0
TRUYỆN NGẮN
Viết bởi tuphuongsg, 11/09/16 19:01
312 replies to this topic
#31
Gửi vào 29/04/2019 - 21:08
Dạ, con chỉ có thể nói được 2 chữ: NHÂN VĂN
#32
Gửi vào 29/04/2019 - 21:26
Ký ức tháng tư - Huế 1975
Sau 30.4.1975, tôi được đài Tiếng nói Việt Nam (hồi đó Truyền hình VN còn nằm trong đài TNVN) cử vào tiếp quản đài Truyền hình Huế. Tuy chỉ ở Huế 12 tháng, nhưng thành phố này đã cho tôi, chàng trai 24 tuổi, nhiều nhận thức mới.
Ngày đó tôi chỉ là một công nhân quèn, quèn nhất trong một cơ quan mà đa số là các kỹ sư tốt nghiệp ở những trường đại học nổi tiếng nhất của phe XHCN. Nhờ có lý lịch miền Nam tập kết và cái chất thợ, vừa biết cơ khí, vừa biết điện tử nên tôi được giao nhiệm vụ này.
Cho đến tận cuối năm 1976, cầu Hiền Lương vẫn là giới tuyến giữa hai miền Nam-Bắc, chỉ ai có giấy phép của Ban Thống nhất Trung uơng mới được qua lại. Trong suốt 12 tháng đó, tôi phải ra vào nhiều lần, lúc thì mang phim ảnh, lúc thì phải ra Đại học Bách khoa học tại chức.
Vì ba tôi có nhiều bạn bè ở Ban Thống nhất nên mỗi lần đi lại, tôi lên Quốc Tử Giám làm giấy tờ rất nhanh. (Hồi đó chưa có tệ tham nhũng sách nhiễu như ngày nay, nhưng bệnh khệnh khạng cửa quyền thì đã ngấm vào da thịt, quan hệ vẫn cần thiết). Ban Thống nhất cũng là cơ quan kết nối giữa quân đội và dân chính nên tôi thường đi ghé các chuyến xe tải của bộ đội.
Hà Nội - Huế cách nhau chỉ 650 km, nhưng chiến tranh mới kết thúc, đường xấu, xe cộ tồi tàn, lại vướng hàng chục trạm kiểm soát nên mỗi chuyến đi mất gần một ngày một đêm. Chúng tôi thường phải nghỉ đêm ở Quảng Bình hay Hà Tĩnh. Mỗi người lính khi ra Bắc thường mang theo một con búp bê nhựa để làm quà. Nhờ thế tôi học được câu nói phân định khối lượng của cải mang theo ra Bắc của nhà lính: Tuớng tấn, tá tạ, úy yến, lính lạng.
Những thị trấn tôi đi qua hồi đó như: Vĩnh Linh, Đông Hà, Quảng Trị là những bãi tro tàn đúng nghĩa. Nhưng Huế là một đô thị đẹp, cổ kính và yên tĩnh mà tôi chưa hề biết đến.
Qua khỏi Cầu mới (nay là cầu Phú Xuân), ấn tượng đầu tiên đập vào mắt tôi là khu Bệnh viện Trung ương Huế do Tây Đức xây dựng. Hồi đó ở Hà nội chưa có bệnh viện nào hiện đại và sạch sẽ như vậy. Tôi thích thú ngắm các thùng rác xi măng hình tròn với dòng chữ „Cho tôi xin rác“ xây trên vỉa hè. Các cô nữ sinh mặc áo dài trắng toát, đôi nón lá bài thơ thướt tha trên những đế guốc cao làm cho chàng trai Hà Nội không khỏi nghĩ đến các cô gái áo mặc bông chần ngoài Bắc.
Đài Truyền hình Huế nằm bên góc đường Lê Thánh Tôn (nay là đuờng Hà Nội), tiếp giáp đường Lý Thường Kiệt, trên một mảnh đất hơn 1000 mét vuông là một sự ngạc nhiên nữa cho tôi. Bằng một thiết kế gọn nhẹ và hiện đại kiểu Mỹ, hơn 20 nhân viên của đài đảm bảo mỗi ngày phát sóng từ 5-6 giờ cho một vùng lãnh thổ từ Gio Linh vào đến Đà Nẵng. Trạm tiếp sóng trên đèo Hải Vân phủ sóng Đà Nẵng, hầu như không cần người quản lý.
Truyền hình miền Nam lúc đó đi trước miền Bắc khá xa. Bốn đài: Sài Gòn, Cần Thơ, Quy Nhơn và Huế cho phép 80% dân chúng được xem TV hàng ngày. Ở ngoài Bắc cho đến 1977, chỉ có khu vực Hà nội được xem TV và không phải ai cũng được mua TV.
Việc tiếp quản đài thực ra không có gì khó khăn. Các nhân viên cũ của đài và những người vào truớc tôi đã khôi phục mọi hoạt động kỹ thuật. Việc lớn nhất là thống nhất tiêu chuẩn kỹ thuật truyền hình giữa hai hệ của Mỹ và của các nuớc XHCN cũng không phải là khó khăn gì cho anh em chúng tôi.
Điều làm cho tôi áy náy nhất là kho phim tư liệu đã bị anh em bộ đội phá tanh bành. Mặc dù tôi có ý muốn cứu những cuộn phim tư liệu 16mm này, nhưng chúng bị coi là „văn hóa phẩm đồì trụy“ nên không ai quan tâm đến ý kiến của tôi. Vả lại tôi chỉ là thằng tép riu nhất trong tất cả những ai tham gia tiếp quản đài Huế khi đó. Sau một chuyến ra Bắc trở về, tôi thấy kho phim đã biến mất và thành phòng làm việc cho chị phó giám đốc, phụ trách tổ chức.
Nếu tôi kể hết nỗi vui mừng của tôi khi được tiếp xúc với kho âm nhạc và văn chương miền Nam ở Huế hoặc sự mê mẩn của tôi đối với những dàn Akai-Stereo, máy ảnh Canon, đồng hồ Seiko v.v. thì mọi người sẽ chỉ coi đó là niềm vui của con cá từ một vũng lầy được may mắn xuống ao. Nhưng ấn tượng đầu tiên của tôi về người Huế (và miền Nam) lại là chị điện thoại viên bên sở văn hóa thông tin.
Đài truyền hình Huế lúc đó do ban Quân quản và sở Văn hóa Thông tin quản lý. Mỗi lần có việc phải gọi điện thoại sang sở, lúc thì gặp chị công chức cũ phụ trách tổng đài, lúc thì gặp một o bộ đội thông tin mới ở chiến khu về.
Các o bộ đội thường có giọng nói khô khan gắt gỏng: Ai đấy? Muốn gặp ai? Đi vắng rồi nhé ! Cúp máy. Trong đời, các cô hay tết hai đuôi sam, hay cười ngặt nghẽo, dễ thương như bạn gái tôi ngoài Hà Nội. „Thói quen nghề nghiệp mà anh“, một cô bẽn lẽn nói vậy, khi gặp tôi.
Mỗi lần gặp chị viên chức cũ với giọng nói ngọt ngào: „Dạ, anh chờ chút, để em nối máy“ thì gã công nhân quèn, quen nghe giọng dùi đục chấm mắm cáy lại cảm thấy ít ra mình cũng là thằng nào đó. Trai chưa vợ, được một giọng phụ nữ ngọt ngào gọi anh xưng em, bằng tiếng Huế, thật khó quên.
Những ngày đầu tiên, truớc khi cô Mùi về nấu bếp cho đài, chúng tôi hàng ngày sang sở Văn hóa ăn cơm trưa. Tôi tìm cách gặp được người phụ nữ với giọng Huế ngọt ngào đó.
Chị lớn hơn tôi gần chục tuổi, có khuôn măt dễ ưa. Trong khi "lương cách mạng" cấp cho chị không đủ 10 ngày ăn của gia đình, nhưng chị vẫn đánh phấn nhẹ, mặc áo dài, đi guốc cao gót để hàng ngày làm một công việc không cần đến ngoại hình, không cần trang điểm. Thì ra đó là nếp sống. Giữa những o bộ đội dễ thương kia và nguời phụ nữ Huế này là một khoảng cách văn hóa không nhỏ!
Cứ như vậy, tôi lần lượt vấp hết cú sốc văn hóa này đến cú khác. Từ những nụ cuời chào đón và tiễn khách hàng, đến cốc nuớc chè sau mỗi bữa ăn, đến gói hàng xếp vào túi ny-lon đều là những điều xưa nay tôi không bao giờ được hưởng, kể cả ở các cửa hàng „Thanh niên làm theo lời Bác“.
Miền Nam mới hòa bình, cơ quan nào cũng chịu cảnh bè phái giữa các nhóm: Cán bộ tập kết ở Bắc trở về, cán bộ hoạt động nội thành (nằm vùng) và lực luợng ở chiến khu xuống (gọi là cán bộ R = rừng). Cán bộ tập kết trở về mang theo lối sống XHCN và tham vọng sẽ đòi lại những gì họ đã mất 20 năm qua nên rất thích đấu đá, hội họp, và rất sính lý luận. Tuy cùng hội, tôi rất sợ đám này, nhất là những lúc đựợc họ gọi là „đồng chí“.
Ban Quân quản bổ sung cho đài vài thanh niên hoạt động nội thành. Anh Định, tốt nghiệp văn khoa giới thiệu với tôi một số sản phẩm văn học „ngụy“ như „Vòng tay học trò“, „Loan mắt nhung“ „Đừng gọi anh bằng chú“… Cậu Đê, tú tài bán phần thì thích nghe anh Thọ kể chuyện Hà Nội, chuyện nuớc Đức. Tuy được ưu ái, nhưng xem ra họ không hòa nhập với nếp làm việc mới nên sau đó ít lâu cả hai đều bỏ đi.
Quân khu Trị Thiên Huế điều một số anh chị em bên cục tuyên huấn từ A-Luới về tăng cường cho đài. Tôi quý anh Tuyến, thợ chiếu phim và anh Quế, biên tập văn nghệ, vì họ là những người lính đã giáp mặt với cái chết và vì sự chất phác của người nông dân Việt. Cũng như tôi, họ không lao vào các cuộc tỷ thí quyền lực, chỉ tận hưởng không khí hòa bình bên bờ sông Hương và khám phá những nét văn hóa chưa từng biết đến. Anh Quế hay nói chuyện văn học với tôi, tuy tôi kém anh đến cả chục tuổi.
Nhóm còn lại, đông nhất, nhưng lép vế nhất là anh em „ngụy“. Trong số hơn 20 công chức cũ của đài, có 10 người, chủ yếu là các kỹ thuật viên, được chính quyền mới giữ lại làm việc. Lương bổng thì không thể so với thời truớc, nhưng họ mừng lắm và luôn hy vọng sẽ có tương lai ở đây.
Tuy được căn dặn phải cảnh giác với họ, nhưng tôi thấy đa số họ dễ ưa, có tư cách và không hề „ph.... đ....“ tý nào. Nhiều người trong số họ cũng kết thân với tôi, như anh Vũ Chí Đạo, kỹ sư truởng, anh Như, đạo diễn phát sóng, bác Sáu Trí, thợ âm thanh hay anh Mai, thợ điện.
Gần gũi những con người này, tôi bỗng cảm thấy có điều gì hơi ác, khi nhận được chỉ thị, phải mau chóng nắm toàn bộ công việc để rồi sẽ dần dần đuổi họ ra khỏi cơ quan.
Hình như một số người đoán ra được kế hoạch này nên ngay trong thời gian tôi còn ở đó, anh Thịnh, kỹ thuật viên video, anh Phuớc, đạo diễn đã lần lượt xin thôi, đi tìm việc nơi khác. Năm 1980, tôi quay lại Huế, không ai trong số đó còn làm việc ở đài. Tuy tôi luôn tử tế với họ, nhưng vẫn cảm thấy có gì đó ân hận.
42 năm qua tôi vẫn luôn nhớ những người bạn Huế, từ cô bé Mùi cấp dưỡng, hay đỏ mặt khi anh Thọ trêu, đến chú Đê, anh Tuyến, anh Mai, những người đã cùng tôi vật lộn trong cơn lũ lịch sử mùa thu 1975.
Thọ Nguyễn
28/4/2017
Nhờ FB tôi đã tìm gặp lai anh Vũ Chí Đạo, Trương Quang Phước, liên lạc được với cô Mùi qua điện thoại. Cô Mùi mừng lắm và hai anh em nhắc lại mọi kỷ niệm. Tôi có nói sẽ về Huế ngày nào đó để thăm Mùi. Nhưng đáng buồn là năm 2018, Mùi bị bạo bệnh đã qua đời.
Sau 30.4.1975, tôi được đài Tiếng nói Việt Nam (hồi đó Truyền hình VN còn nằm trong đài TNVN) cử vào tiếp quản đài Truyền hình Huế. Tuy chỉ ở Huế 12 tháng, nhưng thành phố này đã cho tôi, chàng trai 24 tuổi, nhiều nhận thức mới.
Ngày đó tôi chỉ là một công nhân quèn, quèn nhất trong một cơ quan mà đa số là các kỹ sư tốt nghiệp ở những trường đại học nổi tiếng nhất của phe XHCN. Nhờ có lý lịch miền Nam tập kết và cái chất thợ, vừa biết cơ khí, vừa biết điện tử nên tôi được giao nhiệm vụ này.
Cho đến tận cuối năm 1976, cầu Hiền Lương vẫn là giới tuyến giữa hai miền Nam-Bắc, chỉ ai có giấy phép của Ban Thống nhất Trung uơng mới được qua lại. Trong suốt 12 tháng đó, tôi phải ra vào nhiều lần, lúc thì mang phim ảnh, lúc thì phải ra Đại học Bách khoa học tại chức.
Vì ba tôi có nhiều bạn bè ở Ban Thống nhất nên mỗi lần đi lại, tôi lên Quốc Tử Giám làm giấy tờ rất nhanh. (Hồi đó chưa có tệ tham nhũng sách nhiễu như ngày nay, nhưng bệnh khệnh khạng cửa quyền thì đã ngấm vào da thịt, quan hệ vẫn cần thiết). Ban Thống nhất cũng là cơ quan kết nối giữa quân đội và dân chính nên tôi thường đi ghé các chuyến xe tải của bộ đội.
Hà Nội - Huế cách nhau chỉ 650 km, nhưng chiến tranh mới kết thúc, đường xấu, xe cộ tồi tàn, lại vướng hàng chục trạm kiểm soát nên mỗi chuyến đi mất gần một ngày một đêm. Chúng tôi thường phải nghỉ đêm ở Quảng Bình hay Hà Tĩnh. Mỗi người lính khi ra Bắc thường mang theo một con búp bê nhựa để làm quà. Nhờ thế tôi học được câu nói phân định khối lượng của cải mang theo ra Bắc của nhà lính: Tuớng tấn, tá tạ, úy yến, lính lạng.
Những thị trấn tôi đi qua hồi đó như: Vĩnh Linh, Đông Hà, Quảng Trị là những bãi tro tàn đúng nghĩa. Nhưng Huế là một đô thị đẹp, cổ kính và yên tĩnh mà tôi chưa hề biết đến.
Qua khỏi Cầu mới (nay là cầu Phú Xuân), ấn tượng đầu tiên đập vào mắt tôi là khu Bệnh viện Trung ương Huế do Tây Đức xây dựng. Hồi đó ở Hà nội chưa có bệnh viện nào hiện đại và sạch sẽ như vậy. Tôi thích thú ngắm các thùng rác xi măng hình tròn với dòng chữ „Cho tôi xin rác“ xây trên vỉa hè. Các cô nữ sinh mặc áo dài trắng toát, đôi nón lá bài thơ thướt tha trên những đế guốc cao làm cho chàng trai Hà Nội không khỏi nghĩ đến các cô gái áo mặc bông chần ngoài Bắc.
Đài Truyền hình Huế nằm bên góc đường Lê Thánh Tôn (nay là đuờng Hà Nội), tiếp giáp đường Lý Thường Kiệt, trên một mảnh đất hơn 1000 mét vuông là một sự ngạc nhiên nữa cho tôi. Bằng một thiết kế gọn nhẹ và hiện đại kiểu Mỹ, hơn 20 nhân viên của đài đảm bảo mỗi ngày phát sóng từ 5-6 giờ cho một vùng lãnh thổ từ Gio Linh vào đến Đà Nẵng. Trạm tiếp sóng trên đèo Hải Vân phủ sóng Đà Nẵng, hầu như không cần người quản lý.
Truyền hình miền Nam lúc đó đi trước miền Bắc khá xa. Bốn đài: Sài Gòn, Cần Thơ, Quy Nhơn và Huế cho phép 80% dân chúng được xem TV hàng ngày. Ở ngoài Bắc cho đến 1977, chỉ có khu vực Hà nội được xem TV và không phải ai cũng được mua TV.
Việc tiếp quản đài thực ra không có gì khó khăn. Các nhân viên cũ của đài và những người vào truớc tôi đã khôi phục mọi hoạt động kỹ thuật. Việc lớn nhất là thống nhất tiêu chuẩn kỹ thuật truyền hình giữa hai hệ của Mỹ và của các nuớc XHCN cũng không phải là khó khăn gì cho anh em chúng tôi.
Điều làm cho tôi áy náy nhất là kho phim tư liệu đã bị anh em bộ đội phá tanh bành. Mặc dù tôi có ý muốn cứu những cuộn phim tư liệu 16mm này, nhưng chúng bị coi là „văn hóa phẩm đồì trụy“ nên không ai quan tâm đến ý kiến của tôi. Vả lại tôi chỉ là thằng tép riu nhất trong tất cả những ai tham gia tiếp quản đài Huế khi đó. Sau một chuyến ra Bắc trở về, tôi thấy kho phim đã biến mất và thành phòng làm việc cho chị phó giám đốc, phụ trách tổ chức.
Nếu tôi kể hết nỗi vui mừng của tôi khi được tiếp xúc với kho âm nhạc và văn chương miền Nam ở Huế hoặc sự mê mẩn của tôi đối với những dàn Akai-Stereo, máy ảnh Canon, đồng hồ Seiko v.v. thì mọi người sẽ chỉ coi đó là niềm vui của con cá từ một vũng lầy được may mắn xuống ao. Nhưng ấn tượng đầu tiên của tôi về người Huế (và miền Nam) lại là chị điện thoại viên bên sở văn hóa thông tin.
Đài truyền hình Huế lúc đó do ban Quân quản và sở Văn hóa Thông tin quản lý. Mỗi lần có việc phải gọi điện thoại sang sở, lúc thì gặp chị công chức cũ phụ trách tổng đài, lúc thì gặp một o bộ đội thông tin mới ở chiến khu về.
Các o bộ đội thường có giọng nói khô khan gắt gỏng: Ai đấy? Muốn gặp ai? Đi vắng rồi nhé ! Cúp máy. Trong đời, các cô hay tết hai đuôi sam, hay cười ngặt nghẽo, dễ thương như bạn gái tôi ngoài Hà Nội. „Thói quen nghề nghiệp mà anh“, một cô bẽn lẽn nói vậy, khi gặp tôi.
Mỗi lần gặp chị viên chức cũ với giọng nói ngọt ngào: „Dạ, anh chờ chút, để em nối máy“ thì gã công nhân quèn, quen nghe giọng dùi đục chấm mắm cáy lại cảm thấy ít ra mình cũng là thằng nào đó. Trai chưa vợ, được một giọng phụ nữ ngọt ngào gọi anh xưng em, bằng tiếng Huế, thật khó quên.
Những ngày đầu tiên, truớc khi cô Mùi về nấu bếp cho đài, chúng tôi hàng ngày sang sở Văn hóa ăn cơm trưa. Tôi tìm cách gặp được người phụ nữ với giọng Huế ngọt ngào đó.
Chị lớn hơn tôi gần chục tuổi, có khuôn măt dễ ưa. Trong khi "lương cách mạng" cấp cho chị không đủ 10 ngày ăn của gia đình, nhưng chị vẫn đánh phấn nhẹ, mặc áo dài, đi guốc cao gót để hàng ngày làm một công việc không cần đến ngoại hình, không cần trang điểm. Thì ra đó là nếp sống. Giữa những o bộ đội dễ thương kia và nguời phụ nữ Huế này là một khoảng cách văn hóa không nhỏ!
Cứ như vậy, tôi lần lượt vấp hết cú sốc văn hóa này đến cú khác. Từ những nụ cuời chào đón và tiễn khách hàng, đến cốc nuớc chè sau mỗi bữa ăn, đến gói hàng xếp vào túi ny-lon đều là những điều xưa nay tôi không bao giờ được hưởng, kể cả ở các cửa hàng „Thanh niên làm theo lời Bác“.
Miền Nam mới hòa bình, cơ quan nào cũng chịu cảnh bè phái giữa các nhóm: Cán bộ tập kết ở Bắc trở về, cán bộ hoạt động nội thành (nằm vùng) và lực luợng ở chiến khu xuống (gọi là cán bộ R = rừng). Cán bộ tập kết trở về mang theo lối sống XHCN và tham vọng sẽ đòi lại những gì họ đã mất 20 năm qua nên rất thích đấu đá, hội họp, và rất sính lý luận. Tuy cùng hội, tôi rất sợ đám này, nhất là những lúc đựợc họ gọi là „đồng chí“.
Ban Quân quản bổ sung cho đài vài thanh niên hoạt động nội thành. Anh Định, tốt nghiệp văn khoa giới thiệu với tôi một số sản phẩm văn học „ngụy“ như „Vòng tay học trò“, „Loan mắt nhung“ „Đừng gọi anh bằng chú“… Cậu Đê, tú tài bán phần thì thích nghe anh Thọ kể chuyện Hà Nội, chuyện nuớc Đức. Tuy được ưu ái, nhưng xem ra họ không hòa nhập với nếp làm việc mới nên sau đó ít lâu cả hai đều bỏ đi.
Quân khu Trị Thiên Huế điều một số anh chị em bên cục tuyên huấn từ A-Luới về tăng cường cho đài. Tôi quý anh Tuyến, thợ chiếu phim và anh Quế, biên tập văn nghệ, vì họ là những người lính đã giáp mặt với cái chết và vì sự chất phác của người nông dân Việt. Cũng như tôi, họ không lao vào các cuộc tỷ thí quyền lực, chỉ tận hưởng không khí hòa bình bên bờ sông Hương và khám phá những nét văn hóa chưa từng biết đến. Anh Quế hay nói chuyện văn học với tôi, tuy tôi kém anh đến cả chục tuổi.
Nhóm còn lại, đông nhất, nhưng lép vế nhất là anh em „ngụy“. Trong số hơn 20 công chức cũ của đài, có 10 người, chủ yếu là các kỹ thuật viên, được chính quyền mới giữ lại làm việc. Lương bổng thì không thể so với thời truớc, nhưng họ mừng lắm và luôn hy vọng sẽ có tương lai ở đây.
Tuy được căn dặn phải cảnh giác với họ, nhưng tôi thấy đa số họ dễ ưa, có tư cách và không hề „ph.... đ....“ tý nào. Nhiều người trong số họ cũng kết thân với tôi, như anh Vũ Chí Đạo, kỹ sư truởng, anh Như, đạo diễn phát sóng, bác Sáu Trí, thợ âm thanh hay anh Mai, thợ điện.
Gần gũi những con người này, tôi bỗng cảm thấy có điều gì hơi ác, khi nhận được chỉ thị, phải mau chóng nắm toàn bộ công việc để rồi sẽ dần dần đuổi họ ra khỏi cơ quan.
Hình như một số người đoán ra được kế hoạch này nên ngay trong thời gian tôi còn ở đó, anh Thịnh, kỹ thuật viên video, anh Phuớc, đạo diễn đã lần lượt xin thôi, đi tìm việc nơi khác. Năm 1980, tôi quay lại Huế, không ai trong số đó còn làm việc ở đài. Tuy tôi luôn tử tế với họ, nhưng vẫn cảm thấy có gì đó ân hận.
42 năm qua tôi vẫn luôn nhớ những người bạn Huế, từ cô bé Mùi cấp dưỡng, hay đỏ mặt khi anh Thọ trêu, đến chú Đê, anh Tuyến, anh Mai, những người đã cùng tôi vật lộn trong cơn lũ lịch sử mùa thu 1975.
Thọ Nguyễn
28/4/2017
Nhờ FB tôi đã tìm gặp lai anh Vũ Chí Đạo, Trương Quang Phước, liên lạc được với cô Mùi qua điện thoại. Cô Mùi mừng lắm và hai anh em nhắc lại mọi kỷ niệm. Tôi có nói sẽ về Huế ngày nào đó để thăm Mùi. Nhưng đáng buồn là năm 2018, Mùi bị bạo bệnh đã qua đời.
Thanked by 1 Member:
|
|
#33
Gửi vào 01/05/2019 - 20:09
CẢM NGHĨ NHÂN NGÀY 30.4
Hè 1985 tôi quay trở lại Tiệp Khắc (giờ là Czech Republic và Slovakia) lần thứ hai để đoàn tụ gia đình với người vợ Séc chưa cưới cùng con gái 2,5 tuổi của mình sau đúng 2 năm chờ đợi (24.7.1983 – 24.7.1985). Ra sống ở nước ngoài, cho dù cùng là nước trong phe XHCN ở Miền Bắc thời đó là điều gần như không tưởng, nhất là một thằng đã từng là sĩ quan quân đội như tôi. Trước đó thì chưa một ai được phép như vậy và sau này tôi được biết rằng mình là thằng cựu sĩ quan duy nhất được xuất cảnh. Được phép ra đi là nhờ vào tác động rất mạnh của phía bên Tiệp Khắc vì gia đình vợ tôi mà đặc biệt là ông bố vợ liên tục gửi kiến nghị tới Quốc Hội cùng Bộ Ngoại Giao Tiệp Khắc yêu cầu can thiệp.
Lần này tôi mới thật sự sống với xã hội của người dân Tiệp Khắc để dần dần tìm hiểu cuộc sống của họ. Người giúp đỡ tôi trong những bước đi ban đầu, tìm việc làm ổn định đến chỉ dẫn các phong tục, tập quán, giúp tôi làm quen với bạn bè xung quanh chính là bố vợ tôi. Quan hệ giữa hai chúng tôi không chỉ là quan hệ bố con mà nhiều lúc tôi có cảm tưởng như quan hệ bạn bè, nhất là trong những lần đi chơi hoặc đi tu sửa chata (nhà nghỉ của gia đình trong rừng theo cách nói của người Tiệp). Thời đó báo chí và truyền thông của Tiệp Khắc nói riêng và của Đông Âu rất ít thông tin về Việt Nam nên cụ thường hỏi tôi về những vấn đề xung quanh cuộc chiến tranh Nam Bắc. Cụ cho biết là các nước Đông Âu không ủng hộ cuộc chiến tranh này mà mong muốn Việt Nam giải quyết vấn đề của mình bằng con đường hòa bình. Tôi có hỏi cụ nếu không ủng hộ thì tại sao các nước Đông Âu lại viện trợ vũ khí cho chính quyền Hà Nội. Cụ cho biết rằng những việc này đều nằm trong sự chỉ đạo của Liên Xô và vũ khí được đưa từ các nước XHCN, nhất là từ Liên Xô đâu phải là hàng viện trợ không hoàn lại. Tất cả đều phải được thanh toán bằng tiền. Khí tài quân sự không bao giờ là mặt hàng cho không. Đồng thời chiến tranh là mong ước của tất cả các công ty sản xuất vũ khí trên thế giới để có thể thử nghiệm và quảng cáo sản phẩm của mình nhằm mục đích bán được sản phẩm cho dù công ty đó là của c.... s.. hay tư bản. Cụ nhận xét quá đúng. Cụ biết rất nhiều và tôi tin những lời cụ nói vì hồi đó, ngoài chức vụ giám đốc bệnh viện tỉnh thì cụ còn là bí thư thành ủy của đảng c.... s.. Tiệp Khắc. Một đảng viên nhưng tốt và rất công minh mà tôi đã có một bài viết riêng về cụ trên facebook của mình hôm 10.4.2013. Cụ được bầu làm bí thư thành ủy do có uy tín lớn với người dân địa phương.
Thỉnh thoảng nhà cụ lại có bạn bè đến chơi và trong đó có cả những người bạn từ Đông Đức. Trong những lần ngồi nói chuyện thì tôi có nhờ cụ hỏi họ nghĩ gì về tình hình Đông Đức – Tây Đức và nếu họ cũng muốn được nối liền hai Miền như Việt Nam. Tất cả những ai được hỏi đều có cùng câu trả lời giống nhau là họ không quan tâm đến vấn đề thống nhất hai nước và phản đối việc “thống nhất đất nước” bằng bạo lực như ở Việt Nam. Điều mà họ quan tâm là làm sao để Đông Đức có nền kinh tế phát triển như Tây Đức và người dân Đông Đức có được mức sống cao như mức sống của người dân Tây Đức. Họ còn cho biết rằng chỉ có nhà cầm quyền Đông Đức ngăn cản người dân của mình qua Tây Đức, dù chỉ là du lịch chứ bên Tây Đức hoàn toàn không có việc ngăn cản như vậy. Sau khi đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc, đất nước bị tàn phá nặng nề thì chẳng có người dân Đức nào còn mong muốn chiến tranh. Họ muốn và đã dành tất cả thời gian để khôi phục lại quê hương của mình và chỉ sau một thời gian ngắn thì Đông Đức đã trở thành một đất nước có nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước Đông Âu. Bố vợ tôi cũng cho biết rằng ngay thời kỳ đầu thì lãnh đạo các nước Đông Âu cũng từng góp ý với nhà cầm quyền Hà Nội nên tập trung xây dựng đất nước mình nhưng đã bị Hà Nội phản đối.
Giá nhà cầm quyền Hà Nội biết nghe ý dân và nghe lời đóng góp của các nước khác trong phe XHCN ở Đông Âu, tập trung vào xây dựng nền kinh tế Việt Nam mà thời kỳ đó chủ yếu là nông nghiệp để dân giàu nước mạnh, hai Miền Nam – Bắc hay đúng hơn là hai đất nước cùng phát triển thì giờ đây đâu có tan hoang như thế này???
...đất nước Việt Nam giờ đây đang đứng trên bờ vực thẳm và từ huynh đệ, đồng bào trở thành kẻ thù.
Czech Republic, 01.5.2019
Đoàn Phú Hòa
Hè 1985 tôi quay trở lại Tiệp Khắc (giờ là Czech Republic và Slovakia) lần thứ hai để đoàn tụ gia đình với người vợ Séc chưa cưới cùng con gái 2,5 tuổi của mình sau đúng 2 năm chờ đợi (24.7.1983 – 24.7.1985). Ra sống ở nước ngoài, cho dù cùng là nước trong phe XHCN ở Miền Bắc thời đó là điều gần như không tưởng, nhất là một thằng đã từng là sĩ quan quân đội như tôi. Trước đó thì chưa một ai được phép như vậy và sau này tôi được biết rằng mình là thằng cựu sĩ quan duy nhất được xuất cảnh. Được phép ra đi là nhờ vào tác động rất mạnh của phía bên Tiệp Khắc vì gia đình vợ tôi mà đặc biệt là ông bố vợ liên tục gửi kiến nghị tới Quốc Hội cùng Bộ Ngoại Giao Tiệp Khắc yêu cầu can thiệp.
Lần này tôi mới thật sự sống với xã hội của người dân Tiệp Khắc để dần dần tìm hiểu cuộc sống của họ. Người giúp đỡ tôi trong những bước đi ban đầu, tìm việc làm ổn định đến chỉ dẫn các phong tục, tập quán, giúp tôi làm quen với bạn bè xung quanh chính là bố vợ tôi. Quan hệ giữa hai chúng tôi không chỉ là quan hệ bố con mà nhiều lúc tôi có cảm tưởng như quan hệ bạn bè, nhất là trong những lần đi chơi hoặc đi tu sửa chata (nhà nghỉ của gia đình trong rừng theo cách nói của người Tiệp). Thời đó báo chí và truyền thông của Tiệp Khắc nói riêng và của Đông Âu rất ít thông tin về Việt Nam nên cụ thường hỏi tôi về những vấn đề xung quanh cuộc chiến tranh Nam Bắc. Cụ cho biết là các nước Đông Âu không ủng hộ cuộc chiến tranh này mà mong muốn Việt Nam giải quyết vấn đề của mình bằng con đường hòa bình. Tôi có hỏi cụ nếu không ủng hộ thì tại sao các nước Đông Âu lại viện trợ vũ khí cho chính quyền Hà Nội. Cụ cho biết rằng những việc này đều nằm trong sự chỉ đạo của Liên Xô và vũ khí được đưa từ các nước XHCN, nhất là từ Liên Xô đâu phải là hàng viện trợ không hoàn lại. Tất cả đều phải được thanh toán bằng tiền. Khí tài quân sự không bao giờ là mặt hàng cho không. Đồng thời chiến tranh là mong ước của tất cả các công ty sản xuất vũ khí trên thế giới để có thể thử nghiệm và quảng cáo sản phẩm của mình nhằm mục đích bán được sản phẩm cho dù công ty đó là của c.... s.. hay tư bản. Cụ nhận xét quá đúng. Cụ biết rất nhiều và tôi tin những lời cụ nói vì hồi đó, ngoài chức vụ giám đốc bệnh viện tỉnh thì cụ còn là bí thư thành ủy của đảng c.... s.. Tiệp Khắc. Một đảng viên nhưng tốt và rất công minh mà tôi đã có một bài viết riêng về cụ trên facebook của mình hôm 10.4.2013. Cụ được bầu làm bí thư thành ủy do có uy tín lớn với người dân địa phương.
Thỉnh thoảng nhà cụ lại có bạn bè đến chơi và trong đó có cả những người bạn từ Đông Đức. Trong những lần ngồi nói chuyện thì tôi có nhờ cụ hỏi họ nghĩ gì về tình hình Đông Đức – Tây Đức và nếu họ cũng muốn được nối liền hai Miền như Việt Nam. Tất cả những ai được hỏi đều có cùng câu trả lời giống nhau là họ không quan tâm đến vấn đề thống nhất hai nước và phản đối việc “thống nhất đất nước” bằng bạo lực như ở Việt Nam. Điều mà họ quan tâm là làm sao để Đông Đức có nền kinh tế phát triển như Tây Đức và người dân Đông Đức có được mức sống cao như mức sống của người dân Tây Đức. Họ còn cho biết rằng chỉ có nhà cầm quyền Đông Đức ngăn cản người dân của mình qua Tây Đức, dù chỉ là du lịch chứ bên Tây Đức hoàn toàn không có việc ngăn cản như vậy. Sau khi đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc, đất nước bị tàn phá nặng nề thì chẳng có người dân Đức nào còn mong muốn chiến tranh. Họ muốn và đã dành tất cả thời gian để khôi phục lại quê hương của mình và chỉ sau một thời gian ngắn thì Đông Đức đã trở thành một đất nước có nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước Đông Âu. Bố vợ tôi cũng cho biết rằng ngay thời kỳ đầu thì lãnh đạo các nước Đông Âu cũng từng góp ý với nhà cầm quyền Hà Nội nên tập trung xây dựng đất nước mình nhưng đã bị Hà Nội phản đối.
Giá nhà cầm quyền Hà Nội biết nghe ý dân và nghe lời đóng góp của các nước khác trong phe XHCN ở Đông Âu, tập trung vào xây dựng nền kinh tế Việt Nam mà thời kỳ đó chủ yếu là nông nghiệp để dân giàu nước mạnh, hai Miền Nam – Bắc hay đúng hơn là hai đất nước cùng phát triển thì giờ đây đâu có tan hoang như thế này???
...đất nước Việt Nam giờ đây đang đứng trên bờ vực thẳm và từ huynh đệ, đồng bào trở thành kẻ thù.
Czech Republic, 01.5.2019
Đoàn Phú Hòa
Sửa bởi tuphuongsg: 01/05/2019 - 20:11
Thanked by 2 Members:
|
|
#34
Gửi vào 01/05/2019 - 20:19
người bố vợ kính yêu của mình.
Không hiểu sao, sau khi đọc bài này thì tự nhiên tôi lại nhớ về ông bố vợ người Czech của mình. Tuy Cụ đã qua đời vào năm 2009 nhưng thường xuyên tôi nhớ đến Cụ và nhớ đến “đạo làm người” của Cụ.
Khi còn làm việc, là một bác sĩ giỏi, ngoài chức giám đốc một bệnh viện lớn của tỉnh thì Cụ còn là bí thư thành ủy đảng c.... s.. Tiệp Khắc mà sau này, khi thay đổi thể chế đã được tách đôi thành Czech và Slovakia vào 1.1.1993. Khi mới biết Cụ vào những năm 1981-1982 thì tôi đã được nghe nhiều người trong thành phố ca ngợi tính liêm khiết, hết lòng vì bệnh nhân của Cụ. Với những ai có bệnh nặng lại kèm theo bệnh tiểu đường thì Cụ quan tâm đặc biệt và đồng thời dặn dò các bác sĩ phụ trách lưu tâm đến họ. Cụ thường gặp riêng những bệnh nhân này trước khi họ ra viện để nhắc nhở họ những gì cần tránh trong sinh hoạt ngày thường cũng như chế độ ăn uống cần phải được đảm bảo. Sau này, khi đã trở thành con rể của Cụ thì tôi mới nhận thấy rằng những gì mà người dân ca ngợi Cụ là hoàn toàn đúng. Hàng năm, cứ đến đầu tháng 12 thì bệnh viện được tỉnh phân bổ một khoản tiền thưởng trích từ ngân sách của tỉnh. Không như các nơi khác, tỉ lệ tiền thưởng thường được chia theo mức lương, cao nhất là giám đốc và thấp nhất là những nhân viên quét dọn. Từ khi Cụ nhận chức giám đốc, tức là từ năm 1969 thì Cụ ra quy định là số tiền thưởng đó sẽ chia đều cho tất cả các nhân viên trong bệnh viện mà không có bất kỳ chênh lệch nào. Lúc đầu, do quen mức thưởng cũ nên các bác sĩ, nhất là các trưởng khoa phản đối kịch liệt vì họ cho rằng mình phải được mức thưởng cao hơn nhưng ngược lại, các y tá, hộ lý và nhân viên dịch vụ thì ủng hộ quyết định đó. Để xử lý những tranh luận nổ ra trong bệnh viện thì Cụ tổ chức một cuộc họp và giải thích rằng tiền lương chính là sự đánh giá khả năng và mức độ phục vụ của mỗi người còn tiền thưởng là cho sự đóng góp chung của tất cả mọi người. Không có hộ lý, y tá, nhân viên quét dọn thì các bác sĩ cũng chỉ có thể làm một việc đơn giản nhất là khám bệnh, viết đơn thuốc. Dần dần mọi người cũng quen với cách làm của Cụ và từ đó trở đi, khi Cụ về hưu thì không còn ai phản đối nữa. Hàng năm thì bệnh viện được cấp một số phiếu nghỉ an dưỡng do Tổng Công Đoàn Tiệp Khắc phân bổ. Bao giờ Cụ cũng gọi thư ký Công Đoàn lên để cùng bàn bạc và lựa chọn những người thật sự cần thiết. Theo như tôi biết thì suốt cả thời gian từ lúc giữ chức giám đốc đến lúc về hưu vào năm 1998 thì chưa một lần Cụ tự phân cho mình một phiếu nghỉ an dưỡng nào.
Vì nhu cầu của bệnh viện nên thường xuyên phải tiếp nhận nhân viên mới. Y tá, nhân viên dịch vụ thì do phòng quản lý nhân sự đảm nhiệm theo chức năng còn bác sĩ thì do Cụ cùng bác sĩ các trưởng khoa tiếp nhận. Khi Tiệp Khắc còn là nước XHCN thì cũng chẳng khác gì Việt Nam, cũng COCC và giới quan chức nhà nước cũng cố gắng tìm cách “nhét” con cháu mình vào những nơi “ăn sung, mặc sướng” và nhàn hạ. Không ít lần Cụ đã nhận được những lá thư giới thiệu cho một ai đó nhưng vấn đề đầu tiên mà cụ quan tâm là trình độ chuyên môn và tư cách của họ chứ không ưu tiên cho thành phần “cành vàng, lá ngọc” mà dốt nát. Bệnh viện của Cụ đã được đăng lên báo không ít lần về chất lượng phục vụ và đặc biệt là bệnh viện duy nhất có những trưởng khoa không phải là đảng viên đảng c.... s... Cụ thường nói với mọi người: Đảng phải vì quyền lợi của người dân và với bác sĩ thì chuyên môn và sự tận tâm với nghề nghiệp của mình là tiêu chuẩn duy nhất. Tôi nhớ mãi hai từ DUY NHẤT của Cụ. Các bác sĩ mới rất được Cụ quan tâm và chỉ dẫn, giúp đỡ khi họ có những sai sót. Đồng thời Cụ luôn cố gắng để không có khoảng cách giữa những bác sĩ đã làm việc lâu năm với những bác sĩ mới vào nghề.
Có một việc mà sau này, khi đã là rể của gia đình thì tôi được nghe mọi người kể lại. Trong một lần khám bệnh thì cụ được nghe một bệnh nhân than phiền là 2 cháu trai của họ, tuy học giỏi và đủ điểm vào đại học y khoa và đại học kiến trúc nhưng đã bị từ chối chỉ vì lý do là bố mẹ của hai cậu bé đó chạy qua Tây Đức sau vụ 1968 (1) . Mặc dù không hề có quan hệ họ hàng nhưng Cụ đã dành thời gian đến gia đình đó và sau khi thấy đó là sự thật thì Cụ đã xin nghỉ phép để đến gặp ban giám hiệu của hai trường nhằm thuyết phục họ. Khi thấy không có kết quả thì Cụ đã lên thẳng Praha yêu cầu gặp trực tiếp ông Milan Vondruška, Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và cuối cùng Cụ đã thuyết phục được ông Bộ trưởng để cả hai đều được nhập học. Sau này, cả hai đã trở thành bác sĩ, kiến trúc sư có tầm cỡ tại Czech và trên thế giới. Cũng nhờ vụ này mà ông Bộ trưởng và Cụ trở thành bạn thân của nhau và tôi đã có nhiều dịp ngồi tào lao với vợ chồng ông bà ấy. Hồi đó, chuyện chạy trốn khỏi Tiệp Khắc là một tội rất nặng và rất nhiều gia đình tan nát cả cuộc đời nếu một ai đó trong gia đình trốn ra nước ngoài. Lý do của Cụ rất đơn giản và cũng rất tình người: “Những đứa trẻ hoàn toàn vô tội và nhà nước không thể dùng những đứa trẻ để trả thù cho bố mẹ chúng nó. Làm như vậy là vùi dập tương lai của đất nước”.
Con trai cả của Cụ hồi đó là trưởng phân nhóm của báo “Quyền lợi Đỏ” (2) tại Tây Âu với trụ sở ở Paris. Ai cũng biết rằng tất cả những ai làm việc cho nhà nước mà được cử đi nước ngoài đều phải ký một hợp đồng chấp nhận hợp tác với STB (3) – là cơ quan an ninh của Bộ Công An Tiệp Khắc. Cậu ấy cũng không tránh được số phận đó. Tôi có nghe kể lại là trước ngày lên đường nhận nhiệm vụ thì cậu ấy có xin phép được gặp riêng Cụ một buổi. Vì là người có kinh nghiệm nên khi gặp nhau, ngoài những tâm sự về cuộc sống, biết con trai không thể thổ lộ với Cụ việc phải ký bản hợp đồng “ma quỷ” này vì vậy Cụ chỉ dặn con trai mỗi một câu: “Hãy sống và làm việc bằng lương tâm của mình”. Hè 1989, trước khi qua đời do bệnh ung thư hiểm nghèo, khi nằm trên giường bệnh thì người con trai cả đã nắm tay Cụ và nói câu cuối cùng: “Cha, con đã sống đúng như con mong muốn và đúng như lời Cha dặn – Tati, žil jsem přesně tak, jak jsem chtěl a jak jsi přal” rồi vĩnh viễn ra đi. Cụ đã khóc và đó cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy hai dòng nước mắt của Cụ. Vừa vuốt mắt cho con Cụ vừa mếu máo nói “Cha biết, cha biết – Vím to, vím to”.
19.11.2009, Cụ qua đời khi vừa qua tuổi 84. Chúng tôi chỉ muốn làm một tang lễ trong khuôn khổ gia đình nhưng cuối cùng phòng lễ tang không đủ chỗ cho mọi người đến dự. Tang lễ ở Châu Âu thường chỉ khoảng vài ba chục người nhưng đám tang của Cụ có gần nghìn người đến chia tay. Không những bạn bè, người quen mà rất nhiều bệnh nhân đã được Cụ cứu chữa và nhiều đoàn thể, đảng phái đã cử người đến viếng. Thị trưởng thành phố là người đứng ra đọc điếu tang và tới giờ tôi chỉ còn nhớ câu cuối cùng của ông ấy: “Doctor Courton luôn là một CON NGƯỜI - Doktor Courton byl vždy ČLOVĚKEM”.
Czech Republic, 10.4.2013
Đoàn Phú Hòa
(1): Năm 1968, sau khi quân đội Liên Xô cùng quân đội khối Varsava đổ bộ vào Tiệp Khắc để buộc chính quyền Tiệp Khắc phải đi theo đường lối của mình thì rất nhiều người dân Tiệp Khắc, do phản đối hành động đó đã chạy ra nước ngoài, phần lớn là sang Áo, Tấy Đức rồi đến các nước khác. Người dân Tiệp Khắc cho rằng, nếu không có cuộc đổ bộ này thì chính phủ Tiệp Khắc đã có thể đưa đất nước đi theo hướng không phụ thuộc vào Liên Xô và nhờ đó nền kinh tế của Tiệp Khắc sẽ trở lại thời kỳ hoàng kim như sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, khi nền cơ khí của Tiệp Khắc nổi tiếng trên toàn Châu Âu. Khi Tiệp Khắc còn là nước c.... s.., nhất là sau vụ 1968 thì công dân Tiệp Khắc chỉ có thể đi du lịch trong các nước của phe XHCN, cùng lắm là qua Nam Tư chứ gần như không được phép đi các nước tư bản. Nếu qua Nam Tư phải xin phép đặc biệt và không bao giờ được phép đi cả gia đình để tránh trường hợp bỏ trốn. Nếu gia đình không con thì bao giờ cũng chỉ được phép đi một người. Nếu gia đình có con thì bố mẹ đi, con cái ở lại. Tuy vậy, nhiều cặp vợ chồng đã gửi con lại cho ông bà trông rồi trốn ra nước ngoài qua con đường Nam Tư. Tất nhiên số phận của những người ở lại rất cực khổ và luôn nằm trong sự kiểm soát của công an Tiệp Khắc. Con cái của họ phần lớn không được học đại học và không được làm việc ở những vị trí phù hợp với khả năng của mình. Sau năm 1968 rất nhiều giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, do phản đối hành động “đổ bộ” của Liên Xô đã bị đuổi khỏi vị trí làm việc của mình và không ít người trong số này chỉ có thể tìm được việc làm duy nhất là thợ đốt lò trong các nhà máy. Václav Havel, cố tổng thống Tiệp Khắc đầu tiên sau năm 1990, sau khi ra tù là một trong những người như vậy.
(2): Báo “Quyền lợi đỏ - Rudé Právo” là cơ quan ngôn luận của đảng c.... s.. Tiệp Khắc, giống như báo “Nhân Dân” ở Việt Nam. Sau năm 1990, khi chế độ c.... s.. bị lật đổ thì báo này đổi tên thành “Quyền lợi – Právo” nhưng vẫn thiên về cánh tả.
(3): STB là cơ quan an ninh của Bộ công an Tiệp Khắc. Hồi đó, tất cả công dân Tiệp Khắc được cử đi làm việc ở nước ngoài đều phải ký một hợp đồng tình nguyện hợp tác với họ. Không những thế, nhiều công dân Tiệp Khắc, tuy chỉ sống ở trong nước nhưng hoặc là tự nguyện, hoặc bị ép buộc phải cộng tác và thường xuyên cung cấp cho STB những thông tin về những ai có biểu hiện chống đảng. Không ít trường hợp, chỉ vì lấy thành tích hoặc vì hằn thù cá nhân mà có những tình nguyện viên sẵn sàng vu oan cho người khác, tạo ra bằng chứng giả, ... và tất nhiên nhiều người đã bị tan nát cả cuộc đời vì những điều vu oan, giá họa đó. Sau năm 1990, khi hồ sơ mật của STB được công khai thì nhiều người giật mình khi biết bạn bè mình, đồng nghiệp mình, hàng xóm mình làm việc cho STB và cung cấp những tài liệu, thông tin sai trái về họ
Không hiểu sao, sau khi đọc bài này thì tự nhiên tôi lại nhớ về ông bố vợ người Czech của mình. Tuy Cụ đã qua đời vào năm 2009 nhưng thường xuyên tôi nhớ đến Cụ và nhớ đến “đạo làm người” của Cụ.
Khi còn làm việc, là một bác sĩ giỏi, ngoài chức giám đốc một bệnh viện lớn của tỉnh thì Cụ còn là bí thư thành ủy đảng c.... s.. Tiệp Khắc mà sau này, khi thay đổi thể chế đã được tách đôi thành Czech và Slovakia vào 1.1.1993. Khi mới biết Cụ vào những năm 1981-1982 thì tôi đã được nghe nhiều người trong thành phố ca ngợi tính liêm khiết, hết lòng vì bệnh nhân của Cụ. Với những ai có bệnh nặng lại kèm theo bệnh tiểu đường thì Cụ quan tâm đặc biệt và đồng thời dặn dò các bác sĩ phụ trách lưu tâm đến họ. Cụ thường gặp riêng những bệnh nhân này trước khi họ ra viện để nhắc nhở họ những gì cần tránh trong sinh hoạt ngày thường cũng như chế độ ăn uống cần phải được đảm bảo. Sau này, khi đã trở thành con rể của Cụ thì tôi mới nhận thấy rằng những gì mà người dân ca ngợi Cụ là hoàn toàn đúng. Hàng năm, cứ đến đầu tháng 12 thì bệnh viện được tỉnh phân bổ một khoản tiền thưởng trích từ ngân sách của tỉnh. Không như các nơi khác, tỉ lệ tiền thưởng thường được chia theo mức lương, cao nhất là giám đốc và thấp nhất là những nhân viên quét dọn. Từ khi Cụ nhận chức giám đốc, tức là từ năm 1969 thì Cụ ra quy định là số tiền thưởng đó sẽ chia đều cho tất cả các nhân viên trong bệnh viện mà không có bất kỳ chênh lệch nào. Lúc đầu, do quen mức thưởng cũ nên các bác sĩ, nhất là các trưởng khoa phản đối kịch liệt vì họ cho rằng mình phải được mức thưởng cao hơn nhưng ngược lại, các y tá, hộ lý và nhân viên dịch vụ thì ủng hộ quyết định đó. Để xử lý những tranh luận nổ ra trong bệnh viện thì Cụ tổ chức một cuộc họp và giải thích rằng tiền lương chính là sự đánh giá khả năng và mức độ phục vụ của mỗi người còn tiền thưởng là cho sự đóng góp chung của tất cả mọi người. Không có hộ lý, y tá, nhân viên quét dọn thì các bác sĩ cũng chỉ có thể làm một việc đơn giản nhất là khám bệnh, viết đơn thuốc. Dần dần mọi người cũng quen với cách làm của Cụ và từ đó trở đi, khi Cụ về hưu thì không còn ai phản đối nữa. Hàng năm thì bệnh viện được cấp một số phiếu nghỉ an dưỡng do Tổng Công Đoàn Tiệp Khắc phân bổ. Bao giờ Cụ cũng gọi thư ký Công Đoàn lên để cùng bàn bạc và lựa chọn những người thật sự cần thiết. Theo như tôi biết thì suốt cả thời gian từ lúc giữ chức giám đốc đến lúc về hưu vào năm 1998 thì chưa một lần Cụ tự phân cho mình một phiếu nghỉ an dưỡng nào.
Vì nhu cầu của bệnh viện nên thường xuyên phải tiếp nhận nhân viên mới. Y tá, nhân viên dịch vụ thì do phòng quản lý nhân sự đảm nhiệm theo chức năng còn bác sĩ thì do Cụ cùng bác sĩ các trưởng khoa tiếp nhận. Khi Tiệp Khắc còn là nước XHCN thì cũng chẳng khác gì Việt Nam, cũng COCC và giới quan chức nhà nước cũng cố gắng tìm cách “nhét” con cháu mình vào những nơi “ăn sung, mặc sướng” và nhàn hạ. Không ít lần Cụ đã nhận được những lá thư giới thiệu cho một ai đó nhưng vấn đề đầu tiên mà cụ quan tâm là trình độ chuyên môn và tư cách của họ chứ không ưu tiên cho thành phần “cành vàng, lá ngọc” mà dốt nát. Bệnh viện của Cụ đã được đăng lên báo không ít lần về chất lượng phục vụ và đặc biệt là bệnh viện duy nhất có những trưởng khoa không phải là đảng viên đảng c.... s... Cụ thường nói với mọi người: Đảng phải vì quyền lợi của người dân và với bác sĩ thì chuyên môn và sự tận tâm với nghề nghiệp của mình là tiêu chuẩn duy nhất. Tôi nhớ mãi hai từ DUY NHẤT của Cụ. Các bác sĩ mới rất được Cụ quan tâm và chỉ dẫn, giúp đỡ khi họ có những sai sót. Đồng thời Cụ luôn cố gắng để không có khoảng cách giữa những bác sĩ đã làm việc lâu năm với những bác sĩ mới vào nghề.
Có một việc mà sau này, khi đã là rể của gia đình thì tôi được nghe mọi người kể lại. Trong một lần khám bệnh thì cụ được nghe một bệnh nhân than phiền là 2 cháu trai của họ, tuy học giỏi và đủ điểm vào đại học y khoa và đại học kiến trúc nhưng đã bị từ chối chỉ vì lý do là bố mẹ của hai cậu bé đó chạy qua Tây Đức sau vụ 1968 (1) . Mặc dù không hề có quan hệ họ hàng nhưng Cụ đã dành thời gian đến gia đình đó và sau khi thấy đó là sự thật thì Cụ đã xin nghỉ phép để đến gặp ban giám hiệu của hai trường nhằm thuyết phục họ. Khi thấy không có kết quả thì Cụ đã lên thẳng Praha yêu cầu gặp trực tiếp ông Milan Vondruška, Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và cuối cùng Cụ đã thuyết phục được ông Bộ trưởng để cả hai đều được nhập học. Sau này, cả hai đã trở thành bác sĩ, kiến trúc sư có tầm cỡ tại Czech và trên thế giới. Cũng nhờ vụ này mà ông Bộ trưởng và Cụ trở thành bạn thân của nhau và tôi đã có nhiều dịp ngồi tào lao với vợ chồng ông bà ấy. Hồi đó, chuyện chạy trốn khỏi Tiệp Khắc là một tội rất nặng và rất nhiều gia đình tan nát cả cuộc đời nếu một ai đó trong gia đình trốn ra nước ngoài. Lý do của Cụ rất đơn giản và cũng rất tình người: “Những đứa trẻ hoàn toàn vô tội và nhà nước không thể dùng những đứa trẻ để trả thù cho bố mẹ chúng nó. Làm như vậy là vùi dập tương lai của đất nước”.
Con trai cả của Cụ hồi đó là trưởng phân nhóm của báo “Quyền lợi Đỏ” (2) tại Tây Âu với trụ sở ở Paris. Ai cũng biết rằng tất cả những ai làm việc cho nhà nước mà được cử đi nước ngoài đều phải ký một hợp đồng chấp nhận hợp tác với STB (3) – là cơ quan an ninh của Bộ Công An Tiệp Khắc. Cậu ấy cũng không tránh được số phận đó. Tôi có nghe kể lại là trước ngày lên đường nhận nhiệm vụ thì cậu ấy có xin phép được gặp riêng Cụ một buổi. Vì là người có kinh nghiệm nên khi gặp nhau, ngoài những tâm sự về cuộc sống, biết con trai không thể thổ lộ với Cụ việc phải ký bản hợp đồng “ma quỷ” này vì vậy Cụ chỉ dặn con trai mỗi một câu: “Hãy sống và làm việc bằng lương tâm của mình”. Hè 1989, trước khi qua đời do bệnh ung thư hiểm nghèo, khi nằm trên giường bệnh thì người con trai cả đã nắm tay Cụ và nói câu cuối cùng: “Cha, con đã sống đúng như con mong muốn và đúng như lời Cha dặn – Tati, žil jsem přesně tak, jak jsem chtěl a jak jsi přal” rồi vĩnh viễn ra đi. Cụ đã khóc và đó cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy hai dòng nước mắt của Cụ. Vừa vuốt mắt cho con Cụ vừa mếu máo nói “Cha biết, cha biết – Vím to, vím to”.
19.11.2009, Cụ qua đời khi vừa qua tuổi 84. Chúng tôi chỉ muốn làm một tang lễ trong khuôn khổ gia đình nhưng cuối cùng phòng lễ tang không đủ chỗ cho mọi người đến dự. Tang lễ ở Châu Âu thường chỉ khoảng vài ba chục người nhưng đám tang của Cụ có gần nghìn người đến chia tay. Không những bạn bè, người quen mà rất nhiều bệnh nhân đã được Cụ cứu chữa và nhiều đoàn thể, đảng phái đã cử người đến viếng. Thị trưởng thành phố là người đứng ra đọc điếu tang và tới giờ tôi chỉ còn nhớ câu cuối cùng của ông ấy: “Doctor Courton luôn là một CON NGƯỜI - Doktor Courton byl vždy ČLOVĚKEM”.
Czech Republic, 10.4.2013
Đoàn Phú Hòa
(1): Năm 1968, sau khi quân đội Liên Xô cùng quân đội khối Varsava đổ bộ vào Tiệp Khắc để buộc chính quyền Tiệp Khắc phải đi theo đường lối của mình thì rất nhiều người dân Tiệp Khắc, do phản đối hành động đó đã chạy ra nước ngoài, phần lớn là sang Áo, Tấy Đức rồi đến các nước khác. Người dân Tiệp Khắc cho rằng, nếu không có cuộc đổ bộ này thì chính phủ Tiệp Khắc đã có thể đưa đất nước đi theo hướng không phụ thuộc vào Liên Xô và nhờ đó nền kinh tế của Tiệp Khắc sẽ trở lại thời kỳ hoàng kim như sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, khi nền cơ khí của Tiệp Khắc nổi tiếng trên toàn Châu Âu. Khi Tiệp Khắc còn là nước c.... s.., nhất là sau vụ 1968 thì công dân Tiệp Khắc chỉ có thể đi du lịch trong các nước của phe XHCN, cùng lắm là qua Nam Tư chứ gần như không được phép đi các nước tư bản. Nếu qua Nam Tư phải xin phép đặc biệt và không bao giờ được phép đi cả gia đình để tránh trường hợp bỏ trốn. Nếu gia đình không con thì bao giờ cũng chỉ được phép đi một người. Nếu gia đình có con thì bố mẹ đi, con cái ở lại. Tuy vậy, nhiều cặp vợ chồng đã gửi con lại cho ông bà trông rồi trốn ra nước ngoài qua con đường Nam Tư. Tất nhiên số phận của những người ở lại rất cực khổ và luôn nằm trong sự kiểm soát của công an Tiệp Khắc. Con cái của họ phần lớn không được học đại học và không được làm việc ở những vị trí phù hợp với khả năng của mình. Sau năm 1968 rất nhiều giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, do phản đối hành động “đổ bộ” của Liên Xô đã bị đuổi khỏi vị trí làm việc của mình và không ít người trong số này chỉ có thể tìm được việc làm duy nhất là thợ đốt lò trong các nhà máy. Václav Havel, cố tổng thống Tiệp Khắc đầu tiên sau năm 1990, sau khi ra tù là một trong những người như vậy.
(2): Báo “Quyền lợi đỏ - Rudé Právo” là cơ quan ngôn luận của đảng c.... s.. Tiệp Khắc, giống như báo “Nhân Dân” ở Việt Nam. Sau năm 1990, khi chế độ c.... s.. bị lật đổ thì báo này đổi tên thành “Quyền lợi – Právo” nhưng vẫn thiên về cánh tả.
(3): STB là cơ quan an ninh của Bộ công an Tiệp Khắc. Hồi đó, tất cả công dân Tiệp Khắc được cử đi làm việc ở nước ngoài đều phải ký một hợp đồng tình nguyện hợp tác với họ. Không những thế, nhiều công dân Tiệp Khắc, tuy chỉ sống ở trong nước nhưng hoặc là tự nguyện, hoặc bị ép buộc phải cộng tác và thường xuyên cung cấp cho STB những thông tin về những ai có biểu hiện chống đảng. Không ít trường hợp, chỉ vì lấy thành tích hoặc vì hằn thù cá nhân mà có những tình nguyện viên sẵn sàng vu oan cho người khác, tạo ra bằng chứng giả, ... và tất nhiên nhiều người đã bị tan nát cả cuộc đời vì những điều vu oan, giá họa đó. Sau năm 1990, khi hồ sơ mật của STB được công khai thì nhiều người giật mình khi biết bạn bè mình, đồng nghiệp mình, hàng xóm mình làm việc cho STB và cung cấp những tài liệu, thông tin sai trái về họ
Thanked by 2 Members:
|
|
#35
Gửi vào 05/05/2019 - 21:40
CÀ PHÊ CÓC
Kể lại chuyện bên K79 cho vui nghen
Sau khi đóng đô tại cây số 6 (Hãng rượu SKD) được khoảng 6 tháng thì tiểu đội của Quân Đoàn 4 rút đi, thế là anh em liền "tiến quân" chiếm ngay cứ điểm căn nhà đúc beton một tầng do QĐ4 bỏ lại .
Quân ta chia nhau chỗ ngủ trên tầng lầu . Tui "nhường" cho mấy anh em dãy giường phía ngoài, tui rút vô căn phòng bên trong cùng ...Một đêm mót tiểu tui xách súng đi ra ngoài, ngang qua khu anh em nằm thấy trống một chỗ, điểm mặt thì vắng thằng Toán phiên dịch, chắc nó cũng mắc như mình ...Sau khi làm xong nhiệm vụ trở lại vẫn thấy chỗ nó còn trống , hơi sinh nghi, tui lại xách súng trở ra ngoài, vừa đi vừa kêu khe khẻ :"Toán ơi, Toán à ..." lùng sục mọi ngõ ngách không thấy tăm hơi, cũng không nghe nó ơi hỡi...Tui thấy "nhột" rồi, liền trở lên dựng đầu cả đám xách súng đi tìm hắn. Lúc đầu anh em còn kêu khe khẽ, một hổi không nghe động tĩnh gì, cả đám hoảng rồi, la toáng cả màn đêm (Nói gỡ chứ thật sự lúc đó tui nghỉ là nó đi ngoài rồi bị Polpot cắt cổ, dấu xác)....Tìm mệt rồi cả đám trở về lán thì thấy ông nội nằm chình ình, còn trùm mền nữa chứ !
Cả đám xúm lại định tẩn cho hắn một trận vì làm anh em lên ruột...Tui tra hỏi tại chỗ, hắn thật thà khai báo : t*o mò qua bên nhà con Helen (gái Miên lai Pháp) ...chưa kịp tuột sarong thì tụi bây la um sùm làm t*o phải mò về !!!
Bà mẹ nó chứ, nửa đêm đi mò gái làm anh em một bữa lên ruột !!!
Nguyễn Hữu Vinh
Kể lại chuyện bên K79 cho vui nghen
Sau khi đóng đô tại cây số 6 (Hãng rượu SKD) được khoảng 6 tháng thì tiểu đội của Quân Đoàn 4 rút đi, thế là anh em liền "tiến quân" chiếm ngay cứ điểm căn nhà đúc beton một tầng do QĐ4 bỏ lại .
Quân ta chia nhau chỗ ngủ trên tầng lầu . Tui "nhường" cho mấy anh em dãy giường phía ngoài, tui rút vô căn phòng bên trong cùng ...Một đêm mót tiểu tui xách súng đi ra ngoài, ngang qua khu anh em nằm thấy trống một chỗ, điểm mặt thì vắng thằng Toán phiên dịch, chắc nó cũng mắc như mình ...Sau khi làm xong nhiệm vụ trở lại vẫn thấy chỗ nó còn trống , hơi sinh nghi, tui lại xách súng trở ra ngoài, vừa đi vừa kêu khe khẻ :"Toán ơi, Toán à ..." lùng sục mọi ngõ ngách không thấy tăm hơi, cũng không nghe nó ơi hỡi...Tui thấy "nhột" rồi, liền trở lên dựng đầu cả đám xách súng đi tìm hắn. Lúc đầu anh em còn kêu khe khẽ, một hổi không nghe động tĩnh gì, cả đám hoảng rồi, la toáng cả màn đêm (Nói gỡ chứ thật sự lúc đó tui nghỉ là nó đi ngoài rồi bị Polpot cắt cổ, dấu xác)....Tìm mệt rồi cả đám trở về lán thì thấy ông nội nằm chình ình, còn trùm mền nữa chứ !
Cả đám xúm lại định tẩn cho hắn một trận vì làm anh em lên ruột...Tui tra hỏi tại chỗ, hắn thật thà khai báo : t*o mò qua bên nhà con Helen (gái Miên lai Pháp) ...chưa kịp tuột sarong thì tụi bây la um sùm làm t*o phải mò về !!!
Bà mẹ nó chứ, nửa đêm đi mò gái làm anh em một bữa lên ruột !!!
Nguyễn Hữu Vinh
Thanked by 2 Members:
|
|
#36
Gửi vào 05/05/2019 - 21:50
KINH TẾ MỚI
Đấy là một buổi chiều sài gòn tối sầm cơn mưa lớn, trong góc một nhà xưởng nào đó ở phú nhuận tôi nằm gối tay im lặng , lát nữa thôi sau khi lãnh quân trang một chiếc võng, 2 bộ quần áo màu xanh rêu , chiếc bòng quân đội xe đò sẽ chuyển chúng tôi đến một vùng kinh tế mới chưa rõ ở đâu . gã thanh niên 22 tuổi không bạn bè người thân tiễn đưa không buồn không vui , đốt thuốc mịt mù…
Chỉ 2 tiếng sau cơn mưa dữ dội sẽ đón tôi khi vừa đổ quân xuống một vùng đất hoang vu chỉ cỏ tranh và rừng khộp có tên vùng ktm - tân uyên - sông bé
Đấy là buổi chiều tháng 5 , mùa mưa 1976 sao mà dữ dội đến thế !!!
…
Hơn 30 năm sau Những ngày tháng tư lang thang trên mạng bỗng gặp bức ảnh của một vùng kinh tế mới nào đó…
Bần thần cả người.
Hình ảnh những mái nhà lá sơ sài chưa có cả vách phía xa là những ngôi nhà được dựng bởi những con người thành thị chưa từng lao động nặng bao giờ và những chuyến xe đổ người dân xuống thường là buổi chiều, ban đêm và vội vã quay về thành phố. Chúng tôi những tnxp được điều động đến khiêng vác đồ đạc cho từng hộ gia đình vào những ngôi nhà dưới tận thung sâu. Những gã trai trẻ khi ấy vẫn ngạc nhiên không thể hiểu vì sao giúp đỡ đồng bào lại bị chửi mắng nhiều đến thế? mãi sau mới hiểu những lời hẹn hứa từ thành phố về nơi ăn chốn ở của vùng ktm là dối trá, điện nước, chợ, trường học, bịnh xá… hoàn toàn chưa có, không còn ai để đồng bào trút giận dữ họ trút vào chúng tôi những kẻ y như họ cũng đang nhà tranh vách đất giữa rừng.
…
Những cái tết vắng lặng trên vùng kinh tế mới năm sau và năm sau nữa, mùng một tết tôi rời doanh trại cách nhiều cây số ra một quán nhỏ nhà dân. Dăm ba củ khoai, con khô treo vách và một chai rượu sắn đục ngầu … đôi mắt cận thị nhập nhoè vì say bỗng thấy bóng dáng một cô bé chừng 12 tuổi, quần áo cũ chân không dép, nắng chang chang kéo lê trên vai một nhánh cây rừng khô từ lũng xa đi lên đường lộ.chận bé lại hỏi chuyện, gia đình cô bé lên đây đã 2 năm làm rẫy, trồng mì. Gã tnxp lục tay nải cho đứa bé cả hai hộp sữa thứ nhu yếu phẩm xa xỉ nhất mỗi tháng có được, cô bé lí nhí chào, khuất dần sau những luống mì cằn cỗi
Cô bé không hề biết đấy là ngày tết
Đêm ấy, có một gã tnxp rượu say không về được đến doanh trại, ngủ vật đâu đó dọc đường đầy lùm bụi, trong giấc ngủ không nhớ hắn có ứa lệ?
…
Nhiều năm sau khi trở về thành phố, hình ảnh cô bé vùng ktm ngày nào mãi còn trong trí nhớ như nỗi ám ảnh khôn nguôi. Em gái! nếu bây giờ em còn sống hẳn cũng đã lớn , em ở đâu ? đã ổn định có chồng con hay trôi dạt chân trời góc bể nào ?
Em chắc không thể nhớ tôi nhưng nếu nhớ ra hai hộp sữa bé nhỏ của ngày tết ấy thì chính là tôi đấy.
Hãy cho tôi một dòng liên lạc…
…
Cúi đầu tôi tạ lỗi tôi
Những đêm ứa lệ tôi ngồi thâu đêm
Thôi thì chị, thôi thì em
Thân tôi cũng thị thành lên rừng rồi…
Tháng tư 2019
ĐỖ TRUNG QUÂN
Đấy là một buổi chiều sài gòn tối sầm cơn mưa lớn, trong góc một nhà xưởng nào đó ở phú nhuận tôi nằm gối tay im lặng , lát nữa thôi sau khi lãnh quân trang một chiếc võng, 2 bộ quần áo màu xanh rêu , chiếc bòng quân đội xe đò sẽ chuyển chúng tôi đến một vùng kinh tế mới chưa rõ ở đâu . gã thanh niên 22 tuổi không bạn bè người thân tiễn đưa không buồn không vui , đốt thuốc mịt mù…
Chỉ 2 tiếng sau cơn mưa dữ dội sẽ đón tôi khi vừa đổ quân xuống một vùng đất hoang vu chỉ cỏ tranh và rừng khộp có tên vùng ktm - tân uyên - sông bé
Đấy là buổi chiều tháng 5 , mùa mưa 1976 sao mà dữ dội đến thế !!!
…
Hơn 30 năm sau Những ngày tháng tư lang thang trên mạng bỗng gặp bức ảnh của một vùng kinh tế mới nào đó…
Bần thần cả người.
Hình ảnh những mái nhà lá sơ sài chưa có cả vách phía xa là những ngôi nhà được dựng bởi những con người thành thị chưa từng lao động nặng bao giờ và những chuyến xe đổ người dân xuống thường là buổi chiều, ban đêm và vội vã quay về thành phố. Chúng tôi những tnxp được điều động đến khiêng vác đồ đạc cho từng hộ gia đình vào những ngôi nhà dưới tận thung sâu. Những gã trai trẻ khi ấy vẫn ngạc nhiên không thể hiểu vì sao giúp đỡ đồng bào lại bị chửi mắng nhiều đến thế? mãi sau mới hiểu những lời hẹn hứa từ thành phố về nơi ăn chốn ở của vùng ktm là dối trá, điện nước, chợ, trường học, bịnh xá… hoàn toàn chưa có, không còn ai để đồng bào trút giận dữ họ trút vào chúng tôi những kẻ y như họ cũng đang nhà tranh vách đất giữa rừng.
…
Những cái tết vắng lặng trên vùng kinh tế mới năm sau và năm sau nữa, mùng một tết tôi rời doanh trại cách nhiều cây số ra một quán nhỏ nhà dân. Dăm ba củ khoai, con khô treo vách và một chai rượu sắn đục ngầu … đôi mắt cận thị nhập nhoè vì say bỗng thấy bóng dáng một cô bé chừng 12 tuổi, quần áo cũ chân không dép, nắng chang chang kéo lê trên vai một nhánh cây rừng khô từ lũng xa đi lên đường lộ.chận bé lại hỏi chuyện, gia đình cô bé lên đây đã 2 năm làm rẫy, trồng mì. Gã tnxp lục tay nải cho đứa bé cả hai hộp sữa thứ nhu yếu phẩm xa xỉ nhất mỗi tháng có được, cô bé lí nhí chào, khuất dần sau những luống mì cằn cỗi
Cô bé không hề biết đấy là ngày tết
Đêm ấy, có một gã tnxp rượu say không về được đến doanh trại, ngủ vật đâu đó dọc đường đầy lùm bụi, trong giấc ngủ không nhớ hắn có ứa lệ?
…
Nhiều năm sau khi trở về thành phố, hình ảnh cô bé vùng ktm ngày nào mãi còn trong trí nhớ như nỗi ám ảnh khôn nguôi. Em gái! nếu bây giờ em còn sống hẳn cũng đã lớn , em ở đâu ? đã ổn định có chồng con hay trôi dạt chân trời góc bể nào ?
Em chắc không thể nhớ tôi nhưng nếu nhớ ra hai hộp sữa bé nhỏ của ngày tết ấy thì chính là tôi đấy.
Hãy cho tôi một dòng liên lạc…
…
Cúi đầu tôi tạ lỗi tôi
Những đêm ứa lệ tôi ngồi thâu đêm
Thôi thì chị, thôi thì em
Thân tôi cũng thị thành lên rừng rồi…
Tháng tư 2019
ĐỖ TRUNG QUÂN
Thanked by 1 Member:
|
|
#37
Gửi vào 08/05/2019 - 21:32
Bác tôi, Đoàn Phú Tứ
29-7-2018
Đã từ lâu rồi tôi luôn có một nguyện vọng viết về người bác kính yêu của mình, bác Đoàn Phú Tứ, người bác gần gũi nhất với tôi trong số tất cả họ hàng bên nội của mình. Không hiểu duyên cơ gì mà tôi lại được bác quý và được gần gũi với bác đến thế. Trong đời mình rất ít khi tôi mê nhưng nếu có thì tôi thường mê thấy bố mẹ tôi và bác.
Cách đây mấy hôm, cậu bạn già thân thiết Phan Trí Đỉnh có một bài viết về bác nên càng giúp tôi quyết tâm viết về người bác kính yêu của mình. Viết về những gì tôi biết và được nghe bác hay bố tôi kể về bác.
Bác tôi là người con thứ hai trong gia đình có 9 anh em, nhưng hai bác gái tôi đã qua đời rất sớm, để lại 7 anh em trai gắn bó nhau suốt cả cuộc đời. Tất cả anh chị em đều sinh ra trong một ngôi nhà trên phố Sinh Từ (nay là Nguyễn Khuyến) ở Hà Nội. Cụ nội tôi là tri huyện nhưng sớm từ quan để sống với niềm đam mê của mình là văn thơ cùng săn bắn. Theo như các bác kể thì hồi cụ nội còn sống có cả một đàn chó săn nổi tiếng ở Hà Nội lúc bấy giờ.
Làng Xã Đàn (cách Ô Chợ Dừa một đoạn không xa) chính là điền trang của họ nội, là nơi cứ đến chủ nhật cuối tuần thì cả đại gia đình đưa nhau về đó thưởng thức không khí đồng quê. Ông bà nội tôi mất sớm nên bác cả tôi cùng bác gái đã thay bố mẹ chăm sóc các em cho đến khi trưởng thành, mỗi người đi một ngã.
Gia đình bác Cả (Đoàn Phú Quán) về Lò Đúc, gia đình bác Tứ về Châu Long, gia đình bác Ba (Đoàn Phú Chiêm) về phố Huế, gia đình bác Tư (Đoàn Phú Tư) về Cầu Gỗ, gia đình bác Năm (Đoàn Phú Canh) ở tít tận Mộc Hóa – Long An, gia đình bác Sáu (Đoàn Phú Tặng) về Bà Triệu và gia đình bố mẹ tôi, em út trong nhà ở cùng nhà với ông bà ngoại và cũng là cùng nhà với gia đình bác Cả ở Lò Đúc. Đây là một biệt thự hai tầng với nhiều phòng. Nhà bác Cả ở tầng dưới còn nhà ông bà ngoại tôi ở tầng trên.
Hàng năm, cả đại gia đình họ nội chúng tôi lại tập trung ở nhà bác Cả trong những ngày giỗ ông bà nội và tối giao thừa. Tuy những năm giữa thập kỷ 50 thì tôi còn bé lắm, mới 3 – 4 tuổi nhưng không hiểu sao tôi vẫn còn nhớ rất rõ hình ảnh của những ngày đó. Bác Cả gái, tên thật là bác Quế, trước năm 1954 là giáo viên tiếng Pháp của trường trung học Albert Saraut trên phố Hai Bà Trưng nhưng sau năm 1954 thì tiếng Pháp bị loại bỏ khỏi các môn học nên bác gái tôi trở thành gia sư cho một số gia đình ở Hà Nội.
Ngày nào bác tôi cũng đi dạy với những bộ quần áo dài trắng rất đẹp, bộ tóc dài được quấn vành khăn trên đầu. Thời kỳ đó mấy anh em của bố tôi toàn xưng hô với nhau bằng “Toi” – “Moi” chứ không xưng hô như trong các gia đình khác. Đến cuối năm 1956 thì bỗng nhiên tôi không còn thấy bác gái tôi đi dạy học trong bộ áo dài trắng nữa. Thay vào đó là áo trắng hoặc mỡ gà lụa dài tay xẻ ngang hông cùng với hai cái túi áo nhỏ phía trước bụng.
Bố tôi và các bác cũng không xưng hô với nhau bằng “Toi” – “Moi” như trước mà xưng hô “Anh” – “Tôi”. Các em chồng gọi chị dâu của mình là “Chị” xưng “Tôi” còn các anh rể gọi em dâu của mình là “Cô” xưng “Tôi”. Lúc đầu tôi cũng lạ với cách xưng hô đó nhưng rồi quen dần và thấy bình thường. Sau này, khi đã lớn thì tôi có hỏi bố tôi về cách xưng hô đó và được trả lời là để bình đẳng trong quan hệ.
Trong những lần gặp gỡ đại gia đình như vậy thì sau bữa ăn, các bác và bố tôi đều ngồi tụ nhau trong phòng khách để trò chuyện và lúc đó mọi người thường nói với nhau bằng tiếng Pháp. Các bác gái và mẹ tôi lại tụ tập ở phòng bên cạnh tâm sự về chuyện gia đình, củi nước.
Là cháu út trong họ nên tôi thường ở lại với các bác, lúc thì ngồi vào lòng bố tôi, lúc lại sà vào lòng bác Tứ. Tôi rất khoái chòm râu và bộ ria cong vút của bác. Không hiểu bác Tứ để ria từ bao giờ nhưng từ khi tôi bắt đầu biết nhớ thì tôi đã nhìn thấy bộ râu và chòm ria cũng mái tóc xoăn xoăn tự nhiên của bác.
Trong mấy anh em thì có lẽ bác Tứ và bố tôi gần gũi với nhau nhất và có lẽ nhờ vậy nên trong cả mấy chục người cháu trong họ thì tôi cũng là người tiếp xúc với bác Tứ nhiều nhất. Bác Tứ thường đến nhà tôi trên “con ngựa sắt”, là chiếc xe đạp điện đen tuyền từ thời Pháp với bộ phanh cũng bằng những thanh sắt nhỏ nối với nhau chứ không phải là loại phanh thông dụng như bây giờ. Đã có lần tôi suýt dập mặt vì cái xe đó vì không bóp nổi hai tay phang cứng nhắc đó.
Bố tôi và bác Tứ thường tâm sự với nhau rất lâu và thường cả hai đều có bộ mặt trầm ngâm như đang nghĩ về vấn đề gì hệ trọng lắm. Gần như lúc nào bác Tứ cũng có cái tẩu trên môi cùng làn khói trắng uốn quanh bộ ria của bác.
Những khi rảnh rỗi, nhất là sau khi đã tốt nghiệp đại học rồi ra làm việc thì tôi thường đến thăm bác. Ngôi nhà 12 Châu Long lúc nào cũng đen bụi than do nhà máy điện Yên Phụ phả vào. Sau năm năm 1954 một thời gian thì tầng trệt của gia đình bác bị chính quyền trưng thu làm lớp mẫu giáo nên cả gia đình đông người phải dồn lên ở tầng lầu.
Nơi làm việc của bác là mọt góc nhỏ ngay sát cầu thang với ngổn ngang giấy tờ, là những bản dịch nháp các cuốn tiểu thuyết, kịch từ tiếng Pháp. Phần lớn những cuốn sách mà bác Tứ dịch là tôi được đọc từ những bản nháp đó như “Hồn ma bóng quỉ”, “Trưởng giả học làm sang”, “Hài kịch Shakespeare”, … và nhất là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Đỏ và Đen” của nhà văn Stendhal, tên thật là Henri Mari Beyle. Tôi đã đọc ngấu nghiến một cách say mê mặc dù đó chỉ là những bản thảo. Bằng cả sự say mê bác Tứ dịch và viết nhiều lắm nhưng cho đến cuối đời nhà xuất bản Văn Học chỉ chấp nhận in một số lượng nhỏ với những điều kiện vô cùng khắt khe.
Bác Khiêm, bác gái vốn là nữ sinh viên, kém thầy giáo mình 21 tuổi nhưng đã mang lòng yêu bác Tứ để rồi hai bác trở nên vợ chồng. Sau này, dù là một giáo viên giỏi tiếng Anh nhưng vì là vợ bác Tứ nên không một trường học, một cơ quan nào dám nhận bác vào làm việc. Hai bác đã phải làm tất cả mọi việc có thể để nuôi sống gia đình mình.
Những năm đầu của thời kỳ tem phiếu, ngoài tiêu chuẩn gạo ít ỏi (13 kg/người/tháng) thì cả gia đình bác Tứ hoàn toàn không được hưởng bất kỳ tiêu chuẩn nào khác như thịt, cá,… Thật ra đó cũng chỉ là tiêu chuẩn vô cùng “khiêm tốn” với mức 350gr. thịt/người/tháng, là tiêu chuẩn cho người dân, không nằm trong biên chế nhà nước. Hàng tháng bố tôi vẫn lẳng lặng trích một phần tiêu chuẩn của mình như thịt, thuốc lá, … cho gia đình anh trai mặc dù bản thân tiêu chuẩn của cụ cũng chẳng nhiều nhặn gì.
Tôi còn nhớ lần mẹ tôi bị kẻ gian móc túi lấy hết tem phiếu của tháng đó ngay hôm đầu tháng, trong đó có cả phiếu mua thuốc lá. Bố tôi buồn vì không phải không có thuốc hút mà buồn là không có thuốc cho anh trai mình. Cụ đã nhờ người mua thuốc lá sợi từ Bắc Giang, Bắc Ninh về để anh mình có thuốc hút. Mỗi lần có điều kiện mua thuốc lá ngoài tiêu chuẩn là tôi cũng dành cho người bác kính yêu của mình. Vì thời gian đó giấy trắng rất khan hiếm nên tôi thường xin lũ bạn làm việc bên phân viện máy tính những tập giấy máy tính, loại đục lỗ hai lề đã sử dụng để bác Tứ có thể dùng làm nháp cho các tác phẩm của mình.
Thời gian tôi gần gũi bác Tứ nhiều nhất là vào năm 1983 – 1985, khi tôi đang chờ giấy phép được quay trở lại Tiệp Khắc để đoàn tụ với vợ con ở bên này. Hai bác cháu thường ra mấy quán cafe quen thuộc của những cây đa, cây đề trong nền văn học, nghệ thuật Miền Bắc ở Hà Nội để uống trà, uống cafe và tôi cũng không ít lần chứng kiến cảnh ông chủ quán Lâm đã nhận những bức tranh vẽ phác thảo tại chỗ của Bùi Xuân Phái thay cho thanh toán tiền mặt.
Thời gian đó tôi được nghe bác Tứ tâm sự về mình nhiều nhất, kể cả những điều mà rất ít người biết. Là một người đào hoa từ khi còn trẻ đến tận lúc về già nhưng chưa bao giờ bác Tứ có một cuộc tình trăng hoa, kể từ khi còn thanh niên đến sau khi đã có gia đình.
Có lẽ gia đình bác Tứ tôi là một trong những gia đình đầu tiên ở Hà Nội nuôi lợn trong sân nhà để có nguồn cải thiện từ những năm đầu của thập kỷ 60. Mỗi buổi chiều, bác tôi phải ra chợ Hàng Da để lượm rau quả hỏng mà các bà hàng vứt đi để có thức ăn cho lợn. Cũng vì thế mà một lần ông Phạm Văn Đồng đi qua, khi nhìn thấy bác tôi đang bới đống rác lượm rau quả, đã bảo lái xe dừng lại để hỏi tình hình, làm như ông ấy không biết rằng chính cái chính quyền của ông ấy đã đầy đọa bác tôi như thế nào.
Sau khi nghe chuyện về những cuốn truyện, vở kịch được bác Tứ dịch nhưng không được phát hành, thì ông Đồng đã yêu cầu nhà xuất bản “Văn Học” cho in những cuốn đó nhưng cũng phải mấy năm sau thì yêu cầu đó mới được thực hiện. Bộ Văn Hóa không đồng ý bác tôi để tên thật của mình trên những cuốn sách đó mà phải chọn một bí danh. Để có khoản thu nhập thì cuối cùng bác tôi đã phải chấp thuận và chọn cho mình cái bí danh “Tuấn Đô”. Bộ Văn Hóa uất lắm nhưng không còn cách nào hơn là phải thừa nhận cái bí danh đó bởi vì TUẤN ĐÔ đọc ngược là ĐỐ TUÂN.
c.... s.. quả là ác độc và nhỏ mọn. Chính vì vụ án “Trần Dụ Châu” mà có những kẻ trong số đó muốn triệt hại bác Đoàn Phú Tứ đến tận cuối đời. Sách báo thường kể rằng bác Tứ đã có câu nói khẳng khái trong lễ tiệc cưới của Trần Dụ Châu để rồi dẫn đến việc Trần Dụ Châu bị chính tay ông Hồ ký lệnh xử bắn. Thật ra đó không phải làm đám cưới của Trần Dụ Châu là mà đám cưới một thuộc hạ thân tín của Trần Dụ Châu do tay này đứng ra làm chủ hôn.
Mãi đến sau này bác Tứ cũng không hiểu tại sao Trần Dụ Châu đích thân mời bác đến dự. Trong bữa tiệc cưới hôm đó có gần đầy đủ mặt của các quan chức quân đội, cấp bậc còn cao hơn nhiều so với Trần Dụ Châu và tất cả đều hỉ hả giữa những dòng rượu đắt tiền, thuốc lá sang trọng của Pháp, Mỹ cùng đủ sơn hào hải vị dưới những cây nến trắng to bằng cổ tay, cổ chân được thắp sáng rực.
Bác tôi ngạc nhiên vì trong hoàn cảnh chiến trường vô cùng khó khăn, gian khổ như vậy, người lính phải ăn cơm nắm, muối vừng nhưng các quan chức cao cấp có thể vui vẻ như vậy. Các sĩ quan cao cấp của quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ có nằm mơ cũng không thể có được một bữa tiệc thịnh soạn như vậy.
Để có được những món cao cấp như thế đưa ra từ vùng Pháp kiểm soát là một điều gần như không tưởng, chưa kể dến những chặng đường vượt dốc khó khăn mà đoàn xe thồ phải đi qua cả tuần lễ nhưng tại tiệc cưới thì bác tôi được các quan chức cho biết rằng cả một trung đội dân công đã phải thực hiện bằng được công việc đó.
Sau khi nói lên suy nghĩ của mình thì bác tôi đã bị một số quan chức cao cấp dè bỉu và có kẻ còn cho rằng “dở hơi vì của ngon đến miệng mà không biết hưởng”.
Sau khi Trần Dụ Châu nhận án tử hình thì bác tôi đã phải nhận không ít lời dèm pha, coi bác tôi như “kẻ mách lẻo” và thậm chí còn có những lời đe dọa. Chính vì những kẻ như vậy mà bác tôi, đại biểu quốc hội khóa 1 hồi năm 1946, nhận ra bộ mặt thật của họ để rồi dẫn đến quyết định trở về Hà Nội với sự nghiệp văn chương hồi hè 1951.
Tưởng vậy là yên nhưng bác tôi không ngờ rằng sau năm 1954, khi chính quyền nằm trong tay đảng c.... s.., thì một số kẻ có mặt trong buổi tiệc cưới hôm đó đã ngay lập tức thực hiện lời đe dọa của mình bằng cách vu cho bác Tứ, nguyên là một thành viên sáng lập nhóm “Tự Lực Văn Đoàn” có liên quan với nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm” cùng nhiều nhóm khác mà chúng qui cho cái tội “chống đảng” cùng cái tội “dinh tê” về Hà Nội.
Thực chất, theo như bác Tứ nói đó chính là hình thức trả thù cho Trần Dụ Châu vì những kẻ có mặt trong bữa tiệc cưới đó, sau này nhắn tin de dọa bác, đã trở thành những lãnh đạo của Bộ Văn Hóa sau năm 1954. Cuộc đời của bác tôi cùng gia đình bắt đầu bị vùi dập từ đó.
Thời gian ấy, như bác và bố tôi kể, đã có một số bạn bè khuyên bác nên viết thư xin lãnh đạo Bộ Văn Hóa “lượng thứ và xem xét lại” nhưng không bao giờ bác tôi chấp nhận. Trong một chiều hè 1984, tại quán cafe trên phố Phan Bội Châu, sau khi được nghe bác tâm sự, tôi có hỏi lý do tại sao không bao giờ bác làm theo lời khuyên của bạn bè thì bác chỉ nói một câu ngắn gọn “Không bao giờ bác quì gối van xin lũ kh*n n*n đó”.
Tôi viết những dòng này như để tưởng nhớ đến người bác kính yêu của mình, bác Đoàn Phú Tứ. Một người không bao giờ khuất phục trước cường quyền.
Bác Đoàn Phú Tứ của tôi là như vậy đấy.
Czech Republic, 29.7.2018
Đoàn Phú Hòa
____
P.S: Hồi còn nhỏ, khi nghe tôi hỏi tại sao thỉnh thoảng các bác lại nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp thì tôi được giải thích là để các bác không quên ngôn ngữ đó. Sau này, khi đã lớn thì tôi mới hiểu rằng các bác cùng bố tôi nói với nhau bằng tiếng Pháp về những vấn đề mà không phải ai cũng nên nghe.
Cụ Đoàn Phú Tứ, bác của ông Đoàn Phú Hòa. Ảnh của tác giả
29-7-2018
Đã từ lâu rồi tôi luôn có một nguyện vọng viết về người bác kính yêu của mình, bác Đoàn Phú Tứ, người bác gần gũi nhất với tôi trong số tất cả họ hàng bên nội của mình. Không hiểu duyên cơ gì mà tôi lại được bác quý và được gần gũi với bác đến thế. Trong đời mình rất ít khi tôi mê nhưng nếu có thì tôi thường mê thấy bố mẹ tôi và bác.
Cách đây mấy hôm, cậu bạn già thân thiết Phan Trí Đỉnh có một bài viết về bác nên càng giúp tôi quyết tâm viết về người bác kính yêu của mình. Viết về những gì tôi biết và được nghe bác hay bố tôi kể về bác.
Bác tôi là người con thứ hai trong gia đình có 9 anh em, nhưng hai bác gái tôi đã qua đời rất sớm, để lại 7 anh em trai gắn bó nhau suốt cả cuộc đời. Tất cả anh chị em đều sinh ra trong một ngôi nhà trên phố Sinh Từ (nay là Nguyễn Khuyến) ở Hà Nội. Cụ nội tôi là tri huyện nhưng sớm từ quan để sống với niềm đam mê của mình là văn thơ cùng săn bắn. Theo như các bác kể thì hồi cụ nội còn sống có cả một đàn chó săn nổi tiếng ở Hà Nội lúc bấy giờ.
Làng Xã Đàn (cách Ô Chợ Dừa một đoạn không xa) chính là điền trang của họ nội, là nơi cứ đến chủ nhật cuối tuần thì cả đại gia đình đưa nhau về đó thưởng thức không khí đồng quê. Ông bà nội tôi mất sớm nên bác cả tôi cùng bác gái đã thay bố mẹ chăm sóc các em cho đến khi trưởng thành, mỗi người đi một ngã.
Gia đình bác Cả (Đoàn Phú Quán) về Lò Đúc, gia đình bác Tứ về Châu Long, gia đình bác Ba (Đoàn Phú Chiêm) về phố Huế, gia đình bác Tư (Đoàn Phú Tư) về Cầu Gỗ, gia đình bác Năm (Đoàn Phú Canh) ở tít tận Mộc Hóa – Long An, gia đình bác Sáu (Đoàn Phú Tặng) về Bà Triệu và gia đình bố mẹ tôi, em út trong nhà ở cùng nhà với ông bà ngoại và cũng là cùng nhà với gia đình bác Cả ở Lò Đúc. Đây là một biệt thự hai tầng với nhiều phòng. Nhà bác Cả ở tầng dưới còn nhà ông bà ngoại tôi ở tầng trên.
Hàng năm, cả đại gia đình họ nội chúng tôi lại tập trung ở nhà bác Cả trong những ngày giỗ ông bà nội và tối giao thừa. Tuy những năm giữa thập kỷ 50 thì tôi còn bé lắm, mới 3 – 4 tuổi nhưng không hiểu sao tôi vẫn còn nhớ rất rõ hình ảnh của những ngày đó. Bác Cả gái, tên thật là bác Quế, trước năm 1954 là giáo viên tiếng Pháp của trường trung học Albert Saraut trên phố Hai Bà Trưng nhưng sau năm 1954 thì tiếng Pháp bị loại bỏ khỏi các môn học nên bác gái tôi trở thành gia sư cho một số gia đình ở Hà Nội.
Ngày nào bác tôi cũng đi dạy với những bộ quần áo dài trắng rất đẹp, bộ tóc dài được quấn vành khăn trên đầu. Thời kỳ đó mấy anh em của bố tôi toàn xưng hô với nhau bằng “Toi” – “Moi” chứ không xưng hô như trong các gia đình khác. Đến cuối năm 1956 thì bỗng nhiên tôi không còn thấy bác gái tôi đi dạy học trong bộ áo dài trắng nữa. Thay vào đó là áo trắng hoặc mỡ gà lụa dài tay xẻ ngang hông cùng với hai cái túi áo nhỏ phía trước bụng.
Bố tôi và các bác cũng không xưng hô với nhau bằng “Toi” – “Moi” như trước mà xưng hô “Anh” – “Tôi”. Các em chồng gọi chị dâu của mình là “Chị” xưng “Tôi” còn các anh rể gọi em dâu của mình là “Cô” xưng “Tôi”. Lúc đầu tôi cũng lạ với cách xưng hô đó nhưng rồi quen dần và thấy bình thường. Sau này, khi đã lớn thì tôi có hỏi bố tôi về cách xưng hô đó và được trả lời là để bình đẳng trong quan hệ.
Trong những lần gặp gỡ đại gia đình như vậy thì sau bữa ăn, các bác và bố tôi đều ngồi tụ nhau trong phòng khách để trò chuyện và lúc đó mọi người thường nói với nhau bằng tiếng Pháp. Các bác gái và mẹ tôi lại tụ tập ở phòng bên cạnh tâm sự về chuyện gia đình, củi nước.
Là cháu út trong họ nên tôi thường ở lại với các bác, lúc thì ngồi vào lòng bố tôi, lúc lại sà vào lòng bác Tứ. Tôi rất khoái chòm râu và bộ ria cong vút của bác. Không hiểu bác Tứ để ria từ bao giờ nhưng từ khi tôi bắt đầu biết nhớ thì tôi đã nhìn thấy bộ râu và chòm ria cũng mái tóc xoăn xoăn tự nhiên của bác.
Trong mấy anh em thì có lẽ bác Tứ và bố tôi gần gũi với nhau nhất và có lẽ nhờ vậy nên trong cả mấy chục người cháu trong họ thì tôi cũng là người tiếp xúc với bác Tứ nhiều nhất. Bác Tứ thường đến nhà tôi trên “con ngựa sắt”, là chiếc xe đạp điện đen tuyền từ thời Pháp với bộ phanh cũng bằng những thanh sắt nhỏ nối với nhau chứ không phải là loại phanh thông dụng như bây giờ. Đã có lần tôi suýt dập mặt vì cái xe đó vì không bóp nổi hai tay phang cứng nhắc đó.
Bố tôi và bác Tứ thường tâm sự với nhau rất lâu và thường cả hai đều có bộ mặt trầm ngâm như đang nghĩ về vấn đề gì hệ trọng lắm. Gần như lúc nào bác Tứ cũng có cái tẩu trên môi cùng làn khói trắng uốn quanh bộ ria của bác.
Những khi rảnh rỗi, nhất là sau khi đã tốt nghiệp đại học rồi ra làm việc thì tôi thường đến thăm bác. Ngôi nhà 12 Châu Long lúc nào cũng đen bụi than do nhà máy điện Yên Phụ phả vào. Sau năm năm 1954 một thời gian thì tầng trệt của gia đình bác bị chính quyền trưng thu làm lớp mẫu giáo nên cả gia đình đông người phải dồn lên ở tầng lầu.
Nơi làm việc của bác là mọt góc nhỏ ngay sát cầu thang với ngổn ngang giấy tờ, là những bản dịch nháp các cuốn tiểu thuyết, kịch từ tiếng Pháp. Phần lớn những cuốn sách mà bác Tứ dịch là tôi được đọc từ những bản nháp đó như “Hồn ma bóng quỉ”, “Trưởng giả học làm sang”, “Hài kịch Shakespeare”, … và nhất là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Đỏ và Đen” của nhà văn Stendhal, tên thật là Henri Mari Beyle. Tôi đã đọc ngấu nghiến một cách say mê mặc dù đó chỉ là những bản thảo. Bằng cả sự say mê bác Tứ dịch và viết nhiều lắm nhưng cho đến cuối đời nhà xuất bản Văn Học chỉ chấp nhận in một số lượng nhỏ với những điều kiện vô cùng khắt khe.
Bác Khiêm, bác gái vốn là nữ sinh viên, kém thầy giáo mình 21 tuổi nhưng đã mang lòng yêu bác Tứ để rồi hai bác trở nên vợ chồng. Sau này, dù là một giáo viên giỏi tiếng Anh nhưng vì là vợ bác Tứ nên không một trường học, một cơ quan nào dám nhận bác vào làm việc. Hai bác đã phải làm tất cả mọi việc có thể để nuôi sống gia đình mình.
Những năm đầu của thời kỳ tem phiếu, ngoài tiêu chuẩn gạo ít ỏi (13 kg/người/tháng) thì cả gia đình bác Tứ hoàn toàn không được hưởng bất kỳ tiêu chuẩn nào khác như thịt, cá,… Thật ra đó cũng chỉ là tiêu chuẩn vô cùng “khiêm tốn” với mức 350gr. thịt/người/tháng, là tiêu chuẩn cho người dân, không nằm trong biên chế nhà nước. Hàng tháng bố tôi vẫn lẳng lặng trích một phần tiêu chuẩn của mình như thịt, thuốc lá, … cho gia đình anh trai mặc dù bản thân tiêu chuẩn của cụ cũng chẳng nhiều nhặn gì.
Tôi còn nhớ lần mẹ tôi bị kẻ gian móc túi lấy hết tem phiếu của tháng đó ngay hôm đầu tháng, trong đó có cả phiếu mua thuốc lá. Bố tôi buồn vì không phải không có thuốc hút mà buồn là không có thuốc cho anh trai mình. Cụ đã nhờ người mua thuốc lá sợi từ Bắc Giang, Bắc Ninh về để anh mình có thuốc hút. Mỗi lần có điều kiện mua thuốc lá ngoài tiêu chuẩn là tôi cũng dành cho người bác kính yêu của mình. Vì thời gian đó giấy trắng rất khan hiếm nên tôi thường xin lũ bạn làm việc bên phân viện máy tính những tập giấy máy tính, loại đục lỗ hai lề đã sử dụng để bác Tứ có thể dùng làm nháp cho các tác phẩm của mình.
Thời gian tôi gần gũi bác Tứ nhiều nhất là vào năm 1983 – 1985, khi tôi đang chờ giấy phép được quay trở lại Tiệp Khắc để đoàn tụ với vợ con ở bên này. Hai bác cháu thường ra mấy quán cafe quen thuộc của những cây đa, cây đề trong nền văn học, nghệ thuật Miền Bắc ở Hà Nội để uống trà, uống cafe và tôi cũng không ít lần chứng kiến cảnh ông chủ quán Lâm đã nhận những bức tranh vẽ phác thảo tại chỗ của Bùi Xuân Phái thay cho thanh toán tiền mặt.
Thời gian đó tôi được nghe bác Tứ tâm sự về mình nhiều nhất, kể cả những điều mà rất ít người biết. Là một người đào hoa từ khi còn trẻ đến tận lúc về già nhưng chưa bao giờ bác Tứ có một cuộc tình trăng hoa, kể từ khi còn thanh niên đến sau khi đã có gia đình.
Có lẽ gia đình bác Tứ tôi là một trong những gia đình đầu tiên ở Hà Nội nuôi lợn trong sân nhà để có nguồn cải thiện từ những năm đầu của thập kỷ 60. Mỗi buổi chiều, bác tôi phải ra chợ Hàng Da để lượm rau quả hỏng mà các bà hàng vứt đi để có thức ăn cho lợn. Cũng vì thế mà một lần ông Phạm Văn Đồng đi qua, khi nhìn thấy bác tôi đang bới đống rác lượm rau quả, đã bảo lái xe dừng lại để hỏi tình hình, làm như ông ấy không biết rằng chính cái chính quyền của ông ấy đã đầy đọa bác tôi như thế nào.
Sau khi nghe chuyện về những cuốn truyện, vở kịch được bác Tứ dịch nhưng không được phát hành, thì ông Đồng đã yêu cầu nhà xuất bản “Văn Học” cho in những cuốn đó nhưng cũng phải mấy năm sau thì yêu cầu đó mới được thực hiện. Bộ Văn Hóa không đồng ý bác tôi để tên thật của mình trên những cuốn sách đó mà phải chọn một bí danh. Để có khoản thu nhập thì cuối cùng bác tôi đã phải chấp thuận và chọn cho mình cái bí danh “Tuấn Đô”. Bộ Văn Hóa uất lắm nhưng không còn cách nào hơn là phải thừa nhận cái bí danh đó bởi vì TUẤN ĐÔ đọc ngược là ĐỐ TUÂN.
c.... s.. quả là ác độc và nhỏ mọn. Chính vì vụ án “Trần Dụ Châu” mà có những kẻ trong số đó muốn triệt hại bác Đoàn Phú Tứ đến tận cuối đời. Sách báo thường kể rằng bác Tứ đã có câu nói khẳng khái trong lễ tiệc cưới của Trần Dụ Châu để rồi dẫn đến việc Trần Dụ Châu bị chính tay ông Hồ ký lệnh xử bắn. Thật ra đó không phải làm đám cưới của Trần Dụ Châu là mà đám cưới một thuộc hạ thân tín của Trần Dụ Châu do tay này đứng ra làm chủ hôn.
Mãi đến sau này bác Tứ cũng không hiểu tại sao Trần Dụ Châu đích thân mời bác đến dự. Trong bữa tiệc cưới hôm đó có gần đầy đủ mặt của các quan chức quân đội, cấp bậc còn cao hơn nhiều so với Trần Dụ Châu và tất cả đều hỉ hả giữa những dòng rượu đắt tiền, thuốc lá sang trọng của Pháp, Mỹ cùng đủ sơn hào hải vị dưới những cây nến trắng to bằng cổ tay, cổ chân được thắp sáng rực.
Bác tôi ngạc nhiên vì trong hoàn cảnh chiến trường vô cùng khó khăn, gian khổ như vậy, người lính phải ăn cơm nắm, muối vừng nhưng các quan chức cao cấp có thể vui vẻ như vậy. Các sĩ quan cao cấp của quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ có nằm mơ cũng không thể có được một bữa tiệc thịnh soạn như vậy.
Để có được những món cao cấp như thế đưa ra từ vùng Pháp kiểm soát là một điều gần như không tưởng, chưa kể dến những chặng đường vượt dốc khó khăn mà đoàn xe thồ phải đi qua cả tuần lễ nhưng tại tiệc cưới thì bác tôi được các quan chức cho biết rằng cả một trung đội dân công đã phải thực hiện bằng được công việc đó.
Sau khi nói lên suy nghĩ của mình thì bác tôi đã bị một số quan chức cao cấp dè bỉu và có kẻ còn cho rằng “dở hơi vì của ngon đến miệng mà không biết hưởng”.
Sau khi Trần Dụ Châu nhận án tử hình thì bác tôi đã phải nhận không ít lời dèm pha, coi bác tôi như “kẻ mách lẻo” và thậm chí còn có những lời đe dọa. Chính vì những kẻ như vậy mà bác tôi, đại biểu quốc hội khóa 1 hồi năm 1946, nhận ra bộ mặt thật của họ để rồi dẫn đến quyết định trở về Hà Nội với sự nghiệp văn chương hồi hè 1951.
Tưởng vậy là yên nhưng bác tôi không ngờ rằng sau năm 1954, khi chính quyền nằm trong tay đảng c.... s.., thì một số kẻ có mặt trong buổi tiệc cưới hôm đó đã ngay lập tức thực hiện lời đe dọa của mình bằng cách vu cho bác Tứ, nguyên là một thành viên sáng lập nhóm “Tự Lực Văn Đoàn” có liên quan với nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm” cùng nhiều nhóm khác mà chúng qui cho cái tội “chống đảng” cùng cái tội “dinh tê” về Hà Nội.
Thực chất, theo như bác Tứ nói đó chính là hình thức trả thù cho Trần Dụ Châu vì những kẻ có mặt trong bữa tiệc cưới đó, sau này nhắn tin de dọa bác, đã trở thành những lãnh đạo của Bộ Văn Hóa sau năm 1954. Cuộc đời của bác tôi cùng gia đình bắt đầu bị vùi dập từ đó.
Thời gian ấy, như bác và bố tôi kể, đã có một số bạn bè khuyên bác nên viết thư xin lãnh đạo Bộ Văn Hóa “lượng thứ và xem xét lại” nhưng không bao giờ bác tôi chấp nhận. Trong một chiều hè 1984, tại quán cafe trên phố Phan Bội Châu, sau khi được nghe bác tâm sự, tôi có hỏi lý do tại sao không bao giờ bác làm theo lời khuyên của bạn bè thì bác chỉ nói một câu ngắn gọn “Không bao giờ bác quì gối van xin lũ kh*n n*n đó”.
Tôi viết những dòng này như để tưởng nhớ đến người bác kính yêu của mình, bác Đoàn Phú Tứ. Một người không bao giờ khuất phục trước cường quyền.
Bác Đoàn Phú Tứ của tôi là như vậy đấy.
Czech Republic, 29.7.2018
Đoàn Phú Hòa
____
P.S: Hồi còn nhỏ, khi nghe tôi hỏi tại sao thỉnh thoảng các bác lại nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp thì tôi được giải thích là để các bác không quên ngôn ngữ đó. Sau này, khi đã lớn thì tôi mới hiểu rằng các bác cùng bố tôi nói với nhau bằng tiếng Pháp về những vấn đề mà không phải ai cũng nên nghe.
Cụ Đoàn Phú Tứ, bác của ông Đoàn Phú Hòa. Ảnh của tác giả
Thanked by 1 Member:
|
|
#38
Gửi vào 12/05/2019 - 13:04
Hôm nay ngày Hiền Mẫu
(Tháng năm có ngày của mẹ )
Đỗ trung Quân
Mẹ ta tro bụi trên sông
[Trích hồi ức ]
…
Một buổi sáng như mọi buổi sáng ở toà soạn báo Tuổi Trẻ trên đường lý chính thắng.
Tôi nghe bảo vệ thông báo “ anh Q! Có bà cụ đến tìm. Tôi đón bà trong sân dưới vòm me quen thuộc của toà soạn lòng hoang mang, hơi lo lắng không rõ có chuyện gì hôm nay mẹ đến tận nơi ? hỏi , bà không nói chỉ trầm ngâm vuốt má tôi, bàn tay lần theo từng nút áo “thiếu một cái khuy sao không mang về cho mẹ khâu lại?“ tôi đưa hai tay lên trời “trời! mẹ ơi! con đã có gia đình, việc này là của vợ con. con đang bận túi bụi bài vở cho kịp báo ngày mai, thôi mẹ về đi“
Giọng tôi có phần cáu gắt
Từ cửa sổ tầng lầu của toà soạn có ai đó hét toáng trêu chọc “bác ơi! mang hắn về cho bú tí đi!“
Những gã đồng nghiệp thò đầu qua cửa sổ hét toáng
Bác ơi! mang hắn về nhà cho bú tí đi
Khi ấy tôi đã ba mươi tám tuổi, một vợ, một con trai
Khi ấy người đọc gọi tôi bằng danh xưng: nhà thơ!
Mẹ tôi mất vài năm sau đó
…
Khi mẹ tôi cắp nón rụt rè
Bước vào trong sân guốc mòn áo vải
Reception báo tin có bà cụ đến tìm
Khi ấy tôi đã bốn mươi tuổi vẫn đang nổi tiếng
Những gã đồng nghiệp vẫn không tha
Bác ơi! mang hắn về nhà cho bú tí đi!
…
Chăng ai biết vì sao bà cụ ấy
Thường xuyên cắp nón đi tìm thằng con đã tóc râu chớm bạc
Đơn giản lắm!
Đêm qua nghe ai bảo tôi say xỉn không về nhà
Đêm qua trời sài gòn trở gió
Người mẹ ấy hôm sau lại run rẩy đi tìm
Rụt rè hỏi nhỏ
- Con có bị ốm không?
- Mẹ già rồi lẫn thẫn
- Đừng mắng mẹ nghe con…
…
Thú thật ngày xưa
Tôi gắt mẹ một lần.
Đấy là bài thơ vài năm sau khi nhớ đến bà sau buổi sáng ấy
Còn hôm ấy, Bà im lặng cắp chiếc nón lá lầm lũi ra khỏi cổng, vẫn chiếc áo vải nâu, đôi guốc mộc. khi ấy tôi chưa từng biết mình vừa phạm phải một sai lầm lớn nhất của đời mình .bằng linh cảm của người già, bà cảm nhận được phần số của mình, bà nhớ và đi tìm thăm đứa con trai.
Một tuần sau mẹ tôi mất.
…
Mẹ tôi trở về nhà bằng xe bịnh viện, bằng chiếc khăn đắp mặt, vài bộ quần áo xoàng xĩnh. Căn phòng nhỏ và chiếc giường nghèo nàn của mẹ.bà đột quỵ bất ngờ, ra đi nhẹ nhàng không ngờ. Hàng xóm để yên tôi một mình trong căn phòng nhỏ trên kênh Nhiêu Lộc nơi bà sống cùng tôi nhiều năm, phía trước là khoảng ao rau muống xanh ngắt thứ” màu xanh hiểm nghèo” được tươi tốt hàng ngày bởi thuốc trừ sâu pha nhớt.thứ mùi hăng nồng ấy bao nhiêu năm theo gió vào nhà. Biết đâu nó cũng là thủ phạm giết mòn con người phải sống chung với nó.
Nhưng thế nào thì cũng muộn cả. Mẹ đã qua đời
…
Căn phòng nhỏ không cách nào để lọt chiếc quan tài cho mẹ, tôi phải đưa ra một quyết định sau cùng .đưa mẹ ra chùa. Số phận bà bi thương chưa từng thấy. sống trong xóm đạo, ngoan lễ nhà thờ khi qua đời lại nương nhờ cửa Phật, nhưng thôi, Phật hay Chúa cũng xoè đôi tay, choàng chiếc áo đón mọi sinh linh vừa đi qua bể khổ. Số phận bà cũng kỳ lạ như khúc bi thương vì quá nghèo, căn phòng không đủ chỗ cho chiếc áo cuối cùng khi ra chùa bà bỗng dưng trở thành một con người giàu hơn tất cả
Tin mẹ tôi mất. Bạn bè, người quen đều biết, anh em trong thành phố nhiều ban ngành, nghề nghiệp tìm đến viếng, bạn bè nơi cách tỉnh thành xa xôi cũng lũ lượt lên thành phố. Bạn bè không đi tay không, hàng giỏ cần xé cam quýt, hàng giỏ bánh mì, bánh bao mang đến “để anh tiếp người viếng cụ những ngày này ! “. Những vòng hoa chất như núi trong vãng sanh đường nơi mẹ nằm. Có người thắc mắc hỏi nhau “con trai bà ấy chắc làm to lắm nhỉ !“ khi chứng kiến những ngày tang lễ mẹ tôi.
Con người nghèo nhất thế gian quả nhiên có số phận lạ lùng. Khi những chiếc áo lam nhà chùa vừa xong bài kinh tụng bước ra thì những chiếc áo xám tu nữ bước vào với chuỗi hạt và bài kinh cầu nguyện. Cả hai tôn giáo đều có mặt, đơn giản tôi có mối quan hệ với các vị cả nhà thờ lẫn nhà chùa. Họ cũng biết tin mẹ tôi mất. Tiễn họ tôi vừa mô phật vừa a men!
Suốt ba ngày, thực phẩm quá nhiều. Vợ tôi, con dâu của mẹ cùng tôi quyết định phân chia, phân phát mỗi ngày ba buổi cho những người ăn xin tụ tập trước cổng chùa xem tang lễ. Họ kháo nhau tang chủ có phát bánh mì, bánh bao, trái cây, nước uống… họ kéo đến đông dần mỗi buổi. Nhưng như con cá trên biển Galileo của Chúa, thực phẩm vẫn theo bạn bè chở đến, nó vẫn đủ để phân phát suốt ba ngày.
Ngày động quan tiễn mẹ về đài hoả táng, một người ăn xin có tuổi bước vào xin vài lời “chúng tôi xin được đưa tiễn cụ bà, ba ngày nay cụ bà nuôi chúng tôi ở đây, chúng tôi là ăn xin, cứ để chúng tôi đi bộ theo xe tang đến nơi hoả tang dù xa cách mấy…”
Tôi quyết định trong khoảnh khắc, riêng một chiếc xe khách lớn dành cho họ cùng đi. Nhìn những người ăn xin rách rưới, bị gậy nối nhau lên xe tôi cười trong nước mắt. Trước mẹ và sau mẹ đến hàng chục năm sau con chưa từng thấy một đám ma nào có cả những người hành khất tiễn đưa như mẹ. ”Mom gạt con trai mình nhé! Té ra mom giàu đến thế!“
…
Buổi chiều trên cầu Sài Gòn, chiếc bọc tro cốt mẹ nằm gọn trong lòng tôi.hẳn cũng gọn gàng, bé bỏng như ngày xưa mẹ bồng bế mình.
Quay mặt ra giòng sông cuồn cuộn nước lên tôi thấy mình khóc một trận như chưa bao giờ khóc đến thế trong đời. Những ngày tang ma, bận rộn tiếp bạn bè dường như tôi không đổ lệ
Mẹ trả trăm năm lại bụi hồng rồi đi…
Tro bay theo gió xuống mặt sông lồng lộng gió, nước đang lên và lục bình trôi giạt hàng hàng…
Mẹ ta tro bụi trên sông
Xuôi bèo hoa nẻo hư không mẹ về
Chiều hoa trắng rợn bốn bề
Trần gian thêm một kẻ về mồ côi
Từ đây chỗ mẹ ta ngồi
Mây như tóc trắng rối bời… mây qua…
Vĩnh biệt mẹ!
(Tháng năm có ngày của mẹ )
Đỗ trung Quân
Mẹ ta tro bụi trên sông
[Trích hồi ức ]
…
Một buổi sáng như mọi buổi sáng ở toà soạn báo Tuổi Trẻ trên đường lý chính thắng.
Tôi nghe bảo vệ thông báo “ anh Q! Có bà cụ đến tìm. Tôi đón bà trong sân dưới vòm me quen thuộc của toà soạn lòng hoang mang, hơi lo lắng không rõ có chuyện gì hôm nay mẹ đến tận nơi ? hỏi , bà không nói chỉ trầm ngâm vuốt má tôi, bàn tay lần theo từng nút áo “thiếu một cái khuy sao không mang về cho mẹ khâu lại?“ tôi đưa hai tay lên trời “trời! mẹ ơi! con đã có gia đình, việc này là của vợ con. con đang bận túi bụi bài vở cho kịp báo ngày mai, thôi mẹ về đi“
Giọng tôi có phần cáu gắt
Từ cửa sổ tầng lầu của toà soạn có ai đó hét toáng trêu chọc “bác ơi! mang hắn về cho bú tí đi!“
Những gã đồng nghiệp thò đầu qua cửa sổ hét toáng
Bác ơi! mang hắn về nhà cho bú tí đi
Khi ấy tôi đã ba mươi tám tuổi, một vợ, một con trai
Khi ấy người đọc gọi tôi bằng danh xưng: nhà thơ!
Mẹ tôi mất vài năm sau đó
…
Khi mẹ tôi cắp nón rụt rè
Bước vào trong sân guốc mòn áo vải
Reception báo tin có bà cụ đến tìm
Khi ấy tôi đã bốn mươi tuổi vẫn đang nổi tiếng
Những gã đồng nghiệp vẫn không tha
Bác ơi! mang hắn về nhà cho bú tí đi!
…
Chăng ai biết vì sao bà cụ ấy
Thường xuyên cắp nón đi tìm thằng con đã tóc râu chớm bạc
Đơn giản lắm!
Đêm qua nghe ai bảo tôi say xỉn không về nhà
Đêm qua trời sài gòn trở gió
Người mẹ ấy hôm sau lại run rẩy đi tìm
Rụt rè hỏi nhỏ
- Con có bị ốm không?
- Mẹ già rồi lẫn thẫn
- Đừng mắng mẹ nghe con…
…
Thú thật ngày xưa
Tôi gắt mẹ một lần.
Đấy là bài thơ vài năm sau khi nhớ đến bà sau buổi sáng ấy
Còn hôm ấy, Bà im lặng cắp chiếc nón lá lầm lũi ra khỏi cổng, vẫn chiếc áo vải nâu, đôi guốc mộc. khi ấy tôi chưa từng biết mình vừa phạm phải một sai lầm lớn nhất của đời mình .bằng linh cảm của người già, bà cảm nhận được phần số của mình, bà nhớ và đi tìm thăm đứa con trai.
Một tuần sau mẹ tôi mất.
…
Mẹ tôi trở về nhà bằng xe bịnh viện, bằng chiếc khăn đắp mặt, vài bộ quần áo xoàng xĩnh. Căn phòng nhỏ và chiếc giường nghèo nàn của mẹ.bà đột quỵ bất ngờ, ra đi nhẹ nhàng không ngờ. Hàng xóm để yên tôi một mình trong căn phòng nhỏ trên kênh Nhiêu Lộc nơi bà sống cùng tôi nhiều năm, phía trước là khoảng ao rau muống xanh ngắt thứ” màu xanh hiểm nghèo” được tươi tốt hàng ngày bởi thuốc trừ sâu pha nhớt.thứ mùi hăng nồng ấy bao nhiêu năm theo gió vào nhà. Biết đâu nó cũng là thủ phạm giết mòn con người phải sống chung với nó.
Nhưng thế nào thì cũng muộn cả. Mẹ đã qua đời
…
Căn phòng nhỏ không cách nào để lọt chiếc quan tài cho mẹ, tôi phải đưa ra một quyết định sau cùng .đưa mẹ ra chùa. Số phận bà bi thương chưa từng thấy. sống trong xóm đạo, ngoan lễ nhà thờ khi qua đời lại nương nhờ cửa Phật, nhưng thôi, Phật hay Chúa cũng xoè đôi tay, choàng chiếc áo đón mọi sinh linh vừa đi qua bể khổ. Số phận bà cũng kỳ lạ như khúc bi thương vì quá nghèo, căn phòng không đủ chỗ cho chiếc áo cuối cùng khi ra chùa bà bỗng dưng trở thành một con người giàu hơn tất cả
Tin mẹ tôi mất. Bạn bè, người quen đều biết, anh em trong thành phố nhiều ban ngành, nghề nghiệp tìm đến viếng, bạn bè nơi cách tỉnh thành xa xôi cũng lũ lượt lên thành phố. Bạn bè không đi tay không, hàng giỏ cần xé cam quýt, hàng giỏ bánh mì, bánh bao mang đến “để anh tiếp người viếng cụ những ngày này ! “. Những vòng hoa chất như núi trong vãng sanh đường nơi mẹ nằm. Có người thắc mắc hỏi nhau “con trai bà ấy chắc làm to lắm nhỉ !“ khi chứng kiến những ngày tang lễ mẹ tôi.
Con người nghèo nhất thế gian quả nhiên có số phận lạ lùng. Khi những chiếc áo lam nhà chùa vừa xong bài kinh tụng bước ra thì những chiếc áo xám tu nữ bước vào với chuỗi hạt và bài kinh cầu nguyện. Cả hai tôn giáo đều có mặt, đơn giản tôi có mối quan hệ với các vị cả nhà thờ lẫn nhà chùa. Họ cũng biết tin mẹ tôi mất. Tiễn họ tôi vừa mô phật vừa a men!
Suốt ba ngày, thực phẩm quá nhiều. Vợ tôi, con dâu của mẹ cùng tôi quyết định phân chia, phân phát mỗi ngày ba buổi cho những người ăn xin tụ tập trước cổng chùa xem tang lễ. Họ kháo nhau tang chủ có phát bánh mì, bánh bao, trái cây, nước uống… họ kéo đến đông dần mỗi buổi. Nhưng như con cá trên biển Galileo của Chúa, thực phẩm vẫn theo bạn bè chở đến, nó vẫn đủ để phân phát suốt ba ngày.
Ngày động quan tiễn mẹ về đài hoả táng, một người ăn xin có tuổi bước vào xin vài lời “chúng tôi xin được đưa tiễn cụ bà, ba ngày nay cụ bà nuôi chúng tôi ở đây, chúng tôi là ăn xin, cứ để chúng tôi đi bộ theo xe tang đến nơi hoả tang dù xa cách mấy…”
Tôi quyết định trong khoảnh khắc, riêng một chiếc xe khách lớn dành cho họ cùng đi. Nhìn những người ăn xin rách rưới, bị gậy nối nhau lên xe tôi cười trong nước mắt. Trước mẹ và sau mẹ đến hàng chục năm sau con chưa từng thấy một đám ma nào có cả những người hành khất tiễn đưa như mẹ. ”Mom gạt con trai mình nhé! Té ra mom giàu đến thế!“
…
Buổi chiều trên cầu Sài Gòn, chiếc bọc tro cốt mẹ nằm gọn trong lòng tôi.hẳn cũng gọn gàng, bé bỏng như ngày xưa mẹ bồng bế mình.
Quay mặt ra giòng sông cuồn cuộn nước lên tôi thấy mình khóc một trận như chưa bao giờ khóc đến thế trong đời. Những ngày tang ma, bận rộn tiếp bạn bè dường như tôi không đổ lệ
Mẹ trả trăm năm lại bụi hồng rồi đi…
Tro bay theo gió xuống mặt sông lồng lộng gió, nước đang lên và lục bình trôi giạt hàng hàng…
Mẹ ta tro bụi trên sông
Xuôi bèo hoa nẻo hư không mẹ về
Chiều hoa trắng rợn bốn bề
Trần gian thêm một kẻ về mồ côi
Từ đây chỗ mẹ ta ngồi
Mây như tóc trắng rối bời… mây qua…
Vĩnh biệt mẹ!
Thanked by 3 Members:
|
|
#39
Gửi vào 24/05/2019 - 19:44
Áo cưới chàng may còn mùi vải
rượu hồng thiếp uống còn cay môi
xa nhau một phút ngàn thu vắng
nỗi buồn này biết làm sao nguôi.
Đấy là 4 câu thơ trên mộ anh Thái Hoàng Cung, do người vợ trẻ Trần Mộng Tú khắc lên khi anh còn dùng địa chỉ Mạc Đỉnh Chi.
Một buổi chiều, chị Tú dẫn tôi đi thăm ngôi mộ ấy. Khi về, chị tâm sự lấy nhau ba tháng, sống gần nhau khoảng một tháng, giờ chỉ gặp anh trong mơ nên nhiều khi chị tự hỏi mình đã có chồng chưa. Hồi đó chị Tú còn trẻ măng, mỏng mảnh tiểu thư, không có vẻ gì goá phụ thời chiến. Ngày đi nhận xác anh, chị không khóc lóc kêu gào, chỉ ngẩn ngơ. Và sự ngẩn ngơ không trọng lượng đó lại là gánh nặng âm ỉ trong lòng, vẫn theo chị ra xứ người, vẫn nằm trên vai dù chị đã có cuộc đời khác hẳn, làm vợ, làm mẹ.
Hồi đó tuy thắc mắc có chồng hay chưa, nhưng chị lại có gia đình chồng. Một gia đình chồng vượt khỏi nghĩa thông thường ở đó cha mẹ hay các bà em bà chị ưa kiếm chuyện bắt bẻ hạch sách con dâu. Bà Giám thị Đại học xá nữ sinh Trần Quý Cáp và gia đình người anh chồng, Thái Hà Chung và chị Nga, xem chị Tú là con đẻ, là em ruột. Đó là gia đình thứ hai của chị. Họ hết lòng với nhau, tận tụy, thương yêu, chia sẻ. Tất cả mọi yếu tố của một gia đình đáng trân quý.
Sau đây là những bài thơ, bài viết mới của chị Trần Mộng Tú khi người anh chồng Thái Hà Chung qua đời. Quyển sách đã khép lại, mang theo một phần đời của chị. Mong rằng vết thương của chị cũng khép theo mãi mãi.
Nhân dịp, chúng tôi xin giới thiệu bài Ký Bình Thủy 1969 có thể đã được đăng nhiều rồi, nhưng nó nằm chung trong tổng thể nỗi đau của Trần Mộng Tú.
Trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
MIÊNG
-------------------------------------------
BÌNH THỦY 1969
Trần Mộng Tú
Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969, khi tôi đang ngồi xem những tấm ảnh màu đám cưới gửi từ Mỹ về, sắp xếp để làm một cuốn album, thì nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên khi thấy Carl và anh Huân là hai người ở Sở trước mặt. Anh Huân làm phòng tối, phụ trách về rửa phim, in hình và Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng bao giờ đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm. Tôi lúc đó làm thư ký cho hãng Thông Tấn The Associated Press, công việc của tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hãng: Từ phát lương cho nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán hình ảnh, thư ký cho ông chánh văn phòng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v. Những việc này không bao giờ phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca đêm.
Cả hai người bước vào buồng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau, không ai muốn là mình nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu chuyện gì. Cuối cùng Carl nói:
”Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đã tử trận."
Tôi đứng ngẩn người, nhìn lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl nói tiếp: “Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định tin rõ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của đại học xá Trần Quý Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi."
Tôi ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đình.
Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng 7, năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đã đi dạy được 1 năm, anh bị gọi trong chương trình Tổng Động Viên. Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968. Lúc làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi-khu Trà Bồng) chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao được.
Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt phái về dạy học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào tháng 10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.
* * *
Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ.
Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài.
"Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sàigòn."
Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay để giữa lòng phi đạo. Anh chồng tôi dặn:
"Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ."
Buổi trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên sân bay, cái sân bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan có phủ xộc xệch lá quốc kỳ, mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một vài chiếc lá quăn queo sót lại của vòng hoa chiều qua còn dính ở đó.
Tôi thấy mình bé nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt, áo nhầu nát, tóc bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nhìn chung quanh mình. Cái sân bay trông sao mông mênh thế mà cái áo quan thì bé tí, tôi đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân bay không một bóng người, vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những phuy dầu chưa kịp xếp vào kho. Hình như đã có mùi hôi bốc ra từ áo quan, tôi đứng lui ra một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy mình nghẹt thở, ngực nặng và đau buốt, đau thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.
Hai ngày, một đêm ở Kiên Giang đã làm tôi đuối sức. Tôi có làm gì đâu. Tôi chỉ không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người tôi không còn nước. Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ sữa ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc, nên đi đón xác con mà bà còn nhớ đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô con dâu tiểu thư, cô con dâu còn mới như vuông lụa chưa thêu.
"Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa thì mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con."
Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên trong chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đã phải bước qua từng cái túi có bọc thây người ở trong, có cái thòi hai bàn chân còn nguyên đôi giầy saut ra một đầu, có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái thò nguyên một khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi không còn cảm giác nữa. Không biết tôi có dẫm phải ai không. Tôi cố gắng không dẫm lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn thấy gì đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo "Đúng là Cung rồi."
Tôi thấy hình như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống. Tôi thấy một giòng nước đục chẩy lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nhìn vào những người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây người để tìm chồng, tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi còn may mắn hơn họ.
Người ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày đứng cạnh áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì tôi đứng nhìn mấy cây nến chẩy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả chén cơm đã khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng vì không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi thò lò cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt mũi có vẻ khang khác với những người trong trại lính nầy. Có người cũng từ xa đến chưa tìm ra xác chồng, xác con đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần.
Tôi đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay ở xã Vĩnh Thanh Vân. Xã này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi, và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau. “Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!"
Người anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có 3 người trong gia đình này ít khóc nhất.
Bà mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói gì làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính đang khóc ngoài kia thì bà lại đỡ lo. Không biết còn kẹt ở đây đến bao giờ? Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá giang máy bay quân sự về Sàigòn, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con.
Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước, còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời vì lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi.
Bà lại thuê đò về, tính ngày đi của chồng dùng làm ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá 10 tuổi tìm đường ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai làm được gì thì bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt thì vốn chóng khô vì nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả ít một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ lắm, lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà cô còn may mắn chán.
Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường Bình Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đò về Sàigòn. Trong khi đó thì các con của bà: Con sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.
Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân Sơn Nhứt thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim cho chiến tranh thì hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhàu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ tang thương.
Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.
Sau nầy tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy, sao mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường? Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.
Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được miếng đất chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được.
Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà thì phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những người lân cận và một vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. Họ nhìn tôi, nhìn quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh nầy những năm gần đây. Tôi còn trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta.
Họ nghĩ cũng chẳng sai mấy. Khi tôi bị đẩy ra khỏi nước, gia đình chồng cũng bỏ đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác gì những người còn sống, cũng bị đuổi nhà, bị chiếm đoạt tài sản. Người anh họ ở lại tìm cho anh một nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.
Tôi trôi mãi rồi cũng phải giạt vào một chỗ. Bảy năm sau, tôi lấy chồng, sanh con, tôi sống bình thường như tất cả mọi người đàn bà khác trên một đất nước không có chiến tranh. Tôi cũng vui, cũng buồn với những thăng trầm của đời sống.
Ở đời sống hàng ngày, tôi quên dần cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm về trước. Nhưng tôi nhớ rất rõ ràng là cái bất hạnh đó nó có hiện diện trong kiếp người của mình. Thỉnh thoảng Cung vẫn về trong giấc mơ, dù suốt ngày hôm trước tôi không hề nghĩ đến. Cung về như còn sống hay về như đã chết thì khi tỉnh dậy, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ trào ra trên gối. Tôi cố gắng không làm giao động người nằm bên cạnh đang ngon giấc. Buổi sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản nhiên bước vào đời sống trước mặt: Giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho con.
Thời gian cứ thản nhiên trôi, buồn và vui đầy ắp hai tay. Ngày trắng tóc rồi cũng đến.
* * *
Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi tìm Cung ở nhà thờ Tân Định. Tôi đi len lỏi giữa những dẫy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần "T" là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi Họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.
Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến.
TRẦN MỘNG TÚ
Bình Thủy 30 tháng 7 năm 1969
Tân Định-SG, tháng 11 năm 1998
rượu hồng thiếp uống còn cay môi
xa nhau một phút ngàn thu vắng
nỗi buồn này biết làm sao nguôi.
Đấy là 4 câu thơ trên mộ anh Thái Hoàng Cung, do người vợ trẻ Trần Mộng Tú khắc lên khi anh còn dùng địa chỉ Mạc Đỉnh Chi.
Một buổi chiều, chị Tú dẫn tôi đi thăm ngôi mộ ấy. Khi về, chị tâm sự lấy nhau ba tháng, sống gần nhau khoảng một tháng, giờ chỉ gặp anh trong mơ nên nhiều khi chị tự hỏi mình đã có chồng chưa. Hồi đó chị Tú còn trẻ măng, mỏng mảnh tiểu thư, không có vẻ gì goá phụ thời chiến. Ngày đi nhận xác anh, chị không khóc lóc kêu gào, chỉ ngẩn ngơ. Và sự ngẩn ngơ không trọng lượng đó lại là gánh nặng âm ỉ trong lòng, vẫn theo chị ra xứ người, vẫn nằm trên vai dù chị đã có cuộc đời khác hẳn, làm vợ, làm mẹ.
Hồi đó tuy thắc mắc có chồng hay chưa, nhưng chị lại có gia đình chồng. Một gia đình chồng vượt khỏi nghĩa thông thường ở đó cha mẹ hay các bà em bà chị ưa kiếm chuyện bắt bẻ hạch sách con dâu. Bà Giám thị Đại học xá nữ sinh Trần Quý Cáp và gia đình người anh chồng, Thái Hà Chung và chị Nga, xem chị Tú là con đẻ, là em ruột. Đó là gia đình thứ hai của chị. Họ hết lòng với nhau, tận tụy, thương yêu, chia sẻ. Tất cả mọi yếu tố của một gia đình đáng trân quý.
Sau đây là những bài thơ, bài viết mới của chị Trần Mộng Tú khi người anh chồng Thái Hà Chung qua đời. Quyển sách đã khép lại, mang theo một phần đời của chị. Mong rằng vết thương của chị cũng khép theo mãi mãi.
Nhân dịp, chúng tôi xin giới thiệu bài Ký Bình Thủy 1969 có thể đã được đăng nhiều rồi, nhưng nó nằm chung trong tổng thể nỗi đau của Trần Mộng Tú.
Trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
MIÊNG
-------------------------------------------
BÌNH THỦY 1969
Trần Mộng Tú
Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969, khi tôi đang ngồi xem những tấm ảnh màu đám cưới gửi từ Mỹ về, sắp xếp để làm một cuốn album, thì nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên khi thấy Carl và anh Huân là hai người ở Sở trước mặt. Anh Huân làm phòng tối, phụ trách về rửa phim, in hình và Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng bao giờ đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm. Tôi lúc đó làm thư ký cho hãng Thông Tấn The Associated Press, công việc của tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hãng: Từ phát lương cho nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán hình ảnh, thư ký cho ông chánh văn phòng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v. Những việc này không bao giờ phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca đêm.
Cả hai người bước vào buồng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau, không ai muốn là mình nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu chuyện gì. Cuối cùng Carl nói:
”Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đã tử trận."
Tôi đứng ngẩn người, nhìn lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl nói tiếp: “Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định tin rõ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của đại học xá Trần Quý Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi."
Tôi ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đình.
Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng 7, năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đã đi dạy được 1 năm, anh bị gọi trong chương trình Tổng Động Viên. Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968. Lúc làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi-khu Trà Bồng) chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao được.
Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt phái về dạy học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào tháng 10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.
* * *
Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ.
Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài.
"Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sàigòn."
Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay để giữa lòng phi đạo. Anh chồng tôi dặn:
"Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ."
Buổi trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên sân bay, cái sân bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan có phủ xộc xệch lá quốc kỳ, mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một vài chiếc lá quăn queo sót lại của vòng hoa chiều qua còn dính ở đó.
Tôi thấy mình bé nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt, áo nhầu nát, tóc bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nhìn chung quanh mình. Cái sân bay trông sao mông mênh thế mà cái áo quan thì bé tí, tôi đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân bay không một bóng người, vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những phuy dầu chưa kịp xếp vào kho. Hình như đã có mùi hôi bốc ra từ áo quan, tôi đứng lui ra một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy mình nghẹt thở, ngực nặng và đau buốt, đau thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.
Hai ngày, một đêm ở Kiên Giang đã làm tôi đuối sức. Tôi có làm gì đâu. Tôi chỉ không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người tôi không còn nước. Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ sữa ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc, nên đi đón xác con mà bà còn nhớ đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô con dâu tiểu thư, cô con dâu còn mới như vuông lụa chưa thêu.
"Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa thì mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con."
Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên trong chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đã phải bước qua từng cái túi có bọc thây người ở trong, có cái thòi hai bàn chân còn nguyên đôi giầy saut ra một đầu, có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái thò nguyên một khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi không còn cảm giác nữa. Không biết tôi có dẫm phải ai không. Tôi cố gắng không dẫm lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn thấy gì đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo "Đúng là Cung rồi."
Tôi thấy hình như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống. Tôi thấy một giòng nước đục chẩy lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nhìn vào những người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây người để tìm chồng, tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi còn may mắn hơn họ.
Người ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày đứng cạnh áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì tôi đứng nhìn mấy cây nến chẩy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả chén cơm đã khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng vì không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi thò lò cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt mũi có vẻ khang khác với những người trong trại lính nầy. Có người cũng từ xa đến chưa tìm ra xác chồng, xác con đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần.
Tôi đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay ở xã Vĩnh Thanh Vân. Xã này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi, và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau. “Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!"
Người anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có 3 người trong gia đình này ít khóc nhất.
Bà mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói gì làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính đang khóc ngoài kia thì bà lại đỡ lo. Không biết còn kẹt ở đây đến bao giờ? Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá giang máy bay quân sự về Sàigòn, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con.
Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước, còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời vì lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi.
Bà lại thuê đò về, tính ngày đi của chồng dùng làm ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá 10 tuổi tìm đường ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai làm được gì thì bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt thì vốn chóng khô vì nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả ít một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ lắm, lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà cô còn may mắn chán.
Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường Bình Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đò về Sàigòn. Trong khi đó thì các con của bà: Con sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.
Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân Sơn Nhứt thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim cho chiến tranh thì hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhàu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ tang thương.
Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.
Sau nầy tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy, sao mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường? Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.
Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được miếng đất chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được.
Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà thì phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những người lân cận và một vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. Họ nhìn tôi, nhìn quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh nầy những năm gần đây. Tôi còn trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta.
Họ nghĩ cũng chẳng sai mấy. Khi tôi bị đẩy ra khỏi nước, gia đình chồng cũng bỏ đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác gì những người còn sống, cũng bị đuổi nhà, bị chiếm đoạt tài sản. Người anh họ ở lại tìm cho anh một nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.
Tôi trôi mãi rồi cũng phải giạt vào một chỗ. Bảy năm sau, tôi lấy chồng, sanh con, tôi sống bình thường như tất cả mọi người đàn bà khác trên một đất nước không có chiến tranh. Tôi cũng vui, cũng buồn với những thăng trầm của đời sống.
Ở đời sống hàng ngày, tôi quên dần cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm về trước. Nhưng tôi nhớ rất rõ ràng là cái bất hạnh đó nó có hiện diện trong kiếp người của mình. Thỉnh thoảng Cung vẫn về trong giấc mơ, dù suốt ngày hôm trước tôi không hề nghĩ đến. Cung về như còn sống hay về như đã chết thì khi tỉnh dậy, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ trào ra trên gối. Tôi cố gắng không làm giao động người nằm bên cạnh đang ngon giấc. Buổi sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản nhiên bước vào đời sống trước mặt: Giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho con.
Thời gian cứ thản nhiên trôi, buồn và vui đầy ắp hai tay. Ngày trắng tóc rồi cũng đến.
* * *
Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi tìm Cung ở nhà thờ Tân Định. Tôi đi len lỏi giữa những dẫy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần "T" là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi Họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.
Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến.
TRẦN MỘNG TÚ
Bình Thủy 30 tháng 7 năm 1969
Tân Định-SG, tháng 11 năm 1998
Thanked by 2 Members:
|
|
#40
Gửi vào 06/06/2019 - 19:24
Bi hùng – Lá thư từ biệt song thân của chàng thanh niên ngã xuống trên Quảng trường Thiên An Môn
Người sinh viên khoa báo chí tên Tiếu Phong Ngạo là một trong hàng nghìn người bị giết trong làn mưa đạn bất nhân mà quân đội của Đảng c.... s.. Trung Quốc (ĐCSTQ) rót xuống Quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6/1989. Cha mẹ anh đã tìm được lá thư anh viết cho họ trong những đồ đạc anh để lại ở trường.
Dưới đây là bản rút gọn của bức thư.
Tháng 6 năm 1989
Kính thưa cha mẹ!
Con trai bất hiếu, đã bỏ cha mẹ mà đi.
Những nỗi niềm vất vả, đắng cay cơ cực mà cha mẹ phải nếm trải để nuôi con từ ngày còn là đứa bé ẵm ngửa trên tay thành một chàng trai sức dài vai rộng là điều mà con trai của cha mẹ ghi lòng tạc dạ. Điều con day dứt là cả đời này khó lòng báo đáp công ơn sâu dày của cha mẹ, nhưng con không thể không ôm tiếc nuối, dứt tình đoạn ruột mà đi.
Cha mẹ bao năm nay cần mẫn tích cóp, gia đình nhỏ của chúng ta tuy không giàu có gì nhưng cũng dư giả. Con biết rằng con may mắn được lớn lên trong hoàn cảnh tốt đẹp, vậy nên sau khi tốt nghiệp rồi con sẽ nhanh chóng có công ăn việc làm vừa ý với tương lai tương sáng. Lẽ ra con phải hài lòng mới đúng. Nhưng nhìn quanh, bao điều khiến con buồn phiền. Chứng kiến cảnh đất nước bần cùng lạc hậu, xã hội đầy rẫy bất công, ngẫm lại trong lòng ôm chí lớn, con khó lòng an nhiên tự tại.
Đất nước chúng ta đã đi sai đường, bị sa lầy trong đói nghèo tăm tối. Giới thống trị nắm đặc quyền đặc lợi, xa xỉ hoang phí, vui chơi hoan lạc, con cháu của họ lại càng hung hăng đổi trắng thay đen, lưu manh ngang ngược lộng hành. Cảnh sát cùng thanh tra ô hợp, a dua nịnh hót, đối với nhân dân thì như lang như sói, nhe nanh múa vuốt. Hàng triệu nông dân lâm vào cảnh dốt nát, thường dân thấp cổ bé họng chỉ biết cúi đầu. Xã hội thối nát bất công, kẻ thống trị thì ô trọc, nhân dân ảm đạm thờ ơ. Vậy nên con khó lòng vui vẻ để chuyên tâm lo cho gia đình và phụng dưỡng cha mẹ. Dân chưa an sao dám quẳng gánh lo? Chí lớn chưa đạt sao dám ngoảnh đầu nhìn lại?
Trái tim con vẫn chưa hoàn toàn tê liệt. Nó vẫn thổn thức những niềm đau và sự tan vỡ. Nó khiến con không thể nào bàng quan vô cảm. Trách nhiệm xã hội không cho phép con câm nín thêm nữa, sứ mệnh lịch sử không cho phép con khiếp đảm, chí lớn chưa thành không cho phép con thuận nước xuôi dòng, thông đồng làm bậy! Con muốn hét to để đánh thức những người còn đang mê ngủ, vực dậy những tâm hồn chai sạn: “Tỉnh dậy thôi, hỡi những người Hoa Hạ!”. Nhiệt huyết sục sôi trong lòng con đang cuồn cuộn dâng trào, toàn thân tràn đầy sức sống. Con tuyệt đối không thể khoanh tay đứng nhìn đất nước này, dân tộc này càng đi càng tiến xa trên con đường u tối. Con muốn thay đổi cái xã hội bệnh hoạn trăm nghìn u nhọt này. Sức cùng lực mỏng, nhưng con vẫn muốn tận lực mà làm. Nhỏ nhoi như hòn sỏi bên đường, con vẫn muốn cư xử như người chính nghĩa.
Con biết sẽ không có kết cục tốt khi đương đầu với chính quyền c.... s.. hiện nay – đại biểu cho thế lực cũ hùng mạnh. Các thủ đoạn chuyên chế tàn nhẫn để đàn áp những người bất đồng chính kiến của họ quả là đê tiện nếu so với bất kỳ chính phủ dân chủ tư sản nào, càng không thể so bì với chính quyền Quốc Dân Đảng đã bị đẩy lui đến Đài Loan.
Dù thế, con thề sẽ không bao giờ bỏ cuộc trên con đường dang dở. Bây giờ họ có thể coi con là “phần tử phản cách mạng”. Nhưng lịch sử sẽ phán xét công bằng và kể cho thế giới này biết ai mới là lực lượng bảo thủ ph.... đ.... cản trở tiến trình lịch sử, ai mới là nhà cách mạng chân chính vì tiền đồ của dân tộc.
Đảng c.... s.. năm đó đã kích động sinh viên hét lên với chính quyền Quốc Dân Đảng đương thời rằng: “Phản đối một đảng độc tài”, gian khổ cách mạng mới là tiến bộ. Nhưng hôm nay mà hô lên “phản đối một đảng độc tài” với chính phủ c.... s.. sẽ lập tức bị gán mác ph.... đ....! So sánh trước sau sẽ thấy hiện rõ sự giả dối và tự tư của chính quyền này! Tại sao trước kia anh khuyến khích chúng tôi phản đối độc tài độc đảng, mà bây giờ không cho phép chúng tôi phản đối độc tài độc đảng của anh? Tại sao anh chỉ cho một đảng của anh tồn tại mà không cho phép bất kỳ lực lượng nào khác giám sát? Còn gì rõ ràng hơn ngoài sự ích kỷ ngang ngược? Sự trào phúng của lịch sử hỡi ôi sao quá vô tình!
Nếu mấy chục năm sau chế độ ích kỷ này vẫn còn cai trị Trung Quốc thì chúng con vẫn bị người đời xem như “phần tử phản cách mạng”. Nhưng rồi sẽ có một ngày lịch sử công nhận giá trị của chúng con. Lịch sử sẽ chứng minh rằng chúng con xứng đáng với đất nước này, với dân tộc này. Chính là chúng con dùng máu thịt của mình để đóng vai người tiên phong, làm nền tảng cho quá trình dân chủ hóa và hiện đại hóa Trung Quốc!
Trên đời này không điều gì có thể khiến con lo lắng, ngoài sự trăn trở không thể báo đáp công ơn sinh thành giáo dưỡng của cha mẹ. Đã bao lần con nghĩ đến việc hiếu thuận với song thân! Từ xưa đến giờ, hiếu trung khó vẹn cả đôi đường. Con muốn đem lý tưởng để trung thành với đất nước này, dân tộc này.
Đứa con ngỗ nghịch này không để cha mẹ đau lòng thêm nữa, nên chỉ có thể viết đến đây. Cha mẹ hãy mắng con là đứa con bất hiếu, ích kỷ, chỉ quan tâm đến lý tưởng, niềm tin của bản thân mà bỏ rơi cha mẹ.
Con xin được gọi hai tiếng Cha Mẹ thêm lần nữa!
Vĩnh biệt Cha Mẹ!
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
(Tạm dịch:
Xưa nay thử hỏi ai không chết
Lưu tấm lòng son chiếu sử xanh).
Đứa con bất hiếu: Tiêu Phong Ngạo
(Học danh: Tiếu Ngạo)
Nguồn:
Người sinh viên khoa báo chí tên Tiếu Phong Ngạo là một trong hàng nghìn người bị giết trong làn mưa đạn bất nhân mà quân đội của Đảng c.... s.. Trung Quốc (ĐCSTQ) rót xuống Quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6/1989. Cha mẹ anh đã tìm được lá thư anh viết cho họ trong những đồ đạc anh để lại ở trường.
Dưới đây là bản rút gọn của bức thư.
Tháng 6 năm 1989
Kính thưa cha mẹ!
Con trai bất hiếu, đã bỏ cha mẹ mà đi.
Những nỗi niềm vất vả, đắng cay cơ cực mà cha mẹ phải nếm trải để nuôi con từ ngày còn là đứa bé ẵm ngửa trên tay thành một chàng trai sức dài vai rộng là điều mà con trai của cha mẹ ghi lòng tạc dạ. Điều con day dứt là cả đời này khó lòng báo đáp công ơn sâu dày của cha mẹ, nhưng con không thể không ôm tiếc nuối, dứt tình đoạn ruột mà đi.
Cha mẹ bao năm nay cần mẫn tích cóp, gia đình nhỏ của chúng ta tuy không giàu có gì nhưng cũng dư giả. Con biết rằng con may mắn được lớn lên trong hoàn cảnh tốt đẹp, vậy nên sau khi tốt nghiệp rồi con sẽ nhanh chóng có công ăn việc làm vừa ý với tương lai tương sáng. Lẽ ra con phải hài lòng mới đúng. Nhưng nhìn quanh, bao điều khiến con buồn phiền. Chứng kiến cảnh đất nước bần cùng lạc hậu, xã hội đầy rẫy bất công, ngẫm lại trong lòng ôm chí lớn, con khó lòng an nhiên tự tại.
Đất nước chúng ta đã đi sai đường, bị sa lầy trong đói nghèo tăm tối. Giới thống trị nắm đặc quyền đặc lợi, xa xỉ hoang phí, vui chơi hoan lạc, con cháu của họ lại càng hung hăng đổi trắng thay đen, lưu manh ngang ngược lộng hành. Cảnh sát cùng thanh tra ô hợp, a dua nịnh hót, đối với nhân dân thì như lang như sói, nhe nanh múa vuốt. Hàng triệu nông dân lâm vào cảnh dốt nát, thường dân thấp cổ bé họng chỉ biết cúi đầu. Xã hội thối nát bất công, kẻ thống trị thì ô trọc, nhân dân ảm đạm thờ ơ. Vậy nên con khó lòng vui vẻ để chuyên tâm lo cho gia đình và phụng dưỡng cha mẹ. Dân chưa an sao dám quẳng gánh lo? Chí lớn chưa đạt sao dám ngoảnh đầu nhìn lại?
Trái tim con vẫn chưa hoàn toàn tê liệt. Nó vẫn thổn thức những niềm đau và sự tan vỡ. Nó khiến con không thể nào bàng quan vô cảm. Trách nhiệm xã hội không cho phép con câm nín thêm nữa, sứ mệnh lịch sử không cho phép con khiếp đảm, chí lớn chưa thành không cho phép con thuận nước xuôi dòng, thông đồng làm bậy! Con muốn hét to để đánh thức những người còn đang mê ngủ, vực dậy những tâm hồn chai sạn: “Tỉnh dậy thôi, hỡi những người Hoa Hạ!”. Nhiệt huyết sục sôi trong lòng con đang cuồn cuộn dâng trào, toàn thân tràn đầy sức sống. Con tuyệt đối không thể khoanh tay đứng nhìn đất nước này, dân tộc này càng đi càng tiến xa trên con đường u tối. Con muốn thay đổi cái xã hội bệnh hoạn trăm nghìn u nhọt này. Sức cùng lực mỏng, nhưng con vẫn muốn tận lực mà làm. Nhỏ nhoi như hòn sỏi bên đường, con vẫn muốn cư xử như người chính nghĩa.
Con biết sẽ không có kết cục tốt khi đương đầu với chính quyền c.... s.. hiện nay – đại biểu cho thế lực cũ hùng mạnh. Các thủ đoạn chuyên chế tàn nhẫn để đàn áp những người bất đồng chính kiến của họ quả là đê tiện nếu so với bất kỳ chính phủ dân chủ tư sản nào, càng không thể so bì với chính quyền Quốc Dân Đảng đã bị đẩy lui đến Đài Loan.
Dù thế, con thề sẽ không bao giờ bỏ cuộc trên con đường dang dở. Bây giờ họ có thể coi con là “phần tử phản cách mạng”. Nhưng lịch sử sẽ phán xét công bằng và kể cho thế giới này biết ai mới là lực lượng bảo thủ ph.... đ.... cản trở tiến trình lịch sử, ai mới là nhà cách mạng chân chính vì tiền đồ của dân tộc.
Đảng c.... s.. năm đó đã kích động sinh viên hét lên với chính quyền Quốc Dân Đảng đương thời rằng: “Phản đối một đảng độc tài”, gian khổ cách mạng mới là tiến bộ. Nhưng hôm nay mà hô lên “phản đối một đảng độc tài” với chính phủ c.... s.. sẽ lập tức bị gán mác ph.... đ....! So sánh trước sau sẽ thấy hiện rõ sự giả dối và tự tư của chính quyền này! Tại sao trước kia anh khuyến khích chúng tôi phản đối độc tài độc đảng, mà bây giờ không cho phép chúng tôi phản đối độc tài độc đảng của anh? Tại sao anh chỉ cho một đảng của anh tồn tại mà không cho phép bất kỳ lực lượng nào khác giám sát? Còn gì rõ ràng hơn ngoài sự ích kỷ ngang ngược? Sự trào phúng của lịch sử hỡi ôi sao quá vô tình!
Nếu mấy chục năm sau chế độ ích kỷ này vẫn còn cai trị Trung Quốc thì chúng con vẫn bị người đời xem như “phần tử phản cách mạng”. Nhưng rồi sẽ có một ngày lịch sử công nhận giá trị của chúng con. Lịch sử sẽ chứng minh rằng chúng con xứng đáng với đất nước này, với dân tộc này. Chính là chúng con dùng máu thịt của mình để đóng vai người tiên phong, làm nền tảng cho quá trình dân chủ hóa và hiện đại hóa Trung Quốc!
Trên đời này không điều gì có thể khiến con lo lắng, ngoài sự trăn trở không thể báo đáp công ơn sinh thành giáo dưỡng của cha mẹ. Đã bao lần con nghĩ đến việc hiếu thuận với song thân! Từ xưa đến giờ, hiếu trung khó vẹn cả đôi đường. Con muốn đem lý tưởng để trung thành với đất nước này, dân tộc này.
Đứa con ngỗ nghịch này không để cha mẹ đau lòng thêm nữa, nên chỉ có thể viết đến đây. Cha mẹ hãy mắng con là đứa con bất hiếu, ích kỷ, chỉ quan tâm đến lý tưởng, niềm tin của bản thân mà bỏ rơi cha mẹ.
Con xin được gọi hai tiếng Cha Mẹ thêm lần nữa!
Vĩnh biệt Cha Mẹ!
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
(Tạm dịch:
Xưa nay thử hỏi ai không chết
Lưu tấm lòng son chiếu sử xanh).
Đứa con bất hiếu: Tiêu Phong Ngạo
(Học danh: Tiếu Ngạo)
Nguồn:
Thanked by 2 Members:
|
|
#41
Gửi vào 10/06/2019 - 21:48
TÔI ĐÃ HỌC ĐƯỢC GÌ KHI LÃNH ĐẠO CÁC CUỘC BIỂU TÌNH Ở THIÊN AN MÔN?
09/06/2019
New York Times
Vương Đan (Wang Dan*)
Bùi Xuân Bách dịch
1-6-2019
Tôi đã trả một giá quá đắt cho việc biểu tình ba chục năm trước. Nước Trung Hoa cũng vậy.
Tôi được biết rằng, mình là kẻ tội phạm bị truy nã gắt gao nhất trên toàn quốc, trong khi đang cắt tóc trên một con tầu hơi nước cũ rích, đầy người, chạy trên sông Dương Tử. Hệ thống loa phóng thanh công cộng trên tầu đang oang oang thông báo rằng, Văn phòng Công an Bắc Kinh đã công bố lệnh bắt 21 sinh viên phạm tội xúi giục “các cuộc bạo loạn phản cách mạng” trên quảng trường Thiên An Môn. Tên tôi đứng đầu bảng danh sách.
Đó là tháng Sáu năm 1989, chín ngày sau khi quân đội cùng xe thiết giáp đã tràn vào trung tâm Bắc Kinh và đè bẹp dã man các cuộc biểu tình đòi dân chủ do sinh viên dẫn dắt, kéo dài bảy tuần.
Thông báo trên loa đã làm tôi chấn động. Là một trong những người tổ chức chính của cuộc biểu tình, tôi đang trốn chạy chính quyền ở Thủ đô. Tôi không ngờ rằng, cuộc khủng bố của Bắc Kinh đã đi quá xa như vậy.
Mọi chuyện bắt đầu vào buổi tối ngày 17 tháng 4 năm 1989, khi sinh viên Bắc Đại (Viện đại học Bắc Kinh) tụ tập để tưởng niệm Hồ Diệu Bang (vừa mất hai ngày trước đó). Ông là cựu Tổng Bí thư Đảng c.... s.. Trung Quốc, nhưng bị gạt ra vì ủng hộ cải cách theo kiểu phương Tây. Vài bạn cùng lớp còn khích lệ tôi phát biểu một bài, bởi vì tôi đã tổ chức “Sa lông dân chủ” từ hồi học năm thứ nhất.
Trong khi tôi bắt đầu nói về những vấn đề đất nước đang phải đối mặt, mọi ức chế trong tôi dần biến mất. Tôi gợi ý rằng, chúng ta sẽ tuần hành 10 dặm tới quảng trường Thiên An Môn nhân cái chết của Hồ Diệu Bang, để phản đối sự tham nhũng trong Chính phủ và đẩy mạnh cải cách dân chủ.
Hàng trăm người trong số chúng tôi rời trường khi đêm đã muộn và chiếm quảng trường Thiên An Môn. Sinh viên từ các trường Đại học khác cũng tham gia cùng, và sau này, còn có nhiều người khác nữa trong đủ mọi tầng lớp của Bắc Kinh. Vào lúc mà xã hội Trung Hoa đang chuyển mình từ thời đại của Mao, phong trào đã mang lại hy vọng cho nhân dân, những người khao khát đổi thay. Cuộc biểu tình phản đối đã lan rộng sang các thành phố khác.
Trong thời gian biểu tình ngồi, tôi được bầu vào ban lãnh đạo Liên đoàn sinh viên tự trị Bắc Kinh, được thành lập nhằm tiến hành đối thoại với Chính phủ. Các lãnh đạo cao cấp đã khước từ những đòi hỏi của chúng tôi, và họ đã tuyên bố tình trạng thiết quân luật, khi cho rằng, cuộc biểu tình của chúng tôi có thể làm tổn hại sự lãnh đạo của Đảng. Quân đội bao vây chặt Thủ đô.
Ngày mùng 3 tháng 6, sau khi đề nghị rút lui khỏi quảng trường của tôi bị các lãnh đạo sinh viên khác phản đối, tôi trở về ký túc xá của mình để nghỉ ngơi. Khuya đêm hôm đó, các bạn đã gọi điên thoại cho tôi, thông báo rằng, binh lính đã bắn vào người biểu tình, và tôi bị rơi vào tình trạng sốc nặng. Chúng tôi không thể tin được rằng, lãnh đạo Đảng lại có thể sử dụng bạo lực, bởi vì chúng tôi chỉ yêu cầu Đảng c.... s.. tự hoàn thiện mình, chứ không phải là chuyển giao quyền lực.
Trong những tuần trốn tránh sau đó, tôi thấy trên TV các bạn hoạt động cùng tôi đã lần lượt bị bắt từng người một. Tôi quyết định trở về Bắc Kinh, dù biết rằng, chính tôi cũng có thể bị bắt. Ngày mùng 2 tháng 7 công an đã tìm ra và bắt được tôi sau một cuộc săn đuổi bằng xe ô tô. “Đã bắt được Tiểu Vương!”, một sĩ quan cảnh sát đã phấn khởi gọi điện thoại báo tin cho sếp.
Tôi đã phải ngồi tù ba năm và bảy tháng. Trái tim tôi thường chất chứa cảm giác tội lỗi và đau khổ. Một con số lớn sinh viên và cư dân Bắc Kinh đã bị chết trong cuộc đàn áp đẫm máu. Tôi cảm thấy có một phần trách nhiệm của mình.
Năm 1993, khi Trung Quốc lần đầu tiên xin đăng cai Thế vận hội Olympics, tôi được thả ra như một biểu hiện nới lỏng về đàn áp chính trị. Tôi bị bắt lại hai năm sau đó, và bị kết án 11 năm tù, vì đã tham gia ủng hộ các tù nhân chính trị và ký Thỉnh nguyện thư đòi Chính phủ phải xin lỗi vì cuộc tàn sát Thiên An Môn. Rồi tôi lại được thả ra trước thời hạn, năm 1998, vào một thời điểm tan băng chính trị, ngay sát trước cuộc viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Bill Clinton. Sau đó, tôi đã đến được nước Mỹ, và cũng từ đó, tôi bị cấm cửa, không được phép trở lại quê hương mình.
30 năm trước, phong trào của chúng tôi đã thất bại, bởi vì chúng tôi thiếu sự ủng hộ và kinh nghiệm trong việc thúc đẩy những thay đổi dân chủ. Nhiều người trong chúng tôi đã gắn liền hy vọng của mình vào phái tự do trong ban lãnh đạo Đảng c.... s.., nhằm kích hoạt những thay đổi từ bên trong hệ thống, song chúng tôi đã đánh giá thấp quyền lực của những cán bộ lão thành trong Đảng. Cuộc tàn sát đã đập tan ảo tưởng của chúng tôi, giúp chúng tôi thấy rõ sự tàn bạo của chế độ độc đảng Trung Hoa.
Sinh viên chúng tôi không chỉ là những người ngây thơ. Chỉ trong vòng vài năm sau cuộc thảm sát, nhiều chính phủ Tây phương đã bãi bỏ những chế tài đối với Trung Quốc. Chính sách tương tác của phương Tây – dựa trên hy vọng rằng, thương mại và đầu tư sẽ đem lại những thay đổi dân chủ ở Trung Quốc – đã thắng thế.
Song thay vì cổ vũ tự do hóa, tư bản phương Tây đã vỗ béo túi tham của các nhà lãnh đạo Đảng c.... s.., cho họ sức mạnh để kéo dài sự cai trị bằng cách vô hiệu hóa những người bất đồng chính kiến trong nước và mở rộng ảnh hưởng quốc gia trên toàn cầu.
Mặc dù thất bại, tôi tin rằng, chúng tôi, những người biểu tình, đã tạo ra một sự khác biệt. CNN đã tường thuật trực tiếp về những gì đã xảy ra ở Quảng trường Thiên An Môn, và chính phủ Trung Quốc nhận ra rằng, họ không còn có thể tàn sát công dân của mình khi cả thế giới đang theo dõi. Chúng tôi nâng cao nhận thức của công chúng về dân chủ; nhiều luật sư và các nhà hoạt động nhân quyền đã thách thức tính hợp pháp của Đảng c.... s.. trong nhiều năm, kể từ khi vụ thảm sát, là những người tham gia hoặc ủng hộ phong trào năm 1989. Và ngày nay, phương Tây cuối cùng đã nhận ra sự nguy hiểm của chế độ toàn trị Trung Quốc.
Mong ước của tôi muốn mang lại nền dân chủ cho Trung Quốc, dường như một giấc mơ xa xôi, vẫn còn mạnh mẽ. Chính phủ Trung Quốc đã tẩy xóa cuộc thảm sát Thiên An Môn ra khỏi sách lịch sử của họ. Bất kỳ sự đề cập nào đến nó trên phương tiện truyền thông xã hội đều được coi là hành vi lật đổ. Tuy nhiên, tôi cố gắng tiếp xúc với những người trẻ tuổi hơn, chia sẻ kinh nghiệm của mình và giữ cho những kỷ niệm không tàn phai.
Giới trẻ ở Trung Quốc ngày nay, họ gần như tất cả đều lớn lên trong gia đình một con, thực dụng hơn chúng tôi vào những năm 1980. Và bất chấp việc tẩy não của chính phủ, họ biết cách sử dụng công nghệ và thu thập thông tin từ bên ngoài. Họ hiểu về phương Tây nhiều hơn chúng tôi trước kia. Không giống như những sinh viên thuộc thế hệ tôi, những người đã đặt hy vọng sai lầm vào đảng, các bạn trẻ ngày nay không còn cả tin và rất thực tế. Một khi cơ hội đến, họ sẽ đứng dậy như chúng tôi đã làm 30 năm trước.
Khi cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung bùng nổ, tôi thấy một cơ hội lớn lao để biến cải cách chính trị thành một phần của các cuộc đàm phán. Vào những năm 1990, Washington gắn nhân quyền với việc trao cho Trung Quốc quy chế tối huệ quốc. Trước áp lực đó chính phủ Trung Quốc đã nới lỏng sự kiểm soát chính trị và thả tôi cùng một số nhà bất đồng chính kiến khác. Song một khi thương mại và nhân quyền bị tách rời, tình hình ở đó xấu đi nghiêm trọng.
Ngày nay, những người bất đồng chính kiến đang bị cầm tù và buộc phải nhận tội trên truyền hình cả nước. Chính phủ theo dõi và kiểm duyệt quan điểm chính trị của sinh viên học tập ở nước ngoài.
Thật tai quái, lập trường cứng rắn của Tổng thống Trump đối với Bắc Kinh, mặc dù không thể tiên đoán được, đang tỏ ra hiệu quả. Thông qua cuộc chiến thương mại này, tôi hy vọng Washington sẽ cho lãnh đạo Trung Quốc thấy rằng, phương Tây sẽ không dung thứ cho việc sử dụng công nghệ để do thám và kiểm soát công dân bình thường.
Ba mươi năm trước, một phong trào ngắn ngủi đã đưa tôi ra mắt công chúng, biến tôi từ một sinh viên lịch sử, mọt sách và nhút nhát, thành một nhà lãnh đạo đam mê và lý tưởng của vài triệu người biểu tình. Vì điều đó, tôi đã trả một giá quá đắt. Ngoài việc phải trải qua một phần tuổi trẻ tươi đẹp của mình trong tù, tôi không được phép trở về quê hương, nơi cha mẹ già yếu của tôi đang sống. Tuy nhiên, dù đau đớn như vậy, tôi không hối tiếc với sự lựa chọn của mình.
(* Vương Đan là lãnh tụ sinh viên trong thời gian biểu tình tại quảng trường Thiên An Môn).
09/06/2019
New York Times
Vương Đan (Wang Dan*)
Bùi Xuân Bách dịch
1-6-2019
Tôi đã trả một giá quá đắt cho việc biểu tình ba chục năm trước. Nước Trung Hoa cũng vậy.
Tôi được biết rằng, mình là kẻ tội phạm bị truy nã gắt gao nhất trên toàn quốc, trong khi đang cắt tóc trên một con tầu hơi nước cũ rích, đầy người, chạy trên sông Dương Tử. Hệ thống loa phóng thanh công cộng trên tầu đang oang oang thông báo rằng, Văn phòng Công an Bắc Kinh đã công bố lệnh bắt 21 sinh viên phạm tội xúi giục “các cuộc bạo loạn phản cách mạng” trên quảng trường Thiên An Môn. Tên tôi đứng đầu bảng danh sách.
Đó là tháng Sáu năm 1989, chín ngày sau khi quân đội cùng xe thiết giáp đã tràn vào trung tâm Bắc Kinh và đè bẹp dã man các cuộc biểu tình đòi dân chủ do sinh viên dẫn dắt, kéo dài bảy tuần.
Thông báo trên loa đã làm tôi chấn động. Là một trong những người tổ chức chính của cuộc biểu tình, tôi đang trốn chạy chính quyền ở Thủ đô. Tôi không ngờ rằng, cuộc khủng bố của Bắc Kinh đã đi quá xa như vậy.
Mọi chuyện bắt đầu vào buổi tối ngày 17 tháng 4 năm 1989, khi sinh viên Bắc Đại (Viện đại học Bắc Kinh) tụ tập để tưởng niệm Hồ Diệu Bang (vừa mất hai ngày trước đó). Ông là cựu Tổng Bí thư Đảng c.... s.. Trung Quốc, nhưng bị gạt ra vì ủng hộ cải cách theo kiểu phương Tây. Vài bạn cùng lớp còn khích lệ tôi phát biểu một bài, bởi vì tôi đã tổ chức “Sa lông dân chủ” từ hồi học năm thứ nhất.
Trong khi tôi bắt đầu nói về những vấn đề đất nước đang phải đối mặt, mọi ức chế trong tôi dần biến mất. Tôi gợi ý rằng, chúng ta sẽ tuần hành 10 dặm tới quảng trường Thiên An Môn nhân cái chết của Hồ Diệu Bang, để phản đối sự tham nhũng trong Chính phủ và đẩy mạnh cải cách dân chủ.
Hàng trăm người trong số chúng tôi rời trường khi đêm đã muộn và chiếm quảng trường Thiên An Môn. Sinh viên từ các trường Đại học khác cũng tham gia cùng, và sau này, còn có nhiều người khác nữa trong đủ mọi tầng lớp của Bắc Kinh. Vào lúc mà xã hội Trung Hoa đang chuyển mình từ thời đại của Mao, phong trào đã mang lại hy vọng cho nhân dân, những người khao khát đổi thay. Cuộc biểu tình phản đối đã lan rộng sang các thành phố khác.
Trong thời gian biểu tình ngồi, tôi được bầu vào ban lãnh đạo Liên đoàn sinh viên tự trị Bắc Kinh, được thành lập nhằm tiến hành đối thoại với Chính phủ. Các lãnh đạo cao cấp đã khước từ những đòi hỏi của chúng tôi, và họ đã tuyên bố tình trạng thiết quân luật, khi cho rằng, cuộc biểu tình của chúng tôi có thể làm tổn hại sự lãnh đạo của Đảng. Quân đội bao vây chặt Thủ đô.
Ngày mùng 3 tháng 6, sau khi đề nghị rút lui khỏi quảng trường của tôi bị các lãnh đạo sinh viên khác phản đối, tôi trở về ký túc xá của mình để nghỉ ngơi. Khuya đêm hôm đó, các bạn đã gọi điên thoại cho tôi, thông báo rằng, binh lính đã bắn vào người biểu tình, và tôi bị rơi vào tình trạng sốc nặng. Chúng tôi không thể tin được rằng, lãnh đạo Đảng lại có thể sử dụng bạo lực, bởi vì chúng tôi chỉ yêu cầu Đảng c.... s.. tự hoàn thiện mình, chứ không phải là chuyển giao quyền lực.
Trong những tuần trốn tránh sau đó, tôi thấy trên TV các bạn hoạt động cùng tôi đã lần lượt bị bắt từng người một. Tôi quyết định trở về Bắc Kinh, dù biết rằng, chính tôi cũng có thể bị bắt. Ngày mùng 2 tháng 7 công an đã tìm ra và bắt được tôi sau một cuộc săn đuổi bằng xe ô tô. “Đã bắt được Tiểu Vương!”, một sĩ quan cảnh sát đã phấn khởi gọi điện thoại báo tin cho sếp.
Tôi đã phải ngồi tù ba năm và bảy tháng. Trái tim tôi thường chất chứa cảm giác tội lỗi và đau khổ. Một con số lớn sinh viên và cư dân Bắc Kinh đã bị chết trong cuộc đàn áp đẫm máu. Tôi cảm thấy có một phần trách nhiệm của mình.
Năm 1993, khi Trung Quốc lần đầu tiên xin đăng cai Thế vận hội Olympics, tôi được thả ra như một biểu hiện nới lỏng về đàn áp chính trị. Tôi bị bắt lại hai năm sau đó, và bị kết án 11 năm tù, vì đã tham gia ủng hộ các tù nhân chính trị và ký Thỉnh nguyện thư đòi Chính phủ phải xin lỗi vì cuộc tàn sát Thiên An Môn. Rồi tôi lại được thả ra trước thời hạn, năm 1998, vào một thời điểm tan băng chính trị, ngay sát trước cuộc viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Bill Clinton. Sau đó, tôi đã đến được nước Mỹ, và cũng từ đó, tôi bị cấm cửa, không được phép trở lại quê hương mình.
30 năm trước, phong trào của chúng tôi đã thất bại, bởi vì chúng tôi thiếu sự ủng hộ và kinh nghiệm trong việc thúc đẩy những thay đổi dân chủ. Nhiều người trong chúng tôi đã gắn liền hy vọng của mình vào phái tự do trong ban lãnh đạo Đảng c.... s.., nhằm kích hoạt những thay đổi từ bên trong hệ thống, song chúng tôi đã đánh giá thấp quyền lực của những cán bộ lão thành trong Đảng. Cuộc tàn sát đã đập tan ảo tưởng của chúng tôi, giúp chúng tôi thấy rõ sự tàn bạo của chế độ độc đảng Trung Hoa.
Sinh viên chúng tôi không chỉ là những người ngây thơ. Chỉ trong vòng vài năm sau cuộc thảm sát, nhiều chính phủ Tây phương đã bãi bỏ những chế tài đối với Trung Quốc. Chính sách tương tác của phương Tây – dựa trên hy vọng rằng, thương mại và đầu tư sẽ đem lại những thay đổi dân chủ ở Trung Quốc – đã thắng thế.
Song thay vì cổ vũ tự do hóa, tư bản phương Tây đã vỗ béo túi tham của các nhà lãnh đạo Đảng c.... s.., cho họ sức mạnh để kéo dài sự cai trị bằng cách vô hiệu hóa những người bất đồng chính kiến trong nước và mở rộng ảnh hưởng quốc gia trên toàn cầu.
Mặc dù thất bại, tôi tin rằng, chúng tôi, những người biểu tình, đã tạo ra một sự khác biệt. CNN đã tường thuật trực tiếp về những gì đã xảy ra ở Quảng trường Thiên An Môn, và chính phủ Trung Quốc nhận ra rằng, họ không còn có thể tàn sát công dân của mình khi cả thế giới đang theo dõi. Chúng tôi nâng cao nhận thức của công chúng về dân chủ; nhiều luật sư và các nhà hoạt động nhân quyền đã thách thức tính hợp pháp của Đảng c.... s.. trong nhiều năm, kể từ khi vụ thảm sát, là những người tham gia hoặc ủng hộ phong trào năm 1989. Và ngày nay, phương Tây cuối cùng đã nhận ra sự nguy hiểm của chế độ toàn trị Trung Quốc.
Mong ước của tôi muốn mang lại nền dân chủ cho Trung Quốc, dường như một giấc mơ xa xôi, vẫn còn mạnh mẽ. Chính phủ Trung Quốc đã tẩy xóa cuộc thảm sát Thiên An Môn ra khỏi sách lịch sử của họ. Bất kỳ sự đề cập nào đến nó trên phương tiện truyền thông xã hội đều được coi là hành vi lật đổ. Tuy nhiên, tôi cố gắng tiếp xúc với những người trẻ tuổi hơn, chia sẻ kinh nghiệm của mình và giữ cho những kỷ niệm không tàn phai.
Giới trẻ ở Trung Quốc ngày nay, họ gần như tất cả đều lớn lên trong gia đình một con, thực dụng hơn chúng tôi vào những năm 1980. Và bất chấp việc tẩy não của chính phủ, họ biết cách sử dụng công nghệ và thu thập thông tin từ bên ngoài. Họ hiểu về phương Tây nhiều hơn chúng tôi trước kia. Không giống như những sinh viên thuộc thế hệ tôi, những người đã đặt hy vọng sai lầm vào đảng, các bạn trẻ ngày nay không còn cả tin và rất thực tế. Một khi cơ hội đến, họ sẽ đứng dậy như chúng tôi đã làm 30 năm trước.
Khi cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung bùng nổ, tôi thấy một cơ hội lớn lao để biến cải cách chính trị thành một phần của các cuộc đàm phán. Vào những năm 1990, Washington gắn nhân quyền với việc trao cho Trung Quốc quy chế tối huệ quốc. Trước áp lực đó chính phủ Trung Quốc đã nới lỏng sự kiểm soát chính trị và thả tôi cùng một số nhà bất đồng chính kiến khác. Song một khi thương mại và nhân quyền bị tách rời, tình hình ở đó xấu đi nghiêm trọng.
Ngày nay, những người bất đồng chính kiến đang bị cầm tù và buộc phải nhận tội trên truyền hình cả nước. Chính phủ theo dõi và kiểm duyệt quan điểm chính trị của sinh viên học tập ở nước ngoài.
Thật tai quái, lập trường cứng rắn của Tổng thống Trump đối với Bắc Kinh, mặc dù không thể tiên đoán được, đang tỏ ra hiệu quả. Thông qua cuộc chiến thương mại này, tôi hy vọng Washington sẽ cho lãnh đạo Trung Quốc thấy rằng, phương Tây sẽ không dung thứ cho việc sử dụng công nghệ để do thám và kiểm soát công dân bình thường.
Ba mươi năm trước, một phong trào ngắn ngủi đã đưa tôi ra mắt công chúng, biến tôi từ một sinh viên lịch sử, mọt sách và nhút nhát, thành một nhà lãnh đạo đam mê và lý tưởng của vài triệu người biểu tình. Vì điều đó, tôi đã trả một giá quá đắt. Ngoài việc phải trải qua một phần tuổi trẻ tươi đẹp của mình trong tù, tôi không được phép trở về quê hương, nơi cha mẹ già yếu của tôi đang sống. Tuy nhiên, dù đau đớn như vậy, tôi không hối tiếc với sự lựa chọn của mình.
(* Vương Đan là lãnh tụ sinh viên trong thời gian biểu tình tại quảng trường Thiên An Môn).
Thanked by 1 Member:
|
|
#42
Gửi vào 13/06/2019 - 21:49
THANH TRA VÒI TIỀN
Nhân mấy vụ “thanh tra” vòi tiền đang rộ lên trên mạng xã hội thì tôi chợt nhớ đến một câu chuyện mà tôi được trực tiếp chứng kiến ở Hà Nội hồi năm 2008.
Đợt đó đoàn chúng tôi đang ở Việt Nam để thực hiện máy dự án tìm nước sạch trong chương trình tài trợ “Xóa đói, giảm nghèo” không hoàn lại của chính phủ Séc tài trợ cho Việt Nam tại các vùng khó khăn về nước sinh hoạt.
Trưa thứ ba, sau khi làm việc với lãnh đạo của Bộ Kế Hoạch – Vật Tư thì 4 đứa chúng tôi (3 Séc, 1 Việt) rủ nhau đi ăn cơm trưa trước khi về khách sạn. Quán lúc đó vắng, chỉ có vài bàn có khách ngồi. Trong lúc chờ mang đồ ăn ra thì tôi nghe tiếng trò chuyện rôm rả của ba người đàn ông Việt Nam ngồi cách chỗ chúng tôi không xa. Vì họ nói chuyện với nhau khá to nên dù không muốn thì những câu chuyện về tiêu sài, sắm sửa của họ vẫn lọt được vào tai. Bỗng nhiên một người đàn ông cỡ tuổi trung niên vỗ đùi rồi tuyên bố với hai người kia là suýt quên mất “nhiệm vụ” kiếm tiền cho vợ con đi qua Singapor du lịch và mua sắm cuối tuần. Ngay sau đó cậu ta gọi điện cho ai đó và cố tình bật loa để hai người kia cùng nghe. Cậu ta nói với người ở đầu dây bên kia là sáng thứ năm sẽ đến công ty để thanh tra về vấn đề an toàn lao động. Vì loa bật to nên tôi nghe rõ những gì mà người đàn ông ở đầu dây kia nói với vẻ ngạc nhiên là vừa thanh tra quí trước. Cậu này liền cho biết là nhận được thông tin về an toàn lao động không được đảm bảo trong công ty nên phải đến kiểm tra rồi hai lần nhắc lại câu “Cậu phải chuẩn bị đủ như lần trước đấy nhé” rồi tắt máy.
Đặt cái điện thoại di động xuống bàn, tợp một ngụm rượu rồi cậu ta hể hả nói với hai người cùng bàn “Thế là đủ tiền cho mấy mẹ con nó qua Sing mua sắm cuối tuần”. Hai người kia cười phụ họa theo. Chưa hết. Tợp tiếp một ngụm rượu thứ hai thì cậu ta buông thêm một câu nữa “Tuần này tự do, mấy anh em mình lại đi mát mẻ một chút chứ nhỉ”. Đáp lại sự gợi ý này là một câu ngắn gọn “Nhất trí” xanh rờn.
Lũ bạn Séc chỉ biết trợn ngược mắt, lắc đầu khi về đến khách sạn tôi kể lại cho mấy đứa những gì mà tôi đã phải nghe trong bữa ăn trưa đó.
Đoàn Phú Hòa
13/6/2019
Thanh tra, thanh kiểm, thanh bình.
Cũng không bằng cái phong bì THANK YOU
Nhân mấy vụ “thanh tra” vòi tiền đang rộ lên trên mạng xã hội thì tôi chợt nhớ đến một câu chuyện mà tôi được trực tiếp chứng kiến ở Hà Nội hồi năm 2008.
Đợt đó đoàn chúng tôi đang ở Việt Nam để thực hiện máy dự án tìm nước sạch trong chương trình tài trợ “Xóa đói, giảm nghèo” không hoàn lại của chính phủ Séc tài trợ cho Việt Nam tại các vùng khó khăn về nước sinh hoạt.
Trưa thứ ba, sau khi làm việc với lãnh đạo của Bộ Kế Hoạch – Vật Tư thì 4 đứa chúng tôi (3 Séc, 1 Việt) rủ nhau đi ăn cơm trưa trước khi về khách sạn. Quán lúc đó vắng, chỉ có vài bàn có khách ngồi. Trong lúc chờ mang đồ ăn ra thì tôi nghe tiếng trò chuyện rôm rả của ba người đàn ông Việt Nam ngồi cách chỗ chúng tôi không xa. Vì họ nói chuyện với nhau khá to nên dù không muốn thì những câu chuyện về tiêu sài, sắm sửa của họ vẫn lọt được vào tai. Bỗng nhiên một người đàn ông cỡ tuổi trung niên vỗ đùi rồi tuyên bố với hai người kia là suýt quên mất “nhiệm vụ” kiếm tiền cho vợ con đi qua Singapor du lịch và mua sắm cuối tuần. Ngay sau đó cậu ta gọi điện cho ai đó và cố tình bật loa để hai người kia cùng nghe. Cậu ta nói với người ở đầu dây bên kia là sáng thứ năm sẽ đến công ty để thanh tra về vấn đề an toàn lao động. Vì loa bật to nên tôi nghe rõ những gì mà người đàn ông ở đầu dây kia nói với vẻ ngạc nhiên là vừa thanh tra quí trước. Cậu này liền cho biết là nhận được thông tin về an toàn lao động không được đảm bảo trong công ty nên phải đến kiểm tra rồi hai lần nhắc lại câu “Cậu phải chuẩn bị đủ như lần trước đấy nhé” rồi tắt máy.
Đặt cái điện thoại di động xuống bàn, tợp một ngụm rượu rồi cậu ta hể hả nói với hai người cùng bàn “Thế là đủ tiền cho mấy mẹ con nó qua Sing mua sắm cuối tuần”. Hai người kia cười phụ họa theo. Chưa hết. Tợp tiếp một ngụm rượu thứ hai thì cậu ta buông thêm một câu nữa “Tuần này tự do, mấy anh em mình lại đi mát mẻ một chút chứ nhỉ”. Đáp lại sự gợi ý này là một câu ngắn gọn “Nhất trí” xanh rờn.
Lũ bạn Séc chỉ biết trợn ngược mắt, lắc đầu khi về đến khách sạn tôi kể lại cho mấy đứa những gì mà tôi đã phải nghe trong bữa ăn trưa đó.
Đoàn Phú Hòa
13/6/2019
Thanh tra, thanh kiểm, thanh bình.
Cũng không bằng cái phong bì THANK YOU
Thanked by 1 Member:
|
|
#43
Gửi vào 14/06/2019 - 18:59
THƯ CẢM ƠN!
30 tháng 7, 2018 ·
Thưa các bạn của tôi,
Ngày này của 61 năm về trước, Hà Nội đón chào một công dân gái ra đời.
Tôi ra đời lúc bố mẹ tôi bị nhà nước CS lấy mất ngôi nhà đang mua trả góp từ thời còn Pháp chiếm đóng. Phải ra khỏi căn nhà mà Tòa ĐSQ Ấn Độ đang đóng bây giờ và đi ở thuê 1 căn phòng 16m2 chứa 5 nhân khẩu ở phố Tô Hiên Thành Hà Nội.
Mẹ tôi đang là một thương gia thì cơn lốc cải tạo Công -Tư-Thương đánh cho tan tành hết đường sống. Mẹ tôi phải tập làm quen chuyển sang một nghề mới là mua bột, mua lá gói bánh, mua tôm, mua củi và nồi hấp bánh làm bánh ít, bánh gai thì đi lấy của một nhà khác và thức từ 3 giờ sáng gói bánh rồi hấp đến 5 giờ thì vớt bánh ra, xếp vào cái thúng để 6 giờ sáng đội trên đầu đi từ nhà tôi ở phố Tô Hiến Thành đi ra phố Huế, rồi ra chợ Hôm.
Có hôm nào đắt hàng thì chỉ đến phố Hàng Bài là đã bán hết. Hôm nào trời mưa bán chậm thì lên tới hàng Ngang, hàng Đào. Bán hết thì vào chợ Đồng Xuân mua nguyên liệu về chuẩn bị cho nồi bánh sáng mai.
Bền bỉ ,nghề dậy nghề mẹ tôi từ một trang tiểu thư cùng các bà Văn Cao,bà Tôn Thất Tùng v...v....đã quen với công việc mới, khi đang từ nhung lụa của xã hội thời Pháp bị rơi đánh bịch xuống dưới đáy xã hội của chế độ c.... s.. như thế.
Cha tôi như nhiểu STT những năm trước tôi dã kể. Ông thi đỗ tú tài đôi của thời Pháp và năm 1940 khi chứng kiến cảnh dân mình bị người Pháp chèn ép và đánh đập. Ông thấy mất nước là nhục.
Khi ấy thỉnh thoảng vẫn có người của Việt Minh đến nhờ ông dịch hộ những văn bản bằng tiếng Pháp và cũng có lúc họ nhờ bố tôi trực tiếp thông dịch cho những cuộc nói chuyện với người Pháp. Đó chính là cửa ngõ dẫn cha tôi thoát ly gia đình ông bà nội đi theo Việt Minh lên chiến khu. Chịu sống kham khổ để tham gia đánh đuổi Pháp.
Khi phong trào kháng Pháp lên cao thì họ điều cha tôi về lãnh đạo mỏ than Vàng Danh. Lúc này ông làm kế toán cho chủ mỏ than là người Pháp (vì cha tôi sử dụng tiếng Pháp và tiếng Anh thành thạo) nói chuyện trực tiếp với chủ mỏ và là nòng cốt lãnh đạo công nhân đòi giới chủ phải thực hiện những yêu sách cho công nhân : làm 8 giờ 1 ngày, cấm ép làm thêm giờ, đau ốm nghỉ phải được hưởng lương. Cấm đánh đập công nhân V…V…nếu chủ mỏ không thực hiện yêu sách của giới thợ thuyền đưa ra thì cha tôi kêu gọi đình công cho đến khi chủ mỏ phải kí cam kết thực hiện đúng yêu sách thì lại kêu gọi công nhân đi làm trở lại.
Vùng Hữu Lũng, Lạng Sơn là một địa bàn trắng. Việt Minh không xâm nhập được do ông Phỉ Malay làm chủ. Cứ hễ phát hiện người lạ vào sinh sống trong vùng của ổng, có biểu hiện là người của Việt Minh là ổng bắt trói, rồi cho thuộc hạ đào hố thường là vào chiều tối rồi thả xuống lấp đất lên. Đêm đó quân lính phải canh gác tới sáng. Tử hình không một viên đạn.
Lực lượng Việt Minh bị tiêu hao quá nhiều ở vùng Hữu Lũng đại bản doanh của ông thổ phỉ này đóng . Khi họ phát hiện ra một lợi thế mà chỉ có cha tôi làm được là ông trùm phỉ này thủa nhỏ, từng là học trò học cùng lớp Nho học trong làng, do ông nội tôi dậy. Ông nội tôi thi đổ nhưng không ra làm quan mà về làng mở lớp dậy học.
Việt Minh điểu cha tôi từ mỏ than Vàng Danh về quê., tìm cách ở lại trong nhà ông trùm phỉ để mỗi khi có Việt Minh bị bắt thì cha tôi đứng ra xin tha mạng. Cha tôi với vai trò người chữa thuốc Nam xin vào vùng của ông trùm phỉ ở để chữa bệnh cho dân, ông OK ngay.
Cứ mỗi khi Việt Minh bị bắt cha tôi lại xin tha mạng và ông trùm phỉ lại thả. Hữu Lũng vẫn cứ mãi là địa bàn trắng Việt Minh không xâm nhập được. Họ bèn xử tử hình vắng mặt ông trùm phỉ và giao bản án đã tuyên cho cha tôi thi hành bằng chém đầu.
Cha tôi từ chối không nhận việc làm này, vì nó trái với đạo lý của ông bà và con đường tham gia đánh đuổi Pháp của cha tôi đã khép lại từ đó.
Ông rút lui và về Hà Nội ở rể ông ngoại, lại đi làm kế toán cho hảng bia 333 cho đến ngày 10/10/1954 Việt Minh về tiếp quản. Mẹ tôi là một thương gia. Gia đình tôi đi vào ngõ cụt sau chiến dịch cải tạo Công-Tư-Thương thì cũng đành vậy.
Còn cha tôi bị đội sổ đen trên đầu cũng chỉ vì cuộc CCRĐ chém giết đồng bào, vi phạm luật nhân quyền quốc tế. Cha tôi cùng các bậc trí sĩ như,chú Nguyễn Hữu Đang (là chủ bút tờ nhân văn giai phẩm), bác Nguyễn Mạnh Tường, ông Albe clavier cùng viết kiến nghị phản đối việc bắn giết người vi phạm luật nhân quyền quốc tế được đăng công khai.
Lập tức cha tôi thì bị sách nhiễu, chú Đang thì ra tòa án 15 năm đày lên tận trại Cổng Trời, bác Tường thì bị thải hồi bác phải đi chữa xe đạp và bơm vá ở đầu đường để kiếm sống. Ông Albe clavier là lính Pháp sang tham chiến ở Việt Nam, nghe theo lời kêu gọi đầu hàng Việt Minh ông đã buông súng chạy sang hàng ngũ của Việt Minh và phụ trách chương trình “binh vận” , kêu gọi lính Pháp buông súng sang hàng ngũ Việt Minh.
Nên sau chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, bắt buộc ông phải ở lại Việt Nam,. Nếu ông hồi hương về Pháp thì sẽ bị tử hình theo luật nhà binh của Pháp.
Ông kết hôn với cô giáo Oanh và ông Hồ ưu ái nói chú lấy họ Hồ của bác và sinh con gái đặt tên là Hồ Thiên Nga bằng tuổi tôi và con trai là Hồ Hoàn Kiếm. Mãi phải hơn 15 năm sau ông mới di cư sang Hunggari và khi Pháp hủy bỏ lệnh tử hình ông mới trở về Pháp.
Những tháng ngày long đong vất vả của cha tôi đi xin việc thì không một cơ quan nào nhận. Ông bị cấm vận lao động. Mẹ tôi thì thật đảm đang, đang sống trong nhung lụa của xã hội thuộc Pháp bằng buôn bán, tự nhiên Việt Minh về rơi đánh bịch xuống đáy xã hội với cái sổ đen đội trên đầu chung với cha tôi. Hàng ngày đội cái thúng bánh ít đội trên đầu bôn ba khắp phố phường Hà Nội.
Cuộc sống vào thời điểm 1954 trở đi, cái gì cũng phải mua bằng tem phiếu. Vải thì 1 đầu người 4m 1 năm, gạo thì 10kg/tháng, thịt thì 100gr./tháng, đường 100gr/tháng, tất cả đểu phải vào làm cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã ai buôn bán cá lẻ thì khốn khổ, con không được đi đại học thì chỉ đi làm thợ hồ, cu li cửu vạn. Bơm vá chữa xe đạp, hoặc đạp xích lo.
Đang lúc gạo châu củi quế thì trời lại cho bố mẹ tôi thêm con. Mẹ tôi lại có bầu tôi đến tháng thứ 4 mới biết. Lúc đó mà nạo thai được thì chắc mẹ tôi cũng phải bỏ tôi vì cuộc sống quá khổ. Nghẹt nổi thai đã 4 tháng nên không nạo được. .
Nhưng từ lúc mẹ tôi mang thai tôi cho đến lúc đau bụng đi sanh là sanh liền. Suốt 9 tháng mẹ tôi không dám đi y tế khám thai, vì lý lịch nhà tôi nó đen như mực rồi. Đi khám BS còn bị quát bị mắng. Sinh sau 3 ngày là bế tôi về nhà.
Khi tôi lớn nghe bà hàng xóm kể chuyện: sinh tôi mẹ tôi nghèo không có tiền, phải cắt quần đen cũ mà khi đánh Công-Tư-Thương xét nhà họ thấy cũ không tịch thu, còn 400 chiếc áo dài của mẹ tôi thi tịch thu đem về cho Hội Phụ nữ mặc.
Mẹ tôi chỉ được ở nhà với tôi 10 ngày tuổi của tôi,ngày thứ 11 là phải làm bánh đội đi bán trở lại. Với người phụ nữ mới sinh con 10 ngày thì cơ thể còn run lẩy bẩy. Tôi sinh con đúng 100 ngày mới ra khỏi cái giường. Mọi sự săn sóc tôi đều một tay chồng tôi bồng bế cả 2 mẹ con thời kì sơ sinh của thằng bé.
Còn cha tôi bị cấm vận lao động, ông vác cái máy chữ ra vỉa hè ngã tư phố Huế và Lê Văn Hưu, ông soạn đơn thuê rồi đánh máy cho dân xin rút tiền ngân hàng để lo việc hiếu,việc hỉ trong nhà.
Vì cái lệ của Việt Minh lúc đó khi người dân có căn nhà bán đi, thì tiền bán trừ thuế phí xong thì bắt buộc phải để ở ngân hàng. Không được giữ tiền trong nhà. Chỉ được rút tiền khi nhà có người bệnh, đám tang, có đám giỗ, có đám cưới. Nhưng không phải là muốn rút bao nhiêu là được bấy nhiêu. Mà có quy định cho từng chuyện được rút bao nhiêu?.Chẳng hạn nhà có đám ma, thì còn phải làm cơm mời những người ở xa về viếng. Cái mục này không được ngân hàng cho chi, bởi đó là sự lãng phí. Chính sách của nhà nước cấm tiệt việc này.
Rồi thì dịch thuật đơn tiếng Pháp, tiếng Anh cho những người trước đã làm công cho các hãng. Nay họ xin trợ cấp. Thế là cũng giải quyết được 1 phần túng bấn trong nhà vẫn đè nặng trên đôi vai của mẹ tôi với cái thúng bánh ít , đội đi bán khắp phố phường để có tiền duy trì nuôi sống 5 con người trong nhà.
Năm 1956 anh cả của tôi phải thoát ly khỏi quan hệ gia đình lên rừng xanh núi đỏ xin việc đi làm để không bị ảnh hưởng tư tưởng của cha tôi. Chứ mà ở nhà với cha mẹ thì rồi cũng khốn khổ. Không chổ nào nhận làm, cũng chỉ làm cửu vạn,thợ hồ là hết. Anh cả tôi cũng vì lý lịch xấu không được đi đại học. Lăn lộn với đời mãi khi 35 tuổi mới được vào đại học.
Anh thứ 2 của tôi lúc đó mới 7 tuổi, còn con nít không thể giao tôi đứa bé sơ sinh mới 10 ngày tuổi cho đứa trẻ 7 tuổi giữ em để mẹ vắng nhà.
Anh thứ 3 thì mới lên 2 tuổi.
Cha và mẹ tôi thì không thể bỏ một buổi chợ để ở nhà giữ tôi??? Chỉ còn cách cha tôi chở tôi trong cái nôi sau xe đạp và bình nước cháo pha đường mang theo ra ngoài vỉa hè bên cạnh bố tôi vừa giữ tôi vừa làm việc. Khi nào tôi khóc thì cho bú bình nước cháo đường.
Thấy vậy cụ Chính ở bên cạnh nhà, hàng ngày bế theo đứa cháu sang nhà tôi, giữ giùm tôi cho mẹ tôi đi bán bánh. Khi tôi khóc thì cụ cho bú bình nước cháo đường để sẵn, cho đến 11gio trưa cha tôi về trước, trao trả tôi thì cụ mới ẵm cháu cụ về.Đặc biệt là khi tôi khát sữa khóc toáng lên mà có bà mẹ nào cho tôi bú, nhất định tôi không bú.
Ngày tháng trôi đi, tôi lớn lên trong nghèo đói và khủng hoảng mỗi khi cha tôi bị bắt viết kiểm điểm và ra kiểm điểm hàng tháng ở tổ dân phố. Tôi cũng đi theo ngồi trong buổi kiểm điểm của cha tôi trước tổ dân phố. Cha tôi rất vững vàng trong mọi sỉa xói của bọn được “chia quả thực”.
Nhưng bên cạnh những con người ấy, vẫn có những người bạn của cha mẹ tôi và những người hàng xóm tốt bụng như cụ Chính, đã cho tôi hơi ấm của tình người, tôi lớn lên trong tình cảm ấy. Lên 10 tuổi tôi đã được nghe cha tôi trò chuyện về thời sự và thừa kế được những tinh hoa của cha mẹ, và ông bà của tôi.
Bây giờ có thả tôi vào cối đá mà trệu thì tôi vẫn thế thôi.
Nhân ngày sinh nhật của mình, viết vài dòng ôn cố tri tân của dĩ vãng xưa ùa về. Một lần nữa xin được tri ân các bạn đã yêu mến dành tặng cho tôi những lời chúc yêu thương chúc mừng tôi thêm một tuổi mới, trên chặng đường 5 năm qua tôi gia nhập gia đình FB. Ở đây là trường đại học cuộc đời.
Cũng ở FB này tôi đã học được nhiều ở các đàn anh,ở các em, các bạn cho tôi thêm nhiều sức sống và kinh nghiệm để đi tiếp chặng đường gian nan sắp tới vì một Việt Nam Dân Chủ, Tự Do và Cường Thịnh. Cám ơn các bạn trong gia đình FB,chúc các bạn sức khỏe và bình an.
Ngô Thị Hồng Lâm
30 tháng 7, 2018 ·
Thưa các bạn của tôi,
Ngày này của 61 năm về trước, Hà Nội đón chào một công dân gái ra đời.
Tôi ra đời lúc bố mẹ tôi bị nhà nước CS lấy mất ngôi nhà đang mua trả góp từ thời còn Pháp chiếm đóng. Phải ra khỏi căn nhà mà Tòa ĐSQ Ấn Độ đang đóng bây giờ và đi ở thuê 1 căn phòng 16m2 chứa 5 nhân khẩu ở phố Tô Hiên Thành Hà Nội.
Mẹ tôi đang là một thương gia thì cơn lốc cải tạo Công -Tư-Thương đánh cho tan tành hết đường sống. Mẹ tôi phải tập làm quen chuyển sang một nghề mới là mua bột, mua lá gói bánh, mua tôm, mua củi và nồi hấp bánh làm bánh ít, bánh gai thì đi lấy của một nhà khác và thức từ 3 giờ sáng gói bánh rồi hấp đến 5 giờ thì vớt bánh ra, xếp vào cái thúng để 6 giờ sáng đội trên đầu đi từ nhà tôi ở phố Tô Hiến Thành đi ra phố Huế, rồi ra chợ Hôm.
Có hôm nào đắt hàng thì chỉ đến phố Hàng Bài là đã bán hết. Hôm nào trời mưa bán chậm thì lên tới hàng Ngang, hàng Đào. Bán hết thì vào chợ Đồng Xuân mua nguyên liệu về chuẩn bị cho nồi bánh sáng mai.
Bền bỉ ,nghề dậy nghề mẹ tôi từ một trang tiểu thư cùng các bà Văn Cao,bà Tôn Thất Tùng v...v....đã quen với công việc mới, khi đang từ nhung lụa của xã hội thời Pháp bị rơi đánh bịch xuống dưới đáy xã hội của chế độ c.... s.. như thế.
Cha tôi như nhiểu STT những năm trước tôi dã kể. Ông thi đỗ tú tài đôi của thời Pháp và năm 1940 khi chứng kiến cảnh dân mình bị người Pháp chèn ép và đánh đập. Ông thấy mất nước là nhục.
Khi ấy thỉnh thoảng vẫn có người của Việt Minh đến nhờ ông dịch hộ những văn bản bằng tiếng Pháp và cũng có lúc họ nhờ bố tôi trực tiếp thông dịch cho những cuộc nói chuyện với người Pháp. Đó chính là cửa ngõ dẫn cha tôi thoát ly gia đình ông bà nội đi theo Việt Minh lên chiến khu. Chịu sống kham khổ để tham gia đánh đuổi Pháp.
Khi phong trào kháng Pháp lên cao thì họ điều cha tôi về lãnh đạo mỏ than Vàng Danh. Lúc này ông làm kế toán cho chủ mỏ than là người Pháp (vì cha tôi sử dụng tiếng Pháp và tiếng Anh thành thạo) nói chuyện trực tiếp với chủ mỏ và là nòng cốt lãnh đạo công nhân đòi giới chủ phải thực hiện những yêu sách cho công nhân : làm 8 giờ 1 ngày, cấm ép làm thêm giờ, đau ốm nghỉ phải được hưởng lương. Cấm đánh đập công nhân V…V…nếu chủ mỏ không thực hiện yêu sách của giới thợ thuyền đưa ra thì cha tôi kêu gọi đình công cho đến khi chủ mỏ phải kí cam kết thực hiện đúng yêu sách thì lại kêu gọi công nhân đi làm trở lại.
Vùng Hữu Lũng, Lạng Sơn là một địa bàn trắng. Việt Minh không xâm nhập được do ông Phỉ Malay làm chủ. Cứ hễ phát hiện người lạ vào sinh sống trong vùng của ổng, có biểu hiện là người của Việt Minh là ổng bắt trói, rồi cho thuộc hạ đào hố thường là vào chiều tối rồi thả xuống lấp đất lên. Đêm đó quân lính phải canh gác tới sáng. Tử hình không một viên đạn.
Lực lượng Việt Minh bị tiêu hao quá nhiều ở vùng Hữu Lũng đại bản doanh của ông thổ phỉ này đóng . Khi họ phát hiện ra một lợi thế mà chỉ có cha tôi làm được là ông trùm phỉ này thủa nhỏ, từng là học trò học cùng lớp Nho học trong làng, do ông nội tôi dậy. Ông nội tôi thi đổ nhưng không ra làm quan mà về làng mở lớp dậy học.
Việt Minh điểu cha tôi từ mỏ than Vàng Danh về quê., tìm cách ở lại trong nhà ông trùm phỉ để mỗi khi có Việt Minh bị bắt thì cha tôi đứng ra xin tha mạng. Cha tôi với vai trò người chữa thuốc Nam xin vào vùng của ông trùm phỉ ở để chữa bệnh cho dân, ông OK ngay.
Cứ mỗi khi Việt Minh bị bắt cha tôi lại xin tha mạng và ông trùm phỉ lại thả. Hữu Lũng vẫn cứ mãi là địa bàn trắng Việt Minh không xâm nhập được. Họ bèn xử tử hình vắng mặt ông trùm phỉ và giao bản án đã tuyên cho cha tôi thi hành bằng chém đầu.
Cha tôi từ chối không nhận việc làm này, vì nó trái với đạo lý của ông bà và con đường tham gia đánh đuổi Pháp của cha tôi đã khép lại từ đó.
Ông rút lui và về Hà Nội ở rể ông ngoại, lại đi làm kế toán cho hảng bia 333 cho đến ngày 10/10/1954 Việt Minh về tiếp quản. Mẹ tôi là một thương gia. Gia đình tôi đi vào ngõ cụt sau chiến dịch cải tạo Công-Tư-Thương thì cũng đành vậy.
Còn cha tôi bị đội sổ đen trên đầu cũng chỉ vì cuộc CCRĐ chém giết đồng bào, vi phạm luật nhân quyền quốc tế. Cha tôi cùng các bậc trí sĩ như,chú Nguyễn Hữu Đang (là chủ bút tờ nhân văn giai phẩm), bác Nguyễn Mạnh Tường, ông Albe clavier cùng viết kiến nghị phản đối việc bắn giết người vi phạm luật nhân quyền quốc tế được đăng công khai.
Lập tức cha tôi thì bị sách nhiễu, chú Đang thì ra tòa án 15 năm đày lên tận trại Cổng Trời, bác Tường thì bị thải hồi bác phải đi chữa xe đạp và bơm vá ở đầu đường để kiếm sống. Ông Albe clavier là lính Pháp sang tham chiến ở Việt Nam, nghe theo lời kêu gọi đầu hàng Việt Minh ông đã buông súng chạy sang hàng ngũ của Việt Minh và phụ trách chương trình “binh vận” , kêu gọi lính Pháp buông súng sang hàng ngũ Việt Minh.
Nên sau chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, bắt buộc ông phải ở lại Việt Nam,. Nếu ông hồi hương về Pháp thì sẽ bị tử hình theo luật nhà binh của Pháp.
Ông kết hôn với cô giáo Oanh và ông Hồ ưu ái nói chú lấy họ Hồ của bác và sinh con gái đặt tên là Hồ Thiên Nga bằng tuổi tôi và con trai là Hồ Hoàn Kiếm. Mãi phải hơn 15 năm sau ông mới di cư sang Hunggari và khi Pháp hủy bỏ lệnh tử hình ông mới trở về Pháp.
Những tháng ngày long đong vất vả của cha tôi đi xin việc thì không một cơ quan nào nhận. Ông bị cấm vận lao động. Mẹ tôi thì thật đảm đang, đang sống trong nhung lụa của xã hội thuộc Pháp bằng buôn bán, tự nhiên Việt Minh về rơi đánh bịch xuống đáy xã hội với cái sổ đen đội trên đầu chung với cha tôi. Hàng ngày đội cái thúng bánh ít đội trên đầu bôn ba khắp phố phường Hà Nội.
Cuộc sống vào thời điểm 1954 trở đi, cái gì cũng phải mua bằng tem phiếu. Vải thì 1 đầu người 4m 1 năm, gạo thì 10kg/tháng, thịt thì 100gr./tháng, đường 100gr/tháng, tất cả đểu phải vào làm cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã ai buôn bán cá lẻ thì khốn khổ, con không được đi đại học thì chỉ đi làm thợ hồ, cu li cửu vạn. Bơm vá chữa xe đạp, hoặc đạp xích lo.
Đang lúc gạo châu củi quế thì trời lại cho bố mẹ tôi thêm con. Mẹ tôi lại có bầu tôi đến tháng thứ 4 mới biết. Lúc đó mà nạo thai được thì chắc mẹ tôi cũng phải bỏ tôi vì cuộc sống quá khổ. Nghẹt nổi thai đã 4 tháng nên không nạo được. .
Nhưng từ lúc mẹ tôi mang thai tôi cho đến lúc đau bụng đi sanh là sanh liền. Suốt 9 tháng mẹ tôi không dám đi y tế khám thai, vì lý lịch nhà tôi nó đen như mực rồi. Đi khám BS còn bị quát bị mắng. Sinh sau 3 ngày là bế tôi về nhà.
Khi tôi lớn nghe bà hàng xóm kể chuyện: sinh tôi mẹ tôi nghèo không có tiền, phải cắt quần đen cũ mà khi đánh Công-Tư-Thương xét nhà họ thấy cũ không tịch thu, còn 400 chiếc áo dài của mẹ tôi thi tịch thu đem về cho Hội Phụ nữ mặc.
Mẹ tôi chỉ được ở nhà với tôi 10 ngày tuổi của tôi,ngày thứ 11 là phải làm bánh đội đi bán trở lại. Với người phụ nữ mới sinh con 10 ngày thì cơ thể còn run lẩy bẩy. Tôi sinh con đúng 100 ngày mới ra khỏi cái giường. Mọi sự săn sóc tôi đều một tay chồng tôi bồng bế cả 2 mẹ con thời kì sơ sinh của thằng bé.
Còn cha tôi bị cấm vận lao động, ông vác cái máy chữ ra vỉa hè ngã tư phố Huế và Lê Văn Hưu, ông soạn đơn thuê rồi đánh máy cho dân xin rút tiền ngân hàng để lo việc hiếu,việc hỉ trong nhà.
Vì cái lệ của Việt Minh lúc đó khi người dân có căn nhà bán đi, thì tiền bán trừ thuế phí xong thì bắt buộc phải để ở ngân hàng. Không được giữ tiền trong nhà. Chỉ được rút tiền khi nhà có người bệnh, đám tang, có đám giỗ, có đám cưới. Nhưng không phải là muốn rút bao nhiêu là được bấy nhiêu. Mà có quy định cho từng chuyện được rút bao nhiêu?.Chẳng hạn nhà có đám ma, thì còn phải làm cơm mời những người ở xa về viếng. Cái mục này không được ngân hàng cho chi, bởi đó là sự lãng phí. Chính sách của nhà nước cấm tiệt việc này.
Rồi thì dịch thuật đơn tiếng Pháp, tiếng Anh cho những người trước đã làm công cho các hãng. Nay họ xin trợ cấp. Thế là cũng giải quyết được 1 phần túng bấn trong nhà vẫn đè nặng trên đôi vai của mẹ tôi với cái thúng bánh ít , đội đi bán khắp phố phường để có tiền duy trì nuôi sống 5 con người trong nhà.
Năm 1956 anh cả của tôi phải thoát ly khỏi quan hệ gia đình lên rừng xanh núi đỏ xin việc đi làm để không bị ảnh hưởng tư tưởng của cha tôi. Chứ mà ở nhà với cha mẹ thì rồi cũng khốn khổ. Không chổ nào nhận làm, cũng chỉ làm cửu vạn,thợ hồ là hết. Anh cả tôi cũng vì lý lịch xấu không được đi đại học. Lăn lộn với đời mãi khi 35 tuổi mới được vào đại học.
Anh thứ 2 của tôi lúc đó mới 7 tuổi, còn con nít không thể giao tôi đứa bé sơ sinh mới 10 ngày tuổi cho đứa trẻ 7 tuổi giữ em để mẹ vắng nhà.
Anh thứ 3 thì mới lên 2 tuổi.
Cha và mẹ tôi thì không thể bỏ một buổi chợ để ở nhà giữ tôi??? Chỉ còn cách cha tôi chở tôi trong cái nôi sau xe đạp và bình nước cháo pha đường mang theo ra ngoài vỉa hè bên cạnh bố tôi vừa giữ tôi vừa làm việc. Khi nào tôi khóc thì cho bú bình nước cháo đường.
Thấy vậy cụ Chính ở bên cạnh nhà, hàng ngày bế theo đứa cháu sang nhà tôi, giữ giùm tôi cho mẹ tôi đi bán bánh. Khi tôi khóc thì cụ cho bú bình nước cháo đường để sẵn, cho đến 11gio trưa cha tôi về trước, trao trả tôi thì cụ mới ẵm cháu cụ về.Đặc biệt là khi tôi khát sữa khóc toáng lên mà có bà mẹ nào cho tôi bú, nhất định tôi không bú.
Ngày tháng trôi đi, tôi lớn lên trong nghèo đói và khủng hoảng mỗi khi cha tôi bị bắt viết kiểm điểm và ra kiểm điểm hàng tháng ở tổ dân phố. Tôi cũng đi theo ngồi trong buổi kiểm điểm của cha tôi trước tổ dân phố. Cha tôi rất vững vàng trong mọi sỉa xói của bọn được “chia quả thực”.
Nhưng bên cạnh những con người ấy, vẫn có những người bạn của cha mẹ tôi và những người hàng xóm tốt bụng như cụ Chính, đã cho tôi hơi ấm của tình người, tôi lớn lên trong tình cảm ấy. Lên 10 tuổi tôi đã được nghe cha tôi trò chuyện về thời sự và thừa kế được những tinh hoa của cha mẹ, và ông bà của tôi.
Bây giờ có thả tôi vào cối đá mà trệu thì tôi vẫn thế thôi.
Nhân ngày sinh nhật của mình, viết vài dòng ôn cố tri tân của dĩ vãng xưa ùa về. Một lần nữa xin được tri ân các bạn đã yêu mến dành tặng cho tôi những lời chúc yêu thương chúc mừng tôi thêm một tuổi mới, trên chặng đường 5 năm qua tôi gia nhập gia đình FB. Ở đây là trường đại học cuộc đời.
Cũng ở FB này tôi đã học được nhiều ở các đàn anh,ở các em, các bạn cho tôi thêm nhiều sức sống và kinh nghiệm để đi tiếp chặng đường gian nan sắp tới vì một Việt Nam Dân Chủ, Tự Do và Cường Thịnh. Cám ơn các bạn trong gia đình FB,chúc các bạn sức khỏe và bình an.
Ngô Thị Hồng Lâm
Thanked by 2 Members:
|
|
#44
Gửi vào 14/06/2019 - 19:10
Bài viết dưới đây của một người bạn thân gởi cho tôi, hôm nay tôi muốn chia sẻ với các bạn để biết c.... s.. VN đã đối xử với những người anh em thua trận như thế nào.
TT Đại là một Đại Uý của Quân Lực VNCH. Sau ngày mất nước anh phải đi tù 11 năm ở miền Bắc. Khi ra tù anh được sang Mỹ năm 1990. Tình cờ anh lại đến thành phố tôi ở. Anh lớn hơn tôi 10 tuổi, vì chúng tôi cùng ở trong quân đội nên rất thông cảm cho nhau. Tôi thường tới nhà anh chơi và mê mẫn nghe anh kể những chuyện trong tù c.... s...
Tuy đã lớn tuổi, qua Mỹ muộn màng, nhưng anh lúc trước là một giáo sư, căn bản anh có, nên anh theo con đường tôi đi là trở vào đại học. Sau 6 năm anh lấy được bằng Master về Economy của UIS. Anh làm cho văn phòng tiểu bang Illinois. Sau khi về hưu anh dọn về California ở với một người anh. Xin mời các bạn đọc bài viết dưới đây của anh. Anh viết văn rất hay và cũng có một lối kể chuyện rất thu hút người nghe.
HẠT GẠO LÀ HẠT VÀNG
Ông Thầy giáo quan trọng nhất trong đời người là ông Thầy giáo đầu tiên dạy lớp vỡ lòng cho học sinh. Đó là ông thầy bắt đầu dạy từ vần mẫu tự abc, cho đến tập đọc, tập viết và đến cả đạo đức đầu đời cho đứa nhỏ. Chính ông thầy này đã đặt viên đá đầu tiên cả về Kiến thức lẫn Đạo đức trên tâm hồn ngây thơ trong trắng của đứa nhỏ.
Biết rõ vai trò quan trọng của ông thầy đầu tiên này, nên cha tôi kiêm nhiệm luôn vai trò đó. Vì thế đối với cha tôi thì tôi không những chịu ơn Sinh thành mà còn mang cả ơn Dạy dỗ nữa.
Rồi chọn ngày lành tháng tốt, khi tôi vừa tròn bốn tuổi đầu, là cha tôi làm lễ “Khai trí” cho tôi. Mẹ tôi sợ tôi còn non nớt quá, nhưng cha tôi giải thích rằng:”Với hoàn cảnh một thầy một trò, tôi sẽ dạy cho nó thật chậm rải, rõ ràng, rành mạch, để cho nó không những hiểu rõ trong hiện tại mà còn nhớ mãi trong tương lai và có thể trong suốt cuộc đời của nó nữa”. Kỹ thuật Sư phạm mà cha tôi áp dụng trong việc dạy dỗ tôi là dựa vào các câu ca dao, thành ngữ trong dân gian để đưa kiến thức vào đầu óc non nớt của tôi, vì ca dao, thành ngữ là những vần thơ giản dị, đầy nhịp điệu, vừa dễ nhớ lại vừa có tính cách thưởng thức nữa. Điều đó làm cho học sinh ham học lại nhớ lâu. Rất tiếc trong thời gian tôi học ở trường Sư phạm ở Saigon, chẳng có Giáo sư nào để ý tới phương pháp dùng ca dao, thành ngữ trong việc giảng dạy cả.
Về Đạo đức thì cha tôi chọn Đạo đức lao động của nhà nông Việt-nam để làm tiêu chuẩn cho đời sống của tôi, mặc dầu lúc bấy giờ gia đình tôi sống ở thành phố Hà-nội. Dựa ngay vào nếp sống của tôi, một đứa nhỏ bốn tuổi đầu, mà cha tôi toan tính đưa vào cái đạo đức đầu đời cho tôi. Lúc còn nhỏ, tôi có tính lơ đãng và lại hay mơ mộng nữa, nên lúc cầm đũa lùa cơm vào miệng, tôi hay làm cơm rơi **** tung toé xuống đất. Cha tôi giải thích cho tôi biết là muốn có được hạt cơm để ăn ngày hôm nay thì phải trải qua nhiều công trình lao động cực nhọc của người nhà nông:
Ai ơi ăn bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Cái nền tảng đạo đức đầu tiên mà cha tôi dạy cho tôi là phải quí trọng hạt gạo, coi “Hạt gạo là hạt vàng”, nếu phí phạm thì sau này không có cơm mà ăn nữa.
Muốn có được hạt gạo thì cả gia đình người nông dân đều phải cần cù góp sức trong việc canh tác trồng lúa ngoài cánh đồng:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Cây lúa là loại cây ưa nước, ruộng phải đủ nước thì cây lúa mới phát triển được. Do đó phải tùy theo thế đất mà dùng gầu tát nước vào ruộng:
Ruộng cao, tát một gầu dai,
Ruộng thấp, thì phải tát hai gầu sòng.
Nhiều khi làm ban ngày không đủ, phải tranh thủ làm đêm như cảnh tát nước dưới đêm trăng:
Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.
Vấn đề thời tiết cũng rất quan trọng đối với nhà nông. Nếu mưa thuận gió hòa thì dẫn đến việc được mùa và đem lại no ấm cho người nông dân:
Ơn Trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu,
Công lênh chẳng quản lâu đâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng,
Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.
Nếu gặp năm hạn hán, thì với đầu óc thật thà, chất phác của người nông dân, họ làm lễ cầu đảo cho Trời gia ân làm mưa xuống:
Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy bát cơm đầy,
Lấy khúc cá to.
Gần như tất cả các thành viên trong gia đình người nông dân đều tham gia vào công việc canh tác. Ngay cả đứa nhỏ khi đi học về, cũng có bổn phận phải chăm sóc con trâu, một con vật là biểu tượng cho nền nông nghiệp Việt-nam. Ta hãy lắng nghe bác nông phu tâm sự với con trâu với những lời lẽ thiết tha như đối với người bạn thân vậy:
Trâu ơi! Ta bảo trâu này:
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta,
Cày cấy giữ nghiệp nông gia,
Ta đây, trâu đấy, ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Tôi còn nhớ, một trong những bài viết tập đầu tay của tôi là bài “Chăn trâu” mà cha tôi lấy trong sách “Quốc văn Giáo khoa thư”:
“Ai bảo chăn trâu là khổ? Không, chăn trâu sướng lắm chứ! Đầu tôi đội nón mê, tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu. Tai nghe chim hót trong vòm cây, mắt trông bướm lượn trên bãi cỏ. Tôi và con trâu thảnh thơi, vui thú, tưởng không còn gì sung sướng cho bằng!”
Bởi vì những câu ca dao, thành ngữ và những bản văn diễn tả công việc của nông dân, dường như đa số đều làm bởi những người sống ở thành thị, nên họ chỉ nhấn mạnh vào những điểm thơ mộng của công tác nông nghiệp, mà quên đi những nỗi nhọc nhằn, cực khổ của người nông dân. Chính vì thế mà qua sự dạy dỗ của cha tôi mà tôi cảm thấy mê công việc ở chốn ruộng đồng.
Sau khi thọ giáo cha tôi được chừng ba tháng, một ngày kia mẹ tôi âu yếm hỏi tôi rằng:”Cha con dạy dỗ con tận tâm như thế, thì sau này con định làm nghề gì?”
Tôi trả lời ngay:”Con sẽ chọn nghề nhà nông.”
“Tại sao?” Mẹ tôi vô cùng sửng sốt hỏi lại.
“Để con được tát nước dưới ánh trăng và được đi chăn trâu.” Tôi đáp.
Mẹ tôi lập tức nắm lấy tay tôi và lôi tôi vào phòng khách để gặp cha tôi. Bà giận dữ chất vấn cha tôi rằng:” Ối Giời ơi! Tôi tưởng ông dạy dỗ con để sau này nó trở thành bác sĩ, kỹ sư, nhưng tôi hỏi nó, thì nó lại muốn thành anh nông dân. Nếu muốn trở thành người nhà nông thì cần gì phải đi học cho tốn cơm, tốn gạo!”
Cha tôi điềm tĩnh giải thích rằng:”Tôi muốn con nó học cái đạo đức của người nhà nông, chứ không phải làm công việc của người nhà nông, vì trong bốn giai cấp “Sĩ, Nông, Công, Thương” thì chỉ có đạo đức của người nông dân là đáng kính hơn cả. Tôi dạy nó phải biết kính trọng người nhà nông, còn nó muốn làm anh nông dân thì với sức vóc gầy yếu của dân thành thị, có muốn cũng không kham nổi công việc đồng áng. Rồi nó sẽ chọn nghề khác thôi, bà đừng bận tâm lo nghĩ.”
Cha tôi còn nói thêm rằng:”Nhà nông mang lại lợi ích thiết thực, đó là cung cấp lương thực cho con người. Mặc dầu xã hội đặt giai cấp Sĩ trên giai cấp Nông, nhưng gặp năm mất mùa đói kém, thì có sự thay bậc đổi ngôi:
Nhất Sĩ nhì Nông,
Hết gạo chạy rông,
Nhất Nông nhì Sĩ.
Mẹ tôi bấy giờ mới hiểu ra cái mục đích dạy dỗ của cha tôi. Từ đó bà trở nên hợp tác chặt chẽ với cha tôi. Cái tính lơ đãng của tôi chưa bỏ được, nên mỗi lần ăn cơm là tôi lại làm rơi **** tứ tung cơm xuống đất. Mỗi lần như thế, mẹ tôi lại cúi xuống, tự lượm từng hạt cơm rơi **** của tôi dưới đất, rồi bà bỏ vào miệng nhai ngon lành. Thấy thế, tôi cảm thấy thương mẹ tôi quá! Bà đã vất vả vo gạo, thổi cơm, rồi xới cơm ra bát, gắp sẵn đồ ăn, rồi đưa đến tận tay cho tôi. Tôi tự nhủ:”Sao mình hư đốn thế! Chỉ có việc ăn cũng không nên thân!”. Từ đó, tôi quyết chí phải bỏ tính lơ đãng, mà chú ý vào từng miếng cơm, nên tôi không còn làm rơi **** phí phạm cơm nữa. Cha mẹ tôi đều vui mừng vì tôi đã tiến bộ cả về học vấn lẫn đạo đức.
Rồi tới ngày hè, tôi được theo mẹ tôi về thăm quê ngoại, để được thấy tận mắt công việc của người nông dân. Quê ngoại tôi thuộc “Làng Cau” ở tỉnh Thái-bình. Gọi là “Làng Cau” vì trong làng trồng rất nhiều cau để ăn trầu. Những cây cau vượt hẳn lên lũy tre xanh. Trong buổi sáng sớm, tôi nhớ mãi cái cảnh thân cau mảnh khảnh cao vút, bị che lấp bởi sương mù, chỉ còn thấy túm lá trên ngọn, trông như những chiếc “thuyền thúng”trôi nổi lờ lững trong không gian trắng đục.
Về quê ngoại, mẹ tôi luôn luôn kiềm chế trông giữ tôi, không cho tôi được tự do chơi đùa với lũ trẻ trong làng. Tôi định gia nhập bọn con trai để chơi trò “bịt mắt bắt dê”, nhưng mẹ tôi không cho. Bà nói:”Tụi nó chỉ chơi trò này một lát rồi ra vườn sau, trèo cây để hái trộm ổi đó. Theo tụi nó thì có ngày ngã gẫy chân đó, con ạ!” Mẹ tôi dẫn tôi đến giới thiệu với bọn con gái để làm quen. Để được an toàn hơn, bà nói:”Chú nó đây là người thành thị nên “chân yếu tay mềm”, các cháu có nô đùa thì “nương tay” một chút nhé!” Cả bọn con gái đồng thanh nói:”Thưa vâng.” Tôi theo bọn con gái chơi trò “nhảy ô”. Lũ trẻ con gái đều mặc quần áo “nâu xồng” giống như những nông dân ở làng mạc ngoài Bắc. Riêng tôi là dân thành thị nên mẹ tôi diện cho tôi cái áo sơ-mi trắng và cái quần tây xanh. Cả bọn con gái cứ trố mắt ra nhìn trang phục của tôi. Chơi trò “nhảy ô” được một lát thì đổi sang trò “nhảy dây”. Đến lượt tôi nhảy, vì không quen, nên vướng phải dây, “té lăn cù” xuống đất, lấm lem cả cái áo sơ mi trắng. Cả bọn vội vàng lấy tay phủi các vết lấm trên áo tôi và dặn rằng: “Mợ có hỏi thì đừng nói là ngã về nhảy dây nhé, không thì mợ lại trách chúng tôi đó.” Giữa lúc ấy thì anh Năm, người anh họ tôi, chăn trâu về. Anh mới có chín tuổi đầu mà rất thành thạo trong việc chăn trâu, nói gì con trâu cũng đều nghe theo, khiến tôi phục anh quá. Tôi bèn chạy lại đón anh và xin anh cho phép tôi được cưỡi trâu. Anh nói:”Tôi phải hỏi xem mợ có cho phép không?” Anh bước vào nhà để thưa trình với mẹ tôi. Tôi thấy mẹ tôi chạy vội ra và la lên rằng:”Cấm tuyệt đối không được cưỡi trâu, lớ ngớ trâu nó đạp cho gẫy xương đó, ở nhà quê đây không có bệnh viện đâu!” Anh Năm bèn dắt trâu vào chuồng và đặt thanh tre chắn ngang để khoá chuồng lại. Tôi rất tiếc vì không được cưỡi trâu, rồi tôi lon ton chạy theo anh để lên nhà nghỉ ngơi. Lợi dụng lúc mọi người không để ý, tôi lẻn ra ngoài chuồng trâu. Vì lưng trâu cao quá đầu tôi nên tôi không thể nào leo lên được. Tôi bèn chạy xuống bếp, mang cái ghế đẩu để bên mình trâu. Tôi leo lên ghế đẩu trước, rồi từ đó tôi leo lên được mình trâu. Tôi cảm thấy vô cùng thích thú và tự hào nữa và tự nói một mình:”Người ta cấm đoán ta cưỡi trâu, thì nay ta tự cưỡi lấy, có sao đâu!” Rồi trong lúc hứng chí, hai gót chân tôi thúc vào bụng trâu, hai bàn tay tôi đập mạnh vào cổ trâu. Con trâu bị nhốt trong chuồng, không đi được, lại bị thúc như vậy, nó bèn kêu lớn lên: Bê…ê…ê…! Nghe tiếng trâu kêu, anh Năm và mẹ tôi chạy vội xuống chuồng trâu. Thấy tôi ngất nghểu ngồi trên mình trâu, mẹ tôi la lớn lên rằng:” Ối Giời ơi! Ngồi mát trên nhà không muốn, lại muốn xuống chuồng trâu để cho trâu nó đạp gẫy chân đó, con ạ!” Anh Năm vội đỡ tôi xuống khỏi lưng trâu, mẹ tôi giận dữ nắm lấy tay tôi lôi lên nhà, rồi bà lấy một giá gạo và bắt tôi phải nhặt trấu và thóc riêng ra, cốt ý để cầm chân tôi. Tôi ngồi mà tiếc ngơ tiếc ngẩn, vì thời gian cưỡi trâu ngắn quá, chỉ tại con trâu mắc dịch kêu lên, nên mọi người mới biết! Trong lúc đang nhặt trấu và thóc, tôi bỗng thấy một con chuột nhắt đang lén ăn những hạt thóc mà tôi vừa vất xuống đất. Tôi đợi nó lại gần, rồi bất thình lình nhẩy ra vồ lấy, nhưng nó thoát được và chạy ra phía cửa. Tôi đuổi theo, chẳng may chân tôi vướng phải bậc cửa và ngã xuống, làm trầy một bên đầu gối. Chỉ có thế, mà mẹ tôi hoảng hốt, bà vội lấy dầu nóng mà nắn bóp vết thương cho tôi, rồi lấy băng keo dán lại. Bà cứ cằn nhằn tôi hoài và dặn rằng:” Đi đứng phải cẩn thận, đừng có chạy vội vã mà dễ bị ngã lắm đó!” Tôi cảm thấy chân tôi đau một phần, thì lòng mẹ tôi đau tới mười phần, tình thương yêu của các bà mẹ Việt-nam đối với con cái thật bao la như trời cao biển rộng!
Một hôm có một ông già đến thăm ông ngoại tôi. Hai ông bảo mẹ tôi đem tôi lên để xem ‘tướng số’. Mẹ tôi bắt tôi khoanh tay lễ phép chào hai ông. Hai ông già này mới “sỗ sàng” làm sao! Ông thì vạch tai, vạch miệng tôi, ông thì bới tóc tôi, lại còn bắt tôi phải xoè hai bàn tay ra để các ông ngắm nghía, đo đạc các đường vân tay tôi.
Ông khách nói:”Căn cứ vào ‘cung nghề nghiệp’ thì thằng bé này theo nghề dạy học mô phạm đây; còn theo ‘cung đời sống’ thì đời nó sau này gặp nhiều hoạn nạn.
Ông ngoại tôi ngắt lời:”Làm thầy giáo có gây thù gây oán với ai đâu mà gặp hoạn nạn?”
Ông khách đáp:”Gặp lúc thiên hạ loạn lạc thì ‘thầy tu’ cũng gặp hoạn nạn nữa là ‘thầy giáo’!”
Sau khi xem tướng số chừng nửa giờ, hai ông già mới chịu buông tha tôi ra, thật hú hồn!
Cuộc thăm viếng quê ngoại mới được chừng nửa tháng thì cha tôi cho người xuống nhắn tôi phải trở về để học hành. Thế là hai mẹ con lại dắt díu nhau trở về Hà-nội để tôi tiếp tục thọ giáo với cha tôi.
Rồi năm tháng cứ êm ả trôi qua trong một gia đình đầy tình thương yêu nồng ấm, nhưng thời cuộc lại trở nên sôi động với sự bùng nổ của chiến tranh Việt Pháp vào năm 1946.
Đến lúc tôi trưởng thành, có được công ăn việc làm, thì chẳng may cha mẹ tôi đều mất cả. Tôi cảm thấy đau buồn và hối tiếc vì tôi không còn có dịp đền ơn đáp nghĩa công ơn sinh thành cũng như dạy dỗ nuôi nấng của cha mẹ tôi được nữa. Và tôi trưởng thành và dạy học không phải ở Hà-nội mà là Sài-gòn. Lý do là vì năm 1954, lúc tôi 15 tuổi, thì Hiệp-định Genève được ký kêt, chia đôi đất nước Việt-nam, tôi đã theo làn sóng di cư của gần một triệu đồng bào miền Bắc vào Nam và định cư ở Sài-gòn. Tôi đã chọn nghề dạy học ở miền Nam theo ý muốn của cha tôi lúc còn sinh thời.
Lúc tôi trưởng thành, vì không có cha mẹ bên cạnh, nên đời sống tôi có phần nào phóng túng. Tôi bỏ qua luôn cái đạo đức mà cha tôi đã dạy tôi “Hạt gạo là hạt vàng, nếu con phí phạm thì sau này con không có cơm mà ăn nữa”. Tôi thấy cha tôi nói thái quá, vì những người nghèo nhất ở miền Nam cũng có đủ cơm ăn, nữa là tôi, một giáo chức đã có công ăn việc làm rồi, làm sao mà đói được! Nhất là miền Nam với đồng bằng sông Cửu-long là “vựa luá” của cả Đông Nam Á Châu thì không thể nào thiếu lương thực được.
Thế rồi tôi cứ tiếp tục đời sống phóng túng, phí phạm. Tôi còn nhớ, tôi cùng vài đứa bạn vào nhà hàng Đồng-khánh ở Chợ-lớn, gọi món “cơm chiên Dương-châu”. Lúc ăn, mấy đứa chúng tôi không những đánh **** cơm tung toé ra bàn, lại còn chỉ ăn chừng nửa dĩa, còn “bỏ mứa” không thèm ăn nửa dĩa còn lại. Và cái hậu quả phí phạm này, đã đúng như lời tiên đoán của cha tôi, một ngày kia, tôi sẽ không có cơm mà ăn nữa!
Sự thể xảy ra là vì chiến tranh ở miền Nam ngày càng trở nên khốc liệt giữa một bên là quân đội c.... s.. miền Bắc xâm lấn và một bên là quân đội Việt-nam Cộng-hòa chống lại. Năm 1964, chính quyền VNCH ra lệnh Tổng động viên trên toàn cõi miền Nam. Tôi phải chấp hành lệnh Tổng động viên này, phải “xếp bút nghiên theo việc kiếm cung” mà vào học khoá 18 trường Sĩ quan Trừ bị Thủ-đức. Trong vòng bốn năm (1964-1968), tôi ở trong hàng ngũ quân đội VNCH chống lại quân đội c.... s.. miền Bắc xâm lược miền Nam. Nhưng đến năm 1968, vì tình trạng thiếu thầy giáo trầm trọng ở miền Nam, nên tôi được biệt phái trở về dạy học, nghĩa là được “xếp kiếm cung trở lại việc bút nghiên”.
Do phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ chống chiến tranh Việt-nam nên Quốc-hội Mỹ cắt ngân khoản viện trợ cho miền Nam, trong khi đó Khối c.... s.. Quốc tế vẫn tiếp tục viện trợ cho miền Bắc. Và việc phải đến đã đến, đó là quân đội c.... s.. miền Bắc thắng cuộc chiến tranh. Ngày 30-4-1975, quân đội c.... s.. chiếm được Sài-gòn và chính quyền VNCH xụp đổ hoàn toàn. Lúc đó tôi đang “cầm phấn” dạy học thay vì “cầm súng” chiến đấu. Sau đó, vì là Sĩ quan biệt phái dạy học nên tôi phải trình diện học tập cải tạo như các Sĩ quan tại ngũ. Và việc cải tạo này không phải chỉ có 10 ngày như mọi người lầm tưởng mà là đi “mút mùa”. Riêng tôi lại còn “xui xẻo” hơn nữa, vì phải di chuyển đi học tập cải tạo ở tận miền Bắc, ở một khu rừng già thuộc tỉnh Hoàng-liên-sơn ở miền Thượng du Bắc Việt, giáp với biên giới Trung quốc. Ở đây chúng tôi phải lao động chặt giang để có nguyên liệu làm giấy. Chỉ tiêu một ngày cho mỗi cải tạo viên là 40 cây giang. Thật ra trại cải tạo ở đây chỉ là một đơn vị phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước Cách mạng, vì nơi đây là chốn rừng thiêng nước độc, rất dễ bị sốt rét ngã nước nên không thể mướn nhân công ở miền xuôi lên được. Nay có một thứ nhân công không phải trả lương, lại làm việc cật lực từ 6 giờ sáng đến 5 giờ chiều và làm 7 ngày một tuần, không có ngày nghỉ. Chúng tôi có hỏi cán bộ quản giáo, sao nói là học tập cải tạo mà chỉ thấy lao động chân tay triền miên, không thấy học tập sách vở gì cả, thì được trả lời rằng:”Các anh theo chân Đế quốc Mỹ, bóc lột sức lao động của nhân dân miền Nam, nay chính các anh phải lao động để hiểu rõ ý nghĩa của lao động và biết rõ tội lỗi của các anh nữa.” Có điều lao động cực nhọc như thế mà ăn uống lại rất thiếu thốn, mỗi bữa chỉ được hai khúc sắn luộc với một ít mắm chược (một loại mắm cá thối), lại cũng không đủ no nữa! Cơm ở đây chỉ là một thứ thực phẩm xa xỉ mà chúng tôi chỉ được ăn vào dịp Tết Nguyên-đán Âm lịch.
Từ thủa cha sinh mẹ đẻ ra, chúng tôi ngày nào cũng được ăn cơm. Hương vị cơm đã thấm vào làn da, vào thớ thịt, nên khi không còn được ăn cơm nữa, chúng tôi cảm thấy thèm cơm vô cùng! Riêng tôi còn thêm ý tưởng ăn năn nữa, vì lúc sống ở Sài-gòn đã phí phạm hạt cơm, không nghe theo lời dạy dỗ của cha tôi. Chúng tôi có đề nghị với ban Chỉ huy trại là ngoài việc trồng sắn ra, xin cho chúng tôi được trồng thêm lúa và ngô nữa, nhưng ban Chỉ huy trại đã từ chối:” Ở khu rừng già này, trồng lúa và ngô thì không có ăn đâu!” Chúng tôi cố nài nỉ và hứa là sẽ làm vượt chỉ tiêu để ban Chỉ huy lấy tiền dư ra mà mua hạt giống lúa và ngô cho chúng tôi. Cuối cùng ban Chỉ huy trại đồng ý và cử ra một đội gọi là đội Nông nghiệp gồm 50 cải t*o viên để lo việc trồng trọt cây lương thực cho trại.
Khi cây lúa mới trổ đòng đòng và cây ngô mới có hạt non, thì một ngày kia chim rừng bay tới, không phải vài chục con hay vài trăm con, mà là cả một đám mây chim gồm cả chục ngàn con. Mấy anh trồng trọt lúc đầu còn cố gắng bảo vệ mùa màng, nhưng sau lo bảo vệ chính mình, ôm mặt mà chạy. Một lát sau, khi đàn chim đã bay đi, mọi người trở lại thì hỡi ơi! Ruộng lúa, ruộng ngô chẳng còn gì nữa! Chim đã ăn hết cả hạt, cả lá, chỉ còn trơ chút gốc trên mặt ruộng.
Trồng khoai lang cũng không được ăn nữa, vì khi củ khoai mới vừa bằng ngón tay thì khi đêm đến, heo rừng tới phá và ăn sạch. Ngay khi trồng sắn, thì loại sắn vỏ trắng và vỏ nâu cũng bị heo rừng ăn, riêng chỉ có loại sắn vỏ đỏ xậm là chúng chê vì có chất độc.
Lúc mới đến Hoàng-liên-sơn, chúng tôi được cung cấp sắn khô để ăn trong 3 tháng, để chờ mùa thu hoạch. Loại sắn khô này đã mốc xanh, chúng tôi nói đùa rằng, ăn loại này giống như ăn nút chai, vì chẳng có mùi vị gì, cố gắng nuốt để dằn cơn đói.
Đến lúc thu hoạch, được ăn sắn tươi thì loại sắn vỏ đỏ xậm này có chất độc đối với heo thì cũng độc luôn đối với người. Ăn loại sắn này được chừng một tuần, thì tất cả hơn 600 cải tạo viên trong trại đều nổi hạch ở cổ giống như lên quai bị. Cán bộ ở trại gồm ban Chỉ huy trại, quản giáo và bộ độ bảo vệ gồm chừng 30 người không hề gì, vì họ có khẩu phần riêng, được ăn cơm độn với ngô và khoai lang. Trại có bốn bác sĩ vốn là sĩ quan quân y phục vụ ở các Tiểu đoàn Nhẩy dù và Thủy quân Lục chiến, cũng lưu lạc cải tạo ở đây, các anh cho biết:”Nổi hạch ở cổ là phản ứng tự nhiên của cơ thể con người để ngăn chất độc lên óc. Nhưng chỉ chừng một tuần lễ sau hạch sẽ vỡ và chất độc sẽ lên tới óc, lúc đó sợ rằng tính mạng chúng ta nguy mất. Chúng tôi bèn kéo lên ban Chỉ huy trại để xin giúp đỡ. Viên Thượng tá Trưởng trại phán rằng:”Các anh bằng cấp đầy người mà sao ngu quá! Bộ đội chúng tôi vượt Trường-sơn vào giải phóng miền Nam, cũng chỉ ăn có loại sắn này mà vẫn sống và lại còn chiến thắng các anh nữa.” Một anh bác sĩ cải tạo lúng túng nói rằng:”Tình thực chúng tôi không biết, xin cán bộ chỉ giáo cho.” Lúc đó viên Trưởng trại mới giải thích:” Để làm hết chất độc của sắn, trước hết các anh phải lột vỏ, rồi cho sắn vào cái xọt lớn, đặt giữa dòng suối một ngày một đêm. Nước suối chảy sẽ cuốn trôi các chất độc đi, sau đó mới luôc và ăn được an toàn, hiểu chưa!” Quả nhiên áp dụng cách thức này, các hạch ở cổ chúng tôi dần dần xẹp xuống và chúng tôi thoát hiểm. Đúng là “trăm hay không bằng tay quen”.
Rồi ngày tháng trôi qua, thấm thoát mà ngày Tết Nguyên-đán sắp tới và chúng tôi có cơ hội được ăn cơm. Ngày Tết trong trại cải tạo có nhiều kỷ niêm không bao giờ quên được. Như Tết Âm lịch năm Đinh Tỵ ( Tết Con Rắn, vào đầu tháng 2 năm 1977), ngay từ sáng sớm hôm mồng một Tết, ban Chỉ huy trại tập hợp tất cả các trại viên lại và đích thân Trưởng trại tuyên bố: ”Để tưởng thưởng cho anh em cải tạo đã làm đầy đủ chỉ tiêu, Ban Chỉ huy trại cho anh em được nghỉ trọn ngày mồng một Tết và thêm phần bồi dưỡng là anh em sẽ được ăn cơm và làm thịt 3 con chó”. Nói xong, một cán bộ trực dắt 3 con chó đến trao cho chúng tôi. Đó là loại chó mực miền núi, trông ốm tong teo, vì người còn chẳng đủ ăn nên ảnh hưởng đến cả loài chó.
Chúng tôi bèn cử ra 10 người có khả năng nấu nướng để lo việc làm thịt chó. Sau khi đã cắt tiết và thui xong 3 con chó thì hai cán bộ trực trại xuống để chia phần. Mỗi con chó đều bị họ cắt đi 4 cái đùi và lấy luôn cả bộ lòng nữa. Người bình dân miền Bắc rất thích ăn lòng chó, vì thế mới có câu ca dao:
Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó,
Chết xuống Âm phủ, biết có hay không!
Nhìn 3 con chó bị lấy đi 4 cái đùi và toàn thể bộ lòng nên không còn giống con gì cả. Chúng tôi thì thầm với nhau:”Cán bộ trại sao mà tham thế, chỉ có khoảng 30 người mà lấy đi tất cả các phần ngon của 3 con chó, phần còn lại chia cho tới hơn 600 cải tạo viên chúng tôi. Nhưng chúng tôi tự an ủi với nhau rằng:”Có còn hơn không”. Rồi chúng tôi quyết định nấu súp chó cho có đủ phần cho hơn 600 anh em chúng tôi. Chúng tôi cho vào hai cái chảo lớn, rồi cho thêm rau rừng nữa, để nấu súp chó, và hai chảo còn lại để nấu cơm. Tất cả anh em cải tạo đều bu vào bếp, để hưởng mùi thơm của cơm và súp chó bay ra, mà cả năm nay chúng tôi mới được thưởng thức. Buổi trưa chúng tôi vẫn phải ăn sắn, vì bữa cơm mừng Tết dành cho buổi chiều. Lúc chia phần, mỗi người được hai lưng chén cơm đựng vào lá chuối và một chén nước súp với một miếng thịt chó to bằng “lóng ngón tay út”.
Khi được chia phần xong, nhóm chúng tôi gồm có Đại uý Khương, Thiếu tá Thiệt, Trung tá Bách và tôi đã quyết định chỉ ăn một lưng chén cơm với súp chó. Còn lưng chén cơm còn lại thì gói vào lá chuối để dành tới tối vào lán “nhâm nhi” với nhau cho đã cái thèm cơm cả năm trời (lán là một nhà tranh nhỏ theo tiếng miền Bắc). Chúng tôi đang chung vui bữa ăn mừng Năm Mới , thì bỗng có người gọi tên tôi. Tôi nhìn ra thì thấy ở góc sân bên kia, Đại đức Tâm, một Đại uý đồng hóa của Nha Tuyên úy Phật giáo, đang vẫy gọi tôi. Tôi hơi ngạc nhiên vì tôi không chơi thân với Đại đức, sao ông lại gọi tôi tới làm gì? Lý do không chơi thân là vì vào tù cải tạo mà Đại đức vẫn cố giữ đức độ của một vị tu hành, điều mà tôi không thể nào bắt chước được. Khi lại gần, Đại đức Tâm đưa chén súp chó cho tôi và nói:”Cậu ăn dùm tôi cái này.” Tôi mừng quá, như bắt được vàng, quên cả cám ơn, bèn cầm đũa gắp miếng thịt chó sang chén tôi, và sửa soạn đổ chén súp của ông sang chén tôi. Bỗng tôi cảm thấy tay tôi run lên, khi tôi nhìn thấy thân hình gầy còm, chỉ còn da bọc xương của vị tu sĩ này. Lương tâm tôi như nói với tôi rằng:” Đối với vị tu sĩ khả kính này, mình đã không giúp đỡ được gì, lại còn ăn phần của ông nữa, mặc dầu ông có lòng tốt cho mình”. Nghĩ vậy, tôi chỉ lấy miếng thịt chó thôi, còn chén súp tôi trao lại cho Đại đức Tâm và nói rằng:”Thầy ạ! ‘Đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy’! Vào tù cải tạo rồi, mà Thầy còn giữ qui luật ăn chay thì làm sao còn đủ sức đi lao động. Thôi thì miếng thịt chó tôi đã lấy rồi, còn lại chỉ là nước súp, Thầy dùng đi, một năm chỉ có một lần”. Nghe tôi nói ‘bùi tai’, thế là Đại đức Tâm đưa chén lên miệng, húp một hơi hết cả chén nước súp. Húp xong chén súp, bỗng nhiên tôi thấy người ông run rẩy, nước mắt trào ra. Tôi vội nói:”Quả thật, tôi thấy Thầy gầy yếu quá, nên tôi khuyên Thầy ăn súp để lấy sức đi lao động, chứ thật tình tôi không dám xúi Thầy phạm giới đâu!” Ông ôm choàng lấy tôi, rồi vừa nức nở vừa nói rằng:”Lỗi tại tôi vì tôi yếu lòng, không phải lỗi của cậu đâu!” Rồi ông cứ nức nở khóc trên vai tôi, nước mắt chảy ướt cả vai áo tôi. Trước cảnh đau lòng đó, tôi cố gắng vỗ về, an ủi ông và cảm thấy ăn năn vô cùng. Giữa lúc đó, nhóm bạn của tôi gọi tôi, nên tôi phải rời ông, nhưng tôi cũng cố gắng an ủi ông rằng:” Đức Phật độ lượng, trước hoàn cảnh cực khổ này, chắc Ngài cũng không chấp nhất những hành động nhỏ nhặt này đâu, Thầy cố giữ thân tâm an lạc.”
Về gia nhập với nhóm bốn đứa thì thời gian đã tới 7 giờ chiều, đã dến lúc phải vào lán để cán bộ quản giáo khóa cửa lại. Khi cửa đã khóa rồi thì trong lán tối om, bọn bốn đứa chúng tôi phải đi lại chỗ góc lán có treo ngọn đèn dầu lạc nhỏ để chỉ chỗ đi tiêu đi tiểu của anh em, để có ánh sáng mà thưởng thức lưng chén cơm còn lại. Mỗi lần ăn, chúng tôi chỉ dùng hai ngón tay nhón lấy chừng 4 hoặc 5 hạt cơm rồi cho vào miệng, nhai nát như cháo, để cho đã cái thèm lâu ngày mới được ăn cơm. Vừa ăn chúng tôi vừa kể những chuyện vui ngày Tết cho nhau nghe và lấy làm đắc ý lắm. Đang lúc vui chuyện, vì lơ đãng, tôi đánh rớt một hạt cơm xuống đất. Tôi vội vàng lấy cái đèn độc nhất treo trên vách xuống và soi tìm hạt cơm rơi. Các bạn tôi kêu lên:”Cậu đem đèn đi đâu đấy, để tụi này còn có ánh sáng mà thưởng thức cơm nữa chứ!” May quá, tôi tìm được hạt cơm dưới đất. Sau khi treo lại đèn vào chỗ cũ, tôi bỏ hạt cơm vào miệng nhai ngon lành. Bỗng nhiên tôi cảm thấy như có tiếng nói của cha tôi vang lên:”Hạt gạo là hạt vàng, nếu con phí phạm, thì sau này không có cơm mà ăn nữa!”, và rồi hiện lên hình ảnh của mẹ tôi đang lượm những hạt cơm rơi **** của tôi ở dưới đất và cho vào miêng nhai ngon lành. Bỗng nhiên nước mắt tôi trào ra, không sao kìm lại được. Tôi vội vàng quay mặt vào vách để các bạn tôi không nhìn thấy sự yếu lòng của tôi. Ngày Tết rồi cũng qua đi, mang lại cho tôi nhiều nỗi buồn hơn là niềm vui. Và chúng tôi lại tiếp tục đi lao động chặt giang, 7 ngày một tuần, mỗi ngày từ 6 giờ sáng đến 5 giờ chiều, cố sao cho đủ chỉ tiêu 40 cây giang một ngày, và lại mong ngóng chờ ngày Tết năm tới.
Rồi đến Tết năm tới, Tết Mậu Ngọ (Tết Con Ngựa, vào đầu tháng 2 năm 1978), một kỷ niệm nữa lại đến với tôi. Số là trước Tết một tuần lễ, khoảng 23 tháng chạp Âm lịch, tôi được ban Chỉ huy trại chọn trong nhóm 20 người tham dự cuộc “Hành quân lấy gạo” để cho trại ăn Tết. Vì trại không có bao tải, nên cán bộ phụ trách ra lệnh cho chúng tôi, mỗi người phải mang theo một cái quần dài, lấy dây cột hai ống quần và lưng quần lại để đựng gạo. Tôi mừng lắm vì đây là cơ hội cho tôi được thấy nếp sống của đồng bào miền Bắc vì những cuộc chuyển trại đều di chuyển vào ban đêm nên không biết được sinh hoạt của người dân bên ngoài.
Nhóm chúng tôi khởi hành từ 6 giờ sáng, có hai chú bộ đội bảo vệ cầm súng AK đi kèm, một chú đi đầu dẫn đường, một chú đi áp chót để kiểm soát. Chúng tôi vượt rừng già, qua cả thảy 5 con suối, đi chừng 10 cây số thì ra đến đường quốc lộ trải nhựa, rồi cứ men theo đường lộ mà đi chừng 8 cây số nữa thì đến một huyện lỵ tên gọi là huyện Văn-chấn thuộc tỉnh Hoàng-liên-sơn, đây là địa điểm lãnh gạo. Tại nơi đây, tôi thấy nhiều đồng bào xếp hàng, mỗi người đều có mang theo một cái chai không. Tôi hỏi thì được trả lời rằng:”Tết năm nay, được Đảng và Nhà nước chiếu cố, nên mỗi gia đình được mua với giá chính thức nửa chai xi-rô (sirop: một loại nước ngọt đậm đặc) để mừng Tết”. Tôi ngạc nhiên khi thấy đồng bào đều mặc áo tơi (một loại áo kết bằng lá để mặc khi trời mưa), mặc dầu hôm đó trời quang đãng. Nhìn kỹ thì thấy bên trong mỗi người chỉ mặc một cái quần dài mỏng manh, với một cái áo cánh mầu nâu. Thời tiết vào dịp Tết ta ở miền Bắc thuộc mùa đông nên khá lạnh. Da của đồng bào tím lại vì mặc không đủ ấm và tay chân run lập cập với cái thể xác gầy gò ốm yếu. Tôi tự than thầm rằng:”Chao ôi! Tôi cứ tưởng cảnh tù tội như tôi mới đói khổ, nào ngờ cuộc sống của đồng bào bên ngoài cũng có khá gì hơn?” Tôi bèn lên tiếng hỏi:”Trời mùa đông sao các bác không mặc áo lạnh”. Một ông già giận dữ trừng mắt nhìn tôi và đáp rằng:”Vì chúng tôi phải hy sinh, ‘hạt gạo cắn làm đôi’ để chi viện cho nông dân miền Nam ‘chống Mỹ cứu nước’ nên mới nghèo khổ thế này đây!” Tôi trả lời:”Các bác lầm rồi, nông dân miền Nam không đói khổ đâu mà phải nhờ đến sự chi viện gạo của miền Bắc”. Ông lão nói như quát:”Vì bọn lính ngụy các anh theo chân Đế quốc Mỹ bóc lột nông dân, nên các anh đâu có rõ sự đói khổ của đồng bào miền Nam”. Tôi cố gắng giải thích cho đồng bào rõ rằng, miền Nam nhờ có đồng bằng trù phú của sông Cửu-long, nên đời sống của nông dân nhiều nơi còn khá giả hơn cả thành thị. Để dẫn chứng, tôi cho đồng bào biết rằng, có những gia đình nông dân ở Hậu-giang, thuê bao luôn cả xe đò cho gia đình lên Sài-gòn, ở khách sạn, chỉ cốt được xem tuồng Cải lương của Đoàn Thanh Minh Thanh Nga. Tôi hăng say giải thích cho đồng bào nên tôi quên mất nhóm cải tạo chúng tôi cùng với hai chú bảo vệ đang ngồi chờ lãnh gạo ở góc sân phía trước. Đến lúc chú bộ đội bảo vệ gọi tôi và giơ tay vẫy, tôi mới vội vàng chạy lại gia nhập nhóm chúng tôi. Chú bảo vệ giận dữ chất vấn tôi:”Anh có nhớ qui luật của trại là chỉ khi nào được phép, thì anh mới được liên hệ với đồng bào, nếu anh tự ý liên hệ thì anh có thể bi tù kỷ luật”. Nghe nói đến ba chữ “tù kỷ luật” là tôi rụng rời cả tay chân, vì tôi đã có kinh nghiệm về loại tù này. Số là mới chỉ cách đây ba tháng, nhân một chuyến đi chặt giang về, ngồi chờ cán bộ quản giáo “nhiệm thu”, tôi có thắc mắc với anh em cải tạo rằng:”Chỉ tiêu của chúng ta là 40 cây giang một ngày, mỗi cây giang chiều dài 6 mét, đường kính một gang tay trị giá 4 hào. Tổng công giá trị 40 cây là 16 đồng, thế mà khẩu phần sắn của chúng ta cả ngày chỉ đáng 2 hào. Thế thì số tiền sai biệt 15 đồng 8 hào đi về đâu?”. Tôi thấy anh em cải tạo đều mỉm cười, vì ai nấy đều thừa hiểu rằng, các trại học tập cải tạo chỉ là những đơn vị phát triển kinh tế, mang lại không biết bao nhiêu là lợi lộc cho Đảng và Nhà Nước Cách mạng, vì họ có được một lực lượng lao động không phải trả lương, bắt đi làm việc ở nơi nào cũng được, bắt sống trong điều kiện khổ cực nào cũng phải chịu đựng, anh em cải tạo biết rõ những điều đó, nhưng không ai dám nói ra. Nay tôi nói đúng tâm lý của anh em nên anh em tỏ ra hài lòng. Không ngờ có kẻ báo cáo lên Ban Chỉ huy trại . Vì thế tôi bị gọi lên Ban để cán bộ kỷ luật chất vấn. Mặc dầu tôi đã xin nhận lỗi và hứa sẽ không bao giờ tái phạm, nhưng cán bộ kỷ luật vẫn kết án tội của tôi:”Ngay trong khi còn đang học tập cải tạo, mà anh còn dám nói xấu Đảng và Nhà Nước Cách mạng, nếu sau này được khoan hồng thả ra, thì anh còn nói xấu đến đâu nữa!” Và kết quả là tôi bị 10 ngày tù kỷ luật cùm hai chân. Bản án được đọc vào buổi sáng, trước toàn thể cải tạo viên đang tập họp sửa soạn đi lao động, để răn đe mọi người.
Tù kỷ luật như vậy thì khẩu phần giảm xuống một nửa, nghĩa là chỉ có một bữa sắn cho cả ngày, lại không được mang theo mùng mền, nên đành chịu trận cho muỗi đốt. Muỗi rừng con nào cũng to gần bằng con ruồi nên chích rất buốt. Ban đêm tôi cứ phải quơ tay để đuổi muỗi, giống như người tập thể dục vậy và ngủ vào ban ngày. Nhưng cái cực khổ nhất của tù kỷ luật vẫn là việc mỗi ngày chỉ được tháo cùm một lần vào buổi sáng để ra suối làm vệ sinh cá nhân. Đối với người bình thường thì một ngày đi tiêu một lần là đủ, nhưng tiểu tiện không thể đi một lần được, nên phải tiểu tiện tại chỗ, vì hai chân bị cùm không thể di chuyển được và chỉ có hai vị thế là ngồi và nằm Với nhân số tù kỷ luật lúc đó vào khoảng 12 người, nên mùi xú uế trong nhà giam xông lên nồng nặc. Mỗi buổi sáng được tháo cùm để ra ngoài làm vệ sinh cá nhân. Vừa ra khỏi nhà giam, mùi xú uế của thân thể chúng tôi bốc lên, làm cho lũ ruồi nhặng ở khắp nơi bay đến bao quanh. Ngay chính chú cán bộ kỷ luật cũng phải một tay bịt mũi, một tay xách khẩu AK, dẫn chúng tôi ra bờ suối ở gần cổng trại. Đến nơi, chú cán bộ kỷ luật ra lệnh:”Tôi cho các anh 20 phút để làm vệ sinh cá nhân, ỉa đái thì ra bụi rậm bên bờ suối kia, rồi sau đó xuống suối mà tắm rửa, phải khẩn trương lên!” Chúng tôi cố gắng tranh thủ thời gian, đi tiêu đi tiểu chừng 5 phút, rồi nhào xuống suối tắm rửa. Vừa ra giữa dòng suối, được hưởng bầu không khí trong lành của buổi sớm, tôi vục ngay miệng xuống uống một hơi làn nước suối mát rượi này. Tôi bỗng cảm thấy tinh thần sảng khoái vô cùng và buột miệng kêu lên rằng:” Ối Giời ơi! Xin cám ơn Trời!” Lúc này tôi mới ngộ nhận rằng “con người cần phải có sự đau khổ”, bởi vì họ nhận được biết bao Ơn Phước của Thượng Đế ban cho, nhưng rất ít khi họ cám ơn; Chỉ khi nào Ơn Phuớc đó bị mất đi, rồi bỗng nhiên tìm lại được, họ mới biết chân thành ngỏ lời cám ơn Thượng Đế mà thôi! Chúng tôi đang thưởng thức cái thú được tắm trong làn nước suối mát rượi này thì cán bộ kỷ luật lên tiếng:”Hết 20 phút rồi, lên bờ mặc quần áo, và xếp hàng về trại!”
Về đến nhà kỷ luật, đưa hai chân vào cùm cho cán bộ khóa lại, rồi khi cửa nhà giam đóng lại, không gian trở nên tối om, mùi xú uế lại xông lên nồng nặc và chúng tôi lại chờ đợi một ngày một đêm mới được phép ra suối làm vệ sinh thân thể. Lúc này tôi cảm thấy thấm thía và nghĩ rằng tù kỷ luật như thế này mới đúng nghĩa với câu thành ngữ “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”
Vì đã có kinh nghiệm về tù kỷ luật, nên khi nghe chú bộ đội bảo vệ nói rằng tôi vi phạm qui luật của trại, dám liên hệ với đồng bào khi chưa có phép, và có thể bị đề nghị tù kỷ luật, tôi rụng rời cả tay chân, vội vàng nói dối rằng:”Nhân dịp Tết nên tôi hỏi thăm sức khỏe và chúc Tết đồng bào”.
_”Chúc Tết cũng phải xin phép!” Chú bộ đội nói.
Tôi giả bộ lễ phép trả lời:”Tôi xin chấp hành nghiêm túc lệnh của cán bộ”.
Thấy thái độ lễ phép của tôi, nên chú bảo vệ bỏ qua vi phạm này.
Giữa lúc đó nhóm chúng tôi được gọi vào để lãnh gạo. Gạo được đựng trong hai ống quần và cân đủ 20 ki-lô. Sau đó quàng hai ống quần qua cổ đưa ra trước ngực, rồi xếp hàng một mà đi về trại. Hai chú bảo vệ còn dặn rằng:”Phải bảo quản gạo cho tốt, khi về đến trại, chúng tôi cân lại, phải đủ 20 ki-lô đấy”.
Lúc đi đường, tôi cảm thấy cái đói cồn cào nổi lên vì hai khúc sắn ăn khi sáng chẳng thấm vào đâu cả. Bỗng nhiên tôi ngửi thấy mùi gạo sống và cám bốc ra từ hai ống quần đang mang qua cổ, sao mà thơm quá! Tôi lén tháo sợi dây cột ống quần, rồi nhẹ nhàng cho tay vào trong, nắm lấy một nắm gạo và cho vào miệng nhai. Chao ôi! Sao mà ngon thế! Rồi qua nắm gạo thứ nhất, tiếp đến nắm thứ hai, thứ ba, thứ tư… cho đến khi tôi ăn chừng hơn một ki-lô gạo sống vào trong bụng. Thú thật, đây là lúc mà tôi được ăn no đủ và ngon lành nhất trong suốt thời gian cải tạo của tôi. Trong lúc ăn, tôi lén nhìn thì thấy anh bạn cải tạo phía trước và phía sau tôi và cả toán 20 người đều ăn vụng gạo như tôi cả. Thì ra, trước hoàn cảnh đói kém, con người đều có phản ứng giống nhau! Vì ăn lén, vội vàng, sợ hai chú bảo vệ bắt gặp, nên những nắm gạo lấy từ ống quần ra, rồi cho vào miệng, bị rơi **** khá nhiều xuống đất, làm thành một dải màu trắng theo đường đi. Cũng may, hai chú bảo vệ vừa đi vừa ca những bài ca chiến thắng, nên không để ý phía dưới đất. Bỗng anh bạn cải tạo phía trước nói nhỏ với tôi rằng:”Hai chú bảo vệ đều nói về đến trại, các quần đựng gạo phải được cân lại và phải đủ 20 ki-lô, bây giờ chúng ta đã ăn cả ki-lô gạo vào bụng rồi, thì làm sao mà cân đủ đây! Nghe anh nói thế mà tôi càng thêm lo. Cái tội tham ô, lấy trộm gạo của trại mà ăn riêng cho mình, chắc ít nhất cũng bị nửa tháng tù kỷ luật. Bỗng tôi cảm thấy khát nước, vì hơn một ki-lô gạo sống ở trong bụng nở trương phình cả bụng ra, giống như người đàn bà có mang vậy. Tôi bỗng nghĩ ngay ra một kế và nói nhỏ với anh bạn ở phía trước rằng:”Khi nào đến dòng suối thì xin hai chú bảo vệ cho dừng chân để uống nước, rồi nhân đó cả nhóm nhễu nước suối vào gạo để bù vào số gạo thất thoát. Ngay khi đến dòng suối thứ nhất, chúng tôi xin phép được dừng chân để uống nước. Rồi sau đó, vừa uống nước, vừa nhễu nước vào gạo. Nhờ kế sách này, mà khi về đến trại, gạo được cán bộ cân lại, chúng tôi vẫn có đủ 20 ki-lô mỗi người, thế là thoát hiểm. Tuy nhiên, Tết năm đó cả trại phải ăn gạo mốc. Mọi người đều trách cứ vào huyện Văn-chấn, đã bảo quản gạo không tốt, nên anh em đã phải ăn gạo mốc. Nhưng bọn chúng tôi thuộc nhóm 20 người tham dự cuộc “Hành quân lấy gạo” này, đều tỏ vẻ ăn năn, vì chính chúng tôi mới là thủ phạm làm gạo mốc. Nhưng riêng tôi, thì tôi lại ăn năn gấp đôi, vì không những có lỗi với anh em cải tạo, mà việc đánh rớt gạo sống trên đường trong lúc ăn vụng, rõ ràng là một sự phí phạm, nó đã vi phạm vào cái đạo đức “Hạt gạo là hạt vàng” mà cha tôi đã dạy tôi, và chắc hẳn đời tôi còn phải tiếp tục chịu đựng cái đói khổ triền miên này đây! Tuy nhiên, tôi còn tự chống chế rằng:” Gạo rớt trên đường đi, chắc chắn chim rừng thế nào cũng bay xuống mà ăn, đâu có phí phạm gì? Thế là tôi cũng tạm yên lòng và có đủ can đảm tiếp tục sống, để tin rằng tương lai của mình có thể tươi sáng hơn.
Bắc Cali, ngày 12-7-2012
TT Đại
TT Đại là một Đại Uý của Quân Lực VNCH. Sau ngày mất nước anh phải đi tù 11 năm ở miền Bắc. Khi ra tù anh được sang Mỹ năm 1990. Tình cờ anh lại đến thành phố tôi ở. Anh lớn hơn tôi 10 tuổi, vì chúng tôi cùng ở trong quân đội nên rất thông cảm cho nhau. Tôi thường tới nhà anh chơi và mê mẫn nghe anh kể những chuyện trong tù c.... s...
Tuy đã lớn tuổi, qua Mỹ muộn màng, nhưng anh lúc trước là một giáo sư, căn bản anh có, nên anh theo con đường tôi đi là trở vào đại học. Sau 6 năm anh lấy được bằng Master về Economy của UIS. Anh làm cho văn phòng tiểu bang Illinois. Sau khi về hưu anh dọn về California ở với một người anh. Xin mời các bạn đọc bài viết dưới đây của anh. Anh viết văn rất hay và cũng có một lối kể chuyện rất thu hút người nghe.
HẠT GẠO LÀ HẠT VÀNG
Ông Thầy giáo quan trọng nhất trong đời người là ông Thầy giáo đầu tiên dạy lớp vỡ lòng cho học sinh. Đó là ông thầy bắt đầu dạy từ vần mẫu tự abc, cho đến tập đọc, tập viết và đến cả đạo đức đầu đời cho đứa nhỏ. Chính ông thầy này đã đặt viên đá đầu tiên cả về Kiến thức lẫn Đạo đức trên tâm hồn ngây thơ trong trắng của đứa nhỏ.
Biết rõ vai trò quan trọng của ông thầy đầu tiên này, nên cha tôi kiêm nhiệm luôn vai trò đó. Vì thế đối với cha tôi thì tôi không những chịu ơn Sinh thành mà còn mang cả ơn Dạy dỗ nữa.
Rồi chọn ngày lành tháng tốt, khi tôi vừa tròn bốn tuổi đầu, là cha tôi làm lễ “Khai trí” cho tôi. Mẹ tôi sợ tôi còn non nớt quá, nhưng cha tôi giải thích rằng:”Với hoàn cảnh một thầy một trò, tôi sẽ dạy cho nó thật chậm rải, rõ ràng, rành mạch, để cho nó không những hiểu rõ trong hiện tại mà còn nhớ mãi trong tương lai và có thể trong suốt cuộc đời của nó nữa”. Kỹ thuật Sư phạm mà cha tôi áp dụng trong việc dạy dỗ tôi là dựa vào các câu ca dao, thành ngữ trong dân gian để đưa kiến thức vào đầu óc non nớt của tôi, vì ca dao, thành ngữ là những vần thơ giản dị, đầy nhịp điệu, vừa dễ nhớ lại vừa có tính cách thưởng thức nữa. Điều đó làm cho học sinh ham học lại nhớ lâu. Rất tiếc trong thời gian tôi học ở trường Sư phạm ở Saigon, chẳng có Giáo sư nào để ý tới phương pháp dùng ca dao, thành ngữ trong việc giảng dạy cả.
Về Đạo đức thì cha tôi chọn Đạo đức lao động của nhà nông Việt-nam để làm tiêu chuẩn cho đời sống của tôi, mặc dầu lúc bấy giờ gia đình tôi sống ở thành phố Hà-nội. Dựa ngay vào nếp sống của tôi, một đứa nhỏ bốn tuổi đầu, mà cha tôi toan tính đưa vào cái đạo đức đầu đời cho tôi. Lúc còn nhỏ, tôi có tính lơ đãng và lại hay mơ mộng nữa, nên lúc cầm đũa lùa cơm vào miệng, tôi hay làm cơm rơi **** tung toé xuống đất. Cha tôi giải thích cho tôi biết là muốn có được hạt cơm để ăn ngày hôm nay thì phải trải qua nhiều công trình lao động cực nhọc của người nhà nông:
Ai ơi ăn bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Cái nền tảng đạo đức đầu tiên mà cha tôi dạy cho tôi là phải quí trọng hạt gạo, coi “Hạt gạo là hạt vàng”, nếu phí phạm thì sau này không có cơm mà ăn nữa.
Muốn có được hạt gạo thì cả gia đình người nông dân đều phải cần cù góp sức trong việc canh tác trồng lúa ngoài cánh đồng:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Cây lúa là loại cây ưa nước, ruộng phải đủ nước thì cây lúa mới phát triển được. Do đó phải tùy theo thế đất mà dùng gầu tát nước vào ruộng:
Ruộng cao, tát một gầu dai,
Ruộng thấp, thì phải tát hai gầu sòng.
Nhiều khi làm ban ngày không đủ, phải tranh thủ làm đêm như cảnh tát nước dưới đêm trăng:
Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.
Vấn đề thời tiết cũng rất quan trọng đối với nhà nông. Nếu mưa thuận gió hòa thì dẫn đến việc được mùa và đem lại no ấm cho người nông dân:
Ơn Trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu,
Công lênh chẳng quản lâu đâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng,
Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.
Nếu gặp năm hạn hán, thì với đầu óc thật thà, chất phác của người nông dân, họ làm lễ cầu đảo cho Trời gia ân làm mưa xuống:
Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy bát cơm đầy,
Lấy khúc cá to.
Gần như tất cả các thành viên trong gia đình người nông dân đều tham gia vào công việc canh tác. Ngay cả đứa nhỏ khi đi học về, cũng có bổn phận phải chăm sóc con trâu, một con vật là biểu tượng cho nền nông nghiệp Việt-nam. Ta hãy lắng nghe bác nông phu tâm sự với con trâu với những lời lẽ thiết tha như đối với người bạn thân vậy:
Trâu ơi! Ta bảo trâu này:
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta,
Cày cấy giữ nghiệp nông gia,
Ta đây, trâu đấy, ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Tôi còn nhớ, một trong những bài viết tập đầu tay của tôi là bài “Chăn trâu” mà cha tôi lấy trong sách “Quốc văn Giáo khoa thư”:
“Ai bảo chăn trâu là khổ? Không, chăn trâu sướng lắm chứ! Đầu tôi đội nón mê, tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu. Tai nghe chim hót trong vòm cây, mắt trông bướm lượn trên bãi cỏ. Tôi và con trâu thảnh thơi, vui thú, tưởng không còn gì sung sướng cho bằng!”
Bởi vì những câu ca dao, thành ngữ và những bản văn diễn tả công việc của nông dân, dường như đa số đều làm bởi những người sống ở thành thị, nên họ chỉ nhấn mạnh vào những điểm thơ mộng của công tác nông nghiệp, mà quên đi những nỗi nhọc nhằn, cực khổ của người nông dân. Chính vì thế mà qua sự dạy dỗ của cha tôi mà tôi cảm thấy mê công việc ở chốn ruộng đồng.
Sau khi thọ giáo cha tôi được chừng ba tháng, một ngày kia mẹ tôi âu yếm hỏi tôi rằng:”Cha con dạy dỗ con tận tâm như thế, thì sau này con định làm nghề gì?”
Tôi trả lời ngay:”Con sẽ chọn nghề nhà nông.”
“Tại sao?” Mẹ tôi vô cùng sửng sốt hỏi lại.
“Để con được tát nước dưới ánh trăng và được đi chăn trâu.” Tôi đáp.
Mẹ tôi lập tức nắm lấy tay tôi và lôi tôi vào phòng khách để gặp cha tôi. Bà giận dữ chất vấn cha tôi rằng:” Ối Giời ơi! Tôi tưởng ông dạy dỗ con để sau này nó trở thành bác sĩ, kỹ sư, nhưng tôi hỏi nó, thì nó lại muốn thành anh nông dân. Nếu muốn trở thành người nhà nông thì cần gì phải đi học cho tốn cơm, tốn gạo!”
Cha tôi điềm tĩnh giải thích rằng:”Tôi muốn con nó học cái đạo đức của người nhà nông, chứ không phải làm công việc của người nhà nông, vì trong bốn giai cấp “Sĩ, Nông, Công, Thương” thì chỉ có đạo đức của người nông dân là đáng kính hơn cả. Tôi dạy nó phải biết kính trọng người nhà nông, còn nó muốn làm anh nông dân thì với sức vóc gầy yếu của dân thành thị, có muốn cũng không kham nổi công việc đồng áng. Rồi nó sẽ chọn nghề khác thôi, bà đừng bận tâm lo nghĩ.”
Cha tôi còn nói thêm rằng:”Nhà nông mang lại lợi ích thiết thực, đó là cung cấp lương thực cho con người. Mặc dầu xã hội đặt giai cấp Sĩ trên giai cấp Nông, nhưng gặp năm mất mùa đói kém, thì có sự thay bậc đổi ngôi:
Nhất Sĩ nhì Nông,
Hết gạo chạy rông,
Nhất Nông nhì Sĩ.
Mẹ tôi bấy giờ mới hiểu ra cái mục đích dạy dỗ của cha tôi. Từ đó bà trở nên hợp tác chặt chẽ với cha tôi. Cái tính lơ đãng của tôi chưa bỏ được, nên mỗi lần ăn cơm là tôi lại làm rơi **** tứ tung cơm xuống đất. Mỗi lần như thế, mẹ tôi lại cúi xuống, tự lượm từng hạt cơm rơi **** của tôi dưới đất, rồi bà bỏ vào miệng nhai ngon lành. Thấy thế, tôi cảm thấy thương mẹ tôi quá! Bà đã vất vả vo gạo, thổi cơm, rồi xới cơm ra bát, gắp sẵn đồ ăn, rồi đưa đến tận tay cho tôi. Tôi tự nhủ:”Sao mình hư đốn thế! Chỉ có việc ăn cũng không nên thân!”. Từ đó, tôi quyết chí phải bỏ tính lơ đãng, mà chú ý vào từng miếng cơm, nên tôi không còn làm rơi **** phí phạm cơm nữa. Cha mẹ tôi đều vui mừng vì tôi đã tiến bộ cả về học vấn lẫn đạo đức.
Rồi tới ngày hè, tôi được theo mẹ tôi về thăm quê ngoại, để được thấy tận mắt công việc của người nông dân. Quê ngoại tôi thuộc “Làng Cau” ở tỉnh Thái-bình. Gọi là “Làng Cau” vì trong làng trồng rất nhiều cau để ăn trầu. Những cây cau vượt hẳn lên lũy tre xanh. Trong buổi sáng sớm, tôi nhớ mãi cái cảnh thân cau mảnh khảnh cao vút, bị che lấp bởi sương mù, chỉ còn thấy túm lá trên ngọn, trông như những chiếc “thuyền thúng”trôi nổi lờ lững trong không gian trắng đục.
Về quê ngoại, mẹ tôi luôn luôn kiềm chế trông giữ tôi, không cho tôi được tự do chơi đùa với lũ trẻ trong làng. Tôi định gia nhập bọn con trai để chơi trò “bịt mắt bắt dê”, nhưng mẹ tôi không cho. Bà nói:”Tụi nó chỉ chơi trò này một lát rồi ra vườn sau, trèo cây để hái trộm ổi đó. Theo tụi nó thì có ngày ngã gẫy chân đó, con ạ!” Mẹ tôi dẫn tôi đến giới thiệu với bọn con gái để làm quen. Để được an toàn hơn, bà nói:”Chú nó đây là người thành thị nên “chân yếu tay mềm”, các cháu có nô đùa thì “nương tay” một chút nhé!” Cả bọn con gái đồng thanh nói:”Thưa vâng.” Tôi theo bọn con gái chơi trò “nhảy ô”. Lũ trẻ con gái đều mặc quần áo “nâu xồng” giống như những nông dân ở làng mạc ngoài Bắc. Riêng tôi là dân thành thị nên mẹ tôi diện cho tôi cái áo sơ-mi trắng và cái quần tây xanh. Cả bọn con gái cứ trố mắt ra nhìn trang phục của tôi. Chơi trò “nhảy ô” được một lát thì đổi sang trò “nhảy dây”. Đến lượt tôi nhảy, vì không quen, nên vướng phải dây, “té lăn cù” xuống đất, lấm lem cả cái áo sơ mi trắng. Cả bọn vội vàng lấy tay phủi các vết lấm trên áo tôi và dặn rằng: “Mợ có hỏi thì đừng nói là ngã về nhảy dây nhé, không thì mợ lại trách chúng tôi đó.” Giữa lúc ấy thì anh Năm, người anh họ tôi, chăn trâu về. Anh mới có chín tuổi đầu mà rất thành thạo trong việc chăn trâu, nói gì con trâu cũng đều nghe theo, khiến tôi phục anh quá. Tôi bèn chạy lại đón anh và xin anh cho phép tôi được cưỡi trâu. Anh nói:”Tôi phải hỏi xem mợ có cho phép không?” Anh bước vào nhà để thưa trình với mẹ tôi. Tôi thấy mẹ tôi chạy vội ra và la lên rằng:”Cấm tuyệt đối không được cưỡi trâu, lớ ngớ trâu nó đạp cho gẫy xương đó, ở nhà quê đây không có bệnh viện đâu!” Anh Năm bèn dắt trâu vào chuồng và đặt thanh tre chắn ngang để khoá chuồng lại. Tôi rất tiếc vì không được cưỡi trâu, rồi tôi lon ton chạy theo anh để lên nhà nghỉ ngơi. Lợi dụng lúc mọi người không để ý, tôi lẻn ra ngoài chuồng trâu. Vì lưng trâu cao quá đầu tôi nên tôi không thể nào leo lên được. Tôi bèn chạy xuống bếp, mang cái ghế đẩu để bên mình trâu. Tôi leo lên ghế đẩu trước, rồi từ đó tôi leo lên được mình trâu. Tôi cảm thấy vô cùng thích thú và tự hào nữa và tự nói một mình:”Người ta cấm đoán ta cưỡi trâu, thì nay ta tự cưỡi lấy, có sao đâu!” Rồi trong lúc hứng chí, hai gót chân tôi thúc vào bụng trâu, hai bàn tay tôi đập mạnh vào cổ trâu. Con trâu bị nhốt trong chuồng, không đi được, lại bị thúc như vậy, nó bèn kêu lớn lên: Bê…ê…ê…! Nghe tiếng trâu kêu, anh Năm và mẹ tôi chạy vội xuống chuồng trâu. Thấy tôi ngất nghểu ngồi trên mình trâu, mẹ tôi la lớn lên rằng:” Ối Giời ơi! Ngồi mát trên nhà không muốn, lại muốn xuống chuồng trâu để cho trâu nó đạp gẫy chân đó, con ạ!” Anh Năm vội đỡ tôi xuống khỏi lưng trâu, mẹ tôi giận dữ nắm lấy tay tôi lôi lên nhà, rồi bà lấy một giá gạo và bắt tôi phải nhặt trấu và thóc riêng ra, cốt ý để cầm chân tôi. Tôi ngồi mà tiếc ngơ tiếc ngẩn, vì thời gian cưỡi trâu ngắn quá, chỉ tại con trâu mắc dịch kêu lên, nên mọi người mới biết! Trong lúc đang nhặt trấu và thóc, tôi bỗng thấy một con chuột nhắt đang lén ăn những hạt thóc mà tôi vừa vất xuống đất. Tôi đợi nó lại gần, rồi bất thình lình nhẩy ra vồ lấy, nhưng nó thoát được và chạy ra phía cửa. Tôi đuổi theo, chẳng may chân tôi vướng phải bậc cửa và ngã xuống, làm trầy một bên đầu gối. Chỉ có thế, mà mẹ tôi hoảng hốt, bà vội lấy dầu nóng mà nắn bóp vết thương cho tôi, rồi lấy băng keo dán lại. Bà cứ cằn nhằn tôi hoài và dặn rằng:” Đi đứng phải cẩn thận, đừng có chạy vội vã mà dễ bị ngã lắm đó!” Tôi cảm thấy chân tôi đau một phần, thì lòng mẹ tôi đau tới mười phần, tình thương yêu của các bà mẹ Việt-nam đối với con cái thật bao la như trời cao biển rộng!
Một hôm có một ông già đến thăm ông ngoại tôi. Hai ông bảo mẹ tôi đem tôi lên để xem ‘tướng số’. Mẹ tôi bắt tôi khoanh tay lễ phép chào hai ông. Hai ông già này mới “sỗ sàng” làm sao! Ông thì vạch tai, vạch miệng tôi, ông thì bới tóc tôi, lại còn bắt tôi phải xoè hai bàn tay ra để các ông ngắm nghía, đo đạc các đường vân tay tôi.
Ông khách nói:”Căn cứ vào ‘cung nghề nghiệp’ thì thằng bé này theo nghề dạy học mô phạm đây; còn theo ‘cung đời sống’ thì đời nó sau này gặp nhiều hoạn nạn.
Ông ngoại tôi ngắt lời:”Làm thầy giáo có gây thù gây oán với ai đâu mà gặp hoạn nạn?”
Ông khách đáp:”Gặp lúc thiên hạ loạn lạc thì ‘thầy tu’ cũng gặp hoạn nạn nữa là ‘thầy giáo’!”
Sau khi xem tướng số chừng nửa giờ, hai ông già mới chịu buông tha tôi ra, thật hú hồn!
Cuộc thăm viếng quê ngoại mới được chừng nửa tháng thì cha tôi cho người xuống nhắn tôi phải trở về để học hành. Thế là hai mẹ con lại dắt díu nhau trở về Hà-nội để tôi tiếp tục thọ giáo với cha tôi.
Rồi năm tháng cứ êm ả trôi qua trong một gia đình đầy tình thương yêu nồng ấm, nhưng thời cuộc lại trở nên sôi động với sự bùng nổ của chiến tranh Việt Pháp vào năm 1946.
Đến lúc tôi trưởng thành, có được công ăn việc làm, thì chẳng may cha mẹ tôi đều mất cả. Tôi cảm thấy đau buồn và hối tiếc vì tôi không còn có dịp đền ơn đáp nghĩa công ơn sinh thành cũng như dạy dỗ nuôi nấng của cha mẹ tôi được nữa. Và tôi trưởng thành và dạy học không phải ở Hà-nội mà là Sài-gòn. Lý do là vì năm 1954, lúc tôi 15 tuổi, thì Hiệp-định Genève được ký kêt, chia đôi đất nước Việt-nam, tôi đã theo làn sóng di cư của gần một triệu đồng bào miền Bắc vào Nam và định cư ở Sài-gòn. Tôi đã chọn nghề dạy học ở miền Nam theo ý muốn của cha tôi lúc còn sinh thời.
Lúc tôi trưởng thành, vì không có cha mẹ bên cạnh, nên đời sống tôi có phần nào phóng túng. Tôi bỏ qua luôn cái đạo đức mà cha tôi đã dạy tôi “Hạt gạo là hạt vàng, nếu con phí phạm thì sau này con không có cơm mà ăn nữa”. Tôi thấy cha tôi nói thái quá, vì những người nghèo nhất ở miền Nam cũng có đủ cơm ăn, nữa là tôi, một giáo chức đã có công ăn việc làm rồi, làm sao mà đói được! Nhất là miền Nam với đồng bằng sông Cửu-long là “vựa luá” của cả Đông Nam Á Châu thì không thể nào thiếu lương thực được.
Thế rồi tôi cứ tiếp tục đời sống phóng túng, phí phạm. Tôi còn nhớ, tôi cùng vài đứa bạn vào nhà hàng Đồng-khánh ở Chợ-lớn, gọi món “cơm chiên Dương-châu”. Lúc ăn, mấy đứa chúng tôi không những đánh **** cơm tung toé ra bàn, lại còn chỉ ăn chừng nửa dĩa, còn “bỏ mứa” không thèm ăn nửa dĩa còn lại. Và cái hậu quả phí phạm này, đã đúng như lời tiên đoán của cha tôi, một ngày kia, tôi sẽ không có cơm mà ăn nữa!
Sự thể xảy ra là vì chiến tranh ở miền Nam ngày càng trở nên khốc liệt giữa một bên là quân đội c.... s.. miền Bắc xâm lấn và một bên là quân đội Việt-nam Cộng-hòa chống lại. Năm 1964, chính quyền VNCH ra lệnh Tổng động viên trên toàn cõi miền Nam. Tôi phải chấp hành lệnh Tổng động viên này, phải “xếp bút nghiên theo việc kiếm cung” mà vào học khoá 18 trường Sĩ quan Trừ bị Thủ-đức. Trong vòng bốn năm (1964-1968), tôi ở trong hàng ngũ quân đội VNCH chống lại quân đội c.... s.. miền Bắc xâm lược miền Nam. Nhưng đến năm 1968, vì tình trạng thiếu thầy giáo trầm trọng ở miền Nam, nên tôi được biệt phái trở về dạy học, nghĩa là được “xếp kiếm cung trở lại việc bút nghiên”.
Do phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ chống chiến tranh Việt-nam nên Quốc-hội Mỹ cắt ngân khoản viện trợ cho miền Nam, trong khi đó Khối c.... s.. Quốc tế vẫn tiếp tục viện trợ cho miền Bắc. Và việc phải đến đã đến, đó là quân đội c.... s.. miền Bắc thắng cuộc chiến tranh. Ngày 30-4-1975, quân đội c.... s.. chiếm được Sài-gòn và chính quyền VNCH xụp đổ hoàn toàn. Lúc đó tôi đang “cầm phấn” dạy học thay vì “cầm súng” chiến đấu. Sau đó, vì là Sĩ quan biệt phái dạy học nên tôi phải trình diện học tập cải tạo như các Sĩ quan tại ngũ. Và việc cải tạo này không phải chỉ có 10 ngày như mọi người lầm tưởng mà là đi “mút mùa”. Riêng tôi lại còn “xui xẻo” hơn nữa, vì phải di chuyển đi học tập cải tạo ở tận miền Bắc, ở một khu rừng già thuộc tỉnh Hoàng-liên-sơn ở miền Thượng du Bắc Việt, giáp với biên giới Trung quốc. Ở đây chúng tôi phải lao động chặt giang để có nguyên liệu làm giấy. Chỉ tiêu một ngày cho mỗi cải tạo viên là 40 cây giang. Thật ra trại cải tạo ở đây chỉ là một đơn vị phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước Cách mạng, vì nơi đây là chốn rừng thiêng nước độc, rất dễ bị sốt rét ngã nước nên không thể mướn nhân công ở miền xuôi lên được. Nay có một thứ nhân công không phải trả lương, lại làm việc cật lực từ 6 giờ sáng đến 5 giờ chiều và làm 7 ngày một tuần, không có ngày nghỉ. Chúng tôi có hỏi cán bộ quản giáo, sao nói là học tập cải tạo mà chỉ thấy lao động chân tay triền miên, không thấy học tập sách vở gì cả, thì được trả lời rằng:”Các anh theo chân Đế quốc Mỹ, bóc lột sức lao động của nhân dân miền Nam, nay chính các anh phải lao động để hiểu rõ ý nghĩa của lao động và biết rõ tội lỗi của các anh nữa.” Có điều lao động cực nhọc như thế mà ăn uống lại rất thiếu thốn, mỗi bữa chỉ được hai khúc sắn luộc với một ít mắm chược (một loại mắm cá thối), lại cũng không đủ no nữa! Cơm ở đây chỉ là một thứ thực phẩm xa xỉ mà chúng tôi chỉ được ăn vào dịp Tết Nguyên-đán Âm lịch.
Từ thủa cha sinh mẹ đẻ ra, chúng tôi ngày nào cũng được ăn cơm. Hương vị cơm đã thấm vào làn da, vào thớ thịt, nên khi không còn được ăn cơm nữa, chúng tôi cảm thấy thèm cơm vô cùng! Riêng tôi còn thêm ý tưởng ăn năn nữa, vì lúc sống ở Sài-gòn đã phí phạm hạt cơm, không nghe theo lời dạy dỗ của cha tôi. Chúng tôi có đề nghị với ban Chỉ huy trại là ngoài việc trồng sắn ra, xin cho chúng tôi được trồng thêm lúa và ngô nữa, nhưng ban Chỉ huy trại đã từ chối:” Ở khu rừng già này, trồng lúa và ngô thì không có ăn đâu!” Chúng tôi cố nài nỉ và hứa là sẽ làm vượt chỉ tiêu để ban Chỉ huy lấy tiền dư ra mà mua hạt giống lúa và ngô cho chúng tôi. Cuối cùng ban Chỉ huy trại đồng ý và cử ra một đội gọi là đội Nông nghiệp gồm 50 cải t*o viên để lo việc trồng trọt cây lương thực cho trại.
Khi cây lúa mới trổ đòng đòng và cây ngô mới có hạt non, thì một ngày kia chim rừng bay tới, không phải vài chục con hay vài trăm con, mà là cả một đám mây chim gồm cả chục ngàn con. Mấy anh trồng trọt lúc đầu còn cố gắng bảo vệ mùa màng, nhưng sau lo bảo vệ chính mình, ôm mặt mà chạy. Một lát sau, khi đàn chim đã bay đi, mọi người trở lại thì hỡi ơi! Ruộng lúa, ruộng ngô chẳng còn gì nữa! Chim đã ăn hết cả hạt, cả lá, chỉ còn trơ chút gốc trên mặt ruộng.
Trồng khoai lang cũng không được ăn nữa, vì khi củ khoai mới vừa bằng ngón tay thì khi đêm đến, heo rừng tới phá và ăn sạch. Ngay khi trồng sắn, thì loại sắn vỏ trắng và vỏ nâu cũng bị heo rừng ăn, riêng chỉ có loại sắn vỏ đỏ xậm là chúng chê vì có chất độc.
Lúc mới đến Hoàng-liên-sơn, chúng tôi được cung cấp sắn khô để ăn trong 3 tháng, để chờ mùa thu hoạch. Loại sắn khô này đã mốc xanh, chúng tôi nói đùa rằng, ăn loại này giống như ăn nút chai, vì chẳng có mùi vị gì, cố gắng nuốt để dằn cơn đói.
Đến lúc thu hoạch, được ăn sắn tươi thì loại sắn vỏ đỏ xậm này có chất độc đối với heo thì cũng độc luôn đối với người. Ăn loại sắn này được chừng một tuần, thì tất cả hơn 600 cải tạo viên trong trại đều nổi hạch ở cổ giống như lên quai bị. Cán bộ ở trại gồm ban Chỉ huy trại, quản giáo và bộ độ bảo vệ gồm chừng 30 người không hề gì, vì họ có khẩu phần riêng, được ăn cơm độn với ngô và khoai lang. Trại có bốn bác sĩ vốn là sĩ quan quân y phục vụ ở các Tiểu đoàn Nhẩy dù và Thủy quân Lục chiến, cũng lưu lạc cải tạo ở đây, các anh cho biết:”Nổi hạch ở cổ là phản ứng tự nhiên của cơ thể con người để ngăn chất độc lên óc. Nhưng chỉ chừng một tuần lễ sau hạch sẽ vỡ và chất độc sẽ lên tới óc, lúc đó sợ rằng tính mạng chúng ta nguy mất. Chúng tôi bèn kéo lên ban Chỉ huy trại để xin giúp đỡ. Viên Thượng tá Trưởng trại phán rằng:”Các anh bằng cấp đầy người mà sao ngu quá! Bộ đội chúng tôi vượt Trường-sơn vào giải phóng miền Nam, cũng chỉ ăn có loại sắn này mà vẫn sống và lại còn chiến thắng các anh nữa.” Một anh bác sĩ cải tạo lúng túng nói rằng:”Tình thực chúng tôi không biết, xin cán bộ chỉ giáo cho.” Lúc đó viên Trưởng trại mới giải thích:” Để làm hết chất độc của sắn, trước hết các anh phải lột vỏ, rồi cho sắn vào cái xọt lớn, đặt giữa dòng suối một ngày một đêm. Nước suối chảy sẽ cuốn trôi các chất độc đi, sau đó mới luôc và ăn được an toàn, hiểu chưa!” Quả nhiên áp dụng cách thức này, các hạch ở cổ chúng tôi dần dần xẹp xuống và chúng tôi thoát hiểm. Đúng là “trăm hay không bằng tay quen”.
Rồi ngày tháng trôi qua, thấm thoát mà ngày Tết Nguyên-đán sắp tới và chúng tôi có cơ hội được ăn cơm. Ngày Tết trong trại cải tạo có nhiều kỷ niêm không bao giờ quên được. Như Tết Âm lịch năm Đinh Tỵ ( Tết Con Rắn, vào đầu tháng 2 năm 1977), ngay từ sáng sớm hôm mồng một Tết, ban Chỉ huy trại tập hợp tất cả các trại viên lại và đích thân Trưởng trại tuyên bố: ”Để tưởng thưởng cho anh em cải tạo đã làm đầy đủ chỉ tiêu, Ban Chỉ huy trại cho anh em được nghỉ trọn ngày mồng một Tết và thêm phần bồi dưỡng là anh em sẽ được ăn cơm và làm thịt 3 con chó”. Nói xong, một cán bộ trực dắt 3 con chó đến trao cho chúng tôi. Đó là loại chó mực miền núi, trông ốm tong teo, vì người còn chẳng đủ ăn nên ảnh hưởng đến cả loài chó.
Chúng tôi bèn cử ra 10 người có khả năng nấu nướng để lo việc làm thịt chó. Sau khi đã cắt tiết và thui xong 3 con chó thì hai cán bộ trực trại xuống để chia phần. Mỗi con chó đều bị họ cắt đi 4 cái đùi và lấy luôn cả bộ lòng nữa. Người bình dân miền Bắc rất thích ăn lòng chó, vì thế mới có câu ca dao:
Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó,
Chết xuống Âm phủ, biết có hay không!
Nhìn 3 con chó bị lấy đi 4 cái đùi và toàn thể bộ lòng nên không còn giống con gì cả. Chúng tôi thì thầm với nhau:”Cán bộ trại sao mà tham thế, chỉ có khoảng 30 người mà lấy đi tất cả các phần ngon của 3 con chó, phần còn lại chia cho tới hơn 600 cải tạo viên chúng tôi. Nhưng chúng tôi tự an ủi với nhau rằng:”Có còn hơn không”. Rồi chúng tôi quyết định nấu súp chó cho có đủ phần cho hơn 600 anh em chúng tôi. Chúng tôi cho vào hai cái chảo lớn, rồi cho thêm rau rừng nữa, để nấu súp chó, và hai chảo còn lại để nấu cơm. Tất cả anh em cải tạo đều bu vào bếp, để hưởng mùi thơm của cơm và súp chó bay ra, mà cả năm nay chúng tôi mới được thưởng thức. Buổi trưa chúng tôi vẫn phải ăn sắn, vì bữa cơm mừng Tết dành cho buổi chiều. Lúc chia phần, mỗi người được hai lưng chén cơm đựng vào lá chuối và một chén nước súp với một miếng thịt chó to bằng “lóng ngón tay út”.
Khi được chia phần xong, nhóm chúng tôi gồm có Đại uý Khương, Thiếu tá Thiệt, Trung tá Bách và tôi đã quyết định chỉ ăn một lưng chén cơm với súp chó. Còn lưng chén cơm còn lại thì gói vào lá chuối để dành tới tối vào lán “nhâm nhi” với nhau cho đã cái thèm cơm cả năm trời (lán là một nhà tranh nhỏ theo tiếng miền Bắc). Chúng tôi đang chung vui bữa ăn mừng Năm Mới , thì bỗng có người gọi tên tôi. Tôi nhìn ra thì thấy ở góc sân bên kia, Đại đức Tâm, một Đại uý đồng hóa của Nha Tuyên úy Phật giáo, đang vẫy gọi tôi. Tôi hơi ngạc nhiên vì tôi không chơi thân với Đại đức, sao ông lại gọi tôi tới làm gì? Lý do không chơi thân là vì vào tù cải tạo mà Đại đức vẫn cố giữ đức độ của một vị tu hành, điều mà tôi không thể nào bắt chước được. Khi lại gần, Đại đức Tâm đưa chén súp chó cho tôi và nói:”Cậu ăn dùm tôi cái này.” Tôi mừng quá, như bắt được vàng, quên cả cám ơn, bèn cầm đũa gắp miếng thịt chó sang chén tôi, và sửa soạn đổ chén súp của ông sang chén tôi. Bỗng tôi cảm thấy tay tôi run lên, khi tôi nhìn thấy thân hình gầy còm, chỉ còn da bọc xương của vị tu sĩ này. Lương tâm tôi như nói với tôi rằng:” Đối với vị tu sĩ khả kính này, mình đã không giúp đỡ được gì, lại còn ăn phần của ông nữa, mặc dầu ông có lòng tốt cho mình”. Nghĩ vậy, tôi chỉ lấy miếng thịt chó thôi, còn chén súp tôi trao lại cho Đại đức Tâm và nói rằng:”Thầy ạ! ‘Đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy’! Vào tù cải tạo rồi, mà Thầy còn giữ qui luật ăn chay thì làm sao còn đủ sức đi lao động. Thôi thì miếng thịt chó tôi đã lấy rồi, còn lại chỉ là nước súp, Thầy dùng đi, một năm chỉ có một lần”. Nghe tôi nói ‘bùi tai’, thế là Đại đức Tâm đưa chén lên miệng, húp một hơi hết cả chén nước súp. Húp xong chén súp, bỗng nhiên tôi thấy người ông run rẩy, nước mắt trào ra. Tôi vội nói:”Quả thật, tôi thấy Thầy gầy yếu quá, nên tôi khuyên Thầy ăn súp để lấy sức đi lao động, chứ thật tình tôi không dám xúi Thầy phạm giới đâu!” Ông ôm choàng lấy tôi, rồi vừa nức nở vừa nói rằng:”Lỗi tại tôi vì tôi yếu lòng, không phải lỗi của cậu đâu!” Rồi ông cứ nức nở khóc trên vai tôi, nước mắt chảy ướt cả vai áo tôi. Trước cảnh đau lòng đó, tôi cố gắng vỗ về, an ủi ông và cảm thấy ăn năn vô cùng. Giữa lúc đó, nhóm bạn của tôi gọi tôi, nên tôi phải rời ông, nhưng tôi cũng cố gắng an ủi ông rằng:” Đức Phật độ lượng, trước hoàn cảnh cực khổ này, chắc Ngài cũng không chấp nhất những hành động nhỏ nhặt này đâu, Thầy cố giữ thân tâm an lạc.”
Về gia nhập với nhóm bốn đứa thì thời gian đã tới 7 giờ chiều, đã dến lúc phải vào lán để cán bộ quản giáo khóa cửa lại. Khi cửa đã khóa rồi thì trong lán tối om, bọn bốn đứa chúng tôi phải đi lại chỗ góc lán có treo ngọn đèn dầu lạc nhỏ để chỉ chỗ đi tiêu đi tiểu của anh em, để có ánh sáng mà thưởng thức lưng chén cơm còn lại. Mỗi lần ăn, chúng tôi chỉ dùng hai ngón tay nhón lấy chừng 4 hoặc 5 hạt cơm rồi cho vào miệng, nhai nát như cháo, để cho đã cái thèm lâu ngày mới được ăn cơm. Vừa ăn chúng tôi vừa kể những chuyện vui ngày Tết cho nhau nghe và lấy làm đắc ý lắm. Đang lúc vui chuyện, vì lơ đãng, tôi đánh rớt một hạt cơm xuống đất. Tôi vội vàng lấy cái đèn độc nhất treo trên vách xuống và soi tìm hạt cơm rơi. Các bạn tôi kêu lên:”Cậu đem đèn đi đâu đấy, để tụi này còn có ánh sáng mà thưởng thức cơm nữa chứ!” May quá, tôi tìm được hạt cơm dưới đất. Sau khi treo lại đèn vào chỗ cũ, tôi bỏ hạt cơm vào miệng nhai ngon lành. Bỗng nhiên tôi cảm thấy như có tiếng nói của cha tôi vang lên:”Hạt gạo là hạt vàng, nếu con phí phạm, thì sau này không có cơm mà ăn nữa!”, và rồi hiện lên hình ảnh của mẹ tôi đang lượm những hạt cơm rơi **** của tôi ở dưới đất và cho vào miêng nhai ngon lành. Bỗng nhiên nước mắt tôi trào ra, không sao kìm lại được. Tôi vội vàng quay mặt vào vách để các bạn tôi không nhìn thấy sự yếu lòng của tôi. Ngày Tết rồi cũng qua đi, mang lại cho tôi nhiều nỗi buồn hơn là niềm vui. Và chúng tôi lại tiếp tục đi lao động chặt giang, 7 ngày một tuần, mỗi ngày từ 6 giờ sáng đến 5 giờ chiều, cố sao cho đủ chỉ tiêu 40 cây giang một ngày, và lại mong ngóng chờ ngày Tết năm tới.
Rồi đến Tết năm tới, Tết Mậu Ngọ (Tết Con Ngựa, vào đầu tháng 2 năm 1978), một kỷ niệm nữa lại đến với tôi. Số là trước Tết một tuần lễ, khoảng 23 tháng chạp Âm lịch, tôi được ban Chỉ huy trại chọn trong nhóm 20 người tham dự cuộc “Hành quân lấy gạo” để cho trại ăn Tết. Vì trại không có bao tải, nên cán bộ phụ trách ra lệnh cho chúng tôi, mỗi người phải mang theo một cái quần dài, lấy dây cột hai ống quần và lưng quần lại để đựng gạo. Tôi mừng lắm vì đây là cơ hội cho tôi được thấy nếp sống của đồng bào miền Bắc vì những cuộc chuyển trại đều di chuyển vào ban đêm nên không biết được sinh hoạt của người dân bên ngoài.
Nhóm chúng tôi khởi hành từ 6 giờ sáng, có hai chú bộ đội bảo vệ cầm súng AK đi kèm, một chú đi đầu dẫn đường, một chú đi áp chót để kiểm soát. Chúng tôi vượt rừng già, qua cả thảy 5 con suối, đi chừng 10 cây số thì ra đến đường quốc lộ trải nhựa, rồi cứ men theo đường lộ mà đi chừng 8 cây số nữa thì đến một huyện lỵ tên gọi là huyện Văn-chấn thuộc tỉnh Hoàng-liên-sơn, đây là địa điểm lãnh gạo. Tại nơi đây, tôi thấy nhiều đồng bào xếp hàng, mỗi người đều có mang theo một cái chai không. Tôi hỏi thì được trả lời rằng:”Tết năm nay, được Đảng và Nhà nước chiếu cố, nên mỗi gia đình được mua với giá chính thức nửa chai xi-rô (sirop: một loại nước ngọt đậm đặc) để mừng Tết”. Tôi ngạc nhiên khi thấy đồng bào đều mặc áo tơi (một loại áo kết bằng lá để mặc khi trời mưa), mặc dầu hôm đó trời quang đãng. Nhìn kỹ thì thấy bên trong mỗi người chỉ mặc một cái quần dài mỏng manh, với một cái áo cánh mầu nâu. Thời tiết vào dịp Tết ta ở miền Bắc thuộc mùa đông nên khá lạnh. Da của đồng bào tím lại vì mặc không đủ ấm và tay chân run lập cập với cái thể xác gầy gò ốm yếu. Tôi tự than thầm rằng:”Chao ôi! Tôi cứ tưởng cảnh tù tội như tôi mới đói khổ, nào ngờ cuộc sống của đồng bào bên ngoài cũng có khá gì hơn?” Tôi bèn lên tiếng hỏi:”Trời mùa đông sao các bác không mặc áo lạnh”. Một ông già giận dữ trừng mắt nhìn tôi và đáp rằng:”Vì chúng tôi phải hy sinh, ‘hạt gạo cắn làm đôi’ để chi viện cho nông dân miền Nam ‘chống Mỹ cứu nước’ nên mới nghèo khổ thế này đây!” Tôi trả lời:”Các bác lầm rồi, nông dân miền Nam không đói khổ đâu mà phải nhờ đến sự chi viện gạo của miền Bắc”. Ông lão nói như quát:”Vì bọn lính ngụy các anh theo chân Đế quốc Mỹ bóc lột nông dân, nên các anh đâu có rõ sự đói khổ của đồng bào miền Nam”. Tôi cố gắng giải thích cho đồng bào rõ rằng, miền Nam nhờ có đồng bằng trù phú của sông Cửu-long, nên đời sống của nông dân nhiều nơi còn khá giả hơn cả thành thị. Để dẫn chứng, tôi cho đồng bào biết rằng, có những gia đình nông dân ở Hậu-giang, thuê bao luôn cả xe đò cho gia đình lên Sài-gòn, ở khách sạn, chỉ cốt được xem tuồng Cải lương của Đoàn Thanh Minh Thanh Nga. Tôi hăng say giải thích cho đồng bào nên tôi quên mất nhóm cải tạo chúng tôi cùng với hai chú bảo vệ đang ngồi chờ lãnh gạo ở góc sân phía trước. Đến lúc chú bộ đội bảo vệ gọi tôi và giơ tay vẫy, tôi mới vội vàng chạy lại gia nhập nhóm chúng tôi. Chú bảo vệ giận dữ chất vấn tôi:”Anh có nhớ qui luật của trại là chỉ khi nào được phép, thì anh mới được liên hệ với đồng bào, nếu anh tự ý liên hệ thì anh có thể bi tù kỷ luật”. Nghe nói đến ba chữ “tù kỷ luật” là tôi rụng rời cả tay chân, vì tôi đã có kinh nghiệm về loại tù này. Số là mới chỉ cách đây ba tháng, nhân một chuyến đi chặt giang về, ngồi chờ cán bộ quản giáo “nhiệm thu”, tôi có thắc mắc với anh em cải tạo rằng:”Chỉ tiêu của chúng ta là 40 cây giang một ngày, mỗi cây giang chiều dài 6 mét, đường kính một gang tay trị giá 4 hào. Tổng công giá trị 40 cây là 16 đồng, thế mà khẩu phần sắn của chúng ta cả ngày chỉ đáng 2 hào. Thế thì số tiền sai biệt 15 đồng 8 hào đi về đâu?”. Tôi thấy anh em cải tạo đều mỉm cười, vì ai nấy đều thừa hiểu rằng, các trại học tập cải tạo chỉ là những đơn vị phát triển kinh tế, mang lại không biết bao nhiêu là lợi lộc cho Đảng và Nhà Nước Cách mạng, vì họ có được một lực lượng lao động không phải trả lương, bắt đi làm việc ở nơi nào cũng được, bắt sống trong điều kiện khổ cực nào cũng phải chịu đựng, anh em cải tạo biết rõ những điều đó, nhưng không ai dám nói ra. Nay tôi nói đúng tâm lý của anh em nên anh em tỏ ra hài lòng. Không ngờ có kẻ báo cáo lên Ban Chỉ huy trại . Vì thế tôi bị gọi lên Ban để cán bộ kỷ luật chất vấn. Mặc dầu tôi đã xin nhận lỗi và hứa sẽ không bao giờ tái phạm, nhưng cán bộ kỷ luật vẫn kết án tội của tôi:”Ngay trong khi còn đang học tập cải tạo, mà anh còn dám nói xấu Đảng và Nhà Nước Cách mạng, nếu sau này được khoan hồng thả ra, thì anh còn nói xấu đến đâu nữa!” Và kết quả là tôi bị 10 ngày tù kỷ luật cùm hai chân. Bản án được đọc vào buổi sáng, trước toàn thể cải tạo viên đang tập họp sửa soạn đi lao động, để răn đe mọi người.
Tù kỷ luật như vậy thì khẩu phần giảm xuống một nửa, nghĩa là chỉ có một bữa sắn cho cả ngày, lại không được mang theo mùng mền, nên đành chịu trận cho muỗi đốt. Muỗi rừng con nào cũng to gần bằng con ruồi nên chích rất buốt. Ban đêm tôi cứ phải quơ tay để đuổi muỗi, giống như người tập thể dục vậy và ngủ vào ban ngày. Nhưng cái cực khổ nhất của tù kỷ luật vẫn là việc mỗi ngày chỉ được tháo cùm một lần vào buổi sáng để ra suối làm vệ sinh cá nhân. Đối với người bình thường thì một ngày đi tiêu một lần là đủ, nhưng tiểu tiện không thể đi một lần được, nên phải tiểu tiện tại chỗ, vì hai chân bị cùm không thể di chuyển được và chỉ có hai vị thế là ngồi và nằm Với nhân số tù kỷ luật lúc đó vào khoảng 12 người, nên mùi xú uế trong nhà giam xông lên nồng nặc. Mỗi buổi sáng được tháo cùm để ra ngoài làm vệ sinh cá nhân. Vừa ra khỏi nhà giam, mùi xú uế của thân thể chúng tôi bốc lên, làm cho lũ ruồi nhặng ở khắp nơi bay đến bao quanh. Ngay chính chú cán bộ kỷ luật cũng phải một tay bịt mũi, một tay xách khẩu AK, dẫn chúng tôi ra bờ suối ở gần cổng trại. Đến nơi, chú cán bộ kỷ luật ra lệnh:”Tôi cho các anh 20 phút để làm vệ sinh cá nhân, ỉa đái thì ra bụi rậm bên bờ suối kia, rồi sau đó xuống suối mà tắm rửa, phải khẩn trương lên!” Chúng tôi cố gắng tranh thủ thời gian, đi tiêu đi tiểu chừng 5 phút, rồi nhào xuống suối tắm rửa. Vừa ra giữa dòng suối, được hưởng bầu không khí trong lành của buổi sớm, tôi vục ngay miệng xuống uống một hơi làn nước suối mát rượi này. Tôi bỗng cảm thấy tinh thần sảng khoái vô cùng và buột miệng kêu lên rằng:” Ối Giời ơi! Xin cám ơn Trời!” Lúc này tôi mới ngộ nhận rằng “con người cần phải có sự đau khổ”, bởi vì họ nhận được biết bao Ơn Phước của Thượng Đế ban cho, nhưng rất ít khi họ cám ơn; Chỉ khi nào Ơn Phuớc đó bị mất đi, rồi bỗng nhiên tìm lại được, họ mới biết chân thành ngỏ lời cám ơn Thượng Đế mà thôi! Chúng tôi đang thưởng thức cái thú được tắm trong làn nước suối mát rượi này thì cán bộ kỷ luật lên tiếng:”Hết 20 phút rồi, lên bờ mặc quần áo, và xếp hàng về trại!”
Về đến nhà kỷ luật, đưa hai chân vào cùm cho cán bộ khóa lại, rồi khi cửa nhà giam đóng lại, không gian trở nên tối om, mùi xú uế lại xông lên nồng nặc và chúng tôi lại chờ đợi một ngày một đêm mới được phép ra suối làm vệ sinh thân thể. Lúc này tôi cảm thấy thấm thía và nghĩ rằng tù kỷ luật như thế này mới đúng nghĩa với câu thành ngữ “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”
Vì đã có kinh nghiệm về tù kỷ luật, nên khi nghe chú bộ đội bảo vệ nói rằng tôi vi phạm qui luật của trại, dám liên hệ với đồng bào khi chưa có phép, và có thể bị đề nghị tù kỷ luật, tôi rụng rời cả tay chân, vội vàng nói dối rằng:”Nhân dịp Tết nên tôi hỏi thăm sức khỏe và chúc Tết đồng bào”.
_”Chúc Tết cũng phải xin phép!” Chú bộ đội nói.
Tôi giả bộ lễ phép trả lời:”Tôi xin chấp hành nghiêm túc lệnh của cán bộ”.
Thấy thái độ lễ phép của tôi, nên chú bảo vệ bỏ qua vi phạm này.
Giữa lúc đó nhóm chúng tôi được gọi vào để lãnh gạo. Gạo được đựng trong hai ống quần và cân đủ 20 ki-lô. Sau đó quàng hai ống quần qua cổ đưa ra trước ngực, rồi xếp hàng một mà đi về trại. Hai chú bảo vệ còn dặn rằng:”Phải bảo quản gạo cho tốt, khi về đến trại, chúng tôi cân lại, phải đủ 20 ki-lô đấy”.
Lúc đi đường, tôi cảm thấy cái đói cồn cào nổi lên vì hai khúc sắn ăn khi sáng chẳng thấm vào đâu cả. Bỗng nhiên tôi ngửi thấy mùi gạo sống và cám bốc ra từ hai ống quần đang mang qua cổ, sao mà thơm quá! Tôi lén tháo sợi dây cột ống quần, rồi nhẹ nhàng cho tay vào trong, nắm lấy một nắm gạo và cho vào miệng nhai. Chao ôi! Sao mà ngon thế! Rồi qua nắm gạo thứ nhất, tiếp đến nắm thứ hai, thứ ba, thứ tư… cho đến khi tôi ăn chừng hơn một ki-lô gạo sống vào trong bụng. Thú thật, đây là lúc mà tôi được ăn no đủ và ngon lành nhất trong suốt thời gian cải tạo của tôi. Trong lúc ăn, tôi lén nhìn thì thấy anh bạn cải tạo phía trước và phía sau tôi và cả toán 20 người đều ăn vụng gạo như tôi cả. Thì ra, trước hoàn cảnh đói kém, con người đều có phản ứng giống nhau! Vì ăn lén, vội vàng, sợ hai chú bảo vệ bắt gặp, nên những nắm gạo lấy từ ống quần ra, rồi cho vào miệng, bị rơi **** khá nhiều xuống đất, làm thành một dải màu trắng theo đường đi. Cũng may, hai chú bảo vệ vừa đi vừa ca những bài ca chiến thắng, nên không để ý phía dưới đất. Bỗng anh bạn cải tạo phía trước nói nhỏ với tôi rằng:”Hai chú bảo vệ đều nói về đến trại, các quần đựng gạo phải được cân lại và phải đủ 20 ki-lô, bây giờ chúng ta đã ăn cả ki-lô gạo vào bụng rồi, thì làm sao mà cân đủ đây! Nghe anh nói thế mà tôi càng thêm lo. Cái tội tham ô, lấy trộm gạo của trại mà ăn riêng cho mình, chắc ít nhất cũng bị nửa tháng tù kỷ luật. Bỗng tôi cảm thấy khát nước, vì hơn một ki-lô gạo sống ở trong bụng nở trương phình cả bụng ra, giống như người đàn bà có mang vậy. Tôi bỗng nghĩ ngay ra một kế và nói nhỏ với anh bạn ở phía trước rằng:”Khi nào đến dòng suối thì xin hai chú bảo vệ cho dừng chân để uống nước, rồi nhân đó cả nhóm nhễu nước suối vào gạo để bù vào số gạo thất thoát. Ngay khi đến dòng suối thứ nhất, chúng tôi xin phép được dừng chân để uống nước. Rồi sau đó, vừa uống nước, vừa nhễu nước vào gạo. Nhờ kế sách này, mà khi về đến trại, gạo được cán bộ cân lại, chúng tôi vẫn có đủ 20 ki-lô mỗi người, thế là thoát hiểm. Tuy nhiên, Tết năm đó cả trại phải ăn gạo mốc. Mọi người đều trách cứ vào huyện Văn-chấn, đã bảo quản gạo không tốt, nên anh em đã phải ăn gạo mốc. Nhưng bọn chúng tôi thuộc nhóm 20 người tham dự cuộc “Hành quân lấy gạo” này, đều tỏ vẻ ăn năn, vì chính chúng tôi mới là thủ phạm làm gạo mốc. Nhưng riêng tôi, thì tôi lại ăn năn gấp đôi, vì không những có lỗi với anh em cải tạo, mà việc đánh rớt gạo sống trên đường trong lúc ăn vụng, rõ ràng là một sự phí phạm, nó đã vi phạm vào cái đạo đức “Hạt gạo là hạt vàng” mà cha tôi đã dạy tôi, và chắc hẳn đời tôi còn phải tiếp tục chịu đựng cái đói khổ triền miên này đây! Tuy nhiên, tôi còn tự chống chế rằng:” Gạo rớt trên đường đi, chắc chắn chim rừng thế nào cũng bay xuống mà ăn, đâu có phí phạm gì? Thế là tôi cũng tạm yên lòng và có đủ can đảm tiếp tục sống, để tin rằng tương lai của mình có thể tươi sáng hơn.
Bắc Cali, ngày 12-7-2012
TT Đại
Thanked by 2 Members:
|
|
#45
Gửi vào 16/06/2019 - 21:20
(Lê Nguyễn:) Ôi, đời như giấc mộng!
Ngày này 44 năm trước (15/6/1975), có người ra đi, "mang theo tiền và vật dụng đủ xài trong 1 tháng!"
Đó là một trong ba ngày khó quên: 13, 14, 15.6.1975. Các sĩ quan cấp tá và viên chức từ Phó Ty, Phó Quận trở lên được lệnh trình diện học tập cải tạo (HTCT) và “hồ hỡi, phấn khởi” với câu “mang theo tiền và vật dụng đủ xài trong một tháng” (một tháng có là bao!). Các viên chức hành chánh trình diện tại hai nơi: trường Gia Long ngày 13 và 14.6, trường Trưng Vương ngày 15.6.
Năm đó có mấy chuyện tức cười: ngày 13 trúng vào thứ sáu, ngày tối kỵ của dân Công giáo; ngày 14 lại là mùng 5 tháng 5 (dân nhà Phật ngại), thành thử nhiều người để đến ngày chủ nhật 15.6 mới trình diện cho “an toàn xa lộ”. Thành thử sáng chủ nhật 15.6 hôm đó, dòng người xếp hàng rồng rắn chờ vào trình diện xin được “đi tù” trải dài từ cửa Thảo Cầm viên (Sở thú) đến đường Hồng Thập Tự (Nguyễn Thị Minh Khai). Người ta cho vào từng 5 người một. Các dân biểu, nghị sĩ thuộc “thành phần thứ ba” như Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung… được miễn, các dân biểu, nghị sĩ khác được Ban Quân quản Quốc Hội cấp cho giấy giới thiệu được ưu tiên… đi ở tù. Một số người trong thành phần này đã làm một việc khó coi là nhảy ngang vào đám đông đang xếp hàng, giơ giấy giới thiệu ra, đòi được vào sớm. Tất nhiên là quần chúng nhao nhao phản đối, mấy ông giữ trật tự giơ súng bắn chỉ thiên, lá me rụng ào ào lên đầu lên cổ! Một hình ảnh thật… lãng mạn.
Nhiều người không “trúng tuyển” cũng cố nài nỉ được … vào tù. Chị Q., Chánh sự vụ một sở thuộc Bộ Xã hội, không nằm trong thành phần trình diện, nhưng vẫn cố nài nỉ được vào, cuối cùng cũng được thỏa mãn. Vào đó một thời gian, chị té ngữa vì “Sở bảo trợ mẫu nhi” của chị dính vào một bản án dư luận ghê gớm lúc ấy, đó là vụ “bắt cóc trẻ em” trong chiến dịch Babylift! Ông ĐVB, Tổng thư ký Tòa Đô chánh (ngang Tổng Thư ký Bộ) vào trình diện, bị nạp ngay: “Tổng thư ký là sếp thư ký, trình diện làm chi, về!”. Ông B. muốn ở tù quá, vào giải trình tiếp: “chức TTK của tôi ngang với Tổng Giám Đốc”, thế thì “vào” …
Chiều hôm đó, số người được nhận vào trường Trưng vương quá thừa, cái đuôi còn lại bị cắt, lủi thủi trở về. “Tai mắt nhân dân” lúc đó rất sắc bén, những ông quay trở về, ngay đêm đó bị gõ cửa vì tội “trốn trình diện HTCT”, và bị tống hết vào khám Chí Hòa cho muỗi cắn một đêm, sáng hôm sau truy ra nguyên nhân, mới được cho trở về chờ trình diện đợt sau… Chuyện trình diện đi ở tù còn lắm điều cười ra nước mắt!
Ngài Phó GĐ xem có thể tái hiện họat cảnh trên trong một khúc phim tư liệu nào đó chăng, tớ xin tình nguyện làm đạo diễn!
Ngày này 44 năm trước (15/6/1975), có người ra đi, "mang theo tiền và vật dụng đủ xài trong 1 tháng!"
Đó là một trong ba ngày khó quên: 13, 14, 15.6.1975. Các sĩ quan cấp tá và viên chức từ Phó Ty, Phó Quận trở lên được lệnh trình diện học tập cải tạo (HTCT) và “hồ hỡi, phấn khởi” với câu “mang theo tiền và vật dụng đủ xài trong một tháng” (một tháng có là bao!). Các viên chức hành chánh trình diện tại hai nơi: trường Gia Long ngày 13 và 14.6, trường Trưng Vương ngày 15.6.
Năm đó có mấy chuyện tức cười: ngày 13 trúng vào thứ sáu, ngày tối kỵ của dân Công giáo; ngày 14 lại là mùng 5 tháng 5 (dân nhà Phật ngại), thành thử nhiều người để đến ngày chủ nhật 15.6 mới trình diện cho “an toàn xa lộ”. Thành thử sáng chủ nhật 15.6 hôm đó, dòng người xếp hàng rồng rắn chờ vào trình diện xin được “đi tù” trải dài từ cửa Thảo Cầm viên (Sở thú) đến đường Hồng Thập Tự (Nguyễn Thị Minh Khai). Người ta cho vào từng 5 người một. Các dân biểu, nghị sĩ thuộc “thành phần thứ ba” như Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung… được miễn, các dân biểu, nghị sĩ khác được Ban Quân quản Quốc Hội cấp cho giấy giới thiệu được ưu tiên… đi ở tù. Một số người trong thành phần này đã làm một việc khó coi là nhảy ngang vào đám đông đang xếp hàng, giơ giấy giới thiệu ra, đòi được vào sớm. Tất nhiên là quần chúng nhao nhao phản đối, mấy ông giữ trật tự giơ súng bắn chỉ thiên, lá me rụng ào ào lên đầu lên cổ! Một hình ảnh thật… lãng mạn.
Nhiều người không “trúng tuyển” cũng cố nài nỉ được … vào tù. Chị Q., Chánh sự vụ một sở thuộc Bộ Xã hội, không nằm trong thành phần trình diện, nhưng vẫn cố nài nỉ được vào, cuối cùng cũng được thỏa mãn. Vào đó một thời gian, chị té ngữa vì “Sở bảo trợ mẫu nhi” của chị dính vào một bản án dư luận ghê gớm lúc ấy, đó là vụ “bắt cóc trẻ em” trong chiến dịch Babylift! Ông ĐVB, Tổng thư ký Tòa Đô chánh (ngang Tổng Thư ký Bộ) vào trình diện, bị nạp ngay: “Tổng thư ký là sếp thư ký, trình diện làm chi, về!”. Ông B. muốn ở tù quá, vào giải trình tiếp: “chức TTK của tôi ngang với Tổng Giám Đốc”, thế thì “vào” …
Chiều hôm đó, số người được nhận vào trường Trưng vương quá thừa, cái đuôi còn lại bị cắt, lủi thủi trở về. “Tai mắt nhân dân” lúc đó rất sắc bén, những ông quay trở về, ngay đêm đó bị gõ cửa vì tội “trốn trình diện HTCT”, và bị tống hết vào khám Chí Hòa cho muỗi cắn một đêm, sáng hôm sau truy ra nguyên nhân, mới được cho trở về chờ trình diện đợt sau… Chuyện trình diện đi ở tù còn lắm điều cười ra nước mắt!
Ngài Phó GĐ xem có thể tái hiện họat cảnh trên trong một khúc phim tư liệu nào đó chăng, tớ xin tình nguyện làm đạo diễn!
Thanked by 1 Member:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Văn khấn cổ truyền Việt Nam |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
||
Truyện thần tiên- Cát Hồng |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
||
Túc Kê Linh Quái (Phương pháp coi giò gà bí truyền) - Hồ Quang |
Tủ Sách | administrator |
|
||
Michelle Obama BẢO VỆ Gus Walz sau Khoảnh khắc DNC lan truyền với Bố Tim Walz |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Tử vi Nam Phái chân truyền tiếng Trung quốc, bên trung quốc truyền, rất hiếm |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Elohim |
|
||
Dòng Họ (dòng di truyền) |
Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Elohim |
|
|
7 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 7 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |