, có thằng nầy nói, nó biết Chú Ba Lành gì đó biết sửa chân trặc hay lắm nè...

Tôi và Chiến cùng ngó theo tay chỉ của Lực vào anh chàng thanh niên, mà lúc nầy đang nhìn lom lom vào mắt cá chân của thằng Nhân bầm tím, sưng vù... tôi nghe hắn lẫm bẫm:

- Giống y như tui mà...

Không để cho Chiến phải hỏi, Lực tóm tắt mẫu đối thoại vừa rồi giữa hắn và gã thanh niên cho Chiến nghe và thêm :

- Em nghĩ Cậu Tư thử đưa cháu đến Chú Ba Lành gì đó xem sao, biết đâu...

Chiến bán tín bán nghi, quay sang gã thanh niên:

- Em...

Gã thanh niên cười thật hiền:

- Dạ, em tên Hấu...

Chiến thân thiện:

- Hấu biết thầy trị chân trặc mắt cá à, chỉ dùm anh đi, tôi nghiệp thằng con anh, nó khóc từ sáng đến giờ...

- Chú Ba Lành không có làm thầy gì đâu, tại nhà em ở gần nhà chú, thấy em bị sưng chân không đi làm được, chú sửa dùm... chứ trước giờ em không thấy chú trị cho ai hết á...

- Vậy nhà chú Ba có gần đây không cháu? Ba Má vợ của Chiến cũng đã được Lực thuật lại câu chuyện, và Má vợ Chiến sốt ruột xen vào.

- Dạ, bên xã Đông Thạnh đó Bác... Hấu trả lời.

- Vậy cháu có thể hướng dẩn ba nó đưa nó đến nhờ chú Ba sửa dùm cái chân nó không?

- Dạ được chứ... nhưng...

- Nhưng... sao hở cháu?

- Dạ , tại cháu đang đi lấy gạch về cho chú Hai Kỳ...

- A, Hai Kỳ đang lảnh xây nhà cho Ông Trưởng Phòng Thuế đó hả? Ba vợ Chiến hỏi Hấu.

- Dạ đúng đó Bác.

- Vậy chú em mầy khỏi lo, việc nầy để tao ... năm trăm viên gạch thẻ hả, được ...

Rồi ông quay sang thằng Hồ, cũng đang đứng đó:

- Hồ , bây lo đưa gạch đến cho anh Hai Kỳ, nói với ảnh là hôm nay tao nhờ thằng Hấu giúp dùm ít việc... ảnh có cần gì cứ nói với bây, à mà nhà ông Trưởng Phòng bây biết chứ?

- Dạ biết...

Hồ đáp lời Ba vợ Chiến xong quày quả đi lo công việc vừa được giao. Chiến hỏi Hấu trong khi thằng Nhân vẫn còn tức tưởi trên vai:

- Mình đi được chưa?

- Dạ được anh?

Chiến quay sang tôi:

- Mầy chở em Hấu nha Bình.

Từ nãy giờ tôi đã nghe hoàn toàn câu chuyện, và tôi cũng hiểu được sự nhẹ dạ cả tin của dân tộc tôi về những lời truyền miệng, khi gặp chuyện không may dù lớn dù nhỏ. Thằng nhỏ bị té trặc mắt cá chân, sao không đưa vào bệnh viện, lại muốn đưa đến một ĐYS và bây giờ lại là một chú Ba Lành nào đó, qua lời một thanh niên chưa từng quen biết, chỉ vì anh ta khẳng định, anh ta cũng bị trặc mắt cá và chú Ba Lành đó đã trị lành cho anh ta, nhưng con cưng của người ta, mình mà ý kiến nầy nọ, có gì chạy về Mỹ không kịp nên tôi lặng thinh, xuôi xị:

- Thôi, để em Hấu chở tao cho chắc ăn...

Tôi đẩy chiếc Honda của tôi lên trước mặt Hấu... hắn cười nói với Chiến khi Lực lại đề máy chiếc Dream:

- Vậy anh chạy theo em nha, vái trời bi giờ cho có ổng ở nhà...

Gã thanh niên tên Hấu nầy coi vậy mà cũng tốt, có lẽ hắn biết tôi sợ cái dòng xe cộ đông đúc mà lưu thông vô trật tự nầy hay chờ Lực vì sợ thằng Nhân bị dằn đau không dám chạy nhanh hay sao, mà hắn chạy thật từ tốn hiếm thấy ở những thanh niên tuổi hắn mà lái xe gắn máy. Qua khỏi cầu Ba Thôn hướng về xã Đông Thạnh, Hấu chợt hỏi tôi:

- Anh ở nước ngoài về phải không?

- Sao em biết?

- Nhìn anh biết liền... hắn cười tiếp:

- Bây giờ, con trai nhà giàu không ai đi loại Cub 50 nầy nữa...

- Nhưng anh có giàu đâu...

- Ừ, nhưng em không biết nói sao nữa... và em thấy hình như anh không tin những gì em nói lúc nãy phải không?

- Sao em lại nói vậy?

- Cảm giác thôi... vì em cũng như anh, không bao giờ nghĩ là chú Ba chữa lành được cái chân em... nhưng khi chân em lành hoàn toàn chỉ trong vòng một ngày em không tin cũng không được... Hấu chợt thấp giọng :

- Nghe người ta nói chú ấy có bùa Lỗ Ban đó anh.

- Bùa Lỗ Ban? Tôi lập lại.

- Ừ, nhưng mà ... hắn bỗng đổi giọng:

- Qua bưu điện xã Đông Thạnh, rẽ vào con đường đất đỏ kế bên khoảng 5, 6 trăm thước là tới nhà chú Ba...

Và có lẻ để tôi không hỏi gì thêm, Hấu rồ ga phóng nhanh hơn... Tôi ngoái lại phía sau thấy Lực cũng tăng ga để giữ nguyên khoảng cách. Hấu chậm lại khi rẻ vào con đường đất đỏ bị cơn mưa ngày hôm qua chưa khô nên khá trơn, hắn nói:

- Em nghĩ giờ nầy chắc chú Ba về rồi.

- Sao em biết? Tôi lấp lững hỏi Hấu, khi ba tiếng "bùa Lổ Ban" tôi nghe Hấu nói lúc nãy đang khơi dậy trong tôi biết bao nhiêu hiếu kỳ, để ký ức đưa tôi về với những lõm bõm do người đời thêu dệt mà tôi nghe được về nó lúc còn ở quê tôi.

- Em thấy hai lằn bánh xe và dấu móng ngựa in trên đường còn mới nên chắc chú Ba đánh xe về rồi.

- Chú Ba làm nghề đánh xe ngựa hã? Tôi ngạc nhiên hỏi Hấu vì thời đại bi giờ mà vẫn còn xe ngựa lưu thông hay sao.

Hấu cười như hiểu ý tôi:

- Xe ngựa của chú Ba đắt khách lắm đó, chú chuyên chở rau quả tươi cho bạn hàng từ tận trong rẩy xa, nơi mà xe hơi không vào được, đưa ra các chợ, mà hầu hết là mối quen không hà.

- Ồ, vậy sao, mà gia đình chú có đông người không?

Thằng Hấu chưa trả lời tôi thì đã quẹo xe vào một căn nhà. Nói là nhà cho oai vì nó thật đúng như lời miêu tả của nhà văn Bình Nguyên Lộc về cơ ngơi của những người dân quê tay lấm chân bùn : nhà tranh vách đất trống trước dột sau... Trước nhà có một cây xoài gốc thật to, lên cao khoảng ngang bụng thì phân làm hai nhánh, và hai nhánh nầy lên cao thì ngã la đà như hai chiếc lọng để che trên mái nhà thay vì lên đường thẳng như những cây xoài thường thấy. Một người đàn ông đang trút cỏ tươi từ trong bao ra máng cho con ngựa nhốt trong chuồng bên hông nhà.

- Chú Ba...

Hấu gọi lớn khi còn chưa tắt máy xe. Người đàn ông xoay người lại nhìn lên, hơi thoáng ngạc nhiên khi thấy Hấu và thêm mấy người lạ, vội lau hai tay bên hông, đi ra. Tôi, Chiến và Lực đều cúi đầu, còn nghe Hấu nói nhỏ "Chú Ba có một mình hà":

- Chú là Chú Ba... chào Chú...

- Hấu, mấy Cậu nầy là... Hấu mau mắn:

- Chú Ba, mấy anh nầy... Trong lúc Hấu vắn tắc giới thiệu cũng như ý định của chúng tôi cho chú Ba Lành nghe, (phải, người đàn ông đó là chú Ba Lành) tôi có dịp nhìn kỷ hơn con người của chú. Chú có vẻ đã ngoài 50, mặc quần đùi đen gần tới gối, chiếc áo cánh sát nách bằng vải trắng đã ngã vàng với hai cái túi lớn đong đưa không biết đựng gì bên trong, tôi đoán chắc là thuốc rê, để lộ đôi tay gân guốc với bắp thịt nổi vòng đen sạm. Khuôn mặt thật hoà nhã dễ tạo cãm tình với chòm râu chớm bạc và đặc biệt là chú Ba Lành vẫn còn bới củ tỏi.

Nghe Hấu nói vừa xong, chú Ba Lành cười sỡi lỡi:

- Ô, vậy hã, để coi nè... à, mấy cậu vô nhà ngồi chơi, uống nước... Hấu, mầy vô bắt ấm nước dùm tao chút nha, tao cũng mới về có nước nôi gì đâu...

- Dạ, chú để con... Hấu nói xong chạy vào nhà sau và chúng tôi theo chú Ba Lành vô nhà.

Đi ngang với Chiến, chú Ba Lành nhìn thằng Nhân ngoẹo đầu trên vai Chiến, nước mắt vẫn chưa khô , chú cười bẹo má nó:

- Nhìn cái mặt nầy là biết quậy quá cở thợ mộc rồi, khóc cái gì chứ, một lần cho biết sợ nha con.

Nhà chú Ba Lành không có cửa, bên trong chỉ có bộ ván ngựa, nhưng ván ngựa thường có ba tấm, của chú chỉ có hai tấm lại loang lổ vết mọt ăn, vài cái ghế đẩu, một cái ghế xếp và một cái vỏng treo tòn ten giữa hai cây cột... Nhưng đặc biệt trên tấm vách bằng gổ lành lặn một bên nhà, chú Ba Lành treo hai cây đờn kìm và cò mà cán đờn lên nước bóng lưỡng, chứng tỏ chúng được xữ dụng thường xuyên. Mời chúng tôi ngồi xuống ghế, chú Ba Lành lấy trong chiếc vỏ bình bằng quả dừa khô cắt ngang, ra chiếc bình trà cũng đã mẻ miệng đưa cho Hấu vừa đi lên:

- Mầy lấy nước mưa nấu pha trà đó uống mới đã nha Hấu.

Hấu dạ và đi ngay, hình như hắn đã quen thuộc với sinh hoạt của chú Ba Lành. Thằng Hấu đi rồi, chú Ba Lành lấy dưới sàn ván ra một cây mát vót (loại dao lưởi dài khoảng một gang rưởi, cán dài khoảng hai gang rưởi để cặp vào nách khi làm việc, bén ngót, thường dùng để chẻ lạt...) và một ống tre khô dài độ một gang. Chú ngồi trên bộ ván chẻ ống tre lấy một thanh bề ngang độ một lóng tay và chuốt thanh tre nầy thành hình như một cái đục. Chú vừa làm việc nầy vừa nói với chúng tôi về đủ thứ chuyện, mà tuyệt nhiên không hề đá động gì đến chuyện chữa trị cái chân trặc cho thằng Nhân mà lúc nầy có lẽ vì mệt đã ngủ thiếp trên vai ba nó.

Chú Ba Lành ngắm nghía cái đục cây và gật gù tỏ vẻ hài lòng cũng vừa lúc thằng Hấu xách bình trà lên với bốn cái ly. Nó rót trà ra ly, mùi trà bốc lên thơm ngát. Chú Ba Lành bưng ly trà lên mời chúng tôi:

- Các cậu uống thử xem, trà nầy tui ướp đó... không có bán ngoài tiệm đâu...

Và thật tự nhiên chú từ tốn thưởng thức ly trà thơm bốc khói, trong lúc tôi, mà chắc cả thằng Chiến từ sáng giờ chưa có gì vô bụng nên bỗng thấy cồn cào. Chú Ba Lành cườ :

- Thử đi, bảo đảm không có xót ruột đâu... hì hì, các cậu sáng giờ chưa ăn gì phải không... thui ráng chút về ăn luôn nha... uống trà đi, để nguội không ngon...

Tôi bưng ly trà lên, mùi thơm của nó thật là dể chịu, thử một ngụm, chất trà chát chát, đăng đắng, nong nóng qua cổ họng nồng lên mủi để lại chút vị ngòn ngọt khiến các mạch máu như dản ra, lượng máu lưu thông đưa oxy đến các tế bào nhanh hơn làm con người thật dể chịu... nhìn qua thấy Chiến cũng nhìn lại tôi như cùng cảm nghĩ... Chú Ba Lành chợt đứng lên đi ra ngoài nhìn trời rồi trở vô nói với Chiến:

- Cậu có thể đưa cháu về nhà được rồi.

Chiến ngạc nhiên:

- Ủa, chú Ba chưa làm gì cho thằng nhỏ hết mà.

Chú Ba Lành cười:

- Xong rồi, còn làm gì nữa chứ... Cậu cứ đưa cháu về nhà nghỉ đi, nó mệt rồi đó. Tin tôi đi... rồi chú quay sang tôi:

- Còn Cậu, nếu muốn thì ở lại chơi, hì hì, chắc Cậu cũng biết chơi cổ nhạc...

Tôi tròn xoe mắt:

- Sao chú Ba biết?

- Tôi đoán vậy khi thấy cậu nhìn mấy cây đờn của tôi, cậu đờn hay ca...

- Dạ, ca...

Chú Ba bật cười lớn:

- Hà hà hà... vậy được quá... chú Ba chưa nói gì thêm thì thằng Hấu xen vào:

- Anh ấy ở nước ngoài về đó chú Ba...

- Thì đã sao... Thấy chú Ba Lành đã chuyển đề tài qua tôi, Chiến đành phải bồng thằng Nhân cùng Lực ra xe về. Trước khi Lực cho xe chạy, chú Ba Lành bỗng nghiêm sắc mặt nói với Chiến:

- Tôi giúp Cậu chữa cái chân cho thằng nhỏ là thường tình, Cậu đừng nghĩ sẽ mang ơn hay đền đáp gì cả, an tâm đưa cháu về nghỉ đi, ngày mai nó sẽ khỏi thôi.

Chú Ba Lành chấm dứt câu nói và vổ nhẹ vào vai Chiến. Tôi nói vói theo khi thấy Chiến còn ngoái cổ lại nhìn tôi:

- Chút nữa về tao sẽ ghé mầy. Tôi thấy Chiến gật đầu.

Trở vào nhà, chú Ba Lành đến bên vách lấy cây đờn Kìm xuống, so lại dây và dạo một khúc hơi Bắc. Tiếng đờn Kìm của chú thật mướt, mênh mông, trải dài như cơn gió nhẹ đang miên man qua khu vườn trồng bắp hai bên đường... Chú chợt dằn cái song loan xuống bàn chân:

- Ê, chú em mầy...

- Dạ, cháu tên Bình...

- Hì hì, vậy Bình, mầy chào tổ bản Lưu Thủy đi nha... chơi dứt bản nầy là vừa đúng giờ đó.

Đúng giờ gì chứ, tôi chưa hiểu như thế nào, thì chú Ba đã nhịp song loan làm tôi phải vô ngay... Bèo nước tương phùng, người cùng sở thích gặp nhau... khỏi nói rồi, tôi hát hăng lắm, nên nếu chú Ba không gỏ song loan dứt bài Lưu Thủy, tôi dám qua luôn bài Phú Lục...

Dứt bản Lưu Thủy, chú Ba buông đờn đứng dậy:

- Tới giờ rồi. Chú cầm chiếc đục bằng tre khô mà chú chuốt khi nãy vói tay xuống sàn ván lấy thêm chiếc vồ bằng cây sao đi ra ngoài sân, đến trước gốc cây xoài... cắm chiếc đục vào khe hở giữa hai nhánh, dùng chiếc vồ đập mạnh lên đầu chiếc đục "bốp"...

Tôi há hốc mồm nhìn chiếc đục tre dưới sức đập của chiếc vồ trong tay chú Ba, tôi nghĩ là nó sẽ gãy vụn vì cây xoài dù sao cũng cứng hơn nó nhiều. Nhưng không, nó cắm thật ngọt vào cây xoài chổ phân nhánh hơn quá nửa, và giữa trưa trời lặng gió mà tôi thấy hai nhánh của cây xoài rung lên, cành lá khua xào xạc. Thằng Hấu đứng ngoài sau tôi, buột miệng:

- Thằng nhóc chắc té đái trong quần quá...

Chú Ba đưa chiếc vồ cho nó cười:

- Đem vô nhà dùm tao đi... Nó là con nít, đái ra quần cũng có chi là lạ, mầy lớn đầu rồi mới đáng nói chứ...

Tôi thấy mặt thằng Hấu đỏ gay, bỏ đi vào nhà, ngượng nghịu:

- Chú Ba nầy....

Chú Ba Lành móc trong túi áo lấy bịch thuốc rê mở ra, trong bịch thuốc của chú có thêm một cái hộp thiếc nhỏ, chú mở hộp thiếc nầy lấy một điếu thuốc rê mà chú đã vấn sẳn khi rổi rảnh, đưa lên môi, bật quẹt đá (loại hộp quẹt có vỏ bằng nhôm, người bình dân rất ưa dùng) mồi và rít một hơi dài, mắt nhìn vào chiếc đục tre. Nhìn theo ánh mắt chú tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy chiếc đục tre hình như đã trồi lên. Lúc nãy rỏ ràng tôi thấy nó ngập xuống thân cây xoài hơn quá nửa mà sao bây giờ đã cao hơn và chú Ba Lành gật gù có vẻ hài lòng. Tôi chưa kịp hỏi, thì chú Ba Lành ném điếu thuốc đang hút dở , đến cầm lấy chiếc đục tre cũng vừa trồi lên hết khỏi thân cây xoài. Tôi nhìn xuống chổ chú Ba đóng chiếc đục tre khi nãy, vỏ cây vẫn liền trơn, không một dấu trầy. Tôi đưa tay sờ vào chổ đó, liền lặn không có lổ hổng nào mà...

- Chú mầy sẽ không thấy gì đâu... tốt, tốt lắm, thằng nhóc hết rồi... hì, hì... chút nữa về chú mầy ghé nhà nó, nói ba má nó pha nước muối âm ấm bóp cái chân nó cho mau tan máu bầm nha... bi giờ thì nó đi đứng bình thường được rồi đó...

Chú Ba nói xong, cầm chiếc đục tre đi vào sau bếp ném nó vào lò lửa đang đỏ than hồng, ngọn lửa bùng lên, chiếc đục tre cháy rụi.

- Bình, mầy ca giọng cũng rong quá hén, ở bên đó có chơi đờn ca không?

Chú Ba đã đổi đề tài khi tôi vẫn còn bán tín bán nghi với những sự kiện mà tôi vừa chính mắt thấy nên ấp úng:

- Dạ , dạ... cũng có nhưng...

- Hôm nay tao bận chút việc , vậy ngày mai nếu rảnh xế xế chú mầy ghé tao đi, tụi mình làm một bửa cho đã...

- Dạ... tôi khoái chí nhận lời ngay.

- Ê, Hấu thui sẳn hôm nay mầy nghỉ làm đi ngọ (đi đàn ca để chia sớt nỗi buồn phiền của gia đình có tang chế, thông thường chỉ chơi nhạc cổ truyền. ) với tao luôn đi Hấu.

- Đi ngọ ở đâu vậy chú Ba?

- Thì nhà anh Hai Đạt chứ đâu. Ngày mai chôn rồi, hôm nay là ngày chót giúp cho ảnh luôn đi, tội nghiệp bà già ảnh lúc sanh tiền cũng thích nghe, hôm nay mình chơi một bửa để bả đi cho yên lòng, hai ông già Năm Ri và Sáu Mèn giờ nầy chắc đã vào đó, chút mầy về xách cây guitar của mầy theo nha.

Quay sang tôi chú nói:

- Thằng Hấu chơi guitar cũng khá lắm.

Giờ nầy, thiệt tình tôi muốn chạy về nhà Chiến ngay, để coi thằng Nhân như thế nào, nên sẳn đó từ giả chú Ba Lành:

- Thưa Chú, vậy cháu xin phép về, mai cháu ghé.

- Ừ, nhớ nha...

Tôi bật chống chiếc Honda của tôi xuống, ngồi lên yên đạp máy chào chú Ba và Hấu lần chót, trước khi chạy đi tôi còn nghe Hấu nói theo:

- Anh Bình nhớ ngày mai tới chơi nha...

Tôi đưa tay lên vẩy vẩy cho Hấu biết là mình sẽ y hẹn.

Ra đường lớn, tôi nhìn đồng hồ tay thấy đã hơn hai giờ trưa, nhưng trước những việc xảy ra, sự hiếu kỳ , thắc mắc đã làm tôi không cảm thấy đói. Tôi về đến nhà Chiến khoảng mươi phút sau đó... Chiến đón tôi ngay trước cửa với nét mặt vui vui:

- Mầy về sớm vậy? chú Ba Lành...

- Chú ấy bận đi công việc, chân thằng nhỏ sao rồi mậy?

- Mầy vào coi đi... Chiến nói xong đi trước...

Thằng Nhân đang ngồi ăn cơm, xung quanh nó mọi người trong nhà Chiến đều đủ mặt... Vừa thấy tôi, Má vợ Chiến nói ngay:

- Cháu Bình nè, Chú Ba nào đó, hay quá đi, chân thằng Nhân đã hết đau, nó đi được hai ba bước rồi nên mới chịu ngồi ăn cơm đó.

Chiến nói với tôi :

- Lúc nãy mới về tới nhà, thằng Nhân đang ngủ trên vai tao, chưa kịp để xuống nó bỗng khóc thét lên kêu "đau quá" , mà mắt vẫn nhắm, đái cả lên người tao, và tao cảm giác như có gì đó đè nó xuống vai tao, cái chân bị trặc của nó thì ngay đơ còn chân kia thì đạp lia lịa... nhưng chỉ trong tíc tắc thì người nó dịu nhỉu như cũ và chổ mắt cá chân bị sưng xẹp xuống thấy rỏ. Vào đặt lên giường thì nó ngủ khò, khoảng 1 giờ sau tỉnh dậy, nó tuột xuống giường và bước đi được mầy ạ... Thiệt tình, nếu không phải con tao, nói ra không ai có thể tin được.

Tôi bước đến nhìn xuống chổ mắt cá chân của thằng Nhân. Thằng nhỏ chắc đã hết đau nên đưa thẳng cái chân ra:

- Con hết gồi ...


làm mọi người ai cũng cười. Quả nhiên mắt cá chân nó đã xẹp lại bình thường tuy vẫn còn bầm. Tôi nói với Chiến:

- Chú Ba nói, bà xã mầy pha nước muối âm ấm xoa vào chổ bầm cho mau tan, chú nói nó cứ đi đứng bình thường không có gì đâu.

Bà xã Chiến nghe tôi nói, đứng dậy:

- Vậy để em đi làm ngay xoa cho nó.

Tôi vừa định đem những chuyện mắt thấy tại nhà chú Ba Lành kể cho mọi người nghe, thì Ba vợ Chiến cười lớn :

- Thôi mình ăn cơm đi, vừa ăn vừa nói... nãy giờ cả nhà cũng có ý định chờ cháu Bình về ăn luôn... Xuân ơi, dọn cơm lên đi con...

Bữa cơm gia đình Chiến hôm đó hình như mọi người ăn nhiều hơn vì quá trể hay vì vui bởi cục vàng của họ (thằng Nhân) khỏi bệnh và vì một câu chuyện gần như là huyền thoại lại xảy ra ở thời đại vệ tinh nầy. Ba vợ Chiến chép miệng:

- Bùa Lỗ Ban, thuở nhỏ tao cũng có nghe Ông Bà mình nói, được truyền trong giới thợ mộc và nghe nói có giúp người mà cũng có hại người nữa...

Má vợ Chiến hốt hoảng:

- Hại người, mà hại làm sao?

Ba vợ Chiến cười:

- Ối, hơi đâu mà bà lo, hại là khi nào bà cất nhà cất cửa, người ta mới ếm được chứ... mà tui cũng nghe nói thui, chứ có thấy bao giờ đâu nà.

Tôi hoàn toàn đồng ý với Ba vợ Chiến, vì quả thật tôi cũng có nghe Bùa Lỗ Ban chỉ được truyền trong giới thợ mộc, nhưng tôi thấy Chú Ba Lành không có vẻ gì là hành nghề thợ mộc, nhất là với một con người hiền lành, chất phát yêu thích nhạc cổ truyền như chú không thể nào có hành động hại người được. Tôi nghĩ, sẽ hỏi chú Ba khi có dịp.

Cơm nước xong, Chiến rủ tôi trong khi vợ nó và Xuân đang dọn dẹp chén dĩa trên bàn:

- Bình, tao với mầy ra đây uống cà phê đi.

Tôi chưa trả lời vì thoáng thấy ánh mắt vợ nó lườm nó thì Xuân nhanh nhẩu:

- Cà phê ngoài tiệm dở òm sao mấy anh thích uống không biết nữa...

Chiến cười nheo mắt nhìn tôi:

- Thì cũng tùy tiệm chứ, nhưng cô an chí tôi không dạy hư thằng Bình đâu.

Cô em vợ Chiến đỏ hồng đôi má, biết mình lỡ lời nên ôm mâm chén đi nhanh ra sau bếp. Tôi cũng có nhiều việc muốn nói thêm với Chiến nên đồng ý:

- Ừ, đi thì đi...

"Đi uống cà phê" ở Saigon bây giờ đã là một cụm từ ai muốn hiểu như thế nào cũng được... theo biết bao thay đổi của Saigon cả về phương diện đạo đức và con người, nên sau khi vắn tắt cho Chiến biết chú Ba Lành có hẹn tôi ngày mai trở lại nhà chú đờn ca chơi và Chiến đồng ý cùng đi, chúng tôi đã bị cuốn vào dòng chảy của một Saigon thác loạn sắp vào đêm.

Tôi và Chiến đến nhà chú Ba Lành cũng đã gần ba giờ chiều như chú đã dặn sau khi ghé chợ mua thêm trái cây. Chiến có mang theo ít đồ nhậu và một lít đế Gò Đen loại thượng hạng, mà nó nói là do một người thân biếu cho Ba vợ nó, nhưng Ông già không uống để dành, hôm nay tặng lại chú Ba Lành uống lấy thảo, sau nỗi vui mừng thấy thằng Nhân đã hoàn toàn bình phục chỉ trong vỏn vẹn một ngày.

Trước sân nhà chú Ba đã có vài chiếc Honda lẫn xe đạp.

Hấu chạy ra đón chúng tôi:

- Chú Ba và các chú bác có ý chờ các anh đó.

Hắn đón lấy túi trái cây, đồ nhậu và chai rượu trong tay tôi, khi Chiến dựng, khóa xe. Tôi hỏi Hấu khi nghe trong nhà có giọng nữ đang ca:

- Mấy chú bắt đầu lâu chưa vậy Hấu?

- Mới chào sân bài Lưu Thủy đó anh... anh vào đi, bài Lưu Thủy "Xữ Án Tô Đắc Kỷ" là bài ruột của chị Tư Én đó... Hấu ôm đồ đi nhanh vào sau bếp mà tôi thấy có thấp thoáng vài bóng người nữa, sau khi cười bằng đuôi mắt với tôi.

Đã quá trưa trời dịu nắng, cơn gió nhẹ đầu thu lướt qua cành lá hàng cây quanh nhà xào xạt, giọng ca người con gái cao vút, nhẹ nhàng, oán than thân phận dùm cho một nhân vật dù có dù không, hoà trong tiếng đàn khi khoan khi nhặt, thật làm dịu lòng người...

Tôi cùng Chiến bước vào nhà, khi nghe tiếng song loan đôi nhịp dứt bài Lưu Thủy...

Chú Ba Lành buông chiếc đờn kìm xuống ván, mấp mấp điếu thuốc rê trên môi kêu tôi:

- Vào đây Bình...

Quay sang Chiến chú tiếp :

- Chú em mầy khỏi nói, tao biết thằng nhỏ hết rồi chứ gì... hì hì, chú mầy biết đờn ca không?

- Dạ , không biết, nhưng cháu biết nhậu và biết nghe... Chiến vui lây trong cái chất phát của chú Ba Lành.

- Hà hà vậy được rồi... chú chỉ tay vào người đang ôm cây đờn guitar trạc tuổi chú:

- Ổng là Năm Ri... và người đang kéo đờn cò già hơn, tóc bạc trắng, móm sọm:

- Ông già đó là Sáu Mèn... quay sang tôi, chú nói:

- Nó là thằng Bình mà hôm qua bên nhà Hai Đạt tôi có nói với hai anh đó.

Tôi cúi chào hai ông bạn của chú Ba, chưa kịp nói gì thì chú Ba Lành đã tiếp:

- Còn con nhỏ đó là con gái của anh Năm đây... Tư Én, Tư Nhạn gì đó, nhưng cho chú mầy biết, con nhà tông , thượng thừa thất thập nhị huyền công đó nha ...hì hì...

Trước khi bước vào nhà chú Ba, giọng ca của cô gái đã cuốn hút lấy tôi và khi vào trong, mái tóc dài đen mượt xoả xuống bờ vai, khuôn mặt không điểm trang bình dị, đôi mắt tròn long lanh chất phá , khiến người nhìn vào không khỏi nao nao... nhưng nghe chú Ba Lành nói "thượng thừa thất thập nhị huyền công" gì đó khiến tôi không khỏi lại nhìn vào cô gái.

- Chú Ba nầy... Cô nói nhỏ và cúi xuống so dây chiếc đờn tranh để trên ván trước mặt cô.

Chú Năm Ri hỏi tô :

- Nghe anh Ba nói, chú em mầy biết chơi bài bản hả, học ở đâu? và bên đó có chơi thường không?

- Dạ, cháu đi chơi học ở bạn bè và các chú các bác, trước khi qua Mỹ, còn ở bên đó cũng có chơi, nhưng hiếm lắm vì người biết ca và biết đờn bài bản rất khó gặp nhau...

- Được rồi, biết tới đâu làm tới đó... chú Ba Lành xen vào và chú ôm cây đờn Kìm lên:

- Hồi nãy con Tư mở đầu bài Lưu Thủy rồi, Bình mầy tiếp bài Phú Lục đi, rồi sau đó muốn chơi gì thì chơi... Tư, mầy đờn tranh đi để anh Sáu hút thuốc...

Trong giới chơi đờn ca nhạc tài tử, người cùng lúc biết đờn và ca đã hiếm lại biết thất thập nhị huyền công tức biết hết thập loại bài bản cổ nhạc lại càng hiếm hơn. Bây giờ trước mặt tôi người đó lại là một cô gái xinh đẹp, khiến tôi nửa tin nửa ngờ nên tôi đã đem hết công lực thi thố... và tôi nghĩ mình cũng không làm chú Ba Lành thất vọng khi giới thiệu tôi, khi tôi dứt bài Phú Lục và nghe chú Sáu Mèn gật gù:

- Cũng được... và chú nâng cây đờn cò lên rao:

- Ca Hạ đi...

Thiệt tình mà nói, chơi bài bản tôi thích nhứt là dòng nhạc lễ nầy, nên chú Sáu Mèn rủ ca Hạ khác gì trúng tủ, nhưng tôi mại hơi:

- Dạ... nhưng để cô Tư ...

Chú Sáu Mèn cười lớn :

- Nó ca thì tụi tao nghe hoài, hôm nay để nó đờn đi...

Phải nói ca bài Ngũ Đối Hạ (người trong giới chỉ nói tắt là bài Hạ) với một dàn đờn hùng hậu tranh,kìm,cò,guitar thì còn hứng nào hơn, nên tôi đâu từ chối nữa, và qua tiếng nhạc mênh mông réo rắt tôi như muốn vẻ lại trận chiến hào hùng của Gia Cát Khổng Minh giúp Châu Du đốt chiến thuyền của Tào Tháo trên sông Xích Bích...

Tôi ca vừa dứt bài Hạ thì Chiến, Hấu và bốn người nữa, hai nam hai nữ, mà sau đó tôi được giới thiệu là hai cặp vợ chồng, anh Nam chị Liễu, anh Sơn chị Bê, đã dọn lên trái cây, đồ nhậu, bánh mì, để vừa đờn ca vừa lai rai. Người đi chơi đờn ca thật là giản dị, ai có gì mang theo nấy, rồi cùng ăn uống vui chung với nhau. Chiến khui chai đế Gò Đen đưa cho chú Ba:

- Ông già cháu gởi chú Ba uống lấy thảo, chú thữ xem ...

- Cha thơm dữ bây... anh Sáu vô trước đi... Chú Ba Lành cười khà, rót rượu ra chiếc chun nhỏ Hấu vừa đưa cho chú, trao cho chú Sáu Mèn.

Chú Sáu Mèn vô xê ngay, khà một tiếng, gắp miếng chả chiên đưa cay xong, liền xốc cây đờn cò:

- Sẳn rượu ngon hì hì, vợ chồng thằng Nam bây với thằng Hấu làm một màn "tống tữu Đơn Hùng Tín" đi...

- Còn đứa nào làm Tần Quỳnh? Chú Năm Ri vừa rao Bắc vừa hỏi.

- Để con. Anh Sơn, chồng chị Bê mau mắn.

- Ừ, được đó nè vô.... chú Ba Lành gỏ song loan.

Buổi đờn ca thật náo nhiệt và vui vẻ, mọi người đều giãn dị chân thành như phong cách của dòng nhạc cổ miền Nam. Hấu tuy còn trẻ nhưng ngón đờn guitar của hắn thật mướt, nghe hắn rao đờn, nếu có chút máu văn nghệ không thể nào không muốn vô vài câu vọng cổ, đặc biệt là hắn có giọng ca hài bão đãm nghe không cười không lấy tiền.

Tôi đã may mắn có được dịp chứng tỏ lòng ngưởng mộ của mình với cô Tư Én (Hấu nói cô tên thật là Yến, nhưng ở nhà kêu trại ra thành Én, lâu ngày thành thói quen luôn) khi chị Bê vừa ca dứt bài "Men rượu Sa Kê" và chú Ba Lành đề nghị:

- Con Tư bây để đờn tranh cho Ba bây đi, thằng Hấu gi ta, bây ca luôn bài "tống tữu Ô Hắc Lợi " đi.

- Nhưng... cô Tư Én ngập ngừng.

- Thì bây làm một mình có chết con ma nào đâu. Chú Ba Lành cười.

Tôi buột miệng:

- Nếu là bài của Soạn Giả Viễn Châu thì cháu biết.

- Cái bài vô "Đêm nay rượu tiển sao cay đắng" đó... chú Ba Lành quay sang tôi.

- Vậy đúng rồi... tôi nhìn Tư Én lúc đó cũng đang nhìn tôi:

- Tôi làm Ô Hắc Lợi nha... và tôi thoáng thấy Tư Én cười.

Bài ca "Tống tữu Ô Hắc Lợi" nầy, Ông cụ tôi rất thích nên trên xe tôi có cái băng cassette thu bài nầy để khi Ông cụ lấy xe tôi đi, Ông cụ nghe... tôi nghe ké nhiều lần nên thuộc lòng, không ngờ hôm nay lại được hát nó chung với người mình cũng muốn làm quen.

Chú Ba Lành vừa đạp song loan dứt bài ca đã cười ha hả nhìn chú Năm Ri:

-Tụi nó làm cũng giống Ô Hắc Lợi với Phi Long quá chứ há... Ê, Bình, tao thấy mầy hát với con Tư xứng đó nha, ở bên đó có chơi vui như vầy không?

Tôi chưa biết phải trả lời sao với chú Ba thì chú Năm Ri hỏi tôi:

- Chừng nào thì cậu trở về bển?

- Dạ thứ ba tuần tới.

- Ối, chuyện về ở tính sau ... chú Sáu Mèn xen vô... bây ca "Tứ Bữu Liêu Thành" đi.

Nhìn tôi ngẩn người ra, chú Năm Ri nói:

- Mấy bài đó chắc nó không biết đâu... rồi chú quay sang tôi:

- Gần đây, nhạc giới trong nước đã ra công sưu tầm cũng như cải biên bài bản cho phong phú thêm kho tàng âm nhạc nước nhà. Cặp Tứ Bữu Liêu Thành và Ngũ Châu Minh Phổ là một điển hình.

Rồi chú nói thêm:

- Bài Tứ Bữu Liêu Thành đã có từ lâu, do cố nhạc sĩ Ba Chột ở Bạc Liêu sáng tác, bài Ngũ Châu Minh Phổ do cố Giáo Sư Nguyễn Văn Thinh sáng tác khoảng hai, ba thập niên gần đây để đối lại bài trên, nhưng thời gian qua ít có người chơi vì khó quá... mãi đến sau nầy mới được phổ biến rộng rãi cùng với sự ra đời thêm những bài "Hận Nam Quan" của NS Năm Vinh, "Ngũ Khúc Long Phi" của Nghệ Sỹ Mười Phú...mà cách thức chơi cũng giống giống như vậy... Rồi chú kêu Tư Én:

- Con ca bài Tứ Bữu Liêu Thành đi...

Lần đầu tiên trong đời, tôi được nghe những dòng nhạc chuyển cung thật lạ qua tiếng đờn điêu luyện của các chú Ba Lành, Năm Ri, Sáu Mèn cùng giọng ca của Hấu, Tư Én vợ chồng anh Nam anh Sơn... mà càng về đêm càng thấm thía... để cuối cùng thì chú Ba Lành chép miệng:

- Tụi tao cũng có một cặp Lưu Thủy Bắc Oán Ai và Phú Lục Bắc Hạ Nam Oán... đờn mầy nghe thử nha Bình...

- Nhưng chưa có bài ca mà chú Ba... Tư Én xen vô.

Chú Ba Lành cười:

- Thì tao nói đờn mà, chứ có biểu mầy ca đâu. Nói xong chú đưa cây đờn Kìm và song loan cho chú Sáu Mèn và đón cây đờn cò từ tay chú Sáu:

- Anh Sáu cầm cốt đi, chứ chổ chuyển hơi Hạ tui còn lạng quạng lắm...

Tôi như bị thu hồn vào trong tiếng nhạc... từ cặp Lưu Thủy, Phú Lục hơi Bắc hùng hồn, dưới sự biến cãi của các chú, tôi nghe như tất cã hĩ nộ ái ố của con người đều được diển tả rành mạch... tiếng đàn dứt rồi mà người nghe vẫn còn lâng lâng...

- Hay quá... và trong một phản xạ tự nhiên tôi nói với chú Ba Lành:

- Chú Ba đưa cháu bài nhạc đi, để cháu viết lời ca...

- Ha ha, vậy thì còn gì bằng, phải không anh Năm, anh Sáu...? chú Ba Lành khoái chí khi có người thưởng thức công trình của các chú...

Chú Năm Ri quay sang hỏi Tư Én:

- Con có đem bài nhạc đó theo không vậy?

- Dạ không tía à... hay để con về lấy...

- Khuya rồi còn về lấy cái gì chứ, để bửa khác đi... tía con bây thiệt tình... Giờ tao thấy cũng nên tan hàng để thằng Lành còn lo kiếm cơm chứ... Chú Sáu Mèn cười nhìn Tư Én, sau khi bưng chun rượu uống một hớp...

Chú Năm Ri cũng cười theo:

- Ừ nhĩ, mình ham chơi quá quên mất giờ giấc... chú quay sang tôi:

- Hay hôm nào cậu ghé anh Ba đi, rồi tôi biểu con Tư đem ra đưa cho cậu.

Chú Ba Lành nói:

- Hôm nay là thứ sáu, mai thứ bảy tôi bận đi qua Dĩ An có chút chuyện, chiều chủ nhựt Bình mầy ghé tao đi... ủa mà thứ ba mầy dìa Mỹ rồi làm sao...

Tôi chưa kịp nói gì thì chú nói luôn:

- Ừ, mà có sao đâu, về bển viết xong gởi về cũng được mà... hà hà ...như vậy đi nha...

Tôi chỉ biết "dạ" và khi chia tay cùng mọi người, tôi vui lắm khi cầm dùm Tư Én chiếc đờn tranh cho cô ngồi vững phía yên sau chiếc Honda của chú Năm Ri và nhận lại nơi cô nụ cười với lời hẹn tái ngộ chiều chủ nhựt (ngày nay, Việt Nam có bán bao đờn tranh bằng da, có dây đeo, như đeo ba lô, nên người xữ dụng đờn tranh khi di chuyển bằng xe Honda chỉ cần bỏ cây đờn vào bao đeo lên lưng rất tiện, tuy có hơi nặng chút.)

Riêng việc muốn hỏi chú Ba Lành về bùa Lỗ Ban, hôm nay tôi không có cơ hội... nhưng tôi nghĩ, tôi còn gặp chú ngày chủ nhựt nữa kia mà...

Chiến và tôi trở lại nhà chú Ba Lành xế chiều ngày chủ nhựt như đã hẹn. Tôi định đi một mình thôi, nhưng Chiến đòi đi theo vì hắn cũng như tôi thật muốn được nghe chú Ba Lành nói do đâu mà chú chửa cái chân trặc của thằng Nhân (đến hôm nay thì nó đã bình phục hoàn toàn) mà không hề đụng chạm gì đến thằng nhóc cả. Hơn nữa hình như hắn ta cũng thích cái phong cách chơi đờn ca tài tữ điệu nghệ, bình dân của chú Ba và các bạn của chú. Còn tôi, ngoài những chuyện đó, dòng nhạc bài Lưu Thủy Bắc Oán Ai cùng người con gái đờn tranh thật tự tin, thoải mái khi kéo mấy con nhạn để chỉnh dây lúc đang hoà tấu (người nhạc sĩ đờn tranh chứng tỏ tài nghệ của mình cao thấp là những lúc như vậy) khi bài nhạc qua khúc chuyển đã để lại trong tôi một ấn tượng khó quên, và tôi rất muốn gặp lại. Có lẽ vì nôn nóng chúng tôi đến hơi sớm, nhà vắng hoe, con ngựa cũng không có trong chuồng. Chiến dựng xe nhìn vào trong nhà nói với tôi:

- Chắc chú Ba đánh xe chưa về.

- Tao cũng nghĩ vậy, nhưng hôm đưa thằng Nhân lên sớm hơn giờ nầy mà chú đã về rồi mà, hay là hôm qua chú đi Dĩ An, gặp độ trên đó rồi. Tôi cười trả lời Chiến.

- Mầy thiệt tình, chú ở trên đó, mối chở hàng cho người ta chú bỏ cho ai chứ, hơn nữa chú đã hẹn với mình mà , thôi, tao với mầy ngồi đây chờ chú Ba đi.

Không lẽ cả hai đều ngồi lên một chiếc Honda, vì nhà chú Ba không có cửa, nên tôi thấy ngay chiếc võng trong nhà chú:

- Tao thấy vô nhà chú đưa võng đợi chú có lý hơn đó Chiến, nhà chú không làm cửa thì chú đâu ngại người ta vô lúc chú vắng nhà chứ.

Chiến cũng thấy bộ ván ngựa, vào ngã lưng một cái chắc là đã lắm, hơn nữa Chiến cũng muốn mang túi đồ nhậu Chiến đem theo vô nhà, nên chống xe lê, nhưng còn ráng nói:

- Đời bây giờ, đây là lần đầu tiên, tao thấy một căn nhà không có cửa thiệt là lạ quá. Một cái bịch nylon, một cái lon... người ta còn lượm, huống chi nhà chú...

Tôi cắt ngang lời Chiến:

- Ừ, tao cũng đang thắc mắc như mầy vậy, hay là chú quen biết hết với các tay giang hồ nên họ hỗng dám vào.

Chiến cười trừ:

- Tao làm sao mà biết chứ.

Hai đứa chúng tôi từ từ đi vào nhà chú Ba. Từ chổ đậu chiếc Honda đến trước nhà chú Ba khoảng hơn 5 thước, nhưng quái lạ, tôi và Chiến bước hoài mà không tới được, cứ chúng tôi bước một bước thì cảm giác như căn nhà lui ra một chút và khoảng cách năm thước đó cứ giữ nguyên không ngắn lại chút nào. Buổi xế trưa tuy có gió nhè nhẹ, nhưng hai đứa chúng tôi tháo mồ hôi... Chiến buông túi đồ xuống đất, quay sang tôi run giọng :

- Bình, sao kỳ vậy, nãy giờ hình như tao với mầy chỉ dậm chân tại chổ thui hà...

Tôi cũng đang hoang mang chưa kịp trả lời Chiến thì nghe tiếng vó ngựa trên đường. Chú Ba Lành đang đánh xe về nên tôi nói lãng:

- Chú Ba về kìa...

Tôi quay nhìn ra con đường đất đỏ, nuốt nước miếng để cố dằn những nhịp tim đang rối loạn của mình. Nếu tôi không phải là người trong cuộc thì làm sao tôi có thể tin được một chuyện hoang đường như thế lại xãy ra ban ngày ban mặ năm thước đi hoài không tới, mà khi bước thì có cãm giác như mình đang mộng du. Chú Ba Lành ghìm cương cho con ngựa bước chầm chậm vào sân nhà. Chú nhảy xuống dừng nó lại và nói lớn với chúng tôi:

- Tao bận chở thêm một chuyến cho người quen nên về trể chút, tụi bây tới lâu chưa vậy? Sao không vô nhà ngồi cho mát... rồi chú như sực nhớ ra:

- À, mà... Tôi và Chiến đang chờ chú nói tiếp, nhưng chú đã nói tránh đi:

-... chờ tao chút nhen. Ê, Bình, đem những đồ nầy vô bếp đi, hôm nay gặp mấy thứ rau tươi, tao làm món nầy đải mầy và thằng Chiến, mầy ăn xong bảo đảm về bên đó còn thèm hì hì...

Chú cười hà hà khi tôi bước đến đón lấy một cái rổ lớn đựng bên trong toàn rau mà tôi biết tên một số như bông súng, càng cua, đọt xoài, lá hẹ... vài bắp chuối hột và hai con cá bông lau thiệt bự đã làm sạch...

- Món gì vậy chú Ba? Tôi hỏi chú, bưng rổ rau và nhìn vào trong nhà.... hồi nãy tụi cháu...

- Hà hà... bi giờ thì tụi bây vào được rồi, không có gì đâu...

Chú cười lớn và tiếp:

- Mắm kho và rau, mầy và thằng Chiến ăn được không?

Nghe mắm kho tôi đã ứa nước miếng, chưa kịp trả lời chú thì nghe tiếng Chiến:

- Cháu ăn mắm không được, nhưng nuốt được hà chú Ba ơi... ây da, chú Ba biết nấu mắm hả? Hắn mạnh miệng, nên tôi nghĩ hắn cũng đã hoàn hồn như tôi.

- Biết cái mốc xì họ, nào phải tao nấu đâu, nó kìa...

Theo ngón tay chỉ của chú, tôi và Chiến nhìn ra đường thấy cô Tư Én lái chiếc Honda chạy chậm chậm chờ Hấu đạp xe đạp phía sau...

Chú Ba tháo hàm thiếc cho con ngựa, dắt nó vô chuồng... Tôi và Chiến dè dặt bước vào nhà chú Ba... bình thường mà, căn nhà đâu có thụt lùi như lúc nãy, tôi vừa đặt rổ rau xuống chiếc bàn nhỏ sau bếp thì cô Tư Én và Hấu cũng vừa vào đến trước sân.

Vừa tháo cây đờn tranh của Tư Én đang đeo trên lưng xuống (*) Hấu gọi tôi, khi thấy tôi và Chiến đang nhìn ra:

- Anh Bình, đem dùm em cây đờn của chị Tư vào nhà đi, để em phụ chị ấy chút.

Tôi đi ra nhận cây đờn tranh từ tay Hấu, trong lúc Hấu xách chiếc giỏ của Tư Én để trước xe Honda, cho Tư Én chống chiếc xe lên.

- Cũng may khi nãy về ngang chợ, gặp chị Tư, nên mang dùm chỉ cây đờn, chớ để chỉ vừa mang đờn vừa đi chợ chừng nào cho xong... Hấu cười lớn khi dứt câu nói. Cô Tư Én cũng cười khi thấy tôi nhìn cô:

- Thì cũng phải xong thôi, chỉ mua ít đồ gia vị, Hấu làm như đi chợ cho tiệc tùng gì lớn lắm vậy... và cô nhìn sang tôi :

- Hai anh tới lâu chưa vậy?

- Cũng vừa mới tới ...

Vừa lúc đó thì có tiếng chú Ba Lành:

- Tụi bây coi con Tư cần gì thì phụ nó nha, tao xách nước cho, sẳn xối mấy gàu cho mát cái đã...

- Nước trong lu còn đầy chú Ba ơi, không cần xách thêm đâu. Hấu vừa cùng chúng tôi vào nhà vừa trả lời chú Ba Lành, khi thoáng thấy chú cầm chiếc gàu đi ra cái giếng sau nhà.

- Vậy khoẻ... chú Ba Lành cười lớn.

Tự nhiên, tôi thấy nơi chú Ba Lành cái cá tánh bộc trực chất phát của người nông dân đồng bằng Nam Bộ quê tôi , thường được thể hiện thật rỏ nét trong tác phẫm của các nhà văn trước 1975 như Bình Nguyên Lộc, Lê Xuyên... và không biết có phải cùng chung cám nghĩ với tôi không, mà tôi thấy cô Tư Én mĩm cười.

- Chú Ba vui tánh quá phải không cô Tư? Tôi gợi chuyện.

- Chú ấy là sư phụ của em mà, còn anh thì sao? vui tánh hay khó tánh đây?

Tôi ngẩn người, chưa kịp trả lời sao với sự dạn dĩ của cô gái, thì cô đã cùng Hấu đi vào nhà bếp, mà trước khi bước Hấu còn nhìn tôi nhe răng cười:

- Hì hì, nhưng khó tánh cở nào gặp chị Tư thì cũng... hì hì hì....

Tôi cầm cây đờn tranh của Tư Én đem vô nhà trên mà lòng bỗng nao nao, câu hỏi của cô tuy tôi chưa trả lời, nhưng tôi biết chắc một điều, dù người nào có khó tánh cách mấy đi nữa, mà nhìn vào đôi mắt đó, đôi mắt tự tin pha một chút gì kiêu hảnh, thì cũng không còn gì để khó.

Đặt cây đờn tranh lên bộ ván ngựa tôi đi ngay xuống nhà bếp. Thằng Chiến coi vậy mà cũng nhanh nhẹn, hắn hầu như đã lặt xong rổ rau. Vừa thấy tôi hắn cười lớn:

- Mầy sướng thiệt nha Bình, cô Tư nói hôm nay mầy đặc biệt không phải làm gì cả, a lê, đi lên nhà trên, không được xuống đây.

- Vậy khoẻ... tôi chợt buột miệng nói lại lời của chú Ba lúc nãy, nhưng:

- Em nghĩ anh không khoẻ chút nào đâu... cô Tư bưng trên tay một thau nước nhỏ bước vào, và cô tiếp:

- Bài nhạc Lưu Thủy Bắc Oán Ai khó lắm đó, em hy vọng anh viết kịp bài ca để hát vào ngày giổ Tổ, chú Ba sẽ vui lắm...

Cô đặt thau nước xuống chiếc bàn nhỏ, cắt chanh nặn vào quậy đều, lấy bắp chuối hột lột bỏ mấy lớp lá già bên ngoài và thoăn thoắt bào vào thau...

- Giổ Tỗ ngày nào hở cô Tư? Tôi hỏi.

- Em không nhớ chính xác ngày nào, nhưng...

- Khoảng đầu tháng 9 dương lịch đó anh... Hấu bưng chiếc rổ nhỏ đựng hai con cá bông lau đã khứa sạch sẽ bước vào tiếp lời Tư Én.

- Được rồi đó Hấu, em nhúm lửa lên cho chị đi.

- Xong ngay.

Trong lúc Hấu loay quay chổ hai cái cà ràng để nhúm lửa thì tôi nhẫm tính:

- Còn hơn hai tháng mà...

- Coi vậy chứ nhanh lắm đó anh. Hấu vừa thổi lửa vừa trả lời tôi.

Vừa lúc đó, nhà trên có tiếng chú Ba Lành gọi tôi:

- Bình ơi, để trong đó cho tụi nó đi, mầy ra đây.

- Dạ , cháu ra ngay , chú Ba... Tôi vừa xoay lưng thì nghe tiếng Tư Én:

- Chú Ba, cuốn tập nhạc con để trong cây đờn của con đó.

- Tao biết rồi.

- Ê, Bình, bưng dĩa mồi nầy lên để chú Ba lai rai trước đi... Chiến gọi tôi.

- Ừ... Đón dĩa thịt quay từ tay Chiến, tôi đi lên nhà trên khi tiếng đờn Kìm của chú Ba Lành như thúc giục.

Nắng đã nhàn nhạt trên sân, cơn gió nhẹ chớm Thu đã xua đi cái oi nồng làm không gian như dịu lại... tiếng đàn Kìm của chú Ba như thêm vào dòng nước mát và trong phút chốc trước mắt tôi hiện lên bức tranh nơi chôn nhau cắt rốn với con kinh Thầy Tùng dừa nước rợp lá xanh, lã mình theo cơn gió cùng cánh đồng lúa vừa trổ đồng đồng... Chú Ba Lành tươm tất hơn trong bộ bà ba trắng, củ tỏi vấn chặt sát vào ót, bộ râu chắc vừa được chải nên mướt rượt, đang lim dim thả hồn theo dòng nhạc hơi Bắc hùng hồn.

Đặt dĩa thịt quay xuống ván, tôi vừa kéo ghế ngồi, thì chú Ba nhịp song loan đôi chấm dứt bài nhạc. Tôi vừa định lấy chai rượu đế hôm rồi còn để sát trong vách rót ra chun cho chú, thì chú ngăn lại:

- Thôi, hôm nay tao không uống đâu, uống một hồi quên hết ráo sao chỉ cho mầy được... nè, cuốn tập nhạc của con Tư đó, mầy coi sơ đi chổ nào không hiểu thì tao đờn cho mầy nghe...

Tôi cầm lấy cuốn tập 100 trang, bìa được bao bằng giấy dầu cẩn thận, mở ra, nhìn dòng chữ ghi đậm thật lớn "Nhạc tài tữ Nam Bộ" và bên dưới là tên của chủ nhân "Võ Hồng Yến". Những trang kế, được ghi chép thật đầy đủ những bản nhạc chuyển cung mà thật tình trước giờ tôi chưa từng được thấy. Chú Ba Lành đã đờn từng bản cho tôi nghe, giảng giải cho tôi những nét đặc biệt của mỗi bản, phân tích chổ hay dỡ... để cuối cùng chú nói nhờ đờn những bản nhạc nầy chú cải biên cặp Lưu Thủy, Phú Lục thành Lưu Thủy Bắc Oán Ai và Phú Lục Bắc Hạ Nam Oán và chú hy vọng nhóm nhạc của chú sẽ thuyết phục được các nhạc sĩ khác chấp nhận chơi hai bài nầy nhân dịp giổ Tổ sắp đến, nếu có bài ca minh hoạ. Mãi mê với dòng nhạc, chú Ba Lành cũng như tôi đã không thấy nắng đã tắt và mùi mắm kho thoang thoảng, nếu cô Tư Én không đi lên:

- Chú Ba ơi, mắm kho nguội hết rồi, mình ăn cơm đi nha.

Ngữi được mùi thơm của mắm kho tôi đã thấy cồn cào trong bụng, chú Ba Lành chắc cũng vậy nên chú cười ha hả :

- Cha, mắm thơm dữ bây, được, được, dọn lên đi, ăn no rồi, mình đờn ca chứ... ủa mà tía bây đâu, sao tới giờ chưa thấy mặt ổng vậy?

- Hồi sáng con có nghe ổng nói, ổng đi thăm ai bên cầu chữ Y chắc về không kịp đó chú Ba.

- Anh Sáu Mèn cũng vậy, hôm đó tao có mời, nhưng ảnh nói cũng bận không xuống được... thôi hôm nay, mình có bao nhiêu chơi bấy nhiêu, dọn lên đi...

- Có ngay, có ngay... tiếng của Chiến và Hấu thật vui vẻ...

Quả thật từ trước giờ tôi chưa từng được ăn bửa mắm và rau nào ngon miệng hơn hôm nay. Bên Mỹ lâu lâu mẹ tôi cũng có kho mắm, vì tại nơi tôi ở hầu hết thực phẫm của Việt Nam đều có bán, nhưng thường cái ngon của mắm bên đó không được trọn vẹn vì sau bữa mắm ngon miệng cả tháng sau nhà vẫn còn mùi... Chú Ba Lành nói với tôi, hôm nay chú không uống rượu, nhưng với Chiến và Hấu thì không nghe chú nói, nên khi bửa cơm vừa xong thì ba người đã ngà ngà, nhưng có lẽ nhờ vậy mà buổi đờn ca hôm nay trong nhà chú cũng sôi nổi không kém gì hôm trước. Chúng tôi đã không nhịn được cười khi Hấu nhại giọng Bắc để hát bài "Hận Nam Quan" của nhạc sĩ Năm Vinh theo lối hát chầu văn, mà khi buông đờn xuống chú Ba Lành đã nói :

- Anh Năm mà nghe mầy hát bài của ảnh như vậy, ảnh không gỏ cán đờn vô óc o mầy mới là chuyện lạ nha Hấu.

Hấu cười hề hề, gải tai:

- Hi hi có mặt ổng, con đâu dám hát chú Ba... và hắn nhìn Tư Én nói ngay:

- Chị Tư nè, chị hát lại bài "Dạ Cổ Hoài Lang" đi...

Tư Én buông đờn tranh nhìn lên, thì tiếng guitar của Hấu đã réo rắt mời mọc, chú Ba cũng vừa nâng cây đờn Kìm lên, thì Chiến xen vào :

- Hay Bình mầy với cô Tư hát cái bài gì hôm rồi đó...

- Thì sau bài Dạ Cổ đi mà... anh Chiến nghe chị Tư ca bài nầy bá chấy bù chét luôn ...

Không biết phải như lời Hấu nói không, có điều tiếng ngân í i của Tư Én đã chấm dứt bài Dạ Cổ mà hình như có ai đó cứ ước mình là người mang "Báu kiếm sắc phong lên đường" nếu chú Ba Lành không kêu hắn về thực tại khi chú để cây đờn Kìm xuống, bưng chun rượu lên, khà một tiếng:

- Mầy, quê ở đâu vậy Bình?

- Dạ, cháu ở Mỷ Tho, chú Ba...

- Mỷ Tho?... chú Ba Lành hỏi lại... mà chổ nào?

- Dạ, làng Long Hưng đó...

Chú Ba Lành đột nhiên thấp giọng:

- Mầy có biết chợ Xoài Hột không?

- Dạ biết chứ...

Chú Ba Lành chậm rải móc gói thuốc rê, trong chiếc hộp thiếc nhỏ đã không còn điếu nào, nên chú xé cuồn giấy quyến từ từ vấn điếu khác:

- Không ngờ tao với mầy là người đồng hương...

- Chú Ba là người Mỷ Tho à? Chiến xen vô...

- Ừ. Chú bật hộp quẹt châm điếu thuốc rít một hơi, tôi cho đây là một cơ hội hiếm có:

- Chú Ba à, cháu nghe người ta nói chú Ba biết bùa Lỗ Ban phải không?

Chú Ba Lành quay nhìn tôi, cười mĩm:

- Ai nói với mầy vậy?... vừa hỏi chú vừa đưa mắt nhìn Hấu và cô Tư Én làm cả hai đồng thanh:

- Tụi con không có nói nha...

Chú Ba Lành cười dễ dãi:

- Hà hà, tụi bây nói cũng có sao đâu chứ, vì ai tin bây... nhưng mà, trên đời nầy chuyện gì cũng đều có đầu của nó. Tao biết, thằng Bình mầy đã sống ở nước ngoài, những gì mầy thấy, mầy không tin thì mầy cho là mê tín. Nhưng quả thực, ông bà ta ngày xưa đã có thể làm những chuyện mà người tây phương với máy móc hiện đại cũng không thể làm được... tao nói cho tụi bây biết, đúng, những gì tụi bây thấy hổm nay là tác dụng của bùa Lỗ Ban đó.

Chú Ba rít một hơi thuốc rê, nói tiếp mà không hề để ý đến những đôi mắt đang trợn tròn xoe của chúng tôi :

- Nhưng tao học bùa Lỗ Ban là chuyện vạn bất đắc dĩ và chỉ để hộ thân, đây là lần đầu tiên tao trị cho thằng Hấu cũng như con của mầy... (chú nhìn sang Chiến), vì giữa thời đại nầy mà nói chuyện bùa ngãi thì chỉ có chuốc lấy phiền toái vào mình.

Tôi buộc miệng:

- Sao lại phiền hở chú Ba?

Chú Ba Lành thở dài, cúi mình dán cái mẫu thuốc rê vào phía dưới bộ ván ngựa:

- Dân mình còn nghèo khổ, bệnh tật, thường rất tin tưởng vào thần quyền, nếu họ biết tao, họ không kéo đến đây mới là chuyện lạ, rồi chánh quyền chịu để yên cho tao à... Chú bổng nhiên bật cười:

- Hà, hà, như vậy rồi thì giờ đâu mà đờn ca chứ, tụi bây nghĩ phải không?

Cô Tư Én rụt rè xen vô:

- Nhưng nếu chú Ba trị được bệnh cho người ta, thì cháu nghĩ chú Ba cũng nên làm lắm chứ, chú đã nói dân mình còn nghèo khổ, giúp cho họ không tốt sao?

- Tao đã nói, tao học bùa chỉ là bất đắc dĩ thì làm sao có đủ khả năng để trị bệnh chứ, hơn nữa muốn điều khiển được họ ở bậc cao phải tu luyện chuyên cần, đó là chưa nói có lúc phải làm những việc trái lương tâm, nếu không thì mạng mình giữ còn không xong lấy đâu lo cho người khác chứ.

Nghe chú Ba Lành nói, càng lúc tôi càng mù tịt, nhưng tôi linh cảm được rằng biết bùa Lỗ Ban, nhưng xữ dụng được nó không phải là chuyện đơn giản.

Tôi chưa kịp hỏi chú Ba linh cảm của mình có đúng không, thì Chiến đã hỏi:

- Chú Ba học bùa ở đâu mà chú lại nói là bất đắc dĩ? Và nếu xữ dụng bùa mà nguy hiểm như vậy thì chú có sao không khi chửa cho Hấu và thằng con của cháu?

- Chuyện tao học bùa thì dài dòng lắm, còn chửa cho thằng Hấu và con của mầy, cũng như chuyện hai đứa bây đã thấy lúc ban chiều là chuyện nhỏ vì tao có đủ khả năng, và tao cũng biết có bao nhiêu đó mà thôi.

Rồi không để chúng tôi hỏi gì thêm, chú Ba bưng chun rượu Hấu vừa rót đầy uống một ngụm:

- Bùa Lỗ Ban là con dao hai lưởi... người biết nó nếu đã lục căn thanh tịnh, đạo cao đức dầy, tâm linh trấn áp được quỉ thần, hành xữ nó để cứu nhân độ thế thì đúng là tạo phúc cho người, còn nếu không thì nó sẽ có tác dụng ngược và nạn nhân của nó sẽ vô cùng thê thãm.

- Tại sao lại như vậy, chú Ba có thể nói cho tụi cháu biết được không? Tôi hỏi chú Ba Lành.

- Người luyện bùa Lỗ Ban, sẽ tùy theo thời gian tu luyện, tâm tánh bản thân mà mỗi chữ bùa vẽ ra, sẽ sai khiến được quỉ, thần hoặc tiên làm công việc mình muốn... nhưng phần lớn chỉ sai khiến được quỉ mà thôi vì ai cũng muốn thành đạt nhanh và khó thoát ra khỏi hai chữ danh và lợi...

- Quỉ...! Cả mấy đứa chúng tôi đều kêu lên.

- Phải, vì là quỉ nên khi chúng làm việc, chúng luôn luôn yêu sách và yêu sách nầy phải được thoả mãn.

Tôi và Chiến cùng nhớ lại lời ba vợ nó nói:

- Ếm người ta?

- Đúng vậy. Chú Ba Lành gật đầu.

Tôi ngập ngừng:

- Chú Ba thì sao?

- Tao không học bùa Lỗ Ban để hành xữ nó vì danh vì lợi, mà là để giải căn cho ân nhân của mình nên từ đầu Tổ sư gia Hiệp Ẫn chỉ truyền cho tao những chữ bùa tiếp cận với thần mà thôi.

Thấy bốn chúng tôi há hốc mồm im lặng, chú Ba Lành mĩm cười:

- Tụi bây muốn nghe lắm phải không? hà, hà, ừ, đây cũng là một câu chuyện quê hương mình để thằng Bình mầy, khi về bên đó... biết đâu... gặp họ....

Thiên Hùng




#383 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/11/2011 - 17:40

Bùa Lỗ Ban

Phần II

Một năm sau ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ở đâu không biết chứ Mỹ Tho hầu như VC cũng chưa dám bò ra hang, nên người dân hai làng Long Hưng và Thạnh Phú vẫn còn sống trong thanh bình trên những cánh đồng lúa trỉu hạt, nhịp nhàng tiếng chày giã gạo vào những đêm trăng, và chợ Xoài Hột vẫn tấp nập người mua kẻ bán. Đối diện với khu chợ bên bờ kia của con kinh Thầy Tùng là xưởng cưa của ông Bảy Thọ. Xưởng tuy không lớn lắm, nhưng xẻ gổ cung cấp đủ cho nhu cầu xây dựng nhà cửa, đóng thuyền ghe của cư dân hai làng Long Hưng và Thạnh Phú. Ông Bảy Thọ là con Út của Hương Hào Thân, nên ở nhà hương hoả cách đó khoảng vài trăm mét , tuy giàu có nhưng nổi tiếng hiền đức, thường giúp đở cho những gia đình neo đơn, túng quẫn. Bà Bảy ngày trước nghe nói cũng là hoa khôi ngoài Sông Thuận, cũng rất hiền lành tốt bụng. Ông bà có hai người con, 1 trai là cậu Hai Long đang học y khoa trên Saigon, 1 gái là cô Ba Hạnh, xinh đẹp , thật giỏi giang, cùng Bà Bảy quán xuyến hết cả công việc đồng áng, thợ thầy, nên ông Bảy thường chỉ lo về giao tế. Ông bà còn có 2 chiếc ghe chài do hai người cháu gọi ông Bảy bằng Cậu trông coi, 1 chiếc đi về các tỉnh miền Tây và 1 chiếc đi Saigon, nên xưởng cưa của ông có làm một chiếc cầu ra chỗ neo ghe thật rộng để vận chuyển hàng và những đêm trăng ra đó nhâm nhi vài xị, lai rai đờn ca đón ngọn gió mát lạnh từ Kinh Xáng thổi vào thì còn gì hơn.
Chiếc ghe chài đi miền Tây, được đóng tại xưởng cưa nầy do đích thân Mười Tung là một thợ mộc lão luyện, tay nghề cha truyền con nối ở tại làng Thạnh Phú chỉ huy người làm, hạ thủy cách nay đã hai năm và đã giúp chủ nhân buôn may bán đắt, nên hầu như mọi người trong hai làng LH và TP không ai là không biết bác Mười, vì tay nghề mà còn vì cơ ngơi đồ sộ của bác nữa...
Hai ngày nay Bà Bảy vô cùng thắc mắc, tại sao hàng hoá trên chiếc ghe chài đi miền Tây đã bốc lên hết, mà sao Ông Bảy không cho xếp hàng mới của khách xuống mặc dù mọi thứ đã sẳn sàng trong kho, thì vừa kịp thằng Tỵ , xếp của chiếc ghe bước vào nhà :

- Cậu Bảy có nhà không mợ?

Bà Bảy dựng chiếc cào lúa vào vách nhà :

- Sáng giờ có thấy ổng đâu, bộ không có ngoài xưởng à.

- Con ở ngoải về đây mà, chỉ có con Hạnh ngoài đó hà.

- Ủa lạ , ông nầy đi đâu vậy kìa, trưa trời trưa trật rồi... Bà dở nắp lu nước mưa bên hông nhà, lấy chiếc gáo dừa múc nước uống một ngụm... mà nè Tỵ , sao tao chưa thấy tụi bây đem hàng xuống ghe vậy, còn đợi gì nữa chứ, coi chừng trể giao đồ cho người ta đó nhen.

- Con cũng đang lo đây nè, ghe của thằng Sữu xuống hàng gần xong rồi, ái cha , con không biết sao nữa, hôm qua Cậu Bảy kêu con lại, căn dặn nhiều lần là không được đem hàng gì xuống ghe nếu Cậu chưa biểu, con lo quá nên đi kiếm Cậu nè...

Bà Bảy tháo chiếc khăn trên đầu xuống lau sơ qua trán đi vào nhà :

- Mầy ăn cơm chưa, thôi vào làm ba hột đi, chờ ổng về tao hỏi coi như thế nào.

- Dạ.

Bà Bảy vào nhà chưa kịp gọi chị Mén là người giúp việc trong nhà dọn cơm thì Ông Bảy đạp chiếc xe đạp Alcion về đến (xe đạp Alcion là xe đạp đắt tiền của Pháp, thường chỉ người giàu có mới sắm được, cái nầy là nghe nói thôi, đúng sai không biết hihiihi).

- Ổng về kìa... và bà gọi Mén :

- Mén ơi, coi dọn cơm đi con, ông bây về rồi kìa...

Có tiếng Mén dạ lớn ngoài sau, cũng vừa lúc Tỵ quay lại nhìn Ông Bảy dắc xe đạp vào nhà :

- Con kiếm Cậu sáng giờ, hôm nay xếp hàng xuống ghe được chưa Cậu?

Ông Bảy Thọ sắc mặt đăm chiêu :

- Vào ăn cơm đi, từ từ, tao có chuyện nói cho mầy nghe.

Bà Bảy cũng hơi ngạc nhiên trước câu trả lời của ông Bảy với Tỵ :

- Có chuyện gì vậy ông?

- Ồ, tôi nghĩ cũng không quan trọng đâu , Bà đừng lo , thôi vào ăn cơm đi, tôi đói bụng quá rồi.

Hình như đã quen với tính của ông nên Bà Bảy nói theo :

- Ông ra sau rữa mặt cho mát đi, tôi vào phụ con Mén chút.

- Ừ, nhớ kêu mấy đứa đang phơi lúa ngoài sau vào ăn luôn nha Bà.

- Tôi nhớ mà.

Bà Bảy bới chén cơm thứ hai đưa sang cho Ông Bảy :

- Ông nè...

Nhưng Bà chưa kịp nói gì thêm thì Ông đã ngắt lời :

- Thằng Lành về chưa vậy?

- Thằng Lành... Bà như sực nhớ ra... ủa, mà sáng giờ nó cũng đi đâu mất, tôi tưởng nó ở ngoài xưởng cưa chứ.

Tỵ xen vô :

- Sáng giờ con ngoài xưởng cưa mà, đâu thấy nó chứ.
- Tôi đã sai nó đi kêu người, trưa nay khi nước đứng lớn, kéo chiếc ghe chài miền Tây lên ụ để sửa , bây giờ tôi nghĩ nó phải về rồi chứ.

Bà Bảy cũng như Tỵ kêu lên :

- Kéo ghe lên ụ để sửa, ghe còn mới mà sửa gì chứ?

Ông Bảy thở dài :

- Bà hãy nghe lời tôi đi, còn nguyên nhân tại sao thì từ từ tôi nói cho Bà biết.

Vừa lúc đó một thanh niên lực lưởng, nước da đen sạm bước vô nhà, mà vừa nhìn thấy Tỵ đã nói :

- Thằng Lành về kìa Cậu.

Ông Bảy Thọ tươi ngay nét mặt :

- Lành, vô ăn cơm luôn đi , xong hết rồi chứ?

Gã thanh niên tên Lành cúi đầu :

- Thưa Cậu, mọi việc con đã lo xong xuôi, chỉ chờ nước đứng là kéo nó lên ụ.
Tỵ kéo ghế cho Lành, trong lúc Mén từ sau đã đem thêm chén đủa, và Bà Bảy mau mắn :

- Đưa tao xúc cơm cho.

Và bữa cơm thêm sự hiện diện của anh lực điền nầy đã vui hẳn lên. Lành mồ côi từ thuở nhỏ, cha mẹ Lành là tá điền của ông bà Bảy, một đời chăm chỉ với công việc ruộng đồng, nhưng sau đó cha Lành đã tham gia kháng chiến chống Tây và đã tử trận, mẹ Lành sau đó mang bệnh cũng đã qua đời lúc Lành vừa được 5 tuổi.Ông Bà Bảy đã đem Lành về nuôi, coi như con cháu trong nhà, cả Long và Hạnh cũng xem Lành như em vì Lành nhỏ hơn Hạnh 1 tuổi. Khi lớn lên Ông Bà cũng đã có ý cho Lành theo Long lên Saigon để học, nhưng Lành nhất định không chịu mà ở lại quê để giúp Ông Bà trong công việc đồng áng và với tánh tình cũng giống như tên nên Lành được hầu hết mọi người trong làng quí mến.

- Cậu Bảy à, con thấy ghe còn mới mà, có hư gì đâu mà kéo lên sửa chứ. Tỵ lập lại với ông Bảy Thọ thắc mắc của mình khi mọi người ăn cơm xong qua uống nước trà.

- Có nhiều chuyện tạm thời chưa nói cho bây nghe được, cứ làm theo lời tao đi.

- Rồi có đi kêu bác Mười Tung đến không. Muốn kêu bác thì Cậu phải nói sớm chứ lúc nầy nghe nói bác bận lắm đó. Tỵ tiếp.

Ông Bảy Thọ bưng tách nước trà, uống một ngụm trầm ngâm :

- Không cần đâu.

Lành trố mắt nhìn Bảy Thọ :

- Ủa, sửa ghe mà sao không kêu bác Mười, hở Cậu?

Bà Bảy vừa bước ra nghe vậy cũng thắc mắc :

- Không kêu anh Mười, vậy ông định kêu ai?

- Tôi cũng chưa biết nữa, kéo ghe lên đi rồi tính. Thôi tụi bây uống nước rồi ra ngoài đó làm những việc tao dặn đi. Tao nghỉ chút rồi ra sau có gì về cho tao hay nha.

Tỵ và Lành "dạ", chào ông bà Bảy rồi đi về xưởng cưa lo kéo chiếc ghe lên ụ mà mỗi đứa một suy nghĩ.
Thấy Lành và Tỵ đã đi khuất, mà ông Bảy vẫn còn ngồi bên tách trà đã nguội, bà Bảy nhắc ông trước khi định bước ra sân coi người cào trở lúa :

- Ông vào nghỉ chút đi, còn ngồi đó làm gì chứ?

Ông Bảy chỉ chiếc ghế trước mặt mình :

- Bà ngồi xuống đi, tôi có chuyện nói với bà, lúa thóc để tụi nhỏ lo được rồi.

Bà Bảy chỉ chờ có bấy nhiêu :

- Chuyện gì vậy ông, có phải chuyện chiếc ghe miền Tây không?

- Đúng vậy.

- Nhưng tôi thấy có gì đâu nà, tụi thằng Tỵ trông nom chu đáo lắm mà.

- Chuyện không phải từ tụi nó... mà... Ông Bảy đổi giọng... Bà còn nhớ ngày mình hạ thủy chiếc ghe không?

- Nhớ chứ... ngày 29 tháng tư, cách đây hai năm... à mà, hôm nay không đúng là ngày đó hay sao... bà Bảy nhẩm tính.

- Ừ, đúng là ngày đó đó, nên tôi quyết định kéo nó lên ụ , vì bà biết không... cái đêm trước ngày hạ thủy nó, để thưởng công cho đám thợ mình đã làm heo đải tụi nó, và tôi ham vui nên quá chén say mèm ngủ luôn trong xưởng ... nửa đêm mắc tiểu tôi đi ra sau bánh lái ghe để tiểu, thình lình tôi nghe có tiếng búa đóng nhẹ nhẹ trước mủi ghe và tiếng nói xù xì... Tôi men theo thành ghe lên coi ai... trong bóng đêm lờ mờ, nhưng tôi vẫn nhận ra lão Mười Tung... lão gỏ gỏ chiếc búa nhỏ vào mủi ghe và nói..." mi phải ở đây...làm việc cho ta... hai năm đầu cho bọn chúng hanh thông buôn may bán đắt, đến năm thứ ba thì nhận chìm nó, coi như lễ ta tạ cho mi... nhớ lời ta dặn... nhớ chưa"... dứt lời lão gỏ gỏ chiếc búa vào mủi ghe, và hình như lão nói 3 lần như vậy... mới bỏ đi. Lúc đó tôi tuy có sợ thiệt, nhưng tôi nghĩ dù sao mình cũng có thời gian 2 năm để lo nên tôi im lặng. Sau đó tôi có nói sự việc nầy cho thầy Hai Lý...

Bà Bảy cướp lời ông mà giọng nói run run :

- Thầy Đông y sĩ Lý ngoài vàm đó hở ông, rồi thầy nói sao?

- Đúng vậy, thầy Hai là thầy thuốc, cũng là người coi quẻ Tiên Thiên rất giỏi, thầy đã coi cho tôi một quẻ, nói phúc đức gia đình ta lớn, có thể sẽ không có chuyện gì, nhưng nếu đã bị người ta ếm thì phải kiếm người để giải...

- Trời... bà Bảy kêu lên... mình đối xử với anh Mười như bát nước đầy, tiền bạc sòng phẳng thì nguyên do gì ảnh lại ếm gia đình mình chứ?

Ông Bảy thở dài :

- Theo lời thầy Hai, thầy nghĩ lão Mười Tung chắc là xữ dụng bùa Lỗ Ban, mà nếu đã là bùa Lỗ Ban thì ếm người không cần nguyên do đâu.

Bà Bảy hỉ mủi, sụt sịt khóc :

- Bây giờ mình phải làm sao hở ông? thầy Hai có chỉ cho ông không?

- Lúc đó thầy nói sau hai năm thì kéo chiếc ghe lên rồi sẽ tìm cách giải, nhưng...

- Nhưng gì chứ...?

- Hai ngày nay tôi vào tìm thầy Hai, nhưng người nhà thầy cho biết, thầy đã đi Saigon để trị bịnh cho người ta rồi nên tôi chưa biết phải làm sao.

- Trời đất ơi, sao lúc nầy mà thầy lại đi vắng chứ? Bà Bảy kêu lên.

- Bà bình tỉnh đi, chuyện đâu còn có đó mà, phải giữ kín, đừng làm rùm beng nhiều người biết không tốt đâu... à mà, lúc trước quẻ Tiên thiên của thầy Hai có nói, trong gia đình mình người tuổi Thân có phước tướng sẽ giúp giải được nạn nầy.

- Tuổi Thân... con Hạnh... Bà Bảy trố mắt nhìn ông.

- Ừ, chỉ có con Hạnh là tuổi Thân, nhưng tôi không biết làm sao mà nó giải được nạn nầy chứ.

Bà Bảy cúi đầu lẩm bẩm :

- Sao lại là con Hạnh....

Thì cũng vừa lúc đó, Hạnh đạp xe vô trong cổng nhà .

Cô Ba Hạnh đã xinh đẹp, đi dưới cái nắng ban trưa gay gắt nên đôi má càng hồng trông càng đẹp hơn, vừa bước vào nhà cô tháo chiếc nón lá xuống quạt những giọt mồ hôi đang rịn ra hai bên thái dương :

- Ba ơi, các ảnh đã kéo chiếc ghe lên ụ rồi, Ba có cần ra đó coi lại không?

Chợt nhìn thấy nước mắt bà Bảy vẫn còn rưng rưng, cô hốt hoảng :

- Má, có chuyện gì vậy? Sao Má khóc... Ba, có chuyện gì mà Má khóc vậy Ba?

Bà Bảy quẹt nước mắt, nắm lấy tay cô, trong khi ông Bảy nhìn Hạnh :

- Con ngồi xuống đây đi, Ba có chút chuyện cần nói cho con biết..

Và ông tóm tắt câu chuyện cho Hạnh nghe. Hạnh thảng thốt :

- Hèn chi, lúc nảy khi mấy ảnh kéo chiếc ghe lên ụ, con thấy thằng Hoành, con của lão Mười Tung cứ đến hỏi đon hỏi ren hoài... không ngờ lại có chuyện như vầy...

- Ba nghĩ, thằng Hoành nó thấy lạ nên hỏi vậy thôi, chứ Mười Tung đời nào nói cho nó biết chuyện lão ta làm chứ...

Hạnh cúi đầu im lặng, như để đánh giá thái độ lúc nảy của tên Hoành , và cô ngước lên hỏi ông Bảy :

- Anh Tỵ và chú Lành đã biết chuyện nầy chưa Ba?

- Ba mầy chưa muốn cho tụi nó biết. Bà Bảy xen vào.

- Vậy bây giờ mình phải làm gì?

- Hai má con đi Saigon một chuyến đi. Ông Bảy nói.

- Đi Saigon? Làm gì chứ? Bà Bảy và Hạnh cùng lên tiếng.

Ông Bảy chậm rãi :

- Người nhà của thầy Hai Lý có nói cho Ba biết, thầy Hai lên Saigon ở nhà người bạn của thầy là chủ tiệm thuốc Bắc, kế bên nhà hàng Á Đông trong Chợ Lớn để cùng định bệnh ông nhà giàu nào đó... Nếu con là phước tướng của gia đình ta, đi tìm thầy Hai, Ba nghĩ... biết đâu...

- Nhưng Ba nói là lúc trước thầy Hai cũng đâu biết cách giải chứ... cô Ba Hạnh thắc mắc...

- Ừ, nhưng hy vọng là thầy Hai có bạn bè hay quen biết được ai có khả năng giúp mình... vì ngoài thầy Hai mình cùng đâu quen biết ai...

- Ba con nói cũng đúng đó Hạnh... sẳn đó thăm anh Hai con luôn... Ông định chừng nào tui với con Hạnh đi?

- Đi ngay bây giờ, chứ chừng nào nữa? Thôi má con bà vô sữa soạn quần áo, tui ra kêu thằng Lành về đánh xe đưa bà với nó vô lộ trong... nhớ đừng hé môi cho bất cứ người nào biết chuyện nầy ngoài thầy Hai Lý nha... cả thằng Long cũng đừng cho nó biết, hông thôi nó về đây lại sanh thêm chuyện...

Rồi như để trấn an vợ con, ông Bảy Thọ cười :

- Má con bà an tâm đi, gia đình mình không hề làm gì tổn đức sẽ được ơn trên che chở mà...
Bà Bảy sụt sùi nhìn theo ông Bảy lên xe đạp, đạp ra ngoài xưởng cưa...

- Ông cũng phải cẩn thận nha...

Sáng hôm nay là ngày thứ hai, Bà Bảy và Hạnh trở lại tiệm thuốc Bắc Vạn Sanh Đường , địa chỉ số 402 đường Trần Thanh Cần kế bên Nhà hàng Á Đông, đúng theo miếng giấy người nhà thầy Hai Lý ghi đưa cho Ông Bảy, để hy vọng gặp thầy Hai, vì hôm qua khi họ đến, tiệm thuốc đã đóng cửa không có ai ở nhà.
Nhưng họ vô cùng thất vọng khi thấy cửa tiệm vẫn đóng. Sự hiện diện của họ ngày hôm qua, rồi hôm nay, đứng nhìn căn tiệm đóng cửa đã gây chú ý cho những người buôn bán lẻ trên lề đường... một người Hoa trung niên, có xe bán nước sâm gần đó nhìn họ :

- Hai người pị pệnh, muốn tìm thầy hốt thuốc hở, uống lước sâm li , mát lắm...

- Dạ... dạ... không phải, nhưng... Hạnh lúng túng trả lời ..

Ông người Hoa, không hỏi nữa, nhưng nhìn họ có vẻ ngạc nhiên vì không bị bệnh thì đến tiệm thuốc làm gì chứ... Bà Bảy nhìn thấy vẻ hiền lành của ông ta, nên cười thân thiện ;

- Được, tôi cũng đang khát nước, cho hai ly lạnh đi ... mà nè, nị bán ở đây, nị có biết tiệm thuốc nầy tại sao không mở cửa bán vậy ?

Ông người Hoa vui vẻ vặn nước sâm trong bình ướp lạnh ra ly cho Bà Bảy và Hạnh :

- Không piết gia lình ông chủ li chơi lâu zồi, pa pốn ngày lay không có mở cửa chớ...

Bà Bảy không dấu được tiếng thở dài, thất vọng :

- Nị có biết chừng nào họ về không?

Chời ơi, ngộ sao mà piết lược chớ... hai người muốn tìm người quen chong lầy ha ?... vài ngày sau chở lại li nha...

Mẫu đối thoại ngắn ngủi, cùng vẻ mặt thất vọng của Bà Bảy và Hạnh, khi Hạnh mở chiếc bóp đeo vai , trả tiền nước sâm, đã làm một vài người rổi việc nảy giờ đứng xung quanh nhìn theo, khi hai người đi ra đầu chợ Kim Biên tìm xe xích lô :

- Hai người nầy, chắc chắn ở dưới quê lên tìm người nhà rồi...

Vài ba người liền tách ra, đi theo họ... phía trước Hạnh vừa đi vừa hỏi bà Bảy :

- Bây giờ mình làm sao hả Má?

- Tao cũng không biết phải làm gì nữa, về nhà trước đi, rồi hẳn tính.

- Hôm qua, anh Hai nói với con , ảnh không tin lần nầy con với Má lên thăm ảnh như bình thường , ảnh hỏi con, ở dưới nhà bộ có chuyện gì sao?

- Rồi mầy nói gì với nó?

- Đâu có nói gì chứ, nhưng con chỉ sợ nếu mình ở lại lâu quá thì sẽ không dấu được ảnh đó.

- Tao... nhưng liền đó thì có tiếng la của Hạnh :

- Má ơi...

Bà chỉ kịp nhìn thấy Hạnh loạng choạng suýt chúi đầu xuống đất... một tên lưu manh từ phía sau đã xô mạnh vào vai Hạnh... và lợi dụng lúc đó một tên khác đã giựt chiếc bóp đeo ngang vai của Hạnh chạy biến vào khu chợ Kim Biên. Định thần, Hạnh nhổm dậy, đuổi theo tên lưu manh, miệng la inh ỏi :

- Cướp, cướp... bớ người ta... và phía sau là tiếng bà Bảy :

- Bớ làng xóm ơi, cướp, cướp giựt bóp con tôi... cướp, cướp...bớ người ta...

Tên cướp bất ngờ thấy Hạnh đuổi theo bén gót lại la inh ỏi, nên thay vì chạy vào trong chợ, hắn rẻ vào khu nhà dân đối diện với chợ Kim Biên... bởi một số người nghe tiếng Hạnh la , cùng rượt theo hắn... và ngay đầu hẽm, hắn bị đá té bổ nhào, chiếc bóp có dây đeo vừa cướp được của Hạnh văng ra xa...

Người đá ngã tên cướp cạn là một anh phu xích lô đạp, đang ngồi trên xe chờ khách, đậu trước đầu con hẽm, thấy tên cướp chạy ngang và nhiều người đang đuổi theo phía sau , nên phóng xuống xe đá vào chân tên cướp. Anh cúi xuống nhặt chiếc bóp lên, chưa kịp đưa cho Hạnh cũng vừa chạy đến, thì tên cướp đã lồm cồm bò dậy, tức tối húc đầu vào bụng anh. Cười nhạt, anh nghiêng người qua để tránh, tên cướp hụt đòn lão đão , thì thêm ba tên khác từ trong xóm, cầm cây dầu loại 3 phân vuông, xông vào... Mọi người ai cũng đều nghĩ là họ sẽ giúp anh phu xích lô để bắt tên cướp, nhưng sự việc hoàn toàn ngược lại. Ba tên mới đến đã tấn công anh phu xích lô đang tóm gáy tên cướp, để giải vây cho hắn. Quá bất ngờ, nên mọi người đều há hốc mồm kinh ngạc, kể cả Hạnh , nên cô đứng chết trân. Anh phu xích lô buông tên cướp nhãy ra ngoài , ngay trước Hạnh để tránh những khúc cây dầu vuông phang tới tấp, và Hạnh thấy, hình như ngón tay trỏ của anh ngay ra chỉa xuống đất khoanh khoanh mấy vòng tròn. Thật lạ lùng, bọn cướp cạn đang hung hản như vậy, bỗng ngây người ra, thì vừa lúc có tiếng tu-huýt của Cảnh Sát ré lên từ bên chợ, và hai nhân viên Cảnh Sát cùng vài người dân chạy qua... Họ đã còng tay bọn cướp cạn thật dễ dàng vì hình như chúng không còn chút hơi sức nào để kháng cự... Được những người mục kích sự việc thuật lại tường tận hai nhân viên Cảnh Sát đã mời Hạnh và anh phu xích lô theo về bót để làm biên bản sự việc... Có lẽ là lần đầu tiên phải tới cò bót, nên dù rối rít cám ơn anh phu xích lô, Bà Bảy vẫn lo lắng hỏi Hạnh, khi thấy nhân viên Cảnh Sát đã tạm giữ chiếc bóp của Hạnh :
- Bóp của mầy bị giựt mà, sao họ chưa chịu trả cho mầy, còn đi đâu nữa chứ Hạnh?
Hạnh chưa biết phải trả lời bà Bảy như thế nào vì hình như đầu óc cô vẫn chưa được tập trung, thì anh phu xích lô đở lời :

- Bác và cô hãy an tâm, về bót họ sẽ trả lại cho cô, sau khi lập biên bản vì họ cần có tang vật để truy tố bọn cướp cạn nầy.

Hạnh nhìn anh phu xích lô, đang đẩy xe đi kế bên bà Bảy, lí nhí tiếng cám ơn... Bây giờ cô mới nhìn kỷ ân nhân của mình... khoảng hăm lăm, hăm sáu, người dong dỏng cao, gương mặt tuy hơi đen vì nắng gió, nhưng còn phảng phất đâu đó chút hình ảnh thư sinh với nụ cười tự tin nửa miệng, nhất là đôi mắt cương nghị được biểu lộ dưới đôi lông mày rậm hình lưởi mác... và không hiểu sao, cô có linh cảm đây mới chính là người gia đình cô muốn tìm chứ không phải là thầy Hai Lý...

Từ bót Cảnh Sát đi ra thì trời đã quá xế trưa, Hạnh thấy vui vui biết được tên của anh phu xích lô là Trần Hữu Định, lúc anh khai báo với Cảnh Sát... nên cô cười khi nghe anh đề nghị đưa hai người về nhà :

- Má à, hay chúng ta mời anh Định đi ăn cơm luôn đi, trời cũng đã xế rồi, con thấy đói bụng quá.

Bà Bảy đồng ý ngay, nhìn Định :

- Phải đa, cậu kiếm chổ nào, mình làm ba hột rồi về cũng không muộn.

- Bác và cô không sợ người nhà trông sao?

Hạnh đở lời cho bà Bảy :

- Ồ, không sao, anh hai của Hạnh đi học, giờ nầy chưa về nhà đâu...

Và cô nheo mắt tinh nghịch nhìn Định :

- Anh tìm chổ nào rẻ rẻ nha, Hạnh không có tiền nhiều đâu đó...

Định chợt vui lây :

- Thì cho phép tôi mời cô với Bác cũng được mà...

- Ý chết, ai làm thế với ân nhân của mình chứ...

Định từ từ đạp xe, sau khi kéo chiếc mui che bớt nắng cho Hạnh với Bà Bảy :

- Cô nói quá lời, ân nhân gì đâu, chỉ là việc nhỏ thôi... nhưng nếu tôi đoán không lầm thì cô và bác gái không phải là người sống ở Saigon.

- Phải, má con tôi...

Nhưng bà Bảy chưa kịp nói gì thêm thì Hạnh đã xen vô :

- Sao anh biết ?

Định cười lớn :

- Người Saigon có bao giờ rổi rảnh mà mời những người như chúng tôi đi ăn cơm chứ...

Sau bữa cơm trưa thật ngon miệng, tại quán cơm bình dân của chú Pa Pụng mà Định là một thân chủ trung thành, Hạnh được biết thêm, Định cũng từng là sinh viên năm thứ hai đại học luật, nhưng vì là con mồ côi, người Dì nuôi quá nghèo, nên phải bỏ học đạp xích lô ban ngày, ban đêm đi dạy thêm tại các Trung Tâm Bình Dân Học Vụ, giúp cho các trẻ em nghèo hiếu học... Hạnh đã thầm cảm phục trong lòng, nên trên đường về chợ Tân Định, nơi ông bà Bảy có mua một căn phố lầu mặt tiền đường Trần Văn Thạch, để Long ngụ đi học và dự trù ngày sau sẽ lập gia đình dựng nghiệp, còn bây giờ thì có chổ nghỉ ngơi khi ông bà cần lên Saigon mua hàng, Hạnh suy nghĩ, không biết có nên hỏi anh chàng nầy những thắc mắc của mình hay không... Định theo tay chỉ của bà Bảy từ từ thắng xe lại trước nhà Hạnh, nhảy xuống yên kềm chiếc xe cho bà Bảy và Hạnh bước xuống...

- Cám ơn cậu nha...

Bà Bảy nói với Định và bước lên lề đường, trong lúc Hạnh mở bóp :

- Anh Định cho Hạnh gởi tiền xe, bao nhiêu vậy anh?

Định cười, quay xe, nhảy lên đạp :

- Hồi nảy được cô đãi ăn cơm, thôi coi như mình làm quen, lần sau hãy tính nha.

Hạnh nắm mui xe, toan kéo lại :

- Anh không lấy tiền xe, lần tới rủi có chuyện gì ai dám nhờ anh giúp...

- Thì lần sau, tôi sẽ tính gấp đôi... chào cô ...

Định cười, gật đầu chào Hạnh rối nhấn mạnh bàn đạp, chiếc xích lô hướng ra đường Hai Bà Trưng, để lại trong lòng cô Ba Hạnh bao nhiêu dòng cảm nghĩ , cô lấy chìa khoá mở cửa nhà mà còn nghe tiếng bà Bảy :

- Cái thằng, thiệt tình mà...

Hai ngày sau đó, cửa tiệm thuốc Bắc Vạn Sanh Đường vẫn đóng im lìm nên dù bán tín bán nghi với sự cả quyết của Hạnh là hình như Định cũng biết chút gì đó hôm đánh nhau với bọn cướp cạn, bà Bảy phải đồng ý để Hạnh đi tìm Định cầu may. Bà Bảy tuy không an tâm nhưng phải để Hạnh đi một mình vì hôm nay bà bận đi thăm Bác Tư của Hạnh, bị bịnh, và ngày mai bà quyết định về Mỷ Tho vì sợ ông Bảy trông. Long, thuận đường đến trường nên đã chở bà Bảy đi từ sáng sớm, Hạnh sau khi đi chợ lo cho bửa cơm chiều cũng đã hơn 10 giờ, cô khoá cửa nhà, ra đường Hai Bà Trưng đón xe xích lô đạp đi vô Chợ Lớn tìm Định. Ngang tiệm thuốc Vạn Sanh Đường vẫn còn đóng cửa, cô nói người phu xích lô quẹo vô chợ Kim Biên. Đến chổ đầu hẽm, nơi Định thường ngồi neo xe đợi khách, cô thấy cũng có vài chiếc xích lô đậu, nhưng những phu xe toàn là người lạ, không thấy bóng dáng Định đâu. Cô bảo ngừng xe, bước xuống đến bên một người phu hơi lớn tuổi, đang ngồi hút thuốc trên xe của anh ta :

- Chú ơi, sáng giờ chú có thấy anh Định ra đây không chú?

Người phu xích lô gở điếu thuốc khỏi môi, nhướng mắt nhìn Hạnh :

- Không, sáng giờ chả thấy nó đâu... mà cô là gì của nó? Tìm nó có chuyện gì không?

- Dạ, cháu... nhưng Hạnh cũng không biết phải nói sao, nên ấp úng... cháu...

Người phu xe bật cười :

- Cô cần nhắn gì cho nó cứ nói đi, gặp nó tui nói lại cho...

Hạnh chưa kịp trả lời, thì có tiếng của anh phu xích lô trẻ hơn gần đó :

- Ủa, cô nầy là cô bị giựt bóp hôm nọ mà...

Và anh ta nhảy xuống xe đi đến bên Hạnh :

- Ngày hôm sau, thì anh Định có ra, nhưng những ngày tiếp theo cũng như hôm nay thì không thấy anh ấy đâu... bộ có chuyện gì nữa sao cô, mà cô phải tìm anh ấy vậy?

Hạnh nhìn anh ta, lắc đầu :

- Không có chuyện gì đâu anh, chẳng qua...

Cô lại bỏ lững câu nói, vì không biết phải nói thế nào cho hợp...

- Thôi cám ơn chú và anh nha... cô lắc lắc đầu và bước lên xe của mình...

- Nhờ anh đưa tôi ra chợ An Đông đi...

Chiếc xe chở Hạnh đã lăn bánh mà Hạnh còn nghe tiếng của người phu xích lô già :

- Vậy mà tao tưởng vợ thằng Định đi tìm nó chứ... và những tiếng cười vang làm Hạnh cãm thấy nóng nóng hai bên tai...

Hạnh có người bạn thân, vì Hạnh cũng là khách hàng sộp của Thúy, chủ nhân một sạp vải chuyên bán sĩ trong chợ An Đông. Họ thân nhau vì tuổi tác và tác phong bươn chảy làm ăn ... mỗi lần lên Saigon, dù không đến đặt hàng, Hạnh cũng đến thăm bạn, để cả hai cùng đến thăm những quầy bán thức ăn ngon nổi tiếng của chợ An Đông và hôm nay cũng không ngoại lệ, dù Hạnh vẫn lo lắng nếu không gặp được thầy Hai Lý hoặc Định thì những ngày tới gia đình Hạnh sẽ như thế nào đây...
Uống hết ly bông cỏ mát lạnh, Hạnh như quên đi cái nắng gay gắt của Saigon, cũng đã quá 2 giờ trưa, Hạnh từ giả Thúy . Thúy đưa bạn ra đường :

- Ê, chừng nào bồ lên nữa?

- Chừng lên thì bồ biết liền chứ gì , bộ hổng sợ hao sao mà muốn tui lên hoài vậy?

- Thì tính tiền hàng mắc chút gở lại mấy hồi, lo gì ... về cho tui gởi lời thăm Bác Gái với anh Long nha...

- Ê, bồ Thúy nè , tui thấy bồ làm chị dâu tui được đó nha , chịu hông tui làm mai cho...

Thúy đỏ mặt đấm vào vai bạn, khi thấy nụ cười tinh nghịch trên môi Hạnh :

- Tui mà làm chị dâu bồ hở, tui đì bồ sói trán luôn...

Nhìn Thúy quày quả bỏ đi vào trong chợ, Hạnh như vừa khám phá ra một điều thú vị bù vào những căng thẳng của mấy ngày qua, cô mĩm cười lẩm bẩm :

- Vái trời cho anh Hai đừng có bồ...

Với niềm vui bất chợt đó, Hạnh đưa tay vẩy anh phu xích lô vừa đổ khách xuống :

- Đi về Tân Định không anh?

- Đi chứ... và anh ta kéo chiếc nón vải khỏi trán lau mồ hôi... ủa, cô là...

- A, anh Định... Hạnh reo lên...

Định nhảy xuống, phải, người phu xích lô vừa đổ khách xuống chính là anh, kềm chiếc xe cho Hạnh bước lên :

- Cô Hạnh, cô đi chợ hả, còn Bác gái đâu ?

Nhưng Hạnh chưa vội bước lên xe :

- Má Hạnh ở nhà, Hạnh đi thăm người bạn trong chợ nầy, nhưng chỉ là phụ thôi, còn chánh là ... Hạnh bỏ lững câu nói nhìn Định và Định cũng nhìn lại cô, như muốn nghe cô nói tiếp...

- Chánh là muốn tìm anh đó...

- Tìm tôi? Định như không tin ở tai mình... có chuyện gì không, cô Hạnh?

- Có chuyện nầy Hạnh muốn hỏi anh, nhưng anh có cho phép không vậy?

- Trời ơi, cô làm gì mà quan trọng quá vậy... Định kêu lên... phép với tắc không biết nữa, có chuyện gì cô cứ nói đi.

- Vào chổ xe sinh tố uống nước nha, rồi Hạnh nói...

Hạnh quay đi cố giấu một niềm vui nho nhỏ trong ánh mắt của mình, đi về chổ bày hàng của các xe sinh tố, tìm một chiếc bàn trống, ngồi xuống thì Định cũng kéo ghế ngồi phía đối diện, chiếc xích lô anh kéo bánh sau để lên lề đường.

- Anh Định uống gì?

- Còn cô?

- Mảng cầu ... nhưng ly nhỏ thôi...

Định hướng về người bán hàng :

- Cho 1 ly mảng cầu nhỏ và 1 ly nước chanh lớn đi cô chủ ơi...

- Có ngay... tiếng người chủ xe...

Định nhìn Hạnh :

- Sao cô có chuyện gì mà tìm tôi vậy?

- Anh Định nè, hỏi thật anh nha, hôm rồi khi đánh nhau với bọn cướp cạn, anh làm gì mà tự nhiên bọn chúng đứng ngây người ra để lính còng tay vậy?

Định giựt mình, nhưng anh trấn tỉnh ngay, cười trả lời Hạnh :

- Bọn chúng nghe tiếng còi của Cảnh Sát nên hoảng sợ đứng im, chứ tôi có làm gì đâu...

Vẻ hơi mất tự nhiên của Định không sao qua được mắt Hạnh, cô nhìn anh :

- Hạnh nghĩ không như anh nói đâu, trước khi có tiếng còi của Cảnh Sát, Hạnh thấy anh co ngón tay vẻ vòng tròn, và bọn chúng đã ngây người, nên khi Cảnh Sát đến, không tên nào còn chống cự được...

Định nheo mắt cười lớn :

- Trời, cô làm như tôi biết bùa chú không bằng.

Hạnh nói ngay :

- Thì Hạnh nghĩ anh biết, chứ còn gì nữa, đúng không?

Định không trả lời Hạnh mà hỏi lại cô :

- Bộ cô tin đời bây giờ còn có bùa chú sao?

- Trước thì không, nhưng bây giờ thì có.

- Sao lại như vậy?

Định còn muốn nói thêm gì nữa, nhưng anh chợt để ý thấy hình như những người khách ngồi bàn kế bên đang để ý lắng nghe câu chuyện của anh và Hạnh, anh liền uống hết ly nước chanh gọi tính tiền, đồng thời nói với Hạnh :

- Cô uống nước đi, rồi tôi đưa cô về...

Hạnh hiểu ý của Định, uống thêm một hớp nước, rồi đi trả tiền trong lúc Định đẩy chiếc xích lô ra đường. Kềm chắc chiếc xe cho Hạnh leo lên xong, Định vừa đạp xe vừa nói :

- Về nhà cô đi, tôi cũng muốn biết lý do nào mà cô đi tìm tôi...

Hạnh cảm thấy thật vui trong lòng, và cô bỗng nhớ lại lời Ba cô, theo quẻ bói của thầy Hai Lý "cô là phước tướng sẽ giải nạn cho gia đình", nhưng cô có làm được gì đâu, chỉ là không biết tại sao cô lại có một niềm tin mạnh mẻ vào anh chàng đạp xích lô có khuôn mặt thư sinh nầy, sẽ giúp cô làm chuyện đó.
Và cô nói lớn cho Định nghe :

- Anh Định ghé lại chợ Vườn Chuối , ngay góc đường Vườn Chuối và Phan Đình Phùng đón má Hạnh về luôn nha.

- Xong ngay thôi.

Thiên Hùng


#384 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 27/11/2011 - 00:02

Bùa Lỗ Ban

Phần III

Định ngồi im lặng, nghe Hạnh thuật lại tĩ mĩ lý do cô và bà Bảy lên Saigon tìm thầy Hai Lý , nhưng đã mấy ngày nay vẫn không gặp nên cô khẩn khoản nếu có thể nhờ Định giúp dùm. Bà Bảy cũng rơm rớm nước mắt :

- Không gặp được thầy Hai, má con tôi cũng không biết phải làm sao, nhưng con Hạnh nói, cậu chắc chắn là biết nghề, tôi xin cậu hãy...

Định không để cho bà Bảy nói dứt câu :

- Dạ thưa bác, cháu thật sự không biết nghề gì đâu, nhưng dùng bùa Lỗ Ban để ếm người thì quả tình cháu cũng có nghe nói, tuy nhiên...

Định chợt đổi giọng :

- Ngày mai bác và cô Hạnh về lại Mỷ tho à?

Bà Bảy gật đầu :

- Tôi định như vậy vì sợ ba nó trông.

Hạnh tiếp lời :

- Anh Định có ý kiến gì không? Hạnh xin anh...

Định trầm ngâm :

- Tôi không dám nói là mình sẽ làm được gì, nhưng theo chổ hiểu biết của tôi thì tà không bao giờ thắng chánh, vì hiếu kỳ tôi cũng muốn coi như thế nào... Được rồi, mai bác và cô cứ về đi , tôi còn một số việc cần phải sắp xếp , ngày mốt hoặc trể lắm là bửa kia tôi sẽ xuống nhà bác.

Hạnh vui mừng ra mặt :

- Vậy chừng đó Hạnh sẽ ra ngã tư chợ Bưng đón anh nha.

Định nhìn cô mĩm cười :

- Cô không phải bận tâm, từ ngả tư chợ Bưng vào chợ Xoài Hột tôi biết mà, không có lạc đường đâu...

Và anh đứng lên :

- Bây giờ tôi xin phép bác gái và cô...

Hạnh đang bẻn lẻn cúi mặt , nhưng thấy Định đứng lên xin phép về , cô vội nói :

- Má Hạnh lúc nảy có nói mời anh Định ở lại ăn cơm chiều luôn, anh hai Hạnh đi học cũng sắp về rồi...

Định cười :

- Cám ơn bác và cô, nhưng hôm nay tôi lở hứa chở hàng cho người ta rồi, hôm khác đi, chúng ta còn nhiều cơ hội mà...

Hạnh đành mở bóp lấy một xấp tiền trao cho Định :

- Để Hạnh đưa tiền xe cho anh nha.

- Lúc nầy chưa cần đâu, cô cất lại đi , khi nào cần tôi sẽ nói với cô...

Định nói xong cúi đầu chào bà Bảy và Hạnh đi ra ngoài đẩy chiếc xích lô phóng lên đạp thẳng. Hạnh và bà Bảy nhìn theo anh rẻ sang đường Hai Bà Trưng , mồ hôi sau lưng áo anh vẫn chưa khô hẳn :

- Mầy thấy sao hở Hạnh, tao thấy nó còn trẻ quá có giải được bùa của Mười Tung không, rủi có gì...

- Con cũng không biết, nhưng sao con thấy thật tin tưởng vào ảnh khi mới gặp lần đầu, con...

Cô bỏ lững câu nói vì ánh mắt bà Bảy đang nhìn cô :

- Tao thấy hình như mầy...

Hạnh ôm lấy bà Bảy :

- Má nầy... con...

- Con gì chứ... tao đẻ ra mầy mà... mầy nghĩ gì tao không biết sao, ừ, mà cái thằng tánh tình cũng được chứ...

Hạnh kéo tay mẹ đi vào nhà và lảng sang chuyện khác :

- Má nè, má còn nhớ con Thúy bạn của con, bán vải trong chợ An Đông không?

***

Bà Bảy và Hạnh xuống xe đò tại ngả tư chợ Bưng thì trời cũng đã xế trưa, hai người băng qua lộ đến bến xe lôi (xe lôi hay còn được gọi là xe tàu mo : là xe gắn máy kéo thêm phần phía sau để chở khách, 1 phương tiện vận chuyển bình dân của người dân những tỉnh đồng bằng sông Cữu Long, cũng nghe nói thôi không biết đúng sai hiihihii) để về cho nhanh thay vì đi xe ngựa như bình thường. Hạnh đang tìm xe quen thì có tiếng gọi :

- Bác Bảy, cô Ba ơi, lên xe về luôn đi, chạy liền nè...

Nhìn về đó, Hạnh thấy thằng Lỳ, con của Mười Tung, em kế Hoành, đang ngồi trên yên xe lôi đã nổ máy vẩy tay gọi, phía sau cái tàu mo đã có ba người phụ nữ ngồi sẳn, nên cười cùng bà Bảy tiến lại chào họ và leo lên ngồi, bà Bảy hắng giọng :

- Chạy liền thiệt không đó mậy, nắng quá đi...

Lỳ cười toe toét :

- Bác Bảy an chí con chạy ngay mà... may quá, bác Bảy và cô Ba đi Saigon về còn kịp đó nha... Lỳ vừa nói vừa rồ ga, chiếc xe lôi nặng nề bò ra con đường đất đỏ bụi mù...
Hạnh thắc mắc :

- Chú Lỳ vừa nói còn kịp, mà còn kịp cái gì chứ?

- Cô dìa tới nhà thì biết ngay mà. Lỳ gân cổ trả lời Hạnh trong tiếng nổ chát tai của động cơ chiếc xe lôi.

Hạnh nhìn sang bà Bảy, hơi chột dạ vì không biết có chuyện gì xảy ra thì người phụ nữ ngồi kế bên Hạnh xen vào :

- Cái thằng nầy, thì nói huỵch tẹt ra cho rồi, còn dấu nữa , có gánh hát cải lương HƯƠNG QUÊ về hát trong chợ Xoài Hột của mình hai ngày nay rồi đó cô Ba.

Hạnh thở ra nhẹ nhõm :

- Ồ vậy à, không biết lần nầy họ có tuồng nào hay không?

- Nghe nói tuồng hay lắm, nhưng tối nay tôi mới đi coi được...

Chị phụ nữ chấm dứt câu nói với nụ cười thật hiền... và câu chuyện của họ trên con đường đất đỏ bụi mù từ ngã tư Chợ Bưng về chợ Xoài Hột xoay quanh tuồng tích, đào kép gánh hát cãi lương Hương Quê của ông bầu Năm Chắc, gánh hát thật thân quen với họ từ nhiều năm nay... mà đặc biệt là gia đình Hạnh, vì ông bảy Thọ ba Hạnh cũng là một tay đờn Kìm có hạng trong làng tài tử. Ông thường tổ chức đờn ca chơi vào những dịp lễ Tết , và trong một lần đưa gánh hát đến hát tại Xoài Hột, ông Năm Chắc nghe tiếng ông đã đến làm quen, họ như cá gặp nước thân nhau từ đó. Hạnh cũng có một chất giọng thật truyền cảm, ông Năm Chắc cứ trầm trồ hoài, và nếu bà Bảy không trừng mắt la ông Bảy, ông đã đồng ý cho Hạnh theo gánh hát rồi. Đang miên man với bao dòng tư tưởng, Hạnh chợt nghe tiếng Lỳ khi lái xe chầm chậm qua cầu kinh Thầy Tùng :

- Con đào Hồng Thơm nầy hát cũng bá chấy bù chét lắm cô Ba. Nó đóng vai Mạnh Lệ Quân hay hơn con đào kỳ trước, nghe nói đã lấy chồng nghỉ hát hì hì... nhưng...

Hắn bỏ dỡ câu nói ngừng xe trước chợ Xoài Hột cho mọi người xuống. Trong lúc Hạnh trả tiền xe cho Lỳ, thì Bà Bảy hỏi hắn :

- Lúc nảy tao nghe mầy nói nhưng , còn nhưng với nhị gì nữa chứ...?

Thằng Lỳ gải tai nhìn Hạnh cười :

- Con muốn nói con đào Hồng Thơm hát có hay thiệt, nhưng so ra vẫn không bằng cô Ba...

Bà Bảy trừng mắt nhìn Lỳ :

- Đó là nghề nghiệp của người ta, còn tụi bây ăn no rồi, không lo kiếm chuyện làm, ở đó mà hát với hò, hát đi con có ngày cạp đất ăn.

Hạnh cười ôm lấy Bà Bảy trước khuôn mặt nghệch ra của Lỳ :

- Má nói vậy chứ, biết đờn ca cũng là để giải trí không phải mất tiền mà, mình về đi má , chào chú Lỳ nha...

Hạnh kéo tay bà Bảy đi về nhà, sau khi đã liếc thấy tấm bảng quảng cáo tuồng hát tối nay của đoàn Hương Quê dựng trước cổng chợ Xoài Hột, tuồng hát mà cô thích nhứt... Mạnh Lệ Quân Thoát Hài...Bà Bảy và Hạnh vừa xô cánh cửa cổng giữa dãy hàng rào dâm bụt đang nở đỏ bông, đã nghe tiếng đờn Kìm hùng tráng hoà trong tiếng đờn tranh réo rắt cùng tiếng đờn cò não nuột , họ biết ngay là ông Bảy đang có khách... Lành chạy ra đón chiếc giỏ xách trên tay Hạnh :

- Mợ đi đường có mệt lắm không? Anh Hai vẫn mạnh giỏi chứ? chú Năm đang nhắc chị Ba nãy giờ đó...

- Hổm rày nhà có gì lạ không Lành? Bà Bảy vừa đi vừa hỏi lại Lành.

- Dạ không, nhưng hôm nay có chú Năm và bác Mười vừa mới tới hoà đờn chơi với Cậu...

Bà Bảy và Hạnh khựng lại :

- Mười Tung?

- Bác Mười Tung?

- Dạ ...

Lành hơi ngạc nhiên khi thấy vẽ lo lắng bất ngờ trên gương mặt của bà Bảy và Hạnh. Nhưng hai người nầy chợt hiểu ra là Lành chưa hề hay biết chuyện Mười Tung ếm bùa trên chiếc ghe miền Tây, nên bà Bảy đổi giọng ngay :

- Vậy à...

- Mợ và chị Ba vào chào họ đi, con đem cái nầy vào trước... và Lành đi vòng bên hông nhà...
Ông Bảy Thọ trong bộ bà ba trắng bằng lụa tươm tất đạp song loan chấm dứt một lớp nhạc hơi Bắc hùng hồn, buông chiếc đờn kìm cười ha hả :

- Cũng may là tui chưa quên.

Người đờn tranh cũng trạc tuổi ông Bảy mặc áo sơ mi bỏ vô quần cẩn thận, bưng chun trà hớp một ngụm, nghe lời nói cũng biết là Năm Chắc bầu gánh hát Hương Quê :

- Anh với anh Mười đây mà quên bài bản thì còn ai mà nhớ chứ, chẳng bù với tôi tối ngày lo dợt tuồng cho đám nhỏ, nên quên gần hết vốn liếng tài tử rồi.

Người đờn cò, đúng là Mười Tung, tóc bạc hoa râm với bộ râu mép dài rủ xuống miệng mà thoạt nhìn cũng dễ gây một cảm giác sờ sợ :

- Lâu rồi mình cũng chưa có độ nào, hà hà hà , hay là sẳn chú Năm về hát ở đây, tụi mình hẹn làm một bửa cho đả anh Bảy há.

- Tui thì dễ thui mà , lo là anh Năm ...

Vừa lúc đó thì bà Bảy, Hạnh bước vô :

- Anh Mười, anh Năm tới chơi...

- Cháu chào bác Mười, chú Năm... thưa Ba con mới dìa...

- A, chị , cháu... đi Saigon mới dìa hả... thằng Long có khoẻ không? Năm Chắc mau mắn.

- Dạ, cháu nó cũng thường, cám ơn anh.

- Bây giờ đường sá, xe cộ dễ dàng, đi đâu cũng tiện, tôi cũng định hôm nào đi Saigon chơi một chuyến... Mười Tung xen vào.

- Anh muốn đi lúc nào mà chẳng được chứ... chỉ là anh có chịu để cho cái bào cái đục của anh nghỉ xả hơi không thui...

Ông Bảy Thọ cười hệch hạt...

- Má con con Hạnh vào rửa mặt nghỉ chút đi, rồi con Hạnh ra đây ca vài bản cho chú Năm bây nghe, để chú bây nhắc hoài...

Hạnh "dạ" và cúi đầu đi theo bà Bảy vô trong, trong lúc Năm Chắc so lại dây chiếc đờn tranh :

- Đêm nay là đêm hát chót tại Xoài Hột, khuya ngày mai thì tui phải dọn vào Sông Thuận, vậy trưa mai đi, dọn dẹp xong xuôi tụi tui tới anh chơi... tụi mình làm một chầu tới nước đứng lớn thì rút... anh Bảy nghĩ có được không?

- Gì mà không được chứ... cứ như vậy đi nha... tiếng cười của họ cất lên hoà trong tiếng đờn dồn dập....

..."Bóng người vừa khuất xa xăm

Nhưng vẫn sống mãi đời đời trong tim em"...

Hạnh chấm dứt lời hát bài vọng cổ "Cô bán đèn hoa giấy" cùng lúc với tiếng gỏ song loan dứt câu của ông Bảy Thọ... Năm Chắc gở ba chiếc móng đờn ra khỏi ba ngón tay cái, trỏ và giữa của mình, chép miệng nói với ông :

- Con nhỏ nầy càng lúc giọng ca của nó càng ngọt ngào, điêu luyện... anh không cho nó đi hát thiệt uổng quá đi.

Ông Bảy Thọ chưa trả lời thì Mười Tung đã xen vô :

- Chú Năm nói vậy chứ, anh chị Bảy chỉ có một đứa con gái, đi hát rày đây mai đó, cha mẹ nào chịu chứ.
Năm Chắc nhìn Mười Tung :

- Thi tui cũng biết nên nói chơi thôi, chứ con Ba mà theo tui, bảo đảm trong một thời gian ngắn, mấy đoàn Saigon mà không đi kiếm nó thua gì tui cũng thua...
Ông Bảy Thọ cười đưa câu chuyện sang hướng khác :

- Hai anh ở lại dùng cơm luôn nha...

- Ý, không được đâu, tui phải về đoàn ngay lo cho tụi nhỏ... hẹn hai anh ngày mai đi...

và Năm Chắc quay vào trong nói lớn :

- Tui về Chị Bảy ơi... chị và con Hạnh tối nay nhớ tới coi hát ủng hộ nha...
Bà Bảy Thọ vừa lau tay trên chiếc khăn rằn vắt ngang vai vừa đi ra :

- Anh Năm không ở lại dùng cơm với ba con Hạnh luôn...

Năm Chắc cười :

- Thôi, ngày mai đi... giờ tui phải về mới được...

Mười Tung cũng xen vô sau khi gắn điếu thuốc rê vừa vấn lên môi và bật lửa mồi :

- Tui cũng dìa luôn nha, hẹn anh chị ngày mai ...

Đưa Mười Tung và Năm Chắc ra về xong, Ông Bảy Thọ quay vào nhà thì đã thấy bà Bảy ngồi chờ ông trên ghế, và Hạnh đang châm nước sôi vào bình trà trên bàn. Từ xế đến giờ, ngoài mặt thì ông vui cười hoà đờn với khách, nhưng trong lòng ông như lửa đốt, khi thấy bà Bảy và Hạnh đi về mình ên. Ông kéo ghế ngồi xuống đâu mặt với bà Bảy :

- Má con đi Saigon về, có gặp được thầy Hai Lý không?

- Không.

Nhưng... bà Bảy chưa nói được gì thêm, thì ông Bảy đã thở dài buồn so :

- Tui cũng đoán trước là như vậy... thiệt tình không lẽ mình phải gánh cái nạn nầy...

Hạnh rót trà ra tách cho ông Bảy :

- Ba uống nước đi, con với Má không kiếm được thầy Hai Lý, nhưng kiếm được người khác...

Ông Bảy tròn xoe mắt nhìn Hạnh :

- Kiếm được ai, bộ má con mầy đã nói chuyện nầy cho người ta biết rồi hả? Ai vậy? lạ , quen?
Bà Bảy bưng tách nước trà đưa cho ông :

- Từ từ, ông để nó kể cho ông nghe, dỉ nhiên là người lạ rồi, nhưng thằng nầy tôi thấy tánh tình cũng hiền lương, để nó đến coi như thế nào rồi tính.

Ông Bảy bưng tách nước trà thổi bớt nóng, uống một ngụm xong đặt xuống bàn thì Hạnh ngồi xuống kế bên ông từ từ thuật lại hết những diển tiến gặp Định cho ông nghe. Ông Bảy bán tín bán nghi :

- Được không đó Hạnh...?

- Con cũng không biết nữa, nhưng sao con có cãm giác anh Định sẽ giúp mình giải được bùa của Mười Tung...

Nét mặt ông Bảy bỗng đăm chiêu, móc gói thuốc rê, vò vò tờ giấy quyến để vấn thuốc :

- Tao chỉ sợ thằng Định gì đó tuy biết nghề, nhưng kém hơn người ta mà nhúng vào thì chết...

Bà Bảy nhìn ông :

- Ông nói vậy là sao?

Ông Bảy đốt điếu thuốc vừa vấn hít một hơi :

- Theo lời thầy Hai Lý, người giải bùa Lỗ Ban tài nghệ phải cao hơn người ếm, chứ nếu kém hơn có thể gặp hoạ sát thân...Má con bà nói nó còn trẻ như vậy tui không tin là nó giỏi hơn Mười Tung...

Ông Bảy nói xong nhìn thấy nét mặt tiu nghỉu của bà Bảy cùng vẻ lo lắng của Hạnh, ông lắc lắc đầu :

- Tui nói là nói vậy thôi, biết đâu, phước chủ may thầy, nó tuy nhỏ tuổi nhưng tài nghệ cao siêu thì sao...

Hạnh phụ hoạ liền theo ông :

- Đúng đó Ba, chính mắt con thấy ảnh...

Ông Bảy không để Hạnh nói hết câu :

- Thằng Định gì đó tài nghệ tao chưa biết sao, nhưng coi bộ mầy đi Saigon lần nầy về hơi đổi tánh binh người lạ đó nha... Ừ thôi, trối kệ nó đi, đến đâu hay đến đó, cùng lắm tao dẹp ghe luôn coi bùa Lỗ Ban làm gì tao... má con vào lo cơm nước rồi đi coi hát ủng hộ cho anh Năm, chuyện gì sau hẳn tính... à mà, anh Hai bây vẫn mạnh khoẻ chứ...?

Bà Bảy đứng dậy nhìn ông :

- Ông lo kiếm vợ cho nó là vừa...

***

Nếu đêm hôm qua, cư dân làng Thạnh Phú ngụ chung quanh khu vực chợ Xoài Hột đến ủng hộ gánh hát Hương Quê của ông bầu Năm Chắc đông đảo bao nhiêu thì xế trưa hôm nay họ cũng kéo đến nhà ông Bảy Thọ để xem một buổi chơi đờn ca tài tử cũng hào hứng không kém. Lành, Sửu và Tỵ đã dùng hai chiếc dù trái sáng mà ông Bảy đã mua dưới chợ Mỷ Tho căng ngoài sân để che bớt nắng cho người nghe, và ông bầu cho mượn hệ thống âm thanh của gánh hát nên xôm tụ lắm. Ông Năm Chắc đã đưa đào kép của mình, luôn cặp đào kép chánh Nhựt Tài và Hồng Thơm đến giúp vui, thêm tay đờn guitar của gánh hát là Cò Đúng... Đúng chừng khoảng 17 tuổi, nhưng thông thạo đủ loại đờn mà đặc biệt tiếng đàn cò của em khắp các tỉnh miền Tây chưa ai qua được , vì thế mà mọi người gọi em là Cò Đúng, riết quen luôn... Nhưng hôm nay Kìm, tranh, cò thì đã do ba ông già Bảy Thọ , Năm Chắc , Mười Tung giữ , chỉ còn cây guitar thì mấy người nhỏ như Cò Đúng, Tỵ , Hoành thay phiên... Lành tuy cũng rất say mê nhạc cổ, nhưng tài nghệ chưa được bao nhiêu, anh đành đứng ngoài làm khán giả trầm trồ theo từng tiếng nhạc du dương trầm bỗng, đến những lời ca vọng cổ mát dịu lòng người dù dưới ánh nắng xế trưa oi bức. Khán giả và nghệ nhân được chủ nhà phục vụ thức ăn nhẹ, kẹo bánh trà nước cho đến trời ngã nắng thì Hoành thông báo nghỉ giải lao để gia đình ông Bảy đải nghệ nhân cơm chiều... và chương trình chính thức chơi nhạc tài tử sẽ bắt đầu khoảng một giờ sau... Hạnh suốt ngày hôm nay đã bồn chồn ra vào , khi đến giờ nầy mà vẫn chưa thấy Định... cô hát mà hồn để ở đâu nên so với Hồng Thơm, cô thua sút thấy rỏ, đến nỗi thằng Lỳ lắc đầu :

- Cô Ba Hạnh hôm nay hát làm sao ấy, chắc hơi hám cổ để quên lại trên Saigon rồi í mà...
Nhưng cơm dọn ra, ông Bảy Thọ chưa kịp mời mọi người cầm đủa thì bên ngoài cổng có tiếng người gọi lớn :

- Cô Ba ơi, có người kiếm cô nè...

Hạnh đứng phắt dậy, nhìn bà Bảy rồi đi nhanh ra cửa, trong lúc ông Bảy Thọ cười lớn nói với mọi người :

- Kệ nó, mình cầm đủa đi, mời các anh, các cháu, tự nhiên nha, đồ ăn nguội hết rồi...
Ông bưng chun rượu đế đưa lên trước Mười Tung và Năm Chắc :

- Mình vô cái đi anh Mười, anh Năm... và hướng về bàn mấy người nhỏ, ông nói với Sửu, Tỵ và Lành :

- Mấy đứa bây lo bên đó nha...

Hoành cười lớn :

- Chú Bảy đừng lo, ba đứa nó không lo, còn có con mà, để mơi mốt gánh hát chú Năm còn vui vẻ về hát cho bà con mình xem chứ....

Hồng Thơm cũng cười tiếp lời Hoành :

- Bà con ở Xoài Hột vui vẻ và tốt bụng, tụi em thích về hát ở đây lắm... anh Tài còn muốn đóng đô luôn ở đây ... A, anh Hoành ơi, sao mình không chờ cô ba Hạnh vào ăn luôn...

Tỵ đở lời :

- Nó vô liền mà , thôi mình cầm đủa đi...

Lành đứng lên :

- Để em ra coi chị Ba sao đi lâu vậy.

Trong lúc đó, ngay cổng rào, Hạnh đang nén nỗi vui mừng vì người đến tìm Hạnh chính là Định. Anh đến chợ Xoài Hột, gặp những người vừa nghe đờn ca tại nhà ông Bảy đi ra, nên hỏi thăm họ thì họ dẫn anh lại ngay... Định nháy mắt cho Hạnh thấy và nói lớn :

- Tôi tên Định, ở trên bờ Kinh, nghe có gánh hát về chợ Xoài Hột nên xuống coi, không ngờ đã trể... nhưng nghe nói nhà cô Ba đêm nay có chơi đờn ca nên xin phép cho vào nghe đở ghiền vì chẳng mấy khi có dịp như vậy.

Hạnh mĩm cười, hiểu ý Định :

- Không có chi, mời anh vào.

Vừa lúc thấy Lành đi ra, Hạnh gọi lại :

- Chú Lành à, anh Định là người ở trên bờ Kinh, muốn vô nghe đờn ca thôi , anh Định chắc chưa ăn cơm, thôi sẳn bửa chú mời anh dùm chị nha...

Lành nhanh nhẹn dành lấy tay cầm chiếc xe đạp của Định :

- Anh Định đi theo em...

Khi Hạnh, Lành đưa Định vào trong nhà, tiếng nói cười chợt im bặt, mọi người đều nhìn về phía họ. Hạnh đi ngay lại trước ông Bảy Thọ nói lớn cố ý cho người trong bàn của ông cùng nghe :

- Thưa Ba, anh Định nầy là người ở trên bờ Kinh, định xuống coi hát, nhưng trể quá, nên xin vào nhà mình làm khán giả, con thấy anh đường xa nên bảo chú Lành sẳn bửa mời anh luôn.
Ông Bảy Thọ hiểu ý Hạnh nên cười ha hả :

- Không sao, không sao... Lành, Tỵ , tụi bây lo cho cậu Định nha...

Lành "dạ" định kéo Định đi thì Năm Chắc đứng dậy đưa chun rượu của mình cho Định :

- Tui là Năm Chắc, ông bầu của gánh hát, lần nầy tui chỉ hát ở đây có 3 đêm, mình cạn chun nầy làm quen đi, hẹn cậu lần sau nha.

Định uống cạn chun rượu và nhìn mọi người trong bàn :

- Dạ cám ơn chú Năm, lần sau cháu phải tới sớm mới được... cháu xin chào chú Bảy, chú...

Mười Tung nhìn thẳng vào mặt Định :

- Tui là Mười Tung.

- Cháu chào chú Mười...

Định nhìn người, mà theo Hạnh nói, đã ếm bùa chiếc ghe Miền Tây của gia đình cô, chào hắn với vẽ mặt thật thản nhiên...

- Cậu biết đờn ca gì không? Mười Tung hỏi Định.

- Dạ, cháu biết chút chút thui à...

- Vậy à ...

Định mĩm cười khi thấy ánh mắt của Mười Tung dịu lại, nhưng sơ kiến Định biết hắn thật không đơn giản.
Lành kéo Định về bàn của mình, giới thiệu những người trong bàn cũng vừa lúc Mén đem thêm ra một chiếc ghế :

- Anh Định tự nhiên nha...

Trước khi ngồi xuống hoà nhập vào bàn tiệc đang hồi tửu hứng, Định nhìn về phía Hạnh, lúc nầy ngồi kế bên bà Bảy Thọ, thì cũng vừa bắt gặp cô đang nhìn anh mĩm cười, tự nhiên sao, anh thấy có một cảm giác lạ lùng trước giờ anh không có đang hình thành nhẹ nhẹ trong anh.
Bốn cây đèn măng sông (đèn măng sông... là đèn đốt bằng dầu hôi, có bơm hơi khá sáng, nhà giàu dưới quê ưa dùng, cũng chỉ nghe nói thôi, nên đúng sai không biết hihiihi) được treo lên để bắt đầu cho phần chơi bài bản sau khi mọi người trà nước xong xuôi... Ông Bảy Thọ vừa phì phà điếu thuốc rê vừa ôm đờn Kìm lên rao :

- Tiên chủ hậu khách, con Hạnh, bây mở đầu bài Song Phi Hồ Điệp đi, Tỵ mầy guitar nha.

- Dạ được Cậu Bảy.

Năm Chắc cười khà khà phụ hoạ :

- Được đó anh Bảy và để con Thơm tiếp luôn bài Chinh Phụ cho đủ cặp hén anh Mười...

Mười Tung gật đầu, vặn vặn chiếc trục so lại dây chiếc đàn cò, nếu ai để ý sẽ thấy từ lúc có sự hiện diện của Định, Mười Tung vốn ít nói lại càng ít nói hơn...Cô Ba Hạnh nếu ban chiều hát như người mất hồn, thì giờ đây mọi người đều lặng im phăng phắc theo dỏi từng lời hát của cô... chất giọng trong trẻo ngọt ngào luyến lái theo chữ đờn thật điêu luyện, nhất là khi cô chuyển qua hơi ai oán... Tiếng vổ tay của khán giả vẫn còn khi Hồng Thơm đã nối tiếp qua bài Chinh Phụ... Giờ đây khán giả mới thực sự thấy cả hai ngang sức ngang tài khi tiếng vổ tay dành cho Hồng Thơm cũng không kém...
Hứng khởi với sự cổ vỏ nồng nhiệt của khán giả, Nhựt Tài đứng dậy :

- Xin phép mấy chú, cháu ca bài Liêu Giang...

Mười Tung ngước nhìn lên :

- Có ai tiếp luôn bài Ngũ Quan không cho đủ cặp...

Sửu đưa tay lên :

- Để con cho.

Năm Chắc gải gải tai :

- Cha, bài Ngũ Quan tui không chắc ăn nha anh Mười, hi hi, tui theo mấy anh đó nha.

Ông Bảy Thọ cười khì :

- Tui cũng lâu đờn bài nầy quá đi, coi như mình dợt lại có gì đâu anh Năm...

Tỵ cũng trao cây guitar cho Cò Đúng :

- Bài Ngũ Quan con chịu thua...

Chất giọng dĩ nhiên Sửu không thể nào bì kịp Nhựt Tài, nhưng thuộc được bài Ngũ Quan, gần như đã thất truyền, nên Sửu cũng được khán giả dành cho những tràng pháo tay nồng nhiệt. Cò Đúng quả nhiên lợi hại, hắn đờn bài Ngũ Quan thật nhuần nhuyển khiến Mười Tung cũng phải ngạc nhiên :

- Ai là sư phụ mầy vậy nhỏ?

- Dạ , con học thầy Sáu ở Bạc Liêu...

Mười Tung cướp lời :

- Sáu Nhạn phải không?

- Dạ...

- Hèn gì...

Và sau đó người đờn, người ca đã luân phiên nhau trổ tài cống hiến cho khán giả những bài bản thật đặc sắc. Tiếng đờn,tiếng ca, tiếng vổ tay náo nhiệt cả một vùng ... Trong lúc đó thì bên ngoài chổ khán giả ngồi, Định hỏi Lành :

- Sao không thấy chú tham gia với người ta vậy?

Lành cười :

- Em thích lắm chứ, nhưng mới biết vài bài thôi, không dám vào...

- Thì biết bao nhiêu chơi bấy nhiêu, sợ gì chứ...

- Em đờn dở ẹt, còn ca giọng không giống ai, vào người ta cười chết...

- Chú Bảy đờn hay quá, không dạy cho chú à...

- Có chứ, nhưng em ngu quá, học rồi quên rồi ...

Định chưa kịp hỏi Lành gì nữa, thì trên micro Hoành giới thiệu cô Ba Hạnh với bài Văn Thiên Tường "Tình Mẫu Tử"...Thằng Lỳ, ngồi kế bên vổ đùi nói với Lành :

- Bản nầy là bản ruột của cô Ba mà, coi con Thơm làm sao đây...

Định và Lành nhìn Lỳ mĩm cười, trong lúc Lỳ thật vô tư :

- Anh hai tui đờn bản nầy cũng hết xảy luôn, nhất là đờn cho cô Ba ca thì phải biết hi hi hi...
Nhìn lên, Định thấy Hoành trao micro cho Hạnh và nhận cây guitar từ tay Tỵ...
Hạnh ngân chữ "xang" thật dài chấm dứt bài Văn Thiên Tường (VTT) trong tiếng đờn vuốt theo nhỏ dần cho 2 nhịp ngoại cuối, khiến người nghe có cảm giác tấm lòng người mẹ dành cho con trải dài vô tận, nếu không có tiếng vổ tay tán thưởng từng hồi... Hạnh cúi chào khán giả bước xuống sau khi trao micro lại cho Hồng Thơm :

- Cháu nghe cô Ba Hạnh hát bài VTT hay quá đi, nên cháu xin hát tiếp bài Vỏ Tắc Biệt (VTB) cho đủ cặp... xin mời quý vị nghe bài VTB "Trống trận Đống Đa"...

Nhưng trong lúc khán giả vổ tay, thì dàn đờn nhìn nhau... Hoành buông cây guitar xuống :

- Bài nầy cháu không biết...

Ông Bảy Thọ cũng buông cây đờn kìm :

- Tao cũng không biết luôn...

Mười Tung quay sang Năm Chắc :

- Bài VTB, lần đầu tiên mới nghe đó nha... thôi anh Năm đờn độc chiếc cho nó ca... tụi nầy ngồi nghe vậy.

Năm Chắc hứng chí :

- Mầy guitar đi Đúng...

Cò Đúng cầm cây guitar lên, chưa kịp nhận cái song loan từ ông Bảy Thọ, thì :

- Khoan chú Bảy, để cháu đờn Kìm cho...

Mọi người đều nhìn về người vừa nói, thấy Định đứng lên đi về phía ông Bảy Thọ ...

***

Ông Bảy Thọ gật gù nhìn Định :

- Nhìn chú em mầy, tao biết là dân trong nghề rồi... bây giờ mới chịu ra mặt hén...
và ông đứng dậy sau khi trao cho Định cây đàn Kìm và song loan.

- Dạ, cháu xin phép...

Định nói với ông khi nhận cây đờn Kìm và cúi chào Năm Chắc, Cò Đúng và mọi người trước khi ngồi xuống ghế. Cô Ba Hạnh đưa đôi mắt thật nồng nàn nhìn Định trong tiếng vổ tay cổ vỏ của khán giả. Định nhìn về phía Hồng Thơm, lúc nầy cũng đang nhìn anh :

- Cô hát trọn bài VTB hay chỉ 18 câu thôi...?

Hồng Thơm ngẩn ngơ nhìn về phía Năm Chắc, thì Cò Đúng đã trả lời thay cho cô :

- Chị ấy ca lớp 1 với 3 câu chót lớp 2 thôi anh... đúng như anh nói là 18 câu đó...
Định gật đầu và bấm phím... Tiếng đàn Kìm của anh réo rắt, nhặt khoan, vững vàng như mây trôi gió thổi, khiến ông Bảy Thọ là tay đàn Kìm lão luyện cũng phải tấm tắc khen thầm, còn Mười Tung thì cau mày nghĩ ngợi... Hồng Thơm chấm dứt lời ca mà dư âm cùng tiếng đờn, tiếng nhịp song loan như đọng lại trong lòng khán giả tiếng trống trận, tiếng hò reo của quân Tây Sơn tiêu diệt giặc Thanh nơi gò Đống Đa... Năm Chắc hứng chí :

- Mình làm tiếp bài Bình Sa đi cậu...

Định chưa trả lời thì Cò Đúng lắc đầu :

- Bài nầy con chưa vững đâu chú Năm...

Nhìn Cò Đúng, Định mĩm cười trao cây đờn Kìm lại cho ông Bảy Thọ :

- Vậy chú Bảy đờn Kìm đi, cháu đờn guitar cho...

- Được đa... Ông Bảy Thọ cười hà hà nhận lại cây đờn Kìm :

- Anh Mười vào kéo Bình Sa luôn nha...

Nhưng Mười Tung từ chối :

- Lâu quá, tui quên rồi, thôi, ngồi nghe cũng được.

Và trong khán giả có tiếng :

- Cô Ba Hạnh ca Bình Sa đi...

Mọi người kể cả Định đều nhìn về Hạnh, Hạnh lần đầu tiên cảm thấy hơi hồi hộp dù rằng bài Bình Sa Lạc Nhạn "Hận Ô Giang" nầy cô đã ca nhiều lần... cô bước ra :

- Hạnh ca lớp III thôi nha...

Năm Chắc nhấn chữ "oan" trên chiếc đàn tranh :

- Chà , chà... thôi, con Ba và con Lựu chia đi... con Lựu hai lớp đầu, con Ba lớp chót... cho đã một bữa ...

Hồng Lựu cô đào lẳng của gánh hát Hương Quê không đợi nhắc đã bước ra nhận micro từ tay Hạnh... Phải nói lần nầy, ông bầu gánh Hương Quê, Năm Chắc hình như đã chuẩn bị cho buổi chơi bài bản hôm nay... đào kép gánh hát của ông chơi bài bản tài tử rất nhuyển, chuyện hiếm thấy ở những đoàn cải lương... nhưng ông đã không độc chiếm được dàn đờn vì sự xuất hiện bất ngờ của Định... Nếu tiếng đờn Kìm của Định có tính vững vàng của một leader dàn nhạc thì tiếng guitar của anh bay bướm lã lướt hoà quyện nâng cao chất giọng cho người ca...mà trên hết là hầu như anh thông thuộc "thất thập nhị huyền công", khiến sau khi đờn dứt bài "Tứ Bữu Liêu Thành" cho Nhựt Tài ca xong, Năm Chắc phải buộc miệng :

- Tôi thiệt phục chú em mầy đó nha, tôi lặn lội mày mò cũng chỉ được có bấy nhiêu, đêm nay đã xả láng hết rồi, mà chưa thấy chú em mầy buông đờn, hà hà hà , thiệt đã quá đi... Hỏi thiệt chú em mầy nha , chú em mầy học đờn với ai vậy?

Định cười :

- Dạ, thầy cháu chỉ là người vô danh trong nhạc giới... và Định nói lãng đi... cháu cũng cám ơn các chú, bác, vì từ khi biết đờn ca , cháu chưa lần nào được đờn như hôm nay.

Ông Bảy Thọ xen vào :

- Nước cũng sắp đứng lớn rồi, thôi mình chơi một cặp Tứ Bữu "Minh Hoàng Thưởng Nguyệt" và "Ngự Giá Đăng Lâu" rồi nghỉ là vừa, được không anh Năm?

Năm Chắc cười hề hề giơ hai tay lên khỏi đầu :

- Chịu thua, chịu thua anh... ây da, bộ Cữu Nhĩ đó coi vậy mà khó chịu lắm, thôi, tui làm khán giả... cậu Định thì sao? Ủa còn anh Mười đâu nảy giờ không thấy vậy anh Bảy?

- Ảnh nói có chuyện nên đã về từ lúc mình bắt đầu chơi bài Ngự...

Định cũng cười theo :

- Chú Bảy là chủ nhà, đã muốn thì cháu đâu dám cải chứ...

- Sửu , mầy bao chót đi nha...

Ông Bảy Thọ vừa so lại dây cây đờn Kìm vừa gọi Sửu... và người ta thấy ông cười cười đưa song loan cho Định...(trong dàn đờn bài bản tài tử, người giữ song loan là người leader thường chơi đờn Kìm, phải thuộc vững vàng bài nhạc để giữ trường canh cho cả nhóm, còn không chắc thuộc thì không dám giữ song loan .) Buổi chơi đờn ca tài tử kết thúc trong không khí vui nhộn thoả mản của tất cả mọi người... và trong buổi tiệc chia tay Năm Chắc đã không ngớt lời ca tụng Định vì tài nghệ cùng tính khiêm nhường của anh, nhất là Lành, cứ nghĩ là anh ở trên bờ kinh nên định sẽ theo anh học đờn.
Cuộc vui nào rồi cũng qua, gia đình ông Bảy Thọ bùi ngùi tiển ông Năm Chắc và đào kép gánh hát của ông lúc trời đã quá nửa đêm. Trong lúc người của gánh hát theo chiếc cầu sau trại cưa để xuống ghe, Định bất chợt hỏi Lành, tay chỉ vào chiếc ghe miền Tây đang nằm trong ụ :

- Mình có thể xuống chiếc ghe đó coi chút không chú Lành?

- Được chứ, ghe nhà mà, nhưng bây giờ tối hù đâu thấy gì chứ, sáng mai đi, em sẽ đưa anh xuống đó chơi... mà anh Định nè...

- Hử...?

Định trả lời Lành mà mắt vẫn nhìn về phía chiếc ghe...

- Anh Định dạy đờn cho em nha...

- Ừ...
Lành hơi ngạc nhiên khi nghe tiếng trả lời cộc lốc của Định, nhưng thấy anh vẫn chăm chăm nhìn về phía chiếc ghe, Lành chưa kịp nói thêm gì nữa thì Định bỗng kéo Lành đi nhanh ra đường, vừa đi anh vừa nói :

- Tôi có chuyện cần làm, và nhờ chú giúp tôi, khi xong việc , nếu tôi còn sống , tôi hứa sẽ dạy hết những gì tôi biết cho chú... còn bây giờ...

Định cởi sợi dây chỉ điều đeo một chiếc túi vãi nhỏ hình tam giác màu đỏ thẩm trên cổ xuống đưa cho Lành :

- Chú giữ thật kỷ chiếc túi nầy hộ tôi... sáng mai, nếu tôi không về trong nhà, tức là đã có chuyện, chú đốt ngay chiếc túi nầy... và bảo mọi người hãy chờ trong vòng 7 ngày, nếu không có chuyện gì nữa thì hãy làm theo tự nhiên... Nhớ nha chú Lành , bây giờ chú về nhà đi...

- Nhưng em thường ngủ tại xưởng cưa nầy mà... anh nói gì kỳ vậy anh Định, có chuyện gì chứ?

- Chuyện gì thì rạng ngày chú biết liền, còn bây giờ chú về trong nhà là để ngăn, đừng cho cô Ba Hạnh ra đây... chú đi đi, cô Ba Hạnh đang kiếm mình đó, nhớ lời tôi dặn chú nha...

Muốn nói thêm gì nữa, nhưng Lành bỗng cúi mặt "dạ" nhỏ, đeo chiếc túi vải của Định vào cổ đi nhanh về nhà. Chiếc ghe chài chở gánh hát Hương Quê đã nhổ neo, khán giả hâm mộ cũng tản mát về nhà để kịp ngã lưng vài giờ chuẩn bị cho một ngày mới, trả lại vẻ vắng lặng cho con đường trước chợ Xoài Hột. Nhìn bóng Lành vừa khuất sau hàng cây trồng bên đường, Định chậm rải bước ra ụ ghe, theo dàn sườn hai bên thành ụ, trèo lên mũi ghe...

Thiên Hùng



#385 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 27/11/2011 - 22:32

Bùa Lỗ Ban
Phần IV


Phụ với Mén, quét dọn rửa chén bát vừa xong, Hạnh lên nhà trên thì thấy ông bà Bảy Thọ đang còn ngồi uống trà...

- Sao ba má không đi ngủ chút đi...

- Giờ nầy còn ngủ nghê gì nữa chứ...

ông Bảy Thọ nhìn cô :

- Ủa, mà sao nảy giờ tao không thấy thằng Định vậy?

Cô ba Hạnh ngạc nhiên :

- Khi đưa chú Năm về, anh ấy đi với ba cùng chú Lành mà...

- Ừ, cả thằng Lành nữa, lúc anh Năm xuống ghe cũng không thấy nó đâu...

- Hay tụi nó lại kiếm chổ nào để nhậu tiếp rồi... Bà Bảy xen vô.

- Nhậu tiếp gì chứ, không lý chỉ hai đứa nó, vì thằng Sửu và Tỵ đi với tui mà...

Bà Bảy nhìn Hạnh, hai người chưa kịp nói gì thêm thì Lành đã xuất hiện ngay cữa...

- Thằng Lành, nó kìa ông...

Bà buột miệng, trong lúc ánh mắt Hạnh sáng lên... cô hỏi Lành :

- Chú Lành, còn anh Định đâu?

- Anh ấy nói có chuyện cần làm, biểu em về đừng cho chị ra xưởng cưa , chị còn đây , may quá...

Hạnh tròn xoe mắt :

- Không cho chị ra xưởng cưa, sao vậy? anh ấy có chuyện gì cần làm chứ?

Có lẻ vì bận lo ca hát suốt ngày hay lo lắng điều gì mà Hạnh hình như quên lý do chánh Định có mặt nơi đây, nên cô giật mình khi nghe ông Bảy gọi :

- Hạnh, bây từ từ để hỏi nó chứ... Lành, thằng Định đã đi đâu rồi hả?

- Dạ, khi Cậu Bảy tiển người của gánh hát Hương Quê xuống ghe, thì anh Định hỏi con có thể lên chiếc ghe Miền Tây đang nằm trong ụ chơi được không, con hứa sáng sẽ đưa ảnh lên, vì bây giờ trong đó tối mò lên làm gì... thì ảnh nói có chuyện cần làm, biểu con vào trong nhà đừng cho chị Ba ra xưởng cưa...

- Nó không nói cho mầy biết là chuyện gì à? Bà Bảy hỏi Lành.

Lành lắc đầu :

- Dạ không.

Giọng Hạnh run run :

- Rồi chú thấy ảnh đi đâu không?

Lành gải gải tóc :

- Em cũng không biết tại sao, ảnh biểu em về nhà thì em không cải được nên không biết ảnh đã đi đâu nữa... nhưng ảnh nói...

- Nói gì thì mầy nói ngay đi... còn ở đó... ông Bảy gắt.

- Nó nói gì?... Ảnh nói gì?... Bà Bảy và Hạnh dồn dập.

- Ảnh nói, rạng ngày sẽ biết... giọng Lành thấp xuống, nhìn Hạnh :

- Em xin ảnh dạy đờn cho em, ảnh nói, xong việc nếu ảnh còn sống sẽ dạy... em cũng không biết chuyện gì mà quan trọng dữ vậy...

Hạnh ứa nước mắt nhìn ông bà Bảy, nôn nóng:

- Chắc ảnh lên chiếc ghe miền Tây rồi đó Ba, hay mình ra ngoài đó coi thế nào?

- Anh ấy dặn em nói mọi người rạng sáng hãy ra, em nghĩ...

Vì mãi mê câu chuyện mà mọi người trong nhà ông Bảy Thọ không để ý tiếng gà gáy sáng đã vang vang, tiếng xì xào của bạn hàng nhóm chợ đã dồn dập... Hạnh nhìn ra ngoài :

- Trời cũng sắp sáng rồi Ba, mình đi đi...

Không đợi ông Bảy Thọ đồng ý, cô lấy chiếc nón lá đội lên đầu đi ngay ra cữa. Lành chạy theo cô :

- Nhưng anh Định lên chiếc ghe miền Tây để làm gì, chị Ba? bộ trên chiếc ghe đó có chuyện gì hả?

- Rồi chú sẽ biết... vái trời đừng có chuyện gì...

ông Bảy cũng đứng dậy :

- Bà ở nhà đi, tui theo tụi nó coi như thế nào...

ông Bảy Thọ đi ra tới con đường lộ đá đỏ thì trời đã mờ mờ sáng, nhìn phía trước không thấy bóng dáng của Hạnh và Lành đâu, ông lắc lắc đầu cảm thông cho sự vội vã của họ. Ngang qua chợ Xoài Hột, ông cũng chỉ gật đầu đáp lễ sự chào hỏi của những bạn hàng quen thuộc thay vì đứng lại hỏi thăm họ như thường lệ, vì ông cũng muốn mau đi đến ụ ghe để xem như thế nào. Vừa xuống cầu Thầy Tùng, ông gặp ngay thằng Lỳ :

- Chú Bảy đi đâu sớm vậy, đi xe không, con chạy ngay nè.

- Ồ, không, tao chỉ vào trong xưởng cưa...

- Lúc nảy con có thấy cô Ba và thằng Lành, cũng đi vào trong đó, có chuyện gì không chú Bảy?

- Chỉ coi lại ít đồ thôi, chứ không có chuyện gì đâu.

- Vậy hả chú Bảy... rồi hắn nhe răng cười :

- Chừng nào chơi đờn ca nữa chú Bảy? hồi hôm tụi con nghe đã quá đi, cái anh gì trên bờ kinh đờn cũng hay quá hả chú...

- Ừ, từ từ...

ông Bảy Thọ rảo bước sau khi trả lời Lỳ, trong lòng cũng thấy vui vui khi nghe Lỳ khen Định đờn hay, ông lẫm bẫm :

- Cái thằng, phải chi...

Nhưng ông chưa kịp nói gì thêm, thì thấy Lành hớt hãi từ trong xưởng cưa chạy ra đường, suýt chút đã đâm sầm vào ông. Linh tính có chuyện không hay, ông nắm vai Lành còn đang thở hổn hển:

- Có chuyện gì, mầy chạy đi đâu vậy Lành?

Lành lắp bắp :

- Con... chạy về.... kêu.... kêu... Cậu nè... anh Định...

- Thằng Định? nó sao rồi... ông Bảy Thọ cũng hốt hoảng...

Lành nắm tay ông kéo đi :

- Con không biết nữa... Cậu... lên chiếc ghe miền Tây ngay đi ... chị Ba khóc quá trời trên đó...

ông Bảy Thọ không còn lòng dạ nào để hỏi Lành, ông chạy theo Lành đến ụ ghe muốn hụt hơi, phải đứng thở trước khi trèo lên ghe... Nhân lúc đó, Lành, hình như đã định thần nên hỏi ông :

- Bộ có chuyện gì trên chiếc ghe miền Tây hả Cậu?

Không trả lời Lành, mà ông hỏi lại :

- Lúc nảy mầy nói thằng Định sao rồi?

- Dạ, khi con và chị Ba leo lên ghe thì thấy ảnh đang sùi bọt mép nằm bất động gần chổ mũi ghe, chị Ba khóc ré lên bảo con chạy về kêu Cậu ... con không biết chuyện gì nữa ...

ông Bảy Thọ lắc lắc đầu :

- Trời, sao lại như thế... nếu nó có bề gì...

ông ứa nước mắt nghẹn ngào, trong lúc Lành nhìn ông linh cảm có chuyện gì đó mà mọi người đang dấu anh, nhưng thấy ông Bảy Thọ như vậy Lành không dám hỏi. Khi ông Bảy Thọ và Lành trèo lên chiếc ghe miền Tây thì trời đã hừng sáng, cô Ba Hạnh đang ngồi bên Định nước mắt ràn rụa, vừa thấy ông Bảy, cô đã khóc to lên :

- Ba ơi, anh Định, anh ấy...

ông Bảy cố giữ vẻ bình tỉnh, ngồi xuống bên Định gắt Hạnh :

- Bây nín đi, từ từ, để tao coi sao đã...

Tuy ông nói với Hạnh như vậy, nhưng tim ông cũng đang đập lung tung trong lồng ngực, vì trường hợp như vầy ông có gặp bao giờ đâu. ông rờ khắp người Định, chắc vì nằm ngoài trời đã lâu, nên tay chân anh lạnh tanh, môi tím ngắt, nước miếng trào ra hai bên mép... nhưng vùng ngực anh còn âm ấm... Cố giữ vẻ bình tỉnh, ông quay sang Lành :

- Mầy xuống kêu tụi thằng Sửu lên phụ một tay đưa nó về trong nhà, nơi đây gió lạnh quá đi, rồi mầy chạy ra ngoài Vàm, coi thầy Hai Lý về chưa, nói tao mời thầy Hai vào có chuyện gấp... ra ngoài kêu một chiếc xe lôi đi cho nhanh nha...

Lành "dạ" và leo xuống trong lúc Hạnh quẹt nước mắt nói theo :

- Đi nhanh nha chú Lành...

- Dạ, chị Ba an tâm đi , em biết rồi ...

Tin anh chơi đờn trên bờ kinh bị "trúng gió" (ông Bảy Thọ dặn người nhà nói với mọi người như thế)bất tỉnh được loan truyền nhanh chóng khắp chợ Xoài Hột, và một lần nữa người dân tại đây lại chứng kiến lòng hào hiệp của gia đình ông Bảy Thọ khi họ thấy gia đình ông Bảy đã hết lòng săn sóc cho bệnh nhân, chứ họ làm sao biết được nội tình. Sau khi được Sửu và Tỵ thay phiên nhau cõng về nhà, Định vẫn bất tỉnh. Để trấn áp cái lạnh trong người anh, ông Bảy đã đốt một lò than đặt dưới giường anh nằm và cô Ba Hạnh túc trực bên giường lúc nào cũng đắp khăn nước nóng lên trán anh, sau khi ông Bảy đã rước thầy đến giác hơi, cắt, lễ . Dầu sự việc đã xảy ra như vậy, nhưng ông Bảy nhất quyết không cho Bà Bảy và Hạnh nói ra nguyên nhân, vì đôi lúc nóng ruột, Bà Bảy xin ông Bảy hãy để Bà vào năn nĩ Mười Tung xem có thể cứu được Định không. ông nhớ lại lời thầy Hai Lý, nếu là bùa Lỗ Ban thì người ếm bùa không thể nào rút tay vì họ sẽ bị hậu quả... nên ông cũng muốn chờ gặp thầy Hai coi như thế nào. Cũng may là trời vừa đứng bóng thì Lành đã rước được thầy Hai Lý về. Sự có mặt của thầy Hai trong lúc nầy đã xoá đi một phần không khí ảm đạm trong gia đình ông Bảy Thọ, khi ông bà Bảy ra tận cửa đón thầy Hai :

- Thầy về kịp, thiệt gia đình tui mừng quá đi, thầy coi mình phải làm sao đây?

Bà Bảy tiếp lời ông :

- Chào thầy Hai, trời ơi, thầy đi đâu, tui với con Hạnh lên Saigon tìm thầy mà không gặp... bây giờ thầy đến thiệt là mừng quá...

Thầy Hai Lý mĩm cười trấn an ông bà Bảy Thọ :

- Xin lỗi chị vì cũng đi có chút chuyện, tui đã nghe thằng Lành thuật lại mọi điều, trước khi về đây, tui đã bói cho anh một quẻ... anh chị an chí đi, quẻ rất tốt, mọi việc rồi sẽ đâu vào đó vì người hiền lương luôn có quí nhân phù trợ... thằng đó đâu rồi?

- Trong nhà trong, thầy vào xem qua cho nó đi, rồi mình làm ba hột, sáng giờ lo đủ thứ chuyện có cơm nước gì đâu, gặp được thầy tui an tâm mới thấy đói...

Thầy Hai Lý nhìn ông Bảy mĩm cười thật tự nhiên:

- Nghe anh nhắc, tui cũng thấy đói đây, thui dẩn tui vào coi thằng đó như thế nào rồi...

Khác với vẻ tươi tỉnh lúc vừa đến nhà ông Bảy Thọ, sau khi thăm mạch cho Định và nhìn thần sắc của anh, trong bửa cơm, thầy Hai Lý trở nên đăm chiêu ít nói, hình như đang tập trung tư tưởng để nghĩ điều gì... khi qua bàn ngồi uống trà, không dằn được nữa ông Bảy Thọ hỏi thầy :

- Hình như có chuyện gì không ổn phải không thầy Hai?

Thầy Hai Lý trầm ngâm :

- Tui nghĩ...

Nhưng thầy chưa kịp nói tiếp thì cô Ba Hạnh đã từ nhà trong mếu máo chạy ra :

- Ba ơi, thầy Hai ơi, sao anh Định, ảnh...

Thầy Hai Lý và ông Bảy Thọ đứng bật dậy :

- Nó sao...

Và họ cùng chạy vào nhà trong. Lành đang ôm Định trên tay, Định như đang gồng mình mà hai mắt vẫn nhắm nghiền, hàm răng nghiến lại trong lúc hai bàn tay cũng nắm chặc, như đang tuyệt vọng chiến đấu với một người vô hình nào đó, và máu đang ứa ra từ hai lổ mũi của anh... Nhìn anh như vậy Hạnh ôm mặt khóc rưng rức làm bà Bảy cũng mũi lòng khóc theo.

Thấy mọi người vừa vào Lành nói ngay :

- Lúc nảy, ảnh tự dưng ngồi bật dậy, con sợ ảnh té xuống đất nên chạy tới ôm ảnh, sao ảnh kỳ quá hà Cậu Bảy ơi...

Thầy Hai Lý bước đến dùng hai ngón tay cái xoa vào hai bên thái dương của Định... người Định bỗng dưng dịu lại , thầy Hai nói với Lành :

- Đặt nó nằm xuống đi, nước gừng tao dặn lúc nảy tụi bây cho nó uống chưa?

Hạnh quay lại, đôi mắt đỏ hoe:

- Dạ, nấu rồi, nhưng ảnh luôn cắn hàm răng chặc vậy nên không cho ảnh uống được, con định ra cho thầy hay, thì xảy ra việc như vừa rồi...

- Đem đây...

Hạnh bưng chén nước gừng lại đưa cho thầy Hai Lý , nhưng thầy bảo đưa cho Lành và nói :

- Tao xoa huyệt thái dương cho nó, khi mầy thấy răng nó bớt nghiến thì đút cho nó uống nha...

Lành chỉ đổ cho Định được 2 muổng nhỏ thì phương pháp xoa huyệt của thầy Hai đã không còn hiệu nghiệm, vì răng của Định lại cắn chặc như cũ. Thầy Hai Lý thở ra, khi bắt mạch cho Định :

- Sao lại như thế nầy...

ông Bảy Thọ lo lắng hỏi ngay :

- Thế nầy là thế nào thầy Hai?

- Mạch của nó có lúc không nhảy luôn, như là người chết vậy...

- Chết...!!!

Mọi người sợ hãi nhìn nhau, và cô Ba Hạnh lại khóc ... Vừa lúc đó thì Tỵ chạy vào :

- Thầy Hai ơi, có anh Tín con của thầy tới kiếm thầy kìa...

Thầy Hai Lý nhỏm dậy :

- Kêu nó vào đây...

Thầy Hai vừa nói xong thì Sửu đã dắt vào một thanh niên trạc tuổi như Lành... Tín là con trai út của thầy Hai Lý...anh chào mọi người và nói với thầy Hai :

- Con đã tới nhà Bác Mười để mời Bác sửa nhà cho mình như tía dặn, nhưng không gặp được Bác Mười, nghe Bác Mười gái nói, Bác bị bịnh sao đó mấy ngày rồi nên từ chối không đi đâu hết á...

Nghe Tín nói tới đó, ông Bảy Thọ trợn mắt :

- ông ta mới đờn ca ở đây tối hôm qua mà bịnh gì mấy ngày...

Thầy Hai Lý quay nhìn Định thở dài :

- Dĩ nhiên là ông ta biết chuyện của mình làm đã có người khám phá ra, nên...

Thầy Hai bỏ lững câu nói, mà quay lại bảo Tín :

- Thôi mầy về đi, tao ở lại đây vài hôm...

Khi Tín đi rồi, thầy lại ngồi xuống bên Định, nắm cổ tay anh, thăm lại mạch, lẫm bẫm một mình :

- Nếu cứ như vầy, nó không qua được 3 hôm đâu, sao lại như thế được, quẻ Tiên Thiên sai sao, mình có quên gì không ...

Vừa nghe thầy Hai Lý nói Định không qua được 3 hôm, Lành sực nhớ lại lời dặn của Định, mà sáng giờ lu bu anh đã quên mất :

- A, con nhớ lại...

Mọi ánh mắt đều nhìn về anh, với những câu hỏi dồn dập :

- Mầy nhớ gì?

- Nhớ gì sao không nói ngay đi coi...

- Chú nhớ gì vậy? anh Định có dặn gì chú à?

Lành tháo sợi dây chỉ điều đeo chiếc túi vải nhỏ hình tam giác trên cổ xuống :

- Anh Định khi bảo con đi về, có trao cho con chiếc túi vải nầy, dặn con nếu anh ấy xảy ra chuyện thì đốt nó ngay, và trong vòng 7 ngày nếu không có chuyện gì nữa thì hãy làm theo tự nhiên, nhưng sáng giờ con quên mất...

Mắt thầy Hai Lý sáng lên, thầy tươi ngay nét mặt :

- Tao biết mà, phải như vậy chứ, đâu thể như thế nầy được...

ông Bảy Thọ nhìn Lành :

- Mầy thiệt tình nha Lành, sao mầy quên gì mà quên ác vậy? Nó còn nói gì nữa không?

Lành lấm lét nhìn ông :

- Dạ không, ảnh chỉ dặn vậy thui hà...

Hạnh đi tới bên Lành, định dằn lấy chiếc túi vải :

- Chú Lành, đưa chị coi...

Nhưng thầy Hai Lý ngăn cô lại :

- Đừng, con Ba, bây đừng đụng vào chiếc túi đó... Lành, mầy lấy một cái tô kiểu, đổ vào đó chút rượu, đốt ngay chiếc túi đi... hy vọng thằng Định sẽ được cứu...

Hạnh vừa dừng lại thì Mén đã cầm một chiếc tô kiểu chạy lên đưa cho Lành :

- Chai rượu đế bên góc bàn nước kìa chú Lành...

Lành chưa kịp nhìn thấy chai rượu thì Tỵ đứng gần đó đã cầm lại rót vào chiếc tô Mén vừa đem ra... Người trong nhà của ông Bảy Thọ , đều có linh cảm người thanh niên xa lạ tên Định bị "trúng gió" nầy phải rất quan trọng với gia đình ông Bảy, khi họ thấy sự lo lắng của ông bà, nhất là cô Ba Hạnh, đã khóc sướt mướt trước bệnh tình của hắn ta, nên họ luôn túc trực và làm ngay những gì mà thầy Hai Lý cũng như ông Bảy Thọ cần.

Lành xé một miếng giấy nhỏ, bật hột quẹt mồi lửa và thả vào chiếc tô đã được Tỵ rót khoảng 2 chun rượu. Ngọn lửa bùng lên màu xanh nhạt, Lành thòng sợi chỉ điều bỏ chiếc túi vải hình tam giác vào, mọi cặp mắt đều chăm chú nhìn anh... Chiếc túi vừa chạm lửa, đã nổ một tiếng "tách" bốc lên sợi khói trắng như khói của cây nhang vừa đốt và ngọn lửa trong tô bốc cao lên hơn gang tay. Sợi khói bay lên chừng giữa nhà thì tan mất đồng thời ngọn lửa trong tô cũng tắt ngấm dù mùi rượu vẫn còn nồng, chiếc túi vải từ màu đỏ thẩm đã chuyển thành màu đen, cả sợi chỉ điều, nhưng còn nguyên vẹn không có dấu vết gì như vừa bị đốt. Lành cầm nó trên tay :

- Thầy Hai, Cậu Bảy à... sao nó nguội ngắt hà, lửa mà không cháy, sao kỳ vậy...?

Sửu và Tỵ và Hạnh xô tới :

- Thiệt không?... Thiệt vậy hở chú Lành?

Sửu, Tỵ đưa tay rờ thử và nhìn ông Bảy Thọ gật đầu, trong lúc Hạnh cũng muốn thử lắm, nhưng nhớ lời thầy Hai Lý lúc nảy nên cô không dám. Thầy Hai Lý hình như không để ý đến chuyện Lành vừa nói, vì thầy đang chú tâm xem mạch cho Định. Khi Lành đeo lại chiếc túi vải vào cổ mình, mọi người mới thấy thầy Hai Lý thở phào nhẹ nhõm, đặt tay Định xuống giường, thân người Định hình như không còn gồng cứng, răng cũng không cắn chặt như lúc nảy :

- Nó tạm ổn rồi , mạch tuy còn yếu nhưng đã có lại... Lành, chiếc túi đó mầy muốn đeo thì đeo, còn không muốn thì bỏ vô lò than đốt, chứ đừng liệng bậy bạ nha.

- Nhưng, lúc nảy lửa đốt nó không cháy mà thầy Hai.

- Ừ, nhưng bây giờ đốt thì nó cháy ngay...

- Dạ, nhưng thôi, con giữ để trả lại cho anh Định.

- Cũng được... Thầy quay sang ông Bảy :

- Mình ra ngoài nói chuyện đi, để nó nghỉ... thằng Lành với con Ba, coi nấu cháo lỏng đổ cho nó đi... bây giờ được rồi đó... để nó có sức...

Hạnh nhìn thầy Hai Lý :

- Vậy chừng nào anh ấy mới tỉnh hả thầy Hai?

Thầy Hai Lý nhìn Định :

- Phải coi phần số nó như thế nào đã.

Hạnh tái mặt :

- Vậy không phải thầy nói ảnh đã được cứu sao?

- Trên đời cũng có nhiều việc mình phải để cho tự nhiên thôi... làm như lời tao dặn bây đi.

ông Bảy Thọ đi theo thầy Hai Lý ra ngoài nhà mà bán tín bán nghi trước những việc xảy ra và vẽ úp mở của thầy nên vừa ngồi xuống ghế, bà Bảy chưa kịp rót nước ra chun, ông đã hỏi thầy Hai :

- Mọi việc bộ chưa xong sao hở thầy Hai? thằng Định có qua được không? thầy làm tui lo quá...

- Tui cũng chỉ đoán thôi... nhìn quanh không thấy ai, vì bọn trẻ ở nhà trong, thầy hạ thấp giọng :

- Trước sự việc xảy ra thì rỏ ràng là thằng Định kém, nên nó chẳng những đã không giải được bùa ếm của Mười Tung mà còn bị hành suýt chết , tạm thời bây giờ nó giữ được mạng, nhưng những ngày tới thiệt tình tui cũng không biết sẽ như thế nào, vì Mười Tung đã biết có người đến giải bùa của hắn, lẻ đương nhiên hắn phải diệt đối thủ của mình chứ.

ông Bảy Thọ kêu lên :

- Trời ơi, vậy có cách nào để khuyên can anh Mười không vậy thầy Hai? Tui thiệt... thiệt... không còn muốn làm gì nữa hết á... tui dẹp luôn mấy chiếc ghe cho rồi...

Thầy Hai Lý bưng chun trà uống một ngụm :

- Tui đã nói với anh, bùa Lỗ Ban, đã ếm rồi thì không thể rút tay, nên chúng ta không thể nào đi năn nĩ Mười Tung được... anh đã nghe hắn nói "nhận chìm ghe, giết hết những người trên ghe" thì nếu hắn rút tay, hắn phải gánh lấy hậu quả nầy, anh nghĩ hắn chịu không?

ông Bảy Thọ hai tay ôm lấy đầu mình tuyệt vọng :

- Vậy tui dẹp hết ghe, không bán buôn gì nữa...

Vừa nghe ông Bảy Thọ nói như vậy, thầy Hai Lý chợt đứng phắt dậy nhìn ông :

- Từ qua nhà anh đến giờ có một việc quan trọng mà vì lu bu quên hỏi anh, vậy chứ mấy đứa đi trên chiếc ghe miền Tây, từ lúc kéo nó lên ụ, anh có biểu đứa nào đi giao đồ cho khách hàng không?

ông Bảy thò lỏ mắt nhìn thầy Hai Lý :

- Không có...

- Anh chắc chứ, nếu không thì thật may mắn, còn như nếu...

Nhìn thấy vẽ quan trọng của thầy Hai, ông Bảy Thọ e dè :

- Để tui hỏi thằng Tỵ lại coi, tui không có, không biết nó có không?

Dứt lời, ông gọi lớn :

- Tỵ ơi... ra tao biểu chút coi...

Tỵ từ nhà trong chạy ra :

- Cậu hỏi anh Định hả? con Hạnh đã đút cho ảnh được nửa chén cháo rồi đó...

- Ừ, vậy hả, nhưng tao muốn hỏi mầy, từ lúc kéo chiếc ghe miền Tây lên ụ, mầy có sai đứa nào trên ghe đi giao hàng gì cho khách không?

- Dạ không, cậu đâu có biểu con...

Thầy Hai Lý mừng ra mặt khi nghe Tỵ nói như vậy, nhưng bà Bảy khi nghe ông Bảy kêu Tỵ thì cũng đi theo ra, bà xen vào:

- Tỵ , bộ mầy quên thằng Sáu Mẹo rồi hả?

ông Bảy Thọ ngạc nhiên trong lúc thầy Hai Lý nhìn Tỵ :

- Thằng Sáu Mẹo...?

Tỵ như chợt nhớ ra, gải tai :

- A, hôm qua lúc cậu Bảy đang chơi đờn ca thì nó xin phép con về thăm nhà ở Cần Thơ vì không biết chiếc ghe miền Tây lúc nào mới chạy lại, nó nói sẳn đem mấy bao vôi Càn Long giao cho vựa số 1 gần bên nhà nó thật tiện, con thấy cũng có lý nên đồng ý và đã nói cho Mợ biết...

Thầy Hai Lý hỏi lại :

- Nó là bạn ghe của mầy?

- Dạ.

ông Bảy Thọ thấy việc làm của Tỵ cũng là đúng thôi, nhưng không hiểu thầy Hai Lý hỏi để làm gì. Như hiểu được suy nghĩ của ông, thầy Hai Lý thở dài bảo Tỵ :

- Thôi được rồi, mầy vô trong đi.

Tỵ vừa khuất sau cánh cửa buồng, thầy Hai Lý ngồi xuống ghế, móc gói thuốc Bastos xanh ( loại thuốc lá người bình dân thích hút, cũng là nghe nói thui nha, đúng sai hủng bít à...) lấy ra một điếu châm lửa rít một hơi, nhìn ông Bảy Thọ mà lúc nầy cả hai ông bà đều đang nhìn thầy :

- Đâu phải như anh nói, anh kéo chiếc ghe lên, không đi buôn nữa là xong đâu, vì nếu dễ dàng như vậy thì chuyện gì phải lo chứ. Theo tui biết thì người bị ếm bùa Lỗ Ban mà không giải dù có đi tới đâu trước sau gì vẫn bị hại, tui nghĩ trong thời gian nầy, anh nên bảo tất cả những bạn ghe của chiếc Miền Tây đừng đi đâu cả, ở yên đây, chờ vài ngày coi như thế nào...

Bà Bảy Thọ hỉ mũi, sụt sịt khóc :

- Gia đình tui đối với anh Mười như bát nước đầy, sao ảnh lại bày chi cái trò ác nhơn vậy...

- Hồi sáng, trước khi vô anh, tui đã sai thằng Tín đến nhà hắn nói nhờ hắn sửa nhà, kỳ thật là tui muốn thăm dò coi hiện hắn đang làm gì, thì như anh chị thấy đó, hắn nói bịnh không tiếp ai hết, tui chắc chắn hắn đang tập trung để đối phó với bất cứ ai đến giải bùa hắn ếm trên chiếc ghe miền Tây...

ông Bảy Thọ chán nản :

- Anh nói, thằng Định không bằng hắn nên đã ra nông nổi, vậy thì mình chờ gì đây?

Thầy Hai Lý ném cái mẩu thuốc lá ra sân, trời đang sâm sẩm tối :

- Chờ gì tui cũng không biết, nhưng trước giờ khi gặp điều nan giải quẻ Tiên Thiên của tui bói không bao giờ sai, nên tui tin thằng Định không phải vô cớ mà đưa chiếc túi vải, tui nghĩ chắc chắn là bùa hộ mạng của nó, cho thằng Lành và biểu đốt... tui đang lo cho thằng Sáu Mẹo, vì đi giao hàng trong lúc nầy là...

- Là sao hả thầy Hai...? ông bà Bảy đồng thanh.

- Là đúng vào lời ếm...

ông Bảy Thọ chỉ kêu lên được một tiếng "trời" rồi cúi đầu ngao ngán, trong lúc bà Bảy quẹt nước mắt, bà không còn nói được lời gì khi những sự kiện ngoài sự hiểu biết của bà cứ dồn dập xảy đến. Thầy Hai Lý chép miệng nói với họ mà mắt vẫn nhìn ra sân, màn đêm đã phủ trùm vạn vật :

- Nhưng thôi, chúng ta có lo quá cũng không làm được gì, vì đó cũng là suy đoán theo sự hiểu biết của tui...

Thầy ngưng lại bưng tách nước trà uống một hớp :

- Hơn nữa, mọi người đều có phước có phần do ơn trên sắp đặt, chuyện gì đến thì nó phải đến thôi, chúng ta cứ chờ coi...
Thiên Hùng

Sửa bởi huygen: 28/11/2011 - 09:44


#386 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 29/11/2011 - 00:03

Bùa Lỗ Ban

Phần V


Hai ngày đã trôi qua... Những sinh hoạt thường nhật trong nhà ông Bảy Thọ không có gì thay đổi, nhưng đâu đó đã có những lời dị nghị về hạnh kiểm của cô Ba Hạnh trong số người ra vào làm việc nơi nhà ông cũng như tại xưởng cưa, khi thấy sự săn sóc quá đặc biệt của cô dành cho Định... ông Bà tuy có nghe, nhưng còn lòng dạ nào để cải chính, riêng cô Ba Hạnh không hiểu sao, khi nghe Lành thuật lại lời dị nghị của thiên hạ, cô lại ước ao nó là sự thật khi cô nắm bàn tay anh và ánh mắt thật nồng nàn nhìn anh dù anh đang thiêm thiếp trên giường... Tờ mờ sáng ngày thứ ba, khi mọi người tạm vơi nỗi lo âu khi thấy sắc mặt Định bớt tái, có chút phản ứng với những muổng cháo Hạnh hoặc Lành đút cho anh, thì thầy Hai Lý ngủ bên ngoài nghe tiếng Lành gọi lớn bên trong :

- Thầy Hai ơi, thầy Hai... anh Định... ảnh...

Thầy Hai Lý, ông bà Bảy, chạy vào... thấy Định nằm dưới đất, Lành đang cố sức bồng anh lên, nhưng có vẽ như anh quá nặng Lành không thể nào nhấc lên được. Sức trai tráng như Lành mà nhấc Định lên không nổi quả là một chuyện lạ. Vừa thấy thầy Hai Lý, Lành nói ngay :

- Thầy Hai, sao mình mẩy anh Định nóng hổi, cứng đơ, nặng ỳ như khối đá... con dở lên hổng nổi...

Thầy Hai Lý ngồi xuống bên Định, nói với Lành :

- Buông tay nó ra cho tao coi... và thầy chụp ngay vào mạch cổ tay của Định... thầy Hai Lý bỗng tái mặt, bàn tay bắt mạch của thầy run run, ông Bảy Thọ nhìn thầy hỏi thật nhỏ :

- Sao nó lại như thế nữa hả thầy Hai?

Thầy Hai Lý không nhìn ông Bảy Thọ vì thầy đang để ý đến những đường gân máu đang nổi rỏ trên trán và hai bên thái dương của Định, cùng lúc máu tươi ứa ra từ thất khiếu của anh, thầy nghẹn ngào :

- Nó chết rồi...

- Chết, không, không... Hạnh lao vào chụp cánh tay kia của Định khóc nức nở :

- Anh Định, anh không thể chết đâu... thầy Hai sao lại như vậy chứ, hồi hôm anh ấy khoẻ lại rồi mà...

Thầy Hai Lý nhìn cô lắc đầu, định nói gì đó, nhưng bỗng thầy nghiêm nét mặt :

- Ủa, lạ thiệt, lạ thiệt...

- Sao hở thầy Hai... ông Bảy Thọ cố nén xúc động.

Không trả lời ông Bảy mà thầy Hai Lý bảo Hạnh :

- Bây buông tay nó ra coi ... Ờ, ờ... nắm lại coi... và thầy tươi ngay nét mặt reo lên :

- Ừ, có thế chứ...

Và nhìn ông bà Bảy đang ngơ ngác, thầy nói :

- Không phải vô cớ mà tui nói với anh chị, con Hạnh là phước tướng, lúc nảy rỏ ràng mạch của thằng Định đã ngưng, vậy mà khi con Hạnh nắm tay nó, mạch đã nhảy lại, và bây giờ không phải người nó đã dịu hay sao... và thầy quay sang Lành:

- Đỡ nó lên giường đi... nó không còn nặng nữa đâu...

Lành bán tín bán nghi đến nâng Định, anh reo lên :

- Ủa, sao lạ quá hén, lúc nãy con ráng muốn đứt hơi mà...

ông Bảy Thọ trừng mắt nhìn Lành, nhưng giọng nói của ông không dấu được niềm vui :

- Mầy nói nhỏ chút được không...

Thầy Hai Lý nói với ông Bảy khi thấy Hạnh đang lau máu trên mặt Định và Lành đang xoa dầu lên khắp người anh :

- Mình ra ngoài để nó nghỉ chút đi...

Hai người đi ra nhà ngoài mà tai họ còn thoáng nghe tiếng Lành hỏi Hạnh :

- Anh Định bịnh gì kỳ cục quá vậy chị Ba ...

Nghe tiếng Lành, thầy Hai Lý như sực nhớ chuyện gì, thầy quay lại nói với Hạnh :

- Con Ba, bây ngồi đây với nó, nếu lại thấy nó có xảy ra bất cứ chuyện gì, bây chỉ cần nắm chặc tay nó lại... cầu mong từ đây tới sáng sẽ không có gì nữa...

Hạnh ngước nhìn thầy Hai Lý gật đầu mà nước mắt vẫn đoanh tròng, trong lúc ông Bảy hỏi ngay khi hai người vừa ra nhà ngoài :

- Thằng Định nó qua được không thầy Hai? sao lúc vầy lúc khác, tui thực không biết phải làm sao...

- Anh không nhớ, cũng vào giờ nầy mấy hôm trước thằng Định đi phá bùa của Mười Tung sao, sự việc vừa xảy ra cho thấy Mười Tung cũng phải vào giờ nầy triệt hạ đối thủ của mình, nếu lúc nảy không có con Hạnh đến kịp, nó đã bị bùa của Mười Tung vật chết rồi... Con Hạnh là phước tướng, tôi nghĩ trong nhứt thời bùa Mười Tung không phạm được, chỉ là không biết mình kéo dài được bao lâu thôi...

- Như vậy muốn diệt thằng Định, Mười Tung phải diệt con Hạnh trước...

ông Bảy Thọ trố mắt nhìn thầy Hai Lý.

- Nên tôi mới nói với anh là không biết mình kéo....

Nhưng thầy Hai Lý chưa nói dứt câu thì có tiếng Tỵ kêu cửa :

- Cậu Bảy ơi, thức dậy chưa, có người tìm anh Định nè...

Trong một thoáng ông Bảy Thọ và thầy Hai Lý nhìn nhau, rồi cả hai đều chạy ra mở cửa :

- Ai, ai... kiếm thằng Định chứ?

Tỵ còn thở hổn hển :

- Một ông già lạ lắm, đang đi vào với thằng Sửu, con chạy trước về báo cho Cậu biết...

Rồi Tỵ tiếp luôn khi thấy ông Bảy Thọ và thầy Hai Lý nhìn hắn :

- Không biết ông ta đến chỗ xưởng cưa hồi nào, mà tờ mờ sáng khi con thức dậy ra sau ụ ghe đi tiểu thì đã thấy ông ta đứng ở cầu tàu kêu con và hỏi "nhà ông chủ ghe nầy ở đâu vậy cậu" con chưa kịp trả lời thì ông hỏi tiếp, tay chỉ vào chiếc ghe miền Tây "mấy ngày trước có một thanh niên xỉu trên chiếc ghe đó phải không, và bây giờ anh ta ở đâu?"... con biết ngay là ông ta muốn hỏi anh Định, nên trả lời "phải" rồi vào cho thằng Sửu hay và chạy về đây báo cho Cậu ...

Thầy Hai Lý ngắt lời Tỵ:

- Mình ra ngoài đó gặp ông ta đi...

ông Bảy Thọ chưa kịp ừ , thì Tỵ nói tiếp khi nhìn về phía cổng :

- Ổng tới rồi kìa Cậu...

Bà Bảy Thọ vừa kịp vặn sáng thêm ngọn đèn dầu để trên bàn, thì Sửu và ông già lạ mặt đã vô đến trước cửa nhà. Sửu chưa kịp nói gì cùng ông Bảy Thọ, thì cả hai người, ông Bảy Thọ cũng như thầy Hai Lý đã bước ra, như một quán tính, khẻ cúi đầu trước ông già :

- Chào thầy... xin mời thầy vào nhà...

ông già cười hề hề không khách sáo chút nào :

- Cám ơn ... và ông bước vô trong...

ông Bảy Thọ và thầy Hai Lý cúi đầu cũng phải, vì ông già tóc đã bạc gần hết, chắc phải ngoài bảy mươi, nhưng phong thái thật nhanh nhẹn, mặc đồ bà ba đen, đi giày bata trắng, đầu bới củ tỏi với chiếc khăn nâu cột qua trán, đặc biệt chòm râu của ông vẫn đen nhánh không bạc chút nào... Vừa bước vô nhà, ông già đã nói ngay :

- Mấy ngày nay ông chủ lo dữ hén... cái thằng nhóc nầy thiệt tình không sợ chết mà...

Nghe những lời nầy của ông gìa, ông bà Bảy Thọ nghĩ chắc chắn cứu tinh của mình đã đến nhưng ông chưa kịp nói gì, thì thầy Hai Lý đã kéo chiếc ghế mời ông già :

- Mời thầy, hình như thầy đã biết hết mọi việc...

ông già nhìn thầy Hai Lý không trả lời ông, rồi nhìn về cửa buồng thông vô chổ Định đang nằm :

- Cái thằng nầy không biết trời cao đất rộng là gì, may nhờ có thầy giúp cho nó mấy ngày qua, không thôi nó đã toi mạng rồi... một lần cho nó biết sợ..

Quay sang ông Bảy Thọ, ông già cười :

- Tại thằng nhóc không nên thân báo hại ông bà mấy ngày nay phải bận tâm lo lắng cho nó... ông bà đừng phiền nha...

ông Bảy Thọ ấp úng :

- Gia đình tui mang ơn cậu ấy còn không hết, dám đâu phiền chứ, nhưng cậu ấy...
ông Bảy Thọ chưa nói dứt câu thì ông già đã xua tay :

- ông chủ an tâm đi... cho tui thắp nhang ngoài bàn thiên ông chủ chút nha...

- Dạ...

ông già bước đến xá mấy xá trước bàn thờ Phật trong nhà ông Bảy Thọ rồi đốt một cây nhang bước ra cắm vào bát nhang bàn thiên bên hiên nhà... Sau đó ông rút chiếc móc tai bằng đồng (chiếc móc tai làm bằng đồng dài khoảng 4 inches, người bình dân miền Nam rất ưa dùng, phụ nữ lớn tuổi thường cắm trên búi tóc.) dắt trên củ tỏi cắm ngập vào bát nhang, nạt lớn :

- Mau... !

Mọi người theo dỏi hành động của ông trố mắt nhìn không biết ông làm vậy có dụng ý gì , nhưng ông già thản nhiên quay lại xoa tay cười :

- Xong rồi...

Trong nhất thời, những người hiện diện không biết ông già nói "xong rồi" là ám chỉ điều gì, thì nghe tiếng cô Ba Hạnh :

- Ba ơi, anh Định...

Họ quay vào, cô Ba Hạnh khựng lại ngay cửa buồng khi nhìn thấy ông già, thầy Hai Lý lên tiếng :

- Con Ba, nó lại có chuyện hả...?

Cô Ba Hạnh, mắt không rời ông già, ấp úng :

- Dạ không, ảnh... ảnh...

ông già nhìn cô cười hề hề :

- Con bé nầy khá đấy, thảo nào thằng nhóc không liều mạng chứ... Rồi ông ta hỏi Hạnh :

- Nó thế nào rồi...

Hạnh cúi đầu tránh đôi mắt của ông già, hai tai cô nóng bừng khi nghe lời vừa rồi của ông già :

- Dạ, ảnh...

Nhưng cô chưa nói được gì thêm, thì Định hình như không có vẽ gì là đau ốm bước ra ngoài, đến ngay trước mặt ông già quỳ thụp xuống :

- Cám ơn Tổ sư gia đã cứu mạng con...

ông già tắt mất nụ cười trên môi, nghiêm nét mặt nhìn Định :

- Thằng nhóc, mầy thiệt tình mà, đã biết sức mình không kham nổi sao vẫn liều chứ, nếu tao không về kịp thì sao...?

Định ôm lấy hai chân của ông già :

- Con biết Tổ sư gia đâu nỡ bỏ con chứ, vì con chỉ làm những gì mà tổ sư gia đã dạy cho con mà...

ông già lắc lắc đầu :

- Tao thiệt chịu thua mầy đó nhóc...

Rồi ông nhìn Định thở dài :

- Bao năm rồi, tao những tưởng được yên thân để tu luyện, không ngờ cũng chưa thoát được vòng ân oán...

- Nhưng Tổ sư gia cũng đâu đành lòng nhìn những người lương thiện bị hại chứ...?

ông già đở Định đứng lên :

- Ừ, thôi thì cứ để xuôi theo tự nhiên đi...

Định quay lại nhìn ông bà Bảy Thọ :

- Thưa chú, thím, đây là Tổ sư gia của con, người đời thường gọi ông là Hiệp Ẩn, từ lâu Tổ sư đã lánh về ở trên Thất Sơn, nhưng hôm nay vì cứu con đã phải xuống núi...

ông Bà Bảy Thọ, thầy Hai Lý dù đã đoán được ít nhiều sự liên quan giữa ông già và Định, nhưng được nghe chính Định thốt lên lời vừa rồi, họ như đã trút đi được gánh nặng ám ảnh những ngày qua, vì họ tin chắc chắn Tổ sư gia của Định sẽ dễ dàng giải được bùa ếm của Mười Tung... Họ nhìn nhau và thầy Hai Lý một lần nữa thấy thiệt vui trong lòng vì quẻ Tiên Thiên của thầy bói quả không sai...

ông già Hiệp Ẩn quay sang ông bà Bảy Thọ :

- Tui có mấy lời muốn hỏi ông bà chủ nhà, xin vui lòng trả lời thành thật đừng nói dối sẽ mang tội cùng trời đất đó nha.

ông bà Bảy Thọ nhìn vẽ nghiêm trang của Hiệp Ẩn không khỏi chột dạ :

- Dạ, tổ sư cứ hỏi, vợ chồng tôi sẽ không dối nửa lời...

- Chiếc ghe của ông bà bị người ta ếm, ông bà biết người ếm chứ?

- Dạ biết...

- ông bà có thù oán hay có làm bất cứ một chuyện gì gọi là có lỗi với người ta không?

ông Bảy Thọ bùi ngùi :

- Gia đình tui đối với anh ấy như bát nước đầy, hơn nữa tui và anh ấy lại là bạn chơi đờn ca đã lâu nên tui nghĩ tui không làm gì có lỗi với anh ấy...

- Vậy ông bà có muốn trừng phạt người đó không, có muốn trả thù họ không?

Bà Bảy Thọ oà lên khóc, trong lúc ông Bảy Thọ cũng ứa nước mắt :

- Gia đình tui cầu xin tổ sư giải giùm nạn nầy, và tha thứ cho họ, có gì đâu mà thù với oán chứ...

ông già Hiệp Ẩn thở dài, nhìn ra sân, gió ban mai thổi qua nhè nhẹ, tiếng gà gáy dồn dập xa xa hoà trong tiếng lào xào cũa những bạn hàng xuôi về nhóm chợ, trời đã hừng hừng sáng... Quay lại mọi người đang hiện diện trong nhà, ông già Hiệp Ẩn nói chậm rải từng tiếng một :

- ông bà chủ nhà quả là nhân đức, như vậy ngay từ bây giờ, mọi chuyện của ông bà với người kia coi như chấm dứt, chuyện gì xảy ra sau nầy ông bà sẽ không có một trách nhiệm gì, vì đó chỉ là nhân quả...

Thầy Hai Lý rụt rè hỏi :

- Thưa Tổ sư, vừa rồi có một người bạn ghe của chiếc ghe Miền Tây đi giao hàng cho khách ở Cần Thơ, không biết có việc gì không?

Mọi người chợt nhớ đến Sáu Mẹo nên đều nhìn ông già Hiệp Ẩn. Lành nãy giờ đứng lặng thinh, với những việc xãy ra mấy ngày nay trên mình Định, tâm hồn lương thiện của anh trong nhứt thời không khỏi bàng hoàng khi Hạnh kề tai vắn tắt kể anh nghe đầu đuôi câu chuyện, bỗng chạy ra quỳ xuống trước ông già Hiệp Ẩn :

- Kính xin Tổ sư hãy tội nghiệp cứu dùm anh Sáu Mẹo...

Mọi người trố mắt nhìn, tuy biết thường ngày Lành và Sáu Mẹo là bạn rượu thân thiết, nhưng sự việc chưa biết như thế nào thì sao Lành lại nói "cứu" chứ... ông già Hiệp Ẩn nhìn Lành gật gù :

- Hèn gì...

Rồi ông chồm tới đưa tay vào ngực áo Lành gở chiếc túi vải hình tam giác của Định mà Lành vẫn còn đeo bên trong. Nắm chiếc túi trong tay, ông già Hiệp Ẩn hết nhìn Định rồi nhìn Lành :

- Thằng nhóc, mầy cũng có con mắt tinh tường quá chứ, giao mạng mầy cho nó... hèn gì, hèn gì... nè, của mầy trả cho mầy nè...

Hiệp Ẩn mở bàn tay đưa ra trước mặt Định, mà lúc nầy đang đứng gần bên cô Ba Hạnh... Định mừng rở chạy đến trong lúc mọi người tròn xoe mắt kinh ngạc. Chiếc túi vải nầy mấy hôm trước đã bị đốt biến thành màu đen, nhưng bây giờ dưới đèn đã ánh màu đỏ thẳm... Đeo lại chiếc túi vải vào cổ, Định lắp bắp, chấp tay cúi sát đầu :

- Con cám ơn Tổ sư... cám ơn Tổ sư gia...

ông già Hiệp Ẩn nhìn Lành :

- Tao thấy người mầy xin tao cứu đó, thiệt là dử nhiều lành ít rồi, nhưng còn nước còn tát... đứng dậy, rót 1 chun rượu đem lại đây...

Cầm chun rượu do Lành hai tay kính cẩn mang lại, ông già Hiệp Ẩn bước đến cửa hắt mạnh ra trước sân, xong quay lại nói với ông bà Bảy Thọ :

- ông bà chủ nhà cứ ở nhà đi, khoảng chừng tàn cây nhang sẽ có người đến báo tin về cái anh bạn ghe gì đó, tui hy vọng là mình không quá trể...

Hiệp Ẩn nói tiếp luôn khi ngoài sân trời đã hừng đông :

- Cũng đã đến giờ rồi... Mọi người hiểu ngay là ông già Hiệp Ẩn muốn nói gì nên đều có ý muốn đi theo ông ra ụ ghe...

Nhưng Hiệp Ẩn lắc đầu :

- Không cần đi nhiều người như vậy đâu...

ông ngừng lại nhìn Định :

- Cả mầy nữa, thằng nhóc, lần nầy khỏi đi với tao, vì lở có chuyện tao thiệt khó ăn nói với con bé đó... ông buông lững lời, trong lúc Hạnh xấu hổ cúi gầm mặt xuống, với một niềm vui đang rộn rã trong lòng...

Hiệp Ẩn quay sang thầy Hai Lý :

- Thầy có hứng thú không?, thầy và thằng nhỏ nầy đi với tui đủ rồi... ông nói và chỉ tay về Lành...

Định ngập ngừng :

- Tổ sư gia... con, con...

ông Bảy Thọ biết Định muốn đi theo và ông cũng vậy :

- Thưa Tổ sư, tui thiệt muốn đi theo coi như thế nào...

ông già Hiệp Ẩn trầm giọng :

- Tui nghĩ, những chuyện tới đây, ông chủ nhà không thấy thì tốt hơn để không có một ám ảnh nào về sau... và cũng đừng nghĩ sẽ mang ơn tui, vì chuyện tui làm chỉ là hợp với tự nhiên thôi... Mọi việc trên đời đều có 2 mặt tốt xấu, thì Bùa Lỗ Ban cũng không ngoại lệ...

Và ông lại thở dài :

- Nên quan trọng nhất là cái TâM của người xữ dụng nó... rồi nhìn thầy Hai Lý, ông tiếp luôn :

- Thôi mình đi đi kẻo trể... và quay sang Lành :

- ê nhỏ, mầy nhớ hỏi chủ nhà mang theo cho tao 1 cái chảo, 1 lít dầu phọng, 1 ông lò và một ít củi... tao và thầy Hai ra đó trước nha...

Trời cũng đã hừng đông, chợ Xoài Hột thật đông đúc người mua kẻ bán, xe ngựa, xe lôi tấp nập ngược xuôi chất hàng lên để kịp đưa ra lộ trong chuyển lên xe hàng đưa về Saigon, nên cũng không ai để ý đến ông già Hiệp Ẩn cũng như thầy Hai Lý đang trên đường đi về ụ ghe. Bước chậm lại để thầy Hai Lý tiến lên đi ngang mình, ông già Hiệp Ẩn cười cười :

- Thầy Hai cũng biết bùa Lỗ Ban?

- Dạ không đâu thưa Tổ Sư, chỉ là ngày xưa lúc học thuốc, thầy tui có dạy cho biết những cách thức thông thường để tạm thời cứu mạng cho người bị hại... và

Thầy Hai cũng cười :

- Và đây là lần thứ nhứt, tui mới áp dụng đó...

- Người ếm bùa chiếc ghe kia, tâm địa thật không hiền, vẫn biết bị bắt buộc phải làm, nhưng cũng không cần phải tận tuyệt như vậy...

- Thưa Tổ Sư, tại sao lại là bắt buộc phải làm chuyện ác đức như vậy chứ?

- Vì hắn học bùa mà muốn mau thành để xữ dụng, nên khi dùng phải trả giá tức phải ếm người ta, nếu không chính bản thân hắn phải chịu hậu quả, vì lủ quỉ đó có bao giờ chịu làm việc không công chứ...

Thấy thầy Hai Lý tròn mắt nhìn mình, ông già Hiệp Ẩn lắc lắc đầu :

- Thầy cũng biết mà, xữ dụng bùa chú tức là sai những thành phần khuất mặt làm chuyện mình muốn, mà thành phần nầy có đẳng cấp của nó, nên tùy theo tâm tánh và thời gian tu luyện mà người luyện bùa có thể vẻ chữ bùa sai khiến được đẳng cấp nào...

- Vậy chiếc ghe miền Tây...

Không để thầy Hai Lý nói hết câu, ông già Hiệp Ẩn đã hiểu thầy muốn nói gì rồi :

- Hắn cũng dày công luyện đó, nhưng lòng dạ không lương thiện, đố kỵ , vị kỷ... nên thành đạt không đáng là bao... thật là đáng tiếc cho hắn...

- Vậy...?

- Thầy Hai cũng biết rồi, làm việc gì đều có cái giá phải trả mà...

ông già Hiệp Ẩn bỏ lững câu nói vì hai người đã đến ụ ghe và không biết tự bao giờ Lành đã quảy hai cái thúng nhỏ, trong có đựng tất cả những vật dụng mà Hiệp Ẩn đã dặn đi đàng sau. Họ trèo lên chiếc ghe miền Tây thì mặt trời đỏ hồng vừa nhô lên rặng cây bên bờ kia của con kinh Thầy Tùng. ông già Hiệp Ẩn nhìn Lành :

- Thằng nhỏ, mầy coi nhóm lửa, đổ dầu phọng vào chảo bắt lên đun đi rồi đến đây, tao biểu gì mầy làm vậy là được rồi...

Thầy Hai Lý thấy thái độ của ông già Hiệp Ẩn thật thản nhiên, hình như bùa ếm của Mười Tung dưới mắt ông không là gì cả...Ngọn lửa trong lò bùng lên thật nhanh, Lành bắt chiếc chảo nhôm lên và đổ lít dầu phọng vào. ông già Hiệp Ẩn có vẻ hài lòng :

- Thằng nhỏ, mầy khá đấy, nếu người có tâm địa không thiện lương không dễ gì nhóm được lửa nhanh như vậy nơi đây vào lúc nầy đâu, được rồi, đến đây, xoè bàn tay mặt của mầy ra...

Thầy Hai Lý lại trố mắt nhìn ngạc nhiên khi thấy Hiệp Ẩn rút trên củ tỏi cây móc tai bằng đồng vẻ mấy vòng tròn trên bàn tay của Lành... Cây móc tai nầy không phải lúc nảy Hiệp Ẩn đã cắm vào bát nhang nơi bàn thiên nhà ông Bảy Thọ hay sao... chẳng lẻ ông ta có hai cây... và tuy thắc mắc, nhưng thầy cũng cúi xuống định đẩy mấy khúc củi đang cháy vào lò vì chúng nhỏng lên muốn rớt ra, nhưng không hiểu sao thầy lại thôi, Hiệp Ẩn nhìn thầy Hai :

- Đúng đó, thầy Hai đừng đụng vào, để thằng nhỏ nầy làm được rồi... và ông nói với Lành :

- Mầy đẩy mấy khúc củi vào rồi đến mũi chiếc ghe, ngay cây đà cái, đo từ trên xuống hai gang tay, dùng bàn tay nầy vổ mạnh vào đó, gặp cái gì thì cũng dùng bàn tay nầy... mầy nhớ chỉ dùng bàn tay nầy thôi nha, cầm lấy nó đem lại đây... nhớ chưa?

Lành "dạ" cúi xuống đẩy mấy thanh củi vào lò, ngọn lửa lại bùng lên và dầu trong chảo hơi có bọt dưới đáy, anh bỏ thêm 2 thanh củi nữa vào lò rồi đứng lên đi về phía mũi chiếc ghe miền Tây. Không biết vì quá tin tưởng vào ông già Hiệp Ẩn hay lòng hiếu kỳ đã lấn lướt hết mọi suy nghĩ của Lành, anh thực hiện lời của Hiệp Ẩn thật gọn và trơn tru trong lúc thầy Hai Lý thấy thần kinh của mình thật căng thẳng vì đây là lần đầu tiên trong đời thầy được chứng kiến giải bùa Lỗ Ban...

Lành vỗ mạnh bàn tay của mình vào vị trí đo từ mũi ghe xuống 2 gang trên cây đà chính. Sau tiếng "bốp" dòn tan, một miếng gỗ hình chữ nhựt dài chừng nửa gang, ngang chừng phần tư gang, dầy hơn lóng tay bật ra. Miếng gỗ nầy dùng đậy một hốc nhỏ được đục thật khéo trên cây đà, mà với cấu trúc của nó những thợ mộc non tay khó thể làm được vì mắt thường không sao nhìn ra. Vật Lành cầm trên tay đem lại cho Hiệp Ẩn là một hình nhân bằng gỗ to cở ngón tay cái, được khắc thật khéo, có đầy đủ mắt mũi tay chân đã được dấu trong cái hốc nhỏ đó. Thầy Hai Lý trợn tròn xoe đôi mắt nhìn vào hình nhân trên tay Lành, trong lúc Hiệp Ẩn dùng ngón tay trỏ của mình với chiếc móng tay dài cắt nhọn như mủi viết điểm vào giữa tam tinh hình nhân rồi bảo Lành :

- Bỏ nó vào chảo dầu đi...

Như cái máy, Lành buông hình nhân vào chảo dầu mà lúc nầy đang sôi sùng sục. Dù đã chuẩn bị tinh thần từ nảy giờ, nhưng thầy Hai Lý cũng thấy gai ốc mình nổi lên khi đột nhiên thầy nghe trong không gian có tiếng rên siết thật não nùng và trong chảo dầu cái hình nhân như bơi tuyệt vọng. Sau khi nổi lên chìm xuống vài lần, cái hình nhân từ màu gổ trăng trắng đã dần dần chuyển sang màu đen, chìm hẳn xuống đáy chảo dù dầu vẫn đang sôi.

Hiệp Ẩn thở dài bảo Lành :

- Xong rồi, mầy thu dọn mọi thứ, cùng thầy Hai về đi... hình nhân đó thì đào đất chôn rồi đổ dầu trong chảo lên... cũng đừng cho ai biết vì không ích lợi gì đâu.

- Thưa Tổ Sư, bộ Tổ Sư không trở lại nhà Cậu Bảy sao? Lành ngạc nhiên.

Hiệp Ẩn cười :

- Về làm gì trong đó nữa chứ... nè nhỏ, tao thấy cũng có chút duyên với mầy... thôi vậy đi, hai tháng sau, đến Thất Sơn tìm tao, tao đợi...

- Nhưng Thất Sơn mênh mông, con biết Tổ Sư ở đâu mà tìm.

- An chí, cứ tới đó mầy sẽ biết...

Quay sang thầy Hai Lý, ông già Hiệp Ẩn nói tiếp :

- Tui biết hiện giờ thầy đang nghĩ gì, nhưng trò chơi nào cũng đều có giá... họ đặt cuộc như thế nào thì họ nhận kết quả như vậy thôi, là tự họ chứ không phải mình đâu, đừng suy nghĩ nữa...

- Hai tháng sau, nhứt định con sẽ xuống Thất Sơn tìm Tổ Sư... Lành cảm xúc nói với Hiệp Ẩn.

- Ừ, về nói với thằng Định, như vậy mới xứng đáng là học trò của tao... thôi tao phải đi cho kịp về Châu Đốc có chút chuyện... thầy Hai về nha, có dịp mình sẽ cùng nhau nhậu một bửa... tui đi nha...

- Dạ, dạ,... Tổ Sư...

Thầy Hai Lý bùi ngùi nhìn theo bóng dáng thật nhanh nhẹn của ông già Hiệp Ẩn, thoắt đó ông đã trèo xuống ụ ghe và hoà thật nhanh vào dòng người đông đúc buổi sáng...Sau khi hoàn tất công việc đào đất chôn cái hình nhân bên dưới ụ ghe, thầy Hai Lý và Lành thu dọn đồ đạt để về nhà ông Bảy Thọ, và thầy Hai nhìn thấy rỏ ràng Lành đã đổ hết chảo dầu còn âm ấm lên chổ đất đào như lời ông già Hiệp Ẫn dặn. Lành quảy gánh đồ cùng thầy Hai chưa đi ra đến cổng của xưởng cưa đã thấy Sửu và Tỵ vừa thở dốc vừa chạy vào. Thầy Hai chưa kịp hỏi họ có chuyện gì xảy ra thì cả hai đã hào hển :

- Trời ạ, cái gì mà kỳ cục vậy, thầy Hai ơi, thầy Hai, cái gì mà...

Lành buông gánh xuống hỏi Tỵ :

- Anh Tỵ, lại có chuyện gì hả?

Tỵ đưa tay vuốt ngực, nuốt nước miếng :

- Mầy hỏi thằng Sửu kìa... chạy mệt quá...

Thầy Hai Lý nhìn Sửu mà lúc nầy có lẽ vì quá mệt nên ngồi phịch xuống đất :

- Có chuyện gì vậy, bây nói cho tao nghe coi.

Sửu nhìn thầy Hai, vẽ mặt như bình tỉnh lại, đưa tay chỉ về phía cổng của xưởng cưa :

- Thầy Hai coi kìa, từ cổng của xưởng cưa vào đây có bao xa đâu, mà sao con và thằng Tỵ chạy muốn chết vẫn không tới...

Tỵ gật đầu phụ hoạ ngay :

- Đúng đó thầy Hai, tụi con nhìn thấy cái ụ ghe rỏ ràng mà, nhưng đi rồi chạy muốn đứt hơi mà khoảng cách vẫn y nguyên...

Thầy Hai Lý trợn mắt :

- Hai đứa bây giả ngộ với tao hay sao chứ, làm gì có chuyện như thế được.

Sửu đứng lên :

- Chính tụi con cũng không tin mà, tụi con lúc đầu đi vào không để ý, nhưng sao đi hoài vẫn không đến được cái ụ ghe, tức quá tụi con bèn chạy, nhưng sao kỳ quá, rồi tự nhiên lại thấy thầy Hai và thằng Lành, còn trước đó...

Tỵ cướp lời Sửu :

- Còn trước đó không thấy ai hết mà cái ụ ghe như thụt lui mỗi khi tụi con chạy tới , cứ như mình nằm mơ, nhưng đâu có, tụi con vẫn nói chuyện với nhau như thường mà...

Thầy Hai Lý chợt hỏi Sửu và Tỵ :

- Từ nảy giờ tụi bây có thấy ai từ trong nầy đi ra không?

Cả hai Sửu và Tỵ đều lắc đầu :

- Ngoài thầy Hai và thằng Lành đâu có ai đâu...

Như vậy Sửu và Tỵ đâu có thấy ông già Hiệp Ẫn, lúc ông đi ra đường, thầy Hai Lý đã hiểu và biết chắc việc nầy là do Hiệp Ẫn làm vì ông không muốn cho bất cứ ai vào ụ ghe, nên thầy đổi giọng:

- Hai đứa bây ra đây làm gì?

- Dạ Cậu Bảy...

Nhưng Thầy Hai Lý không để cho Tỵ nói hết câu vì thầy cũng đã thấy mọi người lục tục đi vào xưởng cưa bắt đầu cho một ngày làm việc :

- Thôi mình vừa đi vừa nói, đừng để cho mọi người chú ý...

Vừa đi được mấy bước Tỵ như sực nhớ ra :

- Thầy Hai, còn ông Tỗ Sư gia của anh Định đâu rồi, sao nảy giờ con không thấy?
Thầy Hai Lý cười, nửa đùa nửa thật :

- Tại hai đứa bây lo chạy hụt hơi, ổng đi ngang qua mặt mà tụi bây nhắm mắt nên làm sao thấy, ổng về rồi.

- Anh Định hay thiệt nha... Sửu reo lên.

Thầy Hai Lý nhìn Sửu:

- Thằng Định? nó hay gì đây?

- Khi Cậu Bảy bảo tụi con đi ra ụ ghe coi có giúp gì được không thì anh Định nói là, Tổ Sư gia đã không cho đi, thì đi cũng vô ích thôi, anh còn nói, anh cũng nóng ruột lắm, vì Tổ Sư chắc chắn sẽ không quay lại, thiệt đúng bon. Sửu chấm dứt câu nói bằng nụ cười thật hiền. Lành chợt quay sang Tỵ :

- Mình có tin gì của anh Sáu Mẹo chưa?

Sửu và Tỵ đồng thanh :

- Nãy giờ mệt quá quên nói cho mầy biết, bạn già của mầy thật phúc ba đời mới không theo Hà Bá kỳ nầy, vợ nó đang ngồi khóc trong nhà Cậu Bảy á, về lo cúng tạ tổ dùm bạn già đi em.

Thầy Hai Lý đang đi, nghe lời như vậy của Tỵ cũng phải quay lại :

- Mầy nói rỏ một chút được không, cái thằng nầy...

Tỵ gải tai :

- Thầy Hai với Tổ Sư cùng thằng Lành vừa rời khỏi nhà Cậu Bảy chút xíu thì vợ thằng Sáu Mẹo từ Cần Thơ lên báo là đêm hôm nó cùng mấy người bạn chèo xuồng qua Cồn Ổi nhậu... đến khuya mọi người say mèm nên đều ngủ lại, chỉ một mình thằng Sáu Mẹo tài lanh nhứt định đòi chèo xuồng về, ai cản cũng không được... Không biết nó chèo xuồng về như thế nào mà mấy ghe lưới gần Cầu Đúc thấy nó nổi trên mặt nước nên họ vớt lên, cũng may gần đội tuần giang nên họ dùng ca nô đưa nó vào bệnh viện cứu kịp... con chỉ nghe như thế chút nữa về đến nhà thầy cần gì thêm thì hỏi vợ nó...

Thầy Hai Lý thật vui trong lòng :

- Nó còn sống là may rồi, tao cần hỏi gì nữa chứ...

Lành nhìn thầy Hai Lý :

- Vậy có phải Tổ Sư gia đã cứu anh Sáu Mẹo không thầy Hai...

- Làm sao tao biết chứ, nhưng nếu mầy nghĩ như vậy thì như vậy đi...

Thầy Hai trả lời Lành mà bên tai thầy hình như vẫn còn văng vẳng lời ông già Hiệp Ẫn, lúc đổ hắt chun rượu ra ngoài sân "... tui hy vọng là mình không quá trể"... và cả bốn người họ, mỗi người theo đuổi một cảm nghĩ, nhưng tựu chung vẫn là nỗi vui mừng sau khi đã cất đi chiếc gánh nặng ám ảnh, theo từng sự hiểu biết của họ trong mấy ngày qua.

Thiên Hùng

#387 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 30/11/2011 - 11:20

Bùa Lỗ Ban

Phần Kết

Chú Ba Lành kể đến đây thì ngưng lại, bưng chun trà thơm còn bốc khói do Hấu vừa rót uống một ngụm, từ từ vấn thêm điếu thuốc rê mồi lửa rít một hơi, đôi mắt chú nhìn ra trước sân nhà thoáng một chút u buồn. Tôi không dằn được nữa buột miệng :

- Sự việc hai chú Sữu và Tỵ gặp đó có phải giống như tụi cháu gặp hồi chiều không chú Ba?

- Không sai, và cũng là chữ bùa đầu tiên mà Tổ Sư gia Hiệp Ẫn truyền thụ cho tao.

Dầu đã đoán được chú Ba Lành chính là người lực điền tên Lành trong câu chuyện nhà ông Bảy Thọ, nhưng tôi cũng hỏi lại theo một phản xạ tự nhiên :

- Vậy chú Ba chính là anh Lành trong câu chuyện...

Chú Ba Lành cười dễ dãi :

- Vậy chứ mầy nghĩ tao là ai đây?

Chiến chợt xen vào :

- Nhưng sao chú lại thứ ba, anh Lành chỉ có một mình mà...

Hấu thì cụ thể hơn :

- Còn lão Mười Tung gì đó kết cục ra sao hở chú Ba, rồi gia đình ông Bảy Thọ, anh Định và cô... cô..

Cô Tư Én tiếp ngay lời của Hấu :

- Cô Ba Hạnh như thế nào hở chú Ba...?

Chiến còn thêm một thắc mắc :

- Không lẽ Tổ sư gia Hiệp Ẫn lại dắt trên củ tỏi đến hai cây móc tai sao chú Ba?

Trước những câu hỏi dồn dập của chúng tôi, chú Ba Lành vẫn thản nhiên vì chắc chú biết thế nào chúng tôi cũng sẽ hỏi như vậy, nhưng vừa nghe thắc mắc của Chiến, chú Ba Lành cười lớn :

- Ai nói với mầy vậy... không ngờ mầy cũng có tánh tò mò như tao hén. Lúc đó tao cũng nghĩ như mầy bây giờ, nên vừa về đến nhà là tao đi ngay lại chổ bát nhang bàn thiên, cây móc tai đã không còn trong đó. Tao và thầy Hai Lý quá đổi ngạc nhiên vì chỉ thấy Tổ sư gia cắm nó vào đó chứ đâu thấy ổng lấy lại đâu, không biết sao nó lại trở về trên củ tỏi của ổng chứ. Sau nầy theo ổng tao mới biết, chiếc móc tai đó là lệnh phù để vẽ bùa sai khiến người ta làm việc, khi làm xong họ sẽ mang trả về chổ cũ, và lệnh phù nầy sẽ tùy theo đối tượng mình sai khiến mà xữ dụng một trong ngũ hành ...

Hấu buộc miệng :

- Ngũ hành là gì hở chú Ba?

- Là Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ... rồi thấy mặt chúng tôi như nghệch ra, chú Ba Lành biết nếu thêm nữa chắc không bao giờ kết thúc được câu chuyện nầy nên chú khoả lấp :

- Ối, mà tụi bây biết vậy được rồi, thêm nữa tao cũng chịu thua.

Sợ chú Ba Lành cụt hứng, Hấu bèn cười vả lả :

- Thôi chú Ba kể cho tụi cháu nghe khúc chót đi, lão Mười Tung như thế nào hở chú...?

Bập bập điếu thuốc rê cầm trên hai ngón tay cái và trỏ, chú Ba Lành nhìn theo làn khói thuốc tan từ từ trong bóng đêm :

- Gieo nhân nào phải gặt quả nấy thôi, tao nghĩ suốt đời tao không bao giờ tao quên được...Hôm đó mọi việc tại nhà ông Bảy Thọ coi như đã êm xuôi, thầy Hai Lý nhứt định từ giả để về mặc dù ông bà Bảy Thọ khẩn khoản mời thầy ở lại dùng cơm, vì cô Ba Hạnh đã bắt mấy con vịt làm thịt rồi... Nhưng thầy chưa bước ra được tới cửa thì đã nghe tiếng thằng Hoành, con của Mười Tung đang ơi ới gọi thầy ngoài cổng. Được đưa vào nhà, Hoành đã khóc nức nở mời thầy Hai đến nhà hắn ngay để cứu giùm ba hắn, mà theo lời hắn thì không biết ba hắn bị bịnh gì nữa... Thầy Hai Lý ngoắc tao theo thầy đi ngay đến nhà Mười Tung. Trong căn buồng gói lờ mờ dù bên ngoài đã hơi trưa trưa, Mười Tung đang nằm trên chiếc giường nhỏ, đôi mắt nhắm nghiền, mà theo lời Hoành, thì anh em hắn đã đở Mười Tung lên giường chứ lúc đầu thì Mười Tung nằm ở dưới đất ... bác Mười gái đang khóc nức nở bên cạnh ông ta.

Một cái trang thờ nho nhỏ đặt trên chiếc tủ gỏ đâu mặt với cái giường mà hai tấm màn đỏ che trước trang hình như đã bị cháy xém và còn phảng phất mùi dầu phọng. Tao theo thầy Hai Lý đến bên Mười Tung, trong lúc thầy Hai cúi xuống kéo tay áo Mười Tung lên để xem mạch, mọi người đều rú lên kinh hãi khi thấy lớp da trên cánh tay Mười Tung đã tuột đỏ hỏn như bị phỏng dầu sôi, nhưng bàn tay thì nắm chặc lại bình thường... thầy Hai mở những khuy áo Mười Tung ra thì thấy khắp người Mười Tung đều như vậy và mạch ông ta ngưng tự bao giờ. Mười Tung đã chết... bác Mười Tung gái khóc lóc kêu gào thảm thiết trong lúc anh em thằng Hoành thằng Đực Lỳ lại nghĩ chắc là cha của họ chết vì một bệnh truyền nhiểm gì đây, nên họ năn nĩ yêu cầu thầy Hai Lý giấu dùm đừng nói cho chòm xóm biết vì họ sợ chính quyền lại đưa xác Mười Tung đi giảo nghiệm... dĩ nhiên là thầy Hai Lý đồng ý ngay.

Trên đường về tao hỏi thầy Hai Lý :

"Thầy Hai nghĩ, có phải Mười Tung chết vì phản tác dụng của bùa Lỗ Ban không?"

Thầy Hai Lý không trả lời tao, mà hỏi lại:

"Hồi nảy mầy có thấy vật gì trong bàn tay nắm lại của Mười Tung không?"

"Ông ta nắm lại thì làm sao con biết chứ."

Thầy Hai Lý bước nhanh hơn :

"Một cái hình nhân đã cháy đen giống y như cái mà mầy đã bỏ vào chảo dầu và đem chôn đó."

Và thầy Hai nói luôn :

"Thôi tao về luôn nha, mầy cũng đừng bao giờ đem chuyện nầy nói cho ai nghe để tránh hận thù vô lối... và mai mốt nếu gặp Tổ sư gia Hiệp Ẫn, cho tao gởi lời thăm ông"...

Chú Ba Lành chợt thấp giọng nhìn tôi :

- Và hôm nay tụi bây là những người đầu tiên nghe tao kể về cái chết của Mười Tung.

Chiến buộc miệng :

- Vậy những anh con trai con của Mười Tung bây giờ như thế nào, chú Ba có biết không?

- Họ đi theo phía bên kia, khi cuộc chiến sôi động trở lại, và chắc không còn vì sau 75 không thấy họ trở về.

Cô Tư Én rụt rè nhắc lại :

- Còn cô Ba Hạnh thì sao hở chú Ba?

Chú Ba Lành không trả lời Tư Én mà lại mĩm cười nhìn Chiến :

- Hồi nãy mầy có hỏi tao, sao tao có một mình mà lại thứ ba chứ gì? hà hà...

Ba Lành lại bưng chun trà uống một ngụm :

- Không nói thì tụi bây cũng biết là cô Ba Hạnh đã thương anh Định đứt đuôi rồi, nhưng sau khi nghe Cậu Mợ Bảy ngỏ lời hỏi thăm về gia thế trong ý định chọn anh làm rể, anh Định đã thưa thiệt là khi theo Tổ sư gia Hiệp Ẫn học bùa, anh đã có hứa với ông không lập gia đình để thân thể trong sạch luyện những chữ bùa ở cấp cao... nhưng...

Cả bọn chúng tôi nhao nhao lên :

- Nhưng thế nào hở chú Ba...?

Chú Ba Lành vuốt râu cười :

- Tụi bây thiệt tình mà, từ từ chứ... nhưng Tổ sư gia có cho anh hai năm để quyết định, và thời hạn nầy khi xong chuyện Mười Tung thì còn hai tháng nữa là hết...

Tôi chợt nhớ ra :

- A, hèn chi Tổ sư gia hẹn chú Ba hai tháng sau sẽ gặp chú Ba tại Thất Sơn, sao trùng hợp quá vậy...

Chú Ba Lành nhìn tôi gật gù :

- Mầy nhớ cũng dai thiệt hén. Đúng, khi đó vừa nghe anh Định nói vậy tao liền cho anh biết là Tổ sư gia nói có duyên với tao và hẹn hai tháng sau đến Thất Sơn gặp Tổ sư gia...

Vừa nghe tao nói xong, anh Định đã ngăn ngay :

"Không được, chú không đi gặp Tổ sư gia được đâu"...

Mọi người đều ngạc nhiên trong lúc tao hỏi anh :

"Tại sao lại không được chứ, đó là do Tổ sư gia dặn mà, Tổ sư gia còn nói, anh làm như vậy mới xứng đáng là học trò của Tổ sư gia đó..."

Anh Định lắc đầu :

"Theo môn pháp Tổ sư gia chỉ được nhận duy nhứt 1 đệ tử mà thôi, nếu Tổ sư gia nhận chú cũng đồng nghĩa là Tổ sư gia đã đuổi tôi... nhưng chú còn trách nhiệm với gia tộc, sao lại không lập gia đình được chứ..."

Lúc đó tao ngẩn người ra :

"Cái gì mà không lập gia đình, chuyện đó ăn thua gì đến chuyện gặp Tổ sư gia ?"

Anh Định thở dài chậm rải :

"Chú Lành không biết đâu, bùa Lỗ Ban tùy theo tâm tánh của mình mà mình sẽ được truyền thụ chữ bùa ở cấp độ nào, Tổ sư gia Hiệp Ẫn không bao giờ truyền cho ai những chữ bùa tiếp cận với Quỷ, vì theo lời Tổ sư những chữ bùa nầy thường dùng để hại người mà thôi, mà nếu đã nhận những chữ bùa tiếp cận với Thần thì phải chấp nhận cuộc sống độc thân... Tôi cũng không hiểu sao lại như vậy vì Tổ sư gia không có giải thích, nên tôi không muốn chú..."

Lúc đó tao đã ngắt lời anh Định :

"Vậy anh thì sao?"

"Tôi là một cô nhi và tôi nghĩ suốt đời nầy chẳng ai thèm một người nghèo mạt như tôi nên..."

Anh Định chưa nói dứt câu thì có tiếng của Cô Ba Hạnh :

"Sao anh lại nghĩ như vậy chứ..."

Từ nảy giờ cô ngồi im trong góc nhà đôi mắt đỏ hoe khi nghe Định có ý như từ chối những lời ướm của cha mẹ cô, nhưng khi nghe Định giải bày lý do, cô không dằn lòng được nữa, mới lên tiếng, và sau đó lại cúi mặt nghẹn ngào khi bao cặp mắt đều nhìn về cô... Nhìn thấy cảnh tình như vậy, tao đã hiểu tại sao Tổ sư gia Hiệp Ẫn chọn tao rồi :

"Anh Định an tâm đi, tui nghĩ Tổ sư gia có lý của ổng... tui cũng là cô nhi như anh thôi, công lao nuôi dưởng của Cậu Mợ Bảy, tình thương yêu đùm bọc của chị Ba, hãy cho tui làm một việc gì đó để báo đáp, và biết đâu những gì xảy ra sau nầy lại tốt đẹp hơn những gì mình nghĩ hôm nay..."

Anh Định vẫn chưa xiêu lòng :

"Nhưng..."

Tao gạt ngang không cho anh nói nữa:

"Không nhưng gì nữa hết, à mà anh hứa dạy đờn cho tui đó, chừng nào bắt đầu đây..."

Anh Định ứa nước mắt bước tới nắm lấy tay tao:

"Tôi không biết nói gì để cảm tạ ơn chú, nếu chú không chê...

Anh quay sang quỳ xuống trước Cậu Mợ Bảy :

"Xin chú thím cho phép con nhận Lành làm em của mình và suốt đời nầy con nguyện có trời đất là thương em ấy như tình thâm huyết nhục."

Cậu Mợ Bảy cũng như tao thật bất ngờ, nhưng tao cảm động lắm... vậy tụi bây đã biết vì sao tao lại thứ Ba rồi chứ gì hì hì...

Cô Tư Én phụng phịu :

- Nhưng tới giờ chú Ba vẫn chưa nói cô Ba Hạnh sau nầy ra sao?

Chú Ba Lành cười cười :

- Thì họ làm đám cưới và sống rất hạnh phúc bên nhau chứ còn gì nữa mà hỏi.

Tôi buột miệng :

- Vậy những chữ bùa anh luyện thì sao?

- Sau nầy khi tao theo Tổ sư gia, ổng nói là ổng đã biết hai người có duyên nợ với nhau nên khi trả lại chiếc túi bùa hộ mạng của anh Hai Định lúc đến cứu ảnh, ổng đã giải căn hết cho ảnh rồi, nên anh có thể lập gia đình và không còn xữ dụng bùa được nữa...

Chú Ba Lành bổng đứng dậy bước đến chiếc tủ duy nhứt trong nhà lấy ra một chiếc hộp gổ mun lên nước đen bóng :

- Tao cho tụi bây coi cái nầy nè...

Mở chiếc hộp gổ, chú Ba đưa chúng tôi xem tấm ảnh màu chụp bán thân hai người trung niên, một nam một nữ. Chúng tôi cùng buột miệng kêu lên :

- Hình của anh Định và cô Ba Hạnh phải không chú Ba?

Chú Ba Lành gật đầu :

- Đúng vậy, tụi bây nhìn thấy họ có xứng đôi không?

Chúng tôi chưa có ai trả lời thì chú Ba Lành đã nói tiếp :

- Tấm hình nầy ảnh chỉ mới gởi về cho tao hơn tháng nay thôi...

Dù đã đoán biết gia đình của Định hiện đang ở Mỹ qua lời nói lúc đầu của chú Ba Lành, nhưng tôi cũng tò mò :

- Anh... í mà ông Định hiện đang ở Mỹ hở chú Ba, tiểu bang nào vậy?

Chiến cũng xen vào :

- Họ đi trước hay sau năm 75 vậy chú Ba?

Cô Tư Én cũng tiếp lời Chiến :

- Họ có con không vậy chú Ba?

Chú Ba Lành trước những câu hỏi của chúng tôi, chú cười hì hì, đặt chun trà vừa uống xuống ván, nhìn Hấu mà lúc nầy đang cầm tấm ảnh của Định và cô Ba Hạnh trên tay :

- Còn mầy, muốn hỏi gì thì hỏi luôn đi?

Rồi thấy khuôn mặt thộn ra của Hấu, chú Ba Lành vuốt vuốt chòm râu dưới càm :

- Tao biết chơi nhạc cổ truyền là do Cậu Bảy Thọ đã mở ngón (trong giới chơi cổ nhạc, người đầu tiên dạy cho mình đờn gọi là mở ngón...) cho tao, anh Hai Định chỉ dạy cho tao được 3 Nam 6 Bắc thì anh tình nguyện vào trường Vỏ Bị Đà Lạt, nên vốn liếng nhạc tài tử của tao phần lớn là học từ Tổ sư gia Hiệp Ẫn... hà hà... tụi bây ngạc nhiên lắm phải không... tao cũng không ngờ là mấy năm theo Tổ sư gia, tao luyện bùa thì ít chuyên tâm mà luyện đờn thì tao hăng lắm, thét rồi Tổ sư gia cũng chìu tao hà hà hà...

Giọng chú Ba Lành đột nhiên trầm xuống :

- Tổ sư gia không có gì mà không biết, tánh tình thật là hào sảng, tao nghĩ trên đời nầy không có người thứ hai như ông...

Tôi lại nổi tánh tò mò :

- Tổ sư gia bây giờ ở đâu chú Ba có biết không?

Chú Ba Lành cười mĩm :

- Nếu biết được ổng ở đâu thì còn nói gì nữa... rồi chú hắng giọng :

- Lần chót khi ổng cho tao về, ổng nói ổng sẽ đi qua Miên thăm bạn của ổng rồi sau đó có thể ổng sẽ qua Lào hay Thái Lan gì đó... Ổng nói đất nước sẽ có nhiều thay đổi... tao còn gặp được ổng không cũng tùy vào chữ duyên...

Chiến xen vào nhắc lại :

- Còn anh Định sao hở chú Ba...?

- Anh ấy sau nầy là Thiếu Tá Biệt Động trong quân đội ở đây, chiến công anh lừng lẫy, anh với cô Ba Hạnh có hai con 1 trai 1 gái... Sau khi mấy ông ngoài kia vào, gia đình đã mất tin tức của anh, gần 3 năm sau mới nhận được tin anh đang ở trong trại tỵ nạn bên Thái Lan chờ đi Mỹ... Cô Ba Hạnh cùng cậu Hai Long lúc nầy đã là bác sĩ đang làm việc trong bệnh viện Saigon liền thu xếp đem hết gia đình đi vượt biên bán chánh thức... và cuối cùng họ đã đoàn tụ lại bên Mỹ... họ ở chổ nầy nè, mầy biết không...?

Chú Ba Lành lại lấy trong chiếc hộp gổ ra một phong bì đưa trước mặt tôi tay chỉ vào góc đề tên người gởi... Tôi liếc qua thấy Trần Hữu Định..AVE.. NJ..USA.. nên cười :

- Họ ở cách cháu một bề dài của nước Mỹ đó chú Ba...

Và tôi nhìn chú Ba Lành :

- Sao lúc đó chú không cùng đi với cô Ba Hạnh?

- Tao qua bên đó làm gì, ai chơi đờn ca với tao... hì hì tao là người đầu trần chân đất, ngay cả Saigon tao cũng không ưa... nên tao bán căn phố trước chợ Tân Định mà Cậu Mợ Bảy trước khi đi đã cho tao, về ở đây thật ung dung nhàn hạ, còn muốn gì nữa chứ...

Chiến bỗng nhìn tôi nháy mắt và nó hỏi chú Ba Lành :

- Rồi chú Ba phải ở một mình như vậy hoài sao...?

Chú Ba Lành bật cười ha hả :

- Mầy thiệt tình mà, hổng để cho tao có một chút riêng tư nào sao... mầy muốn nghĩ như thế nào thì nghĩ đi...

Rồi chú nhìn tôi :

- Chữ duyên trong đời người thật hiếm, vì dễ mấy khi cùng sở thích ... cặp Lưu Thủy Bắc Oán Ai và Phú Lục Bắc Hạ Nam Oán là kỷ niệm trong đời đi chơi đờn ca tài tử của tao, tặng cho mầy coi như là duyên gặp mặt... Tao hy vọng lần sau mầy về gặp ngày giổ Tổ mình cùng nhau đi quậy mấy ông già trên nhà thờ Tổ hì hì...

Tư Én vừa cất lại mọi thứ vào trong chiếc hộp gổ cho chú Ba Lành vừa lên tiếng :

- Con có được đi không?

Chú Ba Lành trả lời cô, một câu mà không biết do chú cố ý lạc đề hay ám chỉ điều gì khi chú lại nhìn tôi :

- Phải coi mầy có chữ duyên không đây....

***

Chiếc Boeing 737 của hảng hàng không Cathay Pacific lướt nhanh trên phi đạo phi trường Tân Sơn Nhất trước khi lao vút vào khoảng không chói chang nắng gắt của Saigon. Nhìn ra khung cửa kiếng, mọi vật bên dưới đều nhỏ lại... vậy mà sao đôi mắt tự tin kiêu hảnh của người con gái "thất thập nhị huyền công" lại lớn dần lên trong cảm nghĩ của tôi. Trong số các bạn chơi đờn ca, ra phi trường tiển tôi hôm nay Tư Én đã nổi lên như một hiện tượng vô hình vừa được khám phá. Chiếc áo dài trắng bình dị, mái tóc cột đuôi gà cao cao... vậy mà sao tôi thấy mình cứ mãi nao nao, và tôi lại ước mình là Ô Hắc Lợi để được ai kia làm Phi Long dâng rượu tiển, để rồi tự mĩm cười khi chợt nhớ lời hứa không kịp suy nghĩ là giổ Tổ năm sau tôi sẽ về Việt Nam... Phi cơ đã bình phi, nhìn ra chỉ còn mây trắng, mọi việc rồi sẽ quay vòng như cũ khi cuộc sống nơi xứ người dù muốn dù không vẫn là một trùng lập khắt khe, nhưng trong tôi từ nay có thể những định kiến chủ quan về nền văn minh khoa học kỷ thuật không còn là duy nhứt nữa và có phải một thế giới siêu hình vẫn tồn tại đâu đây... với những gì tôi chứng kiến tại nhà chú Ba Lành. Tôi mở chiếc túi đeo vai, lấy bài nhạc Lưu Thủy Bắc Oán Ai mà cô Tư Én đã chép lại thật cẩn thận ra xem... nhìn nét bút nhẹ nhàng uyển chuyển ký âm những chữ hò, xự, xang, xê, cống... tự nhiên sao một nguồn hứng khởi cuồn cuộn trong tôi... và tôi muốn vẽ lại tấm gương anh thư hào kiệt của Nữ tướng Bùi Thị Xuân trước kẻ thù qua dòng nhạc hùng tráng bi ai giống như cuộc đời của người nghĩ ra nó : Chú Ba Lành.


Thiên Hùng


Sửa bởi hiendde: 30/11/2011 - 11:47


#388 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/12/2011 - 09:46

TIN ĐỒN MA BÁO OÁN

Đám cháy tại một xưởng may giữa làng Tân Dân, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng, đã cướp đi tính mạng của mười ba công nhân và khiến hai mươi mốt người khác tàn phế. Mộ những người chết đã xanh cỏ thế nhưng xóm làng vẫn chưa bình yên. Hiện trường vụ án ngày nào ai đi ngang qua cũng phải chạy thật nhanh như tránh xa tà ma. Hỏi ra mới biết hàng trăm ngày qua, người dân miền quê nghèo này đã sợ hãi sống cùng những tin đồn “ma báo oán” trong vụ cháy thảm khốc... Gần nửa năm kể từ ngày xảy ra vụ cháy kinh hoàng, không ai còn hồ nghi về nguyên nhân xảy ra đám cháy chính từ sự bất cẩn, thiếu tính toán của chủ xây dựng cũng như chủ xưởng may. Nhưng chỉ ít ngày sau xảy ra vụ cháy kinh hoàng đó, có một làn sóng ngầm dư luận địa phương, rồi lan tới cả những vùng giáp biên như Yên Bái, Lào Cai... ngầm hiểu, đồn thổi nhau nghe bí mật động trời rằng "mười ba nhân mạng trong vụ cháy là do một tay ma nước ngoài bắt để báo oán”.

Chuyện khởi nguồn từ việc anh Bùi Văn Luyện bốn mươi sáu tuổi, cha của cháu Bùi Thị Huyền, một nạn nhân trong vụ cháy, vốn ít học nhưng bỗng dưng nổi cơn bấn loạn, rồi nói tiếng nước ngoài thông vanh vách. Hàng trăm người chứng kiến những cơn điên “múa may quay cuồng” của anh Luyện thì “mắt tròn mắt dẹt” nhất quyết cho rằng “ma nước ngoài” sau khi “nổi lửa” nhưng vẫn không bắt được “hồn” con gái anh nên đã quay sang hành xác người cha. Theo chân một người địa phương dẫn tới nhà chị Phạm Thị Anh bốn mươi ba tuổi, vợ anh Luyện, chúng tôi muốn tìm hiểu rõ hơn sự tình qua lời của người trong cuộc. Trên con đường làng, thấy khách lạ lỉnh kỉnh máy ảnh, máy ghi âm, một vài người dân đã níu chúng tôi lại thì thào: "Con bé nhà ấy thiêng lắm, nó mất đi rồi nhưng vẫn hiện vong về báo mộng đấy, rồi bố nó tự dưng nói và viết tiếng nước ngoài cứ thông vanh vách làm cả làng chúng tôi được phen hú hồn, nếu không có thầy cao tay chắc khó sống rồi".

Tiếp chúng tôi, chị Anh gạt vội nước mắt chưa nguôi ngoai nỗi đau mất đi cô con gái có tiếng là chăm ngoan, học giỏi. Trong hồi ức, chị Anh nhớ lại: "Không hiểu “trời đất đun đẩy” thế nào, vừa đi thi đại học về nhà có mấy hôm thì con bé cứ đùng đùng đòi đi làm. Cả nhà ai cũng can ngăn nhưng con bé tính ương ngạnh không mảy may nghe ai. Tôi xót xa lắm, giờ nghĩ lại chuyện mỗi ngày con gái chỉ được trả công bón chục ngàn đồng mà phải mất mạng". Trong phút nghẹn ngào ấy, bỗng chị Anh hạ giọng thầm trách: "Đúng là tại số, mình có ngăn cũng không được. Tôi vẫn nhớ trưa ngày hôm đó, trong bữa cơm trưa, con bé cứ khắc khoải kể về đêm hôm trước nó gặp ác mộng, trong giấc mơ nó thấy cơn lốc xoáy đen kịt, gọi mãi không ai cứu mà chân thì không chạy được. Không ngờ đó là điềm báo trước cơn đại hạn với con bé mà tôi không biết. Ngẫm lại thì đã quá muộn rồi".

Kể đến đây, khuôn mặt chị Anh đang trầm buồn bỗng biến sắc, sởn da gà đầy vẻ kinh hãi, hai tay níu chặt vào nhau run lẩy bẩy bẩy. Chị Anh hồi tưởng: "Hôm đó đến ngày cúng tuần của con gái, tôi đang định sắm lễ xin cho cháu vào “ở chùa”. Mới định là vậy còn chưa nói với ai, thế mà ở đâu chị hàng xóm hớt hải đánh tiếng từ ngõ bước vào, mặt cắt không còn giọt máu, lắp bắp nói không ra hơi: "Con bé ốp vong về ở đền mẫu dưới chân chùa Nứa (hay còn gọi là chùa Linh Sơn, ngôi chùa tại địa phương) kia kìa, nó khóc lóc ghê lắm, nhắn bảo bố mẹ xuống đón nó về. Tôi như rụng rời chân tay, miệng cứ cứng lại lắp bắp nói không lên hơi, còn nước mắt cứ giàn giụa chảy. Nhớ lại lúc đó, đầu tôi trống rỗng, chỉ nghe tin vậy là cứ thế lao đi luôn chẳng biết thực hư thế nào".

"Hớt hải đến đến mẫu, sau khi thắp nén nhang cầu khẩn thì cô trông đền ngồi đối diện bỗng dưng cứ run bắn người rồi ngồi khóc thút thít. Tôi cũng ngờ ngợ hỏi “Có phải Huyền không con” thì cô ấy khóc càng lớn hơn. Rồi bỗng nhiên trong tiếng nấc, “con gái tôi” than rằng: "Con chết oan bố mẹ ơi, ai bảo người ta làm nhà vệ sinh ngay trên mộ ông ấy làm gì", rồi lại cứ thế khóc. Con bé kể cho tôi là nó bị người bắt nên trốn vào đấy. Giờ thì bố mẹ lên đón nó về nhà, bằng không ở đây sớm muộn cũng bị bắt lại. Hai mẹ con tôi nói chuyện được một lúc thì bỗng dưng người cô trông đền ấy giật đùng đùng rồi lịm đi. Sau đó, tôi sắm lễ xin cho con vào ở chùa”, chị Anh thuật lại. Câu chuyện “hồn con gái” chị Anh về ốp vong thì chẳng mấy người tin, vì chuyện “gọi vong” thì người ta đã gặp nhiều và đa phần đều bị đánh giá là nhảm nhí. Chị Anh cũng bán tín bán nghi, cũng tận tụy lễ lạt xong xuôi để an ủi phần tín ngưỡng tâm linh, cũng là mong cho mình sẽ thanh thản hơn. Vậy nhưng một lần nữa, tai họa ở đâu lại đùng đùng kéo đến nhà chị khi anh chồng bỗng dưng phát điên.

Anh chồng chị vốn chẳng biết nhiều chữ nghĩa, từ nhỏ chỉ biết làm ruộng, lớn lên thì có người nhà xin đi cho làm một chân trên tàu hỏa, vì bằng cấp không cao nên cũng chỉ được làm ở đội phục vụ khách và tuyệt nhiên chẳng biết ngoại ngữ gì. Sau khi con gái mất, anh xin nghỉ phép về nhà một tháng. “Thế nhưng từ lúc làm lễ cho con bé vào chùa ở thì ông chồng tôi cứ thế mắt mũi trợn ngược, chân tay múa may quay cuồng bấn loạn không thể kiểm soát, miệng thì lảm nhảm như lên đồng. Suốt mấy ngày liền ông ấy cứ như vậy, miệng lảm nhảm nói, còn tay thì viết vô số văn tự chữ nho cổ hay chữ loằng nhoằng gì đó mà đến các cụ cao niên trong làng cũng chịu chết", chị Anh kể tiếp. Việc kỳ thực này đã làm xôn xao cả miền quê vốn yên bình, vì anh Luyện vốn ít học, nay lại đột nhiên “thông minh đột xuất” biết nói và viết chữ nước ngoài, ai cũng thấy làm lạ nên hàng xóm kéo nhau đến xem kín như bưng. Trong mỗi lần bấn loạn như thế, anh Luyện đều tự xưng là "cụ tổ" của dòng họ “nhập vong để cứu con cháu” nên anh cứ hô hoán gì, chị vợ và mọi người trong họ đều phải răm rắp cung phụng.

"Cụ" cứ ngồi chễm chệ giữa nhà bắt con cháu đi mua hình nhân, vàng mã đầy ắp cả một xe ô tô, cái nào cái nấy là đều đỏ lòe đỏ loẹt, rồi đốt cùng cả chồng văn tự bằng chữ nho đem rắc quanh nhà... Đã vậy, "cụ" còn chanh chua mắng mỏ con cháu đủ điều, lúc thì tiếng ta, lúc tiếng nước ngoài nên tất cả đều sợ hết vía, “mặt xanh nhanh vàng” không ai dám hé nửa lời “bật” lại mà chỉ biết khúm núm dạ vâng. Đặc biệt, “cụ” luôn mồm mắng: “Chúng mày ngu dốt, sao lại dám tiểu tiện trên đầu người ta”. Liên tiếp những tai ương xảy ra đến nhà chị Anh khiến người ta thất kinh, dù anh chị chỉ vì thương nhớ con gái quá nên phát rồ phát dại như thế nhưng người mê tín thì lại đoán mò rằng đã có chuyện “ma nhập”. Lần giở sử làng, các cụ cao niên mới giật mình nhớ ra chuyện đúng vị trí xưởng may bị cháy có lịch sử thăng trầm. Từ thời cách đây cả gần thế kỷ, khu vực đó là nơi dân cư sầm uất, trong đó có cả người nước ngoài, chuyên làm các mặt hàng liên quan đến dệt may nên còn được gọi là khu “Thảm Len”.

Một đợt dịch bệnh hiểm nghèo đã khiến hàng loạt người chết ở đó. Khu dân cư này bị xóa sổ và những người chết được tập trung an táng ngay trên nền khu đất họ vốn ở. Hơn nửa thế kỷ sau, xưởng may này là một trong những ngôi nhà đầu tiên được dựng lên tại đây. Những nhân chứng trong làng khẳng định khi đào móng xây nhà, chủ nhà đã đào trúng hàng chục bộ hài cốt và đã mang lên bờ nhưng không hương khói “tạ tội” mà dấm dúi mang đi chỗ khác vùi tạm. Các nhân chứng cũng cho biết dưới khu đất này còn rất nhiều tiểu quách khác. “Vậy thì đúng là “phạm tội” với người chết nên bị “báo oán” rồi”, người độc miệng khẳng định như vậy và tin đồn này lan nhanh như vết dầu loang.


Pháp luật Thời đại




#389 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/12/2011 - 23:36

ĐÊM TRỪ TỊCH

Tôi còn nhớ như in những luồng gió thoảng qua cái giường tôi đang nằm. Đã mấy đêm rồi tôi không ngủ. Sát ngoài cửa sổ, ngôi mộ đá lâu đời nằm chắn ngang tầm nhìn cuả tôi. Ngôi mộ này chắc đã được xây tối thiểu cũng vài chục năm. Bia mộ không còn nữa và những miếng đá ong trên mộ đã bị sứt mẻ nhiều.

Những đêm không ngủ làm tôi gầy hẳn. Đêm nay tôi nằm không động đậy, và như những đêm trước, mắt cứ chằm chằm nhìn ngôi mộ như linh cảm và đợi chờ một điều gì sắp xẩy ra. Trời cuối đông hơi lạnh và những cơn gió nhẹ thổi về từ chân núi Bà Đen làm lao xao những cành tre già trong khu vườn, được trồng sát ngôi mộ. Tôi nghe như những tiếng than oán trách của hàng chục âm hồn.

Không biết có phải tại gió từ vườn thổi qua cửa sổ hay không, nhưng mấy cánh mùng cứ bị thổi nhẹ, lay động hết bên này lại qua bên kia. Người tôi như bị bóng đè. Tôi cảm thấy có một tảng đá thật to đang đè lên lồng ngực. Lúc này tôi tỉnh lắm nhưng không động đậy được. Tôi thấy ngộp thở, muốn la lên cầu cứu nhưng chỉ ú ớ trong cuống họng. Tôi biết là nếu không tỉnh lại được thì chắc cũng chết luôn. Tuy vậy, mắt tôi vẫn còn nhìn thấy mấy cánh mùng đang di chuyển, lúc này mạnh và dễ sợ hơn vì gió đang lùa vào lúc này lạnh buốt xương.

Giữa lúc nằm yên chịu trận, đầu óc tôi lại bị lôi về cái ngôi mộ đá ngoài cửa sổ chỉ cách tôi chừng năm thước. Tôi thấy một bóng người to lớn bay lại phía tôi, mặc toàn đồ trắng. Tôi còn nhớ như in cái con mắt thất thần nhìn tôi đăm đăm.

Tôi cố vùng vẫy, nhưng tảng đá to lớn vẫn đè lên ngực, và cái bóng trắng toát vẫn bay chung quanh. Hai cánh tay bóng trắng đang dang ra, phủ kín mặt tôi. Tôi tuyệt vọng và sẵn sàng chịu chết. Tự nhiên tôi thấy toàn thân bắt đầu lạnh cóng, và trong bóng đêm tôi thấy trong đầu mình những hình ảnh chập chờn của rất nhiều bóng trắng, và cũng thấy mình trở thành một bóng trắng, thoát khỏi thân xác, cùng bay lượn với nhau trong bầu trời đen kịt. Không hiểu sao, tôi biết rằng tôi đã chết, và tự nhiên cảm thấy mình không còn chống chọi vùng vẫy nữa. Tôi thấy cơn sợ hãi đã chìm sâu và lại thấy cô đơn vô cùng trong một thế giới khác lạ lùng. Tôi còn tiếc rằng đã không còn dịp gặp người thân, nhưng trong cái lặng lẽ và im lặng của thế giới âm tôi như không còn biết mình là ai nữa.

Trong cơn mê âm hồn đó tôi thấy một vị chức sắc già đang đi vào căn phòng tôi nằm. Trên tay cụ già này là hai cây nến cụ đang sửa soạn gắn lên cái bàn thờ trên có sẵn hoa quả để đem ra cúng ngoài sân. Tôi mừng vì ông cụ Bẩy Nhàn này thỉnh thoảng vì không ngủ được, vẫn vào bàn thờ thắp nhang đèn cho bớt lạnh lẽo.

Ánh sáng chập chờn cuả ngọn nến khiến tôi vùng vẫy mạnh hơn, và chỉ trong chốc lát, tay tôi cử động được. Tôi ráng xoay mình, ú ớ gọi thật to tên người chức sắc này nhưng sao không thấy đạo hữu Bẩy Nhàn này trả lời hay nhìn về phía tôi. Tự nhiên tôi rùng mình và ớn lạnh khắp người. Tại sao tôi gọi to như vậy mà người chức sắc này vẫn không nghe được tiếng của tôi. Tôi đã chết rồi sao?

Đêm nay là đêm trừ tịch. Mai là mồng một tết. Chắc mọi người sẽ khóc tôi ngày mai.

Đêm càng khuya, sương lùa qua cánh cửa sổ mở hé vào căn nhà vách đất lạnh ngắt. Tôi thiếp đi và hình như đạo hữu Bẩy Nhàn có đến bên, vén màn, nhìn tôi chằm chằm rồi bỏ đi. Tôi ú ớ gọi tên Bẩy Nhàn mấy lần nữa nhưng vô vọng, ông cụ lại lặng lẽ quay đi.

Tôi lại thấy mình bay bổng trong màn đêm đen như mực, không còn cảm giác lạnh lẽo nữa.

Tự nhiên hình như có tiếng khóc và tiếng tụng kinh thoang thoảng đâu đây. Và hình như có ai đang gọi tên tôi, lay tôi dậy trong cơn mộng này.

- Chú Tư! Chú Tư! Thức đi. Đạo hữu Bẩy Nhàn chết rồi.

Tôi chưa tỉnh được, ú ớ trong cuống họng.

- Chú Tư! Đạo hữu Bẩy Nhàn chết trên giường hồi nào không ai biết, chắc từ tối qua, thân thể lạnh ngắt rồi. Người ta đang tụng kinh bên giường, chú qua phụ một tay.

Tôi nhìn ra ngoài, ngôi mộ đá vẫn nằm in lìm trong màn đêm tối mờ mờ sương phủ. Một ngọn gió lạnh thổi mạnh vào căn phòng. Tôi rùng mình co rút người lại, phủ cả tấm chăn lên đầu, tai vẫn còn nghe tiếng guốc lẹp kẹp nhỏ dần nhỏ dần...


TSL


#390 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 11/12/2011 - 22:44

CÓ MA HAY KHÔNG ?

Ý nghĩa và Quan niệm về Ma trong Phật giáo

Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?... Đấy là những thắc mắc có thể ám ảnh ít nhiều mỗi người trong chúng ta. Thật thế, đấy chẳng qua vì có người chưa hề "gặp ma" bao giờ, nên tò mò cũng muốn biết xem ma ra thế nào, hoặc có người đã từng "thấy ma" nên vẫn còn bị ma ám ảnh và muốn biết xem cái thấy của mình, hay là cái con ma mà mình trông thấy có thật hay không. Vậy ta hãy xem quan điểm của Phật giáo về ma như thế nào.

Định nghĩa về Ma trong kinh sách

Chữ Ma do chữ Phạn Mâra mà ra. Tiếng Tây tạng là bDud, người Nhật gọi là Ma hay Hajun, tiếng Hán là Mo hay Mó. Người Trung quốc thường gọi là Ma la, có lẽ cũng do tiếng Phạn Mâra mà ra, thế nhưng vì ngôn ngữ Trung Quốc không có vần r nên chữ Mâra được âm thành Ma la (?). Kể dài dòng ra như thế để thấy rằng không phải chỉ có người Việt Nam ta mới "thấy" ma.

Kinh sách định nghĩa chữ Ma (Mâra) là "quỷ sứ cám dỗ", một thứ "quỷ tinh ranh" tượng trưng cho những xu hướng tâm thần bấn loạn và lầm lẫn, cản trở con đường tu tập của một hành giả. Phổ diệu Kinh (Latitavistara), là bộ kinh kể lại cuộc đời của Đức Phật, cho biết ma đã từng dùng mọi xảo thuật ma quái để quấy nhiễu và cản trở không cho Vị Phật tương lai là Đức Thích Ca Mâu Ni đạt được Giác Ngộ. Trong đêm trước khi Ngài thành Phật, ba con ma nữ đến quyến rũ Ngài, và cả một đoàn ma quân kéo đến để ném đá như mưa vào Ngài. Tên cầm đầu đòi Ngài phải nhường ngai lại cho hắn, vì hắn nhất định bảo rằng không có gì chứng thực Ngài đã đạt được Giác ngộ. Đức Phật liền dùng tay phải chạm xuống mặt đất, mặt đất liền bị chấn động và rung chuyển ầm ầm, chứng minh cho sự Giác Ngộ đích thật của Ngài. Cả đoàn ma liền biến mất như bị phù phép vậy.

Như vừa kể trên đây, nếu có ma quân…thì cũng phải có tên cầm đầu tức là Ma Vương. Ma Vương cũng là cách dịch khác của chữ Mâra. Ma Vương là Vua của các loài Thiên ma, ngụ ở cảnh trời gọi là Tha hoá Tự tại Thiên (Paranirmitavasavartin), tức là cảnh trời thứ sáu trong cõi Dục Giới, một cảnh giới thấp nhất trong Tam Giới. Ma Vương có phép thần thông, chuyên dùng ma thuật để phá rối, ngăn cản sự tu tập của những vị Bồ tát. Ma Vương còn có tên là Ma vương Ba tuần, tức là tên của Tha hoá Tự tại Thiên Vương.

Vậy theo kinh sách, có bao nhiêu thứ ma tất cả ? Thật ra thì ma nhiều lắm, nhưng tựu trung được kinh sách phân loại thành bốn thứ gọi là Tứ ma. Vì có vài khác biệt giữa Thừa Kinh điển (Sutrayana) và Thừa Kim Cương (Vajrayana) trong cách định nghĩa về bốn loại ma, do đó nếu đem cộng lại cả bốn thứ ma của cả hai thừa thì sẽ có đến tám thứ ma hay Bát ma.

Tứ Ma của Thừa Kinh điển là:

1. Ma cấu hợp (Skandhamara) : đó là thứ ma quái tượng trưng bởi ngũ uẩn làm cơ sở cho khổ đau và cái chết mà ta phải gánh chịu trong cõi luân hồi. Con ma đó gọi là "con ma gánh chịu cái chết", kinh sách tiếng Hán gọi là Ấm ma, Uẩn ma, hay Ngũ chúng ma.

2. Ma dục vọng (Klesamara) : bao gồm các dục vọng, sự ham muốn, thèm khát, xui khiến ta phạm vào những hành động tiêu cực, tạo ra nghiệp xấu, thu ngắn kiếp nhân sinh, đưa ta vào vòng khổ đau của cõi luân hồi. Đó là "con ma đưa đến cái chết", kinh sách gốc Hán gọi là Phiền não ma.

3. Ma thần chết (Mrtyumara) : đó là sự hủy hoại, cứu cánh tất nhiên của sự sinh, hậu quả của bản chất cấu hợp của mọi hiện tượng, tức đấy là quy luật vô thường. Con ma này có tên là "con ma vô thường", kinh sách gốc Hán gọi là Tử ma.

4. Ma con trời (Devaputramara) : bao gồm những thứ ma làm cho ta đãng trí, phân tâm, xúi dục ta bám víu vào ảo giác của những vật thể bên ngoài và cả trong tâm thức, cản trở sự tu học. Đó là "con ma bấn loạn", kinh sách gốc Hán gọi là Tha hoá Tự tại Thiên tử ma, gọi tắt là Thiên ma, tức thần thánh tay sai của Thiên hóa Tự tại Vương.

Tứ ma của Thừa Kim Cương là:

1. Ma xiềng xích (tiếng Tây Tạng : thogs bcas kyi bdud) : con ma này rất hung tợn và lộ liễu, gây ra phiền não, bệnh tật và các chướng ngại bên ngoài. Đây là con ma của sự bám víu và ghét bỏ đối với những vật thể và hiện tượng chung quanh. Con ma này luôn tìm cách trói buộc ta vào những thứ ấy. Kinh sách gốc Hán gọi con ma xiềng xích là Phiền não ma.

2. Ma thả lỏng (tiếng Tây tạng : thogs med kyi bdud) : đó là ba thứ nọc độc chính và năm thứ nọc độc phụ, tức là những dục vọng chính yếu và thứ yếu, những tư tưởng hay tư duy bấn loạn chưa được khắc phục, xâm chiếm tâm thức và gây ra khổ đau cho ta. Kinh sách gốc Hán gọi con ma này là Tâm ma.

3. Ma khánh hỷ (tiếng Tây tạng : dga’ brod kyi bdud) : đó là con ma đội lốt hân hoan, vui thích, thỏa mãn với chính mình, xem ta hơn cả mọi người, xúi dục ta bám víu vào những "kết quả" và "kinh nghiệm" thiền định đã thực hiện được và cho đấy là cao siêu, rồi trở nên hãnh diện, không chịu cố gắng tu tập thêm. Kinh sách gốc Hán gọi con ma này là Thiện căn ma.

4. Ma kiêu căng (tiếng Tây tạng : snyems byed kyi bdud) : đó là con ma ngạo mạn, tự mãn, tự kiêu, tự đại. Đấy là bản chất căn bản của con ma mang tên là cái "ta", cái "tôi", cái "ngã". Kinh sách gốc Hán gọi con mà này là Tam muội ma.

Ngoài ra người ta còn thấy kinh Hoa nghiêm sớ sao phân chia ma ra làm mười thứ gọi là Thập ma, trong số mười loại ma này thì nhiều thứ đã được liệt kê trên đây, tuy nhiên cũng xin kể ra đầy đủ như sau:

1. Uẩn ma
2. Phiền não ma
3. Nghiệp ma : tức các nghiệp tiêu cực ngăn trở việc tu tập.
4. Tâm ma
5. Tử ma
6. Thiên ma
7. Thiện căn ma
8. Tam muội ma
9. Thiện trí thức ma : tức là những kẻ thông hiểu được đạo lý, nhưng vì ích kỷ tham tiếc đạo lý ấy mà giữ riêng cho mình, chẳng chỉ dạy cho kẻ khác. Những kẻ như thế cũng bị xem là một loại ma.
10. Bồ đề Pháp trí ma : là những kẻ tuy đã phát lộ được trí tuệ, nhưng vẫn còn chấp trước không quán thấy được chính đạo.

Đã nói đến danh từ và định nghĩa thì cũng mạn phép kể ra thêm:

Ma cảnh : khung cảnh do ma quái tạo ra để phỉnh gạt và ngăn trở người tu hành.

Ma chướng : những chướng ngại, ngăn chận việc tu hành và sự thăng tiến của trí tuệ.

Ma duyên : còn gọi là ác duyên, tức là các cơ duyên xui khiến đưa đến nghịch cảnh, bất lợi hay độc hại.

Ma đàn : là sự bố thí của ma, không phải là của người. Đó là sự bố thí của những kẻ mang lòng tà, lòng tham, cầu danh, cầu lợi mà bố thí, sợ oai lực của ma quỷ mà bố thí, muốn tránh tai nạn mà bố thí. Loại ma này nhan nhản chung quanh ta, rất dễ trông thấy, không cần đến "kính chiếu yêu". Chữ Ma đàn nghịch nghĩa với chữ Phật đàn, Phật đàn là bố thí mà không biết là mình đã bố thí, không biết mình bố thí cái gì và bố thí cho ai, bố thí chỉ vì lòng từ bi vô biên mà thôi. Bố thí như thế còn gọi là Bố thí Ba la mật.

Ma đạo : đường đi của ma, chốn lui tới của ma, còn gọi là ma giới, tức cảnh giới của ma.

Ma lực : sức mạnh tiêu cực, kích động và xui khiến phạm vào những hành vị xấu hay hung ác.

Ma ngoại : là những kẻ phỉ báng, chê bai Đạo pháp.

Ma Phạm : (Mâra hay Brâma) tức là Ma Vương ở cõi Phạm Vương, gọi tắt là Ma Phạm. Chữ Ma Vương đã được giải thích trên đây, đó là Thiên hoá Tự tại Vương, còn Ma Phạm hay Phạm Vương hay Phạm Thiên Vương (Mahabrahma) là vị Chúa Tể của cõi Ta bà, quyền lực của Ma Phạm hay Phạm Thiên Vương, chiếm vị thế cao nhất trong tam giới gồm dục giới, sắc giới và cả vô sắc giới, tức cai quản và điều hành cả thế giới này. Kinh điển gốc Hán gọi "Ngài" là Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Ma thiền : phép thiền định tà mị, sai lầm, liên hệ với ma quỷ, đi ngược với chánh đạo.

Ma thuật : nói chung là những hành vi mê tín, dị đoan, phản khoa học.

Ma sự : ý nghĩa của chữ này khá bao quát và rắc rối, nói chung thì đấy là những sự việc, những hành vi sai lầm, ngăn cản sự tu học trên đường chánh Pháp. Những người thực thi ma sự có thể xem như những con ma chạy theo lục trần : yêu sắc đẹp, thích tiếng êm tai, ưa thích mùi thơm, miếng ngon, thích đụng chạm và sờ mó những gì ưa thích, ước mong những cảnh huống tiện nghi sang trọng. Ma sự cũng là những thứ cám dỗ kích động người tu hành phá giới, chạy theo danh lợi, sắc dục. Ma sự cũng có thể dùng để chỉ người ngồi thiền u mê và ngủ gục, hoặc trụ vào những cảnh hiện ra khi thiền, hoặc cảm thấy bấn loạn trong tâm thức, thấy cảnh dữ mà bỏ thiền... Ma sự cũng dùng để ám chỉ những người đã xuất gia tu hành nhưng còn ham thích luận bàn thế sự, chiến tranh, tình yêu nam nữ, hoặc xu nịnh bọn cư sĩ và bá tánh lui tới chùa có nhiều của cải, cúng dường nhiều, hoặc vướng vào phép bói toán, đoán số mệnh, ếm ma, trừ quỷ…

Vậy Ma thực sự là gì ?

Ma hay Mâra là một biểu tượng trong Phật giáo và cả trong Ấn Độ giáo, dùng để chỉ một vị trời hay vị thần linh đứng vào hàng đầu, cao siêu và mạnh hơn hết, giống như định nghĩa của chữ Ma Phạm trên đây. Tên của ma có nghĩa là thần chết. Ma là chúa tể của mọi dục vọng, thèm khát, ham muốn, mọi thứ khoái lạc do thân xác. Đó là chủ nhân ông của thế giới vật chất và mọi hiện tượng. Trọng trách và bổn phận của vị chủ nhân ông này là phải điều khiển và canh chừng sự vận hành của thế giới đang diễn biến chung quanh ta.

Ma không những tượng trưng cho những biểu hiện của dục vọng như vừa kể mà còn tượng trưng cho những thèm khát, những xung năng tiềm ẩn thật sâu kín bên trong tâm thức ta. Do đó ma nằm trong da thịt ta, trong tâm thức ta, tức trong sự vận hành chung của ngũ uẩn. Tuy con ma ẩn nấp trong ngũ uẩn của ta rất tinh ranh thế nhưng nếu ta thật chú tâm thì đôi khi cũng có thể trông thấy nó được hay bất chợt chạm trán với nó. Thí dụ vì nóng giận, vì một phút thiếu suy nghĩ, vì thèm muốn khích động quá độ mà ta phạm vào một hành động thật đáng trách, sau đó thì hối hận và ta tự nghĩ rằng không ngờ mình lại có thể phạm vào một hành động tồi tệ đến như thế. Ta có cảm giác hình như "ma quỷ xúi khiến" ta phạm vào việc ấy chứ thật ra ta nào có tồi tệ đến thế. Như thế là ta đã thấy ma rồi đấy, sự hối hận là một trong các cách giúp mình trông thấy con ma đang ẩn nấp trong thân xác và tâm thức của chính mình.

Ma còn mang một cái tên nữa mà kinh sách ít nói đến, đó là con ma Ái dục (kâma, xin đừng lầm lộn với karma), đó là sự yêu mến, lòng yêu thương, nôm na là con ma tình yêu. Ái dục hay con ma tình yêu là một thứ bản năng, tinh anh của sự sống, luôn luôn "canh chừng" và "chăm lo" cho ta rất cẩn thận. Con ma này hiển hiện một cách tuyệt vời, thật đẹp, hoặc thật thanh tú, nó làm phát sinh ra mọi hình tướng, màu sắc và âm thanh đủ loại. Con ma đó hiến dâng cho ta những ảo giác biến động như vừa kể do chính nó tạo ra, mang lại mọi thứ lạc thú và mọi cảnh giới tuyệt đẹp thuộc vào thế giới luân hồi, và tạo ra mọi thứ hạnh phúc của thế tục.

Vấn đề rắc rối và gay go là con ma tình yêu không bao giờ chú ý đến hậu quả của những thứ do nó tạo ra. Nó rất hào phóng, cho không tiếc tay, "tham" bao nhiêu nó cũng cho, "yêu" bao nhiêu nó cũng khuyến khích thêm, "bám víu" bao nhiêu nó cũng sẵn sàng tiếp tay. Thế nhưng hậu quả của những ảo giác ấy mà nó đem tặng cho ta thật ra chỉ là khổ đau mà thôi : "lạc thú", "hạnh phúc lứa đôi", "sinh ra thêm một đám khổ đau", hay đấy chỉ là mưu mô, lường gạt, tự ái, thất tình, tự tử, đâm chém… Những khổ đau ấy ma không cần biết. Ma cho ta lạc thú, nhưng đồng thời cũng tập cho ta thèm khát lạc thú. Điều này có nghĩa là ngũ uẩn quen dần với lạc thú, lệ thuộc vào lạc thú và bị kích động bởi lạc thú, hậu quả rất phức tạp và đa dạng kể ra không hết được. Ma vừa là kẻ sáng tạo và đồng thời cũng vừa là kẻ phá hoại là như thế đó.

Tóm lại khi nhìn ma qua các khía cạnh như liệt kê trên đây, thì ta sẽ hiểu ngay là ma ngự trị ở đâu: trong đầu của chúng ta. Nó nằm sẵn trong tâm thức ta, trong da thịt ta, trong sự vận hành của thân xác và tâm trí ta. Nói cách khác là ma không phải là một thực thể bên ngoài, có nghĩa là không có ta thì cũng không có ma, cái "ta" càng mạnh và càng phức tạp thì "ma" cũng càng đông và càng hung dữ. Ma quân hay những đạo binh ma chính là sự thèm khát, thất vọng, buồn bực, đói khát, bám víu, tham lam, lười biếng, đờ đẫn, sợ hãi, nghi ngờ, hận thù, tiện nghi, kiêu căng, tự phụ, yêu thương một cách ích kỷ, tự mãn với cái "tôi" của chính mình v.v. và v.v... Nếu cứ tiếp tục suy luận theo chiều hướng đó thì ta sẽ thấy ma còn đông đảo và đa dạng hơn nhiều so với những gì do kinh sách liệt kê, chúng hiển hiện cùng khắp trong thế giới luân hồi này.

Tuy nhiên người đọc biết đâu cũng có thể lấy làm lạ là phần trình bày trên đây dựa vào kinh sách đã mô tả và liệt kê ra đủ mọi thứ ma, thế nhưng vẫn không thấy đề cập gì đến các loại ma có thể làm cho ta dựng tóc gáy, hét lên và phóng chạy, hoặc làm cho người ngủ mê kêu ú ớ, tay chân lạnh ngắt và toát mồ hôi đầm đìa. Vậy ta cứ thử lấy thêm một chút can đảm nữa để tìm hiểu loại ma này xem sao.

Một thí dụ cụ thể về Ma

Để tránh cách trình bày tổng quát, siêu hình và ẩn dụ như trên đây, ta thử đưa ra một vài thí dụ cụ thể và đơn giản hơn vể những con ma thường hiện ra để dọa nạt những con người bình dị như chúng ta đây, kể cả trẻ con cho đến người lớn. Chẳng hạn khi ta bước vào một gian phòng tối, ta thấy trong một góc phòng có một con ma, tóc xõa, mặt xanh mét, đang nhe răng trợn mắt… và cười với ta một cách thật rùng rợn.

Nếu ta bình thản, từ tốn, không khiếp sợ, tiến thẳng đến con ma, thì ta sẽ không thấy nó khi ta đến gần. Vì thật ra đấy chỉ là những ảo giác do ta tạo ra trong đầu và do bóng tối mờ ảo nuôi thêm trí tưởng tượng của ta. Nếu như ta vẫn "không dám" tiến đến gần "nó" thì ta cứ bật đèn lên, thì con ma cũng sẽ biến mất. Ngược lại, nếu ta hét lên một tiếng, "vắt giò lên cổ" mà phóng chạy, thì nhất định con ma sẽ đuổi theo, và nhất định là ta sẽ không thể nào chạy nhanh hơn nó được, vì chính ta cõng nó mà chạy. Nó ở trong đầu ta, trong thân xác đang "nổi da gà" của ta.

Tệ hơn nữa, có thể sau đó ta lại đem chuyện "thấy ma" ấy mà vừa thở hổn hển, vừa kể lại với đầy đủ chi tiết cho một người khác nghe. Đấy là cách mà ta giới thiệu con ma mà ta trông thấy cho một người thứ hai, có thể người này cũng hơi sợ thế nhưng vẫn cứ đón rước nó với sự thích thú và đem cất nó vào trong đầu mình, sau đó lại đem nó ra để kể cho người thứ ba nghe, người thứ ba lại kể cho người thứ tư. Cứ mỗi lần chuyển sang đầu một người khác thì con ma lại trở nên hung tợn hơn và khiếp đảm hơn một chút, mắt nó trợn to hơn, răng nó dài hơn, và nó cười rùng rợn hơn. Biết đâu sau một vòng chu du hết người này sang người khác thì con ma ấy lại được người nghe sau cùng thuật lại cho chính ta nghe, và có thể là ta sẽ còn sợ con ma đó hơn cả con ma mà chính ta đã từng trông thấy tận mắt trước đây.

Đức Phật có đưa ra một thí dụ dễ hiểu. Khi bước ngang ngưỡng cửa lúc nhá nhem tối, ta thấy một con rắn. Ta hoảng hốt và giật lùi lại. Thế nhưng khi nhìn kỹ lại thì đấy chỉ là một cuộn dây thừng. Con rắn ở trong đầu ta, con ma cũng ở trong đầu ta là như vậy. Vì thế nếu trông thấy có con ma trong góc phòng thì nên bật đèn lên hay tiến đến gần "nó" để xem thực hư ra sao mà không nên thét lên một tiếng rồi cõng nó mà chạy.

Khi ta ngủ mê, đôi khi ta "thấy ma", ta hét lên hoặc la ú ớ… Giật mình thức giấc, ta không thấy con ma nào cả. Khi ngủ, ta nhắm mắt, nằm trên giường và trong gian phòng tối om, làm gì ta có thế dùng mắt mà thấy được. Cái thấy ấy là do tâm thức của ta thấy, hình ảnh con ma hiện lên từ nơi tiềm thức của ta, sinh khởi từ những xúc cảm bấn loạn tiềm ẩn trong ta, từ những nghiệp sâu kín của ta, từ những ám ảnh bịnh hoạn của ta, từ những đam mê, tham dục của ta, từ những bám víu vào ảo giác, sân hận của ta…Đối với những người tu tập cao, nhất là các vị đại sư tu tập theo các phép thiền định của Phật Giáo Tây Tạng, thì ít khi họ chiêm bao, hoặc nếu có chiêm bao thì họ cũng chỉ "thấy" những phản ứng thấm đượm lòng từ bi, yêu thương, khoan dung và độ lương của họ trước những cảnh xảy ra trong giấc mơ, thế nhưng tuyệt nhiên họ không còn thấy ma hoăc những gì làm cho họ khiếp sợ nữa.

Tóm lại, ma nằm trong tâm trí ta, trong tâm thức ta. Nó là chủ nhân ông của mọi tư duy và tác ý của ta. Vị chủ nhân ông ấy khích động và tiếp tay cho sự vận hành của nghiệp. Ngũ uẩn (skandha) tức tổng hợp thân xác và tâm thức ta là cơ sở chống đỡ cho sự vận hành ấy để tác động với ngoại cảnh, tức cơ duyên, để giúp cho nghiệp biến thành quả. Vậy con ma, hay vị chủ nhân ông của ta chính là cái "ta", cái "ngã", cái "tôi" đang ẩn nấp trong ta, đang điểu khiển ta. Nói cách khác đơn giản hơn thì con ma ấy chính là ta. Con ma đó đại diện cho vô minh, tức các bản năng thú tính, dục vọng, thèm khát, bám víu, hận thù, ảo giác… kích động và xúi dục ta tìm mọi cách làm thoả mãn những đòi hỏi đó của nó. Hậu quả đưa đến là khổ đau. Trong đầu ta, ma luôn luôn nhắc nhở ta phải bảo vệ cái "tôi", cái "ngã" của ta. Nó rất khôn ngoan và khéo léo, vì tùy theo từng người, từng bối cảnh và từng trường hợp mà nó sẽ dùng cách quát nạt, ra lệnh hay vỗ về bằng những tiếng êm ái, dễ thương, hoặc hét lên the thé…, mục đích là để in đậm trong tâm trí ta sự hiện diện của cái "ngã".

Ma là cái "ngã" đang thống trị ta, dạy ta tham lam, ích kỷ, xúi giục ta, nịnh hót ta để biến ta trở thành đốn mạt, quỷ quyệt và lừa dối. Đấy là cách mà ma đã làm phát sinh ra cả cái thế giới luân hồi này, ma nào phải chỉ biết có dọa nạt suông đâu. Cái thế giới của chúng ta nằm trong sự kiềm tỏa của nó, đồng thời nó lại nằm trong tâm thức ta. Ma là hiện thân của sự sợ hãi, đọa đày, già nua và cái chết trong thế giới này. Nó đội lốt của vô minh để tung hoành trong tâm thức ta, tạo ra u mê và lầm lẫn, kích động ta tạo nghiệp, buộc chặt ta vào cảnh giới của Ta bà. Đánh đuổi con ma ấy ra khỏi tâm thức tức có nghĩa là xoá bỏ cả thế giới luân hồi.

Tóm lại sự vận hành của bánh xe luân hồi hay chu kỳ của sự sống sở dĩ quay đều là nhờ vào bộ máy vận chuyển do ma điều khiển và lèo lái. Bộ máy đó được thiết kế bởi sự tương tác của vô số nghiệp. Chỉ có sự tu tập nhằm đạt được những thể dạng tâm thức trong sáng, an bình và tinh khiết mới có thể giúp ta tháo gỡ và phá bỏ cấu trúc của bộ máy đó và đuổi con ma ra khỏi đầu. Sử dụng bùa chú, phù phép hay nghi lễ để đuổi ma thì chẳng những chỉ làm trò hề cho trẻ con xem mà còn làm cho ta thêm hoang mang và khiếp sợ. Lý do thật hết sức đơn giản, nếu muốn đuổi ma trong gian phòng thì nào có con ma nào đâu trong đó để mà đuổi, còn nếu muốn đuổi con ma trong đầu ta thì nó lại quá sức tinh ranh để mà có thể đuổi nó, bởi vì nó biết sử dụng tấm màn vô minh dầy đặc của ta để nấp.

Trừ Ma theo Phật giáo Tây tạng

Trong mục đích "cụ thể hóa" những gì trình bày trên đây, cũng xin mạn phép mượn câu chuyện trừ ma hay trị ma của một vị thánh nhân Tây tạng là Mật lặc Nhật ba (Milarepa, thế kỷ XI-XII) do một đại sư Tây tạng khác là Kalou Rinpoché 1904-1989 thuật lại trong một quyển sách của ông như sau:

Mật lặc Nhật ba ẩn cư trong một hang động trên Hy mã Lạp sơn. Một hôm, khi ông quay trở về hang thì bất ngờ bắt gặp một đàn ma rất hung tợn đang chờ đợi ông trong hang. Chúng nhe răng và trợn hai mắt to như hai cái đĩa, hò hét thật khiếp đảm, dậm chân làm rung chuyển cả mặt đất để dọa nạt ông. Mật lặc Nhật ba bèn chắp tay khấn nguyện vị thầy của mình là Lạt ma Mã nhĩ ba và các vị Thần linh phù trợ hãy dùng thần lực để tiếp tay với ông, thế nhưng vẫn không thấy hiệu quả gì, đàn ma quỷ vẫn cứ tiếp tục hò hét và vung khí giới để dọa nạt. Ông đổi chiến lược, tỏ vẻ giận dữ, trợn mắt, vung tay và hăm dọa trở lại chúng. Thế nhưng chẳng những chúng không sợ mà còn chế nhạo lại ông:

- Nhìn thấy mi múa may như thế, chúng ta thừa biết mi hoảng sợ lắm rồi. Mi mất hết trầm tĩnh và sự an bình rồi. Ha ! ha !

Mật lặc Nhật ba liền tự nhủ :

- Thầy ta là Mã nhĩ ba có dạy rằng những biểu hiện bên ngoài chỉ là những phóng ảnh của tâm thức, bản chất của tâm thức thật ra là trống không và trong sáng. Xem ma quỷ thuộc bên ngoài tâm thức để mà đánh đuổi chúng thì quả đấy chỉ là chuyện hão huyền, chúng là những ảo giác phát sinh từ bên trong tâm thức.

Mật lặc Nhật ba liền hiểu rằng ông không được phép để cho tâm thức bị ám ảnh bởi những biểu hiện bên ngoài ấy, mà phải giữ cho tâm thức vững vàng trước các đàn ma quỷ dù cho chúng hung tợn đến đâu cũng thế. Ông cũng quán nhận được rằng ma quỷ chỉ là những bám víu, và những tư duy nhị nguyên phát sinh từ trong tâm thức mình. Tức thời ông hết sợ, chấp nhận sự đối diện với ma quỷ, đồng thời phát lộ lòng từ bi vô biên với chúng. Ông thầm nghĩ: "Nếu chúng nó muốn ăn thịt ta, thì ta cứ hiến dâng cái thân xác cấu hợp này cho chúng ngấu nghiến hầu giúp chúng bớt cơn đói khát. Sự sống là tạm bợ, đây là một dịp tốt giúp ta sử dụng thân xác trống không này để làm một việc thiện". Thật bất ngờ, thái độ từ bi sâu xa và sự quán thấy tánh không và vô thường của Mật lặc Nhật ba đã làm nguôi cơn thịnh nộ của đám ma quỷ mà vừa mới đây còn đang hung hăng và dữ tợn. Tên cầm đầu liền nói với Mật lặc Nhật ba như sau:

- "Chúng ta cứ ngỡ là mi khiếp sợ chúng ta, thế nhưng những ý nghĩ về ma quỷ chẳng hiển hiện được trong đầu mi, vậy mi chẳng có gì để sợ hãi cả".

Dứt lời, tất cả đám ma quỷ đều biến mất.

Ma sử dụng tấm màn vô minh trong tâm thức ta để ẩn nấp, chúng chỉ hiện hữu trong đầu của ta mà thôi. Những con ma mà chúng ta trông thấy trong góc phòng hay trong giấc mơ là những phóng tưởng của tâm thức. Nếu ánh sáng của từ bi và trí tuệ tỏa rộng thì sẽ không có bóng dáng của một con ma nào có thể hiển hiện ra trong gian phòng hay trong tâm thức của ta được.

Hoang Phong

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

21 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 21 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |