Jump to content

Advertisements




“Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)


100 replies to this topic

#76 SongHongHa

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 448 Bài viết:
  • 115 thanks

Gửi vào 15/10/2025 - 09:28

Ví dụ số 6 :Một lá số 2 cuộc đời ? (Của INDOCHINE viết.)
(Cứ gõ lên Google chủ đề “Một lá số 2 cuộc đời ? của trang Web Tử Vi Lý Số .Org sẽ có ngay.)
Trên forum Bát tự của Destiny.to (Mệnh lý võng) có 1 bài của Phan văn Khâm về 2 lá số như sau :
1/ lá thứ nhất là của Đoàn kỳ Đoan
(1865 -1936), 1 thủ lãnh quân phiệt vào thời kỳ Dân quốc, từng 3 lần xuất nhậm chức vụ Tổng lý Quốc vụ, thân thế rất mực hiển hách :
Ất Sửu - Kỷ Mão - ngày Ất Hợi - Nhâm Ngọ

Đây là lời bình của danh sư:

Tạo này Nguyệt lệnh Kiến Lộc , Hợi -Mão kết cuộc , Thân Vượng có thể nhậm Tài , chỗ hay là
Kỷ -Nhâm cả 2 đều Thấu ( hiển lộ tại thiên can ) , ở giữa có Ất ngăn cách . Kỷ Lộc tại Ngọ ,
Nhâm Lộc tại Hợi , Tài , Ấn đều đắc Lộc vi Quý ( lấy Lộc làm quý ) ,....ngũ phúc tề tập, thọ gần 80 .

(Trích Cổ kim danh nhân mệnh giám của Từ Nhạc Ngô, 1 nhà Tử bình rất , rất nổi danh.)

2/ Lá thứ 2 : Một khổ (mệnh) Tăng nhân.
Ất Sửu - Kỷ Mão - ngày Ất Hợi - Nhâm Ngọ
Lời bình của cùng tác giả
(Từ Nhạc Ngô):
Kỷ Thổ chi Tài
(Ất có Kỷ là Tài tinh) thông căn tại Sửu, đắc Lộc tại Ngọ , tựa như Thân Tài lưỡng Vượng (cả 2 đều Vượng).
Không ngờ Kỷ th lại bị Hợi Thuỷ khắc khứ , sự che chở của Nhâm Thuỷ
(Nhâm là Ấn của Ất, Nhật can, cho nên gọi là che chở) không có chỗ để dẫn hoá, đây gọi là Thượng Hạ vô tình
ổ Tài tinh đã bị Tỷ kiên đoạt mất, Sửu thổ Tài lại bị Mão Mộc khắc phá!
Ngọ Hoả Thực thần
(Can, chi phối hợp không thuận lý) .......Ất Hợi vận phải bán vợ đợ con (ngày xưa khi nghèo quá thì người ta đem vợ ra bán và cho con đi ở đợ), đây là chuyện thường tình, tựa như Thuý Kiều bán thân chuộc cha vậy, xuống tóc quy y, sau chẳng thủ thanh quy (bị nhà chùa trục xuất) chết vì đói và lạnh bên vệ đường.
(Trích từ sách Trích thiên tuỷ trưng nghĩa, cũng của Từ Nhạc Ngô.)


Sau đây là phê phán của Phan Văn Khâm (một cao thủ Tử Bình không dùng Dụng thần để luận) :
Trích :

“Xin hỏi chư vị độc giả, 2 mệnh tạo này khác biệt chỗ nào ? nhất nhất đều giống nhau! Đồng dạng cùng là 1 Bát tự, 1 cái là 1 nhà đại quân phiệt, thê thiếp đầy đàn, thọ gần 80, 1 cái là khổ tăng (nhà tu khốn khổ), bán cả vợ con , chết cóng nơi đầu hẻm, đồng dạng (cả 2 lá số) đều phát xuất từ 2 đại danh tác của đại sư Từ Nhạc Ngô. nhưng lời giải thích thì khác xa như chân trời đáy vực! thật đúng là “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.
Nên như thế nào ?? kỳ thiệt đây là 1 vấn đề gay gắt mà các đại sư của trường phái Dụng Thần phải đối diện! Các vị nên lấy trường hợp này làm gương”.


Các bạn thấy không, ngay từ ví dụ đầu tiên khi Từ Nhạc Ngô luận ví dụ đầu tiên vua Càn Long - Trung Quốc trong cuốn Trích Thiên Tủy tôi đã phải gọi Từ Nhạc Ngô là luận theo kiểu “Ba Hoa Trích Chòe rồi, vậy mà các cao thủ Tử Bình của Tầu và Việt Nam trên mạng ảo vẫn coi ông ta là Từ Nhạc Ngô, 1 nhà Tử Bình rất, rất nổi danh” mới Khủng chứ ?
Nhưng dù sao đây cũng là ví dụ thứ 2 chứng minh Từ Nhạc Ngô đúng là “Luận theo Kiểu Ba Hoa Chích Chòe” không sai tí nào cả.
Qua đây mới biết trình độ Tử Bình của các cao thủ Tử Bình trên mạng ảo của Tầu và VN thật đáng lo ngại.

Sau đây là bài luận của tôi :
Sơ đồ điểm vượng ngũ hành và các đại vận theo tứ trụ này như sau :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ trên ta thấy Mộc quá vượng, Quan Sát không hiện và lớn hơn Tài tinh trên 20đv, theo như bình thường thì có thể Tòng theo Mộc (Tòng ở đây hiểu đơn giản là sống trong làng (vùng, nơi) của bọn giết người, cướp của thì phải im mồm đừng có ngu mà lên án bọn nó nhất là còn dọa báo công an thì chỉ có đi tầu ngầm ngay... Hoặc anh theo đạo A mà sống trong vùng người theo đạo B mà anh không theo đạo B mà còn lên án, tẩy chay hay lăng mạ họ thì ...là,....mà... ngay tức khắc. Cho nên sống ở đâu phải theo vùng đó, con người ở đó, họ tôn thờ cái gì... phải theo họ mà sống mới yên ổn, mới bảo toàn được tính mạng mình và những người thân của mình, chờ thời thế thay đổi hay đi được nơi khác hãng hay...).
Nhưng theo câu luận Ất Hợi vận phải bán vợ, đợ conthì rõ ràng vận Ất Hợi phải là kỵ vận nên Thân (Mộc) của tứ trụ này phải vượng (phải là kỵ thần) không thể Tòng Mộc (tức dụng thần không thể là Mộc) được. Ta thấy vận Ất Hợi có Hợi đại vận cùng Hợi trong tứ trụ tranh hợp với Mão hóa Mộc thành công. Vậy thì Mộc có thêm 10đv của Hợi tại đại vận thành (25,8 + 10)đv = 35,8đv mà vẫn không thể Tòng Mộc được cho nên ta phải đưa ra quy tắc (hay lý thuyết) mới :


“Trong tứ trụ có 4 hay 5 can chi cùng hành, muốn Tòng thì phải không có can chi Quan Sát, lớn hơn Tài Tinh ít nhất 20đv và chỉ khi trong tứ trụ có 3 chi cùng hành trở lên, nếu chỉ có 2 chi thì chúng phải ở trạng thái Lâm quan hay Đế vượng tại Lệnh tháng. (Ở đây lấy hành của Thân làm ví dụ, các hành khác suy luận hoàn toàn tương tự).

Nếu theo quy tắc này thì rõ ràng Mộc quá vượng mà không thể Tòng Mộc được thì cực xấu rồi (vì không có đủ 3 chi cùng hành trong tứ trụ - chắc là vị này sống cùng bọn giết người cướp của mà lại đòi đi báo cho công an đây?). Mộc quá vượng nên Quan Sát (Kim) phải là dụng thần đầu tiên nhưng lại không hiện mà chỉ là can tạp khí nên vô dụng (chủ yếu chỉ vì Mộc quá vượng) đành phải lấy dụng thần thứ 2 là Đinh (Hỏa) tàng trong Ngọ trụ giờ (sẽ nói sau).

Ở đây giới thiệu thêm điểm hạn của các hành (điểm hạn dùng để tính tai họa nặng hay nhẹ mà tôi đã đăng ở trang 53 - ở cuối phần Thần Sát, khác với điểm vượng chỉ tính sự vượng của các can chi theo Lệnh tháng), -1 điểm hạn là điểm hạn của hành làm dụng thần, còn - 0,5đh (điểm hạn) là điểm hạn của hành làm hỷ thần, + 1đh là điểm hạn của hành làm hung thần (thường là hành khắc hành dụng thần), +0,5đh là điểm hạn của hành làm kỵ thần (không có Nhàn thần...chính xác là chưa xác định được Nhàn thần - Có thể là Quan Sát khi Kiêu Ấn nhiều ?).
Vận Ất Hợi cực xấu vì Ất là kỵ thần xuất hiện ở vận thêm chi vận Hợi hợp với tứ trụ lại hóa Mộc, điều xấu cộng hưởng thêm sao không “phải bán vợ, đợ concơ chứ?
Chỉ cần vận này cũng đủ để khẳng định tứ trụ này của Tăng nhân rồi.
Để yên tâm ta thử luận các vận của tứ trụ này xem sao ?

Vận Mậu Dần là vận hỷ thần :
Có 2 Ất trong tứ trụ cùng đoạt Tài Mậu, rất may là Tài Mậu vượng ở vận Dần nên chia cho 2 thì Nhật can (Ất) được 50% cũng đủ sống không đến lỗi nào.
Vận Đinh Sửu là vận dụng thần :
Có Nhâm trong tứ trụ hợp với Đinh hóa Mộc thành công (vì có lệnh tháng Mộc là Thần dẫn) vì vận này Mộc có tới 6 can chi nên có thể Tòng Mộc. Nếu Tòng được Mộc thì Tiền Tài khỏi phải no, không giầu có thì cũng khá giả (mới lấy được vợ và sinh con). Còn nếu không Tòng Mộc được thì cũng không xấu lắm vì Nhâm trong tứ trụ là kỵ thần bị hợp là tốt, còn Đinh đại vận vẫn được gọi là vận dụng thần nhưng bị hợp điềm đẹp giảm đi nhiều.
Vận Bính Tý là vận dụng thần :
Có Nhâm (kỵ thần) đế vượng tại vận Tý khắc chết Tài Bính (dụng thần) hưu tù tại vận Tý nên chắc tài sản của vận trước dành dụm được bao nhiêu phải tiêu hết ở vận này là cái chắc? Nên vận này từ vận dụng thần (Bính) đã biến thành vận kỵ thần.
Vận Ất Hợi là vận kỵ thần :
Như trên đã luận vận Nhâm Tý đã xấu (nhưng vẫn còn tiền của vận trước để lại để tiêu), vận này còn xấu hơn đã hết tiền mà lại không thể làm ra tiền nên đành “phải bán vợ, đợ con . Điều này cho biết chắc chắn tên này là một tên xấu, tiểu nhân... nghiện cờ bạc, riệu chè hay gái mú... Bằng chứng là đã phải vào ăn nhờ cửa phật mà còn bị chùa đuổi ra vì phạm thanh quy (các điều cấm trong chùa - chắc là sống... còn định đi báo công an đây?).
Vận Giáp Tuất là vận kỵ thần :
Có Giáp hợp với Kỷ không thể hóa Thổ vì như ví dụ trước Kỷ đóng trên đất Mộc cục. Giáp 1 mình tranh đoạt (hợp) được Kỷ Tài trụ tháng nên 2 Ất vêu mõm chỉ biết đứng nhìn mà thôi (chắc chết ở vận này,... chỉ vì... định đi báo công an?).

Điều này cho biết Thân hay một hành nào đó quá vượng không thể Tòng thường là mệnh cực xấu.

Đến đây thì có thể khẳng định tứ trụ này của Tăng nhân.
.................................................................................................

Vậy thì tứ trụ của nhà quân phiệt Đoàn Kỳ Đoan “thân thế rất mực hiển hách phải có giờ sinh khác là cái chắc, vì trong cuốn Trích Thiên Tủy có 488 ví dụ mà tôi đã xác định được gần 50% số ví dụ này là sai giờ sinh. Vậy mà các cao thủ Tử Bình của Tầu và Việt Nam trên mạng ảo không ai đưa ra ý kiến là sai giờ sinh mới lạ chứ?


Trong 2 giờ khe của giờ Nhâm Ngọ là Tân TịQuý Mùi thì nhìn qua là biết ngay giờ Quý Mùi là cái chắc. Bởi vì Mộc đang quá vượng không thể Tòng được thì thêm Mùi vào có phải là có tam hợp Hợi Mão Mùi hóa Mộc hay không? Lúc này rõ ràng Mộc có 5 can chi trong đó có 3 chi là Mộc thì không Tòng Mộc được hay sao?

Sơ đồ điểm vượng trong vùng tâm và các vận của tứ trụ giờ Quý Mùi như sau :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ trên ta thấy Mộc quá cường vượng lại không có Quan Sát, lớn hơn Tài tinh trên 20đv và trong tứ trụ có 3 chi hành Mộc nên đã thành cách Tòng Mộc. Do vậy dụng thần là hành vượng nhất là Mộc có -1đh, hỷ thần là Kiêu Ấn Thủy và Thực Thương Hỏa đều có -0,5đh, còn hung thần là Quan Sát Kim (vì khắc hành dụng thần) có +1đh, còn kỵ thần Tài tinh Thổ có +0,5đh.


Hành vận, ta thấy 6 vận sau vận Mậu Dần đều là các vận hỷ dụng thần (Hỏa, Mộc và Thủy) nên rất đẹp, còn vận đầu là Mậu Dầnvận kỵ thần (kỵ vận) mặc dù Mậu vượng ở vận Dần nhưng không lại được với 2 Ất đế vượng tại vận Dần hội tụ khắc Mậu lên bờ, xuống ruộng nên vận này từ vận kỵ thần thành vận hỷ thần cũng là đúng thôi. Tóm lại với giờ Quý Mùi thì ứng hợp với nhà tài phiệt Đoàn Kỳ Đoan“thân thế rất mực hiển hách” này cả đời giầu sang phú quý, con cái đầy đàn, còn thọ tới 80 tuổi.

Đẹp ở các tứ trụ Tòng được là hành vượng nhất là Dụng thần nên vào các vận kỵ thần hay cả hung thần khắc hành dụng thần cũng chỉ như “Muỗi đốt Inox” mà thôi, trừ khi cách Tòng này bị phá.

Đây mới là bài luận đại diện cho trường phái Dụng Thần, tức trường phái “Luận theo Vượng Suy” (tức tất cả phải dựa theo “Bảng Sinh Thành Lão Tử Dưỡng”), nói ngắn là “Vượng Suy Pháp”.

Quả thực đáng lo ngại trình độ các cao thủ Tử Bình cả Tầu lẫn VN trên mạng ảo không thể phát hiện ra là
sai giờ sinh.

Sửa bởi SongHongHa: 15/10/2025 - 09:39


#77 SongHongHa

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 448 Bài viết:
  • 115 thanks

Gửi vào 22/10/2025 - 07:00

Đoạn tô đỏ trong câu sau của bài viết ở trên đã sai :

"Vận Đinh Sửu là vận dụng thần :
Có Nhâm trong tứ trụ hợp với Đinh hóa Mộc thành công (vì có lệnh tháng Mộc là Thần dẫn) vì vận này Mộc có tới 6 can chi nên có thể Tòng Mộc. Nếu Tòng được Mộc thì Tiền Tài khỏi phải no, không giầu có thì cũng khá giả (mới lấy được vợ và sinh con). Còn nếu không Tòng Mộc được thì cũng không xấu lắm vì Nhâm trong tứ trụ là kỵ thần bị hợp là tốt, còn Đinh đại vận vẫn được gọi là vận dụng thần nhưng bị hợp điềm đẹp giảm đi nhiều".



Xin sửa lại là : "Còn nếu không hóa được Mộc..."

Thành thật xin lỗi mọi người.

#78 SongHongHa

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 448 Bài viết:
  • 115 thanks

Gửi vào 23/10/2025 - 07:00

Chương III - Phần Cao Cấp
I - Dụng thần của Tứ Trụ
1 - Dụng thần là gì ? Dụng thần cùng nghĩa với thuốc thần hay thần dược, nghĩa là thuốc cực quý dùng để chữa bệnh. Một người có bệnh thì được bác sĩ khám để xác định là bệnh gì thì mới tìm được thuốc chữa đúng căn bệnh đó. Thuốc tốt nhất để chữa đúng căn bệnh đó có thể ví như là thuốc thần hay thần dược. Trong tứ trụ cũng tương tự như vậy, đầu tiên phải xác định được độ vượng suy của 5 hành ở vùng tâm, sau đó mới xét đến hành của Thân nhược hay vượng hơn so với các hành kia thì mới biết được Thân vượng hay Thân nhược. Khi đã biết Thân vượng hay nhược rồi, thì hành nào có tác dụng tốt nhất làm Thân đang vượng thì bớt vượng đi hay Thân đang nhược thì được sinh hay phù trợ thêm cho bớt nhược, hành đó được gọi là hành dụng thần (thần dược).
Mỗi hành đều có 2 can và 2 chi mang hành dụng thần. Giả sử hành Mộc làm dụng thần thì ta có 4 can chi của hành dụng thần là Giáp, Ất, Dần và Mão. Vậy thì lấy cái nào làm dụng dần chính cái nào là dụng thần phụ ? Theo như kinh nghiệm của cổ nhân để lại thì can mới là khí tinh túy của dụng thần, còn chi thì đã có can tàng là bản khí, đó chính là khí tinh tuý đại diện cho dụng thần của chi đó. Nhưng can lại có hai can, vậy lấy can nào làm dụng thần chính ? Thì theo phương pháp của tôi can nào có điểm vượng theo lệnh tháng cao nhất sẽ được chọn làm dụng thần chính, cho dù nó ở bất kỳ vị chí nào trong tứ trụ (vì như thuốc quý được cất ở đâu trong nhà thì vị chí không quan trọng, mà quan trọng là thuốc nào có chất lượng tốt hơn). Điều này khác với cách xác định dụng thần của cổ nhân để lại.
Dụng thần này thường được gọi là dụng thần sinh phù, áp chế, nó là dụng thần quan trọng nhất trong tứ trụ.

2 - Vị trí của dụng thần chính trong tứ trụ
Nếu có nhiều can giống nhau là dụng thần chính xuất hiện trong tứ trụ thì ta chọn can lộ đầu tiên, sau đó đến can tàng bản khí và sau cùng mới đến can tàng tạp khí (vị trí của dụng thần là can tàng tạp khí: Đầu tiên nó tàng trong chi có hành sinh cho nó, sau đó đến chi có hành bị nó khắc, tiếp tới chi có hành có thể nhận được sự sinh từ nó và cuối cùng tới chi có hành khắc nó) theo thứ tự ưu tiên thì vị trí đầu tiên của nó ở trụ năm, sau đến trụ tháng rồi mới tới trụ ngày và cuối cùng là trụ giờ.


Có nhiều trường hợp dụng thần thuộc hành đầu tiên không có trong tứ trụ, cho nên ta phải lấy tới hành thứ 2 để thay thế (nghĩa là biết bệnh rồi mà không có đúng thuốc tốt để chữa mà phải lấy thuốc khác để thay thế). Nếu hành thứ hai này cũng không có trong tứ trụ thì phải lấy đến hành thứ 3 làm dụng thần. Dĩ nhiên dụng thần hành đầu tiên là tốt nhất sau mới tới hành thứ 2, cuối mới tới hành thứ 3. Liệu có thể lấy số điểm hạn để xác định sự yếu kém của chúng hay không thì đến nay tôi chưa xác định được. Riêng khi Thân nhược mà không có can Kiêu Ấn hay Tỷ Kiếp thì phải chọn can trụ ngày (Nhật can) làm dụng thần.

3 - Để cho ngắn gọn và đơn giản ta quy ước:

a - Đơn vị can-chi : 1 can hay 1 chi được gọi là 1 can-chi. Mỗi can hay mỗi chi bị khắc gần hay trực tiếp coi như hành của can hay chi bị khắc này giảm 0,5 can-chi.
b - Riêng ở mục này Nhật can được coi như 1 can-chi của Tỷ Kiếp.
c - Kiêu Ấn hay Thực Thương được gọi là :
- Nhiều khi chúng có ít nhất từ 3 can-chi trở lên hoặc có 2 can-chi ở trạng thái lâm quan hay đế vượng.
- Đủ khi chúng có 2 can-chi (không ở trạng thái lâm quan hay đế vượng).
- Ít khi chúng có 1 can-chi.
d - Gọi can làm dụng thần chính của tứ trụ là dụng thần.
e - Can hay chi mang hành của thần nào (trong 10 thần) thì nó được tính là can hay chi của thần (hành) đó.
f - Can tàng tạp khí và chi chứa nó không được tính là can chi của hành đó, nhưng hành của can tạp khí này vẫn được xem có trong tứ trụ.
Ví dụ : Mộc là Kiêu Ấn thì :
- Giáp, Ất, Dần và Mão được gọi là 4 can-chi kiêu ấn.
- Nếu trong tứ trụ chỉ có Giáp hay Ất tàng trong các chi Thìn, Mùi hay Hợi là tạp khí thì Giáp hay Ất chỉ được gọi là can tạp khí của kiêu ấn, vì vậy Giáp, Ất không được gọi là các can-chi kiêu ấn, nhưng trong tứ trụ vẫn có kiêu ấn hay hành của kiêu ấn (Mộc).
g - Trong các hành là kỵ thần, nếu hành nào có điểm vượng trong vùng tâm lớn nhất thì nó được gọi là kỵ thần số 1.
h - Trong các hành là hỷ dụng thần, nếu hành nào có điểm vượng trong vùng tâm lớn nhất thì nó được gọi là hỷ dụng số 1.
i – Hành kỵ thần số 1 lớn hơn hành hỷ dụng số 1 từ 10đv trở lên được gọi là hành kỵ vượng.
j - Điểm vượng của các can-chi từ 6đv trở lên được gọi là được lệnh còn nhỏ hơn 6đv thì được gọi là thất lệnh (hưu tù), được gọi là tử tuyệt nếu nó ở trạng thái Tử, Mộ hay Tuyệt.
k - Gọi là dụng thần áp chế khi nó có tính chất khắc, làm hao hay xì hơi Thân.
Ví dụ khi Thân vượng dụng thần áp chế : Là Thực Thương làm xì hơi Thân, là Tài tinh làm hao Thân, là Quan Sát khắc chế Thân.
l - Gọi là dụng thần sinh phù khi nó có tính chất sinh hay phù trợ Thân.
Ví dụ khi Thân nhược dụng thần sinh phù : Là Kiêu Ấn xì hơi Quan Sát sinh Thân, là Tỷ Kiếp phù trợ Thân, là Tỷ Kiếp khắc chế Tài tinh.

4 - Xác định dụng thần sinh phù, áp chế khi Thân vượng

Mẫu 1 : Kiêu ấn không có trong tứ trụ
1/tv (Thân vượng) - Nếu Thân vượng mà trong tứ trụ không có kiêu ấn (tức không có cả các can tàng tạp khí của nó) thì dụng thần đầu tiên phải là tài tinh, sau mới lấy đến thực thương (tức khi không có tài tinh), cuối cùng mới đến quan sát (tức khi không có tài tinh và thực thương).


Mẫu 2 : Kiêu ấn ít và thực thương không nhiều thì :
2/tv - Khi thế lực của Thân và Quan Sát tương đương nhau mà Thân lớn hơn Quan Sát ít nhất 0,5 can-chi (tức Quan Sát là hỷ dụng số 1) thì dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát (như ví dụ số 1 vua Càn Long), sau là Thực Thương, cuối cùng mới là Tài tinh (vì khi đó coi như Quan Sát vẫn còn thiếu cần thêm nhất - cái cần thêm nhất chính là dụng thần); nếu không dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương, sau là Tài Tinh, cuối cùng mới là Quan Sát (vì khi đó Quan Sát đủ rồi không cần thêm, mà cái cần thêm nhất là Thực Thương vì Thực Thương chế áp Quan Sát có lợi hơn xì hơi Thân nên Thân không bị giảm mà còn vượng hơn là càng đẹp).
3/tv - Khi thế lực của Thân và Tài tinh tương đương nhau (tức Tài tinh là hỷ dụng số 1) mà Thân không lớn hơn Tài tinh ít nhất 0,5 can-chi thì dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát, sau mới tới Tài tinh, cuối cùng mới là Thực Thương (vì khi Thân và Tài tinh tương đương nhau thì Thực Thương xì hơi Thân sinh cho Tài tinh nên Tài tinh dễ mạnh hơn Thân nên Thân dễ thành nhược là không thể chấp nhận được - trái với ý nghĩa của dụng thần).


Mẫu 3 : Kiêu Ấn ít và thực thương nhiều thì :
4/tv - Dụng thần đầu tiên phải là tài tinh, sau mới là đến quan sát, cuối cùng mới là thực thương (vì khi đó Thực Thương nhiều nên không cần thêm, còn Quan Sát bị Thực Thương chế áp quá mạnh thành quá yếu - coi như vô dụng, nên cái cần thêm nhất phải là Tài tinh).

Mẫu 4 : Kiêu ấn đủ trong tứ trụ
5/tv - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn đủ và thực thương không nhiều thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương (vì khả năng để chế ngự Thân vượng của quan sát là tốt nhưng nó chỉ bằng khả năng mà kiêu ấn xì hơi quan sát để sinh cho Thân là xấu), sau mới là tài tinh, cuối cùng mới là quan sát.
6/tv - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn đủ, thực thương không nhiều mà quan sát hợp với Nhật nguyên thì dụng thần đầu tiên vẫn có thể là quan sát.

Mẫu 5 : Kiêu ấn nhiều trong tứ trụ
7/tv - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn nhiều thì dụng thần (áp chế) đầu tiên phải là tài tinh (kiêu ấn nhiều có khả năng xì hơi hết quan sát để sinh cho Thân, vì vậy quan sát đã trở thành vô dụng nếu Quan Sát trong tứ trụ nó không khắc được Tỷ Kiếp, còn tài tinh có khả năng chế ngự kiêu ấn và làm hao tổn Thân), sau mới là thực thương (vì nó có khả năng xì hơi Thân vượng và làm hao kiêu ấn), cuối cùng mới là quan sát (vô dụng có thể gọi là nhàn thần nếu Quan Sát trong tứ trụ không khắc được Tỷ Kiếp hay Nhật can).

2 - Xác định dụng thần sinh phù, áp chế khi Thân nhược
8/tn (Thân nhược) - Nếu Thân nhược mà quan sát hay thực thương là kỵ 1 thì dụng thần (sinh phù) đầu tiên phải là kiêu ấn (bởi vì kiêu ấn có khả năng xì hơi quan sát để sinh cho Thân và chế ngự thực thương), sau mới đến tỷ kiếp. Nếu trong tứ trụ không có kiêu ấn và tỷ kiếp thì dụng thần cuối cùng phải là Nhật can.
9/tn - Nếu Thân nhược mà Tài tinh là kỵ thần số 1 thì dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp (áp
chế), còn dụng thần thứ 2 là Kiêu Ấn, nếu không có Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp thì dụng thần cuối cùng phải là Nhật can.

Bảng tra dụng thần sinh phù, áp chế

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Các ngoặc đơn trong sơ đồ trên có nghĩa như sau :
(>0,5 can-chi) cho biết Thân lớn hơn Quan Sát từ +0,5 can-chi trở lên.
(<0,5 can-chi) cho biết Thân chỉ lớn hơn Quan Sát dưới +0,5 can-chi.


Dụng thần sinh phù, áp chế là dụng thần quan trọng nhất dùng để dự đoán vận mệnh của con người.

Sửa bởi SongHongHa: 23/10/2025 - 07:06


#79 SongHongHa

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 448 Bài viết:
  • 115 thanks

Gửi vào 27/10/2025 - 07:18

6 - Các dụng thần bổ trợ (phụ)
Ngoài dụng thần sinh phù, áp chế trên, các sách cổ kim có đưa ra một số dụng thần khác như dụng thần điều hậu (nóng lạnh - khí hậu), dụng thần thông quan (hòa giải)dụng thần cứu ứng (giải cứu). Nhưng tôi thấy chúng chỉ như các dụng thần bổ trợ (phụ). Qua các ví dụ trong thực tế tôi thấy nhiều lúc dụng thần sinh phù, áp chế thường kiêm luôn cả một hay hai trong ba dụng thần này.

a - Dụng thần điều hậu (nóng lạnh) : Như trong tứ trụ có quá nhiều (can-chi) Thủy (lạnh) mà can chi Hỏa quá ít thì rất cần Hỏa (nóng) để sưởi ấm cho tứ trụ. Trong trường hợp này nếu bổ trợ cần kết hôn với người trong tứ trụ có Hỏa vượng hay làm các việc có liên quan đến Hỏa (hóa chất, lò rèn, luyện kim...) hoặc đi xuống phương nam so với nơi sinh của mình (tùy theo mức độ cần bổ trợ nhiều thì đi xa nhiều). Vì càng gần đường xích đạo thì càng ấm (nóng). Ngược lại nếu trong tứ trụ có quá nhiều (can-chi) Hỏa (nóng) mà can chi Thủy quá ít thì cần lấy vợ mà trong tứ trụ có Thủy vượng hay làm các việc liên quan đến Thủy hoặc sống gần sông, suối, hồ (nơi có nhiều nước), cũng như đi lên phương bắc (lạnh) để sống và làm việc là tốt nhất.

b - Dụng thần thông quan (hòa giải) : Như trong tứ trụ có 2 hành có thế lực đối địch ngang nhau thì hai cái đều tổn thất, đó là mệnh cục (tứ trụ) có bệnh. Do vậy rất cần có hành ở giữa để hóa giải sự đối địch này, hành đó chính là dụng thần thông quan.
Ví dụ 1 : Thế lực của hai hành Kim và Mộc đối dịch nhau trong tứ trụ mà ngang nhau thì rất cần một ít hành Thủy để hóa giải sự đối địch này làm cho chúng thông suốt. Bởi vì có Thủy thì Kim tương sinh với Thủy còn Thủy tương sinh với Mộc làm cho Kim Thủy Mộc tương sinh thông suốt với nhau, làm cho sự đối kháng (khắc) của Kim và Mộc giảm đi nhiều nên không bị thương tổn là rất đẹp.
Ví dụ 2 : Khi Thân vượng mà Quan Sát cũng vượng lúc này rất cần một ít Kiêu Ấn không đến lỗi vượng quá để xì hơi Quan Sát sinh Thân thì nó sẽ làm cho thế lực đối địch của hai bên cân bằng, nên không bị thương tổn, như thế mới được lộc trọng quyền cao.
Các cặp đối địch khác cũng được hóa giải tương tự như vậy.

Riêng cặp đối địch Tỷ Kiếp và Tài tinh, cả hai bên thế lực ngang nhau, bất phân thắng bại, nếu lấy Thực Thương thông quan để xì hơi Tỷ Kiếp và sinh Tài tinh thì làm cho Thân dễ từ vượng thành nhược vì Tài tinh được sinh thêm nên vượng hơn so với Thân bị xì hơi nên yếu đi. Ở đây Thực Thương không làm được nhiệm vụ của dụng thần thông quan. Do vậy Thực Thương chỉ có thể làm dụng thần thông quan khi Thân khá vượng, tức Thân phải lớn hơn Thược Thương ít nhất từ 0,5 can-chi trở lên.

Tóm lại khi trong tứ trụ có sự cân bằng tương đối thì cách chọn dụng thần thông quan như sau :
Tài tinh và Kiêu Ấn cùng vượng, cùng tương tranh, phải có một ít Quan Sát để thông quan; Kiêu Ấn và Thực Thương cùng vượng, cùng tương tranh, Nhật can được lệnh là có thể thông quan; Quan Sát và Tỷ Kiếp cùng vượng, cùng tương tranh, phải có một ít Kiểu Ấn là có thể thông quan.

Sau đây là một cách bổ cứu mà Trần Viên viết trong phần Nhập Môn cùng cuốn “Dự Đoán Theo Tứ Trụ” của ông Thiệu Vĩ Hoa:

Thầy Thiệu Vĩ Hoa khi đặt tên họ (cho người đến xem bói) bằng các ngũ hành để bổ cứu (bổ trợ) cho Tứ Trụ, thường lắm vững các phân lượng của dụng thần. Ví dụ có người trong tên cần thêm ba chữ thủy, có người chỉ cần thêm hai hoặc một, có người chỉ thêm chữ sương (mù), có người lại thêm chữ vũ (mưa) để làm nhuận lại. Cơ sở của vấn đề là chọn đúng mức độ (nhiều hay ít) của dụng thần”.

Các cách giải cứu khác :
Ví dụ Thân trong tứ trụ rất cần có thêm Mộc chẳng hạn thì nên tìm các việc làm liên quan tới Mộc hay gần nơi có nhiều Mộc (rừng, khu vực có nhiều cây cối) hoặc đi về phương Đông so với nơi mình sinh ra để sống và làm việc. Các hành khác cũng suy luận tương tự như vậy.

Tóm lại nếu trong tứ trụ thiếu hành gì mà rất cần đối với Thân hay rất cần làm cân bằng ngũ hành (thông quan) trong tứ trụ thì làm các công việc hay ở vùng có liên quan tới hành đó hoặc đi về phương mà hành đó thiếu (so với nơi mình sinh ra) để sống và làm việc là tốt nhất.

c - Dụng thần cứu ứng (giải cứu)
Ví dụ 1 - Trong tứ trụ Quan tinh có Lộc (tức Quan tinh là can ở trạng thái lâm quan - tức là Lộc tại các chi trong tứ trụ) thì thường chức cao vinh hiển nên Quan tinh rất sợ bị thương tổn khi gặp Thương quan khắc phá, khi đó rất cần có Kiêu Ấn để khắc chế Thương quan nhằm bảo vệ Quan tinh. Kiêu Ấn ở đây chính là dụng thần cứu ứng (rất đẹp khi Thân nhược, còn Thân vượng thì Kiêu Ấn chỉ cần vừa đủ để chế áp Thực Thương là được).
Ví dụ 2 - Trong tứ trụ gặp cả Quan tinh lẫn Thất Sát được gọi là “Quan Sát hỗn tạp” là rất xấu, khi đó rất cần hợp Quan lưu lại Sát hay hợp Sát lưu lại Quan mới giải được. Can hợp mất Quan hay Sát được gọi là dụng thần cứu ứng.
Ví dụ 3 - Trong tứ trụ có kỵ thần Kiếp tài khắc dụng thần Tài tinh, nếu trong tứ trụ có một ít Thực Thương thì có thể xì hơi Thân để sinh cho Tài tinh. Cho nên Thực Thương chính là dụng thần cứu ứng của Tài tinh. Hoặc có Quan Sát khắc chế kỵ thần Kiếp tài, thì Quan Sát cũng là dụng thần cứu ứng của Tài tinh.
Ví dụ 4 - Nếu trong tứ trụ có kỵ thần Tài tinh khắc dụng thần Ấn tinh thì dụng thần cứu ứng sẽ là can có thể hợp được Tài tinh, hay Tỷ Kiếp có thể khắc chế Tài tinh để bảo vệ Ấn tinh.
Ví dụ 5 : Trong tứ trụ có dụng thần Thực thần rất sợ bị kỵ thần Kiêu khắc (đoạt) nên rất cần Tỷ Kiếp đến để hóa giải (vì nó có khả năng hóa kỵ thần Kiêu để sinh cho Thực thần) để biến nguy thành an; hoặc có Tài tinh cũng có thể chế áp được Kiêu thần để giải cứu cho Thực thần. Cho nên Tỷ Kiếp hay Tài tinh ở đây đều có thể là dụng thần cứu ứng cho Thực thần.
Ví dụ 6 : Thân vượng mà Quan Sát nhược thì sức áp chế của Quan Sát với Thân không đủ nên rất cần một ít Tài tinh đến để sinh cho Quan tinh. Tài tinh ở đây đóng vai trò của dụng thần cứu ứng.

Tóm lại nếu kỵ thần hành A khắc chế dụng thần sinh phù, áp chế (hoặc thập thần cần được bảo vệ) thuộc hành B thì dụng thần cứu ứng là hành có thể xì hơi hành A đế sinh cho hành B, hay là hành có thể khắc chế được hành A, hoặc hành (can) hợp được với hành (can) A.

Nói chung ở đây chỉ đưa ra các cách giải cứu (cứu ứng) đơn giản để bạn đọc biết, còn kết quả của sự giải cứu đạt được nhiều hay ít rất khó nắm được chính xác, bạn đọc dần dần... mới có thể áp dụng được. Lúc đầu các bạn nên tập chung hiểu rõ, nắm vững dụng thần sinh phù, áp chế để áp dụng vào luận hành vận các ví dụ trong thực tế là đủ.
…...........................................................................
Tôi xin nói thêm “Bảng tra dụng thần sinh phù, áp chế” đăng ở bài trên là lấy hành kỵ thần số 1 làm chuẩn để xác định dụng thần sinh phù, áp chế thứ nhất, chứ không lấy các thập thần nhiều, ít hay đủ để xác định. Hy vọng các bạn thử lập bảng tra dụng thần sinh phù, áp chế theo thập thần nhiều, ít hay đủ hoặc kết hợp cả hai xem sao?


Nếu lấy kỵ thần số 1 làm chuẩn để xác định dụng thần sinh phù, áp chế thứ nhất thì bảng tra trên thiếu một trường hợp là khi Thân vượng mà Kiêu Ấn không có trong tứ trụ, khi đó Quan Sát khắc trực tiếp Thân nên Thân dễ bị thương tổn (vì không có dụng thần Thông Quan cho dù Quan Sát nhược) nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh. Vì vậy ở đây Kiêu Ấn không có cũng giống như Kiêu Ấn nhiều.

Vì vậy “Bảng tra dụng thần sinh phù, áp chế” được sửa lại (26/10/2025) là:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



II - Dụng thần của các mệnh cục đặc biệt

Nói chung cách xác định dụng thần của các mệnh cục đặc biệt này (thường được gọi là ngoại cách hay Tòng cách hoặc Tòng theo) hoàn toàn ngược với các cách thông thường. Trong các trường hợp của ngoại cách này, dụng thần của chúng là dựa theo thế vượng của các hành này, có nghĩa theo Tòng cách thì hành vượng nhất là dụng thần, còn hành sinh ra nó và hành xì hơi nó là hỷ thần, còn hành khắc nó và bị nó khắc là kỵ thần.
Nói một cách đơn giản, dễ hiểu là nếu không may phải sống trong môi trường xã hội toàn những người là kẻ thù của mình thì tốt nhất phải dựa vào họ (Tòng theo) để sống mới có thể yên ổn nếu không tính mạng khó mà bảo toàn.

1 - Cách Tòng theo
- Trong tứ trụ có 4 hay 5 can chi cùng hành, trong đó phải có ít nhất 3 chi, nếu chỉ có 2 chi thì chúng phải ở trạng thái Lâm quan hay Đế vượng tại Lệnh tháng, muốn Tòng theo hành này thì phải không có can chi Quan Sát và lớn hơn Tài tinh từ 20đv trở lên.
- Trong tứ trụ có từ 6 can chi cùng hành trở lên, muốn Tòng theo hành này thì phải không có can chi Quan Sát và lớn hơn Tài tinh từ 20đv trở lên.
- Cách Tòng theo Tỷ Kiếp (hành của Nhật can) các sách cổ kim thường gọi là cách Độc vượng.

2 - Cách hóa khí (hành của Nhật can bị thay đổi)
Nhật can hợp với can bên cạnh (can tháng hoặc can giờ) hóa thành cục có hành khác với hành của Nhật can, muốn Tòng theo hành này (tức Tòng theo Cách hóa khí) thì hoàn toàn giống như cách Tòng theo.

Nói chung can trụ ngày (Nhật can) hợp với can bên cạnh rất khó hóa được cục. Muốn hóa được cục thì phải có thần dẫn và không có can chi Tỷ Kiếp (theo Nhật can) cũng như trong tứ trụ không có can chi Quan Sát của hành hóa cục này.

3 - Cách Lưỡng Vượng
Cách Lưỡng vượng là cách mà hai hành liền nhau có thế lực tương đương nhau, đều có từ 3 can chi trở lên, trong đó có một hành có ít nhất từ 20đv lớn hơn Tài tinh của hành này và 2 hành này không được lớn hơn nhau 5đv, cũng như không có can hay chi Quan Sát của hành này. Dụng thần thứ nhất của cách Lưỡng vượng thường là hành có điểm vượng cao nhất, trừ khi hành ngay bên trái của 2 hành này khuyết (tức không có hay chỉ có can tàng là tạp khí) thì dụng thần đầu tiên phải là hành thứ ba bên phải so với hành bị khuyết này. Khi xác định được dụng thần thứ nhất thì hỷ thần hay kỵ thần xác định hoàn toàn giống như cách Tòng theo.
(Tạm thời như vậy vì các ví dụ loại này tôi chưa gặp nhiều.)

Sửa bởi SongHongHa: 27/10/2025 - 07:46


#80 SongHongHa

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 448 Bài viết:
  • 115 thanks

Gửi vào 30/10/2025 - 20:55

Câu tô đỏ trong đoạn trích sau là sai :
"3 - Cách Lưỡng Vượng
Cách Lưỡng vượng là cách mà hai hành liền nhau có thế lực tương đương nhau, đều có từ 3 can chi trở lên, trong đó có một hành có ít nhất từ 20đv lớn hơn Tài tinh của hành này và 2 hành này không được lớn hơn nhau 5đv, cũng như không có can hay chi Quan Sát của hành này. Dụng thần thứ nhất của cách Lưỡng vượng thường là hành có điểm vượng cao nhất, trừ khi hành ngay bên trái của 2 hành này khuyết (tức không có hay chỉ có can tàng là tạp khí) thì dụng thần đầu tiên phải là hành thứ ba bên phải so với hành bị khuyết này. Khi xác định được dụng thần thứ nhất thì hỷ thần hay kỵ thần xác định hoàn toàn giống như cách Tòng theo.
(Tạm thời như vậy vì các ví dụ loại này tôi chưa gặp nhiều.)"

Xin sửa lại là :
"thì dụng thần đầu tiên phải là hành thứ hai bên phải so với hành bị khuyết này"

Thành thật xin lỗi mọi người.

#81 SongHongHa

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 448 Bài viết:
  • 115 thanks

Gửi vào 31/10/2025 - 16:58

Tôi đang có ý định kiểm tra xem có nên lấy 7 ví dụ trong phần "Binh Pháp Tử Bình về luận hành vận" làm 7 ví dụ đầu tiên trong cuốn sách này hay không thì mới phát hiện ra ví dụ số 2 và số 3 tôi chưa đăng mới lạ chứ ?
Vì vậy tôi xin đăng tiếp :


Ví dụ số 2 : Là ví dụ 50 trong cuốn Trích Thiên Tủy
(Ai muốn đọc cứ gõ lên Google chủ đề “VULONG1 - Trích Thiên Tủy” - đây là phần I, còn phần II, gõ lên Google chủ đề “VULONG1 - Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận sẽ có ngay).

50 - Nhâm Thân - Bính Ngọ - ngày Canh Ngọ - Canh Thìn
Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Trụ này bính hỏa sát tinh tuy vượng, nhâm thủy có căn gốc ở thân kim, nhật chủ được canh kim tương trợ, được chi thìn thổ tương sinh. Dụng nhâm thủy chế sát, thiên can đồng thuận; địa chi đồng thuận, nhất chế nhất hóa, thật là hữu tình. Vận kim thủy thật đẹp, quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc”.

Ta thấy Tứ Trụ này có một thông tin đẹp liên quan tới Nhâm trụ năm là Thực Thần và Bính trụ tháng là Sát qua câu Phú 19 - Thực thần chế Sát là anh hùng áp đảo vạn người, tức dễ được làm tướng soái trấn giữ một phương. Đúng như bài luận cho biết “quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc”.


(Nên nhớ rằng Thực chế Sát vừa phải thôi để nó giúp mình được thăng chức, tăng Quan còn nếu chế mạnh quá sẽ bị phản lại không những không được thăng chức khéo còn bị mất chức, vào tù...)

Ta thấy các vận mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi” có các can là Kiêu ẤnTỷ Kiếp rõ ràng phải đẹp như bài luận trên thì chúng phải là các hỷ dụng thần nên Thân của Tứ Trụ này phải nhược. Thân nhược mà người bình (Từ Nhạc Ngô) lại luận “Dụng nhâm thủy chế sát” tức cho rằng Nhâm (Thực Thương)dụng thần, tức Thân phải vượng. Điều này trái ngược với “Binh Pháp Tử Bình” mà tôi đã luận ở trên.
Theo tôi Thân đã nhược mà vào vận Nhâm Týkỵ vận, vì Nhâm (Thực Thần)kỵ thần nhưng ở đây không phải chỉ là vận kỵ thần mà nó có thể thành vận hung thần (vận xấu nhất) đến mức nặng thì chết còn nhẹ thì mất chức vào tù. Bởi vì Nhâm (Thực Thần) đế vượng ở vận Tý chế Bính (Sát) chết hẳn (ở đây mất chức do bị sát phạt) nên không còn quyền bính nữa (nếu nhẹ, còn nặng thì chết hay vào tù).

Để kiểm tra Thân vượng hay nhược ta "Dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược" của tôi xem sao.
Sơ đồ Tứ Trụ này như sau :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ này ta thấy Thân (Kim) có 12,897đv nhỏ hơn Quan Sát (Hỏa) có 13,39đv nên Thân nhược điều này chứng tỏ luận theo “Binh Pháp Tử Bình về luận hành vận” là đúng.

Do vậy người bình đã bình sai lại còn không biết đến sự xấu, nguy hiểm vô cùng của vận Nhâm Tý lại còn cho rằng Nhâm là dụng thần mới Khủng chứ ? Là Một trong 2 cuốn sách hay nhất về Tử Bình hiện nay còn luận như vậy đấy?
Cách giải hạn này đơn giản mà hiệu quả nhất là trước khi đến vận Nhâm Tý hãy cáo lão hồi hương là tốt nhất.

Ví dụ số 3 : Là ví dụ 51 trong cuốn Trích Thiên Tủy
"51 - Nhâm Ngọ - Bính Ngọ - Canh Thân - Mậu Dần
Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý/ Quý Sửu
Mệnh này với mệnh trên, đại đồng mà tiểu dị, nhật chủ tọa lộc thân kim, nhâm thủy cũng khẩn chế sát, cớ sao danh lợi đều không, mệnh này chung thân không phát được sao? Cái khác nhau là mệnh trên nhâm thủy tọa thân kim, thực thần vượng có thể chế sát, mệnh này nhâm thủy tọa ngọ tức lâm tuyệt địa, không có lực chế sát vậy; mệnh trên thiên can thấu canh có thể trợ nhật chủ lại có thể sinh nhâm thủy, mệnh này thiên can thấu mậu thổ khắc thủy, không thể sanh thực thần. Tả hữu không tình hiệp vậy".


Ta thấy Tứ Trụ này cũng có thông tin đẹp là Nhâm trụ năm là Thực Thần và Bính trụ tháng là Sát liên quan tới câu Phú “19 - Thực thần chế Sát là anh hùng áp đảo vạn người”. Nhưng bài luận cho biết : “cớ sao danh lợi đều không, mệnh này chung thân không phát được sao?”. Nghĩa của từ “chung thân” là phần giữa cuộc đời con người khoảng 30 đến 50 năm (tức từ khoảng 25 tuổi tới 55 tuổi) là xấu. Khoảng này tương đương với các vận Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất và Tân Hợi đều là các vận Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp. Vậy thì các vận này phải xấu tức chúng phải là các vận kỵ thần thì dĩ nhiên Tứ Trụ này phải có Thân vượng. Vào các vận xấu (kỵ thần) thì làm sao trở thành “Anh hùng áp đảo vạn người” được.

Để kiểm tra Thân vượng hay nhược ta dùng
"Dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược" của tôi xem sao.
Sơ đồ Tứ Trụ này như sau :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Qua sơ đồ này ta thấy Thân (Kim) có 16đv lớn hơn quan Sát có 13đv trên 1đv nên có Thân vượng. Điều này đã chứng minh “Binh Pháp Tử Bình về luận hành vận” thêm một lần nữa là đúng.
Còn các vận sau là Nhâm Tý, Quý Sửu có can là Thực Thương đều là hỷ dụng thần nên chắc đẹp nhưng tác giả không cho biết đẹp tới mức nào?


Chỉ cần 2 ví dụ 50 và 51 này đủ để kiểm tra trình độ xác định Thân vượng hay nhược của bất kỳ cao thủ Tử Bình nào.

Sửa bởi SongHongHa: 31/10/2025 - 17:28


#82 Đinh Văn Tân

    Ban Điều Hành

  • Ban Điều Hành
  • 8467 Bài viết:
  • 19018 thanks

Gửi vào 01/11/2025 - 02:47

Tôi có.
TRÍCH THIÊN TỦY (trước mặt đây), nguyên tác Lưu Bá Ôn, Nhâm Thiết Tiều bình giảng; mục lục gồm 34 chương, từ 1 đến 34.
Chương 1 . Thiên đạo.
Dục thức tam nguyên vạn pháp tông, tiên quan đế tái dữ thần công .
Nhậm thị bình .
.........
Chương 12. Bát cách .

Có Vulong, Vuliec gi đâu ?

Thanked by 2 Members:

#83 SongHongHa

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 448 Bài viết:
  • 115 thanks

Gửi vào 01/11/2025 - 08:44

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đinh Văn Tân, on 01/11/2025 - 02:47, said:

Tôi có.
TRÍCH THIÊN TỦY (trước mặt đây), nguyên tác Lưu Bá Ôn, Nhâm Thiết Tiều bình giảng; mục lục gồm 34 chương, từ 1 đến 34.
Chương 1 . Thiên đạo.
Dục thức tam nguyên vạn pháp tông, tiên quan đế tái dữ thần công .
Nhậm thị bình .
.........
Chương 12. Bát cách .

Có Vulong, Vuliec gi đâu ?

Xin lỗi ông Tân vì cuốn sách này đã được dịch bởi :

(9 chương đầu được dịnh bởi vnn1269.
Số thứ tự của các ví dụ do tôi thêm vào cho thuận tiện khi nghiên cứu).

........................................................................................................
Sau đây là đoạn được dịch tiếp bởi Phiêu Diêu (bên tuvilyso.net):
.............................................................................................................

Gửi vào 19/12/2014 - 12:05
Sau đây tôi đăng tiếp một số chương do một người quân tử gửi tặng tôi. Hy vọng rằng người quân tử này đồng ý với quyết định của tôi.

Một lần nữa tôi xin chân thành cám ơn người quân tử này
.................................................................................................


Còn phần 2 về Lục Thân Luận do Lê Soi dịch bên "Kim Tử Bình"

[Gửi vào 06/04/2015 - 00:26
quote name='VULONG1' timestamp='1428276389' post='537611']
Sau đây là bài dịch của Lesoi bên "Kim Tử Bình" (Tử Bình Diệu Dung):
(Số thứ tự các ví dụ tôi đánh tiếp theo Phần I của cuốn Trích Thiên Tủy)


Có nhiều người đã dịch cuốn Trích Thiên Tủy cách nay hơn 10 năm rồi, nên ông Tân có dịch bây giờ thì hơi.... muộn rồi đấy, ở đây chưa nói tới trình độ tiếng Tầu của ông Tân ra sao?

Sửa bởi SongHongHa: 01/11/2025 - 08:49


#84 SongHongHa

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 448 Bài viết:
  • 115 thanks

Gửi vào 03/11/2025 - 07:25

Để ý đọc lại thấy ông Tân viết :
"Tôi có.
TRÍCH THIÊN TỦY
(trước mặt đây), nguyên tác Lưu Bá Ôn, Nhâm Thiết Tiều bình giảng; mục lục gồm 34 chương, từ 1 đến 34..."

Câu "(Trước mặt đây)" theo tôi hiểu nó có nghĩa là không phải ông Tân dịch mà bởi một ai đó địch mà ông Tân có được mà thôi? Bởi vì theo tôi nghĩ nếu ông Tân dịch được thì đã đăng ở Tử Vi Lý Số này từ lâu rồi chứ làm gì bây giờ mới cho mọi người biết như vậy?

Nhưng nếu ông Tân muốn giới thiệu cho mọi người biết bản dịch mới này tốt hơn các bản dịch mà tôi đã đăng lại của vnn1268, Phiêu Diêu, Lesoi và người dấu tên tặng tôi thì hãy đăng nên đây cho mọi người cùng tham khảo và đánh giá, chỉ sợ rằng đây chỉ là bản dịch của AI mà thôi?

Hy vọng ông Tân sớm đăng bản dịch này ngay trong mục Tử Bình này khi mọi người đang háo hức, chờ mong.

Tôi xin thay mặt mọi người cám ơn ông Tân trước.

Sửa bởi SongHongHa: 03/11/2025 - 07:38


#85 Đinh Văn Tân

    Ban Điều Hành

  • Ban Điều Hành
  • 8467 Bài viết:
  • 19018 thanks

Gửi vào 03/11/2025 - 10:39

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

SongHongHa, on 03/11/2025 - 07:25, said:

Để ý đọc lại thấy ông Tân viết :
"Tôi có.
TRÍCH THIÊN TỦY
(trước mặt đây), nguyên tác Lưu Bá Ôn, Nhâm Thiết Tiều bình giảng; mục lục gồm 34 chương, từ 1 đến 34..."

Câu "(Trước mặt đây)" theo tôi hiểu nó có nghĩa là không phải ông Tân dịch mà bởi một ai đó địch mà ông Tân có được mà thôi? Bởi vì theo tôi nghĩ nếu ông Tân dịch được thì đã đăng ở Tử Vi Lý Số này từ lâu rồi chứ làm gì bây giờ mới cho mọi người biết như vậy?

Nhưng nếu ông Tân muốn giới thiệu cho mọi người biết bản dịch mới này tốt hơn các bản dịch mà tôi đã đăng lại của vnn1268, Phiêu Diêu, Lesoi và người dấu tên tặng tôi thì hãy đăng nên đây cho mọi người cùng tham khảo và đánh giá, chỉ sợ rằng đây chỉ là bản dịch của AI mà thôi?

Hy vọng ông Tân sớm đăng bản dịch này ngay trong mục Tử Bình này khi mọi người đang háo hức, chờ mong.

Tôi xin thay mặt mọi người cám ơn ông Tân trước.

Bái SongHongHa .
Tôi có mặt tại TVLS nầy từ khi còn là thô sơ kia lặng . Sau đó mới có domain tvls.com rồi net nay là đến org , Ngài ơi.

Tôi đăng Ngủ Thủ Dụng Pháp cho Dụng Thần Trong Tử Bình cách đây hơn 15 năm năm rồi, sách do tôi dịch, cũng còn đây .
Không tin Ông cứ tìm hay nhờ người khác tìm trong tvls.com cho , cũng tên tôi, không thay đổi .
Sách tôi, tôi chỉ biếu có 2 người trong đây, 1 người tôi quên ních, ngưới khác là Thiên Việt Hội viên đây lâu năm, tên ngoài đời là Nguyễn văn Bảo , học TS bên Thụy sĩ về làm cho UBND Thành phố H.C.M . Tôi nói cho có tên có tuổi để chứng minh cò thực .

Sách nầy tôi chính tay tôi mua ở Đài Loan (chính tay nghĩa là tôi đứng mua bên đó), khi tôi là Thượng khách mời năm 1972 .
Tôi đốt hết chỉ còn cái hình ngồi ăn với Phó Tổng Thống Nghiêm Gia Giám , muốn coi thì tôi cho coi .

Thưa Ngài . Ngài biết AI là cái chi không ? AI mới có đây . Sách tôi dịch đánh máy ra rồi sau khi lệnh đốt sách đã yên, tôi đào dưới đất lên, đánh lên tờ giấy bổi (tờ giấy pelure vàng khè), sau đánh lại lần nửa trên giáy trắng .
Sách Quỷ Cốc Toán Mệnh tôi làm một mình năm 1990 khi đó mới có máy tính chạy bằng DOS thôi, rồi đem in .
Sách nầy có bán bên Mỹ, bên Âu châu, không bán ở VN , nhưng tôi có đăng ký tại 3 Thư viện lớn nhứt Saigon, Ha Nội, Huế .

Thanked by 4 Members:

#86 Cún

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2662 Bài viết:
  • 4315 thanks
  • LocationBách Việt

Gửi vào 03/11/2025 - 11:08

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đinh Văn Tân, on 03/11/2025 - 10:39, said:

Sách nầy tôi chính tay tôi mua ở Đài Loan (chính tay nghĩa là tôi đứng mua bên đó), khi tôi là Thượng khách mời năm 1972 .
Tôi đốt hết chỉ còn cái hình ngồi ăn với Phó Tổng Thống Nghiêm Gia Giám , muốn coi thì tôi cho coi .

Ông Tân làm Quan đúng mà. Sao Ông Tân không kể luôn vụ Ông Tân là người chịu trách nhiệm xây dựng Đập ở Huế, không ăn một xu. Rồi Nhạc phụ của Ông Tân là người thả Tướng Giáp ra.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 3 Members:

#87 gaido111

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 260 Bài viết:
  • 124 thanks

Gửi vào 03/11/2025 - 15:40

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Cún, on 03/11/2025 - 11:08, said:

Ông Tân làm Quan đúng mà. Sao Ông Tân không kể luôn vụ Ông Tân là người chịu trách nhiệm xây dựng Đập ở Huế, không ăn một xu. Rồi Nhạc phụ của Ông Tân là người thả Tướng Giáp ra.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


cụ Tân kể chuyện đi cụ Tân ơi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#88 Đinh Văn Tân

    Ban Điều Hành

  • Ban Điều Hành
  • 8467 Bài viết:
  • 19018 thanks

Gửi vào 03/11/2025 - 17:48

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Cún, on 03/11/2025 - 11:08, said:

Ông Tân làm Quan đúng mà. Sao Ông Tân không kể luôn vụ Ông Tân là người chịu trách nhiệm xây dựng Đập ở Huế, không ăn một xu. Rồi Nhạc phụ của Ông Tân là người thả Tướng Giáp ra.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Cám ơn cô Cún . Tại sao Tre trở thành Cưng

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.
Nghe đâu thì nghe cho rõ, đừng bắt chuyên nầy qua chuyện kia trở thành sai, người ta cười . Đập đá Tây xây khi tôi chưa có.
Chợ Đông ba, Nhà hát Thành phố Huế, nhà nghỉ mát Bạch mã, đương lên Bạch mã thì có . Công trình do tôi quản, không có chữ ký của tôi thì nhà thầu không lấy tiền được . Caí nhà hát lớn lắm 1200 chổ ngồi, hiện đại hồi đó . Tôi nhờ người tìm không thấy, nay sau lụt , họ dùng chổ nầy làm chổ tập kết sửa xe cho người bị ngập, nay dùng chức năng gì không biết nhưng nhìn mặt tiền đúng là cái nhà tôi xây hồi xưa .
Bạch mã là duyên, khi xưa 1942 tôi đã ở đó 1 tháng . 1956 tôi trở lại xây 2 tòa nhà và con đường 2 chiều di lên Bạch mã . Nuôi một đội tu bổ đường nầy 12 người trong 3 năm .
Hồi xưa cũng có thớ ở Huế lắm đó .

Thanked by 2 Members:

#89 Cún

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2662 Bài viết:
  • 4315 thanks
  • LocationBách Việt

Gửi vào 03/11/2025 - 18:22

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đinh Văn Tân, on 03/11/2025 - 17:48, said:



Cám ơn cô Cún . Tại sao Tre trở thành Cưng

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.
Nghe đâu thì nghe cho rõ, đừng bắt chuyên nầy qua chuyện kia trở thành sai, người ta cười . Đập đá Tây xây khi tôi chưa có.
Chợ Đông ba, Nhà hát Thành phố Huế, nhà nghỉ mát Bạch mã, đương lên Bạch mã thì có . Công trình do tôi quản, không có chữ ký của tôi thì nhà thầu không lấy tiền được . Caí nhà hát lớn lắm 1200 chổ ngồi, hiện đại hồi đó . Tôi nhờ người tìm không thấy, nay sau lụt , họ dùng chổ nầy làm chổ tập kết sửa xe cho người bị ngập, nay dùng chức năng gì không biết nhưng nhìn mặt tiền đúng là cái nhà tôi xây hồi xưa .
Bạch mã là duyên, khi xưa 1942 tôi đã ở đó 1 tháng . 1956 tôi trở lại xây 2 tòa nhà và con đường 2 chiều di lên Bạch mã . Nuôi một đội tu bổ đường nầy 12 người trong 3 năm .
Hồi xưa cũng có thớ ở Huế lắm đó .

Dạ, lỗi do con nói không rõ, ý con không phải Đập Đá đâu. Con nhớ có chỗ nào (đập hay hồ nào) có liên quan đến lũ đó, rồi có người kiểm tra Ông nhưng vì Ông không ăn một xu nên họ không làm gì Ông được, con nghe mấy năm trước rồi, lúc đó Huế ngập, Ông nói vô phương rồi. Đúng vậy thật, sau nhiều năm, năm nay đúng nặng luôn Ông Tân ơi. Haizzz haizzz.

Mình flex xíu thôi mà, mình người thật việc thật, không phải nổ nên con không sợ người cười hi hi, có Ông Tân ở đây chỉnh cho con nếu con nhớ lệch xíu <3 <3

#90 Đinh Văn Tân

    Ban Điều Hành

  • Ban Điều Hành
  • 8467 Bài viết:
  • 19018 thanks

Gửi vào 03/11/2025 - 18:37

Đó là vụ Đắp đập cửa Thuận an (ngoài biển) Nguyễn chánh Thi khi đó Chuẩn Tướng làm trời làm đất đi kiểm tra vụ sửa cái đập coi thử Ông Tỉnh trưởng ăn bao nhiêu . Tôi là Chủ tịch Hội đồng tiếp thu, nhận rồi . Thực hiện công trình đúng tiêu chuẩn nên Ông ấy không làm gì được . Nhớ tên sai chút .

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

3 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |