Jump to content

Advertisements




“Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)


77 replies to this topic

#76 SongHongHa

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 438 Bài viết:
  • 115 thanks

Gửi vào 15/10/2025 - 09:28

Ví dụ số 6 :Một lá số 2 cuộc đời ? (Của INDOCHINE viết.)
(Cứ gõ lên Google chủ đề “Một lá số 2 cuộc đời ? của trang Web Tử Vi Lý Số .Org sẽ có ngay.)
Trên forum Bát tự của Destiny.to (Mệnh lý võng) có 1 bài của Phan văn Khâm về 2 lá số như sau :
1/ lá thứ nhất là của Đoàn kỳ Đoan
(1865 -1936), 1 thủ lãnh quân phiệt vào thời kỳ Dân quốc, từng 3 lần xuất nhậm chức vụ Tổng lý Quốc vụ, thân thế rất mực hiển hách :
Ất Sửu - Kỷ Mão - ngày Ất Hợi - Nhâm Ngọ

Đây là lời bình của danh sư:

Tạo này Nguyệt lệnh Kiến Lộc , Hợi -Mão kết cuộc , Thân Vượng có thể nhậm Tài , chỗ hay là
Kỷ -Nhâm cả 2 đều Thấu ( hiển lộ tại thiên can ) , ở giữa có Ất ngăn cách . Kỷ Lộc tại Ngọ ,
Nhâm Lộc tại Hợi , Tài , Ấn đều đắc Lộc vi Quý ( lấy Lộc làm quý ) ,....ngũ phúc tề tập, thọ gần 80 .

(Trích Cổ kim danh nhân mệnh giám của Từ Nhạc Ngô, 1 nhà Tử bình rất , rất nổi danh.)

2/ Lá thứ 2 : Một khổ (mệnh) Tăng nhân.
Ất Sửu - Kỷ Mão - ngày Ất Hợi - Nhâm Ngọ
Lời bình của cùng tác giả
(Từ Nhạc Ngô):
Kỷ Thổ chi Tài
(Ất có Kỷ là Tài tinh) thông căn tại Sửu, đắc Lộc tại Ngọ , tựa như Thân Tài lưỡng Vượng (cả 2 đều Vượng).
Không ngờ Kỷ th lại bị Hợi Thuỷ khắc khứ , sự che chở của Nhâm Thuỷ
(Nhâm là Ấn của Ất, Nhật can, cho nên gọi là che chở) không có chỗ để dẫn hoá, đây gọi là Thượng Hạ vô tình
ổ Tài tinh đã bị Tỷ kiên đoạt mất, Sửu thổ Tài lại bị Mão Mộc khắc phá!
Ngọ Hoả Thực thần
(Can, chi phối hợp không thuận lý) .......Ất Hợi vận phải bán vợ đợ con (ngày xưa khi nghèo quá thì người ta đem vợ ra bán và cho con đi ở đợ), đây là chuyện thường tình, tựa như Thuý Kiều bán thân chuộc cha vậy, xuống tóc quy y, sau chẳng thủ thanh quy (bị nhà chùa trục xuất) chết vì đói và lạnh bên vệ đường.
(Trích từ sách Trích thiên tuỷ trưng nghĩa, cũng của Từ Nhạc Ngô.)


Sau đây là phê phán của Phan Văn Khâm (một cao thủ Tử Bình không dùng Dụng thần để luận) :
Trích :

“Xin hỏi chư vị độc giả, 2 mệnh tạo này khác biệt chỗ nào ? nhất nhất đều giống nhau! Đồng dạng cùng là 1 Bát tự, 1 cái là 1 nhà đại quân phiệt, thê thiếp đầy đàn, thọ gần 80, 1 cái là khổ tăng (nhà tu khốn khổ), bán cả vợ con , chết cóng nơi đầu hẻm, đồng dạng (cả 2 lá số) đều phát xuất từ 2 đại danh tác của đại sư Từ Nhạc Ngô. nhưng lời giải thích thì khác xa như chân trời đáy vực! thật đúng là “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.
Nên như thế nào ?? kỳ thiệt đây là 1 vấn đề gay gắt mà các đại sư của trường phái Dụng Thần phải đối diện! Các vị nên lấy trường hợp này làm gương”.


Các bạn thấy không, ngay từ ví dụ đầu tiên khi Từ Nhạc Ngô luận ví dụ đầu tiên vua Càn Long - Trung Quốc trong cuốn Trích Thiên Tủy tôi đã phải gọi Từ Nhạc Ngô là luận theo kiểu “Ba Hoa Trích Chòe rồi, vậy mà các cao thủ Tử Bình của Tầu và Việt Nam trên mạng ảo vẫn coi ông ta là Từ Nhạc Ngô, 1 nhà Tử Bình rất, rất nổi danh” mới Khủng chứ ?
Nhưng dù sao đây cũng là ví dụ thứ 2 chứng minh Từ Nhạc Ngô đúng là “Luận theo Kiểu Ba Hoa Chích Chòe” không sai tí nào cả.
Qua đây mới biết trình độ Tử Bình của các cao thủ Tử Bình trên mạng ảo của Tầu và VN thật đáng lo ngại.

Sau đây là bài luận của tôi :
Sơ đồ điểm vượng ngũ hành và các đại vận theo tứ trụ này như sau :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ trên ta thấy Mộc quá vượng, Quan Sát không hiện và lớn hơn Tài tinh trên 20đv, theo như bình thường thì có thể Tòng theo Mộc (Tòng ở đây hiểu đơn giản là sống trong làng (vùng, nơi) của bọn giết người, cướp của thì phải im mồm đừng có ngu mà lên án bọn nó nhất là còn dọa báo công an thì chỉ có đi tầu ngầm ngay... Hoặc anh theo đạo A mà sống trong vùng người theo đạo B mà anh không theo đạo B mà còn lên án, tẩy chay hay lăng mạ họ thì ...là,....mà... ngay tức khắc. Cho nên sống ở đâu phải theo vùng đó, con người ở đó, họ tôn thờ cái gì... phải theo họ mà sống mới yên ổn, mới bảo toàn được tính mạng mình và những người thân của mình, chờ thời thế thay đổi hay đi được nơi khác hãng hay...).
Nhưng theo câu luận Ất Hợi vận phải bán vợ, đợ conthì rõ ràng vận Ất Hợi phải là kỵ vận nên Thân (Mộc) của tứ trụ này phải vượng (phải là kỵ thần) không thể Tòng Mộc (tức dụng thần không thể là Mộc) được. Ta thấy vận Ất Hợi có Hợi đại vận cùng Hợi trong tứ trụ tranh hợp với Mão hóa Mộc thành công. Vậy thì Mộc có thêm 10đv của Hợi tại đại vận thành (25,8 + 10)đv = 35,8đv mà vẫn không thể Tòng Mộc được cho nên ta phải đưa ra quy tắc (hay lý thuyết) mới :


“Trong tứ trụ có 4 hay 5 can chi cùng hành, muốn Tòng thì phải không có can chi Quan Sát, lớn hơn Tài Tinh ít nhất 20đv và chỉ khi trong tứ trụ có 3 chi cùng hành trở lên, nếu chỉ có 2 chi thì chúng phải ở trạng thái Lâm quan hay Đế vượng tại Lệnh tháng. (Ở đây lấy hành của Thân làm ví dụ, các hành khác suy luận hoàn toàn tương tự).

Nếu theo quy tắc này thì rõ ràng Mộc quá vượng mà không thể Tòng Mộc được thì cực xấu rồi (vì không có đủ 3 chi cùng hành trong tứ trụ - chắc là vị này sống cùng bọn giết người cướp của mà lại đòi đi báo cho công an đây?). Mộc quá vượng nên Quan Sát (Kim) phải là dụng thần đầu tiên nhưng lại không hiện mà chỉ là can tạp khí nên vô dụng (chủ yếu chỉ vì Mộc quá vượng) đành phải lấy dụng thần thứ 2 là Đinh (Hỏa) tàng trong Ngọ trụ giờ (sẽ nói sau).

Ở đây giới thiệu thêm điểm hạn của các hành (điểm hạn dùng để tính tai họa nặng hay nhẹ mà tôi đã đăng ở trang 53 - ở cuối phần Thần Sát, khác với điểm vượng chỉ tính sự vượng của các can chi theo Lệnh tháng), -1 điểm hạn là điểm hạn của hành làm dụng thần, còn - 0,5đh (điểm hạn) là điểm hạn của hành làm hỷ thần, + 1đh là điểm hạn của hành làm hung thần (thường là hành khắc hành dụng thần), +0,5đh là điểm hạn của hành làm kỵ thần (không có Nhàn thần...chính xác là chưa xác định được Nhàn thần - Có thể là Quan Sát khi Kiêu Ấn nhiều ?).
Vận Ất Hợi cực xấu vì Ất là kỵ thần xuất hiện ở vận thêm chi vận Hợi hợp với tứ trụ lại hóa Mộc, điều xấu cộng hưởng thêm sao không “phải bán vợ, đợ concơ chứ?
Chỉ cần vận này cũng đủ để khẳng định tứ trụ này của Tăng nhân rồi.
Để yên tâm ta thử luận các vận của tứ trụ này xem sao ?

Vận Mậu Dần là vận hỷ thần :
Có 2 Ất trong tứ trụ cùng đoạt Tài Mậu, rất may là Tài Mậu vượng ở vận Dần nên chia cho 2 thì Nhật can (Ất) được 50% cũng đủ sống không đến lỗi nào.
Vận Đinh Sửu là vận dụng thần :
Có Nhâm trong tứ trụ hợp với Đinh hóa Mộc thành công (vì có lệnh tháng Mộc là Thần dẫn) vì vận này Mộc có tới 6 can chi nên có thể Tòng Mộc. Nếu Tòng được Mộc thì Tiền Tài khỏi phải no, không giầu có thì cũng khá giả (mới lấy được vợ và sinh con). Còn nếu không Tòng Mộc được thì cũng không xấu lắm vì Nhâm trong tứ trụ là kỵ thần bị hợp là tốt, còn Đinh đại vận vẫn được gọi là vận dụng thần nhưng bị hợp điềm đẹp giảm đi nhiều.
Vận Bính Tý là vận dụng thần :
Có Nhâm (kỵ thần) đế vượng tại vận Tý khắc chết Tài Bính (dụng thần) hưu tù tại vận Tý nên chắc tài sản của vận trước dành dụm được bao nhiêu phải tiêu hết ở vận này là cái chắc? Nên vận này từ vận dụng thần (Bính) đã biến thành vận kỵ thần.
Vận Ất Hợi là vận kỵ thần :
Như trên đã luận vận Nhâm Tý đã xấu (nhưng vẫn còn tiền của vận trước để lại để tiêu), vận này còn xấu hơn đã hết tiền mà lại không thể làm ra tiền nên đành “phải bán vợ, đợ con . Điều này cho biết chắc chắn tên này là một tên xấu, tiểu nhân... nghiện cờ bạc, riệu chè hay gái mú... Bằng chứng là đã phải vào ăn nhờ cửa phật mà còn bị chùa đuổi ra vì phạm thanh quy (các điều cấm trong chùa - chắc là sống... còn định đi báo công an đây?).
Vận Giáp Tuất là vận kỵ thần :
Có Giáp hợp với Kỷ không thể hóa Thổ vì như ví dụ trước Kỷ đóng trên đất Mộc cục. Giáp 1 mình tranh đoạt (hợp) được Kỷ Tài trụ tháng nên 2 Ất vêu mõm chỉ biết đứng nhìn mà thôi (chắc chết ở vận này,... chỉ vì... định đi báo công an?).

Điều này cho biết Thân hay một hành nào đó quá vượng không thể Tòng thường là mệnh cực xấu.

Đến đây thì có thể khẳng định tứ trụ này của Tăng nhân.
.................................................................................................

Vậy thì tứ trụ của nhà quân phiệt Đoàn Kỳ Đoan “thân thế rất mực hiển hách phải có giờ sinh khác là cái chắc, vì trong cuốn Trích Thiên Tủy có 488 ví dụ mà tôi đã xác định được gần 50% số ví dụ này là sai giờ sinh. Vậy mà các cao thủ Tử Bình của Tầu và Việt Nam trên mạng ảo không ai đưa ra ý kiến là sai giờ sinh mới lạ chứ?


Trong 2 giờ khe của giờ Nhâm Ngọ là Tân TịQuý Mùi thì nhìn qua là biết ngay giờ Quý Mùi là cái chắc. Bởi vì Mộc đang quá vượng không thể Tòng được thì thêm Mùi vào có phải là có tam hợp Hợi Mão Mùi hóa Mộc hay không? Lúc này rõ ràng Mộc có 5 can chi trong đó có 3 chi là Mộc thì không Tòng Mộc được hay sao?

Sơ đồ điểm vượng trong vùng tâm và các vận của tứ trụ giờ Quý Mùi như sau :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ trên ta thấy Mộc quá cường vượng lại không có Quan Sát, lớn hơn Tài tinh trên 20đv và trong tứ trụ có 3 chi hành Mộc nên đã thành cách Tòng Mộc. Do vậy dụng thần là hành vượng nhất là Mộc có -1đh, hỷ thần là Kiêu Ấn Thủy và Thực Thương Hỏa đều có -0,5đh, còn hung thần là Quan Sát Kim (vì khắc hành dụng thần) có +1đh, còn kỵ thần Tài tinh Thổ có +0,5đh.


Hành vận, ta thấy 6 vận sau vận Mậu Dần đều là các vận hỷ dụng thần (Hỏa, Mộc và Thủy) nên rất đẹp, còn vận đầu là Mậu Dầnvận kỵ thần (kỵ vận) mặc dù Mậu vượng ở vận Dần nhưng không lại được với 2 Ất đế vượng tại vận Dần hội tụ khắc Mậu lên bờ, xuống ruộng nên vận này từ vận kỵ thần thành vận hỷ thần cũng là đúng thôi. Tóm lại với giờ Quý Mùi thì ứng hợp với nhà tài phiệt Đoàn Kỳ Đoan“thân thế rất mực hiển hách” này cả đời giầu sang phú quý, con cái đầy đàn, còn thọ tới 80 tuổi.

Đẹp ở các tứ trụ Tòng được là hành vượng nhất là Dụng thần nên vào các vận kỵ thần hay cả hung thần khắc hành dụng thần cũng chỉ như “Muỗi đốt Inox” mà thôi, trừ khi cách Tòng này bị phá.

Đây mới là bài luận đại diện cho trường phái Dụng Thần, tức trường phái “Luận theo Vượng Suy” (tức tất cả phải dựa theo “Bảng Sinh Thành Lão Tử Dưỡng”), nói ngắn là “Vượng Suy Pháp”.

Quả thực đáng lo ngại trình độ các cao thủ Tử Bình cả Tầu lẫn VN trên mạng ảo không thể phát hiện ra là
sai giờ sinh.

Sửa bởi SongHongHa: 15/10/2025 - 09:39


#77 SongHongHa

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 438 Bài viết:
  • 115 thanks

Gửi vào 22/10/2025 - 07:00

Đoạn tô đỏ trong câu sau của bài viết ở trên đã sai :

"Vận Đinh Sửu là vận dụng thần :
Có Nhâm trong tứ trụ hợp với Đinh hóa Mộc thành công (vì có lệnh tháng Mộc là Thần dẫn) vì vận này Mộc có tới 6 can chi nên có thể Tòng Mộc. Nếu Tòng được Mộc thì Tiền Tài khỏi phải no, không giầu có thì cũng khá giả (mới lấy được vợ và sinh con). Còn nếu không Tòng Mộc được thì cũng không xấu lắm vì Nhâm trong tứ trụ là kỵ thần bị hợp là tốt, còn Đinh đại vận vẫn được gọi là vận dụng thần nhưng bị hợp điềm đẹp giảm đi nhiều".



Xin sửa lại là : "Còn nếu không hóa được Mộc..."

Thành thật xin lỗi mọi người.

#78 SongHongHa

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 438 Bài viết:
  • 115 thanks

Gửi vào Hôm qua, 07:00

Chương III - Phần Cao Cấp
I - Dụng thần của Tứ Trụ
1 - Dụng thần là gì ? Dụng thần cùng nghĩa với thuốc thần hay thần dược, nghĩa là thuốc cực quý dùng để chữa bệnh. Một người có bệnh thì được bác sĩ khám để xác định là bệnh gì thì mới tìm được thuốc chữa đúng căn bệnh đó. Thuốc tốt nhất để chữa đúng căn bệnh đó có thể ví như là thuốc thần hay thần dược. Trong tứ trụ cũng tương tự như vậy, đầu tiên phải xác định được độ vượng suy của 5 hành ở vùng tâm, sau đó mới xét đến hành của Thân nhược hay vượng hơn so với các hành kia thì mới biết được Thân vượng hay Thân nhược. Khi đã biết Thân vượng hay nhược rồi, thì hành nào có tác dụng tốt nhất làm Thân đang vượng thì bớt vượng đi hay Thân đang nhược thì được sinh hay phù trợ thêm cho bớt nhược, hành đó được gọi là hành dụng thần (thần dược).
Mỗi hành đều có 2 can và 2 chi mang hành dụng thần. Giả sử hành Mộc làm dụng thần thì ta có 4 can chi của hành dụng thần là Giáp, Ất, Dần và Mão. Vậy thì lấy cái nào làm dụng dần chính cái nào là dụng thần phụ ? Theo như kinh nghiệm của cổ nhân để lại thì can mới là khí tinh túy của dụng thần, còn chi thì đã có can tàng là bản khí, đó chính là khí tinh tuý đại diện cho dụng thần của chi đó. Nhưng can lại có hai can, vậy lấy can nào làm dụng thần chính ? Thì theo phương pháp của tôi can nào có điểm vượng theo lệnh tháng cao nhất sẽ được chọn làm dụng thần chính, cho dù nó ở bất kỳ vị chí nào trong tứ trụ (vì như thuốc quý được cất ở đâu trong nhà thì vị chí không quan trọng, mà quan trọng là thuốc nào có chất lượng tốt hơn). Điều này khác với cách xác định dụng thần của cổ nhân để lại.
Dụng thần này thường được gọi là dụng thần sinh phù, áp chế, nó là dụng thần quan trọng nhất trong tứ trụ.

2 - Vị trí của dụng thần chính trong tứ trụ
Nếu có nhiều can giống nhau là dụng thần chính xuất hiện trong tứ trụ thì ta chọn can lộ đầu tiên, sau đó đến can tàng bản khí và sau cùng mới đến can tàng tạp khí (vị trí của dụng thần là can tàng tạp khí: Đầu tiên nó tàng trong chi có hành sinh cho nó, sau đó đến chi có hành bị nó khắc, tiếp tới chi có hành có thể nhận được sự sinh từ nó và cuối cùng tới chi có hành khắc nó) theo thứ tự ưu tiên thì vị trí đầu tiên của nó ở trụ năm, sau đến trụ tháng rồi mới tới trụ ngày và cuối cùng là trụ giờ.


Có nhiều trường hợp dụng thần thuộc hành đầu tiên không có trong tứ trụ, cho nên ta phải lấy tới hành thứ 2 để thay thế (nghĩa là biết bệnh rồi mà không có đúng thuốc tốt để chữa mà phải lấy thuốc khác để thay thế). Nếu hành thứ hai này cũng không có trong tứ trụ thì phải lấy đến hành thứ 3 làm dụng thần. Dĩ nhiên dụng thần hành đầu tiên là tốt nhất sau mới tới hành thứ 2, cuối mới tới hành thứ 3. Liệu có thể lấy số điểm hạn để xác định sự yếu kém của chúng hay không thì đến nay tôi chưa xác định được. Riêng khi Thân nhược mà không có can Kiêu Ấn hay Tỷ Kiếp thì phải chọn can trụ ngày (Nhật can) làm dụng thần.

3 - Để cho ngắn gọn và đơn giản ta quy ước:

a - Đơn vị can-chi : 1 can hay 1 chi được gọi là 1 can-chi. Mỗi can hay mỗi chi bị khắc gần hay trực tiếp coi như hành của can hay chi bị khắc này giảm 0,5 can-chi.
b - Riêng ở mục này Nhật can được coi như 1 can-chi của Tỷ Kiếp.
c - Kiêu Ấn hay Thực Thương được gọi là :
- Nhiều khi chúng có ít nhất từ 3 can-chi trở lên hoặc có 2 can-chi ở trạng thái lâm quan hay đế vượng.
- Đủ khi chúng có 2 can-chi (không ở trạng thái lâm quan hay đế vượng).
- Ít khi chúng có 1 can-chi.
d - Gọi can làm dụng thần chính của tứ trụ là dụng thần.
e - Can hay chi mang hành của thần nào (trong 10 thần) thì nó được tính là can hay chi của thần (hành) đó.
f - Can tàng tạp khí và chi chứa nó không được tính là can chi của hành đó, nhưng hành của can tạp khí này vẫn được xem có trong tứ trụ.
Ví dụ : Mộc là Kiêu Ấn thì :
- Giáp, Ất, Dần và Mão được gọi là 4 can-chi kiêu ấn.
- Nếu trong tứ trụ chỉ có Giáp hay Ất tàng trong các chi Thìn, Mùi hay Hợi là tạp khí thì Giáp hay Ất chỉ được gọi là can tạp khí của kiêu ấn, vì vậy Giáp, Ất không được gọi là các can-chi kiêu ấn, nhưng trong tứ trụ vẫn có kiêu ấn hay hành của kiêu ấn (Mộc).
g - Trong các hành là kỵ thần, nếu hành nào có điểm vượng trong vùng tâm lớn nhất thì nó được gọi là kỵ thần số 1.
h - Trong các hành là hỷ dụng thần, nếu hành nào có điểm vượng trong vùng tâm lớn nhất thì nó được gọi là hỷ dụng số 1.
i – Hành kỵ thần số 1 lớn hơn hành hỷ dụng số 1 từ 10đv trở lên được gọi là hành kỵ vượng.
j - Điểm vượng của các can-chi từ 6đv trở lên được gọi là được lệnh còn nhỏ hơn 6đv thì được gọi là thất lệnh (hưu tù), được gọi là tử tuyệt nếu nó ở trạng thái Tử, Mộ hay Tuyệt.
k - Gọi là dụng thần áp chế khi nó có tính chất khắc, làm hao hay xì hơi Thân.
Ví dụ khi Thân vượng dụng thần áp chế : Là Thực Thương làm xì hơi Thân, là Tài tinh làm hao Thân, là Quan Sát khắc chế Thân.
l - Gọi là dụng thần sinh phù khi nó có tính chất sinh hay phù trợ Thân.
Ví dụ khi Thân nhược dụng thần sinh phù : Là Kiêu Ấn xì hơi Quan Sát sinh Thân, là Tỷ Kiếp phù trợ Thân, là Tỷ Kiếp khắc chế Tài tinh.

4 - Xác định dụng thần sinh phù, áp chế khi Thân vượng

Mẫu 1 : Kiêu ấn không có trong tứ trụ
1/tv (Thân vượng) - Nếu Thân vượng mà trong tứ trụ không có kiêu ấn (tức không có cả các can tàng tạp khí của nó) thì dụng thần đầu tiên phải là tài tinh, sau mới lấy đến thực thương (tức khi không có tài tinh), cuối cùng mới đến quan sát (tức khi không có tài tinh và thực thương).


Mẫu 2 : Kiêu ấn ít và thực thương không nhiều thì :
2/tv - Khi thế lực của Thân và Quan Sát tương đương nhau mà Thân lớn hơn Quan Sát ít nhất 0,5 can-chi (tức Quan Sát là hỷ dụng số 1) thì dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát (như ví dụ số 1 vua Càn Long), sau là Thực Thương, cuối cùng mới là Tài tinh (vì khi đó coi như Quan Sát vẫn còn thiếu cần thêm nhất - cái cần thêm nhất chính là dụng thần); nếu không dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương, sau là Tài Tinh, cuối cùng mới là Quan Sát (vì khi đó Quan Sát đủ rồi không cần thêm, mà cái cần thêm nhất là Thực Thương vì Thực Thương chế áp Quan Sát có lợi hơn xì hơi Thân nên Thân không bị giảm mà còn vượng hơn là càng đẹp).
3/tv - Khi thế lực của Thân và Tài tinh tương đương nhau (tức Tài tinh là hỷ dụng số 1) mà Thân không lớn hơn Tài tinh ít nhất 0,5 can-chi thì dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát, sau mới tới Tài tinh, cuối cùng mới là Thực Thương (vì khi Thân và Tài tinh tương đương nhau thì Thực Thương xì hơi Thân sinh cho Tài tinh nên Tài tinh dễ mạnh hơn Thân nên Thân dễ thành nhược là không thể chấp nhận được - trái với ý nghĩa của dụng thần).


Mẫu 3 : Kiêu Ấn ít và thực thương nhiều thì :
4/tv - Dụng thần đầu tiên phải là tài tinh, sau mới là đến quan sát, cuối cùng mới là thực thương (vì khi đó Thực Thương nhiều nên không cần thêm, còn Quan Sát bị Thực Thương chế áp quá mạnh thành quá yếu - coi như vô dụng, nên cái cần thêm nhất phải là Tài tinh).

Mẫu 4 : Kiêu ấn đủ trong tứ trụ
5/tv - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn đủ và thực thương không nhiều thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương (vì khả năng để chế ngự Thân vượng của quan sát là tốt nhưng nó chỉ bằng khả năng mà kiêu ấn xì hơi quan sát để sinh cho Thân là xấu), sau mới là tài tinh, cuối cùng mới là quan sát.
6/tv - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn đủ, thực thương không nhiều mà quan sát hợp với Nhật nguyên thì dụng thần đầu tiên vẫn có thể là quan sát.

Mẫu 5 : Kiêu ấn nhiều trong tứ trụ
7/tv - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn nhiều thì dụng thần (áp chế) đầu tiên phải là tài tinh (kiêu ấn nhiều có khả năng xì hơi hết quan sát để sinh cho Thân, vì vậy quan sát đã trở thành vô dụng nếu Quan Sát trong tứ trụ nó không khắc được Tỷ Kiếp, còn tài tinh có khả năng chế ngự kiêu ấn và làm hao tổn Thân), sau mới là thực thương (vì nó có khả năng xì hơi Thân vượng và làm hao kiêu ấn), cuối cùng mới là quan sát (vô dụng có thể gọi là nhàn thần nếu Quan Sát trong tứ trụ không khắc được Tỷ Kiếp hay Nhật can).

2 - Xác định dụng thần sinh phù, áp chế khi Thân nhược
8/tn (Thân nhược) - Nếu Thân nhược mà quan sát hay thực thương là kỵ 1 thì dụng thần (sinh phù) đầu tiên phải là kiêu ấn (bởi vì kiêu ấn có khả năng xì hơi quan sát để sinh cho Thân và chế ngự thực thương), sau mới đến tỷ kiếp. Nếu trong tứ trụ không có kiêu ấn và tỷ kiếp thì dụng thần cuối cùng phải là Nhật can.
9/tn - Nếu Thân nhược mà Tài tinh là kỵ thần số 1 thì dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp (áp
chế), còn dụng thần thứ 2 là Kiêu Ấn, nếu không có Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp thì dụng thần cuối cùng phải là Nhật can.

Bảng tra dụng thần sinh phù, áp chế

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Các ngoặc đơn trong sơ đồ trên có nghĩa như sau :
(>0,5 can-chi) cho biết Thân lớn hơn Quan Sát từ +0,5 can-chi trở lên.
(<0,5 can-chi) cho biết Thân chỉ lớn hơn Quan Sát dưới +0,5 can-chi.


Dụng thần sinh phù, áp chế là dụng thần quan trọng nhất dùng để dự đoán vận mệnh của con người.

Sửa bởi SongHongHa: Hôm qua, 07:06







Similar Topics Collapse

2 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |