TRUYỆN NGẮN
#61
Gửi vào 14/07/2019 - 21:10
* MINH DIỆN *
Quan tài cha tôi đặt trên chiếc xe song mã màu đen. Đó là loại quan tài xấu nhất được mua phân phối giá hai đồng bảy hào năm xu. Sáu mảnh gỗ tạp, bào qua loa, vênh vẹo đóng đinh qua loa, không sơn phết, tấm thiên, tấm địa và bốn góc đều hở. Trên nóc quan tài chỉ có ba nén nhang cắm vào quả trứng luộc để trong chén cơm. Không nến, không hoa. Không có một vòng hoa, một bông hoa nào trong đám tang cha tôi. Ngoài con ngựa già kéo xe, chỉ có 10 người đưa đám, kể cả hai nhân viên dịch vụ mai táng và người đánh xe ngựa. Người bạn, người đồng nghiệp duy nhất của cha tôi là nhà thơ Yến Lan, còn lại là người trong gia đình. Chúng tôi bấu víu vào nhau, đẩy chiếc xe ngựa lăn bánh chậm chạp ra khỏi con hẻm, đi về hướng cửa Đông. Người hàng phố đứng nhìn đám tang vội vã quay đi. Không ai dám tới dự và đưa cha tôi đến nơi an nghỉ cuối cùng. Họ đều sợ liên lụy. Lúc cha tôi còn sống họ sợ đã đành, giờ cha tôi đã chết mà họ vẫn sợ.
Chiều mùa Đông gió mưa hun hút, lạnh tê tái. Chiếc xe ngựa mầu đem và một dúm người mẩu đen vón vào nhau líu rứu ra hướng cửa Đông. Mẹ tôi bảo dừng lại một phút cho cha tôi chào Hà Nội một lần cuối. Mẹ tôi và chúng tôi thay mặt cha tôi quỳ xuống lạy ba lạy. Tôi nhớ những ngày mới về tiếp quản Thủ Đô, cha tôi thường dẫn chúng tôi đi thăm năm cửa ô và ba sáu phố phường Hà Nội, kể cho chúng tôi nghe về cụ ngoại tôi, Tổng đốc Hoàng Diệu. Ông Phan An vừa lom khom chậm rãi bước đi trong con hẻm phố Thuốc Bắc (Hà Nội) vừa kể về đám tang của cha mình, nhà báo, nhà văn Phan Khôi. Ông cứ nhắc đi nhắc lại, giọng nói như nấc lên:
- Không có đám tang nào ảm đạm như đám tang cha tôi! Không có đám tang nào buồn thảm, thê lương như đám tang cha tôi! Một lần nữa Phan An lại từ Đà Nẵng ra Hà Nội, tìm về căn nhà số 73 hẻm phố này, nơi cha ông đã sống những ngày cuối cùng. Ông tìm về quá khứ, tìm về nỗi đau xót mà gần hết cuộc đời vẫn chưa thể nguôi ngoai được.
Cụ Phan Khôi sinh ngày 6-10-1887 tức 20-8 năm Đinh Hợi, ở làng Bảo An, huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Ông nội cụ là Phan Nhu, thân phụ là Phan Trần đều là bậc trí thức nổi tiếng. Mẹ cụ là Hoàng Thị Lê con gái của Tổng đốc Hà Nội, Hoàng Diệu, người đã chỉ huy quân dân Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Khi Hà Thành thất thủ, ông tự vẫn ở Võ Miếu ngày 25-4-1882, quyết không để rơi vào tay giặc. Chú ruột Phan Khôi là Phan Dinh cha của nhà cách mạng Phan Thanh và Phan Bôi, tức Huỳnh Hữu Nam, nguyên Bộ trưởng bộ nội vụ chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Phan Khôi có người em gái là mẹ vợ cùa nhà văn Vũ Ngọc Phan và tướng Nguyễn Sơn. Với một gia thế như vậy nên Phan Khôi được học hành tử tế, và với bản chất thông minh nên cụ là một người đa tài, và với tài năng vượt trội, cụ là một người mạnh mẽ, bộc trực không chịu cúi luồn. Người thầy đầu tiên của Phan Khôi là Trần Qúy Cáp. Chính con người thông minh lỗi lạc, ý chí kiên cường nhất huyện Điện Bàn này đã truyền cho Phan Khôi tri thức và lòng yêu nước nồng nàn. Năm 1906, mười chín tuổi, Phan Khôi tốt nghiệp tú tài, và hai năm sau, 1908 ông phải chứng kiến cái chết chém ngang lưng của thầy mình. “Lòng căm thù như ngọn lửa đốt cháy trái tim” Phan Khôi quyết nối bước thày, tham gia phong trào Duy Tân, theo các cụ Phan Chu Chinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng chống thực dân Pháp. Ông bị bắt giam gần một năm rồi được tha. Ông quyết định dùng ngòi bút và nghề báo đề chiến đấu. Phan Khôi kiến thức uyên bác, hiểu biết vô cùng phong phú, tầm hoạt động rộng lớn, đa phương trong sự biến thiên của lịch sử. Chưa ai có thể tổng kết được thân thế sự nghiệp Phan Khôi, nhưng theo nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, thì: “ Phan Khôi hiện diện trước xã hội, trước cuộc đời này chỉ với tư cách nhà báo; người ta biết ông chủ yếu qua những gì ông viết ra đăng lên báo chí, nhưng, qua hoạt động báo chí, Phan Khôi chứng tỏ mình còn là một học giả, một nhà tư tưởng, một nhà văn. Phan Khôi là nhà tư tưởng đã đặt ra hàng loạt vấn đề: phê phán Khổng giáo, tiếp nhận tư tưởng Âu Tây, nữ quyền. Ông cũng là một nhà Hán học và Trung quốc học am hiểu những vấn để của xã hội Trung quốc đương thời, ông là một dịch giả đã dịch Kinh Thánh của đạo Thiên chúa ra tiếng Việt, một nhà Việt ngữ học cả ở phần lý thuyết lẫn thực hành, một nhà văn xuôi với thể hài đàm và một nhà phê bình văn học. Có thể nói Phan Khôi là người thể hiện rõ nhất và thành công nhất chủ trương duy tân kiểu Phan Chu Trinh vào đời sống, nhưng khác với người tiền bối ấy, Phan Khôi hoàn toàn không thể hiện mình như một chí sĩ, ông sống như một người thường trong đời thường, chỉ hoạt động chuyên nghiệp như một nhà ngôn luận, chỉ tác động đến xã hội bằng ngôn luận. Phan Khôi thuộc trong số những trí thức hàng đầu có công tạo ra mặt bằng trí thức và văn hóa cho xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, nhưng đặt bên cạnh những gương mặt sáng láng như Nguyễn Văn Vĩnh, Pham Quỳnh, Trần Trọng Kim, Huỳnh Thúc Kháng... ông thường tự thể hiện như kẻ phản biện, và sự phản biện của ông thường đem lại chiều sâu mới cho trí thức!” Phan Khôi là một trong những nạn nhân của của “Cuộc đấu tranh chống Nhân Văn- Giai Phẩm” bắt đầu từ năm 1957. Tuy ông không phải đi tù như Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, nhưng ông đày đọa khổ sở còn hơn tù. Ngày 16-1-1959, ông đã ra đi vĩnh viễn thoát khỏi sự đọa đày đó. Năm 2004, trên các báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Tiền Phong, Người Hà Nội, lần lượt đăng bài phỏng vấn nhà thơ Tố Hữu của Nhật Hoa Khanh. Theo những bài báo đó, năm 1997, tại 76 Phan Đình Phùng, một trong những biệt thự đẹp nhất Hà Nội, của Pháp để lại, trị giá 7 triệu đô la nhà nước cấp cho Tố Hữu, ông đã ca ngợi hết lời nhóm “Nhân Văn- Giai Phẩm, trong đó có Phan Khôi. Ông nói : “Trần Đức Thảo là một mẫu mực của lòng say mê nghiên cứu sáng tạo vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Phan Khôi , Trần Dần, Lê Đạt là những trí thức lớn, những cây bút hạng nặng trong đội ngũ trí thức cách mạng!”
Không biết Tố Hữu có nói như vậy thật không? Nghe nói khi đã rời quyền lực ông đã sám hối. Nhưng bà Vũ Thị Thanh, nguyên phó ban tuyên huấn trung ương, phu nhân nhà thơ Tố Hữu thì phủ nhận chuyện đó. Nếu đúng thì nó hoàn toàn mâu thuẫn với bốn mươi năm trước, kể từ 1977, khi Tố Hữu còn trẻ, nắm trọng trách công tác tư tưởng, văn hóa,văn nghệ của đảng. Ngày ấy ông đã “làm bao nhiêu số phận, bao nhiêu cuộc đời bị rạn vỡ, bị lưu đày”(Phùng Cung). Lời Tố Hữu kết tội Trần Đức Thảo, Phan Khôi và nhóm “Nhân văn-Giai phẩm” sau đây là sự thực, dẫu ma quỷ cũng không thề chối. Tố Hữu đã viết: “Lật bộ áo “Nhân Văn –Giai Phẩm” thối tha, người ta thấy cả một ổ ph.... đ.... toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh ,Trotkit, địa chủ, tư sản... quần tụ trong những tổ quỷ với gái điếm, bàn đèn, sách báo ph.... đ...., đồi trụy và phim ảnh khiêu dâm...” (Qua cuộc đấu tranh chống nhóm “Nhân Văn-Giai Phâm”, tác giả Tố Hữu, Nhà xuất bản Văn Hóa, 1958, trang 9) Và: “Trong cái công ty ph.... đ.... “Nhân Văn- Giai Phẩm” ấy, thật sự đủ mặt các loại “biệt tính”, từ bọn Phan Khôi,Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An; từ bọn Trotkit Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng như Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ, tư sản ph.... đ.... cố giữ lập trường của giai cấp mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ!” (Trang 17sđd)
Theo chỉ đạo của “Anh Lành” bọn cơ hội nhao vào đánh hội đồng nhóm “Nhân Văn- Giai Phẩm” nói chung, Phan Khôi nói riêng. Phê phán tác phẩm văn học, báo chí chán quay suy diễn, bịa đặt ra đủ thứ chuyện, chà đạp lên cả hương hồn cha mẹ, tổ tiên người ta. Có những việc đổi trắng, thay đen, khi sự thật lịch sử vẫn còn đang sờ sờ trước mắt. Phan Khôi với truyền thống yêu nước cùa gia đình, đã tham gia phong trào chống Pháp từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, từng bị bắt đi tù mà bảo ông làm mật thám cho Pháp thì trời đất nào chứng? Ông viết hàng ngàn bài báo phê phán chế độ cũ, cổ vũ sự cách tân, bao nhiêu ruộng vườn quê nhà ông hiến hết cho cách mạng, mà bảo ông cố giữ lập trường giai cấp địa chủ, tư sản?
Sau cách mạng tháng 8-1945, Hồ Chủ tịch trọng tài đức của Phan Khôi, trực tiếp viết thư mời ông ra Hà Nội góp sức xây dựng chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ. Phan Khôi đã mang cả gia đình theo cụ Hồ lên chiến khu Việt Bắc, nằm gai nếm mật tham gia kháng chiến suốt mười năm trời. Thế mà khi ông tham gia phong trào “Nhân văn – Giai phẩm”, bị Tố Hữu quy là mật thám thì, nhà văn Nguyễn Công Hoan hùa theo, xuyên tạc rằng Phan Khôi cầm đầu tổ chức Việt Nam quốc dân đảng chống phá cách mạng ở Quảng Nam. Nhà văn đáng kính này viết: “ Hắn phụ trách chi bộ Việt Nam quốc dân đảng Quảng Nam chống phá cách mạng điên cuồng. Sau đó hắn bèn ra Hà Nội họp với Trung ương đảng bộ Việt Nam quốc dân đảng của hắn, để đề nghị một chương trình chống chính phủ!”
Nguyễn Công Hoan luôn dùng từ “hắn” để phỉ báng, mạt sát Phan Khôi: “Hắn xin vào yết kiến cụ Huỳnh Thúc Kháng lúc đó là Bộ trưởng nội vụ nhưng cụ không tiếp!”. Năm 1957, Phan Khôi thọ 70 tuổi, Nguyễn Công Hoan làm bài thơ “mừng” (!) người bạn văn chương như sau:
Nhà báo Phan Khôi khốn kiếp ơi!
Thọ mi mi chúc chớ hòng ai,
Văn chương! Đù mẹ thằng cha bạc!
Tiết thào! Tiên sư cái mẽ ngoài!
Lô-gich trước cam làm kiếp chó,
Nhân văn nay lại hít gì voi!
Sống dai thêm tuồi cho thêm nhục!
Thêm nhục cơm trời chẳng biết gai!
Có thể nào ngờ đó là thơ của tác giả “Bước đường cùng” và “ Kép Tư Bền”? Qủa thật công tác tư tưởng của ông Trường Chinh và công tác tuyên huấn của ôngTố Hữu quá tài tình! Họ đã biến nhà nho Nguyễn Công Hoan thành một kẻ bỗ bã đểu cáng đáng khinh bỉ. Mà đâu chỉ một mình Nguyễn Công Hoan? Đào Vũ, Tế Hanh, Chế Lan đều như vậy. Phan Khôi hai đời vợ, bà trước tám người con bỏ mất một còn 7, bà sau được 3, tổng cộng 10 người con. Ông có bài thơ tức cảnh gia đình mình như sau:
Hai nhà cộng lại có mười con
Năm gái năm trai nhắm cũng tròn
Gả, cưới tạm yên nguyền một nửa
Sữa răng riêng mũi máu ba hòn
Tự trào thôi hẳn còn chia rẽ
Nhân cách vẫn mong được vẹn tròn
Bé nhất Lang Sa mới ba tuổi
Tên này ghi cái nhục sông non
Năm 1956 sang Trung Quốc dự kỷ niệm 100 năm Lỗ Tấn cùng với Tế Hanh, Phan Khôi đọc cho Tế Hanh nghe, và nói: “Tôi đặt tên thằng này là Lang Sa, để nhớ cái hận thực dân Pháp!”. Mà ngay trong bài thơ tác giả đã nói rõ ý đó rồi còn gì. Vậy hai năm sau, khi Phan Khôi bị đánh thì Tế Hanh bịa ra chuyện thế này: “Trong chuyến đi Trung Quốc, Phan Khôi nói với tôi, thằng này sinh ngày 9-3-1945, ngày Nhật đảo chính Pháp, tôi đặt tên nó để cho những người nào vui mừng việc Nhật lật đổ Pháp biết tay. Pháp sẽ trở lại cho coi”. Và Tế Hanh kết tội Phan Khôi: “Phan Khôi đã đáp lại lòng thù ghét của nhân dân ta đối với thực dân Pháp như thế. Chỉ có một ‘tâm hồn vong bản’ loại Phan Khôi mới mong Pháp quay trở lại!”. Chế Lan Viên thì có lần chỉ thẳng tay vào mặt Phan Khôi quát: “Đừng cậy già mà láo!”. Còn Đoàn Giỏi thì vu cho Phan Khôi nói xấu đảng, Bác Hồ vì gọi cây c*t lợn là cây “c.... s..”!
Sự xuyên tạc, vu khống, nhục mạ được cất lên từ miệng những người được coi là hiền lành tử tế như thế mới kinh khủng làm sao. Ông Phan Lang Sa tâm sự: “Khổ tâm nhất là anh Phan Thao. Anh ấy trong Ban biên tập báo Nhân Dân mà ngày nào cũng phải nghe, phải đọc những lời nhục mạ vu khống cha mình!” Không chịu nổi , Phan Thao phải xin từ nhiệm và Phan Lang Sa phài đổi tên thành Phan An. “Xin cầu lấy sự bình an!” Cụ Phan Khôi bị đuổi khỏi ngôi nhà 51 Trần Hưng Đạo nơi cụ ở từ năm 1955. Đuổi, tôi dùng đúng nghĩa đen. Trần Duy kể: Một hôm tôi 51 Trần Hưng Đạo thì gặp một quan chức có quyền lực chỉ vào Phan Khôi quát:
- Tống cổ thằng già này ra khỏi đây!
Phan Khôi lảo đảo bước ra cổng. Vợ ông, bà Huệ ôm chăn mền , sách vở. Gặp tôi ông Phan Khôi bảo :
- Thôi, anh về đi. Buồn không cần thiết!”
Gia đình Phan Khôi bị đuổi khỏi 51 Trần Hưng Đạo, phải dọn về số 10 Nguyễn Thượng Hiền. Rồi lại bị đuổi, phải dọn tới 73 phố Thuốc Bắc. Bà Bích Thủy, con gái nhà thơ Yến Lan, tả chỗ ở mới cùa gia đình cụ Phan Khôi như sau: “Gia đình tôi ở phía dưới, giữa 5 gia đình khác, kế vách là gia đình cụ Khôi. Phía ngoài cầu thang của hộ bà Cán, đến bể nước công cộng. Căn dành cho gia đình cụ là một cái buồng 9 m2, bằng 3/4 căn nhà tôi, có thể đấy là nơi thờ cúng của chủ trước. Giữa nhà tôi và nhà cụ là một hẻm nhỏ, to bằng cái bàn cờ tướng. Tôi thường ngồi cạnh cửa sổ nhà cụ giặt giũ”
Căn nhà cụ Phan Khôi vắng lặng, xét nét, xa lạ không ai lui tới vì cụ bị coi là cầm đầu nhóm Nhân văn- Giai phẩm. Cụ vốn gầy yếu, bị hành hạ sức khỏe càng suy sụp. Nhiều lần cụ xin đi khám bệnh nhưng không ai ký giấy cho đi khám đành phải chịu. Cụ thường ôm ngực ho từng cơn, và chống gậy ra giếng nước công cộng rửa chân lúc xế chiều. Rồi cái buổi chiều mùa đông rét mướt 16-1-1959 đó, người chung nhà không nhìn thấy cụ Phan Khôi. Đó là lúc cụ nằm úp mặt vào tường, ho cơn ho cuối cùng, thổ những giọt máu tươi ra quyển sách đang đọc dở trên tay. Chiếc xe ngựa chở chiếc quan tài phủ bạt lăn bánh nghiêng ngả ra nghĩa địa Hợp Thiện phía Đông Hà Nội. Đưa cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng chỉ có vợ con cụ và nhà thơ Yến Lan tác giả “Bến Mi Lăng”. Bà Bích Thủy, con gái nhà thơ Yến Lan kể lại:
“Sáng hôm sau nghe người ta nói, có thằng cha nhà thơ nào đó dám cả gan đưa đám Phan Khôi. Ba tôi bảo đó là đạo lý của người Việt, nghĩa tử là nghĩa tận!”. Một nấm mồ nông vùi người con Quảng Nam nơi đất Bắc, trên đơn sơ một mảnh ván viết hai chữ Chương Dân. Năm tháng qua đi nấm mộ ấy chìm trong cỏ dại và xương cốt cụ Phan Khôi phiêu bạt nơi nào không biết nữa. Vừa qua con cháu cụ đành gói một nắm đất về đặt trong lòng ngôi “mộ gió” ở quê nhà. Hơn nửa thế kỷ qua,bây giờ người ta đã nhìn nhận, đánh giá một cách công bằng, trả lại danh dự cho những trí thức, nhà văn, nhà thơ trong phong trào Nhân văn - Giai phẩm. Hầu hết những nhà văn, nhà thơ, và trí thức trong nhóm Nhân văn –Giai phẩm đã được nhận giải thưởng, nói như nhà thơ Trần Mạnh Hảo, là để tạ lỗi. Nhưng cụ Phan Khôi vẫn bị lãng quên. Tôi không hiểu đàng sau đó có những lý do gì, mà đồng hương xứ Quàng (ông Tế Hanh ở Quảng Ngãi), cùng tập kết ra Bắc, nhưng "Nhớ con sông quê hương" đến mức nào, nhớ kiểu gì, mà lại cố tình nói điêu, 'nâng quan điểm', ám hại ông Phan Khôi (Quảng Nam) 'báo cáo cấp trên 'quy chụp, bịa chuyện: "Chỉ có một ‘tâm hồn vong bản’ loại Phan Khôi...". Nay, người ta thương tiếc, cảm phục Phan Khôi, ít ai nhắc tới Tế Hanh! Với thân thế và sự nghiệp của cụ, với những tác phẩm báo chí và văn học đã tái xuất bản trong những năm gần đấy, cụ xứng đáng nhận giải thưởng hơn rất xã hội minh bạch đã ghi nhận.
M.D
Thanked by 2 Members:
|
|
#62
Gửi vào 16/07/2019 - 21:38
Phùng Quán tìm thăm Nguyễn Hữu Đang
Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập
Dưới đầu đề “Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập”, bài này được nhà văn Phùng Quán viết cách đây đúng một năm. Tác giả đã gửi ngay cho báo Văn Nghệ, nhưng cho đến đến nay vẫn chưa thấy đăng.
Diễn Đàn công bố tài liệu này, trước hết vì giá trị văn học của một bài ký thống thiết. Đó cũng là một chứng từ lịch sử quan trọng về ngày Tuyên ngôn Độc Lập 2.9.1945.
Tài liệu này còn mang một ý nghĩa sâu sắc: Nguyễn Hữu Đang (sinh năm 1912) được coi là người đứng đầu phong trào Nhân văn-Giai phẩm, còn Phùng Quán là thành viên trẻ tuổi nhất của phong trào này. Cả hai đã kiên quyết không chịu “đấm ngực nhận tội” và càng không chịu tố cáo người khác. Chính vì vậy mà hai ông đã bị đàn áp nặng nề. Đặc biệt ông Nguyễn Hữu Đang đã bị biệt giam 15 năm ở Hà Giang (từ năm 1958 đến 1973 – có lẽ ông là một trong vài ba người trên trái đất này hồi đó không biết có cuộc chiến tranh Việt-Mỹ), rồi bị đưa về quê nhà Thái Bình an trí gần 20 năm trời.
Từ đầu năm 1993, ông đã trở về sống ở Hà Nội, được trả lương hưu cán bộ bậc 5, nhưng vẫn chưa có nhà ở. Bạn bè ông đang yêu cầu chính quyền cấp nhà, bằng không họ sẽ vận động đồng bào và kiều bào đóng góp mua nhà cho ông.
Diễn Đàn (số 25, tháng 12.1993)
Dạ thưa Giáo sư Tiến sĩ Đình Quang, Thứ trưởng Bộ văn hoá thông tin, cùng độc giả tuần báo Văn Nghệ.Mới đây tôi được đọc bài điếu văn đầy trang trọng và xúc động của Giáo sư đăng trên tuần báo Văn nghệ, đọc tại tang lễ của nhà điện ảnh lão thành Phạm Văn Khoa. Trong bài điếu văn có một chi tiết về thành tích hoạt động của nhà điện ảnh quá cố mà tôi đặc biệt quan tâm : “Rồi lại chính anh [Phạm Văn Khoa] dựng bục, kết hoa cho lễ đài Tuyên ngôn Độc lập, chỉ trong một ngày đêm vội vã”.
Thưa Giáo sư Tiến sĩ Đình Quang, qua lời điếu văn, tôi có cảm tưởng việc dựng lễ đài Độc Lập 2.9.1945 gần giống việc dựng một cái chòi thông tin hoặc một cái sân khấu ngoài trời…
Nhân sự việc này, tôi muốn kể hầu Giáo sư và độc giả tuần báo Văn Nghệ một câu chuyện, mục đích là để mua vui vào dịp đầu xuân năm Dậu, năm trùng phùng với năm xảy ra sự kiện mà tôi sắp kể ra sau đây, năm Ất Dậu 1945.
Học theo cách nói của thi hào Nguyễn Du, “mua vui cũng được một vài trống canh”.
Anh Nguyễn Hữu Đang thì tôi được biết mặt từ mấy chục năm trước, nhưng rất ít khi được chuyện trò với anh. Mỗi lần tôi được anh hỏi chuyện, tôi bối rối, sướng mê nguời, đầu không khiến mà chân cứ rụt về tư thế đứng nghiêm, như ngày còn làm trinh sát mỗi lần được Chính uỷ Sư đoàn hỏi chuyện. Tôi nghĩ bụng: Tôi là cái thá gì mà được một người như Nguyễn Hữu Đang hỏi chuyện? Nguyễn Hữu Đang, người tham gia hoạt động cách mạng từ khi tôi chưa đẻ; nhà hoạt động báo chí công khai của Đảng cùng thời với Trường Chinh, Trần Huy Liệu; một trong những người tổ chức và lãnh đạo chủ chốt của Hội Truyền bá Quốc ngữ cùng thời với Phan Thanh, cụ Nguyễn Văn Tố. Một trong những người sáng lập và tổ chức Hội Văn hoá Cứu quốc cùng với Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi. Và cuối cùng là Trưởng ban Tổ chức ngày Đại lễ của Đất nước: 2-9-1945.
Cách đây khoảng mười lăm năm, anh từ cao nguyên Hà Giang trở về, tá túc tại quê nhà. Hàng năm vào dịp giáp Tết, lại thấy anh đáo lên Hà Nội trên chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô (cũ). Anh mang đến cho mấy bạn cũ mỗi người một cân gạo nếp. Một lần tôi cũng được anh cho một cân. Tôi cảm động và ngạc nhiên hỏi anh: “Anh kiếm đâu ra gạo nếp mà cho chúng em thế?”. Anh cười: “Mình sống ở nông thôn cũng phong lưu ra phết. Không những có gạo nếp biếu bạn, lại còn có cả thóc và rơm cho nông dân vay”. - “Hiện nay anh đang làm gì ở dưới đó?”. “Mình nghiên cứu Lão Trang và dịch lại cuốn Lịch sử Đảng c.... s.. Liên xô qua bản tiếng Pháp. Đối chiếu thấy bản dịch đã in sai nhiều quá” .
Hai năm trở lại đây không thấy anh lên Hà Nội nữa. Mấy anh em quen cũ chúng tôi hỏi nhau: “Không biết anh Đang có gặp chuyện gì trắc trở dưới đó không?”
Nỗi lo lắng này thường xuyên ám ảnh tôi. Nhân thể tôi muốn tìm hiểu về công trình Lễ đài Độc lập, năm đó tôi nhất quyết phải về thăm anh, mặc dầu đã gần giáp Tết. Tôi nói khó với vợ: “Em bớt cho anh một phần lương hưu tháng này; lấy tiền tàu xe, ăn đường, về Thái Bình tìm thăm anh Đang...” “Nhưng tết nhất đến nơi rồi, chờ ra giêng anh đi có được không?”. “Anh bỗng nhiên thấy nóng ruột quá... đợi đến ra giêng e chậm mất. Anh Đang đã gần cái tuổi tám mươi, mà lại một thân một mình...”. “Anh có biết địa chỉ của anh Đang không?”. “Anh chỉ biết anh ấy ở Thái Bình, địa chỉ cụ thể thì không biết”. “Cả cái tỉnh Thái Bình rộng mênh mông với hơn hai triệu dân, không có địa chỉ cụ thể làm sao anh tìm được?”. “Trời đất! Một người như anh Nguyễn Hữu Đang thì anh tin rằng về dưới đó hỏi đứa con nít nó cũng biết”. Vợ tôi đành trao cho tôi nửa số tiền lương hưu tháng cuối năm vừa lĩnh, với vẻ mặt nhẫn nhịn của người vợ phải trao cả một nửa sản nghiệp cho chồng tiêu hoang vào một việc không đâu! Tôi vội nhét mấy tờ giấy bạc vào túi, nhảy lên xe đạp, cắm đầu đạp thẳng ra ga vì sợ vợ thay đổi ý kiến.
Vừa đi tàu, vừa ô-tô, xe đạp... sáng 26 Tết, tôi có mặt tại thị xã Thái Bình. Để đỡ bớt thì giờ tìm kiếm, tôi hỏi đường đến Sở văn hoá và Hội văn nghệ tỉnh, hỏi địa chỉ của anh. Tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy nhiều anh chị em cán bộ ở hai cơ quan này không biết Nguyễn Hữu Đang là ai. Có vài người biết nhưng lại rất lơ mơ: “Hình như ông ta ở Quỳnh Phụ, Kiến Xương hay Tiền Hải gì đó...”. Ở Hội văn nghệ tỉnh, tôi làm quen với một nhà thơ trẻ. Khi biết rõ ý định của tôi, anh hăng hái nói: “Cháu sẽ đưa chú ra cái quán thịt chó, ở đó thường có mấy anh cán bộ về hưu, (chắc sẽ hỏi ra”. Đến quán thịt chó, tôi đành móc) số tiền còm cõi trong túi, gọi một đĩa thịt chó luộc và hai chén rượu cho phải phép. Đợi chừng nửa tiếng, có một người đứng tuổi để chiếc xe cúp trước cửa, đi vào quán. Nhà thơ trẻ bật dậy nói với tôi: “Ông này ở cơ quan an ninh tỉnh, hỏi chắc biết”. Tôi vội níu tay anh lại, dặn nhỏ: “Cậu đừng giới thiệu mình là ai, sẽ rách việc”. “Biết rồi, biết rồi, chú không phải dặn”. Anh bạn trẻ đi đến gặp anh ta, nói cái gì đó, và chỉ tay về phía tôi. Anh cán bộ an ninh tươi cười bắt tay tôi, ngồi đối diện và niềm nở hỏi: “Xin lỗi cụ, năm nay cụ hưởng thọ bao nhiêu tuổi ạ?”. Tôi đoán chắc anh ta thấy tôi ăn vận nhếch nhác – áo quần bà ba nâu, chân dép lốp – râu tóc bạc trắng, nên hỏi vậy. Tôi liền nói phứa lên: “Cám ơn đồng chí – tôi cười – cũng thất thập cổ lai hi rồi đồng chí ạ”. “Trước cụ công tác ở đâu ạ?”. “Tôi làm thường trực cho một cơ quan thương nghiệp trên Hà Nội... về hưu đã gần chục năm rồi”. “Cụ là thế nào với ông Nguyễn Hữu Đang ạ?”. “Tôi có quen biết gì ông ta đâu. Thậm chí cũng chưa biết mặt. Chẳng là ở tổ hưu của tôi có một cụ nghe đâu hồi bí mật cùng hoạt động với ông ta. Biết tin tôi về thăm đứa cháu họ công tác giáo viên ở Quỳnh Côi, ông cụ gửi tôi mười ngàn bạc để biếu ông ấy, mà giao hẹn phải đưa tận tay. Tôi tưởng ông ấy ở thị xã, hỏi loanh quanh mãi không ai biết...”. Anh cán bộ cười: “Ông ấy đâu có ở thị xã. Hiện ông ấy đang ở thôn Trà Vỵ, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương... cách đây gần hai chục cây số. Ngược gió này mà cụ đạp xe về đó cũng vất vả đấy...”. Thấy tôi chăm chú lắng nghe, anh cán bộ trở nên cởi mở: “Nói để cụ biết, trước kia cái ông Đang ấy cũng là người hoạt động cách mạng có tên tuổi... Nhưng rồi ông ta giở chứng, làm báo làm văn chống đối Đảng và Nhà nước, bị xử phạt 15 năm tù ngồi, đưa lên giam trên trại tù Hà Giang. Mãn hạn tù, ông ta xin về cư trú tại quê quán. Tuy vậy (cách đây mấy năm ông Đang này tự tiện đi) sang Nam Định không có giấy đi đường, đến nhà một đối tượng mà công an đang theo dõi. Công an hai tỉnh liền phối hợp, hỏi giấy tờ đi đường của ông ta, rồi bắt giam giữ bốn tháng ở nhà lao hai tỉnh để cảnh cáo, và tổ chức khám nhà. Sau đó thả cho về...”. Tôi tỏ ý sợ hãi gãi đầu gãi tai: “Chà... biết rắc rối thế này thì tôi chẳng gặp ông ấy nữa... đem tiền về trả lại thôi...”. Anh cán bộ xuê xoa: “Không sao đâu cụ ạ, chính sách của ta bây giờ là đổi mới tư duy. Nghe đâu trên cũng đang sửa soạn cho ông ấy được hưởng lương hưu. Nếu cụ muốn về thăm ông ấy, cứ việc về. Tôi sẽ chỉ đường cho cụ”. Anh cán bộ chấm ngón tay vào li rượu, vẽ lên mặt bàn, chỉ vẽ cho tôi rất cặn kẽ con đường từ thị xã về chỗ anh Đang tá túc. Tôi đứng lên rối rít cảm ơn anh...
*
Con đường đá mười mấy cây số chi chít ổ gà. Gió cuối đông buốt như kim châm táp thẳng vào mặt. Nhưng vừa đạp xe tôi vừa nghĩ ngợi miên man về sự thăng trầm của những kiếp người tình nguyện dấn thân vì nghĩa lớn, nên con đường cũng như bớt xa... Đến chỗ ngã ba rẽ vào trường phổ thông cấp I, II xã Vũ Công – Nơi anh Đang tá túc – tôi vào cái quán bên đường uống li rượu cho ấm bụng. Ông cụ chủ quán khi biết tôi từ Hà Nội về tìm thăm anh Đang, rót rượu tràn li và nói: “Ông ấy thỉnh thoảng vẫn ngang qua đấy, tôi đều mời vào uống nước. Ông ấy tằn tiện khét tiếng cái xã Vũ Công này. Mới cách đây dăm hôm, ông ấy đèo sau xe cái rỏ tre ràng buộc rất kỹ. Ông ấy kể với tôi tối qua bắt được con rắn gì dữ lắm, phun phè phè bò vào nhà mình. Định làm thịt ăn nhưng tiếc, chở lên chợ bán cho một tay buôn rắn độc, kiếm lấy mấy nghìn mua mấy lạng mỡ lá...”. Tôi bật phì cười: “Ông ấy bây giờ lại thêm cái tài bắt rắn độc, mà mất công đạp xe mini những mười mấy cây số để đổi lấy mấy lạng mỡ lá... Vui thật! Tôi có người bạn làm thơ tên là Tuân Nguyễn, chết lâu rồi, làm câu thơ nghe thật vô nghĩa, nhưng cứ bất chợt hiện ra trong trí nhớ tôi: Cuộc đời vui quá không buồn được!”. Ông chủ quán rót thêm li rượu nữa, giọng hào hiệp: “Li này tôi đãi cụ!... Mà khổ, ông ấy có bán được đâu. Chiều tối ông ấy đạp xe về phàn nàn: nó không chịu mua, nó bảo loại rắn này không nằm trong bộ tam xà!”. Tôi cười ngất.
Anh Đang ở gian đầu hồi cái nhà bếp của khu tập thể giáo viên, trước mặt là ao cá Bác Hồ của xã. Đứng bên kia bờ ao, một cô giáo chỉ cho tôi: “Bác ấy đang ngồi ở bậc cầu ao kia kìa! Đang cọ rửa cái gì mà chăm chú thế không biết...”. Tôi dắt xe đạp qua sân trường, vòng ra sát sau lưng anh. Anh đang dùng nắm rơm cọ rửa những viên gạch vỡ đôi, xếp thành chồng cao cạnh chỗ ngồi. Tôi đứng lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần lao động màu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây cao su đen nom như vòng cùm sắt; chắc hẳn để nhét hai ống quần vào đó chống rét, lưng anh khòng hình chữ C viết nghiêng... Tôi chợt nhớ cách đây rất lâu, tôi được nghe những người cùng thời với anh kể. Hồi Mặt trận Bình dân, Nguyễn Hữu Đang là cán bộ Đảng được cử ra hoạt động công khai, ăn vận sang trọng như công tử loại một của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn thuyết, oai phong, hùng biện, tuyên truyền cách mạng... Mỗi lần cách mạng cần tiền để hoạt động, Nguyễn Hữu Đang có thể đến bất kì một nhà tư sản Hà Nội nào giàu có, vay vàng, tiền. Mà những người này trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì, vì họ tin sâu sắc rằng trao vàng, tiền cho anh là trao tận tay cho cách mạng... Và bây giờ, anh ngồi đó, gần tám chục tuổi, không vợ, không con, không cửa không nhà, lưng khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọ rửa những viên gạch vỡ - chẳng hiểu để làm gì – như người bõ già trong truyện „Hương cuội“ của Nguyễn Tuân cọ rửa những viên cuội trắng để tẩm kẹo mạch nha vào dịp tất niên... Miên man nghĩ như vậy và tôi bật phì cười... “Anh Đang!”, tôi nghẹn ngào gọi. Anh quay lại, chớp chớp mắt, răng vàng sỉn, cùn mòn gần nửa vì năm tháng... “Phùng Quán! Chú về đây từ lúc nào thế?”. Hai anh em chúng tôi ôm chặt nhau giữa bậc cầu ao. Và cả hai gương mặt già nua phút chốc đẫm lệ...
*
Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng chỉ khoảng 5 mét vuông, chật kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọc ngang sát mái, treo vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo may-ô thủng nát, quần lao động vá víu. Cạp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc làm bằng vỏ hộp dầu cao Sao vàng xuyên thủng, buộc dây thép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc rung lên leng keng, nghe rất vui tai. Sau đó tôi được anh giải thích tác dụng của chùm lục lạc: Đi lại trong đường làng những đêm tối trời, anh thường bị cánh thanh niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm sầm vào, làm anh ngã trẹo tay, sầy gối. Học tập sáng kiến của đồng bào các dân tộc ở Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu – trâu gõ mõ, chó leo thang – anh Đang chế chùm lục lạc đeo vào cạp quần, báo hiệu có người để họ tránh xe. Tác dụng thứ hai, quan trọng không kém... Mỗi lần đạp xe trên đường vắng, nghe tiếng lục lạc loong coong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ cô độc. Chính giữa gian chái kê cái tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánh mọt ruỗng không khép kín được, khoá một chiếc khoá lớn như khoá nhà kho. Trên nóc tủ, xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ lá mà ở Hà Nội người ta thường quẳng vào các đống rác. Cạnh tủ là một cái giường cá nhân, bốn chân giường được thống cố thêm bốn chồng gạch. Trên giường một đống chăn bông trần rách thủng, và một xấp quần áo cũ làm gối.... Sát chân giường kê chiếc bàn xiêu vẹo chỉ có hai chân, hai chân kia được thay bằng hai sợi dây thép buộc treo vào tường. Anh nói, giọng Lão Trang: “Một cái bàn bốn chân là một con vật. Khi nó chỉ còn hai chân nó là một con người”. Trên mặt bàn xếp kín các chai lọ, vỏ đồ hộp, hai (... mất nửa dòng...) vài con dao làm bằng mẩu (... mất một dòng...) thuyết minh viên giới thiệu hiện vật trong bảo tàng nghệ thuật: “Nó là loại gạch nung rất già, gần đạt tới tiêu chuẩn của sành sứ cổ, sức nặng và độ bền của nó làm cho các loại chuột, mối, dán phải vị nể”. Bây giờ tôi mới hiểu anh cọ rửa những viên gạch vỡ để làm gì. Dưới gầm bàn là mấy chục đôi dép cao su hư nát, đứt quai, được bó thành từng bó, hai cái vại muối dưa rạn nứt, sứt miệng, một đống bản lề cửa, sắt vụn, đinh còng queo, mẩu dây thép han rỉ... Tất cả những đồ lề đó, phủ lên một lớp bụi tro... Lúc tôi bước vào, gian buồng mờ mịt khói. Anh giải thích: “Giờ này các cô giáo nấu ăn. Bếp tập thể ở sát bên kia tường. Tôi đã trộn rơm với bùn trát những khe hở sát mái, nhưng khói vẫn cứ lọt sang – anh cười - Chịu khói một chút nhưng cũng có cái lợi. Thỉnh thoảng lại được ngửi mùi xào nấu lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng. Trong việc dở nào cũng có việc hay, và ngược lại”. “Để em đạp xe ra chợ mua cái gì về ăn”. “Thôi khỏi cần. Chú về chơi hôm nay là rất gặp may. Sáng nay tôi vừa chế biến được một mẻ thức ăn ngon vô địch. Chú nếm rồi sẽ biết. Cơm cũng có sẵn rồi. Tôi mới nấu lúc sáng, ủ vào lồng ủ rơm, còn nóng nguyên. À, tôi lại có cả rượu cho chú, rượu cam hẳn hoi, quà của Hội Nhà văn gửi biếu vào dịp Tết năm ngoái... Tôi chỉ mới mời mấy thầy giáo mấy chén, còn đủ cho chú say sưa suốt mấy ngày ở chơi”. Anh xăng xái lấy chùm chìa khoá buộc chung với chùm lục lạc, mở khoá tủ tìm chai rượu. Tôi liếc nhìn vào mấy ngăn tủ. Những xấp quần áo cũ nát để lẫn với những chồng báo, giấy má, sách... ố vàng. Ngăn dưới cùng để rất nhiều chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ lon bia, và nhiều chồng các loại bao thuốc lá. Anh lúi húi tìm một lúc khá lâu mới lôi ra được chai rượu cam còn già nửa: “Đây rồi! Bây giờ già hoá ra lẩm cẩm. Để chỗ này lại tìm sang chỗ kia”. Tôi cười, nói: “Nhìn anh, em cứ tưởng là một nhà quí tộc Nga thời Sa Hoàng, tự tay tìm chọn loại rượu quí cất giữ một trăm năm trong hầm rượu, để đãi khách quí”. Tôi chỉ những chồng vỏ bao thuốc lá, hỏi: “Anh chơi sưu tập vỏ bao thuốc lá à? Thế mà em (... mất một dòng...) vì phải dọn nhặt đem đốt”. Anh kêu lên: “Thế có tiếc không! Lần này chú về trên đó nhớ dặn cô, có vỏ bao thuốc là ngoại cứ cất giữ cho anh Đang, càng nhiều càng tốt. Nó là hàng đối lưu của tôi đấy...”. “Hàng đối lưu?”, tôi ngạc nhiên hỏi. “Để tôi dọn cơm cho ăn rồi tôi giảng cho chú nghe thế nào là hàng đối lưu. Tôi xem ra chú mù tịt về môn kinh tế chính trị học”. Tôi ngắm nhìn căn hộ độc thân đầy khói của anh, hỏi: “Hơn mười lăm năm qua anh vẫn sống ở gian buồng này à?”. “Ngày tôi mới về xã, tôi sống ở trại lợn của Hợp tác xã. Chẳng là cán bộ xã cũng thông cảm hoàn cảnh khó khăn của tôi, nên đề nghị tôi ra đó trông coi giúp như nhân viên thường trực của trại. Ở đó một thời gian. Nhà kho cũng thoáng mát, tôi có thể ăn ở, đọc sách, viết lách kết hợp với trông coi trại. Mỗi mùa hợp tác xã trả công điểm mấy chục cân thóc, mấy chục cân rơm làm chất đốt. Số thóc, rơm này tôi không phải dùng đến, trong mấy năm tiết kiệm được hai ba tạ thóc, hai trăm sáu chục cân rơm cho bà con vay. Ngoài ra, vào dịp tết, Hợp tác xã bồi dưỡng thêm ít thóc nếp, đem lên Hà Nội biếu các chú... Khi bắt tay vào việc dịch thuật lại cuốn Lịch sử Đảng c.... s.. Liên Xô, tiếng lợn kêu âm ĩ quá làm tôi mất tập trung tư tưởng, nên phải xin thôi công việc trông coi trại, chuyển về đây để được yên tĩnh hơn”.
Anh lôi dưới gầm giường ra một cái xô tôn thủng đáy, đặt lên miệng xô tấm gỗ dán. “Đây là bàn ăn – anh giới thiệu và vần tiếp ra hai cái vại muối dưa sứt miệng – Còn đây là ghế ngồi. Bà con nông dân mình nghèo mà phí phạm thế đấy. Hai cái vại còn tốt như thế này mà đem quẳng bụi tre... Tôi nhặt về, cọ rửa sạch sẽ, lật đít lên, làm thành cái ghế ngồi vừa vững chãi lại vừa mát. Chú ngồi thử mà xem, có khác gì ngồi trên đôn sứ đời Minh?”. Anh dọn ra hai cái đĩa, rồi chọn trong hai cái bát hương đậy viên gạch vỡ gắp ra năm sáu viên gì đó tròn tròn, đen xỉn, nom rất khả nghi. Anh chỉ vào một đĩa, giới thiệu thực đơn: (“Đĩa này là chả cóc, đĩa này là chả nhái. Nhờ ăn) thường xuyên hai thứ đặc sản này mà tôi rất khoẻ, còn khoẻ hơn cả chú”. Anh nhắc trong cái rổ phủ đầy rơm để ở góc nhà, xoong cơm đã ăn mất một góc mà anh giới thiệu vẫn nóng nguyên. Nói đúng hơn là một thứ cháo rất đặc, có thể xắn thành từng miếng như bánh đúc. “Ba năm trở lại đây, tôi phải ăn cơm nhão, nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn. Tôi nấu cơm với nước vo gạo nên rất bổ. Chẳng là các cô giáo thường bỏ phí nước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu, dặn đổ nước vo gạo vào đấy cho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm. Tinh tuý của gạo nằm trong nước vo, bỏ đi thật phí phạm”. “Nhưng cóc nhái đâu ra mà anh bồi dưỡng được thường xuyên thế?”, tôi hỏi. “Ấy chỗ này mới là bí quyết. Phải huy động lực lượng quần chúng, tức là các cháu thiếu nhi. Biết các cháu ở đây thích chơi vỏ bao thuốc lá, nhất là các loại vỏ bao đẹp. Mỗi lần lên thị xã hoặc sang Nam Định chơi, tôi đều nhặt nhạnh về, đổi cho các cháu lấy cóc, nhái. Cũng đề ra tiêu chuẩn hẳn hoi. Một vỏ bao ba số đổi 3 con cóc hoặc 5 con nhái. Các loại khác 2 cóc, 3 nhái. Bởi vậy tôi mới nói là hàng đối lưu, chú hiểu chưa. Mỗi tháng tôi chỉ cần ba bốn chục cái vỏ bao là thừa chất đạm, mà là loại đạm cao cấp… Hôm nào chú về tôi gửi biếu cô, chú Cung , mỗi nhà mấy viên nếm thử. Cô chú ăn thịt cóc của tôi rồi sẽ thấy các thứ thịt khác đều nhạt hoét!”.
Anh rót rượu, chọn gắp viên chả cóc, nhái bỏ vào bát cho tôi, ân cần, âu yếm, trang trọng, làm tôi ứa nước mắt. Anh hỏi: “Chú đi đâu mà lại lặn lội về tận đây, vào lúc tết nhất sắp đến nơi?”. “Em về đây chỉ một mục đích là thăm anh. Hơn hai năm nay không thấy anh lên Hà Nội, chúng em rất lo. Không biết anh ốm đau gì, liệu anh có còn sống không? Về đây thấy anh vẫn khoẻ mạnh, em rất mừng… Anh là nhân chứng của một quá khứ hào hùng của đất nước. Nếu anh chết đi, tàn lụi như cỏ cây, không nhắn gửi gì lại cho các thế hệ sinh sau, theo em là một tổn thất không gì bù đắp được…”. Tôi lấy đưa anh xem số tài liệu liên quan đến ngày Đại lễ mồng 2 tháng 9 năm 1945, vừa sao chụp: (“ Em suy luận ra anh là Trưởng) ban Tổ chức Ngày Độc lập như trong tư liệu hiện còn giữ được. Em muốn được tận tai nghe anh kể lại những kỉ niệm, những hồi ức mà anh cho là sâu sắc nhất… mà nếu anh không dùng đến thì cho em xin”.
Anh im lặng rất lâu, dùng đũa tém lại những mảnh vụn thịt cóc, nhái trong đĩa, gắp bỏ vào bát mình những mảnh khác rớt xuống mâm ván. Anh chăm chú nhìn vào cái đĩa đã tém gọn, như đang gắng đọc những hồi ức in lại trong lớp men sành… Anh chợt nói, mắt vẫn không rời cái đĩa:
“Thấm thoắt thế mà đã bốn mươi bảy năm trôi qua… Tôi còn nhớ như in ngày hôm đó là ngày 28 tháng 8… Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc lịch sử phải được tính từng phút một… Năm đó tôi bước vào tuổi băm ba. Chính phủ cách mạng lâm thời họp tại Bắc Bộ phủ, để quyết định ngày lễ ra mắt quốc dân đồng bào… Hôm đó, tôi có việc cần phải giải quyết gấp, nên đến nơi thì phiên họp vừa giải tán. Vừa bước lên mấy bậc thềm thì thấy cụ Nguyễn Văn Tố từ trong phòng họp đi ra. Cụ mừng rỡ chụp lấy tay tôi, nói: “Anh vào ngay đi, cụ Hồ đang đợi anh trong đó”. Tôi theo cụ Tố vào phòng họp. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp mặt ông Cụ. Ông Cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ quần áo chàm, tay chống lên ba toong. Cụ Tố kéo tôi lại trước mặt Cụ, giới thiệu: “Thưa Cụ, đây là ông Nguyễn Hữu Đang, người mà phiên họp quyết định cử làm Trưởng ban Tổ chức ngày lễ”. Cụ Hồ nhìn tôi một lúc với cặp mắt rất sáng, cặp mắt mà về sau này nhân dân cả nước đồn rằng có bốn con ngươi – như muốn cân nhắc, đánh giá người mà Cụ quyết định giao trọng trách. Cụ hỏi tôi với giọng Nghệ pha, rất giống giọng cụ Phan Bội Châu mà có lần tôi đã được nghe: “Chính phủ lâm thời quyết định làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chín. Chú có đảm đương được việc tổ chức buổi lễ không?”. Tôi tính rất nhanh trong đầu: tháng 8 có 31 ngày, như vậy là chỉ còn 4 ngày nữa thôi... Tôi suy nghĩ cân nhắc trong từng phút. Hình dung ra tất cả những khó khăn như núi mà tôi phải vượt qua... để tổ chức được một ngày đại lễ như vậy, trong khi mình chỉ có hai bàn tay trắng. Tôi nói với Cụ Hồ: “Thưa Cụ, việc cụ giao là (quá khó vì gấp quá rồi”. Cụ Hồ nói ngay: “Có khó thì mới giao cho chú chứ!”). Anh Đang ngẩng phắt lên nhìn tôi. Vẻ già nua cùng quẫn trên con người anh như được trút bỏ hết. Dáng dấp oai phong, khí phách của người chiến sĩ cách mạng luôn luôn đứng ở hàng xung kích lại hiện nguyên hình.
“Như chú biết đấy - giọng anh vụt trở nên sang sảng – tôi là một nhà tuyên truyền, động viên thiên hạ, chuyên nghiệp. Thế mà lần này tôi lại bị ông cụ động viên một cách tài tình, bằng một lời thật ngắn gọn, giản dị! Nghe ông Cụ nói vậy lúc đó tôi thấy trong con người mình bừng bừng khí thế, muốn lập nên được những kì tích, những chiến công thật vang dội... Tôi nói với ông Cụ: “Thưa Cụ, Cụ đã nói như vậy con xin nhận nhiệm vụ. Con xin hứa sẽ cố gắng hết sức để hoàn thành trọng trách”. Cụ Hồ đứng lên, bắt tay tôi, dáng bộ, gương mặt nom rất vui vẻ, bằng lòng: “Thế thì chú trở về bắt tay ngay vào việc đi. Đến sáng ngày kia, chú đến đây báo cáo với tôi công việc được tiến hành như thế nào”. Tôi chào Cụ, ra về, lòng rạo rực lâng lâng... Nhưng khi vừa bước xuống hết những bậc thềm rộng thênh thang của Bắc Bộ phủ, tôi chợt nghĩ ra một điều. Tôi liền quay trở lại phòng họp. Cụ Hồ vẫn còn đứng đó. Cụ hỏi ngay: “Chú còn cần gì nữa?”. “Thưa Cụ, để hoàn thành trọng trách, xin Cụ trao cho con một quyền...”. “Quyền gì, chú cứ nói đi!”. “Thưa Cụ, quyền được huy động tất cả những gì cần thiết cho buổi lễ, về người cũng như về của...”. “Được, tôi trao cho chú cái quyền đó. Nếu ai hỏi huy động theo lệnh của ai, cho phép chú được trả lời: Theo lệnh của Chủ tịch H.C.M!”.
Công việc đầu tiên là tôi thảo một thông cáo ngắn gọn – anh gắp thêm mấy viên chả cóc trong bát hương, bỏ ra đĩa rồi kể tiếp - Nội dung như sau: ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chính phủ cách mạng lâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào, tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Đồng bào nào có nhiệt tâm, muốn đóng góp sức, góp của vào việc tổ chức ngày lễ lịch sử trọng đại này, xin mời đến Hội quán Trí Tri phố Hàng Quạt gặp Ban tổ chức. Thông cáo được gửi ngay đến tất cả các báo hàng ngày, yêu cầu đăng lên trang nhất, với hàng tít thật lớn chạy hết trang báo (... mất một dòng ...) ngoài chật kín Hội quán. Người ghi tên vào các công tác, người góp tiền, góp vàng, góp vải vóc, gỗ ván. Nhiều người từ chối không lấy giấy biên nhận: “Biết bao anh hùng, liệt nữ đóng góp cho nền độc lập của dân tộc, đâu có lấy giấy biên nhận“, họ nói vậy. Tôi mời mọi người dự cuộc họp chớp nhoáng, và đưa ra ý kiến: Việc cần thiết trước tiên là phải dựng một lễ đài Độc lập thật đẹp, thật lớn, thật uy nghi, xứng đáng với ngày lịch sử trọng đại này, tại trung tâm vườn hoa Ba Đình để Chính phủ cách mạng lâm thời đứng lên ra mắt. Vậy đồng bào nào hiện có mặt tại đây có thể đảm nhiệm trọng trách đó? Một người trạc ngoài ba mươi, ăn mặc lối nghệ sĩ, đeo kính trắng, bước ra nói: “Tôi là hoạ sĩ Lê Văn Đệ. Tôi xin tình nguyện nhận việc dựng lễ đài. Trưa nay tôi sẽ mang bản phác thảo lễ đài đến ban tổ chức xem xét”. Tôi bắt tay hoạ sĩ, nói: “Tôi được biết tên tuổi anh từ lâu và cũng nhiều lần được xem tranh của anh. Tôi xin thay mặt Ban tổ chức hoan nghênh nhiệt tâm đóng góp của anh. Nhưng Lễ đài Độc lập là một công trình kiến trúc, tuy dựng gấp rút, tạm thời, nhưng phải đạt những tiêu chuẩn không thể thiếu của nó như sự vững chắc, sự hài hoà công trình với tổng thể... Nói ví dụ nếu như không vững chắc, mấy chục con người đứng lên, nó đổ sụp xuống thì ngày lễ coi như thất bại. Bởi vậy cần một kiến trúc sư phối hợp với anh”. Một người trẻ tuổi ăn vận chỉnh tề, từ trong đám đông bước ra, tự giới thiệu: “Tôi là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh , cùng hoạt động trong Hội Văn hoá Cứu quốc với anh Phạm Văn Khoa. Hôm qua tôi được anh Khoa cho biết ý đồ của Ban tổ chức, tôi đã vẽ xong bản đề án thiết kế lễ đài”. Anh Quỳnh trải cuộn giấy can cầm sẵn trên tay lên mặt bàn. Đó chính là toàn cảnh lễ đài Độc Lập mà sau này chú được nhìn thấy in hình trên báo chí. Bản vẽ thật đẹp, thật chi tiết, tỉ mỉ... Lễ đài với tổng thể vườn hoa Ba Đình, vị trí dựng lễ đài, chiều cao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, cắt dọc lễ đài, độ lớn các xà gỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát v.v... Sau khi nghe anh Quỳnh thuyết trình, tôi xem xét, cân nhắc rồi đặt bút kí duyệt bản thiết kế, đóng dấu Ban tổ chức. Tôi nói với anh Lê Văn Đệ và anh Ngô Huy Quỳnh: “Ban tổ chức quyết định giao việc này cho hai anh (Các anh cần gì, chúng tôi) sẽ lo chạy đầy đủ, Hiện nay chúng tôi có một kho ba ngàn thước len đỏ , cần dùng bao nhiêu các anh cứ lấy dùng. Lễ đài phải được dựng xong trong vòng 48 giờ đồng hồ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 9, tôi sẽ đến nghiệm thu. Chúc các anh hoàn thành nhiệm vụ”.
Sáng ngày 31 tháng 8, tôi đến Bắc Bộ phủ gặp Cụ Hồ như Cụ đã chỉ thị. Sau khi nghe tôi báo cáo ngắn gọn, đầy đủ về tất cả mọi việc có liên quan tới ngày lễ, Cụ nói giọng hết sức nghiêm trang: “Chú phải nhớ ngày Mồng hai tháng Chín tới sẽ là một ngày lịch sử. Đó là ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.
*
“Ông Đang ơi! Ông Đang ơi!”, tiếng con nít gọi nheo nhéo ngoài cửa, ngắt ngang câu chuyện của anh. Tôi nhìn ra, thấy hai chú bé chạc 9, 10 tuổi, mỗi chú cầm một cành tre, đầu cành tre thõng thượt một con rắn nước, mình nhỏ bằng chuôi dao, đầu bị đập dập còn rỉ máu tươi: “Ông có đổi rắn nước không ạ?”. Anh Đang bỏ đũa bước ra cửa, xem xét cẩn thận hai con rắn nước, rồi hỏi: “Các cháu định đổi như thế nào?”. “Ông cho cháu mỗi con hai cái vỏ bao ba số”. “Các chú đừng có giở thói bắt chẹt”, giọng nói vá dáng bộ của anh đã chuyển sang giọng của dịch vụ đổi chác, “Mỗi con rắn này chỉ giá trị bằng hai con cóc. Nhưng thôi, thì ông cũng đành chịu thiệt vậy, mỗi con một vỏ bao ba số, các chú có đổi thì đổi, không đổi thì thôi”. Hai chú bé ngần ngừ một lúc, rồi nói: “Chúng cháu đổi ạ”. Anh quay vào mở khoá tủ, chọn lấy ra hai cái vỏ bao ba số, đưa cho mỗi chú một chiếc, và cầm lấy hai con rắn. Hai chú bé cũng xem xét hai cái vỏ bao cẩn thận không kém ông Đang xem xét hai con rắn. Một chú nói: “Ông đổi cho cháu cái vỏ bao khác, cái này bên trong không có tờ giấy vàng”. Anh cầm lấy cái vỏ bao xem lại, cười: “Được, ông sẽ đổi cho vỏ bao khác. Sau này chú mà làm cán bộ thu mua thì Nhà nước sẽ không phải chịu thua thiệt”.
Anh cầm hai con rắn bỏ vào cái rổ con ở góc nhà, mặt tươi hẳn lên, như người buôn bán vừa vớ được món hời: “Thịt rắn còn bổ hơn thịt nhái. Tối mai tôi sẽ đãi chú món rắn om riềng mẻ. Ăn vào (... mất một dòng..) Tân Đệ.
*
Tôi ở lại chơi với anh Đang ba ngày, thuê một anh phó nháy ở xã trên xuống chụp mấy pô ảnh làm kỉ niệm. Bữa cơm tiễn tôi, anh có vẻ buồn. Vừa dùng đũa tém tém mấy khúc rắn om mặn chát nổi muối trong đĩa, anh vừa nói: “Hiện nay tôi đang cố gắng hoàn thành thiên hồi ký thuật lại tất cả những gì có liên quan đến thế sự, kể từ khi tôi bước chân vào con đường hoạt động cách mạng cho đến những năm tháng gần đây... Trong hồi ký, tôi sẽ đề cập đến những việc mà từ trước đến nay tôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như bản thảo “Tuyên ngôn Độc lập” Cụ Hồ viết... còn hay mất, nếu còn thì bây giờ đang ở đâu... Hoặc cụ định sửa hai câu trong bản “Tuyên ngôn”, nhưng không kịp vì bản chính đã đưa in mất rồi. Là Trưởng ban Tổ chức ngày lễ, tôi phải phụ trách việc in ấn những tài liệu có liên quan đến vận mệnh đất nước này, nhưng ... như chú biết đấy, hiện nay trong Bảo tàng H.C.M cũng như Bảo tàng Lịch sử, không có bản thảo “Tuyên ngôn Độc lập” ... Tôi sợ sẽ làm không kịp mất, gần tám chục tuổi đầu rồi còn gì, mà lại không có điều kiện làm việc, ban đem coi như chịu chết, đèn đóm tù mù, đúng là đóm thật”... Anh im lặng một lúc lâu, rồi ngẩng lên nhìn tôi, hỏi tiếp: “Chú có biết điều lo lắng nhất của tôi hiện nay là gì không?”, không đợi tôi đoán, anh nói luôn: “Tôi lo nhất là không biết chết ở đâu. Lúc sống thì tôi ở nhờ nhà ai chẳng được, ở đây cũng như ở trên Hà Nội... Nhưng lúc chết thì người thân mấy cũng làm phiền người ta. Có ai muốn một người không phải ruột ra máu mủ lại nằm chết trong nhà mình? Ngay cả cái chái bếp này cũng vậy, tôi nằm chết sẽ làm phiền đến nhà trường, các thày các cô, các cháu học sinh... Bởi vậy mà hai năm nay tôi không muốn lên Hà Nội. Ở đây, tại quê hương bản quán, tôi đã chọn sẵn chỗ để nằm chết... Chú ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây cũng nhìn thấy...”.
Tôi theo anh ra đứng trên cái trụ xi măng cầu ao cá. Gió mùa đông bắc lạnh thấu xương thổi thốc vào mặt hai anh em. Anh chỉ tay về phía một búi tre gần cuối xóm, đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tre đang vật vã trong gió buốt. “Đấy, dưới chân búi tre ấy có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ đầy lá tre rụng, rất vừa người tôi... Tôi sẽ nằm đó chết để khỏi phải phiền ai... Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay...”
Trở vào nhà, cả người tôi nổi gai, ớn lạnh, chắc là bị cảm... Tôi dốc hết rượu ra bát uống ực một hơi chống lạnh. Rượu vào lời ra, tôi cất giọng ngâm to mấy câu thơ của Phùng Cung gửi tôi mang về tặng anh:
Mặt ra giông chớp
Rạc mái phong lưu
Gót nhọc men về thung cũ
Quỳ dưới chân quê
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lương
Chút thổ phần bò xéo cuối thôn!
(Tháng 12.1992)
Sửa bởi tuphuongsg: 16/07/2019 - 21:51
Thanked by 1 Member:
|
|
#63
Gửi vào 17/07/2019 - 21:31
Tác giả: Trần Thắng
Hà Nội sắp vào thu, một mùa “vu lan báo hiếu” sắp đến. Tôi lại nhớ tới những ngày này của 15 năm trước.
Sau Tết Nhâm Ngọ (2002), Cha tôi – Trần Độ trở bệnh nặng.
Cha tôi lại vào bệnh viện Hữu Nghị với chẩn đoán ung thư bàng quang. Nằm ít lâu, sức khoẻ ông xuống rõ do suy hô hấp, tháng 5/2002 ông phải đưa ống xông vào để thở và nằm ở phòng cấp cứu. Mặc dù nằm một chỗ, không nói được, đi tiểu qua ống dẫn nhưng ông vẫn tỉnh táo. Ông rất vui khi có người thân, bạn bè tới thăm. Không nói được nhưng ông ra hiệu hoặc bút đàm với mọi người. Giữa tháng 7/2002, ông ra hiệu cho tôi về lấy di chúc của ông ra đọc và thực hiện các việc ông dặn. Trong di chúc ông viết: xin được hoả thiêu và hài cốt đưa về nằm bên mẹ ở nghĩa trang làng Thư Điền, xã Tây Giang, huyện Tiền Hải.
Vào 14g 10p ngày 9/8/2002 (tức 1 tháng 7 năm Nhâm Ngọ) Cha tôi trút hơi thở cuối cùng tại phòng cấp cứu, bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội.
Ngày hôm sau, Văn phòng Quốc hội họp với gia đình bàn về lễ tang cho ông. Các vấn đề lễ tang, hoả táng, đưa hài cốt về quê… được thống nhất. Lời điếu của Ban tổ chức lễ tang, và lời cảm ơn của gia đình sẽ được soạn trước và đưa hai bên thống nhất. Gia đình đề nghị có 4, 5 quyển sổ tang để mọi người chia buồn, Văn phòng Quốc hội đồng ý. Đám tang được lùi lại 5 ngày vì… Quốc hội đang họp.
Ngày 11/8, anh Hùng phó Ban lễ tang mang tới nhà cho tôi xem lời điếu. Trong đó có một đoạn khoảng chục dòng tôi yêu cầu bỏ vì nó “không thích hợp” và trái đạo lý “nghĩa tử nghĩa tận” của ông bà ta. Tối đó anh Hùng đưa tôi bản sửa, chỉ còn lại hơn một dòng “không thích hợp” và tôi cương quyết đòi bỏ. Anh Hùng nói: Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư cho ý kiến là không bỏ, nhưng tại lễ tang sẽ đọc rất nhỏ hoặc tạm tắt tăng âm… Tôi nói: Tuỳ các ông, nhưng nếu xảy ra chuyện gì gia đình không chịu trách nhiệm. Còn lời cám ơn của gia đình tôi đã soạn và đánh máy. Anh Hùng xem và không có ý kiến gì.
Sáng 14/8/2002, gia đình, họ hàng, thân bằng quyến thuộc của Cha tôi đã có mặt rất sớm ở nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông.
Cảm nhận đầu tiên là vấn đề an ninh: không hiểu sao công an, bộ đội, người đứng chỉ trỏ… rất đông. Cảm nhận tiếp theo là: không khí rất căng thẳng như có gì đó chống đối nhau. Cảm nhận nữa là: tại sao việc kiểm soát vòng hoa tang, băng tang, các bức trướng… lại nghiêm ngặt đến vậy? Nhiều vòng hoa phải thay băng tang hoặc sửa câu chữ, nhiều bức trướng bị thu giữ…
Tôi và mọi người tang phục chỉnh tề bước vào nhà tang lễ. Đập thẳng vào mắt tôi là dòng chữ “Lễ tang ông Trần Độ” trên một tấm bảng lớn phủ kín dòng chữ “Vô cùng thương tiếc…” lâu nay vẫn gắn trên tường. Đi tới bàn ghi sổ tang tôi thấy trên 5 bàn có 5 tập giấy trắng khổ A4. Tôi hỏi cán bộ Ban lễ tang: Sổ tang đâu? Anh ta nói: Sau đám tang sẽ đóng thành sổ. Tôi nói: Đã thống nhất sổ tang là sổ tang, ban tổ chức không có gia đình sẽ đưa tới. Một lúc sau, 5 quyển sổ tang đã đóng được đưa vào thay cho 5 tập giấy rời.
Đám tang được cử hành, các đoàn, các nhóm, các cá nhân lần lượt vào viếng. Băng tang hầu hết không có chữ “vô cùng thương tiếc” hoặc “Trung tướng Trần Độ”.
Xen kẽ là các bức trướng:
– “Nhân văn danh tướng. Trung dũng vẹn toàn”;
– “Công thần không làm phách
Danh toại chẳng cầu nhàn
Bút thần vung mấy độ
Ðáng mặt đại nghĩa quân”
– “Vì đại nghĩa nhân chân, thân mấy độ trần thân
Tướng dẫu không nguyên giáp, hồn vẫn vẹn tình dân”.
– “Vô tình vị tất chân hào kiệt
Hữu độ phương vi đại trượng phu”…
Theo sau là các cụ già, các cựu chiến binh, các nhân sĩ… Họ mang trướng theo hoặc giấu trong người. Khi tới gần quan tài họ giương lên hoặc phủ lên áo quan. Cả phòng tang lễ im phăng phắc, không khí căng thẳng dần.
Khi các cụ đi khỏi, có vị nói với mấy cậu lính gì đó. Hai cậu lính chạy lên, thu mấy bức trướng, cuộn lại và ném vào góc phòng. Tôi gằn giọng: các cháu đâu? Lập tức cháu Đan, cháu Tuấn… lao lên góc phòng, mang tất cả các bức trướng sắp xếp lại như cũ. Không một tiếng động nào, không một hành động nào xảy ra trong lúc đó, nhưng ngột ngạt đến tức thở.
Các đoàn viếng đã gần xong. Bỗng anh Nghiêm Hà đến bên tôi nói: Ban tổ chức định thu giữ mấy quyển sổ tang, anh ra xem sao? Tôi đi đến thì thấy một anh đang gom giữ mấy quyển sổ tang. Tôi nói: anh để tôi xem. Mở một quyển tôi thấy có những trang bị xé nham nhở. Tôi hiểu ngay họ muốn gì. Tôi lấy lại 5 quyển sổ tang và chợt nhìn thấy em Lãng (chồng em Hạnh), một bác sĩ quân y đã qua các chiến trường. Tôi nói lớn: Lãng! Em giữ 5 quyển sổ này không cho ai lấy. Em có làm được không? Lãng cũng nói lớn như đang nhận lệnh: Rõ, em làm được.
Tôi vội về vị trí để làm lễ truy điệu. Ông Vũ Mão đọc lời điếu. Ông đọc to, rõ toàn văn lời điếu kể cả câu mà theo anh Hùng nói hôm trước là sẽ đọc nhỏ nhất có thể.
Hội trường im lặng, có tiếng ho, tiếng khóc ấm ức cứ lớn dần.
Tôi lên đọc lời cảm ơn. Tôi đọc bản soạn sẵn đã đưa Ban lễ tang duyệt. Gần về cuối, hình ảnh tập giấy A4 thay sổ tang, hình ảnh người lính ném mấy bức trướng vào góc phòng, hình ảnh đòi thu giữ sổ tang và nhiều chi tiết đau lòng khác làm tôi nghẹn giọng. Vẫn cầm tờ giấy như đang đọc nội dung có sẵn, tôi nói to, chậm, rõ: “…gia đình và dòng họ chúng tôi không chấp nhận bài điếu văn này…”.
Lập tức tiếng tôi chìm trong tiếng vỗ tay, tiếng hô vang của mọi người dự tang lễ. Lúc đó tôi không cảm nhận hết không khí của buổi lễ, tôi cố gắng làm tròn bổn phận của mình, nhưng trong tôi mọi thứ như vỡ vụn. Thật không ngờ tôi phải tham gia một đám tang… rất buồn như vậy.
– con trai tướng Trần Độ
Thanked by 1 Member:
|
|
#64
Gửi vào 21/07/2019 - 21:41
Trần Đức Thảo (1917- 1993), người Bắc Ninh, tốt nghiệp thạc sĩ Triết học năm 1942 tại Pháp, nổi tiếng thông minh, xuất sắc, được xem là Triết gia của Việt Nam trong thế kỷ 20. Năm 1946, tại Paris, ông Thảo nói với Chủ tịch H.C.M : “Tôi xin được về VN, hợp tác với cụ, đóng góp xây dựng đất nước”. Lời đề nghị ấy bị từ chối. Gần đây có người bình luận rằng chàng trẻ tuổi Thảo đã dùng cách xưng TÔI và dùng từ HỢP TÁC, không hợp lỗ tai của lãnh tụ. Dùng từ như thế có ý xem mình bình đẳng với cụ, gieo hạt giống cho mọi tai họa về sau.
Vì những hoạt động yêu nước, ủng hộ Việt Minh, ông Thảo bị Chính phủ Pháp ngăn cản, bắt bớ. Năm 1952 ông trốn qua Luân Đôn, qua Liên xô, Trung quốc, về Việt Bắc với mong ước khát khao đem trí tuệ để thực hành Chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước tự do, dân chủ theo lý thuyết của Mác. Thế nhưng qua Cải cách ruộng đất, qua những việc làm của Đảng Lao động, qua tiếp xúc trực tiếp với H.C.M và các lãnh đạo khác ông nhận ra thực tế và lý luận quá khác nhau. Năm 1955 ông được phong GS triết, làm Chủ nhiệm khoa và Phó Giàm đốc ( Hiệu phó ) trường Đại học Sư phạm. Năm 1957, vì viết bài cho báo Nhân văn, cổ vũ cho tự do dân chủ mà bị đấu tố, bị cách chức, bị vô hiệu hóa trong công việc, bị đẩy vào tình cảnh cuộc sống cơ cực. Năm 1961 ông cưới vợ, là cô bạn học cũ ở Pháp về, nhưng nhanh chóng phải ly hôn vì khổ quá, không thể sống chung. Từ 1967 ông sống độc thân, không vợ con, không gia đình, gần như không có bạn bè và đồng nghiệp công khai ( vì người ta sợ bị liên lụy).
Trong hoàn cảnh cùng khốn về vật chất và bị hạn chế tự do, ông vẫn nghiên cứu, vẫn sáng tác, viết nhiều bài báo gửi đăng ở Pháp, viết một số cuốn sách . Trần Đức Thảo là người nghiên cứu về “ Hiện tượng luận” thuộc hàng số 1 của thế giới.
Năm 1991, nhờ được vài sự giúp đỡ từ bạn bè, ông được cho đi Pháp. Ở Paris, ngoài những hoạt động bình thường như tiếp xúc với bạn bè, kiều bào, thuyết trình, ông có 2 việc quan trọng : 1- Bí mật tiếp xúc với phóng viên Phan Ngọc Khuê, kể cho ông Khuê nghe, ghi âm những suy nghĩ và tâm sự sâu kín. 2- Công khai nói về một quyển sách ông đang viết, sắp hoàn thành với nội dung phê phán Mác, phê phán chủ thuyết c.... s... Quyển sách đó là kết tinh trí tuệ của ông, nơi ông vận dụng kiến thức về triết, lịch sử của nhân loại để chứng minh sự sai lầm và sự sụp đổ tất yếu của Chủ nghĩa Mác .
Ông tạm trú tại nhà khách của Sứ quán. Bạn bè lo cho sự an toàn của ông nên đã thuê nhà để ông dọn đi. Đang chuẩn bị dời chỗ ở thì ông bị ngộ độc, cấp cứu vào bệnh viên được hơn 1 ngày thì chết. Sau khi ông chết, thi hài được nhanh chóng hỏa táng, Bản thảo của quyển sách và các tài liệu bị niêm phong, giao nộp cho cơ quan an ninh của đảng. Thế là quyến sách chưa kịp ra đời đã bị tịch thu. Sau khi ông chết Nhà nước có xét tặng Huân chương Độc lập và Giải thưởng H.C.M, các trường đại học, viện nghiên cứu tổ chức các hội thảo, ra các tuyển tập lớn về các công trình của ông, tuyên dương ông là nhà Macxit chân chính. May mắn thay những điều ông tâm sự với Phan Ngọc Khuê, sau khi ông Thảo chết đã được ông Khuê xuất bản thành sách, ban đầu lấy tựa đề Lời tự thú lúc hoàng hôn, sau đổi thành : TRẦN ĐỨC THẢO NHỮNG LỜI TRĂNG TRỐI.
Đọc quyển sách này tôi chú ý đến 2 chương. Chương 12 : Giải mã lãnh tụ, trình bày những nhận xét, đánh giá của ông về Cha già dân tộc, chỉ ra những điều , chứng minh những luận điểm mà tuyên truyên chính thống không bao giờ đụng đến. Chương 14- Đích danh thủ phạm, vạch rõ những sai lầm của Mác, những tội ác của phong trào c.... s...
Trần Đức Thảo đã gần suốt đời ủng hộ Mác, được cho là người Macxít mẫu mực, đến cuối đời bỗng ngộ ra, phản tỉnh, nhưng vẫn không kịp trở tay, chịu chết trong lúc chưa hoàn thành được trọn ven nguyện ước , chết rồi vẫn bị người ta lợi dụng tiếng tăm để tuyên truyền. Nhà văn Phùng Quán đã viết một truyện khà hay về bi kịch cuộc đời Trần Đức Thảo.
Tôi chưa tìm thấy kết luận nào chắc chắn về cái chết của ông, chỉ có nghi ngờ ông bị đầu độc. Chưa ai công bố kết quả điều tra. Chỉ có giả thuyết sau đây tạm được chấp nhận. Ở phòng tầng 1 của nhà khách sứ quan có một thùng nước uống với vài cái cốc nhựa, phục vụ chung. Người ta quan sát thấy ông Thảo mỗi lần đi đâu về hay uống nước ở đó. Hôm ấy, biết ông Thảo đang đi ra ngoài, có người lạ đến chờ sẵn. Khi phát hiện ông Thảo đã về, sắp vào nhà, người lạ đến uống nước, bí mật, nhanh chóng lấy hết cốc hiện có, đặt vào đó 1 cốc mới giống hệt, rồi tìm cách theo dõi. Ông Thảo vào nhà, rót 1 cốc nước, uống xong đi về phòng. Người lạ nhanh chóng thu hồi chiếc cốc và đặt trở lại các cốc cũ. Khi ông Thảo bước lên cầu thang thì bị ngã, nôn mửa…Người ta gọi xe cấp cứu và không cứu được.
Quyển sách Những lời trăng trối hiện có trên mạng, các bạn quan tâm có thể đọc hoặc tải xuống. Sau khi các bạn đã thử tìm trên mạng mà không thể tìm được thì có thể yêu cầu, tôi sẽ tìm cách giúp, nhưng chỉ nên hạn chế trong phạm vi năm bảy người, đông quá tôi không đáp ứng xuể.
Vừa rồi viết về Nguyễn Mạnh Tường, có bạn yêu cầu viết về Trần Đức Thảo.Năm 2017, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, tôi viết bài này để bạn nào quan tâm mà chưa có tài liệu có thể. tham khảo..
Nguyễn Đình Cống
30/10/2017
Hành trình cuối cùng của triết gia Trần Đức Thảo
Cái chết là một điều khủng khiếp. Không ai không nguyền rủa cái chết.
Nhưng lần này tôi phải tạ ơn cái chết. Vì một lẽ, nhờ cái chết mà tôi và rất nhiều người khác trong nước, qua các báo chí: Nhân dân, Văn nghệ, Giáo dục và Thời đại… được biết rằng đất nước chúng ta đã từng sinh ra một triết gia tầm cỡ quốc tế…
Vì đây là “một con người siêu việt của Việt Nam đã đành, mà còn đáng cho nền văn hoá Pháp tự hào. Con người đó cũng có phần cấu thành của chung nhân loại” (Lời giáo sư đại học Nguyễn Đình Chú trong một bài viết của ông).
Chúng tôi được biết nhiều tác phẩm triết học của triết gia đã được xuất bản ở Pháp, ở Anh, ở Mỹ, ở Tây Ban Nha, ở Nhật, ở Đức, ở Hung-ga-ri…
Một số nước ở châu Âu đề nghị được mời triết gia sang để trao đổi vấn đề con người, về Hêghen.
Chúng tôi được biết, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trong một cuộc họp báo tại Paris, một phóng viên hỏi triết gia: “Nếu quân đội viễn chinh Pháp đổ bộ lên đất nước ông, thì nhân dân ông sẽ đón tiếp như thế nào?”.
Triết gia trả lời: “Nổ súng!”.
Và vào năm 1949 – 1950, khi những người lính chúng tôi, nhiều người vừa đọc vừa đánh vần và không ít người chưa thoát nạn mù chữ, thì tại đất Pháp, triết gia luận bàn với ông J-P. Sartre – một trong những cây đại thụ triết học và văn học Pháp về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa hiện sinh.
Triết gia ấy đã bảo vệ một cách kiên quyết sự đúng đắn toàn vẹn, vô song của chủ nghĩa Mác…
Triết gia đã cầm vũ khí triết học chia lửa cùng quê hương trong cuộc kháng chiến trường kỳ.
Cảm thấy như vậy vẫn chưa đủ, năm 1952, triết gia đã từ bỏ tất cả vinh quang, tiền bạc, tiện nghi và phương tiện nghiên cứu học thuật, trở về Tổ quốc theo con đường Paris – Luân Đôn – Praha – Matxcơva – Bắc Kinh – Việt Bắc để được cùng ăn rau tàu bay chấm muối với chiến sĩ và cùng run những cơn sốt rét rừng…
Và triết gia đã nhận công tác tại văn phòng Tổng bí thư rồi uỷ viên Ban Văn Sử Địa – nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, phó giám đốc Trường Đại học Sư phạm Văn khoa, chủ nhiệm khoa Sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, chuyên viên cao cấp Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
Năm đã ngoài bảy mươi tuổi, triết gia đã bay sang Pháp để hoàn thành tác phẩm triết học Mácxit quan trọng của đời mình: “Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người”.
Triết gia đã trút hơi thở cuối cùng nơi đất khách quê người, khi tác phẩm còn viết dở dang…
Triết gia có tên là Trần Đức Thảo.
Lần này triết gia trở về Tổ quốc trong khoang hành lý máy bay, chiếm một chỗ hết sức khiêm nhường.
Triết gia đã hoá thân thành tro nằm trong cái bình bằng kim loại sơn màu xanh thẫm hơi giống một chiếc cúp bóng đá và cũng to bằng cỡ đó.
Về đến Hà Nội, vì không gia đình vợ con và không có cơ quan nào và trường đại học nào trước đây triết gia đã từng công tác và giảng dạy nhận về để thờ hoặc quản, nên triết gia phải tạm trú dưới cái gầm cầu thang của nhà tang lễ thành phố 125 phố Phùng Hưng, Hà Nội.
Được biết tin này tôi tìm đến thắp hương và lễ triết gia với lòng ngưỡng mộ sâu xa đối với một nhân tài của đất nước.
Gầm cầu thang nhà tang lễ thành phố từa tựa cái hang và được ngăn thành ba hốc, mỗi cái hốc là một phòng dành cho cả các bình tro hài cốt tạm trú trước khi có người đến nhận.
Ba phòng trú phần thiết kế và trang trí nội thất đều giống nhau. Mỗi phòng rộng chừng bảy, tám thước vuông.
Trần phòng thấp, đổ dốc về phía trong theo độ dốc của cầu thang. Một cái bệ xi măng quét vôi vàng và giữa trần là một quầng đen ám khói hương.
Bên trên trần là những bậc cầu thang lên tầng hai của ngôi nhà. Tiếng giày, tiếng guốc lên xuống, lên xuống rậm rịch…
Triết gia tạm trú ở phòng số ba, kể từ ngoài cửa vào. Tuy các phòng không đề số phòng, nhưng không có cửa nên cũng dễ tìm.
Bình tro đặt trong cái hộp các-tông xung quanh phết giấy điều. Trước bình tro là bát hương, sau bình tro, trên tường dán tấm giấy điều với mấy chữ nho nguệch ngoạc.
Lúc tôi đến thì hai phòng một, hai đều bỏ trống, và hình như đã lâu không có ai thuê, vì cả hai bát hương đều gày guộc chân hương.
Nhìn cái bệ xi măng, bát hương, hộp các tông đựng bình tro, tấm giấy điều dán trên tường với mấy chữ nho nguệch ngoạc, nghe tiếng giày guốc rậm rịch, sát ngay trên đỉnh đầu, tôi bỗng chợt nhớ câu thơ của Oantơ Uýtman trong tập “Lá cỏ” thiên tài của ông: Nếu chết, tôi xin phó thân cho bùn đất để tái sinh làm ngọn cỏ tôi yêu, hãy tìm dưới đế giày của các bạn.
Tôi được biết, triết gia là người chiếm kỷ lục thời gian tạm trú ở đây. Năm mươi ngày đêm. Và mỗi ngày đêm tiền thuê phòng là 5 ngàn đồng.
Tôi nói vui với một cán bộ của công ty: “Thế này thì giá tiền phòng đắt bằng khách sạn ba sao rồi còn gì…”.
Anh ta cãi: “Đắt sao bằng! Tiền phòng khách sạn ba sao mỗi ngày đêm ít nhất là một trăm năm chục ngàn. Nếu khách quốc tế thuê, trả bằng đô thì giá còn cao hơn…”.
Tôi nói: “Nhưng diện tích phòng của các anh là diện tích tranh thủ, chưa đầy mét vuông, không gian chỉ hơn nửa thước khối. Khách thuê phòng không phải dùng đến giường đệm, chăn màn, ti vi, tủ lạnh, điện thoại riêng, máy điều hoà nhiệt độ, toa lét, nhân viên phục vụ… tính chi li, theo tôi còn đắt hơn cả khách sạn 5 sao!”.
Triết gia phải tạm trú lâu như vậy là để chờ quyết định trên, có được đưa vào Mai Dịch hay phải về Văn Điển.
Tôi tính rằng nếu tro trong bình kia biết nói thì tro sẽ nói: “Người cách mạng không nên đòi hỏi hưởng thụ quá những tiêu chuẩn mà cách mạng đã quy định. Tôi mới đủ tiêu chuẩn Văn Điển sao lại cứ đòi hưởng vượt tiêu chuẩn Mai Dịch? Thói đặc quyền đặc lợi đã làm hư hỏng biết bao nhiêu con người tốt! Nên đưa tôi đi sớm ngày nào hay ngày ấy để đỡ tốn kém tiền của nhân dân!”.
Sau năm mươi ngày chờ đợi, tốn mất hai trăm năm chục ngàn tiền phòng, triết gia đã được trên quyết định đưa về mai táng tại khu A Văn Điển, khu vĩnh viễn, hưởng thụ đúng tiêu chuẩn quy định.
Sáng ngày 20-6-1993, tôi may mắn được cùng với bà con thân thích, mấy người học trò xưa, người vợ cũ từng tốt nghiệp đại học Sorbonne của triết gia, và một số cán bộ lãnh đạo của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, đưa tiễn triết gia đoạn hành trình cuối cùng của đời ông.
Khu A nghĩa trang Văn Điển có hàng nghìn ngôi mộ xếp thành hàng thẳng tăm tắp, được xây giống nhau, giống hệt những căn hộ khép kín của các khu nhà lắp ghép.
Các hàng mộ cũ đều đã kín chỗ, nên mộ của triết gia “được đánh giá là một trong những nhà triết học hàng đầu của thế kỷ” (tuần báo Văn nghệ tháng 5 – 1993), tác giả của Phương pháp hiện tượng học của Husserl, Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng, Nguồn gốc ngôn ngữ và Ý thức, Triết học đã đi đến đâu… là ngôi mộ mở đầu cho một hàng mới.
Nhìn ngôi mộ đơn độc đang xây trát dở dang, tôi thầm nghĩ: “Triết gia nằm ngay ở đầu hàng lại hoá hay, giống như ở tầng trệt của khu nhà tập thể cao tầng.
Ông sẽ tránh được cái nạn vào nhầm mộ người khác, như ngày còn ở khu tập thể Kim Liên, ông ở tầng ba nên ông thường xuyên vào nhầm phòng ở các tầng dưới”.
Mộ của ông khá đặc biệt. Bình tro được đặt trong tiểu sành, tiểu sành được đặt dưới khuôn huyệt bên trên có nắp bê tông đậy kín.
Như vậy là ông được mai táng theo cách các nhà giàu có xưa: trong quan ngoài quách.
Đây có lẽ là sự xa xỉ độc nhất trong cuộc đời triết gia quá ư thanh bạch của ông, mà nếu biết được, tôi tin chắc ông sẽ kịch liệt phản đối.
Lúc bình tro hạ huyệt, tôi châm nén hương lễ ông, và khấn thầm: “Anh Thảo ơi, xin anh đừng quá nghiệt ngã với bản thân đến thế… Với tất cả công tích, tài năng, trí tuệ trác việt và những tác phẩm triết học mà anh đã trọn đời dâng hiến cho Tổ quốc, cho nhân loại, cho sự toàn vẹn vô song của chủ nghĩa Mác, thì anh cũng có quyền được hưởng một chút xíu xa xỉ như vậy…”.
Trích Ba phút sự thật, Phùng Quán
Thanked by 1 Member:
|
|
#65
Gửi vào 23/07/2019 - 21:48
Vừa đậu tú tài 1 xong, anh tình nguyện đi Thủ Đức ngay và vào binh chủng dù. Mặc dù ba là sĩ quan cao cấp hậu cứ sư đoàn dù, có đủ khả năng giữ anh làm việc ở hậu cứ nhưng anh cứ xin ba cho đi chiến trường, không gì có thể ngăn trở con đường anh được. Là một sĩ quan trẻ, thông minh của tiểu đoàn 3 pháo binh Dù, anh được nhiều đồng đội và cấp chỉ huy thương yêu.
Đeo lon thiếu úy ,rồi không lâu sau đó anh lên trung úy năm anh vừa 24 tuổi.Chiến trường những năm ấy thật khốc liệt, trải qua những trận đánh đẫm máu tại Huế năm Mậu Thân, Cambodia... Năm 1971, anh nhận lệnh lên đường tham gia chiến trường Hạ Lào, chiến dịch Lam Sơn 719, thời điểm đó anh là trung uý phó ban 3, phụ tá cho đại uý Đào văn Thương, cùng chung một hầm với bộ chỉ huy Lữ đoàn.
Mỗi lần anh tôi đi trận là mẹ tôi như ngồi trên lửa, bà chạy vạy chỗ này chỗ kia để hỏi thăm tin tức về anh. Lần này cũng như những lần trước đó, nhưng than ôi, lần này không như trước được nữa rồi... Mẹ đã khóc ngất về nguồn tin anh bị địch quân bắt giữ cùng với đại tá Thọ lữ đoàn trưởng, trung tá Châu tiểu đoàn trưởng TĐ 3 pháo binh dù, thiếu tá Đức...ngay trên ngọn đồi máu lửa ấy, ngọn đồi 31, mà giờ đây có lẽ khá nhiều người biết đến. Ba tôi ra vào, liên lạc thường xuyên với căn cứ SĐ dù để biết thông tin về anh tôi, nhưng tất cả thông tin đều mù mờ...
Sau một thời gian, theo một nguồn tin xác đáng, do các anh trở về từ ngọn đồi ấy kể lại :lúc anh tôi bị địch quân bắt giữ cùng với một số SQ khác tại hầm chỉ huy, anh và các sĩ quan cao cấp ấy bị trói tay, đánh đập, hành hạ, mắng chửi... anh đã phản đối cách cư xử thô bạo, vô văn hóa của "bên thắng cuộc"ấy, anh đòi hỏi phải cư xử đúng quy ước quốc tế đối với tù binh chiến trường cấp sĩ quan. Lẽ dĩ nhiên yêu cầu ấy không được đáp ứng của kẻ thù máu lạnh, mâu thuẫn xung đột này càng lúc càng nặng nề hơn, anh chống trả mãnh liệt hơn và sau đó, chuyện gì đến đã đến, anh đã bị kết liễu cuộc đời bằng một tràng AK 47 của bên thắng cuộc, của những sát thủ còn trong tuổi vị thành niên...(Có rất nhiều chiến binh CS tuổi đời rất trẻ tham dự trận đánh Hạ Lào 1971)
Thắm thoát đã hơn 40 năm kể từ ngày anh không về, hàng năm gia đình vẫn tổ chức một mâm cơm cúng nho nhỏ cho anh trong một ngày "áng chừng" mà Mẹ tôi đã đi chùa, xem bói, gọi hồn, cảm xạ học... 18/2 âm lịch.
Mãi cho đến giờ này anh vẫn chưa được đoàn tụ với gia đình, thân xác hình hài anh vẫn còn vất vưởng đâu đó trên ngọn đồi đau thương ấy, khô khốc với những ngọn gió Lào khắc nghiệt. Có lẽ anh chịu khá nhiều thiệt thòi do anh không được một vòng hoa vinh danh, không được tổ chức một đám tang u buồn nho nhỏ với chiếc quan tài được phủ quồc kỳ,và nhất là vẫn không được vinh thăng lên "cố đại úy" Lý văn Quân; vì trong văn thư hành chánh chỉ ghi nhận : "MẤT TÍCH TRẬN" ! Dạ vâng anh đã mất tích thật, trung úy Lý văn Quân mất tích đã gần 50 năm nay...không có thông tin nào về anh nữa, thật vô vị và nhàm chán tưởng như đã rơi vào quên lãng ...
Nhân tiện đây, xin phép được thay mặt cho gia đình để gởi đến tất cả các bác, cô chú, anh chị em lời cảm tạ chân thành nhất vì đã gởi lời chia buồn, chia sẻ tình cảm thân thương,yêu mến... đến gia đình chúng tôi. Sau gần 50 năm, cõ lẽ nơi chín suối, tưởng như đã bị lãng quên, Anh vui lắm...
Cali tháng 1/2018
Quyen Van
Thanked by 1 Member:
|
|
#66
Gửi vào 26/07/2019 - 20:24
Bút ký của ông Nguyễn quang Thành
Nguyên Giáo sư trường Nữ trung học Đà nẵng
Lời người viết:
-Bài viết này là nén nhang thắp lên để tưởng nhớ anh tôi là Nguyễn quang Khóa, nguyên Trung tá phi công phản lực, Trưởng phòng kế hoạch Không đoàn 41 Chiến thuật, xuất thân khóa 61A SVSQKQ đã chết tại trại tù số 3 Kỳ sơn, Tam kỳ, tỉnh Quảng nam.
-Chân thành cảm ơn anh Phan Trừng,và anh Dan Hoài Bửu, nguyên Trung tá phi công phản lực, bạn học cùng khóa của anh tôi, đã giúp tôi hoàn thành bút ký này.
Xin đa tạ.
Gia đình tôi ít anh em. Không phải do ba mẹ tôi hiếm muộn mà do thời gian ba tôi ở Pháp khá lâu. Hơn mười năm từ khi mẹ tôi sinh ra anh, hai ông bà mới gặp lại nhau, nên tôi kém anh tôi đúng một con giáp.
Mặc dù khoảng cách tuổi tác sai biệt khá nhiều, nhưng anh em tôi đều có điểm tương đồng là yêu thích toán học và ôm mộng viễn du. Vì thế chúng tôi đều học ban khoa học Toán và tình nguyện gia nhập quân đội sau khi đậu tú tài toàn phần:
“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai, nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”
Mùa hè 1960, anh tôi nhập học khóa 61A SVSQKQ. Khoảng tháng sau lại có giấy báo nhập học ban Toán của trường Đại học sư phạm gửi về nhà, ba tôi mở ra, đọc đi đọc lại nhiều lần, mặt đăm chiêu, ra chiều nghĩ ngợi nhiều lắm.
Mười năm sau, tôi cũng vừa thi vào đại học sư phạm, đồng thời làm đơn xin gia nhập trường Võ bị Đà lạt để được sống và học tập trong khung cảnh hào hùng và thơ mộng của vùng đất cao nguyên, mà tôi đã bị quyến rũ trước đây qua bài “Ai Lên Xứ Hoa Đào” của nhạc sĩ Hoàng Nguyên và một số hình ảnh của người sinh viên sĩ quan Đà lạt trong đoạn phim giới thiệu về trường Võ bị Quốc gia Đà lạt, đã chiếu tại trường vào dịp cuối năm lớp Đệ nhất ( lớp 12 ) tại trường Quốc học, Huế.
Tôi đã trúng tuyển vào trường đại học sư phạm nhưng không thấy giấy báo nhập học trường Võ bị Quốc gia Đà lạt gửi về nhà. Vì thế, sau này tôi đã trở thành một giáo sư khoa học tại một trường nữ trung học đúng theo ý nguyện của ba mẹ tôi, nhưng tôi không bao giờ quên được hình ảnh hào hùng và lịch lãm của người trai thế hệ mà mình mơ ước.
Sau khi học đại học sư phạm được vài tháng, nhân một buổi ăn tối của gia đình, ba tôi mới ôn tồn cho tôi biết là ông đã nhận được giấy báo của trường Võ bị Quốc Gia Đà lạt gửi về nhà, nhưng ông không cho tôi biết, vì anh tôi đã là pilote de guerre vào sinh ra tử trên bốn vùng chiến thuật (ba tôi có thói quen nói nửa Việt nửa Pháp, như ông thường viết các toa thuốc cho bệnh nhân).
Anh tôi du học tại Hoa kỳ năm 1961. Gia đình tôi đều đặn nhận được thư từ và hình ảnh của anh tôi, chụp tại các trường huấn luyện phi công, luôn luôn kèm bên chiếc phi cơ đã bay, hoặc các hình ảnh chụp tại các tiểu bang đã đi qua nhân dịp cuối tuần hoặc các dịp lễ lạc. Tôi ước mơ một ngày nào đó mình cũng được như vậy.
Ngoài thư từ gửi cho gia đình, anh tôi còn gửi cho chị M.T., sinh viên trường CSYT, con gái của một người bạn của ba tôi, mà ba tôi đã chấm theo tiêu chuẩn “Công-Dung-Ngôn-Hạnh” cho anh tôi, trong lúc hai người chưa một lần gặp gỡ.
Nhiều lần tôi cảm thấy xót xa cho chị, khi chị đưa lá thư anh gửi cho tôi xem với hai câu thơ mở đầu:
“Người ơi, gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không”
Năm 1963 anh về nước. Hai câu thơ trên trích trong tập truyện Kiều của cụ Nguyễn Du mà anh đã lồng vào trong bức thư, gửi cho chị M.T. như một định mệnh đã an bài.
Ba tôi đã phải nói lời xin lỗi với cha mẹ chị, vì việc đi hỏi chị là do ba tôi đơn phương quyết định.
Một lần nữa, ba tôi lại đăm chiêu, suy nghĩ nhiều lắm.
Dĩ nhiên, anh tôi từ đó không về nhà, cứ ở mãi Sài gòn. Lúc đầu, anh ở Liên Phi đoàn 33 Vận tải tại căn cứ Tân sơn nhất, sau đó chuyển qua Phi đoàn 518 Khu trục tại căn cứ Biên hòa.
Thỉnh thoảng anh gửi thư cho ba mẹ tôi nói rằng anh quen một người con gái gốc Bắc, con của một sĩ quan cấp tá, bạn của cậu tôi. Chị là sinh viên trường Đại học Luật khoa Sài gòn và cũng là bạn cùng học tại ĐHLK với anh tôi ( sau khi ở Hoa kỳ về, anh lại ghi danh học ĐHLK).
Chị có tên rất ấn tượng: Phạm Chất L.
Thư từ giữa hai anh chị chất đầy như núi. Một lần vào cư xá thăm anh, tôi tò mò đọc được một lá thư của chị gửi cho anh, với bài thơ mà tôi chỉ nhớ được hai câu:
“Đời phi công có mấy người chung thủy
Mỗi đường bay thay một cánh hoa yêu”
Hay một lá thư khác:
“Oublie, c’est le nom d’une fleur
N’oubliez pas, c’est le vœux de mon cœur”
( Xin người giữ lấy hoa quên
Và đừng quên nhé lời nguyền trong tâm )
Chị cũng không quên ép vào những trang thư tình màu tím một con bướm đen đậu trên nhánh hoa Forget Me Not. Điều này làm tôi liên tưởng đến sự trùng hợp màu sắc một cách ngẫu nhiên: Bộ áo bay của anh tôi màu đen với khăn quàng cổ màu tím, tôi thường thấy anh tôi mặc trong những phi vụ đặc biệt.
Đời phi công thật hào hùng và bay bướm. Trong tủ sách anh tôi để lại cho tôi học, tôi thích thú khi đọc cuốn Đời phi công của Toàn Phong, Chuyến bay đêm (Vol de nuit), Cõi người ta (Terre des hommes) của nhà văn phi công Saint Exupery. Càng thích thú hơn, khi biết Toàn Phong là bút hiệu của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, tác giả cuốn Hình học Không gian không thua kém gì các cuốn Géométrie dans L’espace của Le Bosse hoặc của Caronner mà anh em tôi xem như là quyển Tự điển Toán Hình học Không gian.
Suy cho cùng, toán học và văn chương tuy thuộc hai phạm trù khác nhau nhưng luôn luôn có sự tương quan logic. Toán học tuy khô khan, nhưng nhà toán học lại là người rất nhạy cảm. Sự nhạy cảm là khởi đầu cho bao đề tài lãng mạn trong văn chương.
Thời gian dần trôi, tình hình chiến sự ngày càng ác liệt, anh tôi được điều động ra căn cứ Đà nẵng. Ác liệt nhất là trận đánh Tết Mậu Thân 1968 và sau đó là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cố đô Huế dịp Tết Mậu Thân, chiếc Khu trục cơ Skyraider AD6 do anh tôi lái bị bắn với chi chít lỗ đạn phòng không của Bắc quân, đặc biệt là bánh đáp bị bắn gãy nhưng anh tôi đã đáp bụng an toàn.
Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cổ thành Quảng trị, chiếc phản lực cơ A 37 của anh tôi bị bắn rơi trên bầu trời cổ thành, anh đã nhảy dù thoát hiểm và may mắn được một trực thăng cứu thoát, đưa về căn cứ Đà nẵng an toàn.
Năm đó, tôi đang học năm thứ hai. Vừa ra khỏi giảng đường, một con bướm đen to bằng bàn tay, bay lởn vởn và đậu trên vai tôi vài tích tắc rồi biến mất. Sau đó tôi gặp một viên thiếu úy phi công trực thăng đến trường tìm một người bạn, vô tình kể lại chuyên anh ta vừa cứu thoát một thiếu tá phi công phản lực A 37 bị bắn rơi tại Quảng trị, tôi nghe chuyện và hỏi tên người phi công lâm nạn, thì ra người phi công phản lực đó chính là anh tôi.
Sau này, trong tập san Lý Tưởng của binh chủng Không quân có đăng bài Cánh Thiên Thần Trên Bầu Trời Cổ Thành Quảng Trị của ký giả ết về anh lúc cánh dù bung ra từ chiếc phản lực cơ lâm nạn trên vùng trời lửa đạn.
Bạn bè cùng khóa 61 A SVSQKQ và các khóa sau đã có nhiều người ra đi không bao giờ trở lại như tráng sĩ Kinh Kha qua sông Dịch không hẹn ngày về. Chiến tranh đồng nghĩa với mất mát, đau thương, cô đơn và giá lạnh:
“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu, tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”
Biến cố khó quên đối với gia đình tôi xảy ra vào ngày 29/3/1975 sau khi tôi nhận bằng tốt nghiệp và sự vụ lệnh bổ nhiệm làm giáo sư tại trường trung học được vài tháng. Đà nẵng đang trong cơn hấp hối. Tình hình chiến sự vô cùng căng thẳng.
Anh tôi một mình lái xe jeep ra nhà, hối hả chở cha mẹ tôi vào phi trường Đà nẵng, còn tôi không liên lạc được phải chạy một mình ra cảng Tiên sa mong thoát thân bằng đường biển.
Vừa đến cảng thì bị pháo kích dồn dập, tôi chỉ kịp nằm bẹp xuống một mương nước, và chiếc vali trong tay tôi rơi lúc nào cũng không hề hay biết. Một quả đạn pháo kích rơi ngay trước mặt tôi chừng mươi thước, đúng lúc một chiếc xe jeep trờ tới, mọi người trên xe bị hất tung lên và trở thành tro bụi trong phút chốc.
Quá hoảng sợ, tôi chạy lùi theo một số người tìm đường ra biển Sơn trà.
Lúc này có một vài chiếc phi cơ bay vút qua, hướng ra biển Đông. Tôi ngửa mặt lên trời, ước gì ở trên cao có anh tôi thấy để cứu vớt tôi. Thế nhưng, tất cả đều đã bay xa cho đến khi chỉ còn là vài chấm đen trên nền trời ảm đạm.
Lúc này tôi đã ra đến bờ biển Sơn trà, gặp được một chiếc tàu đánh cá đang đậu cách bờ chừng vài trăm thước. Mừng quá, tôi cởi vội quần áo và lao nhanh xuống biển. Lúc tay tôi chạm vào mạn tàu cũng là lúc trên bờ xuất hiện vài người có vũ khí cầm tay, ra hiệu cho tàu vào bờ. Một số người trên tàu vội vã kéo tôi lên đồng thời tàu nổ máy chạy thẳng ra khơi.
Nhóm người võ trang nhắm thẳng vào tàu bắn liên tục nhưng chỉ làm bị thương một người trên tàu, còn lại đều vô sự.
Một tiếng sau, tàu này được tàu Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa cứu vớt và chuyển lên một chiến hạm của hải quân Hoa kỳ.
Trên boong tàu, tôi đưa mắt nhìn vào phía đất liền. Mịt mù trùng khơi. Biển vây kín biển cả. Tiếng sóng vỗ ào ào. Tàu lắc lư chao đảo. Tôi ngửa mặt lên trời, tự nhủ: Có phải đây là giờ phút vĩnh biệt của anh em tôi? Đột nhiên bầu trời trở nên u ám, vài hạt mưa đã rơi nhanh xuống sàn tàu.
Sau này, qua một người quen cho biết: khuya 29/3/1975 anh tôi đã lên và lái một chiếc phản lực cơ A 37 ra phi đạo nhưng không thể cất cánh được vì đã bị hư hại. Vì thế anh tôi đã trở thành tù binh tại trại tù số 3 Kỳ sơn, Tam kỳ, tỉnh Quảng nam.
Hơn một năm sau, trong lúc gia đình đang ăn cơm trưa, bỗng nhiên có một con bướm đen to bằng bàn tay, bay vòng vòng trong phòng và đậu trên vai từng người rồi cuối cùng đậu ngay chính giữa bàn thờ gia đình. Năm phút sau, nhận được tin báo là anh tôi đã chết, nằm trong một bụi cây bên ngoài trại tù chừng 800 mét. Mọi người đều sửng sốt, bàng hoàng nhưng không dám bật thành tiếng khóc.
Đến khi bình tĩnh lại, nhìn về phía bàn thờ, con bướm đen cũng đã vỗ cánh bay ra khỏi nhà.
Đêm hôm đó, tôi nằm mơ thấy anh tôi mặc bộ áo bay màu đen với khăn quàng cổ màu tím, đang lái chiếc xe jeep về nhà nhưng máu đã đẫm ướt phi bào.
Sáng dậy, nhớ lại giấc mơ đêm qua, tôi cảm thấy một vị đắng, chua cay tràn ngập cổ họng. Tôi nghe như đâu đây phảng phất tiếng hát .của một nữ ca sĩ nỗi tiếng một thời:
“Ngày xưa khi anh vừa khóc chào đời
Mẹ yêu noi gương người trước đặt lời
…
…
Người phi công giữ khung trời
Vẫn còn mang số phận con người”
Bất giác hai dòng nước mắt tuôn trào lúc nào không hay.
Hai mươi năm sau, một mình tôi trở lại vùng rừng thiêng nước độc, nơi anh tôi đã bị lưu đày, khổ nhục. Trại tù giờ đây chỉ là một vùng lau lách đầy cỏ dại, rất khó xác định.
Nghĩ mình đã vượt núi, băng rừng, lội suối trong mùa nước lũ, chẳng lẽ bó tay trở về.
Trời đã nhá nhem tối, tôi thì thầm khấn nguyện anh tôi. Bỗng từ đâu một con bướm đen to bằng bàn tay bay đến trước mặt tôi, như có ý dẫn đường. Tôi tiếp tục khấn nguyện. Con bướm đen bay vòng vòng, tôi chạy theo và bị té sấp vào một bờ đất.
Sau phút hoảng hốt, tôi lồm cồm bò dậy và nhận ra một số nấm mộ nho nhỏ nằm khuất dưới đám cỏ dại. Tất cả gồm 12 nấm mộ vô chủ. Người dân địa phương cho biết đó là mộ của tù binh tại trại 3 Kỳ sơn. Tôi vội vàng hốt 12 nắm đất bỏ vào 12 bao nilon nhỏ và đánh dấu theo số thứ tự, rồi đến nhà dân xin ngủ tạm qua đêm.
Sáng hôm sau về lại Tam kỳ, tìm đến nhà một thầy ngoại cảm. Thầy cho biết anh tôi nằm ở ngôi mộ số 3.
Tuy nhiên tôi vẫn mong trong tương lai, khi bài viết này của tôi được nhiều người biết đến, tôi có thể có nhiều tin tức hữu ích và cụ thể để xác định chính xác mộ phần của anh tôi.
Nguyễn quang Thành
Thanked by 1 Member:
|
|
#67
Gửi vào 01/08/2019 - 20:30
Lâm Nguyễn - 1/8/2019
Đây là bức ảnh nhà ga Tokyo, một nơi được rất nhiều du khách đến chụp ảnh trong số đó có mình.
Tại đây mình đã gặp một chuyện đáng ngạc nhiên. Trong khi mình mải mê chụp những tấm ảnh nhà ga thì những người bạn đi cùng ngồi nghỉ chân. Mình đang loay hoay tìm những góc đẹp bỗng nhiên có một người đàn bà đến đưa cho một tấm brochure. Tưởng bà ta muốn gửi cho du khách các thông tin về du lịch ở Tokyo nên mình cầm lấy và cúi đầu nói: Arigato.
Khi nghe mình bật ra câu cảm ơn bằng tiếng Nhật, bà khựng lại với vẻ mặt đầy thảng thốt rồi quay lưng bỏ đi thật nhanh. Mình cũng ngạc nhiên không kém về thái độ kỳ lạ của người này nên chạy lại hỏi những người bạn. Thì ra người đàn bà Trung Quốc chú ý đến những du khách châu Á để đưa brochure giới thiệu buổi nói chuyện của một giáo sư TQ về “tội ác” của người Nhật đối với người TQ. Bà không quên nói với các bạn của mình: Người Nhật xấu lắm.
Qua sự việc đó mới thấy rằng TQ thật đáng sợ. Họ cho người len lỏi khắp nơi để nói xấu dân tộc khác, thậm chí ngay tại đất nước của dân tộc đó, và luôn cho rằng mình là quân tử để nguỵ biện cho cái mộng bành trướng. Chợt nhớ lời một bạn hướng dẫn viên du lịch tiếng Trung nói với mình: Tụi em ức lắm. HDV của họ qua Đà Nẵng nói thành phố này là thuộc một tỉnh của TQ.
Chỉ thấy đau khi làm con dân của một nước luôn được “dạy dỗ” rằng: TQ là bạn vàng.
P/s: Minh hoạ bài bằng tấm ảnh chụp nhà ga cổ xưa của Tokyo vì mình cố tìm nhưng không thấy tấm ảnh chụp lại tờ brochure hôm đó.
Thanked by 1 Member:
|
|
#68
Gửi vào 02/08/2019 - 20:24
Nhiều người trong cộng đồng người Việt hải ngoại biết đến nhà văn Doãn Quốc Sỹ.
Một đời dạy học, một đời viết văn, hơn mười một năm tù tội, ông đã trở thành một trong những biểu tượng đối kháng của văn nghệ sĩ miền Nam .
Nhưng ít có người biết rằng đằng sau sự tỏa sáng của một người đàn ông Việt Nam thường là cái bóng thầm lặng của một người phụ nữ.
Bà Doãn Quốc Sỹ cũng là một trong những trường hợp như vậy. Có thể nói rằng, sẽ không có một ông Doãn Quốc Sỹ cống hiến cho lý tưởng trọn vẹn nếu ông không có một người vợ hiền thầm lặng hỗ trợ.
Mời cả nhà đọc một truyện cảm động về nhà văn Doãn Quốc Sỹ do con gái nhà văn kể lại:
***
MỘT ĐỜI THẦM LẶNG MẸ THEO BỐ
Tháng 9 năm 1954 mẹ theo bố vào Nam. Trước đó bố hoạt động ngang dọc, sáng ngời lý tưởng, rồi ê chề thất vọng.
Quyết định vào Nam là của bố, mẹ chỉ bế hai con và dắt cô em chồng 17 tuổi theo.
Trong Nam, bố tưng bừng thi thố tài năng, tay phấn tay bút.
Mẹ thầm lặng ở nhà nuôi dạy con và chăm chút em.
Dân số con từ hai tăng thành tám. Tám con tám tính, có lúc hư lúc ngoan; mẹ theo từng bước, khen chê mắng mỏ.
Cô em chồng tốt nghiệp đại học, chuẩn bị lên xe hoa, mẹ lo toan chuyện cưới hỏi.
Bố vất vả bên ngoài, về nhà chỉ cần đảo mắt nhìn là thấy mọi sự tươm tất.
Ra đường, các con được gọi là “con bố”, em là “em anh”, không ai biết có một nhân vật thầm lặng đã làm nên những con người ấy.
Vào những năm thăng tiến trong cả hai nghề dạy và viết, bố hay mời khách về nhà đãi đằng.
Mẹ tiếp khách lịch thiệp, rồi rút về hậu trường trổ tài nấu nướng. Trước khi ra về các bác bao giờ cũng chào “bà chủ” trong tiếng cười hỉ hả: - “Cám ơn chị cho một bữa ngon quá.”
Thỉnh thoảng có những vị khách nữ, khen thức ăn và khen cả ông chủ.
Tôi còn nhớ có người còn nói rất chân tình với mẹ: - “Chồng em mà được một phần của anh thì em chết cũng hả.”
Hình như mẹ đón nhận lời nói ấy như một sự khen tặng cho chính mình.
Rồi chính sự miền Nam nóng bỏng; ngòi bút bố cũng nóng theo. Các bạn bố đến chơi chỉ bàn chuyện c.... s.. và quốc gia.
Mẹ không mấy quan tâm đến “chuyện các ông”, nhưng khi bố đi Mỹ du học, mẹ ở nhà điều hành việc bán sách thật tháo vát.
Khoảng hai tuần một lần, mẹ đi xích lô đến trung tâm Saigon, rảo một vòng các tiệm sách để xem họ cần thêm sách nào.
Sau đó mẹ cột sách thành từng chồng và “đáp” một chuyến xích lô khác để giao sách.
Tôi hay mân mê những sợi giây được cột chắc nịch, suýt xoa:
- “Sao mẹ cột chặt hay thế"”
Thế rồi chính sự miền Nam đến hồi kết thúc. Con người không chính trị của bố lại một lần nữa ê chề.
Ngày công an đến bắt bố đi, mẹ con bàng hoàng nhìn nhau. Các con chưa đứa nào đến tuổi kiếm tiền. Mẹ xưa nay thầm lặng trong vai “nội tướng”, giờ miễn cưỡng ra quân. Tiền dành dụm của gia đình không đáng kể.
Có tám miệng để nuôi, có bố nhục nhằn trong lao tù đợi tiếp tế. Mẹ vụng về tìm kế sinh nhai. Thoạt tiên mẹ nấu khoai mì trộn với dừa và vừng, rồi để vào rổ cùng với một ít lá gói.
Tôi băn khoăn hỏi:
- “Mẹ nghĩ có bán được không"”
- “Mẹ không biết, cứ mang ra chỗ trường học xem sao.”
Nhìn dáng mẹ lom khom ôm rổ, đầu đội xụp cái nón lá, tôi thương mẹ khôn tả. Chỉ nửa tiếng sau tôi đã thấy mẹ trở về.
Rổ khoai mì vẫn còn nguyên, mẹ ngượng ngập giải thích:
- “Hình như hôm nay lễ gì đó, học trò nghỉ con ạ.”
Rồi mẹ lại xoay sang nghề bán thuốc lá. Mẹ mua lại của ai đó một thùng đựng thuốc lá để bầy bán. Mẹ nghe ai mách bảo, chọn một địa điểm khá xa nhà rồi lụi hụi dọn hàng vô, dọn hàng ra mỗi ngày. Nghề này kéo dài được vài tháng. Mẹ kể cũng có một số khách quen, nhưng toàn mua thuốc lá lẻ.
Hôm nào có khách “xộp” mua nguyên bao thì mẹ về khoe ngay. Cũng may thuốc lá không thiu nên khi “giải nghệ” mẹ chỉ lỗ cái thùng bầy hàng.
Mẹ rút về “bản dinh” là căn nhà ở cuối hẻm, tiếp tục nhìn quanh, tìm một lối thoát. Hàng xóm chung quanh phần lớn là những người lao động. Họ như những đàn kiến chăm chỉ cần cù, 4 giờ sáng đã lục đục, người chuẩn bị hàng họ ra chợ, kẻ kéo xe ba bánh hoặc xích lô ra tìm khách.
Suốt mười mấy năm qua họ nhìn gia đình chúng tôi, gia đình “ông giáo”, như từ một thế giới khác, kính trọng nhưng xa cách.
Nay “ông giáo” đi tù, “bà giáo” hay xuất hiện ngoài ngõ, có lẽ họ cảm thấy gần gủi hơn.
Một hôm, chị bán sương xâm ở đối diện nhà qua hỏi thăm “ông giáo”.
Thấy cái máy giặt vẫn còn chạy được, chị trầm trồ:
- “Giặt máy tiện quá bác há!”, rồi nảy ý “Tụi con ngày nào cũng có cả núi quần áo dơ. Bác bỏ máy giặt dùm, tụi con trả tiền. Bác chịu không"”
Lời đề nghị thẳng thừng, không rào đón. Mẹ xăng xái nhận lời.
Kể từ đó, mổi tuần khoảng hai lần, mẹ nhận một thau quần áo cáu bẩn, bốc đủ loại mùi khai, tanh, nồng. Mẹ đích thân xả qua một nước, rồi múc nước từ hồ chứa vào máy giặt, bỏ xà bông và bắt đầu cho chạy máy. Cái máy cổ lỗ sĩ, chạy ì ạch nhưng nhờ nó mà mẹ kí cóp được chút tiền chợ.
Ít lâu sau, cũng chị hàng xóm đó lại sáng thêm một ý nữa:
- “Con bé nhà con nay biết bò rồi, con không dám thả nữa. Bác nhận không, con gửi nó mỗi ngày từ sáng tới chiều. Con trả tiền bác.”
Thế là sự nghiệp nhà trẻ của mẹ bắt đầu. Mẹ dọn căn gác gỗ cho quang, có chỗ treo võng, có cửa ngăn ở đầu cầu thang. Cả ngày mẹ loay hoay bận bịu pha sữa, đút ăn, lau chùi những bãi nước đái.
Được ít lâu, chị bán trái cây ở cuối hẻm chạy qua nhà tôi, nói:
- “Bác coi thêm con Đào nhà con nha. Con mang cái võng qua mắc cạnh cái võng của của con Thủy.”
Hai võng đong đưa một lúc, cháo sữa đút liền tay hơn, căn gác bừa bộn hơn. Sau đó lại thêm một thằng cu nữa. Mẹ tay năm tay mười, làm việc thoăn thoắt.
Cũng công việc quen thuộc ấy, ngày xưa làm cho con, nay làm kế sinh nhai, nuôi đủ tám con với một chồng. Mẹ không còn thầm lặng nữa. Mẹ lớn tiếng điều khiển tám quân sĩ, cần roi có roi, cần lời ngọt có lời ngọt.
Riêng chúng tôi vẫn nhớ ơn những người lao động đã giúp chúng tôi sinh sống những ngày khốn khó đó.
Nhưng sau những giờ ban ngày ồn ào náo động là những đêm tối trầm ngâm lo lắng. Nỗi bận tâm không rời của mẹ là chuyện thăm nuôi bố.
Mỗi ngày mẹ nghĩ ra một món, làm dần vào buổi tối, nay muối vừng, mai mắm ruốc, mốt bánh mì khô. Mẹ để sẵn một giỏ lớn trong góc bếp và chất dần đồ thăm nuôi trong đó. Khi giỏ đầy là ngày thăm nuôi sắp tới.
Thuở ấy bố bị giam ở núi đồi Pleiku, muốn lên đến đó phải mất hai ngày đường và nhiều giờ chầu chực xe đò.
Mỗi lần thăm nuôi, hoặc mẹ, hoặc một đứa con được chỉ định đi. Con trưởng nữ hay được đi nhất vì nó tháo vát và nhanh trí, thằng thứ nam cũng đươc nhiều lần “tín nhiệm”; mẹ nói nó nhỏ tuổi nhưng đạo mạo, đỡ đần mẹ được.
Còn thằng trưởng nam đúng tuổi đi “bộ đội”, mẹ ra lệnh ở nhà.
Có lần mẹ đi về, mặt thất thần. Các con hỏi chuyện thì mẹ chỉ buông hai chữ “biệt giam”. Biệt giam thì bị trừng phạt không được thăm nuôi.
Tôi thảng thốt hỏi:
- “Đồ thăm nuôi đâu hết rồi mẹ"”
- “Mẹ phải năn nỉ. Cuối cùng họ hứa chuyển đồ ăn cho bố.”
- “Mẹ nghĩ họ sẽ chuyển không"
- “Họ hẳn sẽ ăn bớt, nhưng nếu mẹ mang về thì phần bố đói còn chắc chắn hơn nữa.”
Mẹ ngày nào thầm lặng, nay thực tế và quyết đoán như thế.
Ngày bố được thả đợt 1, nhà trẻ của “bà giáo” vẫn còn hoạt động. Mẹ hướng dẫn bố đu võng khi các bé ngủ. Mẹ cũng dặn bố thường xuyên lau chùi gác và bỏ giặt tã dơ. Bố một mực nghe lời. Tưởng như cờ đã chuyền sang mẹ một cách êm thắm…
Tuy nhiên, mẹ không thể ngăn được bố lân la cầm lại cây bút. Thời gian này là lúc họ hàng ngoài Bắc vào chơi nhiều.
Bên ngoại có cậu tôi làm đến chức thứ trưởng; cậu kể rằng lúc còn sống, ông ngoại (một nhà thơ cách mạng) phiền lòng vì sự nghiệp văn chương của thằng con rể.
Bên nội có chú tôi - một nhạc sĩ cách mạng- chú biết ngòi bút đang thôi thúc bố và đã từng rít lên giữa hai hàm răng:
- “Trời ạ! Đã chửi vào mặt người ta, không xin lỗi thì chớ lại còn nhổ thêm một bãi nước bọt! Lần này mà vào tù nữa thì mọt gông.” .
Mấy mẹ con chết lặng trước viễn tượng “mọt gông”. Bố không màng đến điều này, vẫn miệt mài gõ máy đánh chữ. Đêm khuya thanh vắng tiếng gõ càng vang mồn một.
Vài lần mẹ can ngăn, có lần mẹ giận dữ buộc tội:
- “Ông chỉ biết lý tưởng của mình, không biết thương vợ con.”
Vài tuần sau, chị hàng xóm đối diện nhà chạy sang xì xào với mẹ:
- “Công an đặt người ở bên nhà con đó bác, họ theo dõi bác trai.”
Mẹ lại thử can thiệp, nhưng đã quá trễ. Bố bị bắt lần thứ hai năm 1984. Lần thứ hai bị bắt, bố bình tĩnh đợi công an lục lọi tung nhà. Trước khi bắt đi, họ chụp hình bố với nhiều tang chứng chung quanh. Trong hình bố ngẩng cao đầu trông rất ngạo nghễ.
Nhiều năm sau, bố vẫn còn được nhắc tới với hình ảnh này. Không ai biết đến người đàn bà thầm lặng bị bỏ lại đằng sau.
Sau biến cố thứ hai này, mẹ phải đối phó thêm với nhiều khó khăn loại khác, điển hình là những giấy gọi gia đình ra dự phiền tòa xử bố. Gọi rồi hoãn, rồi lại gọi lại hoãn. Mỗi lần như vậy cả nhà lại bấn loại tâm trí, lo cho mạng sống của bố. Riêng mẹ thì vừa lo vừa soạn thêm một số thức ăn thăm nuôi. Mẹ thực tế là thế đó.
Sau khi bố bị gọi án mười năm tù, cuộc sống của mẹ không còn những bất ngờ khủng khiếp, chỉ còn những đen tối và tù túng đều đặn.
Tưởng là dễ chịu hơn, nhưng thực ra nó gậm nhấm tâm thức, tích lũy buồn bực chỉ đợi cơ hội bùng nổ.
Hết ngày này qua tháng nọ mẹ lầm lũi chuẩn bị đồ thăm nuôi, từng món ăn thức uống, từng vật dụng hằng ngày.
Các con lần lượt trưởng thành, đứa nào cũng có bạn bè và những sinh hoạt riêng.
Chuyện thăm nuôi bố và lòng thương bố quan trọng lắm, những cũng chỉ là một phần trong những cái quan trọng khác trong đời.
Chỉ đối với mẹ, những thứ ấy mới là tất cả, độc tôn choán ngập tâm hồn mẹ. Mẹ hẳn có những lúc thấy tức tưởi và cô đơn mà các con nào hay biết.
Có vài lần chúng tôi lỡ một lời nói hoặc cử chỉ không vừa ý mẹ, mẹ oà khóc tu tu, lớn tiếng kể lể, tuôn trào như một giòng lũ không ngăn được.
Lúc ấy chúng tôi mới choàng tỉnh.
Ngày mãn hạn tù về, bố bình an như một thiền sư, để lại sau lưng hết cả những thăng trầm của quá khứ.
Rồi bố mẹ sang Mỹ ở Houston sống cùng cậu trưởng nam.
Mẹ bận bịu với cháu nội, nhưng không quên nhắc ông nội đi tắm và bao giờ cũng nặn kem đánh răng vào bàn chải cho ông mỗi tối. Thỉnh thoảng giao tiếp với họ hàng và bạn bè, mẹ lại phải đỡ lời cho bố, khi bố cứ mỉm cười mà không nói năng chi.
Thư viết về cho con cháu ở Việt Nam, ai cũng nói mẹ viết hay hơn ông nhà văn Doãn Quốc Sỹ.
Lúc đó chắc mẹ tự nhủ thầm rằng: “bởi vì mẹ là con của ông Tú Mỡ mà!”
Như thế được mười năm thì mẹ ngã bệnh. Hôm nay, ở giai đoạn cuối của căn bệnh Alzheimer, mẹ nằm bất động một chỗ và không nói được nữa. Nhưng mẹ vẫn đưa mắt nhìn bố mỗi lần bố ra vào trong phòng.
Hôm nào bố vắng nhà vài ngày thì mẹ nhìn con trai, mắt dò hỏi lo lắng. Khi bố về thì mẹ vẫn nhìn bố, ánh mắt yên tâm hơn.
Mẹ thầm lặng hơn bao giờ hết. Dưới mắt bố con chúng tôi, sự thầm lặng ấy càng ngày càng tỏa sáng.
Kim Khánh
Thanked by 1 Member:
|
|
#69
Gửi vào 06/08/2019 - 20:57
Khi chúng tôi rời California tìm một nơi có đời sống thong thả, yên ổn để nuôi các con, chúng tôi rơi ngay vào một vũng nước mưa. Thành phố Seattle của bang Washington Hoa Kỳ. Lúc nào ông trời Seattle cũng mưa được. Không mưa sáng, thì mưa chiều, không mưa chiều thì mưa tối. Vào mùa Hạ thì thỉnh thoảng mới có một hôm nắng nguyên ngày. Tối hôm trước đi ngủ, bầu trời đêm cao thăm thẳm, trong veo, không một gợn mây, thế mà nửa đêm thức dậy nghe như có tiếng ai gõ nhẹ trên mái gỗ, lắng nghe một lúc biết là trời bắt đầu mưa.
Tôi nằm im lặng nghe mưa.
Tôi sinh ra ở Việt Nam, một nước thuộc miền nhiệt đới, tôi được lớn lên giữa miền Nam mưa nắng hai mùa, giữa những cơn mưa bất chợt ập xuống mùa hạ chói chang, và một mùa mưa kéo dài 6 tháng, mưa trở thành một người bạn thiết, một nỗi thân quen. Có những kỷ niệm ướt sũng nước mưa, chẳng làm sao lau khô được, nên mưa trở thành một nhắc nhở hiện tại. Tiếng mưa Sàigòn không giống tiếng mưa Seattle. Mưa đập ầm ầm thảng thốt trên mái nhà, nhất là những mái nhà tôn. Ban đêm mưa đánh thức giấc ngủ của ta, lôi ta ra khỏi những cơn mộng, hay thức dậy để tiếp tục những yêu thương, hờn giận, để hoàn tất những công việc của ngày qua chưa làm hết. Ban ngày đôi khi mưa như một ân sủng của trời trút xuống, gột rửa bao bực nhọc, làm mới lại và xóa hộ những điều không muốn giữ. Nhưng mưa lớn cũng là nỗi hãi hùng của những người buôn thúng, bán bưng, nỗi lo âu của người chủ gia đình không mang về đủ một bữa cơm có thịt, có cá chiều nay. Ở cơn mưa trung bình, tiếng rơi lộp bộp trên những tàu lá chuối, một âm thanh đều đều như âm nhịp đệm của nhạc, lắng nghe nó cho ta cái cảm tưởng được nhàn nhã, thư thái. Khi mưa nhỏ hạt, tiếng róc rách trên mái nhà lá vừa thơ mộng vừa buồn bã, nghe mãi, mê lúc nào không biết.
Tôi nhớ những lần đi học về, nếu lỡ một trong hai chuyến xe buýt, phải đi bộ từ trường về nhà. Quần áo trắng ướt sũng, cặp sách ôm che ngang ngực con gái mới lớn, chạy vôi vàng trong buổi chiều, sợ ai nhìn xấu hổ. Ở tuổi 16, 17 ít khi bị cảm, bị lạnh. Về đến nhà mẹ bắt thay quần áo, uống một ly trà nóng, lau khô mái tóc, là ấm người ngay.
Khi lớn hơn chút nữa, những lần đi chơi với người yêu gặp trời mưa, hai người che chung một cái áo mưa, hay một cái dù. Vừa bối rối, vừa sợ, vừa hạnh phúc. Chỉ sợ ướt cái áo dài mỏng, nhưng lại mong sao con mưa đừng tạnh, và con đường đừng hết.
Ôi những cơn mưa chợt đến chợt đi trong khí hậu nóng ẩm làm mặt đường bốc khói, mực nước trời trút xuống rộng lượng quá, làm ngập lụt những con đường không thoát nước, ta như được bơi trong một dòng sông ngọt ngào, ngắn hạn!
Bây giờ vào những buổi sáng ở Seattle, đi ra đường gặp cơn mưa lớn hiếm hoi, nghe tiếng mưa rơi trên hàng cây xanh mướt, những chùm lá sạch sẽ, sự rung động êm ả thanh bình thì những cơn mưa vùng nhiệt đới xa xăm với những tiếng đập rộn ràng lại khua vang trong đầu. Mưa lớn ở Seattle chỉ là những cơn mưa nhanh hạt, tiếng gió, tiếng lá chạm vào nhau, có òa ra thì cũng chỉ to bằng tiếng khóc. Sáng nay ra phố gội đầu/ Giọt mưa sợi tóc ôm nhau khóc òa. Tôi đã quen lắm với mưa Seattle, cũng thân thiện với mưa, vì mưa đi bên tôi hầu như mỗi ngày. Nhờ mưa Seattle tôi thấy quý báu sự hiếm hoi của mặt trời rực rỡ, và trong mắt tôi, bầu trời trên mái nhà tôi cao và xanh hơn bầu trời của những nơi khác, vườn nhà tôi mưa tinh khiết và mưa lãng mạn hơn ở bất cứ nơi nào.
Nhưng vào những ngày mưa kéo dài cả tuần lễ, thì những giọt mưa âm thầm lặng lẽ dai dẳng chảy xuống như những dòng lệ mầu xám trong một bức tranh sơn dầu, nhắc tôi nhớ đến một bức tranh nằm sâu trong tâm khảm: Một chiếc phà chở áo quan từ từ tách bến Saigon qua bên kia Thủ Thiêm, trên nóc áo quan ướt sũng một lá quốc kỳ xô lệch trông như một chiếc chăn vàng ố cũ rách, bát nhang tắt ngấm vì nước mưa, người lính đi tháp tùng đứng im lìm như một pho tượng của ngàn năm cũ. Mưa thản nhiên rơi trên áo quan, rơi trên đầu, trên cổ người lính từng giọt, từng giọt. Tôi đứng nhìn ông Trời họa sĩ vẽ tranh vào không gian. Mầu xám của nền trời căng ra như một khung vải, chiếc áo quan phủ quốc kỳ xộc xệch, người lính đứng bên mặt lạnh, xanh tái như mầu áo trận, chiếc phà cũ kỹ bạc phếch. Tất cả được họa sĩ Trời mang vào trong tranh, dưới một gam mầu lạnh. Tôi mang theo bức tranh này trong suốt mấy chục năm ở quê người, đó là tài sản duy nhất sót lại của đời người di tản.
Ngày tôi đến trại Pendleton cũng vào một đêm mưa. Mưa không to lắm, nhưng khí hậu sa mạc của California về đêm làm mọi người lạnh cóng. Trẻ con, người lớn và ngay cả người già cũng đều được phát cho một chiếc áo lính cùng một cỡ để mặc cho ấm. Trong đêm tối, chúng tôi trông như những bụi cây không đều nhau, biết đi. Chúng tôi đứng xếp hàng chờ nhận lều, giơ tay vuốt mặt, ướt sũng nước mưa và nước mắt.
Ngày tôi lấy chồng cũng vào một ngày mưa. Ở California giữa tháng chín mà mưa có lạ không! Theo phong tục Mỹ, cô dâu chú rể vừa bước ra ngưỡng cửa nhà thờ người ta tung gạo như mưa vào người để chúc may mắn. Ở quê tôi người ta chỉ ném gạo theo sau những chiếc áo quan vì sợ người chết bị đói. Mẹ tôi (dù là người Công Giáo) thấy giữa đám cưới mà bị ném gạo thì hoảng quá giơ tay ngăn lại. Tôi nghĩ cả hai phong tục điều hay cả. Nếu lấy nhau mà không được nuôi bằng tình yêu thì cũng bị đói vậy. Cơn mưa nào cũng mang theo ý nghĩa của nó.
Chị em tôi ở Mỹ lâu lắm rồi, lâu đến nỗi thỉnh thoảng nghĩ đến bàng hoàng cả người. Vì tính ra khoảng thời gian mình ở Mỹ đã dài bằng khoảng thời gian ở cả Hà Nội và Sài gòn cộng lại. Thế mà chúng tôi vẫn hay nhắc đến những cơn mưa ở quê nhà. Chúng tôi hay nói: Tối qua mưa nặng hạt và to tiếng như mưa ở Sàigòn, hay mưa rả rích mấy ngày liền như thế này thì có kém gì Huế! Nhưng ở đây lâu thế mà sao không thấy ai hứng nước mưa để uống, để pha trà nhỉ? Người kỹ tính lắm thì cũng chỉ pha trà bằng nước bán trong chai. Tôi nhớ ngày trước, nhà tôi có căng một miếng vải màn trắng trên miệng một chiếc vại để ngoài sân hứng nước mưa uống quanh năm. Người Việt sang đây dản dị hóa đã bỏ hết những chuyện uống cầu kỳ này.
Mưa ở Seattle làm cho những dẫy núi bao bọc chung quanh thành phố trông tinh khiết và cao cả hơn lên, những cây tùng cây bách giữ mãi một mầu xanh thẫm, chạm tay lên lá, lá mịn màng, trong sạch như thiếu nữ mới lớn, mưa làm nước hồ thăm thẳm mềm mại như một giải lụa. Tiếng chim hót trong mưa thánh thót hơn, con sóc, con chồn lúc nào cũng có một bộ lông còn mới dưới mưa. Và hình như sống ở nơi có nhiều mưa con người điềm đạm và bao dung với nhau hơn. Tuổi trẻ thì giản dị, tự nhiên. Tôi đã thấy những học sinh trung học ở đây đứng thản nhiên hôn nhau dưới mưa trước cổng trường.
Ôi những cơn mưa ở hai đầu trái đất! Mưa Sàigòn và mưa Seattle. Cũng chỉ là những đám mây tụ lại, rồi rơi xuống.
Nhưng khi rơi trên nóc một chiếc áo quan của người lính, trên chiếc áo dài trắng của cô học trò trung học, trên mái tóc của hai người yêu nhau, trên vai áo của người tỵ nạn Việt Nam, nó khác biệt thế nào so với khi rơi xuống trên những cành thông ở Seattle hay giữa một đám cưới ở California ? Và khi vẽ mưa trong những bức tranh ở những nơi khác nhau, người ta có vẽ cho nó những hình thể khác nhau, chọn những gam mầu khác nhau?
Ước gì có ai vẽ được linh hồn của những giọt mưa!
Tác giả Trần Mộng Tú
Sửa bởi tuphuongsg: 06/08/2019 - 21:03
Thanked by 1 Member:
|
|
#70
Gửi vào 08/08/2019 - 21:15
…
Những năm làm tnxp ở chiến khu Đ cuối năm sát tết được nghỉ lao động rảnh không biết làm gì bèn vác rựa vào rừng tìm lan. lan nhiều vô kể nhưng bám tận cành cao, chả sao, leo làm gì cho mệt sẵn rựa trong tay cứ hai thằng thay nhau làm vài chục nhát cây đổ ầm, chặt nhánh có lan xách đi. cứ một nhánh lan là một cây to đùng đổ vật. giờ mới biết tự hào cái chi không rõ nhưng tội đi tới đâu thì trắng rừng tới đó thanh niên xung phong là thủ phạm hàng đầu.
Buổi chiều về đứa nào cũng vác một cây tre hai đầu lủng lẳng toàn những lan là lan. Những ngày tết treo võng nằm nhìn, ai có thân nhân lên thăm thì tặng một giò mang về thành phố, ai “ mồ côi “ không có người thăm nuôi thì cứ nằm ngắm lan đỡ buồn. lan ngọc điểm trắng tím hay trắng muốt khi ấy rừng nhiều vô kể.
Về sài gòn nhiều năm sau, tết nếu bạn bè tặng giò lan ngọc điểm lại hứng chí thuyết minh dằng dặc về lan rừng tôi cười “ không im ta cho một rựa bây chừ!“ cái lán của tôi từng ngập lan rừng hơn cả một shop Nguyễn Huệ chỉ có điều nó ở… giữa rừng chỉ mình với ma ngắm.
Xưa ai hỏi đi thanh niên xung phong vì lý tưởng ? không , vì thất nghiệp không nơi nào nhận việc những gã đeo kính cận, ốm tong teo như thằng nghiện, tóc phủ gáy sặc mùi “ tiểu tư sản “ thành thị
Giờ ai hỏi chống tàu vì yêu nước ? không chắc yêu nước, chỉ vì khinh bọn bán nước thế thôi.
Quay về với lan vậy, thế đẹp nhất là lan gì ?
Dễ thôi!
Thanh Lan!
6/8/2019
-------------------------------------
MẸ TA TRẢ NHỚ VỀ KHÔNG
…
Cả đời tôi chỉ làm 2 bài thơ mà nhân vật là thân mẫu của mình một bài thơ từ 1987 khi bà còn sống, tôi không cho bà đọc hay đọc cho bà nghe bao giờ đến một hôm bà gọi tôi lại“ mày viết gì về mẹ thằng kia? t*o nghe người ta nói đến tai đấy!“ tôi chỉ gãi đầu cười trừ vẫn không đọc.
(Ngày xưa mẹ nấu canh thiên lý
Cho đỡ hoài hương , đỡ nhớ nhà
Ta lội qua giòng kênh ngập rác
Đi tìm cho mẹ chỗ trồng hoa
Trở về chỉ thấy màu sương khói
Chỗ mẹ ta ngồi mây trắng qua...)
Một bài cuối cùng khi bà mất năm 1992 khi ôm bọc tro của của bà ra cầu sài gòn rải xuống. buổi chiều nước lên, lục bình hàng hàng trôi dạt. tro mẹ bay theo gió xuống mặt sông rộng mênh mông
Mẹ ta tro bụi trên sông
Xuôi bèo hoa nẻo hư không mẹ về
Chiều hoa trắng rợn bốn bề
Trần gian thêm một kẻ về mồ côi
Từ đây chỗ mẹ ta ngồi
Mây như tóc trắng rối bời
Mây qua…
Từ ấy, không còn bài thơ nào cho mẹ nữa.
Vài chục năm sau đọc được một tản văn ngắn của một người bạn KTS đại ý khi về thăm mẹ ở hà nội , đứa con nay đã xấp xỉ 60 tuổi ôm mẹ khóc còn người mẹ trên 90 tuổi chỉ ngồi cười , trí nhớ , ký ức đã mất bà không còn nhận ra con trai mình nữa . lần đầu tiên trong đời tôi “ phổ “ một bài văn xuôi qua lục bát.
Ngày ta chào mẹ ta đi
Mẹ ta thì khóc – ta đi thì cười
Mười năm
Rồi lại thêm mười…
Ta về ta khóc
Mẹ cười – lạ không?
Ông ai thế ? tôi chào ông!
Mẹ ta trí nhớ về mênh mông rồi
Ông có gặp thằng con tôi?
Hao hao tôi nhớ nó người như ông…
…
Mẹ ta trả nhớ về không
Trả trăm năm lại bụi hồng…
…Rồi đi …
Lại tháng bảy mùa vu lan trước – mùa xá tội vong nhân sau. viết vài dòng nhớ những bông hồng trắng và chúc vui những bông hồng đỏ của thiền sư nhất hạnh.
Mùa vu lan 2019
5/8/2019
Thanked by 1 Member:
|
|
#71
Gửi vào 10/08/2019 - 19:21
Nhiều người không biết rằng cách đây 71 năm, trong mùa hè 1948 đã diễn ra cầu hàng không lớn nhất trong lịch sử - Cầu hàng không Berlin.
Thành phố Tây Berlin với hơn 2,2 triệu dân, nằm lọt thỏm trong Đông Đức XHCN, được nuôi sống bằng 75% hàng hóa từ Tây Đức. 25% còn lại là nông sản, nguyên liệu từ các vùng nông thôn Đông Đức. Theo thỏa thuận Potsdam, Tây Đức và Đồng minh được phép sử dụng 5 đường tàu hỏa, 5 đường bộ và 3 hành lang bay để vận chuyển hàng hóa, hành khách giữa Tây Đức và Tây Berlin. Nhưng từ đầu năm 1948, Liên Xô đã bắt đầu chặn dần các đầu mối giao thông đường bộ đường sắt đi vào Tây Berlin. Người dân Đông Đức cũng hết đường bán nông sản, củi đốt cho Tây Berlin.
Sáng sớm 24.6.1948, Tư lệnh quân đồn trú Liên Xô tại Đông Đức ra lệnh cắt điện, nước, từ các nhà máy phía đông sang các quận phía tây. Các nhà máy Tây Berlin vẫn làm việc, nhưng nguồn nguyên liệu chỉ dự trữ cho vài tuần. Chính quyền Tây Berlin có tính đến khả năng những cuộc khủng hoảng ngoại giao nên đã dự trữ nhiều thứ: Ví dụ như thuốc men đủ cho 6 tháng, xăng dầu đủ cho 4 tháng. Nhưng Tây Berlin là điểm dừng chân cho dòng người tỵ nạn từ khắp Đông Đức đổ về để đi sang Tây Đức. Trước khi bức thành Berlin được dựng lên hôm 13.8.1961, người Đông Đức nào muốn chạy sang Tây Đức mà không muốn đi qua biên giới Đông-Tây Đức đầy mìn và dây thép gai, thường đến Đông Berlin (như kiểu ta lên thủ đô thăm Hồ Gươm), rồì lén qua phố bên kia sang Tây Berlin. Từ đó họ xin tỵ nạn và đươc chuyển bằng máy bay về Tây Đức. Do vậy đúng vào lúc Berlin bị phong tỏa đường bộ, đường sắt vào buổi trưa cùng ngày, dự trữ thực phẩm của thành phố chỉ còn đủ cho 5 tuần. Nguy hiểm nhất là than sưởi và than cho nhiệt điện chỉ đủ cho 30 ngày.
Mục tiêu của Stalin là gây sức ép để phương tây từ bỏ quyền chiếm đóng Tây Berlin. Nhưng ông ta đã nhầm.
Mỹ, Anh và Đồng Minh đã tiến hành một cuộc không vận tiếp tế lớn nhất trong lịch sử, không phải chỉ để cứu 9000 lính Mỹ, 7600 lính Anh và 6100 lính Pháp đang đóng ở đó, mà để duy trì cuộc sống của Tây Berlin, được coi là thành trì của „Thế giới tự do“ trong lòng CHXH. Tham gia vào chiến dịch này gồm hàng ngàn máy bay, chủ yếu của không quân Mỹ và Anh. Các nước Úc, Tân Tây Lan, Canada và Nam Phi cũng gửi máy bay tham gia.
Pháp tuy là cường quốc chiếm đóng Đức, nhưng đang vướng chiến tranh Đông Dương nên chỉ cử vài chiếc “Bà già” chở hàng sang cho quân Pháp ở Tây Berlin. Để góp phần, Pháp cho phép xây sân bay thứ ba là Tegel, ngay trên vùng chiếm đóng của họ. Ngày 5.11.1948, công binh Pháp đã bàn giao sân bay với đường băng 2,42 km, được coi là dài nhất châu Âu lúc bấy giờ, cho phép máy bay vận tải hạng nặng hạ cánh và cất cánh. Sân bay Tempelhof được chia sẻ tải trọng từ đó. Còn sân bay Gatow chỉ là một bãi cỏ hạ cánh cho máy bay nhỏ.
Cho đến lúc này, hàng ngày sân bay Tempelhof phải đón nhận hàng trăm máy bay vận tải các loại. Ngày cao điểm 13.8.1948 được gọi là “Ngày thứ sáu đen” vì 700 máy bay vận tải bay đen kịt bầu trời Tây Berlin để chờ hạ cánh với tần suất 2 phút một chiếc. Ở mặt đất, công nhân bốc vác làm việc với cường độ điên cuồng, rút ngắn thời gian dừng lại của mỗi máy bay từ 75 phút xuống còn 30 phút. Trên trời, máy bay phải bay thành nhiều độ cao, cách nhau 500m để không bị lạc ra khỏi 3 đường hành lang hẹp mà lực lượng phòng không Liên Xô cho phép. Đã có những cuộc tập trận bắn đạn thật của cao xạ Liên Xô dọc theo đường biên của hành lang bay. Ban đêm tỉnh thoảng đèn thám không bỗng chiếu sáng để gây rối mắt cho phi công.
Sau khi thêm sân bay Tegel, hàng ngày, có khoảng 1000 chuyến bay từ các sân bay Tây Đức tới Tây Berlin. Trong thời gian 11 tháng, tổng cộng 277.569 chuyến bay đã vận tải 2.1 triệu tấn hàng hóa. Người ta vận chuyển tất cả, từ khoai tây, rau xanh, sữa, muối… để nuôi sống thành phố. Vốn là môt trung tâm công nghiệp nên Berlin cũng cần xuất hàng hóa ra thị trường. 74.000 tấn hàng đã được chuyển đi. Nhưng quan trọng nhất là gần 1,5 triệu tấn than đá, than nâu được vận chuyển bằng máy bay: Những cân than đắt như vàng đó đã cứu sống tây Berlin trong mùa đông 1948-1949.
Tuy huy động một lực lượng khổng lồ như vậy, trung bình mỗi ngày Berlin chỉ nhận được khoảng 7000 tấn hàng tiếp tế, trong khi nhu cầu trước đó của thành phố vốn đã bị tàn phá nặng nề là 10.000 tấn/ngày. Do vậy dân chúng Tây Berlin phải thắt lưng buộc bụng rất nhiều suốt trong thời gian bị phong tỏa. Khẩu phần tem phiếu được duy trì từ năm 1945, nay lại bị siết thêm. Nạn nhân chịu hậu quả nặng nhất tất nhiên là các em nhỏ.
Lần đầu tiên hạ cánh xuống sân bay Tempelhof, anh phi công Mỹ Gail Halvorsen bỗng nhìn thấy những em bé đứng bên đống gạch vụn đổ nát bên ngoài đường băng đang vẫy tay. Đứa nào cũng gầy gò, thiếu ăn. Anh đến gặp bọn trẻ và hứa sẽ mang cho chúng quà bằng cách thả dù. Vì máy bay xếp hàng hạ cánh với tần suất 90 giây, nên anh bảo:
- Chú sẽ lắc cánh trước khi ném quà, các cháu đón nhặt nhé.
Hôm sau, anh gói ghém kẹo bánh và các túi nho khô, treo vào những chiếc dù nhỏ. Gần đến chỗ đã hẹn, anh lắc cánh vài lần rồi ném những gói quà nhỏ này xuống cho đám trẻ em đang hò hét bên dưới. Thật không thể tả nổi niềm vui của lũ trẻ khi nhặt được những gói quà nặng tình với những chiếc dù xinh đẹp. Từ đó lũ trẻ đặt cho Gail cái tên là “Chú cánh lắc” (Onkel Wackelflügel)
Việc làm của Gail đã được nhiều phi công khác noi theo. Hàng ngàn những cánh dù như vậy được ném xuỗng Berlin từ độ cao vài trăm mét mỗi ngày. Những chiếc máy bay ném bom quân sự dữ tợn, đen ngòm, mới cách đó ba năm từng gieo chết chóc kinh hoàng xuống nước Đức, nay được người Đức gọi bằng cái tên thân yêu: “Máy bay ném bom nho”(Rosinenbomber). Từ đó trẻ em Berlin có một trò chơi mới, hàng ngày đi nhặt các gói quà theo những cánh dù nhỏ đáp xuống thành phố.
Hành động của Gail Halvorsen đã khiến các bà mẹ Đức ở miền Tây xúc động. Họ tổ chức quyên góp, mua hàng và đóng thành các bưu kiện nhu yếu phẩm, nhờ các phi công Mỹ gửi cho các bà mẹ không quen biết ở đầu kia của đất nước. Gần ba triệu gói hàng như vậy đã sưởi ấm lòng người Tây Berlin trong mùa đông đó.
Sau 11 tháng, Stalin biết là không khuất phục được Berlin, trong khi Wilhelm Pieck, chủ tịch Đông Đức thì lo ngai không khí chiến tranh có thể gây bùng nổ làn sóng tỵ nạn sang Tây Đức. Ngày 12.5.1949, mọi phong tỏa Berlin được tháo gỡ. Các cửa khẩu đường sắt, đường bộ lại được khai thông. Máy bay Đồng minh tiếp tục bay vài ngàn chuyến nữa để nâng dự trữ mọi mặt của Tây Berlin lên hai tháng
“Chú cánh lắc” lái chiếc “Máy bay ném bom nho” đã trở thành biểu tượng cho tình người, tình hữu nghị. Tên của ông đã được Thành phố Berlin đặt cho một trường học và một sân thể thao. Tháng 6.2018, nhân kỷ niệm 70 năm cầu hàng không Berlin, ông “chú” 98 tuổi lại sang Berlin gặp lại các ông bà “cháu” ngày xưa nhặt nho của mình.
Köln, 9.08.2019
Tho Nguyen
Phi công Gail Halvorsen gói quà vào dù trước chuyến bay sang Berlin.
Ông "Chú cánh lắc" gặp lại cô cháu nhặt nho 70 năm trước.
Ba hành lang bay từ Tây Đức sang Tây Berlin.
Máy bay xếp hàng để tháo dỡ hàng hóa tại Tempelhof.
Sửa bởi tuphuongsg: 10/08/2019 - 19:24
Thanked by 1 Member:
|
|
#72
Gửi vào 23/08/2019 - 21:37
Hôm nay, tại Berlin đã diễn ra cuộc hội ngộ cảm động của hai bà già Đức: Rosemarie Badaczewski và Kriemhild Meyer. Họ chỉ kịp chia tay nhau lần cuối cùng qua bức tường Berlin hôm chủ nhật 13.8.1961. 58 năm sau, nhờ sự tìm kiếm công phu của các nhà sử học, hai cô bạn thân ngày nào mới gặp lại nhau.[1]
Ban lãnh đạo CHDC Đức đã chọn ngày chủ nhật để xây bức tường Berlin nhằm giảm các phản ứng của quốc tế và của đối phương. Tôi gọi ngày 13.8.1961 là Chủ nhật đen.
Bức tường bất ngờ được dựng lên rạng sáng Chủ nhật đen đã chia Berlin thành Đông và Tây, cùng với số phận của hàng vạn gia đình Đức.
Cặp vợ chồng Hans và Katarina Kuhlke hành nghề buôn bán sắt vụn ở Đông Berlin. Khi Đông Berlin tiến lên CNXH, họ trở thành „buôn lậu“ vì phải bán lén sang Tây Berlin. Mỗi lần đi như vậy, họ để cậu con trai Paul ở lại bên Đông. Sáng sớm 13.8, khi biết bức tường xuất hiện, họ vội quay về với con. Nhưng vì đi bằng đường lậu, họ không có giấy thông hành. Mọi cố gắng trở về miền Đông qua các kẻ hở hàng rào đều thất bại. Những chứng cớ về buôn lậu đồng của Hans đã biến anh thành kẻ thù của chế độ. Hans bị truy nã, đường về bị cắt đứt. Hai vợ chồng không đi Tây Đức mà ở lại Tây Berlin để đón bằng được con sang. Katarina không thể tha thứ cho chồng về tội để mất con. Hôn nhân khủng hoảng.
Ở bên kia bức tường, chính quyền giải thích cho Paul là bố mẹ đã cố tình bỏ rơi cậu chỉ vì nghe theo tiếng gọi của vật chất. Paul được đưa vào nhà trẻ mồ côi để đào tạo để trở thành hạt giống đỏ. Nhưng cậu bé 14 tuổi có quá nhiều kỷ niệm đẹp với bố mẹ, không chịu từ bỏ việc đi tìm họ.
Cậu tìm cách vượt biên qua một căn nhà bỏ hoang mà phía sau là Tây Berlin. Cảnh sát Đông Đức kịp bắt giữ cậu bé trước khi nhảy từ cửa sổ xuống bên kia. Chưa vị thành niên, Paul chỉ bị gửi trả lại trại trẻ mồ côi để giáo dục thành một thanh niên XHCN.
28 năm sau, tháng 11.1989, bức tường Berlin bị xóa sổ. Hội ngộ.
Bi kịch của gia đình Kuhlke chỉ là một trong hàng trăm ngàn những chuyện đau thương khác ở Đức. Thời kỳ học nghề ở Đông Berlin từ 1967-1971, tôi đã xem vài phim truyện của cả hai bên về đề tài này. Mãi sau này, tôi mới hiểu.
Trước khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Mỹ, Anh và Liên Xô đã định đoạt tương lai châu Âu tại các hội nghị Teheran và Yalta. Theo đó, châu Âu, nước Đức và cả thành phố Berlin đều sẽ được chia thành các vùng chiếm đóng của các bên chiến thắng.
Sau ngày 8.5.1945, nước Đức bị chia cắt thành 5 vùng. Mỹ, Anh, Pháp và Bỉ cai quản miền Tây với ¾ diện tích và 62 triệu dân. Hồng quân Liên Xô chiếm 1/4 nước Đức ở phía đông là vùng trù phú và phát triển nhất với 20 triệu dân, bao gồm các trung tâm công nghiệp như Dresden, Magdeburg, Berlin, Chemnitz v.v.
Thủ đô Berlin nằm lọt thỏm trong lòng Đông Đức cũng bị chia làm bốn phần. Liên Xô kiểm soát phần Đông Berlin, sau này thành thủ đô nước CHDC Đức.
Ngày 24.5.1948, các bang miền Tây họp nhau thành lập ra nước Cộng Hòa Liên Bang Đức theo thể chế dân chủ đại nghị, kinh tế thị trường tự do, thủ đô là Bonn. Các nhà lập quốc coi đây chỉ là nhà nước tạm thời nên không làm hiến pháp. CHLB Đức chỉ có „Đạo luật cơ bản“.
Ngày 7.10.1949 nước Cộng hòa Dân chủ Đức ra đời ở miền Đông với một bản hiến pháp XHCN. Tây Đức dùng đồng D-Mark còn CHDC Đức dùng đồng DDR-Mark.
Sự ra đời của hai nhà nước Đức với những khác biệt về kinh tế và thể chế chính trị đã gây ra làn sóng tỵ nạn từ Đông sang Tây. 3.5 triệu người Đông Đức đã rời bỏ quê hương, chạy sang miền Tây trong 40 năm chia cắt đất nước.
Để chống lại làn sóng di dân này, ngay từ năm 1949 chính phủ CHDC Đức đã xây đường biên giới Đông Tây Đức (biên giới Đức-Đức), dài 1400 km chia đôi nước Đức. Biên giới này được bảo vệ bằng mìn và giây thép gai. Vì hiệp ước Potsdam quy định thành phố Berlin là thành phố trung lập, chịu sự bảo hộ của cả Mỹ, Anh, Pháp và Liên xô nên không ai dám chia cắt thành phố trung lập này. Ở phía đông là chính quyền công-nông, kinh tế XHCN, còn bên kia phố đã là một xã hội khác hẳn. Tây Berlin không thuộc CHLB Đức, nhưng về cơ bản, lại hội nhập về thể chế và kinh tế. Dân chúng Đông-Tây vẫn đi lại bình thường bằng giấy thông hành qua các checkpoint (trạm kiểm soát). Nhiều người vẫn ở Đông Berlin, đi làm bên Tây có ngoại tệ mạnh, tối về bên này ngủ và sinh hoạt rẻ hơn.
Những người có trình độ ở CHDC Đức đều thích sang miền tây sống. Để tránh biên giới Đức- Đức đầy mìn và dây thép gai, họ thường đổ về Đông Berlin rồi lẻn sang bên kia phố, tới Tây Berlin. Ở đó họ làm căn cước mới rồi cưỡi máy bay về Tây Đức nhập cư.
Lý do thứ hai khiến thành phố 4 triệu dân này không bị chia đôi ngay từ 1949 là sự phụ thuộc nhằng nhịt vào nhau của cả hai bên: cấp nước, thoát nước, nhà đèn, bưu chính, đường sắt v.v. Nếu coi việc chia cắt hai miền Đông-Tây Đức đau đớn như việc bắt một cặp vợ chồng phải ly hôn, thì việc chia cắt thành phố Berlin khó khăn như việc mổ tách hai đứa trẻ dính nhau.
Nhưng sự tụt hậu của miền Đông so với miền Tây ngày càng nặng. Chính phủ Đông Đức cho là do chảy máu chất xám qua các đường phố Berlin. Thay vì tìm nguyên nhân tại sao dân chúng và trí thức bỏ đi, họ quyết định xây bức tường Berlin.
Chỉ trong vòng 10 tiếng đồng hồ đêm 12.08.1961, dưới sự bảo trợ của xe tăng Liên Xô, hàng chục cây số tường bằng dây thép gai, bằng các loại barrier tạm thời đã được dựng lên. Đáng nói là quân đội Mỹ, Anh, Pháp đều khoanh tay đứng nhìn. Sáng hôm sau 13.8, người dân Berlin bàng hoàng và đau khổ vì tự nhiên họ bị mất người thân, có người mất việc làm, có cháu bé mất chỗ học. Có doanh nghiệp phá sản vì mỗi phân xưởng nằm ở một bên thành phố. Số phận gia đình Kuhlke cũng vậy.
Những ngày tiếp theo chứng kiến hàng ngàn cuộc vươt rào thép gai ngoạn mục của dân chúng sang phía Tây. Riêng trong đêm 13, rạng sáng 14.8 đã có hàng trăm người chạy thoát. Bức ảnh anh lính biên phòng Schumann nhảy qua rào thép gai, chạy sang Tây Berlin đã truyền đi khắp thế giới. Lãnh đạo CHDC Đức hiểu rằng hàng rào dây thép gai không hữu hiệu nên từ ngày 15.8.1961 các bức tường gạch và bê-tông lần lượt thay thế dây thép gai. Sau vài năm các bức tường này được xây cao lên trên 3-4 m có các trạm quan sát, có hệ thống chiếu sáng kèm theo một dải đất trống mà người dân quen gọi là giải đất chết (Todestreifen). Ai vượt qua giải đất đó sẽ bị bắn chết.
Phía tây của bức thành đó, dân Tây Berlin vẫn sinh hoạt bình thường, phố xá vẫn mọc đến tận sát chân tường. Nhưng ở phía Đông, không một ngôi nhà nào cách bức tường đó 50-100m được sử dụng. Toàn bộ trở thành vành đai trắng, không có người ở. Người ta sợ những căn nhà đó sẽ trở thành các điểm xuất phát cho những đường hầm xuyên dưới bức tường, cho các cuộc vượt biên ngoạn mục.
Chàng thanh niên 21 tuổi Chris Gueffroy là nạn nhân cuối cùng bị bắn chết bên bức tường Berlin hôm 5.2.1989. Bảy tháng sau, bức tường tội ác bị nhân dân Đức phá bỏ.
Tổng cộng, khoảng 1000 người Đông Đức bị đồng bào mình bắn chết trên đường đi từ miền đất này đến miền đất khác của tổ quốc, trong đó 139 người bên bức tường Berlin. Số còn lại thiệt mạng trên biên giới Đức-Đức và trên biển Baltic hoặc các biên giới khác.[2]
Köln, 13.08.2019
Tho Nguyen
Bức ảnh họ chia tay nhau lần cuối cách đây 58 năm.
Anh lính biên phòng Conrad Schumann vượt hàng rào thép gai, chạy sang Tây Berlin trưa ngày 13.8.1961.
Thanked by 1 Member:
|
|
#73
Gửi vào 24/11/2019 - 12:59
Ngày 3.10 cách đây 29 năm, nước Đức đã thống nhất trong hòa bình. Khởi đầu là cuộc đấu tranh bất bạo động đòi cải cách xã hội của nhân dân CHDC Đức. Tôi có nhiều kỷ niệm đẹp về thời trai trẻ học nghề ở đây. Đầu tháng 9 vừa qua, vợ chồng tôi lại về trường cũ ở Königs Wusterhausen để thăm lại các thầy cô.
Tôi có rủ cả Michael Verleih, người bạn thời trẻ của tôi, người tù chính trị năm xưa, về thăm trường cũ để gặp lại bạn bè của bà Verleih, mẹ anh ta. Nhiều cuộc gặp gỡ cảm động đã diễn ra mà tôi không thể kể hết.
Trong một quán ăn Việt Nam ở Königs Wusterhausen, thầy trò chúng tôi ôn lại các kỷ niệm xưa. Cười bò vì những trò ấu trĩ XHCN bao nhiêu, chúng tôi lại tự hào bấy nhiêu về những gì mà người Đông Đức đạt được trong hoàn cảnh thua kém về kỹ thuật thời đó. Mặc dù lạc hậu hàng chục năm so với Tây Đức, nhưng nền giáo dục CHDC Đức vẫn đào tạo ra những người thợ, những kỹ sư, bác sỹ ngang tầm. Tôi luôn biết ơn ngôi trường cũ là vì vậy.
Nhân Michael nói chuyện về vụ án của anh ta, bạn tôi nhắc đến việc hai người thợ Đông Đức đã chế tạo khinh khí cầu để vượt biên bằng những phương tiện tại chỗ và trí thông minh.
Ngày đó người Đông Đức chạy sang Tây Đức không phải vì thiếu thốn hay đói ăn. Nền kinh tế XHCN đảm bảo cuộc sống cơ bản, nhà ở và các dịch vụ y tế, giáo dục cho toàn dân. Đông Đức chỉ thiếu ngoại tệ mạnh để nhập các thứ hàng cao cấp như cà phê, rượu ngon, hoa quả nhiệt đới v.v. Nhưng đó không phải là các nhu cầu sống còn.
Người ta bỏ đi vì không được nói, được viết những điều họ nghĩ. Tự do là khí thở! Ai không chịu nổi sự ngột ngạt thì tìm cách ra đi. Nhưng sống sót qua được đường biên giới đầy mìn và thép gai, dày đặc lính biên phòng, không phải là dễ dàng.
Nhiều người dân Đông Đức đã đào các loại hầm ngầm, thiết kế các loại thuyền vượt biển, cải tạo các lớp vỏ xe ô tô để chui vào trong đó v.v. Ở Đức có nhà „Bảo tàng biên giới“[1], trưng bày hàng trăm cách vượt biên đầy sáng tạo của dân chúng. Nhưng có lẽ chế tạo khinh khí cầu để hai gia đình 8 người cùng bay qua biên giới là câu chuyện có một không hai.
Peter Strelzyk, (sinh 1942), thợ điện, từng đi lính không quân và Günter Wetzel, (sinh1955), thợ nề, là đồng nghiệp tại một nhà máy sản xuất nhựa địa phương. Cả hai đều mong muốn chạy trốn khỏi Đông Đức và từ đầu năm 1978, họ đã lập kế hoạch vượt biên. Lúc đầu họ tính thiết kế một chiếc trực thăng, nhưng kiếm đâu ra được một động cơ thích hợp? Thế là họ quyết định nghiên cứu làm một khinh khí cầu, sau khi đọc các tài liệu kỹ thuật.
Để có thể trốn thoát cùng 2 bà vợ và bốn đứa con (từ 2 đến 15 tuổi), tổng số cả người và khí cầu là khoảng 750 kilôgam, cần phải có 2.000 mét khối khí được làm nóng đến 100 °C. Tức là họ cần khoảng 800 mét vuông vải thích hợp. Vì ở một thị trấn nhỏ gần biên giới nên họ không thể mua khối lượng vải như vậy mà không bị để ý. Thế là họ phải đánh xe đi khắp các thành phố khác để mua. Họ nói dối là để cắm trại cho cả câu lạc bộ.
Vợ chồng Wetzel may bóng khinh khí trên một máy may thủ công 40 năm tuổi. Strelzyk thiết kế phần giỏ treo và phần đầu đốt.
Vào tháng 4 năm 1978. Sau nhiều ngày tìm kiếm, họ đã tìm thấy một khu rừng cách biên giới 10 kilômét để thử nghiệm. Thử nghiệm thất bại vì loại vải đó dò rỉ nhiều quá nên đốt mãi mà bóng không phồng. Mất toi 2500 Mark Đông Đức! Riêng việc bí mật thiêu hủy đống vải đó trong lò sưởi cũng mất 5 tuần.
Lần thử tiếp theo với các loại vải không thấm nước dùng để làm ô che mưa hoặc lều cắm trại cũng thất bại. Lần này thì tại đầu đốt khí Propan vẫn còn yếu, túi khí không căng được lên hết. Mất toi 4800 Mark Đông Đức. Wetzel thối chí, chuyển sang nghiên cứu máy bay nhỏ. Tan đàn xẻ nghé.
Strelzyk tiếp tục cố gắng cải thiện đầu đốt. Vào tháng 6 năm 1979, ông phát hiện ra rằng nếu lắp bình propan đảo ngược, áp lực bổ sung gây ra chất lỏng propan sẽ tạo ra một ngọn lửa lớn hơn. Ông sửa đổi giỏ treo để gắn các bể chứa propan lộn ngược. Cấu trúc mới tạo ra ngọn lửa dài 12m.
Vào ngày 3 tháng 7 năm 1979, thời tiết và gió thuận lợi. Toàn bộ gia đình Strelzyk bay lên lúc 1:30h sáng và đạt đến độ cao 2.000 m. Gió đang thổi bóng về phía Tây Đức thì khí cầu bay vào một đám mây. Hơi nước trong khí quyển ngưng tụ trên khí cầu và trọng lượng thêm của nước khiến nó chìm xuống. Họ đáp xuống một cách an toàn, nhưng vẫn ở Đông Đức. Vợ chồng Strelzyk xóa hết mọi dấu vết và tìm mọi cách bí mật về nhà cách đó 14km. Nhưng họ không hủy được khí cầu.
STASI phát hiện ra xác khí cầu và phát động một cuộc truy nã gắt gao. Họ đã tìm thấy dấu vết thuốc của Doris Strelzyk để lại trên khí cầu và truy tìm các loại séc mua vải. Nếu STASI tìm được Strelzyk, Wetzel cũng sẽ bị lộ. Thế là hai gia đình lại thống nhất. Thời gian sống sót của họ không còn lâu nữa Họ phải lắp ngay một khí cầu khác để nhanh chóng chạy thoát.
Với kinh nghiệm đã có, họ tăng gấp đôi kích thước quả bóng lên 4.000 mét khối. Họ phải đi xa hàng trăm cây số để mua 1.250 mét vuông vải các loại trong khi STASI đã thông báo cho tất cả các cửa hàng không được bán vải khối lượng lớn.
Cái thòng lọng của STASI sắp thít lại đúng vào lúc họ kịp may xong khí cầu và quyết định hành động. Nửa đêm hôm 16.9.1979, khinh khí cầu bay lên cùng cả hai gia đình 8 người. Không may là gió to đẩy ngọn lửa về phía vải gây bốc cháy. May Günter Wetzel có mang theo bình cứu hỏa nên kịp dập tắt đám cháy. Khí cầu bay cao 2.500 mét, trôi về phía Tây Đức với tốc độ 30 km/giờ. Vì khí cầu bị cháy một chỗ, mất hơi nên Wetzel phải tăng ngọn lửa lên mức tối đa . Ánh lửa đã làm một lính biên phòng Đông Đức để ý và anh ta báo động về một vật thể bay không xác định hướng về phía biên giới. Nhưng Radar không thể phát hiện bóng bay bằng vải còn đèn pha thám không thì không chiếu tới 2500 m.
Khi bình propan hết, họ rơi từ từ xuống một cánh đồng. Không ai bị thương, ngoại trừ Wetzel bị gãy chân khi hạ cánh. Họ nghĩ rằng đã thoát vì thấy những ánh đèn màu đỏ và vàng không phổ biến ở Đông Đức. Họ cũng thấy các các máy cày mà miền Đông không có. Hai cảnh sát Tây Đức đã nhìn thấy ánh sáng nhấp nháy của quả bóng đang hạ cánh nên phóng xe đến nơi đó. Viên cảnh sát nói với họ:
-Đây là Naila, bang Bavaria Tây Đức, chỉ cách biên giới 10km. Ngọn gió nào đã đưa các vị tới đây thế?
Cả hai gia đình định cư tại Naila, nơi họ đã hạ cánh. Wetzel làm thợ sửa ô tô và Strelzyk mở một cửa hàng sửa chữa truyền hình. Để tránh các điệp viên Stasi luôn xuất hiện ở đó, Strelzyk chuyển sang Thụy Sĩ năm 1985. Sau thống nhất đất nước 1990, họ đều trở về quê ở Đông Đức.
Ngay sau đêm 16.9.1979, Đông Đức lập tức tăng cường an ninh biên giới, đóng cửa tất cả các sân bay nhỏ gần biên giới và ra lệnh cho các máy bay phải đỗ xa hơn trong nội địa. Bình chứa khí Propan đã trở thành sản phẩm phải đăng ký. Vải không thấm nước cũng trở thành hàng quốc cấm.
Người em của Peter Strelzyk là Erich ở lại Đông Đức biết tin trốn thoát của anh trai mình qua đài truyền hình Tây Đức ZDF. STASI ập đến bắt ông tại nhà riêng 3 giờ sau đó, dù ông không dính dáng gì đến vụ đào thoát của anh. Erich cùng chị gái Maria và ông anh rể bị buộc tội "giúp đỡ và đồng mưu trốn thoát" và kết án hai năm rưỡi tù. Ba người cuối cùng đã được phóng thích nhờ sự can thiệp của Tổ chức Ân xá Quốc tế.
Quả bóng khí cầu dài 28 m, rộng 20m hiện được trưng bày tại bảo tàng lịch sử Bavaria ở Regensburg.
Năm 1982 hãng phim Disney đã mua bản quyền chuyện kể của Strelzyk và dựng bộ phim truyện “Night Crossing”. Người Đức đặt tên phim là „With the Wind to the West” (Theo gió về miền Tây). Trong phim có nêu nhiều chi tiết về tình bạn của hai gia đình cũng như bi kịch giữa những con người cùng cảnh ngộ [3].
Köln 3.10.2019
Tho Nguyen
Günter Wetzel bị gãy chân được cấp cứu sau khi hạ cánh.
Thanked by 1 Member:
|
|
#74
Gửi vào 24/11/2019 - 13:09
Vào ngày 24/11/1979, một cuộc không tặc máy bay quân sự C-130 vô tiền khoáng hậu tại sân bay Tân Sơn Nhất của một nhóm 13 người trốn chạy khỏi VN gây chấn động thế giới. Họ là ai? Cuộc vượt biên bằng máy bay này ra sao? Ông Trương Văn Ẩm, người lên kế hoạch cuộc không tặc kể lại câu chuyện sau 36 năm:
“Không có động cơ nào hết bởi vì năm 1975 tôi đã sắp xếp đầy đủ, sẵn sàng chỗ máy bay cho ông già bà già, cho vợ con đi mà cuối cùng bà già với anh em cương quyết không đi. Tôi không đi được thì tôi nghĩ không bao giờ đi nữa”.
Ông Trương Văn Ẩm, một nhân viên trong ngành kỹ thuật hàng không làm việc tại sân bay Tân Sơn Nhất, được giữ lại trong Cục Kỹ thuật Không quân sau năm 1975 bắt đầu câu chuyện kể của mình qua câu hỏi của Hòa Ái rằng động cơ nào khiến ông đi đến quyết định trở thành một tên không tặc đối với chính phủ VN lúc bấy giờ.
Tuy cuộc sống của ông và gia đình không còn được sung túc như thời VNCH nhưng vẫn tốt sau khi Sài Gòn đổi tên thành TP. H.C.M. Ông Ẩm không hề manh nha nghĩ đến một cuộc ra đi nào sau khi cả gia đình quyết định ở lại VN. Thế nhưng, một chuyến công tác ra Hà Nội đầu tiên và cũng là cuối cùng đã tác động ít nhiều đến cuộc không tặc định mệnh trong cuộc đời ông:
“Đùng một cái vào ngày mùng 2 tháng 9, lễ Quốc khánh năm 1979, tối đang ở nhà coi ti vi với bà con lối xóm thì ông thủ trưởng lái xe jeep ra, đi với mấy người lính, nói với tôi rằng anh có lệnh phải đi công tác Hà Nội. Từ hồi mất nước khi tôi ở lại dù có yêu cầu đi Hà Nội mấy lần nhưng tôi không muốn đi. Không biết tại sao động lực nào xui khiến lần này tôi đi liền. Nhiệm vụ của tôi, thứ nhất là tôi phải coi một chiếc máy bay C-130 bị hư lâu rồi mà không sửa được. Nhiệm vụ thứ hai là tôi phải vào Cục Kỹ thuật Không quân, thuộc Bộ Tư lệnh Không quân để thuyết trình những hoạt động máy bay của Mỹ trong này cho mấy ông lớn ngoài đó nghe. Tôi ra Hà Nội, tôi coi thì chiếc máy bay không bị hư hỏng nặng, chỉ bị hư nhẹ thôi nhưng vì mấy người không có kinh nghiệm. Tôi lên coi máy, tôi hỏi rồi tôi chỉ anh em làm có nửa tiếng đồng hồ xong”.
Nhiệm vụ thứ nhất đã hoàn thành nhanh chóng và đến giờ vào Cục Kỹ thuật để thuyết trình. Thế nhưng bức tranh về xã hội miền Bắc dưới chế độ c.... s.. lần lần được hiện ra rõ nét trong tâm tưởng ông Trương Văn Ẩm. Bắt đầu từ giây phút ông bị anh lính gác cổng không cho vào thuyết trình vì cách ăn mặc miền Nam không đúng theo tiêu chuẩn quy định cho đến Thượng úy trực ban cũng không thể can thiệp cho vào để ông làm tròn nhiệm vụ thứ 2 được giao. Vì nguyên nhân này mà ông Ẩm có thời gian tham quan Hà Nội, được tận mắt thấy cảnh đời sống thường nhật của người dân Hà thành, kể cả những trí thức trở về từ các nước Đông Âu.
Do thời tiết bị bão, không có máy bay về lại miền Nam, ông Trương Văn Ẩm quyết định về thăm cố hương Thái Bình, nơi ông di cư từ hồi 8, 9 tuổi. Họ hàng gần xa đều đến đông đủ tay bắt mặt mừng. Trong thời gian 3 ngày thăm viếng, lời khuyên ngắn gọn của người cậu ruột ám ảnh ông Trương Văn Ẩm:
“Cậu tôi nói là tôi phải đi, không được ở lại. ‘Bởi vì mày ở lại mai mốt cũng về cuốc đất. Nó chỉ sử dụng mày một thời gian thôi đến khi nào nó biết hết’”.
Rồi buổi gặp mặt tình cờ với phi công Tiêu Khánh Nha đã khiến ông Trương Văn Ẩm đi đến quyết định cho một chuyến vượt biên bằng máy bay quân sự sau khi nghe chia sẻ của Thượng úy “chế độ mới” này:
“Ông nói cái vụ chiến tranh biên giới năm 1978, tôi mang họ Tiêu, nó nói tôi gốc Tàu mà tôi có biết ông cố nội tôi có phải Tàu không. Nhưng bây giờ nó muốn hất tôi ra khỏi sân bay, không cho tôi được phép đi tới gần máy bay, chờ nó cho về vườn thôi”.
Kế hoạch cho một cuộc vượt thoát bằng cách cướp chiếc máy bay quân sự C-130 đang được ông Ẩm phụ trách sửa chữa ở sân bay Tân Sơn Nhất được lập ra chớp nhoáng. Mọi dự trù về xăng nhớt, an ninh, phòng không đều được bàn tính chi ly chỉ vỏn vẹn trong 3 ngày.
“Nếu đi đúng giờ giấc thì mình cất cánh rồi thì F-5 Biên Hòa chưa cất cánh. Lý do khi nghe báo động dưới này thì phải gọi lên phòng tác chiến trên đó. Phòng tác chiến phải kiểm tra tới, kiểm tra lui. Đúng thì mới ra lệnh xuống Phòng hành quân và Phòng hành quân mới ra lệnh cho phi công ra máy bay thì mất khoảng 10 đến 15 phút. Thời gian nói chuyện với nhau cũng mất 5,10 phút rồi. Khoảng 25 đến 30 phút máy bay mới cất cánh được mà mình cất cánh 15 phút thì đã mất tiêu rồi”.
Kế hoạch bị trì hoãn, thay vì xuất phát vào giờ G ngày thứ Tư thì mãi đến giờ cơm trưa ngày thứ Bảy, nhóm người trong tổ nhân viên kỹ thuật hàng không của ông Ẩm và 1 bộ đội canh gác máy bay trên mặt đất bị khống chế bắt đầu giây phút trở thành không tặc:
“Khoảng 11 giờ bắt đầu tôi cho anh em quay máy. Khi vừa quay máy được chút xíu, khoảng 5 phút thì có 2 anh bộ đội kéo một chiếc máy bay loại C-119 đi ngang ‘taxi way’(đường di chuyển nội bộ trong khu vực sân bay), dừng lại ngay giữa đường, đứng đó là mình không bay ra vô được nữa. Chiếc máy bay đó lớn lắm”.
Theo kế hoạch, vợ chồng và 2 đứa con nhỏ của phi công Tiêu Khánh Nha sẽ xé hàng rào chạy vào sau khi nghe tiếng 4 động cơ chiếc C130 được khởi động. Nếu trục trặc xảy ra thì các động cơ sẽ bị tắt. Đây là tín hiệu cho gia đình phi công này không được di chuyển tiếp cận máy bay. Do bị chiếc C-119 chắn ngang, 4 động cơ bị tắt trong khi ông Ẩm đang cố gắng tìm cách giải quyết thì phi công Tiêu Khánh Nha không làm theo kế hoạch:
“Ông Nha nóng ruột, chun hàng rào chạy vô. Ông cứ hỏi, tôi nói anh cứ đi ra đi, ăn cơm xong rồi liên lạc sau. Anh đi ra khỏi đây đi. An ninh, Bảo vệ mà thấy anh với tôi nói chuyện là phiền phức”.
Sau đó không lâu, mọi việc suông sẻ:
“Tôi sắp xếp xong đàng hoàng thì quay máy khoảng 5 phút sau, nhìn ra phía hàng rào vẫn không thấy gia đình ông Nha đâu hết”.
Trong giây phút căng thẳng không thấy gia đình phi công Tiêu Khánh Nha xuất hiện thì 1 bộ đội chạy đến khiến mọi người chết đứng. Hóa ra là người trong gia đình phi công Nha “ăn theo”, mặc đồ lính, xé rào chạy về hướng máy bay. Cuối cùng 13 người có mặt trong phi hành đoàn bất đắc dĩ và chiếc C-130 bắt đầu lăn bánh sau 2 giờ chiều ngày 24/11/1979.
“Vừa lái thẳng chiếc máy bay tới ngang Ga Hàng không Việt Nam, chỗ Đài kiểm soát là tống ga cất cánh lên liền quẹo về hướng Cát Lái. Lúc đầu định đi qua Biên Hòa rồi đi thẳng ra Vũng Tàu nhưng phút chót lại đổi ý. Khi cất cánh lên được rồi thì bay về hướng Thủ Thiêm. Bay khoảng 10 phút là chúng tôi thấy biển đến Vũng Tàu là bắt đầu lên cao. Anh em mừng ôm nhau khóc. Chúng tôi khóc trong máy bay vậy đó”.
Dường như kế hoạch được trót lọt, không gặp trở ngại nào từ lực lượng phòng không VN. Thế nhưng, thời tiết buổi chiều ngày thứ Bảy định mệnh là một thách thức cho nhóm không tặc bao gồm 2 trẻ em:
“La bàn thì không có, bị hư. Bản đồ không có. Chúng tôi theo cách hồi xưa được học địa lý, ra bờ biển Vũng Tàu thì theo bờ biển đi thôi. Trời xấu quá, tối và mưa nên phải bay lên cao. Bay lên cao khoảng 5,7, 10 phút lại xuống. Xuống lần thứ 4 thì chúng tôi thấy cái mỏm của Malaysia. Qua Malaysia thì sẽ đến Singapore. Chúng tôi học địa lý, chúng tôi biết. Bay khoảng 10 phút thì lên lại. Xuống trở lại thì thấy cảng của Singapore đèn đuốc sáng. Chúng tôi nói đúng Singapore phía trước rồi”.
Cất cánh được êm xuôi. Thế hạ cánh thì thế nào:
“Chúng tôi bật liên lạc. Chúng tôi không có tần số nên liên lạc không được. Không có ai trả lời hết thành ra chúng tôi phải đáp bằng tín hiệu gọi là MCC quốc tế. Chúng tôi lắc cánh 3 lần. Bật đèn xanh chớp rồi lắc cánh 3 lần. Khi lắc cánh 3 lần thì chúng tôi nhìn thấy Đài Kiểm soát của sân bay Singapore chớp đèn đỏ. Như vậy đã nhận được tín hiệu của mình nhưng đèn đỏ là không được đáp”.
Và chiếc C130 đáp xuống sân bay Singapore một cách an toàn. Mọi người được yêu cầu chờ trên máy bay, được cung cấp thức ăn và được chở đi vệ sinh. Sau vài giờ đồng hồ, cảnh sát Singapore nói rằng sẽ cho máy bay dẫn đường bay qua Philippines. Đoàn người nhất quyết không đồng ý và khẩn thiết xin được gặp nhân viên Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Singapore.
Nhóm 13 người được giữ lại Singapore. Ngày Chủ Nhật hôm sau được làm việc với cảnh sát của đảo quốc Sư Tử. 2 ngày kế tiếp được gặp nhân viên Hoa Kỳ:
“Trong ngày khai báo thứ Hai và thứ Ba, có một ông Mỹ là Đại úy. Ông nói thẳng ông là CIA. Ông nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt Nam như người Việt Nam vậy. Ông nói chào mừng chúng tôi. Ông nói rằng ‘mấy anh đi làm náo loạn không những Tòa Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, mà náo loạn cả nước Mỹ và thế giới. Chúng tôi nhận các anh nhưng chúng tôi không tin tưởng bởi chúng tôi còn đặt nghi vấn có chuyện sắp xếp của Việt Cộng cho các anh đi. Thành ra tôi đang ở Đức nhưng được lệnh về gấp gặp các anh”.
Kết quả là cả 13 người được quy chế tị nạn chính trị và sẽ được định cư ở Hoa Kỳ. Trả lời câu hỏi “mọi người mong muốn điều gì sau khi nhận được kết quả này”, ông Trương Văn Ẩm ước ao được đặt chân đến Mỹ trước ngày Noel sắp đến. Điều mong ước tưởng chừng không tưởng ấy được đáp ứng. Trong khi mọi người hài lòng với món quà một bộ đồ và đôi giày ba-ta mới chuẩn bị lên đường qua Mỹ đón Noel chỉ trong vòng 1 tuần thì người bộ đội “con tin” lại xin được quay về VN. Dù mọi người khuyên can thế nào thì anh lính cụ Hồ vẫn không thay đổi quyết định:
“Nó khóc lóc nói ba em già 70 tuổi, nếu cho em về nhìn ba em một cái rồi chết cũng được”.
Như hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do, 12 người này đã trở thành không tặc để đi tìm sự sống trong cái chết. Nhà nước CHXHCNVN mở phiên tòa xét xử khiếm diện, tuyên án tử hình đối với Thượng úy phi công Tiêu Khánh Nha, ông Trương Văn Ẩm và những người còn lại bị tuyên từ 20 đến 35 năm tù giam.
Cuộc đời mới ở Hoa Kỳ của 12 người thoắt đó đã 36 năm với nhiều đổi thay. Sau khi đến Mỹ không lâu, 1 người trong nhóm bị bạo bệnh. Tro cốt của người này được gửi về cho gia đình qua đường bưu điện. Thế nhưng tên họ của người đã khuất mang “tội phản quốc” nên bị gửi trả ngược lại Hoa Kỳ. Trong mấy năm qua, 1 thành viên khác trong nhóm trở về VN lại được chào đón như một Việt kiều yêu nước.
Riêng người chủ mưu cuộc không tặc vô tiền khoáng hậu, ông Trương Văn Ẩm vẫn kiên định tư tưởng “Tôi chỉ về khi nào không c.... s... Còn c.... s.. thì không bao giờ tôi về”, đồng thời vẫn luôn thăm hỏi tông tích của người bộ đội tên Tạo dù đến nay vẫn chưa có manh mối nào. Trong những phút giây bất chợt nhớ về lần vượt thoát, lẫn trong âm thanh văng vẳng tiếng động cơ và cánh quạt của chiếc C130, còn có tiếng khóc nghẹn ngào đòi trở về VN của anh Tạo. Và ông Ẩm tự hỏi “liệu rằng sau bao vật đổi sao dời, người lính trẻ có còn giữ vững lập trường của mình hay chăng?”.
(Nguồn: RFA)
bài viết của báo Tuổi Trẻ về sự kiện này:
Ông Trương Văn Ẩm, một trong những người bỏ trốn trên chiếc máy bay C130 đánh cắp - Ảnh: INTERNET
Sửa bởi tuphuongsg: 24/11/2019 - 13:11
Thanked by 1 Member:
|
|
#75
Gửi vào 09/12/2019 - 19:35
Có lần tôi được đọc bài rất hay của bác Vũ Thư Hiên trên trang phây búc (Facebook) nhà bác. Bác Hiên là con trai cụ Vũ Đình Huỳnh, mà cụ Huỳnh là bí thư, trợ lý thân cận của cụ Hồ những năm sau cách mạng tháng 8.1945. Năm 1967-1968, ông Sáu Búa LĐT khi ấy là Trưởng ban Tổ chức trung ương (chức này quyền hành chỉ kém Bí thư thứ nhất, tức Tổng bí thư sau này) đã liên minh với ông LD triệt hạ tất cả những người không ăn cánh với hai ông, đồng thời triệt luôn những ai có tư duy đổi mới, dân chủ. Hai ông Lê gọi họ là đám xét lại, theo đuôi Khơ rút sốp (Khrushchev) Liên Xô và Tito Nam Tư để phá chủ nghĩa xã hội. Cụ Huỳnh và ông Hiên con trai cụ đều bị bắt, giam cầm nhiều năm, đến khi được thả ra vẫn mất hết quyền lợi chính trị, oan sai không được tháo cởi, cha thì ôm mối hận nghìn thu xuống mồ, con thì phải lưu vong xứ người suốt từ khi ra khỏi tù tới nay. Thân thiết gần gũi với cụ Hồ như thế, họ cuối cùng vẫn không thoát khỏi lao tù của chính những đồng chí đã một thời đồng cam cộng khổ với mình.
Trong bài viết, ông Vũ Thư Hiên có nhắc đến cụ Nguyễn Hữu Đang. Thế hệ những người đến nay đã ngoài 60 tuổi trở lên không mấy ai không biết tên tuổi cụ Nguyễn Hữu Đang. Cụ là một nhà cách mạng đúng nghĩa, một nhà văn hóa lừng lẫy, một trí thức nhân cách đáng kính. Chính cụ Đang là tổng công trình sư của lễ độc lập - quốc khánh ngày 2.9.1945. Cụ Hồ đã đích thân giao chức trưởng ban tổ chức lễ độc lập cho cụ Đang. Theo lời chính cụ Đang kể lại, khi cụ kêu khó quá, chỉ hai bàn tay trắng, thời gian lại quá gấp, cụ Hồ liền cười bảo “biết khó mới giao cho chú”. Chỉ trong 2 ngày cụ Đang đã lo liệu ngon lành, trôi chảy. Có thể nói, không có tài tổ chức và uy tín tập hợp của cụ Đang, không thể có lễ độc lập đúng ngày 2.9. Điều đó cho thấy biệt tài của một con người. Sau này mỗi lần kỷ niệm ngày quốc khánh, nhà nước vẫn lờ tịt công lao của cụ Đang một cách rất vô ơn.
Nhưng người tài thường bị ganh ghét, chữ tài liền với chữ tai một vần, nhất là với những người bản lĩnh, cương trực, không chịu xu nịnh, không chấp nhận bán linh hồn cho quỷ. Đám các ông LD - LĐT - Tố Hữu vu cho cụ Đang cùng với các ông Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Dần cầm đầu nhóm Nhân văn-Giai phẩm, là gián điệp, ph.... đ...., âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Cụ Đang bị kết án 15 năm tù, thuộc diện nặng án nhất trong vụ này. Khi các ông Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn, Tuân Nguyễn… bị vu cho tội xét lại chống đảng, bị bắt giam và đi tù, đày lên trại giam vùng sơn cước heo hút Hà Giang thì ông Đang đã có thâm niên tù chăn kiến nơi đó gần chục năm rồi. Mãi năm 1973 ông Đang mới được thả, rồi bị quản thúc nơi quê nhà Thái Bình gần 20 năm nữa, bị cấm đi khỏi nơi cư trú, ai đến thăm cũng bị theo dõi chặt chẽ. Nhà văn Phùng Quán đã có bài rất xúc động kể về những ngày không tù mà như tù của ông Đang ở Thái Bình, bị hành hạ khổ như con vật, thậm chí con chó con lợn cũng không khổ bằng.
Về cụ Đang, tôi chỉ biết rằng, hồi năm 1975 khi chúng tôi học đại học năm áp cuối có được nghe thầy Phan Ngọc (cũng bị quy tham gia nhóm Nhân văn-Giai phẩm) làm ở Phòng tư liệu Khoa văn (thầy Cao Xuân Hạo cùng làm ở đây thời kỳ này) kể rằng suốt gần 14 năm lao tù ông Đang bị cách ly hẳn với thế giới bên ngoài. Không hề có một tí thông tin nào lọt qua cánh cổng sắt dày và hàng rào dây thép gai nhọn của “trại cải tạo” (thực chất là nhà tù) trên cao nguyên đá Hà Giang. Mọi diễn biến của thế giới bên ngoài, dù trong nước hay quốc tế, chỉ là con số 0. Người tù không được đọc báo nghe đài, không được phổ biến tin tức thời sự. Có lẽ đó cũng là cách trừng trị, đày ải của nhà cầm quyền đối với những "kẻ" bướng bỉnh, bất tuân phục. Sống mà không biết gì ngoài lao động khổ sai giữa vùng núi đá trập trùng, ngoài hai bữa ăn trong ngày, sống thế thì cũng như chết. Thầy Phan Ngọc kể ghê nhất là ông Đang khi được thả ra năm 1973 ông vẫn không hề biết là máy bay Mỹ đã ném bom miền bắc, chiến tranh phá hoại của Mỹ đã diễn ra gần chục năm trời (từ năm 1964-1973). Đọc truyện Tam quốc của Tàu thấy quân Tào Tháo trước khi tiêu diệt 70 vạn quân Viên Thiệu trong trận Quan Độ đã bít hết mọi thông tin về các trận trước đó khiến Viên Thiệu không biết đâu mà lần, cứ chủ quan rồi chuốc thất bại. Nhưng bưng bít thông tin như trại Hà Giang thì đám Tào Tháo thời Tam quốc cũng phải gọi CS bằng cụ.
Tôi vào Sài Gòn đầu năm 1977. Chỉ gần 2 năm sau ngày 30.4.1975, cuộc sống bị đẩy đến chân tường. Ngày càng có nhiều người trốn ách chế độ mới bỏ nước ra đi, nhà chức trách gọi là “vượt biên”. Lúc ấy người ta bảo nhau nếu cây cột điện có chân thì nó cũng đi (tôi sẽ có bài ký ức riêng về tình trạng bi kịch này). Mãi tới năm 1983 hoặc 1984 chi đó, tôi mới được nghe kể lại vụ chìm tàu kinh hoàng của người vượt biên ngay khu vực bến phà Cát Lái năm 1979. Những người vượt biên đóng vàng nộp cho công an và chủ tàu, xuống tàu chạy được một đoạn trên sông thì chìm, gần 250 người chết thảm, mấy ngày mới vớt hết xác lên bờ. Phà Cát Lái thuộc địa phận huyện Thủ Đức (chỗ quận 2 bây giờ) nếu theo đường chim bay tới trường tôi cũng chỉ chục cây số. Thế mà dân chúng thành phố, kể cả đám giáo viên chúng tôi, gần như không ai biết một vụ động trời như vậy. Suốt bao nhiêu năm ròng. Họ đã giấu biệt thông tin bi thảm, không để ảnh hưởng đến hình ảnh cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa mà họ ca ngợi là tốt đẹp, và nhất là để những ai đang có ý định vượt biên nửa hợp pháp (được công an bảo kê) tiếp tục nộp tiền vàng cho họ. Giờ nghĩ lại thấy kinh thật. Hàng trăm người chết xảy ra sát nách mình mà mình không biết.
Rồi một vụ bưng bít thông tin điển hình nữa là vụ tai nạn xe lửa thảm khốc xảy ra ở huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai tháng 3.1982. Tàu khách khi qua đây bị hỏng phanh hãm và lật lúc đang chạy nhanh vào cua. Trên mỗi con tàu hồi ấy chen chúc tới vài trăm người, ngồi kín đặc toa, trèo lên cả nóc tàu. Gần 200 người chết, có tới hơn nửa số nạn nhân không giấy tờ tùy thân nên gia đình không hề biết họ đã ra sao, thậm chí cứ nghĩ đã đi vượt biên. Tệ hại nhất là chính quyền bưng bít thông tin, cấm báo chí đăng tải nên lại càng không biết. Cả trăm nạn nhân bị vùi chôn trong mộ tập thể ở huyện Thống Nhất. Một cái chết hai trăm mạng vô tội, hầu như không mấy ai ngoài khu vực đó nắm được, phải nói nhà cai trị rất giỏi che giấu, và cực kỳ tàn ác.
Sự cấm đoán thông tin cũng dẫn tới tình trạng tin đồn, tin nửa hư nửa thực, nửa kín nửa hở, tin thất thiệt. Không chỉ người dân lương thiện mà ngay cả nhà cai trị nhiều khi cũng vất vả khốn khổ với tin đồn. Khi thì tin đổi tiền, tin máy bay rơi, tin bắt trẻ em mổ lấy nội tạng, tin ông này ông kia bị ung thư bị chết, v.v.. Lưỡi dao mà nhà cai trị đưa ra có lúc lại cứa ngay vào chính tay họ.
Nhà cai trị luôn chủ trương độc quyền thông tin. Có độc quyền thì mới ban phát, định hướng, ép buộc được. Có độc quyền mới tạo ra những vùng cấm để từ đó dễ bề cai trị, trừng trị. Bề ngoài thì có vẻ cởi mở, thông thoáng nhưng thực chất gần 1.000 cơ quan báo chí, truyền thông cũng chỉ nói, viết, phát theo sự múa may của một cây đũa chỉ huy. Sự đi xuống, nghèo nàn, nhạt nhẽo của báo chí chính thống là điều không tránh khỏi.
Ngày xưa người dân không có nguồn thông tin nào khác nên phải tìm đến báo chí của công quyền, nay thì họ được sự hỗ trợ của internet nên không bị lệ thuộc nữa. Chính internet và mạng xã hội đã tạo bước đột phá để con người khỏi phải mò mẫm trong thế giới thông tin. Internet là cuộc cách mạng vĩ đại giúp con người ngẩng cao đầu, thoát khỏi sự kìm kẹp, cấm đoán, bưng bít của nhà tù vô hình.
Đó là tự do.
Nguyễn Thông
6/9/2018
Thanked by 1 Member:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Văn khấn cổ truyền Việt Nam |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
||
Truyện thần tiên- Cát Hồng |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
||
Túc Kê Linh Quái (Phương pháp coi giò gà bí truyền) - Hồ Quang |
Tủ Sách | administrator |
|
||
Michelle Obama BẢO VỆ Gus Walz sau Khoảnh khắc DNC lan truyền với Bố Tim Walz |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Tử vi Nam Phái chân truyền tiếng Trung quốc, bên trung quốc truyền, rất hiếm |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Elohim |
|
||
Dòng Họ (dòng di truyền) |
Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Elohim |
|
|
16 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 16 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |