0
TRUYỆN NGẮN
Viết bởi tuphuongsg, 11/09/16 19:01
312 replies to this topic
#91
Gửi vào 07/01/2020 - 20:52
LƯU MANH ĐỎ VÀ NHẠC SỸ VĂN CAO
Hoàng Minh Tường
26-10-2015
Đôi khi những cuốn ghi chép vụn lại giống như kho chứa đồ, bất chợt nhặt được những thứ quí hiếm ngang đồ cổ.
Tình cờ lật dở mấy dòng ghi từ năm 2010, không biết các nhân vật trong buổi gặp tối đó, có ai biến đi đâu không?
Ấy là buổi tối 6 tháng 7 tại nhà hàng 36 Lý Thường Kiệt, một restaurant của gia đình nhạc sỹ Phạm Hồng Hà. Anh chàng tiến sỹ Viện vật lý Đupna, đã giải nghệ từ lâu, mưu sinh tại Mat, trở thành một nhạc sỹ lãng tử với mái tóc Digan và ngón đàn ghi - ta tuyệt kỹ hút hồn đàn bà. Mới về Hà Nội một ngày, anh đã rủ bạn bè đến khai trương thùng rượu Putina. Khách dự Phạm Hồng Sơn, anh trai Hà, vợ chồng Thông và hai người trùng tên Long, Long Bụi và Long Y dược.
Đúng như tên gọi, Long Bụi quả là bụi, bụi từ vóc dáng, ăn mặc, tới khẩu khí. Hỏi ra, mới biết anh là con rể hoạ sỹ Lê Chính, trình bày báo Văn Nghệ nhiều năm, có thời cùng cơ quan với mình. Có lẽ vì bố vợ là hoạ sỹ, bạn thân của những Văn Cao, Hoàng Cầm, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên… nên anh con rể cũng đồng thời là đệ tử của các tiên tửu ấy luôn. Lần nào Hoàng Cầm từ Hoả Lò ra, cũng có mặt Long Bụi đến thăm và hầu …rượu. Thời chiến tranh phá hoại, Long Bụi có chân trong tổ dân quân trực quanh Hồ Gươm. Thương cảm Văn Cao, Nguyễn Sáng, Hoàng Cầm…, nhiều lần Long Bụi đã tổ chức đưa thuyền chở các ông ra đảo Tháp Rùa câu cá, uống rượu, rồi hát ca trù, chầu văn cho đỡ … thèm.
– Có chuyện này về cụ Văn Cao, chỉ mình hai bố con tôi chứng kiến – Long Bụi kể – Ấy là cái năm Hội Nhà văn hay Nhạc sỹ Hunggari có giấy mời đích danh Văn Cao sang chơi hay hội thảo gì đó. Tổ chức không muốn cho Văn Cao đi, vì ông thuộc diện văn nghệ sỹ bất hảo, nhưng chưa tìm ra cớ gì ngăn cản. Tối ấy, tôi lai bố Lê Chính cùng bác Văn Cao đi đâu đó. Đến ngã tư Trần Nhân Tông – Mai Hắc Đế, bỗng thấy hai thằng du côn tự nhiên xô vào xe bác Văn, rồi chửi ông và đánh ông túi bụi. Khi ấy tôi đã là một thầy dạy võ, có lò võ riêng. Điên tiết, tôi xông đến, giằng hai thằng côn đồ ra, định dạy cho chúng một bài học. Thấy tôi ra đòn, biết gặp cao thủ, chúng bí quá, liền dí tấm thẻ đỏ vào mặt tôi: “Mày không biết chúng bố là ai, hả? Xéo đi cho các bố làm việc.”
Long Bụi cùng bố vợ, hoạ sỹ Lê Chính, đau đớn đưa nhạc sỹ Văn Cao về nhà phục thuốc.
Thế là chuyến đi Hunggari ấy của Văn Cao không thành.
Đọc lại trang ghi chép trên, buồn đến mấy ngày.
Thì ra, Lưu manh đỏ – danh từ mà tiến sỹ Tô Văn Trường vừa mới nghĩ ra, đã có từ thời Văn Cao.
Hoàng Minh Tường
26-10-2015
Đôi khi những cuốn ghi chép vụn lại giống như kho chứa đồ, bất chợt nhặt được những thứ quí hiếm ngang đồ cổ.
Tình cờ lật dở mấy dòng ghi từ năm 2010, không biết các nhân vật trong buổi gặp tối đó, có ai biến đi đâu không?
Ấy là buổi tối 6 tháng 7 tại nhà hàng 36 Lý Thường Kiệt, một restaurant của gia đình nhạc sỹ Phạm Hồng Hà. Anh chàng tiến sỹ Viện vật lý Đupna, đã giải nghệ từ lâu, mưu sinh tại Mat, trở thành một nhạc sỹ lãng tử với mái tóc Digan và ngón đàn ghi - ta tuyệt kỹ hút hồn đàn bà. Mới về Hà Nội một ngày, anh đã rủ bạn bè đến khai trương thùng rượu Putina. Khách dự Phạm Hồng Sơn, anh trai Hà, vợ chồng Thông và hai người trùng tên Long, Long Bụi và Long Y dược.
Đúng như tên gọi, Long Bụi quả là bụi, bụi từ vóc dáng, ăn mặc, tới khẩu khí. Hỏi ra, mới biết anh là con rể hoạ sỹ Lê Chính, trình bày báo Văn Nghệ nhiều năm, có thời cùng cơ quan với mình. Có lẽ vì bố vợ là hoạ sỹ, bạn thân của những Văn Cao, Hoàng Cầm, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên… nên anh con rể cũng đồng thời là đệ tử của các tiên tửu ấy luôn. Lần nào Hoàng Cầm từ Hoả Lò ra, cũng có mặt Long Bụi đến thăm và hầu …rượu. Thời chiến tranh phá hoại, Long Bụi có chân trong tổ dân quân trực quanh Hồ Gươm. Thương cảm Văn Cao, Nguyễn Sáng, Hoàng Cầm…, nhiều lần Long Bụi đã tổ chức đưa thuyền chở các ông ra đảo Tháp Rùa câu cá, uống rượu, rồi hát ca trù, chầu văn cho đỡ … thèm.
– Có chuyện này về cụ Văn Cao, chỉ mình hai bố con tôi chứng kiến – Long Bụi kể – Ấy là cái năm Hội Nhà văn hay Nhạc sỹ Hunggari có giấy mời đích danh Văn Cao sang chơi hay hội thảo gì đó. Tổ chức không muốn cho Văn Cao đi, vì ông thuộc diện văn nghệ sỹ bất hảo, nhưng chưa tìm ra cớ gì ngăn cản. Tối ấy, tôi lai bố Lê Chính cùng bác Văn Cao đi đâu đó. Đến ngã tư Trần Nhân Tông – Mai Hắc Đế, bỗng thấy hai thằng du côn tự nhiên xô vào xe bác Văn, rồi chửi ông và đánh ông túi bụi. Khi ấy tôi đã là một thầy dạy võ, có lò võ riêng. Điên tiết, tôi xông đến, giằng hai thằng côn đồ ra, định dạy cho chúng một bài học. Thấy tôi ra đòn, biết gặp cao thủ, chúng bí quá, liền dí tấm thẻ đỏ vào mặt tôi: “Mày không biết chúng bố là ai, hả? Xéo đi cho các bố làm việc.”
Long Bụi cùng bố vợ, hoạ sỹ Lê Chính, đau đớn đưa nhạc sỹ Văn Cao về nhà phục thuốc.
Thế là chuyến đi Hunggari ấy của Văn Cao không thành.
Đọc lại trang ghi chép trên, buồn đến mấy ngày.
Thì ra, Lưu manh đỏ – danh từ mà tiến sỹ Tô Văn Trường vừa mới nghĩ ra, đã có từ thời Văn Cao.
Thanked by 4 Members:
|
|
#92
Gửi vào 08/01/2020 - 02:31
mới đây 1 tên cảnh sát chìm giả dạng biểu tình ở Hong kong bị đám CS bắt và xịt hơi cay vào mắt ,
chịu ko nổi hắn ta cũng chìa cái thẻ đỏ ra , heheh .
chịu ko nổi hắn ta cũng chìa cái thẻ đỏ ra , heheh .
Thanked by 3 Members:
|
|
#93
Gửi vào 08/01/2020 - 10:01
tín đồ Mạc Lệ Mao
#94
Gửi vào 05/03/2020 - 20:46
NGƯỜI THƯƠNG PHẾ BINH NGÀY TÀN CUỘC CHIẾN.
Hắn và tôi cùng ngồi chung một lớp từ năm bước vào lớp Đệ Thất. Hắn con nhà giàu đẹp trai. Ba hắn có chức có phận làm việc trong Chính phủ thời Việt Nam Cộng Hoà.
Năm 1965...1966...1967 Quận Xuân lộc hoang sơ chung quanh là lô cao su là vườn cà phê đi vòng quanh mấy bước là giáp vòng cái quận. Thời đó cùng lớp với tôi đa số là con nhà lính, còn lại là con nhà chủ vườn cây ăn trái, vườn cà phê, con mấy ông có chức có quyền. Trong lớp chia làm hai nhóm ranh giới rõ ràng, con nhà lính đến trường bằng xe “ lô ca chân” con nhà quan con nhà giàu bảnh bao chạy xe Honda 67... Yamaha. ..Honda Dame bóc khói..
Tôi và hắn học chung mấy năm liền hình như chưa bao giờ ngồi lại nói chuyện với nhau, hắn đẹp trai nhất đám con trai, lúc nào cũng gọn gàng tươm tất, tan trường hắn chiếm chệ trên chiếc Yamaha quần Pat ống loa xoè ra phành phạch trong gió cùng mấy chàng con nhà giàu lượn qua lượn lại... thấy ghét
Bọn tôi con nhà lính mà người ta thường có câu “tiền lính tính liền” mà y như vậy lương lính của ba tôi chỉ đủ nuôi vợ nuôi con tháng nào hết tháng nấy, cuối tháng mong cho tới đầu tháng lảnh lương , nên con của lính cuộc sống rất khiêm nhường. Nhà nghèo nhưng cũng phách lắm tôi không thèm để ý bọn con trai con nhà giàu cùng lớp, chê mấy chàng ”nhóc tì”
Lớn lên một chút biết làm điệu biết mắc cỡ trước đám con trai tôi nghinh cái mặt với bọn hắn, ghét tôi nên đặt cho tôi cái tên “trái táo” rồi cười hô hố, chắc tại tôi vừa mập vừa lùn.. Tôi quê, tôi giận
Rồi lên lớp lớn hơn tứ tán chàng vào Đại học, chàng vào quân ngũ chàng hoa nở trên cổ áo, chàng mang “cánh gà” trên tay áo thiệt là đẹp. Con gái đứa lấy chồng đứa ngước cao hơn tiếp tục mài ghế nhà trường. Tôi bỏ Xuân Lộc trôi nổi kiếm miếng ăn cái mặc giúp gia đình, năm đó ba tôi giải ngũ về làm thường dân
Bỏ Xuân Lộc tôi lấy chồng, mấy năm không về. Sau năm 1975 theo gia đình bên chồng về lại cái quận nhỏ ngày xưa, với bao kỷ niệm thời học trò...Một ngày tôi gặp hắn trên đường ngược chiều, tay bỏ ra ngoài tay kia trong túi áo khoác..
Tôi nhớ liền tên của hắn...Nguyễn Hồng Khiêm, ngày nay hắn chững chắc bụi đời quá...Hỏi ra mới biết hắn bị thương trong trận đánh cuối cùng tháng tư năm 1975 còn mấy ngày nữa mất Xuân Lộc, hắn đã để lại một bàn tay trong cuộc chiến khi vừa qua tuổi hai mươi.
Làm thường dân sau cuộc chiến, hắn mặc cảm nên bên tay kia lúc nào cũng trong túi áo khoác...Tôi thương hắn thương những chàng trai trong thời binh lửa đã để lại một phần thân thể của mình trong cuộc chiến. Thương những chàng vừa hẹn hò với cô bạn học để rồi ra đi vĩnh viễn bỏ lời hẹn ước nửa chừng.
Bạn tôi hắn cũng độc thân chưa vợ, ba hắn cũng bị bắt đi tù mãi mãi không trở về, hắn mồ côi mẹ khi còn rất nhỏ, hắn may mắn có được người chị tuyệt vời chi luôn bảo bọc thương đứa em không may mắn, ngày tàn cuộc chiến thành thương phế binh không ai công nhận. Chị lo cuộc sống cho hắn, từ đó hắn ẩn thân lo chăm sóc làm vườn cà phê của gia đình, thỉnh thoảng chạy ra phố lấp ló ngó thiên hạ. Hắn việc gì cũng làm được, cuốc đất làm vườn.
Tôi thường lan man trên YouTube tìm xem những clip về chiến tranh ngày Việt Nam trong cơn khói lửa, tôi bắt gặp “Phim Tài Liệu Về Những Ngày Cuối Cùng Của Miền Nam Việt Nam. Người dân di tản ngày 22/04/1975 tại Long Khánh, Trảng Bom, Vũng Tàu”. cảnh người dận chạy loạn có anh lính bị thương ôm bàn tay được tản thương, nhìn giống hắn quá. Tôi gọi cho hắn ...Thì ra là hắn “Nguyễn Hồng Khiêm..”
Tôi nói với hắn từ nay ông không còn phải mặc cảm nữa ông đã góp phần máu và thịt của ông cho đất nước.. Ông được phóng viên chiến trường của nước Pháp làm phóng sự, thế giới nhìn thấy ông. Hãnh diện và tự hào với chính mình với bạn với đất nước ... Người chiến binh của QLVNCH nhé Nguyễn Hồng Khiêm.....Hắn cười
Cám ơn cái tình bà dành cho tôi, những chàng trai trẻ của chúng tôi luôn hãnh diện là mình đã góp phần cho đất nước, dù ngày tàn cuộc chiến trở về hình hài không còn nguyên vẹn, sống trong cảnh đói khổ, thiếu ăn thiếu mặc. Tôi vẫn tự hào tôi là người Quân Nhân của QLVNCH.
Tôi đùa với hắn
Bỏ bàn tay ra khỏi áo khoác khoe với đời..
Hắn cười kè ..kè
Quen rồi bà ơi.... tại hồi còn trẻ đi cua đào mắc cờ dấu ... Nên quen ....
Mỗi năm có dịp về họp bạn tôi và hắn thân nhau xích lại gần như thân thuộc. Qua rồi cái tuổi háo thắng ngạo mạn, ngày nay chúng tôi đã bước vào cái tuổi 66 con số thật đẹp.
Thương bạn già thương “Người Thương Phế Binh” ngày tàn cuộc chiến.
Viết Tặng Nguyễn Hồng Khiêm
Feb 10. 2020
Cam Huynh
Hình Khiêm
Tháng Tư năm 1975
Hắn và tôi cùng ngồi chung một lớp từ năm bước vào lớp Đệ Thất. Hắn con nhà giàu đẹp trai. Ba hắn có chức có phận làm việc trong Chính phủ thời Việt Nam Cộng Hoà.
Năm 1965...1966...1967 Quận Xuân lộc hoang sơ chung quanh là lô cao su là vườn cà phê đi vòng quanh mấy bước là giáp vòng cái quận. Thời đó cùng lớp với tôi đa số là con nhà lính, còn lại là con nhà chủ vườn cây ăn trái, vườn cà phê, con mấy ông có chức có quyền. Trong lớp chia làm hai nhóm ranh giới rõ ràng, con nhà lính đến trường bằng xe “ lô ca chân” con nhà quan con nhà giàu bảnh bao chạy xe Honda 67... Yamaha. ..Honda Dame bóc khói..
Tôi và hắn học chung mấy năm liền hình như chưa bao giờ ngồi lại nói chuyện với nhau, hắn đẹp trai nhất đám con trai, lúc nào cũng gọn gàng tươm tất, tan trường hắn chiếm chệ trên chiếc Yamaha quần Pat ống loa xoè ra phành phạch trong gió cùng mấy chàng con nhà giàu lượn qua lượn lại... thấy ghét
Bọn tôi con nhà lính mà người ta thường có câu “tiền lính tính liền” mà y như vậy lương lính của ba tôi chỉ đủ nuôi vợ nuôi con tháng nào hết tháng nấy, cuối tháng mong cho tới đầu tháng lảnh lương , nên con của lính cuộc sống rất khiêm nhường. Nhà nghèo nhưng cũng phách lắm tôi không thèm để ý bọn con trai con nhà giàu cùng lớp, chê mấy chàng ”nhóc tì”
Lớn lên một chút biết làm điệu biết mắc cỡ trước đám con trai tôi nghinh cái mặt với bọn hắn, ghét tôi nên đặt cho tôi cái tên “trái táo” rồi cười hô hố, chắc tại tôi vừa mập vừa lùn.. Tôi quê, tôi giận
Rồi lên lớp lớn hơn tứ tán chàng vào Đại học, chàng vào quân ngũ chàng hoa nở trên cổ áo, chàng mang “cánh gà” trên tay áo thiệt là đẹp. Con gái đứa lấy chồng đứa ngước cao hơn tiếp tục mài ghế nhà trường. Tôi bỏ Xuân Lộc trôi nổi kiếm miếng ăn cái mặc giúp gia đình, năm đó ba tôi giải ngũ về làm thường dân
Bỏ Xuân Lộc tôi lấy chồng, mấy năm không về. Sau năm 1975 theo gia đình bên chồng về lại cái quận nhỏ ngày xưa, với bao kỷ niệm thời học trò...Một ngày tôi gặp hắn trên đường ngược chiều, tay bỏ ra ngoài tay kia trong túi áo khoác..
Tôi nhớ liền tên của hắn...Nguyễn Hồng Khiêm, ngày nay hắn chững chắc bụi đời quá...Hỏi ra mới biết hắn bị thương trong trận đánh cuối cùng tháng tư năm 1975 còn mấy ngày nữa mất Xuân Lộc, hắn đã để lại một bàn tay trong cuộc chiến khi vừa qua tuổi hai mươi.
Làm thường dân sau cuộc chiến, hắn mặc cảm nên bên tay kia lúc nào cũng trong túi áo khoác...Tôi thương hắn thương những chàng trai trong thời binh lửa đã để lại một phần thân thể của mình trong cuộc chiến. Thương những chàng vừa hẹn hò với cô bạn học để rồi ra đi vĩnh viễn bỏ lời hẹn ước nửa chừng.
Bạn tôi hắn cũng độc thân chưa vợ, ba hắn cũng bị bắt đi tù mãi mãi không trở về, hắn mồ côi mẹ khi còn rất nhỏ, hắn may mắn có được người chị tuyệt vời chi luôn bảo bọc thương đứa em không may mắn, ngày tàn cuộc chiến thành thương phế binh không ai công nhận. Chị lo cuộc sống cho hắn, từ đó hắn ẩn thân lo chăm sóc làm vườn cà phê của gia đình, thỉnh thoảng chạy ra phố lấp ló ngó thiên hạ. Hắn việc gì cũng làm được, cuốc đất làm vườn.
Tôi thường lan man trên YouTube tìm xem những clip về chiến tranh ngày Việt Nam trong cơn khói lửa, tôi bắt gặp “Phim Tài Liệu Về Những Ngày Cuối Cùng Của Miền Nam Việt Nam. Người dân di tản ngày 22/04/1975 tại Long Khánh, Trảng Bom, Vũng Tàu”. cảnh người dận chạy loạn có anh lính bị thương ôm bàn tay được tản thương, nhìn giống hắn quá. Tôi gọi cho hắn ...Thì ra là hắn “Nguyễn Hồng Khiêm..”
Tôi nói với hắn từ nay ông không còn phải mặc cảm nữa ông đã góp phần máu và thịt của ông cho đất nước.. Ông được phóng viên chiến trường của nước Pháp làm phóng sự, thế giới nhìn thấy ông. Hãnh diện và tự hào với chính mình với bạn với đất nước ... Người chiến binh của QLVNCH nhé Nguyễn Hồng Khiêm.....Hắn cười
Cám ơn cái tình bà dành cho tôi, những chàng trai trẻ của chúng tôi luôn hãnh diện là mình đã góp phần cho đất nước, dù ngày tàn cuộc chiến trở về hình hài không còn nguyên vẹn, sống trong cảnh đói khổ, thiếu ăn thiếu mặc. Tôi vẫn tự hào tôi là người Quân Nhân của QLVNCH.
Tôi đùa với hắn
Bỏ bàn tay ra khỏi áo khoác khoe với đời..
Hắn cười kè ..kè
Quen rồi bà ơi.... tại hồi còn trẻ đi cua đào mắc cờ dấu ... Nên quen ....
Mỗi năm có dịp về họp bạn tôi và hắn thân nhau xích lại gần như thân thuộc. Qua rồi cái tuổi háo thắng ngạo mạn, ngày nay chúng tôi đã bước vào cái tuổi 66 con số thật đẹp.
Thương bạn già thương “Người Thương Phế Binh” ngày tàn cuộc chiến.
Viết Tặng Nguyễn Hồng Khiêm
Feb 10. 2020
Cam Huynh
Hình Khiêm
Tháng Tư năm 1975
Thanked by 1 Member:
|
|
#95
Gửi vào 05/03/2020 - 20:56
Nhân chuyện một cô ca sĩ trẻ hát bài "Ta Đã Thấy Gì Trong Đêm Nay" của Trịnh Công Sơn được dư luận làm rùm beng lên khiến tôi nhớ lại một kỷ niệm không vui với nhạc sĩ này thời ông còn sống. Kỷ niệm tôi có ghi lại trong Hồi ký GIAI THOẠI CỦA THI SĨ nay trích ra...
ÂM NHẠC DA CAM CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
Gạt qua một bên nỗi sầu muôn thuở của thi ca để đổi “tông” sang âm nhạc. Tôi vốn là một thằng hay dị ứng với dạng “Xướng ca vô loại” nhưng cũng biết thần tượng một bậc thầy là “phù thủy Phạm Duy” ông vua các bài hát làm phong phú kho tàng dân ca. Ngoài Phạm Duy tôi cũng “ngã mũ” trước các “hoàng thân” Phạm Đình Chương, Văn Phụng, Văn Cao, Đặng Thế Phong, Cung Tiến, Dương Thiệu Tước… Vốn là “trai thời loạn” trước 1975 nên tôi cũng biết đến các dòng nhạc trữ tình có công chúng riêng của các “hoàng tử” Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Lê Uyên Phương… và đặc biệt là Trịnh Công Sơn với những ca khúc “Da Vàng” phản chiến.
Tuy nói là biết trước 1975 nhưng sau 1975 hội ngộ nhau là một chuyện khác. Tôi nhớ hồi còn làm biên tập trang văn nghệ báo Tuổi Trẻ thời kỳ đầu giải phóng có viết bài thơ nhắc về nhạc Trịnh Công Sơn trên báo, xin trích một đoạn như sau:
“Lớn lên ở thành phố này tôi ngửi thấy mùi xăng
Đặc sệt những mảng đen và khói
Ngoài mùi hăng hắc sữa bơ thừa buồn ói
Thắt cổ tôi vào thòng lọng áo cơm
Rụng tim tôi tiếng giày đinh cắn nát dãy nhà sàn
Cuộc xét nhà trên mặt sông lềnh bềnh bầy chuột chết
Lớn lên ở thành phố này tôi mỏi mệt
Bưng mặt hát bài “Cỏ Xót Xa Đưa”
“Cỏ Xót Xa Đưa” là tên một ca khúc của Trịnh Công Sơn. Còn sau giải phóng thì gặp Trịnh Công Sơn thường xuyên hơn ở quán nhậu trong khuôn viên Hội Văn Nghệ 81 Trần Quốc Thảo, quận 3, Sài Gòn. Tuy mỗi người ngồi một bàn khác nhau với những bè bạn khác nhau, nhưng nếu cần ráp bàn lại thì bao giờ tôi cũng được Trịnh Công Sơn mời đọc thơ giang hồ góp vui và ngược lại chúng tôi tha hồ được nghe anh hát. Kỷ niệm thoạt tiên chỉ đơn giản có vậy giữa một thằng làm thơ bạt mạng với một nhạc sĩ đàn anh thận trọng rụt rè đắn đo trong từng phát ngôn cử chỉ. Mãi tới khi Trịnh Công Sơn và NHỮNG NGƯỜI BẠN gồm các nhạc sĩ Thanh Tùng, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Từ Huy, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Văn Hiên… hình thành một nhóm riêng thì tôi mới có dịp “cụng ly” nhiều hơn bởi tôi giao du với hầu hết các thành viên trong nhóm. Tôi thường đến chơi nhóm Những Người Bạn cùng với họa sĩ Ớt tức nhà báo Huỳnh Bá Thành, Tổng biên tập Báo Công An Thành Phố lúc đó hoặc với hôn thê tôi là Hương Lan. Và bao giờ Hương Lan cũng được Trịnh Công Sơn “ga lăng” dành cho một chỗ ngồi cạnh anh như một thái độ trân trọng trước phụ nữ. Những lần như vậy tôi biến thành niềm vui của đám đông với bài thơ “BÊN DÒNG SÔNG” ứng khẩu từ một câu trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn khiến cả bàn thích thú:
“Ngồi bên dòng sông nhớ đời mình”
Ai xui em hát Trịnh Công Sơn
Cho ta róc rách như con suối
Rớt xuống dòng sông một chút buồn
Chút buồn dại dột như hòn sỏi
Rớt xuống dòng sông mất trí khôn
Rồi lặng im suốt một trăm năm
Không ai biết ta là con suối
Không ai biết ta là hòn sỏi
Chỉ trừ em, người có tóc dài
Bài hát thì như sợi tóc mai
Rụng xuống đời ta ca dao ơi
Dòng sông cứ chảy như bài hát
Và mảnh mai như sợi tóc gầy
Đời ta cứ chảy theo âm nhạc
Dạo đàn em có buốt đôi tay
Đời mình em nhớ nên em hát
Đời ta mới mười năm lưu lạc
Dòng sông lưu lạc vì quên bờ
Lẽ nào ta lạc vì mê thơ
Thơ nghe róc rách như con suối
Con suối cạn khô ta chết đuối
Khi dòng sông cũ đã thờ ơ
Con suối một hôm không còn sỏi
Khi người xưa cũng tập hững hờ
Nên em cứ hát mời em hát
Hát lời quanh quẩn cạnh dòng sông
Đừng xõa tóc, em ơi đôi mắt
Là chút mặt trời trong tảng băng !
Đáng lẽ mối quan hệ của tôi với Trịnh Công Sơn tới đó là vừa đủ “đẹp” nếu không xảy ra vài cuộc tranh luận nảy lửa trong cơn say về thái độ kẻ sĩ trước thời cuộc. Trong cơn say tôi thẳng thắn “chê” nhạc ĐỎ của Trịnh Công Sơn sau 1975. Tôi khẳng định “nhạc giao thời” của anh gượng gạo, mang tính “trả bài chính trị” thua xa số lượng nhạc phản chiến chọn lọc trước 1975 từng làm cho không ít những người lính Việt Nam Cộng Hòa phải buông súng khi Khánh Ly cất tiếng hát “Gia Tài Của Mẹ”, cho dù dòng nhạc đó từng bị quy chụp là nhạc VÀNG.
Đáng lẽ cũng chẳng có gì phiền lòng nhau nếu không có lần cuối thập niên 1980 tôi cùng các thân hữu văn nghệ Joseph Huỳnh Văn, Lê Dụng, Ung Ngọc Trí, Vũ Ngọc Giao, Võ Phi Hùng, Trần Hữu Dũng… hơn chục mạng ngồi nhậu gần bàn “quý tộc mới” của Trịnh Công Sơn gồm các chính khách chóp bu, các quan chức văn nghệ, các đại gia, thủy thủ viễn dương… tại bãi cỏ Hội Văn Nghệ 81 Trần Quốc Thảo. Hai bên men rượu ngà ngà, “Xóm Nhà Lá” chúng tôi được băng “Qúy tộc mới” mời… ráp bàn. Rượu vào lời ra, nhiều người yêu cầu tôi đọc thơ, thế là Trịnh Công Sơn mở lời: “Hôm nay ngày vui của moa, toa tặng bàn moa bài thơ nhé?”. Tôi còn do dự thì một nhà thư pháp bạn của Trịnh Công Sơn lên tiếng: “Thơ hay sẽ viết thành thư pháp treo tại nhà Trịnh Công Sơn”. Vậy sao? Tôi liền đọc lớn:
Gã nhạc sĩ VÀNG
Chơi ghi ta ĐỎ
Âm nhạc từ đó
Biến thành DA CAM
Câu chuyện đến đây tưởng kết thúc ai dè nhạc sĩ Hoàng Hiệp, một quan chức Hội Âm nhạc kiêm bạn thân Trịnh Công Sơn tự nhiên bứt xúc:”Mày tặng Trịnh Công Sơn mà không làm thơ tặng t*o, nhạc của t*o đâu có dở?”. Trời đất, nhạc của Hoàng Hiệp rõ ràng “lai căng” nhạc Sài Gòn và mất dần mùi vị chiến khu của ông. Tôi chỉ cần đảo ngược lại lộ trình sáng tác của Trịnh Công Sơn là ra ngay đáp số. Tôi đọc luôn:
Ông nhạc sĩ ĐỎ
Chơi ghi ta VÀNG
Nền âm nhạc đó
Cũng thành… DA CAM !
Có lẽ các bạn đều biết trong hội họa màu đỏ pha với màu vàng sẽ thành màu da cam. Mà “da cam” tức là chất độc hóa học trong chiến tranh thì miễn bàn luận.
(Trích GIAI THOẠI CỦA THI SĨ)
BCV
ÂM NHẠC DA CAM CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
Gạt qua một bên nỗi sầu muôn thuở của thi ca để đổi “tông” sang âm nhạc. Tôi vốn là một thằng hay dị ứng với dạng “Xướng ca vô loại” nhưng cũng biết thần tượng một bậc thầy là “phù thủy Phạm Duy” ông vua các bài hát làm phong phú kho tàng dân ca. Ngoài Phạm Duy tôi cũng “ngã mũ” trước các “hoàng thân” Phạm Đình Chương, Văn Phụng, Văn Cao, Đặng Thế Phong, Cung Tiến, Dương Thiệu Tước… Vốn là “trai thời loạn” trước 1975 nên tôi cũng biết đến các dòng nhạc trữ tình có công chúng riêng của các “hoàng tử” Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Lê Uyên Phương… và đặc biệt là Trịnh Công Sơn với những ca khúc “Da Vàng” phản chiến.
Tuy nói là biết trước 1975 nhưng sau 1975 hội ngộ nhau là một chuyện khác. Tôi nhớ hồi còn làm biên tập trang văn nghệ báo Tuổi Trẻ thời kỳ đầu giải phóng có viết bài thơ nhắc về nhạc Trịnh Công Sơn trên báo, xin trích một đoạn như sau:
“Lớn lên ở thành phố này tôi ngửi thấy mùi xăng
Đặc sệt những mảng đen và khói
Ngoài mùi hăng hắc sữa bơ thừa buồn ói
Thắt cổ tôi vào thòng lọng áo cơm
Rụng tim tôi tiếng giày đinh cắn nát dãy nhà sàn
Cuộc xét nhà trên mặt sông lềnh bềnh bầy chuột chết
Lớn lên ở thành phố này tôi mỏi mệt
Bưng mặt hát bài “Cỏ Xót Xa Đưa”
“Cỏ Xót Xa Đưa” là tên một ca khúc của Trịnh Công Sơn. Còn sau giải phóng thì gặp Trịnh Công Sơn thường xuyên hơn ở quán nhậu trong khuôn viên Hội Văn Nghệ 81 Trần Quốc Thảo, quận 3, Sài Gòn. Tuy mỗi người ngồi một bàn khác nhau với những bè bạn khác nhau, nhưng nếu cần ráp bàn lại thì bao giờ tôi cũng được Trịnh Công Sơn mời đọc thơ giang hồ góp vui và ngược lại chúng tôi tha hồ được nghe anh hát. Kỷ niệm thoạt tiên chỉ đơn giản có vậy giữa một thằng làm thơ bạt mạng với một nhạc sĩ đàn anh thận trọng rụt rè đắn đo trong từng phát ngôn cử chỉ. Mãi tới khi Trịnh Công Sơn và NHỮNG NGƯỜI BẠN gồm các nhạc sĩ Thanh Tùng, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Từ Huy, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Văn Hiên… hình thành một nhóm riêng thì tôi mới có dịp “cụng ly” nhiều hơn bởi tôi giao du với hầu hết các thành viên trong nhóm. Tôi thường đến chơi nhóm Những Người Bạn cùng với họa sĩ Ớt tức nhà báo Huỳnh Bá Thành, Tổng biên tập Báo Công An Thành Phố lúc đó hoặc với hôn thê tôi là Hương Lan. Và bao giờ Hương Lan cũng được Trịnh Công Sơn “ga lăng” dành cho một chỗ ngồi cạnh anh như một thái độ trân trọng trước phụ nữ. Những lần như vậy tôi biến thành niềm vui của đám đông với bài thơ “BÊN DÒNG SÔNG” ứng khẩu từ một câu trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn khiến cả bàn thích thú:
“Ngồi bên dòng sông nhớ đời mình”
Ai xui em hát Trịnh Công Sơn
Cho ta róc rách như con suối
Rớt xuống dòng sông một chút buồn
Chút buồn dại dột như hòn sỏi
Rớt xuống dòng sông mất trí khôn
Rồi lặng im suốt một trăm năm
Không ai biết ta là con suối
Không ai biết ta là hòn sỏi
Chỉ trừ em, người có tóc dài
Bài hát thì như sợi tóc mai
Rụng xuống đời ta ca dao ơi
Dòng sông cứ chảy như bài hát
Và mảnh mai như sợi tóc gầy
Đời ta cứ chảy theo âm nhạc
Dạo đàn em có buốt đôi tay
Đời mình em nhớ nên em hát
Đời ta mới mười năm lưu lạc
Dòng sông lưu lạc vì quên bờ
Lẽ nào ta lạc vì mê thơ
Thơ nghe róc rách như con suối
Con suối cạn khô ta chết đuối
Khi dòng sông cũ đã thờ ơ
Con suối một hôm không còn sỏi
Khi người xưa cũng tập hững hờ
Nên em cứ hát mời em hát
Hát lời quanh quẩn cạnh dòng sông
Đừng xõa tóc, em ơi đôi mắt
Là chút mặt trời trong tảng băng !
Đáng lẽ mối quan hệ của tôi với Trịnh Công Sơn tới đó là vừa đủ “đẹp” nếu không xảy ra vài cuộc tranh luận nảy lửa trong cơn say về thái độ kẻ sĩ trước thời cuộc. Trong cơn say tôi thẳng thắn “chê” nhạc ĐỎ của Trịnh Công Sơn sau 1975. Tôi khẳng định “nhạc giao thời” của anh gượng gạo, mang tính “trả bài chính trị” thua xa số lượng nhạc phản chiến chọn lọc trước 1975 từng làm cho không ít những người lính Việt Nam Cộng Hòa phải buông súng khi Khánh Ly cất tiếng hát “Gia Tài Của Mẹ”, cho dù dòng nhạc đó từng bị quy chụp là nhạc VÀNG.
Đáng lẽ cũng chẳng có gì phiền lòng nhau nếu không có lần cuối thập niên 1980 tôi cùng các thân hữu văn nghệ Joseph Huỳnh Văn, Lê Dụng, Ung Ngọc Trí, Vũ Ngọc Giao, Võ Phi Hùng, Trần Hữu Dũng… hơn chục mạng ngồi nhậu gần bàn “quý tộc mới” của Trịnh Công Sơn gồm các chính khách chóp bu, các quan chức văn nghệ, các đại gia, thủy thủ viễn dương… tại bãi cỏ Hội Văn Nghệ 81 Trần Quốc Thảo. Hai bên men rượu ngà ngà, “Xóm Nhà Lá” chúng tôi được băng “Qúy tộc mới” mời… ráp bàn. Rượu vào lời ra, nhiều người yêu cầu tôi đọc thơ, thế là Trịnh Công Sơn mở lời: “Hôm nay ngày vui của moa, toa tặng bàn moa bài thơ nhé?”. Tôi còn do dự thì một nhà thư pháp bạn của Trịnh Công Sơn lên tiếng: “Thơ hay sẽ viết thành thư pháp treo tại nhà Trịnh Công Sơn”. Vậy sao? Tôi liền đọc lớn:
Gã nhạc sĩ VÀNG
Chơi ghi ta ĐỎ
Âm nhạc từ đó
Biến thành DA CAM
Câu chuyện đến đây tưởng kết thúc ai dè nhạc sĩ Hoàng Hiệp, một quan chức Hội Âm nhạc kiêm bạn thân Trịnh Công Sơn tự nhiên bứt xúc:”Mày tặng Trịnh Công Sơn mà không làm thơ tặng t*o, nhạc của t*o đâu có dở?”. Trời đất, nhạc của Hoàng Hiệp rõ ràng “lai căng” nhạc Sài Gòn và mất dần mùi vị chiến khu của ông. Tôi chỉ cần đảo ngược lại lộ trình sáng tác của Trịnh Công Sơn là ra ngay đáp số. Tôi đọc luôn:
Ông nhạc sĩ ĐỎ
Chơi ghi ta VÀNG
Nền âm nhạc đó
Cũng thành… DA CAM !
Có lẽ các bạn đều biết trong hội họa màu đỏ pha với màu vàng sẽ thành màu da cam. Mà “da cam” tức là chất độc hóa học trong chiến tranh thì miễn bàn luận.
(Trích GIAI THOẠI CỦA THI SĨ)
BCV
Thanked by 1 Member:
|
|
#96
Gửi vào 10/03/2020 - 21:43
Đầu năm 1974 tình cờ tôi có xem trên tờ báo Phụ nữ diễn đàn hay phụ nữ mới thời ấy... Tôi đọc trên mục tìm bạn bốn phương và quen một người em gái nhỏ quê ở Cầu Kè Tỉnh Vĩnh Bình. Nàng tên Ái tuổi vừa 16 và tôi 18 củng vừa tròn năm lính, chúng tôi đã kết bạn và những lá thư xanh cứ trao qua..trao lại từ KBC 7560/HQ, tưởng chừng sẻ không bao giờ dứt...
Đơn vị tôi hành quân rày đây mai đó , khi thì rừng này mốt thì rừng kia... Lúc đóng quân trên đồi Ngokbay, khi thì lên ở đồi 3 chấm (đỉnh 727). Lúc thì ở Trung Nghĩa , khi thì ở Pleikenang... Đầu năm 1975 trong đợt hành quân tái chiếm đồi 600 tôi bị thương miểng đạn B40 văng trúng gần chạm phổi và tôi được anh em đưa ra tuyến sau để xe cứu thương chở về bệnh viện 2 Dã Chiến ở Kontum để điều trị gần hơn một tháng vết thương củng đã lành...Tôi được Đại Úy Bác Sĩ quân y bệnh viện cấp cho nghỉ 7 ngày phép trong phạm vì Quân Trấn, chớ không được phép về thăm nhà..Thật là buồn hết chổ nói..Tôi ra phố Kontum chơi cho đến hết phép tôi trở lên đơn vị hậu cứ Liên Đoàn 22/BĐQ đóng ở căn cứ B15 gần khu vực cầu sông Dakbla . Chiến sự mổi ngày càng thêm khốc liệt , Buôn Mê Thuộc mất, Phước Long thất thủ..ngày 17/3/1975 có lệnh di tản triệt thoái khỏi cao nguyên theo đường QL7B về Phú Bổn...Từ đó tôi không còn nhận được thêm lá thư nào của em nữa, chắc có lẽ đơn vị tôi đã tản lạc và KBC7560/ HQ của chúng tôi củng tản lạc theo...
Sau khi về đến Saigon tôi trình diện BCH/BĐQ đóng ở Trại Đào Bá Phước đường Tô Hiến Thành Saigon. Qua ngày sau tôi được cấp sự vụ lệnh ra trình diện BCH/BĐQ QĐ2&QK2 dời về ở Nha Trang . Trong khi chờ đợi phương tiện để ra Nha Trang thì tôi được tin Nha Trang thất thủ..Cuối cùng thì tôi được BCH/BĐQ cấp sự vụ lệnh lên trình diện LĐ7/BĐQ căn cứ đóng ở Long Bình .
Khi đến hậu cứ LĐ7, tôi trình sự vụ lệnh ở Đại Đội Công Vụ và người sĩ quan điều hành hỏi tôi muốn vào tiểu đoàn hay đại đội trinh sát , tôi suy nghĩ và xin vào trinh sát. Ông liền đưa tôi một tờ đơn tình nguyện để điền tên họ cấp bậc số quân... cuối cùng là ngày tháng ký tên... Tôi về trình diện đại úy Hà Công Lữ đại đội trưởng Trinh sát và Trung úy Thanh đại đội phó và sau cùng là Thiếu úy Nhơn trung đội trưởng viễn thám và tôi trung đội phó..Ở hậu cứ khoảng 2 ngày để trang bị quân trang quân dụng súng đạn ba lô..và tôi củng được lảnh tháng lương cuối cùng của đời binh nghiệp là gần 15 ngàn.
Sau đó đơn vị tôi hành quân vùng An Lạc - Bình Chánh ven đô Cholon - Saigon..Sau đó di chuyển về Phú Lâm được vài hôm..ngày 29/4/2975 đơn vị tôi được lệnh về án ngữ phòng thủ đóng quân trên các cao ốc tại đường Minh Phụng Saigon - Cholon.
Sáng ngày 30/4/1975 khoảng gần 10g sáng Tướng Minh kêu gọi quân nhân các cấp buông súng đầu hàng vô điều kiện...
Đơn vị tôi tan hàng rã ngũ từ đó... Về quê nhà bắt trình diện đi cải tạo hết 6 tháng ở Bàu Rờ Tây Ninh, quản chế 6 tháng rồi kêu đi gỡ mìn..đi đắp kênh thủy lợi...
Kể từ đó tôi không còn liên lạc em được nửa..mặc dù tôi củng liên tiếp gởi hai ba lần thơ nhưng không có ai hồi âm.
Cho đến bây giờ mỗi khi nhớ đọc lại những dòng thơ em viết , tôi thấy lòng mình xúc động và không khỏi ngậm ngùi chua xót..Thương cho em..thương cho tôi..thương cho kiếp con người một nắng hai sương...
Em hởi em ? Biết đến bao giờ cho ta gặp lại ! Để cho em còn nghe một âm thanh quen thuộc của từng chiếc xe đò chở hành khách trên đường xuôi ngược và cho anh còn nhìn thấy được những hình ảnh thân yêu nơi quê hương đó!
Biết đến bao giờ hở em?
Cầu Kè ngày 16/1/1975
Anh Hoàng!
Ái không vô tình như anh đã nghỉ, chuyện thư thất lạc thật là ngoài ý muốn, biết thế rồi đừng buồn Ái nửa anh nhé!
Mùa xuân lại sắp về rồi đó anh, nhưng chẳng ai có thể an lòng khi chiến tranh mỗi ngày thêm một vết tích trên mảnh đất nhỏ bé nầy . Chiến tranh tiếp nối của kinh hoàng khắc khoải, chúng mình còn được những gì trong tháng ngày nầ . Quê hương Ái với những cánh đồng bát ngát tận chân trời, giờ củng đang âu lo chờ đợi chiến tranh.
Giờ đi học mắt không còn lơ đãng nhìn nắng nhảy múa reo hò trên từng bước chân êm , tai không còn nghe nhưững âm thanh rộn rã tưng bừng trong từng buổi sớm mai thành phố. Chỉ còn hiện diện lên mắt những thoáng âu lo hồi hộp, tai chỉ để phân biệt những tràng đạn đầy bất trắc.
Thành phố Ái đang hiện diện đó anh! Chiến tranh sắp đến, đến không biết từ lúc nào... Thật ra người ta cũng đã sửa soạn để chờ đón nó bằng mọi cách. Ái chỉ chờ đón chiến tranh bằng sự tuyệt vọng cho chính mình và những kẻ thân yêu!
Hoàng! Một lần để nói lên những ưu tư khắc khoải trong lòng , Ái mong anh chốn đó vẩn mải an bình trong ngày tháng. Ngày mai sẽ ra sao nào ai biết được? Ước mong sao tháng ngày tới ! Một sáng nào đó trên quê hương, Ái vẩn còn nghe một âm thanh quen thuộc của chiếc xe đò chở hành khách trên con đường xuôi ngược , để cho anh còn nhìn thấy những hình ảnh thân yêu nơi quê hương đó!
Biết đến bao giờ hở anh?
Người em nơi vùng phố thị
Thiên Ái!
Đơn vị tôi hành quân rày đây mai đó , khi thì rừng này mốt thì rừng kia... Lúc đóng quân trên đồi Ngokbay, khi thì lên ở đồi 3 chấm (đỉnh 727). Lúc thì ở Trung Nghĩa , khi thì ở Pleikenang... Đầu năm 1975 trong đợt hành quân tái chiếm đồi 600 tôi bị thương miểng đạn B40 văng trúng gần chạm phổi và tôi được anh em đưa ra tuyến sau để xe cứu thương chở về bệnh viện 2 Dã Chiến ở Kontum để điều trị gần hơn một tháng vết thương củng đã lành...Tôi được Đại Úy Bác Sĩ quân y bệnh viện cấp cho nghỉ 7 ngày phép trong phạm vì Quân Trấn, chớ không được phép về thăm nhà..Thật là buồn hết chổ nói..Tôi ra phố Kontum chơi cho đến hết phép tôi trở lên đơn vị hậu cứ Liên Đoàn 22/BĐQ đóng ở căn cứ B15 gần khu vực cầu sông Dakbla . Chiến sự mổi ngày càng thêm khốc liệt , Buôn Mê Thuộc mất, Phước Long thất thủ..ngày 17/3/1975 có lệnh di tản triệt thoái khỏi cao nguyên theo đường QL7B về Phú Bổn...Từ đó tôi không còn nhận được thêm lá thư nào của em nữa, chắc có lẽ đơn vị tôi đã tản lạc và KBC7560/ HQ của chúng tôi củng tản lạc theo...
Sau khi về đến Saigon tôi trình diện BCH/BĐQ đóng ở Trại Đào Bá Phước đường Tô Hiến Thành Saigon. Qua ngày sau tôi được cấp sự vụ lệnh ra trình diện BCH/BĐQ QĐ2&QK2 dời về ở Nha Trang . Trong khi chờ đợi phương tiện để ra Nha Trang thì tôi được tin Nha Trang thất thủ..Cuối cùng thì tôi được BCH/BĐQ cấp sự vụ lệnh lên trình diện LĐ7/BĐQ căn cứ đóng ở Long Bình .
Khi đến hậu cứ LĐ7, tôi trình sự vụ lệnh ở Đại Đội Công Vụ và người sĩ quan điều hành hỏi tôi muốn vào tiểu đoàn hay đại đội trinh sát , tôi suy nghĩ và xin vào trinh sát. Ông liền đưa tôi một tờ đơn tình nguyện để điền tên họ cấp bậc số quân... cuối cùng là ngày tháng ký tên... Tôi về trình diện đại úy Hà Công Lữ đại đội trưởng Trinh sát và Trung úy Thanh đại đội phó và sau cùng là Thiếu úy Nhơn trung đội trưởng viễn thám và tôi trung đội phó..Ở hậu cứ khoảng 2 ngày để trang bị quân trang quân dụng súng đạn ba lô..và tôi củng được lảnh tháng lương cuối cùng của đời binh nghiệp là gần 15 ngàn.
Sau đó đơn vị tôi hành quân vùng An Lạc - Bình Chánh ven đô Cholon - Saigon..Sau đó di chuyển về Phú Lâm được vài hôm..ngày 29/4/2975 đơn vị tôi được lệnh về án ngữ phòng thủ đóng quân trên các cao ốc tại đường Minh Phụng Saigon - Cholon.
Sáng ngày 30/4/1975 khoảng gần 10g sáng Tướng Minh kêu gọi quân nhân các cấp buông súng đầu hàng vô điều kiện...
Đơn vị tôi tan hàng rã ngũ từ đó... Về quê nhà bắt trình diện đi cải tạo hết 6 tháng ở Bàu Rờ Tây Ninh, quản chế 6 tháng rồi kêu đi gỡ mìn..đi đắp kênh thủy lợi...
Kể từ đó tôi không còn liên lạc em được nửa..mặc dù tôi củng liên tiếp gởi hai ba lần thơ nhưng không có ai hồi âm.
Cho đến bây giờ mỗi khi nhớ đọc lại những dòng thơ em viết , tôi thấy lòng mình xúc động và không khỏi ngậm ngùi chua xót..Thương cho em..thương cho tôi..thương cho kiếp con người một nắng hai sương...
Em hởi em ? Biết đến bao giờ cho ta gặp lại ! Để cho em còn nghe một âm thanh quen thuộc của từng chiếc xe đò chở hành khách trên đường xuôi ngược và cho anh còn nhìn thấy được những hình ảnh thân yêu nơi quê hương đó!
Biết đến bao giờ hở em?
Cầu Kè ngày 16/1/1975
Anh Hoàng!
Ái không vô tình như anh đã nghỉ, chuyện thư thất lạc thật là ngoài ý muốn, biết thế rồi đừng buồn Ái nửa anh nhé!
Mùa xuân lại sắp về rồi đó anh, nhưng chẳng ai có thể an lòng khi chiến tranh mỗi ngày thêm một vết tích trên mảnh đất nhỏ bé nầy . Chiến tranh tiếp nối của kinh hoàng khắc khoải, chúng mình còn được những gì trong tháng ngày nầ . Quê hương Ái với những cánh đồng bát ngát tận chân trời, giờ củng đang âu lo chờ đợi chiến tranh.
Giờ đi học mắt không còn lơ đãng nhìn nắng nhảy múa reo hò trên từng bước chân êm , tai không còn nghe nhưững âm thanh rộn rã tưng bừng trong từng buổi sớm mai thành phố. Chỉ còn hiện diện lên mắt những thoáng âu lo hồi hộp, tai chỉ để phân biệt những tràng đạn đầy bất trắc.
Thành phố Ái đang hiện diện đó anh! Chiến tranh sắp đến, đến không biết từ lúc nào... Thật ra người ta cũng đã sửa soạn để chờ đón nó bằng mọi cách. Ái chỉ chờ đón chiến tranh bằng sự tuyệt vọng cho chính mình và những kẻ thân yêu!
Hoàng! Một lần để nói lên những ưu tư khắc khoải trong lòng , Ái mong anh chốn đó vẩn mải an bình trong ngày tháng. Ngày mai sẽ ra sao nào ai biết được? Ước mong sao tháng ngày tới ! Một sáng nào đó trên quê hương, Ái vẩn còn nghe một âm thanh quen thuộc của chiếc xe đò chở hành khách trên con đường xuôi ngược , để cho anh còn nhìn thấy những hình ảnh thân yêu nơi quê hương đó!
Biết đến bao giờ hở anh?
Người em nơi vùng phố thị
Thiên Ái!
Sửa bởi tuphuongsg: 10/03/2020 - 21:45
Thanked by 2 Members:
|
|
#97
Gửi vào 12/04/2020 - 20:17
MẸ
Cách đây 48 năm, ngày 11-04-1972 Mẹ bước qua sinh nhật tuổi 32 một cách lặng lẽ, trong lòng đầy hồi hộp, lo âu khi tin tức về từ vùng 2 chiến thuật chuyển về cho biết tình hình chiến sự đang ngày càng ác liệt. Rồi ngay hôm sau tin dữ đã bay về khi chú An điện thoại báo “Anh Bảo bị rồi chị ạ”, trời đất như sụp đổ dưới chân, Mẹ chỉ còn biết ôm mặt khóc…
Cho đến bây giờ, nhìn lại một chặng đường rất dài đã qua, tụi con cám ơn và cảm phục Mẹ vô cùng, chính nhờ có Mẹ mà tụi con mới có được ngày hôm nay. Khi Bố ra đi, Mẹ mới 32 tuổi và vẫn đang tuổi sắc nước hương trời, vẫn đang là một trong những người đẹp của hàng không Việt Nam, có rất nhiều người đã tìm đến ngỏ lời nhưng Mẹ đều từ chối, Mẹ luôn dành một tình yêu bất tận cho Bố. Rồi biến cố 75 ập đến, gia đình vốn đã khó lại càng thêm khó, một mình Mẹ vất vả làm đủ nghề để nuôi 6 miệng ăn, ban ngày thì làm bánh làm trái để bán, tối thì lo đan áo cho người đi xuất cảnh, nhiều đêm Mẹ thức đan áo đến ba bốn giờ sáng dưới ánh đèn dầu, bao nhiêu cơ cực không thể nào kể xiết. Có lẽ những vất vả mà Mẹ phải gánh chịu được vơi đi phần nào khi anh Tường và chị Tú luôn đạt được những thành tích xuất sắc trên con đường học vấn, anh Tường đậu vào trường Y với thứ hạng rất cao khi mới 17 tuổi và tốt nghiệp ra trường với vị trí thủ khoa, dù là trong suốt 6 năm học Y, ngày nào 5 giờ sáng anh Tường cũng phải dậy sớm lên Gò Vấp lấy bánh đậu xanh về đi bỏ mối để kiếm tiền phụ Mẹ. Ngày anh Tường được học bổng đi Pháp để học tiếp, Mẹ mừng không nói nên lời. Ngày chị Tú được tuyển vào làm ở lãnh sự quán Anh quốc sau khi vượt qua mấy trăm hồ sơ dự tuyển, Mẹ cũng mừng không nói nên lời, và dường như đó là phần quà ông Trời muốn bù đắp lại cho những hy sinh không mệt mỏi của Mẹ. Trong cuộc sống Mẹ luôn dạy tụi con phải sống sao cho xứng đáng. Con còn nhớ ngày anh Tường ở Pháp về và mở phòng mạch riêng, Mẹ qua dự khai trương xong về không nói lời nào, ngày hôm sau anh Tường về thăm, Mẹ bắt anh Tường ra trước bàn thờ Bố và nói rằng: “Tường à, Mẹ thấy con mở được phòng mạch riêng Mẹ rất mừng, nhưng Mẹ không hài lòng khi thấy con đặt bàn thờ Thần tài ngay trước phòng mạch như vậy, Mẹ muốn cho con học Y là để con làm việc cứu người chứ không phải với mục đích kiếm tiền”, và ba anh em tụi con đã được trưởng thành từ những điều giáo dưỡng như vậy. Từ đó đến nay anh Tường năm nào cũng tham gia chương trình mổ từ thiện “Vì nụ cười” cho các trẻ em không may mắn trên khắp cả nước, còn chị Tú thì cho tới bây giờ vẫn duy trì các lớp dạy tiếng Anh miễn phí tại nhà. Đó là những gì Mẹ đã dạy và muốn tụi con hướng tới.
Đã rất nhiều người nói với con rằng người ta ca ngợi Ông Bảo một thì Bà Bảo phải xứng đáng hơn thế gấp nhiều lần, chính nhờ công lao của Bà đã thủ tiết thờ chồng và nuôi dạy các con nên người đã giữ cho cho danh tiếng của Ông luôn sáng mãi, so với những quả phụ ngày xưa được vua ban “Tiết hạnh khả phong” thì nào có kém gì. Mỗi lần con nghe người ta nói như vậy thì con đều khóc và thầm cám ơn ông Trời vì đã cho con là con của Mẹ. Hôm nay mừng sinh nhật thứ 80 của Mẹ, tự nhiên trong con vang vọng lên câu hát : “Mẹ ơi thế giới mênh mông, mênh mông không bằng nhà mình, dù cho phú quý vinh quang, vinh quang không bằng có Mẹ….”
Sài Gòn 11-04-2020
Nguyen Bao Tuan
Cách đây 48 năm, ngày 11-04-1972 Mẹ bước qua sinh nhật tuổi 32 một cách lặng lẽ, trong lòng đầy hồi hộp, lo âu khi tin tức về từ vùng 2 chiến thuật chuyển về cho biết tình hình chiến sự đang ngày càng ác liệt. Rồi ngay hôm sau tin dữ đã bay về khi chú An điện thoại báo “Anh Bảo bị rồi chị ạ”, trời đất như sụp đổ dưới chân, Mẹ chỉ còn biết ôm mặt khóc…
Cho đến bây giờ, nhìn lại một chặng đường rất dài đã qua, tụi con cám ơn và cảm phục Mẹ vô cùng, chính nhờ có Mẹ mà tụi con mới có được ngày hôm nay. Khi Bố ra đi, Mẹ mới 32 tuổi và vẫn đang tuổi sắc nước hương trời, vẫn đang là một trong những người đẹp của hàng không Việt Nam, có rất nhiều người đã tìm đến ngỏ lời nhưng Mẹ đều từ chối, Mẹ luôn dành một tình yêu bất tận cho Bố. Rồi biến cố 75 ập đến, gia đình vốn đã khó lại càng thêm khó, một mình Mẹ vất vả làm đủ nghề để nuôi 6 miệng ăn, ban ngày thì làm bánh làm trái để bán, tối thì lo đan áo cho người đi xuất cảnh, nhiều đêm Mẹ thức đan áo đến ba bốn giờ sáng dưới ánh đèn dầu, bao nhiêu cơ cực không thể nào kể xiết. Có lẽ những vất vả mà Mẹ phải gánh chịu được vơi đi phần nào khi anh Tường và chị Tú luôn đạt được những thành tích xuất sắc trên con đường học vấn, anh Tường đậu vào trường Y với thứ hạng rất cao khi mới 17 tuổi và tốt nghiệp ra trường với vị trí thủ khoa, dù là trong suốt 6 năm học Y, ngày nào 5 giờ sáng anh Tường cũng phải dậy sớm lên Gò Vấp lấy bánh đậu xanh về đi bỏ mối để kiếm tiền phụ Mẹ. Ngày anh Tường được học bổng đi Pháp để học tiếp, Mẹ mừng không nói nên lời. Ngày chị Tú được tuyển vào làm ở lãnh sự quán Anh quốc sau khi vượt qua mấy trăm hồ sơ dự tuyển, Mẹ cũng mừng không nói nên lời, và dường như đó là phần quà ông Trời muốn bù đắp lại cho những hy sinh không mệt mỏi của Mẹ. Trong cuộc sống Mẹ luôn dạy tụi con phải sống sao cho xứng đáng. Con còn nhớ ngày anh Tường ở Pháp về và mở phòng mạch riêng, Mẹ qua dự khai trương xong về không nói lời nào, ngày hôm sau anh Tường về thăm, Mẹ bắt anh Tường ra trước bàn thờ Bố và nói rằng: “Tường à, Mẹ thấy con mở được phòng mạch riêng Mẹ rất mừng, nhưng Mẹ không hài lòng khi thấy con đặt bàn thờ Thần tài ngay trước phòng mạch như vậy, Mẹ muốn cho con học Y là để con làm việc cứu người chứ không phải với mục đích kiếm tiền”, và ba anh em tụi con đã được trưởng thành từ những điều giáo dưỡng như vậy. Từ đó đến nay anh Tường năm nào cũng tham gia chương trình mổ từ thiện “Vì nụ cười” cho các trẻ em không may mắn trên khắp cả nước, còn chị Tú thì cho tới bây giờ vẫn duy trì các lớp dạy tiếng Anh miễn phí tại nhà. Đó là những gì Mẹ đã dạy và muốn tụi con hướng tới.
Đã rất nhiều người nói với con rằng người ta ca ngợi Ông Bảo một thì Bà Bảo phải xứng đáng hơn thế gấp nhiều lần, chính nhờ công lao của Bà đã thủ tiết thờ chồng và nuôi dạy các con nên người đã giữ cho cho danh tiếng của Ông luôn sáng mãi, so với những quả phụ ngày xưa được vua ban “Tiết hạnh khả phong” thì nào có kém gì. Mỗi lần con nghe người ta nói như vậy thì con đều khóc và thầm cám ơn ông Trời vì đã cho con là con của Mẹ. Hôm nay mừng sinh nhật thứ 80 của Mẹ, tự nhiên trong con vang vọng lên câu hát : “Mẹ ơi thế giới mênh mông, mênh mông không bằng nhà mình, dù cho phú quý vinh quang, vinh quang không bằng có Mẹ….”
Sài Gòn 11-04-2020
Nguyen Bao Tuan
Thanked by 2 Members:
|
|
#98
Gửi vào 15/04/2020 - 19:11
Chuyện tháng Tư.
Vẫn chuyện của "cải tạo viên" cựu thiếu tá Biệt Động Quân, Vương Mộng Long. Anh ra tù 1988, sau hơn 10 năm "cải tạo". Cuối năm anh làm đơn đi Mỹ, nhưng gần hai năm không thấy tăm hơi, trong khi nhiều người trong trường hợp giống anh đã đi hay chuấn bị ̣đi.
Theo lời khuyên của bạn bè, anh rút đơn để mang ra Hà Nội nộp ở bộ Ngoại Giao thì sẽ nhanh hơn. Vấn đề là anh không có tiền để mua vé đi Hà Nội, phải đi vay mượn bạn bè, cuối cùng cũng đủ tiền để ra Bắc. Cũng là dịp trở về thăm quê cũ...
____________________________
Hà-Nội, một ngày tháng 8 năm 1990…
Tôi xuống ga Hàng-Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường và trên cổng vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời chiến tranh chống Mỹ. Tôi bước vội qua đường, vì nhìn thấy bên phải con đường đâm thẳng vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn bình dân. Tôi vừa đặt chân trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn tuổi đã đứng chờ, dơ tay ngoắc,
– Tìm nhà trọ phải không?
– Phải…
– Phòng ngủ quốc doanh bẩy nghìn một đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà tôi, năm nghìn một đêm, nước nôi thả cửa…
Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào phòng ngủ quốc doanh.
– Một người, bẩy nghìn một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba nghìn…
tiếp viên phòng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát.
Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đã chờ sẵn,
– Bên kia đường…theo tôi…
Tôi theo chân người chủ nhà vào khu cư ngụ của công chức về hưu, đối diện với khách sạn quốc doanh. Khu cư xá này có khoảng trên dưới chục căn phòng. Ông chủ nhà trọ dẫn tôi vào căn phòng bên trái cư xá,
– Nhà tôi đây…
Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ,
– Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho chú, chìa khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại. Tắm giặt thì ra đằng sau nhà, có mười phòng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách sạn quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai chục lít. Bên này, chú tắm chán thì thôi…
Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dãy mười phòng tắm có vòi hoa sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm chuẩn bị đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi. Tôi tắm giặt xong, quay về buồng thì ông chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nhì của chiếc tủ đứng thuộc quyền cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả giàn, năm nghìn một đêm, rẻ chán!
Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường, cách đầu giường tôi và đầu giường cô gái một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê thành hình chữ “U”. Ba người nằm trong một căn phòng hẹp, một người phát ngôn, hai người kia đều nghe rõ…
– Này! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về?
ông chủ nhà gợi chuyện.
– Hải-Dương
– Hải-Dương xe chạy cả đêm, sao không về?
– Tôi có việc phải ở Hà-Nội vài ngày…
– Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề gì?
– Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam…
– Có thường ghé Sàigòn không?
– Chuyến nào mà chẳng ghé…
– Ba, bốn năm nay anh không ghé Sàigòn, bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ?
– Vâng, đông lắm, vui lắm…vậy chứ bác đã ở Sàigòn hở? Bác làm gì trong đó?
– Tớ dậy học. Tớ dậy Đại-Học Khoa-Học…
– Ủa! Vậy ra bác là giáo sư…
– Tớ dậy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm thì tớ về “hiu”…
– Tám nhăm, bác còn trẻ, sao về hưu sớm thế?
– Về vườn thì đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần mình. Sau…chúng nó thải mình, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng nó thay mình, kiếm ăn…
– Bác dạy môn gì trong thời gian đó? Chắc bác có bằng cao học, hay tiến sĩ?
– Bằng cấp con khỉ mốc! Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ-Học Yếu-Lược (thời Tây) thì xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Đảng, vốn liếng của tớ chỉ có mớ lý thuyết Cộng-Sản thuộc nằm lòng. Giải phóng Miền Nam xong, Đảng ủy yêu cầu tớ dậy Lý Thuyết Đảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều. Mà quả thật, có ai biết mình là thằng dốt đâu? Mười năm, nhờ ơn Đảng, tiếng nói của một thằng i tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng…học sinh nghe theo răm rắp…
– Rồi sau đó…
– Rồi sau đó ư? Tụi nhỏ du học Liên-Xô, Tiệp-Khắc trở về. Chúng nó thay chân những tên i tờ như tớ… tớ về “hiu”, xin được căn hộ này để ở. Già rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho họ trọ qua đêm, kiếm cơm…
– Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá?
– Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió hòa thì có đồng ra, đồng vào. Giông bão vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng gì đâu em ơi!
Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà-Nội trên sạp, dò tìm con phố Hàng Bài. Cô khách trọ cùng phòng tò mò rướn cổ sang theo dõi,
– Tìm cái gì đấy hở?…
– Phố Hàng Bài…
– Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! Tìm làm gì cho mệt xác!
Ông chủ nhà nằm ngửa, mắt lim dim nhìn trần nhà, miệng cười hì hì,
– Chú em đi buôn đường Sàigòn, Hà-Nội mà không biết phố Hàng Bài ở đâu thì có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ-Tướng…
Tôi đành nhỏ giọng, thú thật,
– Tôi là sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, cựu tù cải tạo. Tôi ra Hà-Nội để nộp đơn đi Mỹ…
– Tôi cũng đã nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không còn thuần túy Hải-Dương. Chỉ vì tôi cũng là dân Hải-Dương. Trước chú, đã có đôi người của chế độ Sàigòn cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ ngày ra đi. Mỹ quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận. Đời chú như thế là may mắn lắm rồi…
Ông giáo sư đại học về hưu thở dài,
– Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại sai…
Đêm xuống đã lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát thanh Hà-Nội, Tô Lan Phương còn đang biểu diễn bài “Cô Gái Vót Chông”. Giọng cô Ca-Sĩ Nhân-Dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre. Những ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông chủ nhà thắp ngọn đèn dầu đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn phòng chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại, cài then. Gỗ cửa khá dày, những ngọn chông Tô Lan Phương bị chặn lại ngoài hiên.
Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt mình như đang mềm đi, đang giãn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu,
“Anh ở đầu sông, em cuối sông…”
Giọng cô ta không cao vút, không nhọn hoắt, nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca, hai mi mắt tôi đã sụp xuống rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị...
Vẫn chuyện của "cải tạo viên" cựu thiếu tá Biệt Động Quân, Vương Mộng Long. Anh ra tù 1988, sau hơn 10 năm "cải tạo". Cuối năm anh làm đơn đi Mỹ, nhưng gần hai năm không thấy tăm hơi, trong khi nhiều người trong trường hợp giống anh đã đi hay chuấn bị ̣đi.
Theo lời khuyên của bạn bè, anh rút đơn để mang ra Hà Nội nộp ở bộ Ngoại Giao thì sẽ nhanh hơn. Vấn đề là anh không có tiền để mua vé đi Hà Nội, phải đi vay mượn bạn bè, cuối cùng cũng đủ tiền để ra Bắc. Cũng là dịp trở về thăm quê cũ...
____________________________
Hà-Nội, một ngày tháng 8 năm 1990…
Tôi xuống ga Hàng-Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường và trên cổng vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời chiến tranh chống Mỹ. Tôi bước vội qua đường, vì nhìn thấy bên phải con đường đâm thẳng vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn bình dân. Tôi vừa đặt chân trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn tuổi đã đứng chờ, dơ tay ngoắc,
– Tìm nhà trọ phải không?
– Phải…
– Phòng ngủ quốc doanh bẩy nghìn một đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà tôi, năm nghìn một đêm, nước nôi thả cửa…
Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào phòng ngủ quốc doanh.
– Một người, bẩy nghìn một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba nghìn…
tiếp viên phòng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát.
Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đã chờ sẵn,
– Bên kia đường…theo tôi…
Tôi theo chân người chủ nhà vào khu cư ngụ của công chức về hưu, đối diện với khách sạn quốc doanh. Khu cư xá này có khoảng trên dưới chục căn phòng. Ông chủ nhà trọ dẫn tôi vào căn phòng bên trái cư xá,
– Nhà tôi đây…
Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ,
– Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho chú, chìa khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại. Tắm giặt thì ra đằng sau nhà, có mười phòng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách sạn quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai chục lít. Bên này, chú tắm chán thì thôi…
Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dãy mười phòng tắm có vòi hoa sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm chuẩn bị đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi. Tôi tắm giặt xong, quay về buồng thì ông chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nhì của chiếc tủ đứng thuộc quyền cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả giàn, năm nghìn một đêm, rẻ chán!
Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường, cách đầu giường tôi và đầu giường cô gái một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê thành hình chữ “U”. Ba người nằm trong một căn phòng hẹp, một người phát ngôn, hai người kia đều nghe rõ…
– Này! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về?
ông chủ nhà gợi chuyện.
– Hải-Dương
– Hải-Dương xe chạy cả đêm, sao không về?
– Tôi có việc phải ở Hà-Nội vài ngày…
– Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề gì?
– Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam…
– Có thường ghé Sàigòn không?
– Chuyến nào mà chẳng ghé…
– Ba, bốn năm nay anh không ghé Sàigòn, bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ?
– Vâng, đông lắm, vui lắm…vậy chứ bác đã ở Sàigòn hở? Bác làm gì trong đó?
– Tớ dậy học. Tớ dậy Đại-Học Khoa-Học…
– Ủa! Vậy ra bác là giáo sư…
– Tớ dậy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm thì tớ về “hiu”…
– Tám nhăm, bác còn trẻ, sao về hưu sớm thế?
– Về vườn thì đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần mình. Sau…chúng nó thải mình, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng nó thay mình, kiếm ăn…
– Bác dạy môn gì trong thời gian đó? Chắc bác có bằng cao học, hay tiến sĩ?
– Bằng cấp con khỉ mốc! Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ-Học Yếu-Lược (thời Tây) thì xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Đảng, vốn liếng của tớ chỉ có mớ lý thuyết Cộng-Sản thuộc nằm lòng. Giải phóng Miền Nam xong, Đảng ủy yêu cầu tớ dậy Lý Thuyết Đảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều. Mà quả thật, có ai biết mình là thằng dốt đâu? Mười năm, nhờ ơn Đảng, tiếng nói của một thằng i tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng…học sinh nghe theo răm rắp…
– Rồi sau đó…
– Rồi sau đó ư? Tụi nhỏ du học Liên-Xô, Tiệp-Khắc trở về. Chúng nó thay chân những tên i tờ như tớ… tớ về “hiu”, xin được căn hộ này để ở. Già rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho họ trọ qua đêm, kiếm cơm…
– Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá?
– Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió hòa thì có đồng ra, đồng vào. Giông bão vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng gì đâu em ơi!
Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà-Nội trên sạp, dò tìm con phố Hàng Bài. Cô khách trọ cùng phòng tò mò rướn cổ sang theo dõi,
– Tìm cái gì đấy hở?…
– Phố Hàng Bài…
– Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! Tìm làm gì cho mệt xác!
Ông chủ nhà nằm ngửa, mắt lim dim nhìn trần nhà, miệng cười hì hì,
– Chú em đi buôn đường Sàigòn, Hà-Nội mà không biết phố Hàng Bài ở đâu thì có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ-Tướng…
Tôi đành nhỏ giọng, thú thật,
– Tôi là sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, cựu tù cải tạo. Tôi ra Hà-Nội để nộp đơn đi Mỹ…
– Tôi cũng đã nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không còn thuần túy Hải-Dương. Chỉ vì tôi cũng là dân Hải-Dương. Trước chú, đã có đôi người của chế độ Sàigòn cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ ngày ra đi. Mỹ quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận. Đời chú như thế là may mắn lắm rồi…
Ông giáo sư đại học về hưu thở dài,
– Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại sai…
Đêm xuống đã lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát thanh Hà-Nội, Tô Lan Phương còn đang biểu diễn bài “Cô Gái Vót Chông”. Giọng cô Ca-Sĩ Nhân-Dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre. Những ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông chủ nhà thắp ngọn đèn dầu đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn phòng chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại, cài then. Gỗ cửa khá dày, những ngọn chông Tô Lan Phương bị chặn lại ngoài hiên.
Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt mình như đang mềm đi, đang giãn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu,
“Anh ở đầu sông, em cuối sông…”
Giọng cô ta không cao vút, không nhọn hoắt, nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca, hai mi mắt tôi đã sụp xuống rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị...
Thanked by 2 Members:
|
|
#99
Gửi vào 23/04/2020 - 19:26
SỐNG ĐỂ LÀM GÌ?
Trong chiến tranh Nam-Bắc (1954-1975) nông nghiệp miền Bắc Việt Nam lạc hậu vì không có giống lúa cao sản, thiếu phân bón và hầu như không có máy móc nông nghiệp; năng suất lúa dưới 2 tấn/ha, sản lượng khoảng 5 triệu tấn/năm, thiếu hụt "kinh niên" từ 800 ngàn tấn/năm đến 1 triệu tấn/năm. Trung Quốc hàng năm phải viện trợ cho Bắc Việt Nam để bù đắp phần lớn cho số thiếu hụt này. Viện trợ bị cắt giảm vào năm 1974 và cắt hẳn vào năm 1978.
Sau ngày 30-4-1975 do không còn được viện trợ đầy đủ nên miền Bắc thiếu đói. Nhà nước phải tổ chức đưa thóc gạo từ miền Nam ra chi viện (sản lượng lúa ở miền Nam năm 1974 là 7,1 triệu tấn). Khoảng một tuần sau 30-4, ban đêm trong giờ giới nghiêm, từng đoàn xe vận tải chở thóc gạo nối đuôi nhau chạy từ miền Tây xuyên qua Sài Gòn ra Bắc. Khi đó tôi có giấy phép đi lại trong giờ giới nghiêm nên hầu như đêm nào cũng chứng kiến cảnh ấy.
Trong chiến tranh, Sài Gòn là nơi tập trung đông đảo các gia đình công chức, binh lính và sĩ quan của chế độ cũ. Chỉ một người đi làm cho chính phủ VNCH cũng đủ nuôi cả gia đình. Nhưng cũng vì thu nhập ổn định và vì lối sống của người miền Nam nên phần đông các gia đình đều không dành dụm. Sau 30-4, công chức và sĩ quan của chế độ cũ bị bắt đi cải tạo. Gia đình của họ mất nguồn thu nhập. Khi thóc lúa ở miền Nam bị nhà nước thu giữ để chuyển ra Bắc thì giá gạo ở Sài Gòn tăng vọt lên từng ngày. Rất nhiều gia đình binh lính, sĩ quan và công chức của chế độ cũ lâm vào cảnh đói ăn. Xã hội căng thẳng, dân tình rên xiết.
Vào thời điểm đó, ông Đ.P – Phó Tổng Biên tập của TTXVN – lần đầu tiên từ Hà Nội bay vào Sài Gòn, họp với toàn bộ cán bộ của TTXGP (thực chất cũng là TTXVN). Trong cuộc họp, ông nói: "Các đồng chí đừng tin lời tuyên truyền của địch. Miền Bắc của chúng ta không bao giờ thiếu lúa gạo. Các đồng chí đi Trường Sơn cũng đã biết: các kho gạo của chúng ta để đầy ngập dọc đường mòn H.C.M. Chúng ta thừa thải đến mức đã từng dùng gạo để chống lầy [lội] cho xe qua. Tôi lấy danh dự đảm bảo với các đồng chí rằng không có một hạt gạo nào từ miền Nam chuyển ra Bắc cả".
Chuyện dùng các bao đựng đầy gạo để chống lầy cho xe qua chỉ là một lần duy nhất, và cho chính chiếc "Zin ba cầu" mà tôi ngồi trên đó. Ông Đ.P chỉ được nghe người ta kể lại.
Khi đó tôi quen với gia đình của hai anh em Ngô Thường San và Ngô Việt Nghĩa (anh San về sau làm giám đốc Công Ty Dầu Khí, được nhiều người biết tên). Cha của họ (tôi quên tên) là Vụ trưởng một Vụ của Bộ Nông nghiệp, là người chịu trách nhiệm thu giữ thóc lúa ở miền Nam để đưa ra Bắc. Nghe tôi kể, ông nói [theo quan điểm của cán bộ cách mạng]: "Trong chiến tranh miền Bắc chi viện cho miền Nam để giải phóng miền Nam. Bây giờ miền Bắc thiếu gạo thì miền Nam chi viện trở lại chứ việc gì phải nói láo. Thằng Đ.P ấy làm gì có danh dự mà đảm bảo".
Đ.P là một kẻ gian hùng mà ở TTXVN ai cũng biết. Bạn C đã kể cho tôi nghe một cái cảnh hy hữu mà C. từng chứng kiến. Cũng trong lần đó, khi Đ.P đi ngang qua Phòng Biên tập Ảnh thì nhà báo Văn Thính (người thấp bé) nhảy chồm lên cửa sổ ba lần, chửi thẳng vào mặt Đ.P: "đ.m Đ.P, đ.m ĐP, đ.m ĐP" mà mặt Đ.P vẫn không biến sắc. Tôi hỏi Văn Thính để xác minh. Anh ấy công nhận chuyện đó là có thật.
Đ.P đã chết cách đây vài năm. Tôi không có quan hệ gì với ông ta, không ân oán gì cả. Nhưng tôi thường nghĩ về ông ấy: con người này sống ở đời này để làm gì? Trong cuộc đời mình, có thời kỳ ông ta là ủy viên trung ương đảng, làm Tổng Giám đốc của TTXVN, được xem như "một nhà báo lớn của cách mạng". Danh lớn lắm. Nhưng cả đời ông ta đã có rất nhiều lần nói láo. Nói láo một cách có bài bản, nói láo một cách hào hùng, nói láo để lừa đảo, nói láo để đẩy hàng triệu người vào chỗ chết.
Ông ta nói láo trước hết với các đồng chí của mình, để họ nói láo theo ông. Ở đất nước này có bao nhiêu người đã đi qua cuộc đời mà không làm gì khác hơn là nói láo và viết láo. Nhiều cán bộ của TTXVN cùng lứa với tôi đã qua đời. Khi chết họ đem theo mình được những gì và đi về đâu?
Ghi chú: trong ảnh dưới, tôi ngồi trên chiếc "Zin ba cầu" phía trước. Ảnh chụp ở Khe Sanh.
(Nguồn FB Công Dũng Trương)
Trong chiến tranh Nam-Bắc (1954-1975) nông nghiệp miền Bắc Việt Nam lạc hậu vì không có giống lúa cao sản, thiếu phân bón và hầu như không có máy móc nông nghiệp; năng suất lúa dưới 2 tấn/ha, sản lượng khoảng 5 triệu tấn/năm, thiếu hụt "kinh niên" từ 800 ngàn tấn/năm đến 1 triệu tấn/năm. Trung Quốc hàng năm phải viện trợ cho Bắc Việt Nam để bù đắp phần lớn cho số thiếu hụt này. Viện trợ bị cắt giảm vào năm 1974 và cắt hẳn vào năm 1978.
Sau ngày 30-4-1975 do không còn được viện trợ đầy đủ nên miền Bắc thiếu đói. Nhà nước phải tổ chức đưa thóc gạo từ miền Nam ra chi viện (sản lượng lúa ở miền Nam năm 1974 là 7,1 triệu tấn). Khoảng một tuần sau 30-4, ban đêm trong giờ giới nghiêm, từng đoàn xe vận tải chở thóc gạo nối đuôi nhau chạy từ miền Tây xuyên qua Sài Gòn ra Bắc. Khi đó tôi có giấy phép đi lại trong giờ giới nghiêm nên hầu như đêm nào cũng chứng kiến cảnh ấy.
Trong chiến tranh, Sài Gòn là nơi tập trung đông đảo các gia đình công chức, binh lính và sĩ quan của chế độ cũ. Chỉ một người đi làm cho chính phủ VNCH cũng đủ nuôi cả gia đình. Nhưng cũng vì thu nhập ổn định và vì lối sống của người miền Nam nên phần đông các gia đình đều không dành dụm. Sau 30-4, công chức và sĩ quan của chế độ cũ bị bắt đi cải tạo. Gia đình của họ mất nguồn thu nhập. Khi thóc lúa ở miền Nam bị nhà nước thu giữ để chuyển ra Bắc thì giá gạo ở Sài Gòn tăng vọt lên từng ngày. Rất nhiều gia đình binh lính, sĩ quan và công chức của chế độ cũ lâm vào cảnh đói ăn. Xã hội căng thẳng, dân tình rên xiết.
Vào thời điểm đó, ông Đ.P – Phó Tổng Biên tập của TTXVN – lần đầu tiên từ Hà Nội bay vào Sài Gòn, họp với toàn bộ cán bộ của TTXGP (thực chất cũng là TTXVN). Trong cuộc họp, ông nói: "Các đồng chí đừng tin lời tuyên truyền của địch. Miền Bắc của chúng ta không bao giờ thiếu lúa gạo. Các đồng chí đi Trường Sơn cũng đã biết: các kho gạo của chúng ta để đầy ngập dọc đường mòn H.C.M. Chúng ta thừa thải đến mức đã từng dùng gạo để chống lầy [lội] cho xe qua. Tôi lấy danh dự đảm bảo với các đồng chí rằng không có một hạt gạo nào từ miền Nam chuyển ra Bắc cả".
Chuyện dùng các bao đựng đầy gạo để chống lầy cho xe qua chỉ là một lần duy nhất, và cho chính chiếc "Zin ba cầu" mà tôi ngồi trên đó. Ông Đ.P chỉ được nghe người ta kể lại.
Khi đó tôi quen với gia đình của hai anh em Ngô Thường San và Ngô Việt Nghĩa (anh San về sau làm giám đốc Công Ty Dầu Khí, được nhiều người biết tên). Cha của họ (tôi quên tên) là Vụ trưởng một Vụ của Bộ Nông nghiệp, là người chịu trách nhiệm thu giữ thóc lúa ở miền Nam để đưa ra Bắc. Nghe tôi kể, ông nói [theo quan điểm của cán bộ cách mạng]: "Trong chiến tranh miền Bắc chi viện cho miền Nam để giải phóng miền Nam. Bây giờ miền Bắc thiếu gạo thì miền Nam chi viện trở lại chứ việc gì phải nói láo. Thằng Đ.P ấy làm gì có danh dự mà đảm bảo".
Đ.P là một kẻ gian hùng mà ở TTXVN ai cũng biết. Bạn C đã kể cho tôi nghe một cái cảnh hy hữu mà C. từng chứng kiến. Cũng trong lần đó, khi Đ.P đi ngang qua Phòng Biên tập Ảnh thì nhà báo Văn Thính (người thấp bé) nhảy chồm lên cửa sổ ba lần, chửi thẳng vào mặt Đ.P: "đ.m Đ.P, đ.m ĐP, đ.m ĐP" mà mặt Đ.P vẫn không biến sắc. Tôi hỏi Văn Thính để xác minh. Anh ấy công nhận chuyện đó là có thật.
Đ.P đã chết cách đây vài năm. Tôi không có quan hệ gì với ông ta, không ân oán gì cả. Nhưng tôi thường nghĩ về ông ấy: con người này sống ở đời này để làm gì? Trong cuộc đời mình, có thời kỳ ông ta là ủy viên trung ương đảng, làm Tổng Giám đốc của TTXVN, được xem như "một nhà báo lớn của cách mạng". Danh lớn lắm. Nhưng cả đời ông ta đã có rất nhiều lần nói láo. Nói láo một cách có bài bản, nói láo một cách hào hùng, nói láo để lừa đảo, nói láo để đẩy hàng triệu người vào chỗ chết.
Ông ta nói láo trước hết với các đồng chí của mình, để họ nói láo theo ông. Ở đất nước này có bao nhiêu người đã đi qua cuộc đời mà không làm gì khác hơn là nói láo và viết láo. Nhiều cán bộ của TTXVN cùng lứa với tôi đã qua đời. Khi chết họ đem theo mình được những gì và đi về đâu?
Ghi chú: trong ảnh dưới, tôi ngồi trên chiếc "Zin ba cầu" phía trước. Ảnh chụp ở Khe Sanh.
(Nguồn FB Công Dũng Trương)
Thanked by 2 Members:
|
|
#100
Gửi vào 28/04/2020 - 19:59
Nhạc sĩ Văn Cao từng đi trừ khử Việt gian!
GiadinhNet - Câu chuyện về sự nghiệp, cuộc đời của những nhân vật sống mãi cùng lịch sử như cha đẻ của Quốc ca - Văn Cao, luôn là tâm điểm chú ý không chỉ trên văn đàn mà cả trong dư luận xã hội.
Ít ai biết rằng, nghệ sĩ tài hoa Văn Cao từng một thời làm "hiệp sĩ"
Nhạc sĩ Văn Cao từng làm "hiệp sĩ"!
Nhạc sĩ Văn Cao đi vào lịch sử âm nhạc Việt Nam với một loạt các bài hát nổi tiếng. Nhưng ít ai biết rằng, bên cạnh con người nghệ sĩ tài hoa, Văn Cao còn là một "hiệp sĩ" thực thụ. Câu chuyện ông từng tham gia đội ám sát trước Cách mạng tháng Tám dù được truyền tai nhau một cách đứt quãng, nhưng đã khiến không ít người mê nhạc Văn Cao xôn xao, bán tín bán nghi.
Theo lời nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, nhạc sĩ Văn Cao từng làm hiệp sĩ là chuyện có thật 100%. Sinh thời, trong một cuộc nhậu, nhạc sĩ Văn Cao từng kể cho nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo rằng hồi năm 1944, Văn Cao buồn chán vô cùng vì làm nghệ thuật như vẽ tranh, sáng tác nhạc, viết truyện ngắn, làm thơ đều không có tiền để sống. Đúng lúc ấy, nhạc sĩ gặp lại một người quen cũ là ông Vũ Quý - một cán bộ cách mạng, từng khuyến khích cho những sáng tác của Văn Cao. Trong đó, bài "Tiến quân ca" sau này trở thành Quốc ca có công sức đóng góp không nhỏ của ông Vũ Quý.
Đó là thời điểm mùa đông đói rét, ảm đạm năm 1944, người chết đói nằm dọc các ngả đường, các con ngõ. Văn Cao cũng không đủ tiền sinh sống, phải nhờ mấy người bạn hoạ sĩ nuôi cơm và giúp cho phương tiện làm việc. Bỗng một hôm Văn Cao gặp đồng chí Vũ Quý trước ga Hàng Cỏ. Vũ Quý liền đưa Văn Cao đến nhà một người thợ giày ở đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và giao nhiệm vụ đầu tiên là soạn một bài hát cho quân đội cách mạng. Bài "Quốc ca" hùng tráng đã được khởi đầu như vậy. Văn Cao viết ca khúc này trong một căn gác nhà người bạn tại 171 phố Mông - grăng, nay là phố Nguyễn Thượng Hiền.
Sau đó anh Vũ Quý giao cho Văn Cao một khẩu súng và đưa ông tham gia vào đội vũ trang. Thế là chàng thanh niên 21 tuổi Văn Cao đã toại nguyện, trở thành đội viên của đội ám sát có tên gọi là Đội danh dự Việt Minh. Cuối mùa Xuân năm 1945, Văn Cao mang theo súng, đi từ Hà Nội xuống Hải Phòng, nơi ông từng sống thủa thiếu thời, để trừ khử tên Việt gian thân Nhật ĐPP. Văn Cao cải trang ngồi ở vườn hoa Đưa Người đợi người liên lạc là Trần Khánh (sau này Trần Khánh trở thành một ca sĩ có tiếng). Một lát sau, Trần Khánh đến báo tin: ĐPP đang hút thuốc phiện ở phố Đông Kinh. Văn Cao liền dựng xe đạp ở cửa, đi vào tuyên bố tử hình tên này. ĐPP định tháo chạy nhưng bị Văn Cao bắn ngay tại cửa. Bắn xong, Văn Cao lấy xe đạp phóng về nhà Doãn Tòng, cải trang rồi rời khỏi thành phố trước khi lệnh thiết quân luật ban bố.
Mùa hè năm 1945, Thành uỷ Hà Nội giao cho Văn Cao danh sách những tên Việt gian cần trừ khử. Văn Cao lại cải trang thành ăn mày để thi hành bản án với một tên Việt gian. Nhưng tên này dường như đã được báo trước hoặc có linh tính thế nào đó nên đã chuồn mất. Nhạc sĩ nổi tiếng trở về Hà Nội, cùng một đồng chí tên là Mẫn quyết tiêu diệt tên Việt gian thân Nhật này. Hai người lần theo mật báo, chờ sẵn ở hiệu ảnh Hưng Kỳ trên phố Hàng Trống. Khi Văn Cao tiến đến gần chiếc xe đạp của hắn thì nghe tiếng súng nổ. Một tên Việt gian khác rút súng định bắn Văn Cao thì Mẫn đã nhanh tay bắn trước khiến tên này gục tại chỗ. Tên kia định tẩu thoát. Nhạc sĩ chạy theo định bắn tiếp nhưng nghe tiếng súng nổ, người đổ ra đông quá. Cuối cùng, hai người đành lẩn nhanh vào đám đông đi về phố Mai Hắc Đế. Một lần khác, Văn Cao cùng Nguyễn Đình Thi đứng trên gác của phố Bảo Khánh để theo dõi phái đoàn tuần hành ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim. Chợt Văn Cao thốt lên ngạc nhiên khi thấy đi đầu đoàn lại là hai nhà thơ nổi tiếng thời Thơ Mới, tay mỗi người cầm một lá cờ quẻ li. Văn Cao giận quá định rút súng ra. Nhưng Nguyễn Đình Thi nhanh tay kịp ngăn lại, bảo là đang tranh thủ giác ngộ hai vị này, lôi kéo họ về phía cách mạng.
Dù chỉ trực tiếp tiêu diệt được một tên Việt gian ĐPP nhưng tiếng tăm của Văn Cao lúc bấy giờ nổi như cồn với tư cách nghệ sĩ - hiệp sĩ, làm vinh dự lây cho giới nghệ sĩ đang hướng về cách mạng.
Lã Xưa
Thanked by 1 Member:
|
|
#101
Gửi vào 05/05/2020 - 19:55
GIÒNG TÌNH CẢM ẤY VẪN LIÊN TỤC CHẢY...
Tùy bút Trịnh Công Sơn
Đã bốn năm kể từ ngày đất nước hoàn toàn được giải phóng. Trên đất nước độc lập và thống nhất của chúng ta, thời gian ấy tuy chưa dài nhưng cũng tạm đủ để những gì còn xa lạ trở nên gần gũi, những nhớ nhung được đền bù, những ngộ nhận bị xoá tan và những vết thương được hàn gắn.
Con người vốn có nhiều khả năng nhưng có một khả năng lớn lao nhất, ấy là nó có và nó biết nó có một tâm hồn. Nhờ có tâm hồn, con người biết chọn cái đẹp để yêu và lọc cái xấu để lìa bỏ. Và cũng nhờ có tâm hồn, con người đã biết thiết lập cho mình một thế giới riêng tư, ở đó có không gian và thời gian riêng của nó.
Vào những năm đất nước còn mang trên mình cái vết chém ngang vĩ tuyến thứ 17, chính nhờ thế giới riêng tư đó mà tuổi trẻ miền Nam đã thoát ra khỏi mọi ranh giới, vượt ra khỏi mọi bức bách của đời sống thực tế để tìm về với miền Bắc bằng ý nghĩ.
Khi Bác Hồ nói: “Miền Nam trong trái tim tôi” thì mọi người ở miền Nam đều có quyền nghĩ rằng mình đang có một vị trí tình cảm trong trái tim của Bác. Câu nói đó không loại trừ một ai ngoài những kẻ cố tình phản bội. Câu nói còn bao hàm tính chất địa lý nguyên vẹn của miền Nam là có cả núi non, sông biển, đồng bằng, ruộng làng và cả đô thị miền Nam nữa.
Chúng tôi lớn lên ở các đô thị miền Nam và xuyên qua cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng tôi có điều kiện để tin rằng tuổi trẻ các đô thị miền Nam xứng đáng sống trong tình cảm đẹp đẽ đó. Cái tuổi trẻ mà tôi đã may mắn gặp gỡ ở các giảng đường đại học, trong những buổi hội thảo, những đêm không ngủ, những ngày xuống đường, những giờ phút lo âu trốn tránh, những buổi in lậu những bài báo kêu gọi… Tuổi trẻ ấy không phải là toàn thể nhưng nó đại diện được cho lứa tuổi thanh niên vào những năm chống Mỹ.
Vào những năm ấy, miền Bắc thường xuyên có mặt trong nỗi lòng của mỗi người. Một tình yêu tự nhiên, trong sáng, không cần phải cổ động. Điều ấy không đáng ngạc nhiên bởi lẽ, dù phải sống trong hoàn cảnh của đất nước tạm thời bị chia cắt lúc bấy giờ, mỗi đứa trẻ Việt Nam khi lớn lên, thông qua bài học lịch sử và địa lý đầu tiên đều biết rằng mình là con cháu Hùng Vương không phải một nửa hình chữ S. Đã biến thành nụ cười mỉa mai hình ảnh cái thời bị ngộ độc bởi thứ tư tưởng nô lệ rằng có một Nam kỳ quốc và một Bắc kỳ quốc. Tôi nhớ lại cái thuở chân ướt chân ráo bước vào thành phố Sài Gòn hồi năm 1949, vào lớp nói giọng Huế không ai hiểu cả, kể cả thầy lẫn bạn. Và sau đó không lâu, ông thầy dạy toán hỏi tôi: “Em không phải là người Việt à?” Tôi ngạc nhiên trả lời: “Thưa thầy em là người Việt” – Ông hỏi tiếp: “Sao em nói ‘tiếng’ khác ‘qua’?” Dạo ấy tôi chưa có một khái niệm rõ ràng về tính khôi hài trong những câu chuyện dân gian nên chỉ sửng sốt mà không cười được.
Đã từ lâu, qua tuổi trẻ đó mà tôi biết được ý nghĩ phân biệt người Bắc, người Nam không còn nữa. Cho nên nỗi nhớ mong những anh em của mình ở nửa đất nước bên kia vĩ tuyến là một tình cảm có thật và tình cảm ấy có tự đáy lòng. Chính vì tình yêu và nỗi nhớ mong đó mà tuổi trẻ đô thị đã sống tốt hơn và đẹp hơn. Trong đời sống tinh thần và tình cảm, lứa tuổi thanh niên ấy cảm thấy có một quê nội và mình không về thăm được. Cái quê nội bị cắt lìa ngoài ý thức và sự tham dự của tuổi trẻ. Và từ đó, như những trẻ con theo bố mẹ làm ăn xa, chúng chỉ còn biết quê nội qua lời kể chuyện. Sự thiệt thòi đó làm nảy sinh trong lòng tuổi trẻ miền Nam những tình cảm càng lúc càng sâu sắc hơn. Tình cảm ấy đã biến thành hành động ở một số người này và trở nên lời thở than ở một số người khác. Nhưng cho dù bằng hành động hoặc bằng lời thở than thì cả hai cũng đều xuất phát từ một tình yêu chân thật. Tình yêu ấy hình như không cần phải giáo dục mới có được mà nó nảy mầm tự nhiên trong lòng mỗi người. Cái hạt giống yêu thương đã có sẵn trong trái tim của tuổi trẻ miền Nam nên chỉ cần một chút mặt trời, hạt mầm đã tự lớn dậy. Chút mặt trời ấy chính là tiếng gọi vừa xa xôi vừa gần gũi của một nửa quê hương chưa hề gặp mặt. Chưa bao giờ gặp mặt nhưng nỗi nhớ nhung thì quá lớn. Nỗi nhớ chuyền nhau như lối văn chương truyền khẩu. Nhớ Hà Nội ba mươi sáu phố phường, nhớ Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Trúc Bạch, Hồ Tây, nhớ chùa Hương, chùa Tây Phương, chùa Thầy, nhớ những tình bạn chưa có, nhớ những người yêu chưa thành.
Tôi nhớ lại rất nhiều đêm chúng tôi ngồi nghe đài Hà Nội rồi nói chuyện với nhau về miền Bắc như những kẻ đã từng sống ở đó. Nói say sưa đến độ nhiều lúc tưởng chừng ít phút sau có thể bước lên tàu lửa ra Hà Nội được ngay. Lòng mỗi người chứa chan hình ảnh miền Bắc, hình ảnh Hà Nội để rồi cái hình ảnh ấy cứ lớn dần thêm mỗi ngày, hóa thành một giấc mơ vừa hân hoan thúc giục vừa phiền muộn khôn nguôi. Phiền muộn bởi vì đường về lại chốn quê hương kia còn bao nhiêu là khó khăn mà tuổi trẻ không lường hết được. Chúng tôi đã cùng nhau phác hoạ những cuộc hành hương tưởng tượng về lại quê hương khi đất nước hòa bình. Một quê hương trong một quê hương. Nhưng cái quê hương vắng mặt kia là một nhu cầu tình cảm không thể thiếu được trong đời sống của tuổi trẻ miền Nam. Trong thế giới riêng tư của mỗi người có một miền Bắc, có một Hà Nội theo kiểu mình nghĩ. Dĩ nhiên là không ai giống ai và cũng không ai muốn bắt chước kẻ khác để hình ảnh xa xôi kia của quê hương càng đa dạng, càng phong phú thêm mãi.
Mỗi người tự vẽ lấy cái Hà Nội của mình bằng tình cảm riêng tư – Miền Bắc được đồng hoá với hà Nội. Nói đến Hà Nội là nghĩ đến miền Bắc. Và từ đó, bên lề cuộc sống hàng ngày, giữa lòng đô thị miền Nam, mỗi con người trẻ trung nhưng nhiều thao thức ấy, đã biết chia lòng mình để vui theo những tin vui từ Hà Nội, để buồn theo những tai ương mà Hà Nôi gặp phải. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng nhìn thấy một số hình ảnh về Hà Nội trên các trang báo nước ngoài. Nhưng những hình ảnh rời rạc đó không đủ tạo nên một toàn cảnh cụ thể trong đầu óc chúng tôi. Chỉ thấy, con người trong những hình ảnh kia rất gần gũi thân thuộc với mình và cũng đang cùng mình gánh chung một thân phận quê hương trong những điều kiện khác. Chúng tôi cũng cố gắng tìm hiểu những gì Hà Nội có và những gì Hà Nội chưa có. Biết được cái có để làm niềm tự hào cho mình, biết cái chưa có để hiểu thêm những khó khăn khi miền Bắc còn phải chia cơm xẻ áo cho miền Nam chiến đấu.
Có thể có người vội nghĩ rằng những tình cảm này không có gì lớn lao cả nhưng thường khi, qua kinh nghiệm mà đời sống mang đến, chính cái thứ tình cảm nho nhỏ mà bền bỉ ấy đã làm cơ sở cho phẩm hạnh con người đứng vững. Nói về tình cảm có thật trong lòng tuổi trẻ miền Nam dạo ấy đối với miền Bắc có lẽ khó mà nói đầy đủ được.
Từ ngày 30 tháng 4 miền Nam hoàn toàn giải phóng đến nay, nỗi nhớ về một nửa quê hương kia không còn nữa vì mọi nẻo về quê nội đã được khai thông. Con người miền Nam được trả về nguyên vẹn với hình hài tinh thần và tình cảm của mình. Nỗi nhớ riêng tư đã có dịp hoà lẫn trong cái chung hạnh phúc. Cái gián đoạn biến thành liên tục. Muốn về thăm quê nội chỉ cần lên đường là đến chốn.
Ai cũng háo hức như nhau, ai cũng dọn sẵn lòng mình để yêu thương cho thoả. Nhưng riêng tôi chưa kịp lên đường mà đã gặp đông đảo anh em về thăm hỏi quanh rồi. Như đã từng gắn bó, tri ngộ tự bao giờ. Trong những ngày đầu tiên ấy tôi đã không có đủ tay để cầm lấy những bàn tay, không có một trái tim to lớn hơn để chứa đủ những tình cảm. Những gì mình cần phải bày tỏ thì đã có hết ở bạn bè, anh em. Hóa ra những tình cảm bấy lâu được nuôi dưỡng trong tôi không có gì độc đáo cả. Từ lâu, rõ ràng chúng tôi ở hai miền Nam Bắc đã nghĩ về nhau, đã yêu mến nhau bằng một thứ tình cảm không có gì khác nhau. Miền Nam chính là quê ngoại và anh em của tôi đã nhanh chân trở về quê ngoại quá sớm. Bao nhiêu lời cũng không đủ để bày tỏ, bao nhiêu cái bắt tay cũng không đủ chuyền cho nhau hết tinh thần để bao nhiêu cái ôm chầm lấy nhau cũng không đủ để truyền đạt hết tình cảm của mình. Có một cái gì còn sâu đậm hơn, ý nghĩa hơn nằm lặng lẽ đằng sau những sự bày tỏ ấy. Phút chốc, trong thế giới riêng tư của tuổi trẻ miền Nam bỗng đầy đặn thêm những hình ảnh mới. Cánh cổng hơn hai mươi năm bị khép kín im lìm đã được phá tan để cho dòng tâm tưởng đứt đoạn của anh em hai miền được nối liền lại. Mỗi người ở nơi đây có dịp soi lại mình trong lòng anh em ở miền Bắc và thấy rõ hình bóng mình ở trong ấy. Cái tình yêu ra khơi ngày trước đã tìm đúng bến đậu. Không nghi ngờ gì nữa, chúng ta đã từng nhận ra nhau khi chưa gặp mặt và phút giây này, nhắc lại tình cảm anh em kia cũng chỉ để xác định thêm một lần nữa cho những ai còn có lúc hoang mang, hoài nghi về tấm lòng của mình.
Tôi là kẻ may mắn trong những người may mắn nhất bởi giờ đây tôi đã giàu có hơn xưa nhiều lắm. Tôi không có một quà tặng nào quí báu hơn tấm lòng của mình. Tôi thử gửi nó đi và tôi đã nhận lại được nhiều hơn những gì mình chờ đợi. Nếu mỗi người bạn chân tình, mỗi tình yêu đằm thắm là một quà tặng thì bên cạnh những quà tặng từng có ở miền Nam, tôi đã được quê hương vừa mở ra thêm cho tôi một kho tàng đầy những tặng phẩm quí giá như thế nữa. Trong thế giới riêng tư của tôi, cái không gian xưa đã bề thế hơn thêm. Đã có thêm nhiều khuôn mặt mới, những tâm sự mới, những phát biểu mới và những vốn sống đặc thù mà tôi và tuổi trẻ nơi đây chưa từng biết đến – kỷ niệm, giờ đây, không chỉ dừng lại ở miền Nam mà còn muốn nối dài ra tận miền Bắc.
Nếu có người bạn trẻ nào chưa sống được trong tình cảm thắm thiết này thì hãy vội lên đường thể nghiệm ngay đi. Bốn năm có thể đã đủ cho một số người này kiểm chứng lại cái vốn tình cảm anh em của mình nhưng biết đâu lại có không ít những người giờ đây vẫn còn loay hoay chưa tìm thấy hoặc chưa được sống trong những tình tự mới mẻ đó. Đất nước độc lập, thống nhất, không chỉ mở ra cho ta một thời điểm lịch sử mới, một hoàn cảnh xã hội mới, mà còn tạo cơ hội cho chúng ta tìm thấy ý nghĩa của những tình cảm mới nữa. Tôi đã tìm được cho tôi những tình bạn hiếm hoi lạ kỳ và tôi mong mọi người cũng được như thế. Có một cái gì đó khác lạ hơn những tình bạn mà ta vẫn gặp từ trước. Một thứ tình bạn nồng nàn, hiểu biết và đầy cảm thông. Tôi nghĩ rằng có thể chính vì cơn hoạn nạn quá dài lâu nên đã làm nảy sinh trên đất nước này một thứ tình tự mới. Hai mươi năm, cái thời gian xa cách ấy quả là một cơn ác mộng. Chính vì biết thế nên mỗi một chúng ta quyết không thể nào để một sự kiện tương tự như vậy tái diễn nữa.
Chúng tôi đã từng nhớ nhung, đã từng vọng tưởng đến miền Bắc trong thời kỳ chống Mỹ. Giờ đây, chính chúng ta đang trực tiếp lo âu nỗi âu lo của cha mẹ, anh chị em chúng ta ở miền Bắc trước cuộc xâm lược của bọn bành trướng Trung Quốc. Máu xương đổ ở biên giới phía Bắc của những người thân thuộc phải được khắc ghi trong tim của mỗi người miền Nam và nhất là của tuổi trẻ miền Nam. Chúng ta đã từng bị chia lìa gia đình, cha mẹ, anh em và chúng ta đã hiểu hơn ai hết cái giá đau thương của những con người có một xứ sở không nguyên vẹn. Đối với quân xâm lược, chỉ còn lòng căm thù và sự đoàn kết ruột thịt để diệt kẻ thù đó.
Tháng 4 - 1979
Tùy bút Trịnh Công Sơn
Đã bốn năm kể từ ngày đất nước hoàn toàn được giải phóng. Trên đất nước độc lập và thống nhất của chúng ta, thời gian ấy tuy chưa dài nhưng cũng tạm đủ để những gì còn xa lạ trở nên gần gũi, những nhớ nhung được đền bù, những ngộ nhận bị xoá tan và những vết thương được hàn gắn.
Con người vốn có nhiều khả năng nhưng có một khả năng lớn lao nhất, ấy là nó có và nó biết nó có một tâm hồn. Nhờ có tâm hồn, con người biết chọn cái đẹp để yêu và lọc cái xấu để lìa bỏ. Và cũng nhờ có tâm hồn, con người đã biết thiết lập cho mình một thế giới riêng tư, ở đó có không gian và thời gian riêng của nó.
Vào những năm đất nước còn mang trên mình cái vết chém ngang vĩ tuyến thứ 17, chính nhờ thế giới riêng tư đó mà tuổi trẻ miền Nam đã thoát ra khỏi mọi ranh giới, vượt ra khỏi mọi bức bách của đời sống thực tế để tìm về với miền Bắc bằng ý nghĩ.
Khi Bác Hồ nói: “Miền Nam trong trái tim tôi” thì mọi người ở miền Nam đều có quyền nghĩ rằng mình đang có một vị trí tình cảm trong trái tim của Bác. Câu nói đó không loại trừ một ai ngoài những kẻ cố tình phản bội. Câu nói còn bao hàm tính chất địa lý nguyên vẹn của miền Nam là có cả núi non, sông biển, đồng bằng, ruộng làng và cả đô thị miền Nam nữa.
Chúng tôi lớn lên ở các đô thị miền Nam và xuyên qua cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng tôi có điều kiện để tin rằng tuổi trẻ các đô thị miền Nam xứng đáng sống trong tình cảm đẹp đẽ đó. Cái tuổi trẻ mà tôi đã may mắn gặp gỡ ở các giảng đường đại học, trong những buổi hội thảo, những đêm không ngủ, những ngày xuống đường, những giờ phút lo âu trốn tránh, những buổi in lậu những bài báo kêu gọi… Tuổi trẻ ấy không phải là toàn thể nhưng nó đại diện được cho lứa tuổi thanh niên vào những năm chống Mỹ.
Vào những năm ấy, miền Bắc thường xuyên có mặt trong nỗi lòng của mỗi người. Một tình yêu tự nhiên, trong sáng, không cần phải cổ động. Điều ấy không đáng ngạc nhiên bởi lẽ, dù phải sống trong hoàn cảnh của đất nước tạm thời bị chia cắt lúc bấy giờ, mỗi đứa trẻ Việt Nam khi lớn lên, thông qua bài học lịch sử và địa lý đầu tiên đều biết rằng mình là con cháu Hùng Vương không phải một nửa hình chữ S. Đã biến thành nụ cười mỉa mai hình ảnh cái thời bị ngộ độc bởi thứ tư tưởng nô lệ rằng có một Nam kỳ quốc và một Bắc kỳ quốc. Tôi nhớ lại cái thuở chân ướt chân ráo bước vào thành phố Sài Gòn hồi năm 1949, vào lớp nói giọng Huế không ai hiểu cả, kể cả thầy lẫn bạn. Và sau đó không lâu, ông thầy dạy toán hỏi tôi: “Em không phải là người Việt à?” Tôi ngạc nhiên trả lời: “Thưa thầy em là người Việt” – Ông hỏi tiếp: “Sao em nói ‘tiếng’ khác ‘qua’?” Dạo ấy tôi chưa có một khái niệm rõ ràng về tính khôi hài trong những câu chuyện dân gian nên chỉ sửng sốt mà không cười được.
Đã từ lâu, qua tuổi trẻ đó mà tôi biết được ý nghĩ phân biệt người Bắc, người Nam không còn nữa. Cho nên nỗi nhớ mong những anh em của mình ở nửa đất nước bên kia vĩ tuyến là một tình cảm có thật và tình cảm ấy có tự đáy lòng. Chính vì tình yêu và nỗi nhớ mong đó mà tuổi trẻ đô thị đã sống tốt hơn và đẹp hơn. Trong đời sống tinh thần và tình cảm, lứa tuổi thanh niên ấy cảm thấy có một quê nội và mình không về thăm được. Cái quê nội bị cắt lìa ngoài ý thức và sự tham dự của tuổi trẻ. Và từ đó, như những trẻ con theo bố mẹ làm ăn xa, chúng chỉ còn biết quê nội qua lời kể chuyện. Sự thiệt thòi đó làm nảy sinh trong lòng tuổi trẻ miền Nam những tình cảm càng lúc càng sâu sắc hơn. Tình cảm ấy đã biến thành hành động ở một số người này và trở nên lời thở than ở một số người khác. Nhưng cho dù bằng hành động hoặc bằng lời thở than thì cả hai cũng đều xuất phát từ một tình yêu chân thật. Tình yêu ấy hình như không cần phải giáo dục mới có được mà nó nảy mầm tự nhiên trong lòng mỗi người. Cái hạt giống yêu thương đã có sẵn trong trái tim của tuổi trẻ miền Nam nên chỉ cần một chút mặt trời, hạt mầm đã tự lớn dậy. Chút mặt trời ấy chính là tiếng gọi vừa xa xôi vừa gần gũi của một nửa quê hương chưa hề gặp mặt. Chưa bao giờ gặp mặt nhưng nỗi nhớ nhung thì quá lớn. Nỗi nhớ chuyền nhau như lối văn chương truyền khẩu. Nhớ Hà Nội ba mươi sáu phố phường, nhớ Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Trúc Bạch, Hồ Tây, nhớ chùa Hương, chùa Tây Phương, chùa Thầy, nhớ những tình bạn chưa có, nhớ những người yêu chưa thành.
Tôi nhớ lại rất nhiều đêm chúng tôi ngồi nghe đài Hà Nội rồi nói chuyện với nhau về miền Bắc như những kẻ đã từng sống ở đó. Nói say sưa đến độ nhiều lúc tưởng chừng ít phút sau có thể bước lên tàu lửa ra Hà Nội được ngay. Lòng mỗi người chứa chan hình ảnh miền Bắc, hình ảnh Hà Nội để rồi cái hình ảnh ấy cứ lớn dần thêm mỗi ngày, hóa thành một giấc mơ vừa hân hoan thúc giục vừa phiền muộn khôn nguôi. Phiền muộn bởi vì đường về lại chốn quê hương kia còn bao nhiêu là khó khăn mà tuổi trẻ không lường hết được. Chúng tôi đã cùng nhau phác hoạ những cuộc hành hương tưởng tượng về lại quê hương khi đất nước hòa bình. Một quê hương trong một quê hương. Nhưng cái quê hương vắng mặt kia là một nhu cầu tình cảm không thể thiếu được trong đời sống của tuổi trẻ miền Nam. Trong thế giới riêng tư của mỗi người có một miền Bắc, có một Hà Nội theo kiểu mình nghĩ. Dĩ nhiên là không ai giống ai và cũng không ai muốn bắt chước kẻ khác để hình ảnh xa xôi kia của quê hương càng đa dạng, càng phong phú thêm mãi.
Mỗi người tự vẽ lấy cái Hà Nội của mình bằng tình cảm riêng tư – Miền Bắc được đồng hoá với hà Nội. Nói đến Hà Nội là nghĩ đến miền Bắc. Và từ đó, bên lề cuộc sống hàng ngày, giữa lòng đô thị miền Nam, mỗi con người trẻ trung nhưng nhiều thao thức ấy, đã biết chia lòng mình để vui theo những tin vui từ Hà Nội, để buồn theo những tai ương mà Hà Nôi gặp phải. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng nhìn thấy một số hình ảnh về Hà Nội trên các trang báo nước ngoài. Nhưng những hình ảnh rời rạc đó không đủ tạo nên một toàn cảnh cụ thể trong đầu óc chúng tôi. Chỉ thấy, con người trong những hình ảnh kia rất gần gũi thân thuộc với mình và cũng đang cùng mình gánh chung một thân phận quê hương trong những điều kiện khác. Chúng tôi cũng cố gắng tìm hiểu những gì Hà Nội có và những gì Hà Nội chưa có. Biết được cái có để làm niềm tự hào cho mình, biết cái chưa có để hiểu thêm những khó khăn khi miền Bắc còn phải chia cơm xẻ áo cho miền Nam chiến đấu.
Có thể có người vội nghĩ rằng những tình cảm này không có gì lớn lao cả nhưng thường khi, qua kinh nghiệm mà đời sống mang đến, chính cái thứ tình cảm nho nhỏ mà bền bỉ ấy đã làm cơ sở cho phẩm hạnh con người đứng vững. Nói về tình cảm có thật trong lòng tuổi trẻ miền Nam dạo ấy đối với miền Bắc có lẽ khó mà nói đầy đủ được.
Từ ngày 30 tháng 4 miền Nam hoàn toàn giải phóng đến nay, nỗi nhớ về một nửa quê hương kia không còn nữa vì mọi nẻo về quê nội đã được khai thông. Con người miền Nam được trả về nguyên vẹn với hình hài tinh thần và tình cảm của mình. Nỗi nhớ riêng tư đã có dịp hoà lẫn trong cái chung hạnh phúc. Cái gián đoạn biến thành liên tục. Muốn về thăm quê nội chỉ cần lên đường là đến chốn.
Ai cũng háo hức như nhau, ai cũng dọn sẵn lòng mình để yêu thương cho thoả. Nhưng riêng tôi chưa kịp lên đường mà đã gặp đông đảo anh em về thăm hỏi quanh rồi. Như đã từng gắn bó, tri ngộ tự bao giờ. Trong những ngày đầu tiên ấy tôi đã không có đủ tay để cầm lấy những bàn tay, không có một trái tim to lớn hơn để chứa đủ những tình cảm. Những gì mình cần phải bày tỏ thì đã có hết ở bạn bè, anh em. Hóa ra những tình cảm bấy lâu được nuôi dưỡng trong tôi không có gì độc đáo cả. Từ lâu, rõ ràng chúng tôi ở hai miền Nam Bắc đã nghĩ về nhau, đã yêu mến nhau bằng một thứ tình cảm không có gì khác nhau. Miền Nam chính là quê ngoại và anh em của tôi đã nhanh chân trở về quê ngoại quá sớm. Bao nhiêu lời cũng không đủ để bày tỏ, bao nhiêu cái bắt tay cũng không đủ chuyền cho nhau hết tinh thần để bao nhiêu cái ôm chầm lấy nhau cũng không đủ để truyền đạt hết tình cảm của mình. Có một cái gì còn sâu đậm hơn, ý nghĩa hơn nằm lặng lẽ đằng sau những sự bày tỏ ấy. Phút chốc, trong thế giới riêng tư của tuổi trẻ miền Nam bỗng đầy đặn thêm những hình ảnh mới. Cánh cổng hơn hai mươi năm bị khép kín im lìm đã được phá tan để cho dòng tâm tưởng đứt đoạn của anh em hai miền được nối liền lại. Mỗi người ở nơi đây có dịp soi lại mình trong lòng anh em ở miền Bắc và thấy rõ hình bóng mình ở trong ấy. Cái tình yêu ra khơi ngày trước đã tìm đúng bến đậu. Không nghi ngờ gì nữa, chúng ta đã từng nhận ra nhau khi chưa gặp mặt và phút giây này, nhắc lại tình cảm anh em kia cũng chỉ để xác định thêm một lần nữa cho những ai còn có lúc hoang mang, hoài nghi về tấm lòng của mình.
Tôi là kẻ may mắn trong những người may mắn nhất bởi giờ đây tôi đã giàu có hơn xưa nhiều lắm. Tôi không có một quà tặng nào quí báu hơn tấm lòng của mình. Tôi thử gửi nó đi và tôi đã nhận lại được nhiều hơn những gì mình chờ đợi. Nếu mỗi người bạn chân tình, mỗi tình yêu đằm thắm là một quà tặng thì bên cạnh những quà tặng từng có ở miền Nam, tôi đã được quê hương vừa mở ra thêm cho tôi một kho tàng đầy những tặng phẩm quí giá như thế nữa. Trong thế giới riêng tư của tôi, cái không gian xưa đã bề thế hơn thêm. Đã có thêm nhiều khuôn mặt mới, những tâm sự mới, những phát biểu mới và những vốn sống đặc thù mà tôi và tuổi trẻ nơi đây chưa từng biết đến – kỷ niệm, giờ đây, không chỉ dừng lại ở miền Nam mà còn muốn nối dài ra tận miền Bắc.
Nếu có người bạn trẻ nào chưa sống được trong tình cảm thắm thiết này thì hãy vội lên đường thể nghiệm ngay đi. Bốn năm có thể đã đủ cho một số người này kiểm chứng lại cái vốn tình cảm anh em của mình nhưng biết đâu lại có không ít những người giờ đây vẫn còn loay hoay chưa tìm thấy hoặc chưa được sống trong những tình tự mới mẻ đó. Đất nước độc lập, thống nhất, không chỉ mở ra cho ta một thời điểm lịch sử mới, một hoàn cảnh xã hội mới, mà còn tạo cơ hội cho chúng ta tìm thấy ý nghĩa của những tình cảm mới nữa. Tôi đã tìm được cho tôi những tình bạn hiếm hoi lạ kỳ và tôi mong mọi người cũng được như thế. Có một cái gì đó khác lạ hơn những tình bạn mà ta vẫn gặp từ trước. Một thứ tình bạn nồng nàn, hiểu biết và đầy cảm thông. Tôi nghĩ rằng có thể chính vì cơn hoạn nạn quá dài lâu nên đã làm nảy sinh trên đất nước này một thứ tình tự mới. Hai mươi năm, cái thời gian xa cách ấy quả là một cơn ác mộng. Chính vì biết thế nên mỗi một chúng ta quyết không thể nào để một sự kiện tương tự như vậy tái diễn nữa.
Chúng tôi đã từng nhớ nhung, đã từng vọng tưởng đến miền Bắc trong thời kỳ chống Mỹ. Giờ đây, chính chúng ta đang trực tiếp lo âu nỗi âu lo của cha mẹ, anh chị em chúng ta ở miền Bắc trước cuộc xâm lược của bọn bành trướng Trung Quốc. Máu xương đổ ở biên giới phía Bắc của những người thân thuộc phải được khắc ghi trong tim của mỗi người miền Nam và nhất là của tuổi trẻ miền Nam. Chúng ta đã từng bị chia lìa gia đình, cha mẹ, anh em và chúng ta đã hiểu hơn ai hết cái giá đau thương của những con người có một xứ sở không nguyên vẹn. Đối với quân xâm lược, chỉ còn lòng căm thù và sự đoàn kết ruột thịt để diệt kẻ thù đó.
Tháng 4 - 1979
#102
Gửi vào 05/05/2020 - 20:09
Nguồn: Fb Thanh Nguyen
30 THÁNG TƯ NĂM 1975 NGÀY DÀI NHẤT TRONG CUỘC ĐỜI Y SĨ CỦA TÔI - TTTTYKGĐ BỊ CỘNG SẢN CHIẾM VÀ ĐỔI TÊN
(trích từ Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y Hiện Dịch)
(BS Nguyễn Duy Cung
Nguyên Tổng Quản Đốc Trung-Tâm Thực Tập Y Khoa Nguyễn Văn Học)
Hôm nay là ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi đang ở trong Trung Tâm Thực tập Y Khoa Gia Định - Bệnh viện Nguyễn Văn Học. Mấy ngày nay bốn phòng mổ lớn của Trung tâm đã hoạt động tối đa, liên tục, vượt quá mức bình thường, nhờ có sự tăng cường đắc lực của toán chuyên viên không biên giới Pháp của Bác sĩ Bernard Kouchner. Ngoài ra còn có Bác sĩ Thiếu tướng Mazaud bên Grall sang nhận bớt thường dân bị thương đem về bệnh viện của ông để điều trị. Về đêm đèn trong các phòng mổ sáng trưng.
Tôi cũng phải thức khuya để thay phiên làm việc với các bạn đồng nghiệp. Vừa giải phẫu xong một trường hợp bệnh nặng ở phổi, do mảnh pháo kích, tôi định về nhà nghỉ ngơi - nhà tôi nằm trong khuôn viên Bệnh viện Nguyễn Văn Học. Có nhiều tiếng động bất thường ngoài cổng nhà thương làm tôi chú ý. Đứng từ ngoài hành lang nhà tôi nhìn xuống góc đường Chi Lăng - Nơ Trang Long. Đèn đường nơi đây chớp xanh, đỏ liên tục. Không thấy lính gác đường. Luật lệ giao thông không còn được tôn trọng, xe cộ mạnh ai nấy chạy loạn, tiếng còi xe inh ỏi; người đi xe đạp thì phóng thật nhanh, khách bộ hành thì không nhìn trước nhìn sau, băng ngang đường hối hả. Họ vừa đi vừa chạy:
“c.... s.. đã về tới cầu Tân Cảng ngoài xa lộ!”.
Đoàn xe thiết giáp c.... s.. trên phi trường TSN cũng đang trên đường đi xuống. Một cảnh tượng thật hổn loạn chưa từng thấy!
Nhiều chiếc xe cyclo máy chở đầy bao gạo mới nguyên, chạy lên chạy xuống, chui vô trong các ngõ ngách hẻm Hàng Keo... Trên đường Nơ Trang Long, một chiếc xe nhà binh GMC 8 bánh mất bình tỉnh, lạc tay lái, đâm vô phòng cấp cứu của Bệnh viện, trong khi Y tá và Sinh viên đang chăm sóc bệnh nhân. Cũng may không có ai bị thương. Ngoài phố dường như có điều gì xáo trộn. Nghe nhiều tiếng súng nổ, dân chúng đi đường vội trốn vô nhà thương, tìm bất cứ chỗ nào kín đáo, dưới hầm dưới hố để trú ẩn.
Tại nhà giữ xe của Bệnh viện, trên đường Chi Lăng có một nhóm người lạ mặt nổ súng bắn bể ổ khóa cổng nhà thương, xông vào bên trong Trung tâm, cướp xe đạp, xe gắn máy phóng nhanh. Xe nào tốt mà có khóa thì chúng khiêng lên vai chạy. Nghe tiếng la hét của bà Y công X, phụ trách nhà giữ xe, tôi chạy đến can thiệp thì có một tên cầm súng chận tôi lại; bà Y công thì không nao núng, vẫn nhanh nhẹn rượt theo bọn cướp giành giựt lại xe, vừa la mắng, chửi bới um sùm… ( Sau 32 năm trên xứ Mỹ, tôi có dịp gặp lại một cựu sinh viên Nội trú khoa của Trung tâm, anh Phan Thế Mỹ, nay đã là bác sĩ sắp về hưu, tóc bạc hai màu: “Em cũng bị mất chiếc xe đạp vào buổi sáng hôm ấy, chỉ còn giữ được một phần ổ khóa hàng rào nhà thương đã bị cướp bắn bể để làm kỷ niệm” … Anh cười buồn. )
Trên phi trường Tân Sơn Nhứt, trong căn cứ Davis nơi đồn trú của phái đoàn c.... s.., theo hiệp định Ba Lê, Bắc Việt đã cố tình cầm chân những nhà ngoại giao của Việt Nam Cộng Hoà trong đêm.
Sáng hôm sau, lại đưa thêm cho sứ giả Lý Quí Chung của Tướng Dương văn Minh, điều kiện đòi giải tán toàn thể Cảnh sát, Công an, giải tán cả chính phủ VNCH do Quân đội cầm quyền. Bắc Việt bấy giờ thừa thắng xông lên, đã nuốt trọn lời hứa trước kia, không còn đặt vấn đề điều đình, thương thuyết nữa, mà chỉ muốn có tất cả, muốn dùng vũ lực để chiếm lấy Sài Gòn. c.... s.. đã huy động 16 sư đoàn quân tinh nhuệ với chiến xa T54 của Liên Xô, súng phòng không S57, hỏa tiển, trọng pháo 122 ly, 130 ly trong khi lực lượng phòng thủ Việt Nam Cộng Hoà chỉ vỏn vẹn có 60.000 binh sĩ, không còn quân trừ bị, số thương binh thì đang nằm la liệt trong sân bệnh viện… Vũ khí đạn dược, máy bay, tàu chiến, binh chủng bạn, đồng minh yểm trợ... Tất cả đâu hết rồi?! Còn cảnh nào đau đớn hơn đây!
Đại sứ Pháp, Jean Marie Merillon không muốn thấy Sài Gòn trong cảnh Dante Inferno, mà muốn hành xử như nhà ngoại giao Thụy Điển Raoul Nortling trước kia đã thuyết phục được các tướng lãnh Đức Quốc xã chống lại lệnh của lãnh tụ Hitler, muốn cho san bằng thành phố Paris trước khi giải phóng. Nhưng tiếc thay ông chỉ là khách trong căn nhà hỗn loạn này. Ông không thể giúp được gì cho miền Nam đang thất thủ.
Đồng hồ treo trên tường phòng mổ số 4 cuối cùng cũng chỉ đúng 9 giờ sáng. Bỗng nhiên nghe đài Phát thanh Quốc gia vang lên, yêu cầu đồng bào giữ máy để nghe thông điệp quan trọng của Tướng Dương văn Minh, vừa nhậm chức Tổng thống chưa đầy 48 tiếng đồng hồ. Mọi người trong phòng mổ ngừng hoạt động, lẳng lặng chờ nghe, trong lòng âu lo hồi hộp …
Đúng 10 giờ 20 phút, thì rõ ràng tiếng nói của tân Tổng Thống Dương văn Minh:
“Tôi tin tưởng mãnh liệt vào sự Hòa giải giữa người Việt với nhau... Để tránh đổ máu không cần thiết, tôi yêu cầu binh sĩ VNCH hãy chấm dứt hận thù. Hãy bình tỉnh ở nguyên vị trí của mình. Đừng nổ súng để bảo toàn sanh mạng của đồng bào. Tôi cũng kêu gọi anh em binh sĩ của Chính quyền Cách mạng Lâm thời đừng nổ súng. Chúng tôi đang ở đây chờ quí vị đại diện để bàn giao việc trao quyền lãnh đạo cho Chính phủ Dân sự và Quân đội mà không gây ra một cuộc tắm máu vô nghĩa cho dân chúng”.
Thông điệp vừa chấm dứt, đã có vài nữ nhân viên trong phòng mổ òa khóc:
“Thế là hết! Ông Dương văn Minh đã đầu hàng c.... s..”.
Riêng tôi cảm thấy trong cuống họng mình như có một vật gì đang chận nghẹt làm tôi khó thở. Tôi cố giữ bình tĩnh để không bật thành tiếng khóc.
Mới đây chỉ có hơn một ngày - vừa nhậm chức Tổng thống lúc sáu giờ chiều ngày 28 tháng 4 - ông đã kêu gọi Quân nhân các cấp hãy can đảm giữ vững vị trí của mình, và dốc toàn lực chiến đấu cho tới giờ phút cuối cùng, để giữ gìn mảnh đất thân yêu còn lại! Thế mà bây giờ, ông lại là người bỏ súng trước tiên, đầu hàng quân địch vô điều kiện, chờ đợi kẻ thù đến để bàn giao quyền hành… Cổng dinh Độc Lập bị xe tăng T54 của Liên Xô ủi sập và cờ của Mặt trận Giải phóng đã ngạo nghễ bay cao trên bao lơn.
Trong lòng tôi một niềm đau đớn dâng lên. Tôi nghẹn ngào tự hỏi:
“Không biết số phận đất nước sẽ ra sao trong những ngày tháng tới?”.
Tôi đang cố gắng giữ bình tỉnh để cùng nhân viên tiếp tục hoàn thành cuộc giải phẫu, thì bỗng nhiên anh Y tá trưởng phòng mổ Huỳnh văn Tỵ đứng đối diện tôi, nói nhỏ: “Bác sĩ nhìn ra ngoài xem”.
Tôi quay lại thì thấy hai người đàn ông vũ trang, ăn vận thường phục đang bước vô phòng mổ. Tôi nhờ anh Tỵ ra chận lại và lịch sự yêu cầu họ đứng ngoài hành lang và đợi tôi xong công việc. Phòng mổ đang sạch. Không nên đem vi trùng ngoài đường vô làm nhiễm vết thương bệnh nhân. Người lạ có súng đưa mắt nhìn láo liên chung quanh, xong trở ra đứng bên ngoài trong dáng điệu hùng hổ đề phòng, kiểm soát. Vừa mổ xong, quần áo còn dính đầy máu, tôi ra đi giữa hai hàng quân du kích trang bị lựu đạn, AK47, B40, B41 từ cuối phòng mổ số 4 ngang qua ba phòng mổ khác số 3, số 2, số 1.
Các phòng mổ trên vẫn còn bận rộn, với toán giải phẫu của BS Nguyễn Anh Tài - BS Đặng thị Mai Liễu, toán giải phẫu của các BS không biên giới Bernard Kouchner, toán giải phẫu của BS Lê Thanh Vĩnh và Sinh viên Nội trú Đổ Trọng Thoả, riêng BS Thiếu tướng Mazaud thì đã rời nhà thương trở về BV Grall …
Ra khỏi phòng mổ, họ đưa tôi về phòng Tổng Quản Đốc.
Thấy lá cờ lớn màu vàng ba sọc đỏ còn dựng trong góc phòng trước bàn làm việc của tôi, một tên cán bộ tỏ vẻ khó chịu ra mặt:
“Đến giờ phút này mà anh còn giữ lá cờ ở đây sao?”
Vừa nói anh ta vừa bước tới rút lá cờ cuốn lại ném vô góc nhà.
Kế tiếp tôi bị kè súng P38 sau lưng, dẫn lên lầu. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Hội trường rộng lớn, có nhiều bậc tam cấp, với những dãy bàn dài, bình thường chứa được trên 400 sinh viên, giờ đây đã đầy người. Nhân viên bệnh viện đang ngồi sát nhau, im lặng. Đối diện họ là một bục gỗ cao, phía sau vách có tấm bảng màu xanh lá cây dài để thuyết trình, dạy học. Một tên du kích đứng gần đó, trao micro cho tôi.
Nhìn thoáng qua, thấy nét mặt mọi người tỏ vẻ lo âu sợ sệt, nhất là những nữ nhân viên đã trốn chạy c.... s.., từ Bắc di cư vào Nam năm 54, sau Hiệp định Genève chia đôi đất nước. Tôi đã phát biểu dưới sự quan sát của những người c.... s.. vũ trang đứng sau lưng tôi và ở cửa ra vào:
“Đối với nhân viên có mặt ngày hôm nay ở trong hội trường, trước đây, nghe tin c.... s.. sắp chiếm Sài Gòn, đã tìm cách bỏ nước ra đi. Nhưng trước hơn 550 thường dân bị thương do pháo kích, đa số là phụ nữ và trẻ em, tôi đã yêu cầu họ vì lòng nhân đạo, ở lại để giúp tôi săn sóc người bệnh. Tôi có hứa với họ là một khi c.... s.. vô tới đây, tôi xin một mình hoàn toàn lãnh trách nhiệm. Hôm nay đứng trước mặt nhân viên, tôi long trọng lập lại lời hứa này. Nếu quý vị xem những người còn lại là có tội, thì tôi xin một mình nhận lãnh bất cứ hình phạt nào. Nếu cần đem một người nào ra xử bắn thì tôi xin đại diện để nhận lãnh hình phạt đó”.
Không thấy người nào trong nhóm Du kích trả lời. Chị Bác sĩ trưởng toán QY của Trung đoàn E Đất Thép cho nhân viên giải tán (sang Mỹ đầu năm 2000, tôi gặp lại bà Phan Thị Lựu, cư ngụ tại quận Cam, người Bắc 54, cựu Y tá trưởng khu Tai mũi họng của GS Trương Minh Ký hiện sống bên Pháp - có mặt trong buổi họp này. Bà đã đến thăm tôi, và nhắc lại kỷ niệm ngày hôm đó. Bà đã viết cho tôi một bức thơ dài thật cảm động, mô tả lại giờ phút nghiêm trọng trong Hội trường. Mọi người đã xúc động khi nghe tôi phát biểu một mình nhận lãnh tội thay thế cho họ).
SỰ TRANH CHẤP QUYỀN LỰC CỦA CỘNG SẢN VÀ BỆNH VIỆN NGUYỄN VĂN HỌC BỊ ĐỔI TÊN
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau thông điệp đầu hàng của tướng Dương văn Minh, Trung đoàn E Đất Thép của MTGPMN ở Củ Chi, trang bị theo lối Du kích, có một bộ phận Y tế do một nữ Bác sĩ trẻ cầm đầu gồm khoảng mười người đến chiếm TTTTYKGĐ-BV Nguyễn Văn Học và đổi tên thành Bệnh viện Nhân Dân.
Tôi đã cho lấy một căn phòng rộng rải trên lầu 2 sát bên thư viện cho họ. Trong ngày đó, các bệnh viện trong Đô Thành được sắp xếp lại thành năm hạng, tuỳ theo mức độ lương hướng của bệnh nhân.
Hạng nhất là Bệnh viện Thống Nhất (tức Vì Dân cũ) dành cho cán bộ cao cấp có số lương từ 105 đồng trở lên, Bệnh viện hạng chót là bệnh viện Nhân Dân (tức là TTTTYKGĐ/BV Nguyễn Văn Học!) dành cho cán bộ có số lương thấp nhất từ 60 đồng trở xuống. Các bệnh viện ở giữa gồm có Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đồn Đất tức Bệnh viện Grall, Bệnh viện Bình Dân.
Qua ngày sau, có một toán Bắc Việt ba người đến Bệnh viện với đồng phục màu xanh lá cây, dép râu, mũ tay bèo. Tưởng cũng là đồng chí với nhau, tôi sắp xếp cho họ một phòng nhỏ ở trong một góc nhà gần đó. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là không thấy họ nói chuyện thân mật với nhau. Mỗi nhóm lại muốn chiếm giữ riêng cho mình một trại bệnh.
Cho đến một buổi sáng, toán của MTGPMN (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) xếp hàng một, như trong một cuộc hành quân, trang bị lựu đạn, AK47, B40, B41, cùng đi với toán Bắc Việt lục soát khắp cả nhà thương, bắt đầu từ tầng lầu cao nhất, xong trở xuống văn phòng Tổng Quản Đốc, ngồi hai bên bàn họp, đâu mặt với nhau, nét mặt trông đằng đằng, không thuận thảo. Họ kêu tôi ngồi ghế giữa đầu bàn.
Với nét mặt trang nghiêm, toán MTGPMN ngồi bên trái mở lời trước:
“Bên kia có ăn cắp gì của nhà thương không?”.
Và ngược lại toán Bắc Việt cũng hỏi tôi một câu tương tự. Không khí trong phòng họp căng thẳng gay go. Cuối cùng ông Tham mưu trưởng Trung đoàn E Đất Thép Củ Chi ra lịnh cho toán Bắc Việt phải làm việc dưới quyền của Trung đoàn. Toán Bắc Việt có vẻ yếu thế nên ngồi im, không phản ứng. Buổi họp xong, hai bên cùng ký tên vô biên bản, xong đưa cho tôi ký khán.
Đêm đó 12 giờ khuya, toán Bắc Việt rút êm khỏi nhà thương, không biết đi đâu. Về kể chuyện lại cho Ba tôi nghe, Ba tôi cười nói:
“Ba đã làm Hành Chánh trên 25 năm. Chưa bao giờ Ba thấy kẻ thua trận mà lại ký giấy khán cho kẻ thắng trận”!.
Cuối cùng là toán Tập kết của Bác sĩ Lê văn Tốt ngoài Bắc về. Toán này hành động như kẻ cả, mặc nhiên chiếm cứ chỗ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và ra lệnh cho toán của MTGPMN ra phía sau, ở trong căn phòng chật hẹp gần nhà bếp.
Một hôm Bác sĩ La văn Lân tự Tư Lân của nhóm Tập kết ra phía sau. Vừa đút đầu nhìn vô trong căn phòng của toán MTGPMN thì bị hai người cận vệ lực lưỡng của MTGPMN đứng bên ngoài đẩy anh vô luôn bên trong và kéo ngang cửa sắt.
Anh bị trói ké lại và bỏ lên xe Jeep chở ra bót Hàng xanh gần đó, với lý do “Có một tên lạ mặt xâm nhập vào cơ quan quân sự bất hợp pháp!”
Nhìn thấy hai bên đối xử như trâu trắng trâu đen gầm ghè đe dọa khiến tôi ngạc nhiên tự hỏi giữa họ đã từng quen biết nhau, hay chí ít cũng đứng chung một chiến tuyến, chớ có ai đâu xa lạ mà lại cư xử với nhau tệ bạc như vậy! Phải chăng đã có chuyện gì trục trặc, bất hòa dữ dội giữa ba lực lượng : Bắc Việt, Tập Kết và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam? Có lẽ đã đến lúc “gà nhà bôi mặt đá nhau” quyết hơn thua để giành lấy quyền lực thống trị mãnh đất miền Nam béo bở này?! Than ôi, thêm một kiểu loạn sứ quân trên quê hương tội nghiệp của tôi!
Buổi trưa hôm đó ban lãnh đạo c.... s.. muốn tôi cùng đi với họ để tìm những cán binh của Trung đoàn E Đất Thép bị thương trên miệt Gò Vấp. Tôi lái xe nhà thương đưa Bác sĩ Nguyễn thị Hiền đi, theo sự chỉ dẫn của bác sĩ. Qua khỏi cổng xe lửa, gần tới Cục Quân Y, thì nghe một tiếng nổ lớn bên trong khoảng đất trống có rào dây kẽm gai đối diện Trung tâm tiếp huyết. Nghe có tiếng người rên siết. Như một phản ứng tự nhiên tôi ngưng xe, định nhảy xuống chạy đến tiếp cứu thì chị bác sĩ Hiền nắm tay tôi giữ lại. Người bị thương được đưa ra ngoài đường và đặt lên xe cứu thương do tôi lái. Một thương binh CS khác được khiêng lên xe chạy sau tôi có một sinh viên nội trú trông chừng. Thuộc đường, tôi chạy thẳng vô Tổng Y Viện Cộng Hòa gần đó.
Cổng chánh của nhà thương mở to nhưng trống vắng, không có lính canh gác như thường lệ trước kia. Không gặp ai là người quen cũ, tôi lái xe đến khu Ngoại thương, người thương binh được khiêng xuống đất trước phòng mổ còn đóng cửa.
Nhân dịp này tôi đi nhanh ra phía sau trại bệnh để xem có ai quen không, (tôi vốn quen thuộc nơi này vì đã từng về đây làm việc ba lần - trước và sau khi đi du học Hoa Kỳ và trước khi đi thành lập Quân Y viện Đoàn Mạnh Hoạch ở Phan Thiết.)Trong trại còn vài thương binh nặng không tự mình đi đứng được vẫn còn nằm trên giường co ro bất động không người chăm sóc, giúp đỡ… đứng nhìn xa xa tôi không biết họ còn sống hay đã chết, mặc dù có lệnh của Chính quyền c.... s.. buộc thương binh phải tự động xuất viện. Đa số đã lết ra đường nhờ những xe xích lô đạp chở đi nơi khác. Trong tình huynh đệ chi binh hiếm thấy, một số lớn phu xe thuộc thành phần cựu quân nhân giải ngũ, đã thông cảm hoàn cảnh, tận tình giúp đỡ, đưa họ, hoặc đến nhà người thân trong thành phố, hoặc ra bến xe đò Lục tỉnh về nguyên quán mà không tính tiền.
Hoàn cảnh thương binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà vào giờ cuối cùng thật thảm thương! Là một cựu sĩ quan Quân y, đã từng lặn lội theo các tiểu đoàn tác chiến thuộc Trung đoàn 40/SĐ 22BB, hành quân trong rừng sâu biên giới, trước làn tên mũi đạn của quân thù để chăm sóc thương binh trên vùng biên cương Dakto - Tân Cảnh - Dakrotah, bây giờ đứng trước những người cùng chiến tuyến đang lâm nạn, là kẻ thua trận, tôi cảm thấy não lòng, chỉ biết im lặng đứng nhìn trong tủi hận, nhục nhã, chứ không làm được gì để giúp đỡ họ, khi chính tôi cũng bị CS kè kè sau lưng …
Đau đớn thay trong hoàn cảnh tang thương của đất nước hôm nay. Tôi uất nghẹn đến rơi nước mắt khi nhìn đồng đội mình lê lết thân tàn rời khỏi bệnh viện trong lúc vết thương còn ứa máu…. Rồi đây số phận của họ sẽ ra sao?!
Chiều tối, phòng mổ thiếu hụt nước biển và thuốc men như thuốc chống kích xúc, trụ sinh v. v… Tôi đề nghị với cán bộ c.... s.. cho xe vô Căn cứ 70 kho Y Dược trung ương trong Chợ Lớn để lãnh thuốc. Tài xế trực trong nhà thương không biết chỗ. Tôi cũng không nhớ rõ địa chỉ, nhưng biết hướng đi vì trước kia, đã có mấy lần đến đấy để tham dự vài buổi họp với ông Tổng trưởng Y tế với tư cách là Tổng Quản Đốc TTTTYKGĐ. Toán Y tế của VC cử một nhân viên vũ trang theo tôi để canh chừng.
Đường phố vắng tanh. Tôi lái xe cứu thương Land Rover chạy theo đường Chi Lăng, ngang cổng Bộ Tổng tham mưu, thấy hai chiến xa T54 của CS còn đang ngụt cháy. Có thể nơi đây đã xảy ra một cuộc chạm trán dữ dội giữa Quân lực phòng thủ Việt Nam Cộng Hoà và Quân đội chính quy CS trên đường di chuyển từ phi trường Tân Sơn Nhứt về Gia Định. Còn những con đường khác quanh lăng Cha Cả về đêm hoàn toàn yên tịnh. Đến cổng kho Y Dược, tôi gặp ngay Dược sĩ Giám đốc Dương Quang Nhan. Tôi trình bày tình trạng khó khăn của phòng mổ nhà thương … Dược sĩ niềm nở, hướng dẫn xe chạy thẳng vô nhà kho, soạn đầy đủ dụng cụ và thuốc men cần thiết. Sau khi kiểm nhận, tôi ký tên vào sổ sách của kho DS . Hai người chia tay mà tôi có cảm tưởng như không bao giờ gặp lại nhau nữa…Tình thế đã như thế này, đâu ai biết được ngày mai mình ra sao? Có lẽ tôi là người cuối cùng đến nhận thuốc tại kho Y dược trung ương này giữa đêm khuya, khi cuộc chiến vừa chấm dứt. (Sau này khi qua Mỹ, tôi hân hạnh gặp lại DS Nhan trong một buổi tiệc tại nhà hàng Paracels của nhóm thân hữu Hải quân tại quận Cam, trên đường Brookhurst, thành phố Westminster, Fountain valley. DS xác nhận tôi là người đến nhận Quân dược cuối cùng của VNCH!).
Trở về nhà thương thì đã gần một giờ sáng. Bên ngoài màn sương mờ đục. Saigon bây giờ đã đổi chủ. Không còn nghe tiếng bom ầm ĩ, không có những tiếng đại bác từ xa vọng lại. Nhưng chính sự yên lặng đó mới đáng sợ, bóng tối của một thế lực đầy rẩy sự đe dọa đang bao trùm cả thành phố, không khí u ám như bãi tha ma trên tất cả những con đường, trong ánh đèn đêm thỉnh thoảng vài bóng người lầm lũi đi, dáng vẽ lấm lét sợ hãi, những con chuột cống cũng thập thò quanh mấy căn nhà đổ nát…
Trong khi nhân viên trực ra xe lấy thuốc, tôi đi một vòng bệnh viện, đến phòng mổ nhìn qua cửa kính xem các hoạt động bên trong. Các bác sĩ và nhân viên vẫn hăng say làm việc. Tôi dừng lại tại phòng Hồi sức phụ giúp cô Điều dưỡng vừa nhận bệnh bên phòng mổ chuyển sang, trao đổi ý kiến chuyên môn cùng vài đồng nghiệp, xong tôi chậm rải đi theo hành lang nhà thương trở về nhà, định nghỉ ngơi vài phút sau một ngày căng thẳng, tâm hồn, thể xác mệt mỏi, rã rời, tuyệt vọng. Nhưng chưa kịp ngã lưng xuống giường thì lại có điện thoại khẩn cấp của văn phòng Hành chính, yêu cầu tôi trở ra tiền sảnh của nhà thương.
Vừa đến nơi đã thấy ông Tham mưu trưởng của Trung đoàn E Đất Thép đứng sẵn với khẩu súng ngắn chỉ huy treo lòng thòng bên hông. Vừa thấy tôi ông đã hất hàm hỏi ngay, vừa lấy tay chỉ lên tầng nhà cao nhất của nhà thương:
“Đến giờ phút này mà anh còn chứa chấp, che giấu những tên lính Nhảy Dù trên trần nhà thương?”
Và không đợi tôi trả lời, ông ra lệnh cho tôi phải leo lên kêu họ xuống. Ông quản lý Châu của nhà thương rành địa thế, dẫn chúng tôi đến chân một cầu thang bằng sắt cao dính liền vô vách tường. Mượn cây đèn bấm dài, tôi leo lên trước. Đến trần nhà thương, tôi rọi khắp nơi, không thấy có một bóng người nào. Ông Tham mưu trưởng c.... s.., với bản chất đa nghi, đích thân rọi đi rọi lại nhiều lần trước khi leo xuống. Sau đó ông ta bỏ đi, không nói câu nào.
Thật tình trước đây vài ngày, có hai tiểu đoàn Nhảy Dù đã vào nhà thương, đào hầm cá nhân, thiết lập những công sự phòng thủ, ngay cả trên lầu 3. Họ quyết định tử thủ. Đến khi nghe thông điệp của tướng Dương văn Minh, họ mới chịu vứt bỏ toàn bộ súng ống đạn dược, lấy áo choàng xanh của phòng sản khoa, phòng mổ bận vô để rời nhà thương. Họ nghĩ rằng mình thua không phải là vì Quân sự, mà vì Chánh trị, do sự thoả hiệp của các lãnh đạo cao cấp chỉ huy hai bên.
Nếu tiếp tục chiến đấu thì chỉ gây thiệt hại cho thường dân vô tội mà thôi. Trong toán Quân y của tiểu đoàn Dù có bác sĩ Nghĩa mang cấp bậc Đại úy. Anh đã tình nguyện thức suốt đêm làm việc trong phòng mổ của Trung tâm thực tập Y Khoa Gia Định (Bệnh viện Nguyễn Văn Học), để phụ giúp săn sóc thường dân bị thương. Trước khi từ giã nhà thương, anh được hai người bạn thân nội trú Phan Thế Mỹ và Nguyễn thị Quỳnh Mai chia xẻ một gói mì khô và một ly sữa nóng. Trong những ngày u ám này, các anh chị Nội trú có mấy thùng mì và sữa do đồng bào ngoài chợ mang vô tiếp tế để chia nhau cầm cự trong khi làm việc chăm sóc bệnh nhân.
30 THÁNG TƯ NĂM 1975 NGÀY DÀI NHẤT TRONG CUỘC ĐỜI Y SĨ CỦA TÔI - TTTTYKGĐ BỊ CỘNG SẢN CHIẾM VÀ ĐỔI TÊN
(trích từ Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y Hiện Dịch)
(BS Nguyễn Duy Cung
Nguyên Tổng Quản Đốc Trung-Tâm Thực Tập Y Khoa Nguyễn Văn Học)
Hôm nay là ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi đang ở trong Trung Tâm Thực tập Y Khoa Gia Định - Bệnh viện Nguyễn Văn Học. Mấy ngày nay bốn phòng mổ lớn của Trung tâm đã hoạt động tối đa, liên tục, vượt quá mức bình thường, nhờ có sự tăng cường đắc lực của toán chuyên viên không biên giới Pháp của Bác sĩ Bernard Kouchner. Ngoài ra còn có Bác sĩ Thiếu tướng Mazaud bên Grall sang nhận bớt thường dân bị thương đem về bệnh viện của ông để điều trị. Về đêm đèn trong các phòng mổ sáng trưng.
Tôi cũng phải thức khuya để thay phiên làm việc với các bạn đồng nghiệp. Vừa giải phẫu xong một trường hợp bệnh nặng ở phổi, do mảnh pháo kích, tôi định về nhà nghỉ ngơi - nhà tôi nằm trong khuôn viên Bệnh viện Nguyễn Văn Học. Có nhiều tiếng động bất thường ngoài cổng nhà thương làm tôi chú ý. Đứng từ ngoài hành lang nhà tôi nhìn xuống góc đường Chi Lăng - Nơ Trang Long. Đèn đường nơi đây chớp xanh, đỏ liên tục. Không thấy lính gác đường. Luật lệ giao thông không còn được tôn trọng, xe cộ mạnh ai nấy chạy loạn, tiếng còi xe inh ỏi; người đi xe đạp thì phóng thật nhanh, khách bộ hành thì không nhìn trước nhìn sau, băng ngang đường hối hả. Họ vừa đi vừa chạy:
“c.... s.. đã về tới cầu Tân Cảng ngoài xa lộ!”.
Đoàn xe thiết giáp c.... s.. trên phi trường TSN cũng đang trên đường đi xuống. Một cảnh tượng thật hổn loạn chưa từng thấy!
Nhiều chiếc xe cyclo máy chở đầy bao gạo mới nguyên, chạy lên chạy xuống, chui vô trong các ngõ ngách hẻm Hàng Keo... Trên đường Nơ Trang Long, một chiếc xe nhà binh GMC 8 bánh mất bình tỉnh, lạc tay lái, đâm vô phòng cấp cứu của Bệnh viện, trong khi Y tá và Sinh viên đang chăm sóc bệnh nhân. Cũng may không có ai bị thương. Ngoài phố dường như có điều gì xáo trộn. Nghe nhiều tiếng súng nổ, dân chúng đi đường vội trốn vô nhà thương, tìm bất cứ chỗ nào kín đáo, dưới hầm dưới hố để trú ẩn.
Tại nhà giữ xe của Bệnh viện, trên đường Chi Lăng có một nhóm người lạ mặt nổ súng bắn bể ổ khóa cổng nhà thương, xông vào bên trong Trung tâm, cướp xe đạp, xe gắn máy phóng nhanh. Xe nào tốt mà có khóa thì chúng khiêng lên vai chạy. Nghe tiếng la hét của bà Y công X, phụ trách nhà giữ xe, tôi chạy đến can thiệp thì có một tên cầm súng chận tôi lại; bà Y công thì không nao núng, vẫn nhanh nhẹn rượt theo bọn cướp giành giựt lại xe, vừa la mắng, chửi bới um sùm… ( Sau 32 năm trên xứ Mỹ, tôi có dịp gặp lại một cựu sinh viên Nội trú khoa của Trung tâm, anh Phan Thế Mỹ, nay đã là bác sĩ sắp về hưu, tóc bạc hai màu: “Em cũng bị mất chiếc xe đạp vào buổi sáng hôm ấy, chỉ còn giữ được một phần ổ khóa hàng rào nhà thương đã bị cướp bắn bể để làm kỷ niệm” … Anh cười buồn. )
Trên phi trường Tân Sơn Nhứt, trong căn cứ Davis nơi đồn trú của phái đoàn c.... s.., theo hiệp định Ba Lê, Bắc Việt đã cố tình cầm chân những nhà ngoại giao của Việt Nam Cộng Hoà trong đêm.
Sáng hôm sau, lại đưa thêm cho sứ giả Lý Quí Chung của Tướng Dương văn Minh, điều kiện đòi giải tán toàn thể Cảnh sát, Công an, giải tán cả chính phủ VNCH do Quân đội cầm quyền. Bắc Việt bấy giờ thừa thắng xông lên, đã nuốt trọn lời hứa trước kia, không còn đặt vấn đề điều đình, thương thuyết nữa, mà chỉ muốn có tất cả, muốn dùng vũ lực để chiếm lấy Sài Gòn. c.... s.. đã huy động 16 sư đoàn quân tinh nhuệ với chiến xa T54 của Liên Xô, súng phòng không S57, hỏa tiển, trọng pháo 122 ly, 130 ly trong khi lực lượng phòng thủ Việt Nam Cộng Hoà chỉ vỏn vẹn có 60.000 binh sĩ, không còn quân trừ bị, số thương binh thì đang nằm la liệt trong sân bệnh viện… Vũ khí đạn dược, máy bay, tàu chiến, binh chủng bạn, đồng minh yểm trợ... Tất cả đâu hết rồi?! Còn cảnh nào đau đớn hơn đây!
Đại sứ Pháp, Jean Marie Merillon không muốn thấy Sài Gòn trong cảnh Dante Inferno, mà muốn hành xử như nhà ngoại giao Thụy Điển Raoul Nortling trước kia đã thuyết phục được các tướng lãnh Đức Quốc xã chống lại lệnh của lãnh tụ Hitler, muốn cho san bằng thành phố Paris trước khi giải phóng. Nhưng tiếc thay ông chỉ là khách trong căn nhà hỗn loạn này. Ông không thể giúp được gì cho miền Nam đang thất thủ.
Đồng hồ treo trên tường phòng mổ số 4 cuối cùng cũng chỉ đúng 9 giờ sáng. Bỗng nhiên nghe đài Phát thanh Quốc gia vang lên, yêu cầu đồng bào giữ máy để nghe thông điệp quan trọng của Tướng Dương văn Minh, vừa nhậm chức Tổng thống chưa đầy 48 tiếng đồng hồ. Mọi người trong phòng mổ ngừng hoạt động, lẳng lặng chờ nghe, trong lòng âu lo hồi hộp …
Đúng 10 giờ 20 phút, thì rõ ràng tiếng nói của tân Tổng Thống Dương văn Minh:
“Tôi tin tưởng mãnh liệt vào sự Hòa giải giữa người Việt với nhau... Để tránh đổ máu không cần thiết, tôi yêu cầu binh sĩ VNCH hãy chấm dứt hận thù. Hãy bình tỉnh ở nguyên vị trí của mình. Đừng nổ súng để bảo toàn sanh mạng của đồng bào. Tôi cũng kêu gọi anh em binh sĩ của Chính quyền Cách mạng Lâm thời đừng nổ súng. Chúng tôi đang ở đây chờ quí vị đại diện để bàn giao việc trao quyền lãnh đạo cho Chính phủ Dân sự và Quân đội mà không gây ra một cuộc tắm máu vô nghĩa cho dân chúng”.
Thông điệp vừa chấm dứt, đã có vài nữ nhân viên trong phòng mổ òa khóc:
“Thế là hết! Ông Dương văn Minh đã đầu hàng c.... s..”.
Riêng tôi cảm thấy trong cuống họng mình như có một vật gì đang chận nghẹt làm tôi khó thở. Tôi cố giữ bình tĩnh để không bật thành tiếng khóc.
Mới đây chỉ có hơn một ngày - vừa nhậm chức Tổng thống lúc sáu giờ chiều ngày 28 tháng 4 - ông đã kêu gọi Quân nhân các cấp hãy can đảm giữ vững vị trí của mình, và dốc toàn lực chiến đấu cho tới giờ phút cuối cùng, để giữ gìn mảnh đất thân yêu còn lại! Thế mà bây giờ, ông lại là người bỏ súng trước tiên, đầu hàng quân địch vô điều kiện, chờ đợi kẻ thù đến để bàn giao quyền hành… Cổng dinh Độc Lập bị xe tăng T54 của Liên Xô ủi sập và cờ của Mặt trận Giải phóng đã ngạo nghễ bay cao trên bao lơn.
Trong lòng tôi một niềm đau đớn dâng lên. Tôi nghẹn ngào tự hỏi:
“Không biết số phận đất nước sẽ ra sao trong những ngày tháng tới?”.
Tôi đang cố gắng giữ bình tỉnh để cùng nhân viên tiếp tục hoàn thành cuộc giải phẫu, thì bỗng nhiên anh Y tá trưởng phòng mổ Huỳnh văn Tỵ đứng đối diện tôi, nói nhỏ: “Bác sĩ nhìn ra ngoài xem”.
Tôi quay lại thì thấy hai người đàn ông vũ trang, ăn vận thường phục đang bước vô phòng mổ. Tôi nhờ anh Tỵ ra chận lại và lịch sự yêu cầu họ đứng ngoài hành lang và đợi tôi xong công việc. Phòng mổ đang sạch. Không nên đem vi trùng ngoài đường vô làm nhiễm vết thương bệnh nhân. Người lạ có súng đưa mắt nhìn láo liên chung quanh, xong trở ra đứng bên ngoài trong dáng điệu hùng hổ đề phòng, kiểm soát. Vừa mổ xong, quần áo còn dính đầy máu, tôi ra đi giữa hai hàng quân du kích trang bị lựu đạn, AK47, B40, B41 từ cuối phòng mổ số 4 ngang qua ba phòng mổ khác số 3, số 2, số 1.
Các phòng mổ trên vẫn còn bận rộn, với toán giải phẫu của BS Nguyễn Anh Tài - BS Đặng thị Mai Liễu, toán giải phẫu của các BS không biên giới Bernard Kouchner, toán giải phẫu của BS Lê Thanh Vĩnh và Sinh viên Nội trú Đổ Trọng Thoả, riêng BS Thiếu tướng Mazaud thì đã rời nhà thương trở về BV Grall …
Ra khỏi phòng mổ, họ đưa tôi về phòng Tổng Quản Đốc.
Thấy lá cờ lớn màu vàng ba sọc đỏ còn dựng trong góc phòng trước bàn làm việc của tôi, một tên cán bộ tỏ vẻ khó chịu ra mặt:
“Đến giờ phút này mà anh còn giữ lá cờ ở đây sao?”
Vừa nói anh ta vừa bước tới rút lá cờ cuốn lại ném vô góc nhà.
Kế tiếp tôi bị kè súng P38 sau lưng, dẫn lên lầu. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Hội trường rộng lớn, có nhiều bậc tam cấp, với những dãy bàn dài, bình thường chứa được trên 400 sinh viên, giờ đây đã đầy người. Nhân viên bệnh viện đang ngồi sát nhau, im lặng. Đối diện họ là một bục gỗ cao, phía sau vách có tấm bảng màu xanh lá cây dài để thuyết trình, dạy học. Một tên du kích đứng gần đó, trao micro cho tôi.
Nhìn thoáng qua, thấy nét mặt mọi người tỏ vẻ lo âu sợ sệt, nhất là những nữ nhân viên đã trốn chạy c.... s.., từ Bắc di cư vào Nam năm 54, sau Hiệp định Genève chia đôi đất nước. Tôi đã phát biểu dưới sự quan sát của những người c.... s.. vũ trang đứng sau lưng tôi và ở cửa ra vào:
“Đối với nhân viên có mặt ngày hôm nay ở trong hội trường, trước đây, nghe tin c.... s.. sắp chiếm Sài Gòn, đã tìm cách bỏ nước ra đi. Nhưng trước hơn 550 thường dân bị thương do pháo kích, đa số là phụ nữ và trẻ em, tôi đã yêu cầu họ vì lòng nhân đạo, ở lại để giúp tôi săn sóc người bệnh. Tôi có hứa với họ là một khi c.... s.. vô tới đây, tôi xin một mình hoàn toàn lãnh trách nhiệm. Hôm nay đứng trước mặt nhân viên, tôi long trọng lập lại lời hứa này. Nếu quý vị xem những người còn lại là có tội, thì tôi xin một mình nhận lãnh bất cứ hình phạt nào. Nếu cần đem một người nào ra xử bắn thì tôi xin đại diện để nhận lãnh hình phạt đó”.
Không thấy người nào trong nhóm Du kích trả lời. Chị Bác sĩ trưởng toán QY của Trung đoàn E Đất Thép cho nhân viên giải tán (sang Mỹ đầu năm 2000, tôi gặp lại bà Phan Thị Lựu, cư ngụ tại quận Cam, người Bắc 54, cựu Y tá trưởng khu Tai mũi họng của GS Trương Minh Ký hiện sống bên Pháp - có mặt trong buổi họp này. Bà đã đến thăm tôi, và nhắc lại kỷ niệm ngày hôm đó. Bà đã viết cho tôi một bức thơ dài thật cảm động, mô tả lại giờ phút nghiêm trọng trong Hội trường. Mọi người đã xúc động khi nghe tôi phát biểu một mình nhận lãnh tội thay thế cho họ).
SỰ TRANH CHẤP QUYỀN LỰC CỦA CỘNG SẢN VÀ BỆNH VIỆN NGUYỄN VĂN HỌC BỊ ĐỔI TÊN
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau thông điệp đầu hàng của tướng Dương văn Minh, Trung đoàn E Đất Thép của MTGPMN ở Củ Chi, trang bị theo lối Du kích, có một bộ phận Y tế do một nữ Bác sĩ trẻ cầm đầu gồm khoảng mười người đến chiếm TTTTYKGĐ-BV Nguyễn Văn Học và đổi tên thành Bệnh viện Nhân Dân.
Tôi đã cho lấy một căn phòng rộng rải trên lầu 2 sát bên thư viện cho họ. Trong ngày đó, các bệnh viện trong Đô Thành được sắp xếp lại thành năm hạng, tuỳ theo mức độ lương hướng của bệnh nhân.
Hạng nhất là Bệnh viện Thống Nhất (tức Vì Dân cũ) dành cho cán bộ cao cấp có số lương từ 105 đồng trở lên, Bệnh viện hạng chót là bệnh viện Nhân Dân (tức là TTTTYKGĐ/BV Nguyễn Văn Học!) dành cho cán bộ có số lương thấp nhất từ 60 đồng trở xuống. Các bệnh viện ở giữa gồm có Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đồn Đất tức Bệnh viện Grall, Bệnh viện Bình Dân.
Qua ngày sau, có một toán Bắc Việt ba người đến Bệnh viện với đồng phục màu xanh lá cây, dép râu, mũ tay bèo. Tưởng cũng là đồng chí với nhau, tôi sắp xếp cho họ một phòng nhỏ ở trong một góc nhà gần đó. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là không thấy họ nói chuyện thân mật với nhau. Mỗi nhóm lại muốn chiếm giữ riêng cho mình một trại bệnh.
Cho đến một buổi sáng, toán của MTGPMN (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) xếp hàng một, như trong một cuộc hành quân, trang bị lựu đạn, AK47, B40, B41, cùng đi với toán Bắc Việt lục soát khắp cả nhà thương, bắt đầu từ tầng lầu cao nhất, xong trở xuống văn phòng Tổng Quản Đốc, ngồi hai bên bàn họp, đâu mặt với nhau, nét mặt trông đằng đằng, không thuận thảo. Họ kêu tôi ngồi ghế giữa đầu bàn.
Với nét mặt trang nghiêm, toán MTGPMN ngồi bên trái mở lời trước:
“Bên kia có ăn cắp gì của nhà thương không?”.
Và ngược lại toán Bắc Việt cũng hỏi tôi một câu tương tự. Không khí trong phòng họp căng thẳng gay go. Cuối cùng ông Tham mưu trưởng Trung đoàn E Đất Thép Củ Chi ra lịnh cho toán Bắc Việt phải làm việc dưới quyền của Trung đoàn. Toán Bắc Việt có vẻ yếu thế nên ngồi im, không phản ứng. Buổi họp xong, hai bên cùng ký tên vô biên bản, xong đưa cho tôi ký khán.
Đêm đó 12 giờ khuya, toán Bắc Việt rút êm khỏi nhà thương, không biết đi đâu. Về kể chuyện lại cho Ba tôi nghe, Ba tôi cười nói:
“Ba đã làm Hành Chánh trên 25 năm. Chưa bao giờ Ba thấy kẻ thua trận mà lại ký giấy khán cho kẻ thắng trận”!.
Cuối cùng là toán Tập kết của Bác sĩ Lê văn Tốt ngoài Bắc về. Toán này hành động như kẻ cả, mặc nhiên chiếm cứ chỗ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và ra lệnh cho toán của MTGPMN ra phía sau, ở trong căn phòng chật hẹp gần nhà bếp.
Một hôm Bác sĩ La văn Lân tự Tư Lân của nhóm Tập kết ra phía sau. Vừa đút đầu nhìn vô trong căn phòng của toán MTGPMN thì bị hai người cận vệ lực lưỡng của MTGPMN đứng bên ngoài đẩy anh vô luôn bên trong và kéo ngang cửa sắt.
Anh bị trói ké lại và bỏ lên xe Jeep chở ra bót Hàng xanh gần đó, với lý do “Có một tên lạ mặt xâm nhập vào cơ quan quân sự bất hợp pháp!”
Nhìn thấy hai bên đối xử như trâu trắng trâu đen gầm ghè đe dọa khiến tôi ngạc nhiên tự hỏi giữa họ đã từng quen biết nhau, hay chí ít cũng đứng chung một chiến tuyến, chớ có ai đâu xa lạ mà lại cư xử với nhau tệ bạc như vậy! Phải chăng đã có chuyện gì trục trặc, bất hòa dữ dội giữa ba lực lượng : Bắc Việt, Tập Kết và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam? Có lẽ đã đến lúc “gà nhà bôi mặt đá nhau” quyết hơn thua để giành lấy quyền lực thống trị mãnh đất miền Nam béo bở này?! Than ôi, thêm một kiểu loạn sứ quân trên quê hương tội nghiệp của tôi!
Buổi trưa hôm đó ban lãnh đạo c.... s.. muốn tôi cùng đi với họ để tìm những cán binh của Trung đoàn E Đất Thép bị thương trên miệt Gò Vấp. Tôi lái xe nhà thương đưa Bác sĩ Nguyễn thị Hiền đi, theo sự chỉ dẫn của bác sĩ. Qua khỏi cổng xe lửa, gần tới Cục Quân Y, thì nghe một tiếng nổ lớn bên trong khoảng đất trống có rào dây kẽm gai đối diện Trung tâm tiếp huyết. Nghe có tiếng người rên siết. Như một phản ứng tự nhiên tôi ngưng xe, định nhảy xuống chạy đến tiếp cứu thì chị bác sĩ Hiền nắm tay tôi giữ lại. Người bị thương được đưa ra ngoài đường và đặt lên xe cứu thương do tôi lái. Một thương binh CS khác được khiêng lên xe chạy sau tôi có một sinh viên nội trú trông chừng. Thuộc đường, tôi chạy thẳng vô Tổng Y Viện Cộng Hòa gần đó.
Cổng chánh của nhà thương mở to nhưng trống vắng, không có lính canh gác như thường lệ trước kia. Không gặp ai là người quen cũ, tôi lái xe đến khu Ngoại thương, người thương binh được khiêng xuống đất trước phòng mổ còn đóng cửa.
Nhân dịp này tôi đi nhanh ra phía sau trại bệnh để xem có ai quen không, (tôi vốn quen thuộc nơi này vì đã từng về đây làm việc ba lần - trước và sau khi đi du học Hoa Kỳ và trước khi đi thành lập Quân Y viện Đoàn Mạnh Hoạch ở Phan Thiết.)Trong trại còn vài thương binh nặng không tự mình đi đứng được vẫn còn nằm trên giường co ro bất động không người chăm sóc, giúp đỡ… đứng nhìn xa xa tôi không biết họ còn sống hay đã chết, mặc dù có lệnh của Chính quyền c.... s.. buộc thương binh phải tự động xuất viện. Đa số đã lết ra đường nhờ những xe xích lô đạp chở đi nơi khác. Trong tình huynh đệ chi binh hiếm thấy, một số lớn phu xe thuộc thành phần cựu quân nhân giải ngũ, đã thông cảm hoàn cảnh, tận tình giúp đỡ, đưa họ, hoặc đến nhà người thân trong thành phố, hoặc ra bến xe đò Lục tỉnh về nguyên quán mà không tính tiền.
Hoàn cảnh thương binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà vào giờ cuối cùng thật thảm thương! Là một cựu sĩ quan Quân y, đã từng lặn lội theo các tiểu đoàn tác chiến thuộc Trung đoàn 40/SĐ 22BB, hành quân trong rừng sâu biên giới, trước làn tên mũi đạn của quân thù để chăm sóc thương binh trên vùng biên cương Dakto - Tân Cảnh - Dakrotah, bây giờ đứng trước những người cùng chiến tuyến đang lâm nạn, là kẻ thua trận, tôi cảm thấy não lòng, chỉ biết im lặng đứng nhìn trong tủi hận, nhục nhã, chứ không làm được gì để giúp đỡ họ, khi chính tôi cũng bị CS kè kè sau lưng …
Đau đớn thay trong hoàn cảnh tang thương của đất nước hôm nay. Tôi uất nghẹn đến rơi nước mắt khi nhìn đồng đội mình lê lết thân tàn rời khỏi bệnh viện trong lúc vết thương còn ứa máu…. Rồi đây số phận của họ sẽ ra sao?!
Chiều tối, phòng mổ thiếu hụt nước biển và thuốc men như thuốc chống kích xúc, trụ sinh v. v… Tôi đề nghị với cán bộ c.... s.. cho xe vô Căn cứ 70 kho Y Dược trung ương trong Chợ Lớn để lãnh thuốc. Tài xế trực trong nhà thương không biết chỗ. Tôi cũng không nhớ rõ địa chỉ, nhưng biết hướng đi vì trước kia, đã có mấy lần đến đấy để tham dự vài buổi họp với ông Tổng trưởng Y tế với tư cách là Tổng Quản Đốc TTTTYKGĐ. Toán Y tế của VC cử một nhân viên vũ trang theo tôi để canh chừng.
Đường phố vắng tanh. Tôi lái xe cứu thương Land Rover chạy theo đường Chi Lăng, ngang cổng Bộ Tổng tham mưu, thấy hai chiến xa T54 của CS còn đang ngụt cháy. Có thể nơi đây đã xảy ra một cuộc chạm trán dữ dội giữa Quân lực phòng thủ Việt Nam Cộng Hoà và Quân đội chính quy CS trên đường di chuyển từ phi trường Tân Sơn Nhứt về Gia Định. Còn những con đường khác quanh lăng Cha Cả về đêm hoàn toàn yên tịnh. Đến cổng kho Y Dược, tôi gặp ngay Dược sĩ Giám đốc Dương Quang Nhan. Tôi trình bày tình trạng khó khăn của phòng mổ nhà thương … Dược sĩ niềm nở, hướng dẫn xe chạy thẳng vô nhà kho, soạn đầy đủ dụng cụ và thuốc men cần thiết. Sau khi kiểm nhận, tôi ký tên vào sổ sách của kho DS . Hai người chia tay mà tôi có cảm tưởng như không bao giờ gặp lại nhau nữa…Tình thế đã như thế này, đâu ai biết được ngày mai mình ra sao? Có lẽ tôi là người cuối cùng đến nhận thuốc tại kho Y dược trung ương này giữa đêm khuya, khi cuộc chiến vừa chấm dứt. (Sau này khi qua Mỹ, tôi hân hạnh gặp lại DS Nhan trong một buổi tiệc tại nhà hàng Paracels của nhóm thân hữu Hải quân tại quận Cam, trên đường Brookhurst, thành phố Westminster, Fountain valley. DS xác nhận tôi là người đến nhận Quân dược cuối cùng của VNCH!).
Trở về nhà thương thì đã gần một giờ sáng. Bên ngoài màn sương mờ đục. Saigon bây giờ đã đổi chủ. Không còn nghe tiếng bom ầm ĩ, không có những tiếng đại bác từ xa vọng lại. Nhưng chính sự yên lặng đó mới đáng sợ, bóng tối của một thế lực đầy rẩy sự đe dọa đang bao trùm cả thành phố, không khí u ám như bãi tha ma trên tất cả những con đường, trong ánh đèn đêm thỉnh thoảng vài bóng người lầm lũi đi, dáng vẽ lấm lét sợ hãi, những con chuột cống cũng thập thò quanh mấy căn nhà đổ nát…
Trong khi nhân viên trực ra xe lấy thuốc, tôi đi một vòng bệnh viện, đến phòng mổ nhìn qua cửa kính xem các hoạt động bên trong. Các bác sĩ và nhân viên vẫn hăng say làm việc. Tôi dừng lại tại phòng Hồi sức phụ giúp cô Điều dưỡng vừa nhận bệnh bên phòng mổ chuyển sang, trao đổi ý kiến chuyên môn cùng vài đồng nghiệp, xong tôi chậm rải đi theo hành lang nhà thương trở về nhà, định nghỉ ngơi vài phút sau một ngày căng thẳng, tâm hồn, thể xác mệt mỏi, rã rời, tuyệt vọng. Nhưng chưa kịp ngã lưng xuống giường thì lại có điện thoại khẩn cấp của văn phòng Hành chính, yêu cầu tôi trở ra tiền sảnh của nhà thương.
Vừa đến nơi đã thấy ông Tham mưu trưởng của Trung đoàn E Đất Thép đứng sẵn với khẩu súng ngắn chỉ huy treo lòng thòng bên hông. Vừa thấy tôi ông đã hất hàm hỏi ngay, vừa lấy tay chỉ lên tầng nhà cao nhất của nhà thương:
“Đến giờ phút này mà anh còn chứa chấp, che giấu những tên lính Nhảy Dù trên trần nhà thương?”
Và không đợi tôi trả lời, ông ra lệnh cho tôi phải leo lên kêu họ xuống. Ông quản lý Châu của nhà thương rành địa thế, dẫn chúng tôi đến chân một cầu thang bằng sắt cao dính liền vô vách tường. Mượn cây đèn bấm dài, tôi leo lên trước. Đến trần nhà thương, tôi rọi khắp nơi, không thấy có một bóng người nào. Ông Tham mưu trưởng c.... s.., với bản chất đa nghi, đích thân rọi đi rọi lại nhiều lần trước khi leo xuống. Sau đó ông ta bỏ đi, không nói câu nào.
Thật tình trước đây vài ngày, có hai tiểu đoàn Nhảy Dù đã vào nhà thương, đào hầm cá nhân, thiết lập những công sự phòng thủ, ngay cả trên lầu 3. Họ quyết định tử thủ. Đến khi nghe thông điệp của tướng Dương văn Minh, họ mới chịu vứt bỏ toàn bộ súng ống đạn dược, lấy áo choàng xanh của phòng sản khoa, phòng mổ bận vô để rời nhà thương. Họ nghĩ rằng mình thua không phải là vì Quân sự, mà vì Chánh trị, do sự thoả hiệp của các lãnh đạo cao cấp chỉ huy hai bên.
Nếu tiếp tục chiến đấu thì chỉ gây thiệt hại cho thường dân vô tội mà thôi. Trong toán Quân y của tiểu đoàn Dù có bác sĩ Nghĩa mang cấp bậc Đại úy. Anh đã tình nguyện thức suốt đêm làm việc trong phòng mổ của Trung tâm thực tập Y Khoa Gia Định (Bệnh viện Nguyễn Văn Học), để phụ giúp săn sóc thường dân bị thương. Trước khi từ giã nhà thương, anh được hai người bạn thân nội trú Phan Thế Mỹ và Nguyễn thị Quỳnh Mai chia xẻ một gói mì khô và một ly sữa nóng. Trong những ngày u ám này, các anh chị Nội trú có mấy thùng mì và sữa do đồng bào ngoài chợ mang vô tiếp tế để chia nhau cầm cự trong khi làm việc chăm sóc bệnh nhân.
#103
Gửi vào 05/05/2020 - 20:18
MỪNG HỤT
Sau 30/04/1975 tôi không biết tâm trạng của những sĩ quan quân đội SG thế nào, còn ông anh Cô Cậu với tôi thì phấn khởi. Trình diện xong, trước khi đi học tập nghe là 15 ngày, anh mở tiệc, cụng ly rượu Wishky: “đi học cho biết cách mạng nói gì”. Với cấp bậc Đại úy nhưng anh là “Trung úy Phương” (trong phim Nổi Gió) của đời thật. Đẹp trai, nhảy đầm điệu nghệ, là tay lái lụa xe Jeep A2, uống rượu hơn mấy thằng Mẽo, nói tiếng Mỹ như người Anh (nổ một chút)
‘Cải tạo’ 5 năm trở về, câu đầu tiên anh nói với tôi: Anh mừng hụt rồi. Mừng hụt vì nghe đi 15 ngày nhưng biền biệt 5 năm trời trên đất Bắc. Mừng hụt vì những ngày ở trong trại, nghe đài, đọc báo hình dung đất nước cũng không đến nỗi nào, nhưng trên chuyến xe lửa xuôi Nam, mọi thứ đã thấy 'nói vậy nhưng không phải vậy'.
Anh vượt biên, tàu chìm, gia đình mong anh chết hụt. Nhưng anh đã về với biển lớn.
#104
Gửi vào 05/05/2020 - 20:28
CHIẾC ĐÈN LÓ THỤT
Giữa tháng tư năm 1975 gia đình tôi từ Đà Nẵng trở lại Huế sau chuyến di tản dài gần hai tháng. Chúng tôi thở phào vì nhà cửa vẫn y nguyên không sụp đổ do bom đạn, cũng không bị đập phá bởi những người tạm cư khi chúng tôi vắng mặt. Trên đại thể, biến cố 1975 không để lại những hậu quả nặng nề như biến cố 1968. Anh cả tôi NĐH – đại úy quân y, đi học tập cải tạo 06 tháng, được về nhà sớm hơn những người cùng cảnh ngộ. Anh rể tôi PVT trung úy bộ binh bị mất tích trong cơn tháo chạy tán loạn. Chị gái lớn của tôi NTKH, người của Mặt trận trong phong trào đô thị ở Đà Lạt, bị chết do tai nạn giao thông trong một chuyến về thăm ông anh cả đang cải tạo ở Cồn Tiên. Như thế biến cố 1975 đã để lại cho gia đình tôi một tổn thất, một nỗi đau lớn. Nhưng mẹ tôi, như một gà mẹ xòe đôi cánh khẳng khiu che chở cho đàn con còn lại, đã trấn an chúng tôi bằng một nhận định: Chiến tranh kéo dài quá lâu, chết chóc, thù hận, đổ vỡ quá nhiều, kết thúc như vậy là tốt lắm rồi. Tôi đồng ý và chia sẻ tấm lòng của mẹ, chúng tôi nén vào lòng nỗi đau riêng, cố gắng hòa nhập vào cuộc “đổi đời”. Nhưng cái được gọi là hòa bình và cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa long trời lở đất, từng bước khiến chúng tôi ngỡ ngàng và thất vọng. Những vết thương chiến tranh chỉ được khâu vá vội vã và tạm bợ ở lớp da bên ngoài. Những cắt xé, rách vỡ ở lớp bì mô bên dưới, những ung thối ở lục phủ ngũ tạng vẫn còn y nguyên và cuộc đấu tranh giai cấp không khoan nhượng đã làm tăng thêm những vết thương mới.
Tôi trở lại trường y nơi mà thầy trò, bạn bè đã thân quen sáu năm tròn nay trở nên e dè, thận trọng, chẳng có nụ cười trọn vẹn của niềm vui tái ngộ, chỉ có những lời chào hỏi chiếu lệ, những cái bắt tay hững hờ, những ánh mắt thăm dò, tra vấn, ái ngại. Đất nước đã thống nhất, nhưng lòng người thì tiếp tục cắt chia. Nhiều người thu mình lại trong các vỏ bọc tưởng rằng đã kiên cố. Nhiều người khác kín đáo bày tỏ nhiều thất vọng quá sớm chỉ sau mấy ngày vồ vập đón mừng cuộc trùng phùng mong ước chờ đợi suốt hai chục năm với người ruột thịt. Những người khác nữa, hăm hở, xông xáo bày tỏ quan điểm lập trường và quyền lực cách mạng một cách quá đáng và bệnh hoạn – một thứ quyền lực được ban phát từ một đấng nào đó, được quơ cào, nắm bắt nóng vội và cơ hội.
Chúng tôi ngày hai buổi bị đẩy vào hai nơi chẳng một ai muốn đến. Buổi sáng đi bệnh viện thực tập và buổi chiều đến giảng đường để học chính trị.
Ở bệnh viện, ngoại trừ một vài buổi may mắn gặp được các đại sư cỡ Tôn Thất Tùng vừa có trình độ chuyên môn cao, sâu và rộng, vừa có phong cách giao tiếp lịch sự tinh tế, còn lại suốt một năm chúng tôi bị bắt buộc phải chấp nhận những ông thầy, những bác sĩ giả, chọn không đúng nghề. Và như thế chúng tôi – thầy trò của trường y cũ và các vị ở Bắc vào tiếp quản đã xẩy ra hằng ngày những chuyện trái khuấy. Những chuyện trái khuấy đầy tính chất bi hài đó nếu kể hết là cả một cuốn sách dài, tôi không có ý định kể lại ở đây.
Ở giảng đường các buổi học chính trị thực tế là những cuộc tẩy não tại chỗ, một cuộc trấn áp tinh thần chúng tôi hoàn toàn không chờ đợi. Thay vì dạy và học, chúng tôi: Thầy và trò đã diễn ra một tương quan đáng buồn. Thầy thì chửi bới, ca tụng rất thiếu căn cớ và tầm phào. Trò thì ghi ghi chép chép, gà gà gật gật rồi vỗ tay tán thưởng râm ran. Giảng đường của trường Đại học biến thành một lán trại quân đội, đặc biệt là trong những ngày đổi tiền.
Huế những tháng đầu của hòa bình, thống nhất và cách mạng Xã hội chủ nghĩa qua tiếp nhận của tôi không những có một khoảng cách lớn giữa ước mơ và hiện thực, giữa lời nói và việc làm, mà còn là một cuộc vận động bi đát và hài hước ngoài sức tưởng tượng trong khắp các ngõ ngách của cuộc sống và trong sâu thẳm của tâm hồn.
PVD, một sinh viên năm thứ tư đã nhảy lầu tự tử vì bị sỉ nhục bới chính người cha đi tập kết về – Người mà mẹ con anh đã khắc khoải trông mong chờ đợi suốt hai mươi năm. Quần ống loe, mái tóc dài và nói năng tự do là nguyên nhân của tấn bi kịch. Tất cả những thứ ấy đối với người chính ủy đều là sản phẩm của văn hóa đồi trụy, là con đẻ của chủ nghĩa tư bản và đế quốc Mỹ xâm lược. Như thế là hai mươi năm người mẹ đã nuôi dạy con trong lầm lạc, người con trở nên hư đốn ph.... đ..... Và như thế là người chồng, người cha mà hai mẹ con đã mong đợi mỏi mòn suốt hai mươi năm nay đã trở về với cung cách và lời ăn tiếng nói của một kẻ xa lạ, một quan tòa, sản phẩm của một phía chiến tranh. Và như thế hòa bình đã không lập lại, thống nhất đã không thực hiện nơi cái gia đình bé nhỏ tội nghiệp này.
H bạn cùng lớp với tôi, có nhà ở đường phố THĐ, cha mẹ là một chủ tiệm buôn không lấy gì to lớn. Cha H là cựu kháng chiến, là người đã đóng góp cho Mặt trận trong chiến tranh chống Mỹ. Chiến tranh kết thúc. Gia đình H bỗng nhiên trở thành kẻ thù của giai cấp, bị cải tạo. Gia đình gồm 6 người, bị đẩy về phía sau căn phố, cửa mở ra khu ổ chuột phía bờ hồ. Phần chính của căn phố và tiệm buôn bị trưng thu trưng dụng, bản hiệu cũ bị gỡ xuống, bảng hiệu mới treo lên. Cửa hàng thương mãi quốc doanh thay thế thương mãi tư sản tư doanh. Mặt tiền đường Trần Hưng Đạo trở nên xơ xác tiêu điều. Tôi đến tìm H bởi hơn hai ngày bạn không đi học. Cửa nhà sau đóng kín bưng. Bà con lối xóm bảo gia đình H đã chuyển đi Sài Gòn. Sự thật chỉ đúng một nửa. H đã vượt biên cùng với hai người em trai. Cô em út cùng với ba mẹ đi làm rẩy ở Long Khánh. Tôi biết chuyện này mấy năm về sau. Hòa bình và thống nhất đối với gia đình H là chuyện viễn mơ.
Đây là chuyện nhà tôi. Một ngày giáp Tết 1975, chúng tôi có một người khách to cao oai vệ. Ông là một vị tướng cách mạng. Người mà mẹ tôi vẫn thường nhắc kể cùng chúng tôi với rất nhiều cảm phục và quí mến. Người mà thời niên thiếu đã cùng chạy nhảy vui đùa với mẹ và các cậu tôi như những người bạn thân thiết, người mà ông ngoại tôi đã cưu mang giúp đỡ trong một thời gian dài để thực hiện tình ruột thịt và cũng để bày tỏ lòng yêu nước. Ông tướng là anh em chú bác ruột của mẹ tôi. Chúng tôi kêu bằng cậu. Cậu H cái tên chúng tôi thuộc nằm lòng bởi những câu chuyện của mẹ tôi nói về ông là những sự tích anh hùng. Chúng tôi đã sung sướng lắng nghe và hãnh diện vì mình là con cháu của nhà cách mạng như thế. Cuộc viếng thăm của ông đã làm tăng thêm niềm sung sướng và hãnh diện của chúng tôi. Nhưng rồi chúng tôi chỉ thấy mặt ông lần đầu và cũng là lần cuối. Ông đã từ giả chúng tôi vội vã vì: “mắc bận những công vụ quan trọng” mặc dù mẹ tôi đã khẩn khoản mời ông ở lại ăn bữa cơm đoàn tụ. Sau tết âm lịch Bính Thìn(1976), cậu HĐTh em ruột ông tướng HĐH từ Hội An ra Huế thăm chúng tôi, me tôi kể chuyện cuộc thăm viếng cập rập của ông anh, cậu HĐTh không tế nhị và giữ gìn gì, đã thật thà nói với mẹ tôi: “Anh ấy sợ chứ không phải bận công vụ. Anh ấy thắc mắc cô làm gì cho Mỹ – Ngụy mà ở cái nhà to như vậy?”
Căn nhà của chúng tôi đang ở đã làm cho ông tướng cách mạng sợ là nhà thờ tổ tiên do ông nội tôi để lại. Nhà trệt khá to nhưng cũ kỹ. Ba tôi là cựu kháng chiến, đã hối tiếc suốt mấy năm trước khi qua đời vì không được tiếp tục chiến đấu cho nền độc lập của nước nhà.
Từ sau 1954, mẹ tôi một mình chạy vạy để nuôi chồng bệnh yếu và đàn con thơ dại bữa đói bữa no. Bà sang lại một sạp hàng bán tạp hóa, bút chỉ văn phòng tại chợ Đông Ba. Cậu H nhìn qua ngôi nhà to lớn đã quá sợ nên không kịp hỏi han cô em họ và cũng là bạn bè thân thiết thuở thiếu thời về tình cảnh mẹ góa con côi sau những biến cố to lớn 1968, 1972, 1975. Đối với mẹ tôi, chiến tranh đã kết thúc thật sự vì con trai – anh cả chúng tôi, đã bảo tồn được sinh mạng cho dù phải đi học tập cải tạo và người anh chú bác đã trở về cho dù tâm hồn có chuyển hóa thế nào. Nhưng đối với riêng tôi, thái độ và cách ứng xử của cậu H, một “vị tướng của quân đội nhân dân” đã góp phần làm tôi sợ cách mạng, sợ Xã hội chủ nghĩa. Tôi là sinh viên Y khoa, nếu không có biến cố 1975 tôi đã là bác sĩ, tình trạng tâm lý của vị tướng cách mạng theo tôi là một dạng thái tâm thần phân liệt, quá nghi ngờ, hoang tưởng về một ám hại của bất cứ ai không phải là bản thân mình. Tình trạng tâm lý bệnh hoạn này qua kinh nghiệm giao tiếp tôi thấy diễn ra khá phổ biến nơi những người có quyền lực của chế độ mới. Bên gia đình nhà chồng tôi cũng xảy ra một trường hợp tương tự. Ông anh chồng tôi, một sĩ quan cấp tá và ông tướng HĐH của gia đình bên ngoại tôi rất giống nhau trong các nhận định về miền Nam và cách ứng xử với bà con ruột thịt sống trong vùng kiểm soát của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Họ sợ cả hai chiều: Sợ liên lụy với quần chúng sống trong lòng địch và sợ sự xoi mói phê bình của người cùng phe. Nếu điều đó là tàn tích của chiến tranh thì không là vấn đề lớn. Bởi một khi chiến tranh bị đẩy lùi tình trạng tâm lý lệch lạc sẽ chấm dứt với các biện pháp của y tế. Trong trường hợp nó là kết quả của cuộc vận động cách mạng Xã Hội chủ nghĩa thì vấn đề trở nên trầm trọng, bởi nó, theo tôi là vấn đế của văn hóa. Cách mạng Xã hội chủ nghĩa theo những gì chúng tôi nhận được từ các buổi học tập chính trị là cuộc cách mạng cuối cùng của xã hội loài người mà lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, nghi ngờ, không những với đối phương mà còn với quần chúng, nhất là với những đồng chí của chính mình, thì đó là tình trang rối loạn tâm thần, chứ không phải là một cuộc cách mạng do những con người lành mạnh cả trên hai phương diện trí tuệ và tâm lý chủ trương và tiến hành nhằm mục đích tối hậu là phục vụ con người.
Suy nghĩ như thế những cũng chỉ với một mình, không dám trao đổi, chia sẻ với bất cứ ai, bởi các mối quan hệ ngoài gia đình đã trở nên đáng ngại.
Một sự kiện khác đáng buồn cũng đã xẩy ra tại nhà tôi vào đầu niên khóa 1975 – 1976. Một hôm từ trường về, tôi thấy nhà có khách, mẹ tôi đang ngồi nói chuyện với ông tổ trưởng dân phố và ba thanh niên có vẻ là bộ đội. Đối với gia đình tôi, ông tổ trưởng dân phố là chỗ thân quen, chúng tôi biết ông và cả gia đình ông là người của Mặt trận từ tết Mậu Thân. Do vậy mà dù ông xuất hiện với ba thanh niên lạ chúng tôi cũng chẳng lo ngại gì. Ông tổ trưởng dân phố đề nghị mẹ tôi cho ba thanh niên bộ đội giải ngũ ở trọ để đi học đại học. Nhà tôi rộng nên chúng tôi đã chấp nhận đề nghị của ông tổ trưởng khá dễ dàng. Như thế căn nhà mà mấy tháng sau ông tướng cách mạng là cậu họ tôi đã sợ nên vội lánh xa, bắt đầu từ đó có thêm ba người đã từng là bộ đội cách mạng cư trú. Nhà rộng, vườn rộng, lòng chúng tôi cũng không hẹp. Ba thanh niên đã quen với khung cảnh thênh thang của núi rừng tỏ ra vừa lòng và dễ mến trong suốt thời gian đầu ở chung với chúng tôi. Nhưng rồi chuyện đáng buồn đã xảy ra, chỉ đối với riêng tôi là trầm trọng. Đối với những người khác trong gia đình tôi mãi cho đến ba năm sau, khi ba anh sinh viên tốt nghiệp, ra đi không để lại điều gì đáng chê trách.
Trước khi kể lại câu chuyện “đối với riêng tôi là trầm trọng” tôi xin giới thiệu ông tổ trưởng dân phố. Bởi theo tôi không có ông tổ trưởng dân phố, sẽ không có ba anh sinh viên bộ đội cư trú trong nhà tôi. Và như thế sẽ không có câu chuyện đối với riêng tôi là trầm trọng một cách đáng buồn.
Ông tổ trưởng dân phố tên là TPT, ông là dân ngụ cư, có lẽ là tầng lớp trên ở nông thôn. Tôi không biết đích xác gia đình ông đến ở Vỹ Dạ vào thời kỳ nào. Tôi biết nhà ông xây trên mảnh đất mua lại của phủ Vy Dã, phủ lớn nhất và cũng suy tàn sớm nhất ở Vỹ Dạ. Đến thế hệ tôi phủ Vy Dã chỉ còn lại một nửa cái cổng có mái che đổ nát và điêu tàn. Từ cổng ngó vào là một con hẻm nhỏ sâu hun hút cuối hẻm là căn nhà nhỏ xác xơ của một người cháu đời thứ tư hay thứ năm gì đó của nhà quí tộc chủ nhân. Hai bên con hẻm là những ngôi nhà to nhỏ sang hèn khác nhau của những người từ nông thôn lên hay từ nơi khác đến. Ông TPT không ở trong con hẻm này, ông ở trong con hẻm bên cạnh cũng là đất của phủ Vy Dã đã cắt bán. Nhà ông T sống bằng nghề đại lý mắm ruốc đem từ các làng ven biển lên phân phối cho các chợ nội ngoại thành phố Huế. Suốt ngày xe cộ tấp nập (đa phần là xích lô, xe kéo (ở Huế còn gọi là xe bò) ra vào nhà ông T. Vợ chồng ông T có sáu người con, một trai, năm gái. Năm người con gái xinh đẹp, mạnh khỏe không cô nào học hết phổ thông. Nhà có con gái xinh đẹp lại bình dân nên cũng tấp nập ra vào những người trai trẻ. Điều làm cho bà con lối xóm bàn tán và chê bai là lần lượt người con trai và bốn cô gái lớn vắng bặt trong xóm. Không có đám cưới nào được tổ chức chứng tỏ họ cưới vợ và đi lấy chồng. Người lối xóm đa phần từ nông thôn tới nên dư luận là một sức mạnh. Người ta hỏi thẳng vợ chồng ông T rằng các con ông đã đi đâu? Cả hai tỏ ra buồn rầu trả lời:
– “Thằng con trai đi theo tụi du đảng và mấy đứa con gái bỏ nhà trốn theo trai”.
Do thái độ như vậy của vợ chồng ông T đối với đám con hư hỏng nên bà con lối xóm cũng chỉ đàm tiếu sau lưng.
Ông TPT là người hòa nhã, trung hậu, quan tâm và đối xử với bà con quanh xóm một cách tử tế. Trong biến cố Mậu Thân ông xuất hiện trước đa số bà con như một ông thần hộ mệnh. Là người của Mặt trận (bà con gọi là Việt cộng nằm vùng) nhưng ông lại che chở và dẫn đường cho một số sĩ quan cấp thấp của quân đội Cộng Hòa quanh xóm trốn tránh bạo lực cách mạng. Anh trai tôi – NĐH – là một trong số đó.
Đêm ba mươi tết Mậu Thân, tiếng pháo nổ râm ran hơn mọi năm. Chúng tôi đang quây quần bên bàn đỗ xăm hường, ông T gõ cửa vào nói nhỏ với me tôi:
– “Quân giải phóng đã về, bà cho đại úy trốn đâu đó trong nhà, đừng bơi qua sông, đợi cơ hội thoát thân”.
Sáng mùng một, chừng năm sáu du kích và ông T đến nhà tôi. Một du kích nói:
– “Nhà này có một sĩ quan ngụy, ông ấy đâu hãy mau ra trình diện quân Cách mạng”.
Me tôi chưa kịp trả lời, ông T đã chen vào:
– “Thằng cha đó máu me cờ bạc, có biết gì gia đình tết nhứt, giờ này chắc đỏ đen sát phạt nhau bên câu lạc bộ bọn sĩ quan bên kia Đập Đá rồi”.
Mấy người du kích sục sạo định bắn lên trần nhà, nhưng ông T đã kịp thời cản ngăn:
– “ Kỷ luật Mặt trận không được làm hại nhà dân, các anh làm thế nào để sau này tôi còn ăn nói với bà con”.
Thế là anh tôi thoát nạn. Cả nhà thở phào nhẹ nhỏm. Sáng ngày mùng bốn Tết, ông T vào nhà và nói nhỏ với mẹ tôi::
– “Quân Cách mạng đang tập trung họp ở chợ Vỹ Dạ, bà cho đại úy xuống và chạy qua đập, có chúng tôi canh chừng”.
Anh tôi từ trần nhà leo xuống, không kịp thay áo quần, cùng với mấy sĩ quan khác trong thôn chạy qua Đập Đá theo sự hướng dẫn của một cô gái mặc áo đen đội mũ tai bèo là con gái ông T.
Thái độ của ông T “Việt Cộng nằm vùng” đối với gia đình tôi và những gia đình khác quanh xóm hoàn toàn trong sáng và tự nguyện. Không có lợi lộc, không có hậu ý chính trị.
Sau biến cố 1975, người con trai và bốn cô con gái của ông T lần lượt trở về. Té ra họ không theo du đảng, cũng không theo trai. Họ theo Giải phóng. Họ làm gì đó trong guồng máy của chế độ mới, nhưng thái độ của cả nhà vẫn bình thường, không vênh váo, không tỏ ra quyền lực.
Sau này khi mẹ tôi qua đời, họ đến thăm, phúng điếu, thắp hương và đưa mẹ tôi một quãng đường.
Ông T Việt cộng nằm vùng là như thế, nên khi ông đưa ba sinh viên – bộ đội đến nhà, mẹ tôi vui vẻ sắp xếp chỗ ở cho họ. Căn nhà ngang chia hai. Nửa phía ngoài dành cho anh trai kế tôi và hai người bạn cùng học y với chúng tôi, nửa phía trong dành cho ba anh sinh viên sư phạm cựu kháng chiến.
Sự xuất hiện và tồn tại lâu dài ba người mới đến không làm chúng tôi lúng túng, không gây trở ngại khó khăn gì cho sinh hoạt của gia đình chúng tôi. (mọi sinh hoạt, ăn uống đều riêng). Hoàn cảnh sống và sinh hoạt có chênh lệch đôi chút nhưng không là vấn đề. Tất cả đều sống nhờ tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm, công nghệ phẩm hàng tháng, khó khăn nhiều nhưng cũng qua bữa nhờ sắn khoai, bo bo, mì sợi. Họ là sinh viên Sư phạm có phụ cấp hàng tháng. Tôi và anh tôi học Y có phụ cấp ít hơn, bù lại mẹ tôi có sạp hàng nhỏ bán tạp hóa ở chợ Đông Ba thu nhập hàng ngày chẳng được bao nhiêu nhưng cũng tạm đắp đổi các nhu cầu cấp thiết cho cả nhà gồm sáu nhân khẩu. Tôi còn có cô em kế là sinh viên Sư phạm năm thứ ba và hai đứa áp út và út đang học trung học.
Tôi và anh kế là sinh viên Y khoa năm cuối (chương trình 7 năm), ba người ở trọ là sinh viên Sư phạm năm đầu nhưng cùng trang lứa. Chúng tôi từ trường trung học vào Đại học. Họ vào Đại học sau sáu bảy năm tham gia cuộc chiến. Những kiến thức chúng tôi thu nhận được từ trường phổ thông và đại học trong những điều kiện tương đối tốt hơn họ, bất cứ ai cũng có thể có được nếu ở trong hoàn cảnh xã hội và gia đình tương tự. Nhưng những gì ba anh sinh viên sống sót trở về từ cuộc chiến ác liệt và đẫm máu kết tập và un đúc nên đối với tôi là những câu chuyện truyền kỳ.
Trong đời thường tôi đã là đứa hiếu kỳ. Cuộc chiến tranh được kể lại từ những người tiểu anh hùng càng kích thích thêm tính tò mò của tôi. Thành thật mà nói, những sinh viên ở trọ đã thích ứng với gia đình tôi rất nhanh. Họ cởi mở năng động và sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi trong một số công việc thường ngày. Thấy chúng tôi chẻ củi, xách nước, quét sân, làm vườn, họ săn tay giành lấy. Những buổi tối mất điện hay rảnh rỗi họ ra sân ca hát và chuyện trò râm ran. Chúng tôi bị cuốn hút vào những câu chuyện và lời ca tiếng hát của họ.
Những câu chuyện họ kể, những lời giải đáp các câu hỏi do tò mò, hiếu kỳ của chúng tôi là tình cờ và tự phát, không được chuẩn bị trước như những buổi học chính trị tại trường đại học. Qua họ tôi biết nhiều hơn về miền Bắc, về cuộc chiến ở miền Nam mà họ là người trong cuộc về một phía, và chúng tôi – bản thân tôi – là người ngoài cuộc hoặc ở bên lề, thậm chí về phía đối nghịch.
Tôi không có năng khiếu âm nhạc, nhưng hay hát nho nhỏ một mình và đặc biệt thích nghe hát và sưu tầm các nhạc phẩm. Trước 1975 mỗi lần ngồi vào bàn học, tôi thường mở radio nghe các chương trình ca nhạc của đài Sài Gòn, Huế và cả đài Giải Phóng, đài Hà Nội. Mở nhỏ, vừa nghe vừa học bài hay làm bài. Tôi còn sưu tầm các nhạc phẩm in riêng rẽ hay thành tập của các nhà xuất bản, đặc biệt nhà xuất bản Tinh Hoa. Tôi không có thành kiến với bất cứ thể loại âm nhạc nào. Hành khúc, tình ca, dân ca, nhạc thính phòng hay “nhạc kẹo kéo” (nhạc boléro)... Tôi không phân biệt đối xử với nhạc miền Nam hay nhạc miền Bắc. Theo tôi không có nhạc nhạc Quốc Gia hay nhạc c.... s...
Mỗi lần ba anh sinh viên ở trọ ra sân, tôi cũng xách cái ghế nhỏ ra sân hay ngồi ở cái ghế xích đu trên hiên nhà để nghe họ hát. Tôi lắng nghe thích thú các giọng ca mộc mạc hồn nhiên của họ. Với cây ghita trong tay, họ say sưa tự tín hát tất cả các bài ca kháng chiến trước đây họ đã hát trên rừng.
“Đảng đã cho ta một mùa xuân...”
“ Đảng đã cho ta sáng mắt sáng lòng....”,
“Anh đang bộ hành quân pháo lăn dài chiến dịch, bồi hồi đêm xung kích chợt nghe tiếng pháo reo, ngôi sao trong mắt em trong những đêm không ngủ, giáo án em vẫn mở cho ánh sao băng vào... bục giảng dưới hầm sâu em cũng là chiến sĩ...”,
“ Muỗi bay rừng già cho dài tay áo...,
“Từng đôi chim bay đi, tiếng ca rộn ràng, cánh chim xao xuyến gió mùa xuân, gởi về miền Nam yêu thương nhắn rằng ta ngày đêm mong nhớ... Về tương lai ngày quê hương màu xanh áo mới chứa chan niềm tin... bốn phương, gió mưa, buồn thương, mùa đông và mây mù sẽ tan...”
Nghe họ hát, nhìn dáng vẻ và nét mặt của họ lờ mờ dưới ánh trăng tôi nhận ra rằng họ đã có một thời trai trẻ đẹp, gian khổ và hào hùng. Cuộc chiến tranh đẫm máu, khốc liệt bớt đi một phần xa lạ với chúng tôi.
Nhưng những câu chuyện kể về những trải nghiệm chiến tranh của từng người một thật sự cuốn hút chúng tôi. Ba người sinh viên ở trọ chẳng phải là một nhóm chiến đấu từ trên rừng cũng không phải là người cùng quê. Thực tế họ đến từ những làng quê khác nhau và đã chiến đấu trong những đơn vị và địa bàn khác nhau.
Những câu chuyện của họ đa phần là kể cho nhau nghe, nội dung tùy thuộc vào ký ức nào đó hay môt ý tưởng nào đó chợt nẩy nở trong đầu của người này, được tiếp nối bởi một ký ức hay một ý tưởng nào đó của người kia, và cứ thế câu chuyện lan man diễn biến không theo một chủ đề, một trật tự nào cả, thông thường là đầu Ngô mình Sở, đầu voi đuôi chuột. Được, anh chàng người xứ Nghệ đang say sưa kể về “tiểu đoàn lá bép” của anh tại miền Đông Nam Bộ trong những ngày đói khát sau Mậu Thân bị cắt ngang bởi những bữa ăn được kể cho đỡ đói của anh chàng người Đồng Hới tên Bường tại một hốc núi nào đó ở ngã ba biên giới. Câu chuyện được tiếp nối bởi một trận dội bom của máy bay B52 làm cả một đại đội tan nát khi mới dừng chân bắt bếp chuẩn bị bữa ăn sau chuyến hành quân dài tại thung lũng A Shau. Anh chàng thứ ba người Hà Nội giải thích lý do sống sót của mình vì đi chậm do đang lên cơn sốt rét... Như thế, tùy theo tình tiết của các câu chuyện mà họ đã khóc sướt mướt hay bò lăn ra cười, hết cười lại khóc, lại hát, lại ca.
Thành thật mà nói tôi đã rất thích nghe về cuộc “chiến tranh chống Mỹ” qua những câu chuyện và những bài hát của ba người lính trên sân nhà tôi trong những đêm mất điện. Và sự thật là những hiểu biết của tôi tăng lên rất nhiều so với trước đây (1975) và so với những buổi học chính trị có bài bản và được trình bày thao thao bất tuyệt bởi các giảng viên tuyên huấn.
Thấy tôi có vẻ thích thú hóng chuyện, anh sinh viên cựu kháng chiến tên Bình người Hà Nội đem tặng tôi cây đèn ló thụt – một dụng cụ tùy thân trong thời kháng chiến anh vẫn để trong một góc ba lô sau ngày hòa bình. Trước khi nói về cây đèn ló thụt, tôi viết thêm về anh bộ đội là cháu ngoại của Huế này. Mẹ Bình là một thiếu nữ Huế, học sinh Đồng Khánh, tham gia cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp. Cuộc kháng chiến đã đẩy bà từ thành phố Huế lên chiến khu Thừa Thiên, ra khu Bốn, lên Điện Biên Phủ. Bà trở thành du kích, từ du kích, bà trở thành ca sĩ, kịch sĩ trong đoàn kịch do nhà văn Thanh Tịnh điều hành. Trên những chặng đường chiến đấu và lưu diễn, bà yêu một đồng chí nghệ sĩ, tình yêu của họ kết tụ bằng cuộc hôn nhân và Bình đã mở mắt chào đời giữa bốn bề lửa đạn. Bình tên anh, là khát vọng của bố mẹ và cũng là khát vọng chung của cả dân tộc: Hòa Bình. Anh vào lính và ngày chuẩn bị đi Nam, mẹ anh bảo nếu có thể chọn lựa, anh nên về lại Huế, chiến đấu trên mảnh đất mà bà đã sinh ra, lớn lên và đã giã từ để lao vào cuộc chiến.
– “ Vì nền độc lập của dân tộc mà mẹ em đã ra đi, cũng vì nền độc lập của dân tộc và sự vẹn toàn thống nhất đất nước mà em thay mẹ trở về, Huế đối với mẹ là cái gì đó vô cùng thiêng liêng.” Bình nói với tôi.
– “ Còn vì Chủ nghĩa xã hội nữa chứ? Tôi hỏi.
– “Có thể với bố với mẹ và cũng chỉ ba bốn năm đầu. Với em thì không, Tuyệt đối không. Bình trở nên buồn bã và cộc lốc.
Mấy ngày sau Bình đem cho tôi cây đèn ló thụt và nói với tôi một thôi dài:
– “ Chị có vẻ quan tâm quá mức bình thường tới cuộc chiến tranh mà em đã bỏ cả quãng thời gian đẹp đẽ nhất của đời người – tuổi trẻ – để tham dự. Cây đèn này đã theo em trong những năm tháng khó khăn gian khổ và mộng mị ấy. Đã có lúc em xem nó như một kỷ vật và có ý định bảo lưu nó trọn đời. Nay thì thôi. Em biếu chị. Độc lập mà không có tự do, mà chuyên chính toàn diện và tuyệt đối thì còn tệ hơn nhà Nguyễn quân chủ và phong kiến. Thống nhất mà người đàn áp bóc lột người có thua gì thực dân cướp nước chia để trị. Triều đình nhà Nguyễn dẫu có thế nào cũng đã để lại những giá trị vật chất và tinh thần không ai có thể phủ nhận. Còn chế độ này trong lãnh vực giáo dục và đào tạo – mà em là nạn nhân trực tiếp – đang tàn phá tâm hồn dân tộc mà cha ông đã gây dựng hàng ngàn năm...
Càng lúc tôi càng sững sờ trước lời bộc bạch mãnh liệt của Bình. Tôi nắm chặt cây đèn ló thụt trong hai bàn tay như người mất hồn. Đứng bất động một hồi lâu, Bình bỏ đi lúc nào tôi không chú ý.
Mấy ngày sau tôi phát hiện Bình vắng mặt. Tôi hỏi hai người bạn còn lại, họ trả lời rằng Bình đã bỏ đi cả tuần không nói năng gì. Có khả năng anh đã về Hà Nội.
Cây đèn ló thụt Bình tặng, tôi để tại một góc của tủ sách. Cây đèn mà trong chiến tranh Bình đã xem như một vật tùy thân không thể tách lìa, cây đèn mà đã có lúc Bình xem như là chứng tích của một thời trai trẻ trách nhiệm và cống hiến vì nền độc lập của đất nước, vì tự do và hạnh phúc của dân tộc. Tại sao Bình không trân trọng giữ nó như dự định lúc còn chiến tranh? Tại sao Bình mang nó cho tôi với lời bóng gió mỉa mai rằng tôi đã quan tâm quá mức bình thường tới cuộc chiến? Phải chăng anh đã phủ nhận tất cả để rồi phủ nhận luôn chính bản thân mình? Rất nhiều câu hỏi tôi tự đặt ra cho bản thân sau sự kiện Bình đột ngột rời bỏ Đại Học, rời bỏ Huế?
Bình ra đi chẳng bao lâu thì chỗ của anh trong căn phòng mẹ tôi dành cho ba sinh viên cựu kháng chiến có một người điền khuyết. Sự thay đổi nhân sự này mẹ tôi không được hỏi ý kiến mặc dù các sinh viên được cư trú miễn phí từ lúc đầu đến thời điểm này (cuối năm 1976)
Vào một ngày áp tết âm lịch Bính Thìn (1976) trong lúc đang nấu nướng ở bếp, tôi nghe có tiếng cãi vã ồn ào trong phòng các anh ở trọ. Cuộc cãi vã biến thành cuộc xung đột chưa đến mức độ thượng cẳng tay hạ cẳng chân nhưng xem ra nghiêm trọng. Họ đã chửi bới nhau thậm tệ khiến tôi tò mò chú ý lắng nghe. Thì ra nguyên nhân của cuộc xung đột là sự ăn chia thế nào đó về số tiền họ kiếm được từ những vụ trộm cắp các thiết bị điện – nước tại các giảng đường, hành lang, khu vệ sinh của các phân khoa trường Đại học và các khu vực công cộng của thành phố.
Họ đã tiến hành các vụ trộm từ lâu, từ thời còn có Bình. Phải chăng đây cũng là một lý do gần để Bình từ bỏ...
Tôi trở lại bàn học, cầm cây đèn ló thụt mà Bình đã “vứt bỏ” – cho tôi, “vì chị đã quan tâm đến cuộc kháng chiến quá mức bình thường”.
Cây đèn ló thụt là một nhặt nhạnh, gắn kết một cách khéo léo các phế liệu từ cuộc chiến tranh. Nó gồm hai phần: Hộp đèn bằng kim loại hình trái xoan cắt bằng chóp dưới làm đế, chóp trên là một cái nắp có chức năng làm chóa ngăn sáng và che gió (phần này có lẽ cắt từ vỏ đạn M79). Phần đèn là một cái chai thủy tinh nguyên là cái chai nước hoa ngoại nhập. Miệng chai nhỏ, nắp chai kín và bền. Ruột đèn là cái vỏ đạn thẳng đứng từ đáy chai lên gần miệng chai, có chức năng làm giá đỡ cho bọng và tim đèn. Tim đèn luồng trong một cái ruột bút bi bằng đồng ló lên khỏi miệng chai một chút. Lò xo của ruột bút bi có nhiệm vụ nén và hoàn lực. Khi sử dụng, mở nút chai, đầu bút bi mang tim đèn bật ló lên. Khi hết sử dụng, đậy vặn nút chai, đầu bút bi mang tim đèn bị đẩy thụt vào.
Rõ ràng cây đèn ló thụt là một kỷ vật xinh xắn, ghi dấu những chặng đường khó khăn và mộng mị của một thời trai trẻ nếu cuộc chiến tranh kinh hoàng với những tổn thất to lớn ngoài sức tưởng tượng của bất cứ ai (hàng chục triệu người chết, thương tật thể xác và tâm hồn trong nhiều thế hệ, đất nước tan hoang trở lại thời kỳ đồ đá) mà kết quả cuối cùng là một đất nước độc lập, thống nhất, hòa bình thật sự, nhân dân được tự do hạnh phúc thật sự. Trong trường hợp cuộc chiến tranh chỉ để lại “những chiến thắng rỗng” và một chế độ mà “lịch sử” đã đặt để trên đầu trên vai, trên lưng nhân dân một chế độ cha truyền con nối gồm “những người có công” vênh váo, cửa quyền, lòng dạ ích kỷ hẹp hòi, chai đá, trí óc mụ mẫm, tủn mủn chẳng có gì ngoài căn bệnh hoang tưởng, tâm thần phân liệt, thì rõ ràng cây đèn ló thụt là biểu tượng chân thật của đất nước sau chiến tranh.
Bình đã vứt bỏ cái biểu tượng ấy. Tôi hiểu và chia sẻ một phần nỗi buồn bã và thất vọng của anh. Tôi cầm cây đèn đi xuống bếp và vứt nó vào sọt rác.
Khu nhà buổi chiều im ắng, mẹ, anh trai và các em tôi chưa về. Trong căn phòng dành cho các sinh viên cựu kháng chiến không còn tiếng cãi vã khấu ó. Chỉ có tiếng rì rầm to nhỏ. Tôi hy vọng đó không phải là âm thanh của một kế hoạch của những tên đạo chích đang được đào tạo để trở thành người lãnh đạo và quản lý đất nước mà nói như người cán bộ tuyên huấn ở giảng đường trường Đại học rằng: “Lịch sử đã trao sứ mệnh cho đảng ta”.
#105
Gửi vào 05/05/2020 - 20:38
NGƯỜI CHỨNG ÍT LỜI (Nhà văn Trần Huiền Ân) TN số 41 (430) – 03-10/10/1993
Lần ấy tôi mua được một quyển “Việt Nam tự điển” của Hội Khai Trí Tiến Đức, do nhà Mặc lâm xuất bản. Thường khi mua sách cũ, tôi cẩn thận lật từng tờ kiểm lại, xem có còn đủ trang hay không, có chỗ nào bị bôi bẩn, vẽ bậy, nhưng lần đó gặp một việc gấp, vội quá, và tin ở người bán sách quen thuộc, tôi cứ để nguyên trong gói giấy đem về vứt lên bàn, hơn tuần sau mới mở ra, đặt vào giá.
Nhìn dòng chữ mạ vàng trên gáy sách, tuy đã mờ nhạt, tôi mừng thầm: Thêm một quyển sách. Trước đây tôi đã có một tủ sách khá đầy đủ. Nhưng những ngày tháng ba 1975, trong lúc hỗn loạn, hùa theo kẻ gian khi cướp phá, đám trẻ con xông nhà vào tôi cạy tủ bê đi hết. Khi trở về, thấy cơ sự, tôi tiếc đến ngẩn ngơ và cay đắng nghĩ: từ nay thôi, giã từ sách vở. Mấy năm sau tôi mới có ý định phục hồi tủ sách và dành dụm lần hồi mua lại từng quyển. Có quyển mua trong đôi thúng của bà bán giấy vụn, có quyển đóng dấu trường Huyền Trân, có quyển đóng dấu Thư viện Thành ủy, có quyển trên trang đầu trang trọng và thiết tha lời những lời đề tặng.
Ngắm nghía một lúc, tôi thấy lúc này rãnh cũng nên xem qua, bèn lấy quyển sách xuống. Góc trên, trang đầu, có nét chữ con gái ghi: Phần thưởng lớp IV niên khóa 1959-1960. Trang thứ hai, ngay dưới dấu hiệu “góp lại tự bốn phương, tung ra khắp bốn phương” của nhà xuất bản cũng nét chữ ấy, ghi câu ca dao: Có trầu mà chẳng có cau. Làm sao cho đỏ miệng nhau thì làm. Câu ca dao ngồ ngộ khiến tôi chú ý đến nét chữ. Thoạt đầu thấy hình như quen quen, càng lúc nhận ra quen lắm. Tôi lật lại trang đầu, tự hỏi: Phần thưởng cho lớp Bốn, sao tặng đến một quyển tự điển mà bậc Tiểu học chưa dùng? Sự phân vân khiến tôi suy nghĩ thêm: Niên khóa 1959- 1960, ở miền Nam chưa áp dụng hệ thống từ lớp Một đến lớp Mười hai, bậc Tiểu học tính từ dưới lên trên gồm các lớp Năm, Tư, Ba, Nhì, Nhất. Vậy IVA là lớp Tư A, tức lớp Hai bây giờ. Vô lý, không ai đem tặng học sinh lớp Hai, dẫu xuất sắc đến đâu, một quyển tự điển. Và tôi chợt hiểu, IVA là lớp Đệ Tứ A, bậc Trung học đệ nhất cấp, tức lớp Chín ngày nay. Một quyển tự điển tặng cho học sinh Đệ Tứ là đúng. Học sinh Đệ tứ cuối thập niên 50 coi như đã trưởng thành. Nét chữ ở đây với nét chữ câu ca dao là một, cho tôi kết luận: Dòng ghi này là do người được tặng thưởng, chứ không phải của người phát thưởng.
Thỏa mãn được điều này rồi, nhưng nét chữ của ai mà sao quen quá, cứ còn là một thắc mắc. Tôi nhắm mắt nhớ lại nét chữ những bạn gái một thời. Những trang thư của họ lần lượt hiện lên. Một Võ Thị Mỹ Dung luôn tươi trẻ, tinh nghịch, dân Marie Cuirie, xuất hiện trước hết, nhưng nét chữ Dung tròn trịa hơn, con trai hơn và niên khóa này Dung chưa học đến Đệ Tứ. Vào thời gian ấy, có Bùi Thị Điểm, chữ nhỏ như con kiến, như nỗi buồn sớm sủa của bạn, có Dương Thu Nguyệt, chữ nghiêng nghiêng, mảnh mai như cái dáng dấp tiểu thư, đài các của bạn… Và Lâm Ngân Sương, dân Gia Long, một cô bạn gái thông minh, đoan trang, chuẩn mực. Đúng là nét chữ Lâm Ngân Sương: những nét cong của các chữ n,m, u rất tròn, rất đều, chữ t, chữ d, chữ h đều cao bằng nhau, vòng chữ e mở rộng, nét lên của chữ g bao giờ cũng ngoéo lại một chút. Tôi muốn kêu lên như nhân vật Kỳ của Bình Nguyên Lộc trong truyện ngắn “Hồn ma cũ” khi anh ta uống cà phê trong một quán cóc của người Tàu, nhớ lại lối viết dùng f thay cho ph của một bạn gái, học trò trường Áo Tím. Những hồn ma cũ, những hồn ma Áo tím hiện lên, những con ma dĩ vãng rất đáng yêu thương. Tôi tự trách mình. Đáng lẽ tôi phải nhớ ra, nhận ra sớm hơn, những hồn ma cũ của Gia Long, Trưng Vương, Marie Cuirie, của dĩ vãng rất đáng yêu thương vẫn còn lẩn quất bên tôi giữa bao tháng năm cơ cực.
Tôi bỏ kính xuống và bồi hồi như mình vừa chạm tay sờ vào quá khứ. Những người bạn gái của một thời tuổi trẻ. Những mẩu chuyện trao đổi, bàn luận, những vui buồn, chìu chuộng, có khi tranh cãi, giận trách. Đẹp biết là bao! Tôi thoáng thấy ngây ngất như buổi sáng bụng trống uống một ly cà phê thật đậm, một ly rượu mạnh. Xen vào đó là nỗi băn khoăn. Hiện tại, tôi không còn liên lạc với ai. Tất cả, Dung, Sương, Điểm, Nguyệt, và ai nữa… Mỗi người vào đời ra sao, chồng con, cuộc sống, yêu thương và hạnh phúc thế nào? Chưa có một tình cờ đưa đẩy cho tôi bất ngờ gặp lại họ hay có tin tức về họ. Còn quyển tự điển này, tôi chắc chắn là của Sương, dù không có chữ ký của bạn làm bằng chứng, lý do nào vào tay những người bán sách cũ, để hôm nay nằm trên giá sách của tôi? Một điều nữa là, ngay năm được giải thưởng, hay một năm khác về sau, bạn ghi lên sách câu ca dao: “Có trầu mà chẳng có cau…”? Tại sao bạn ghi câu ấy? Nghe như có gì dỗi hờn, trách móc ai? Bạn tự ví mình như người đưa ra lá trầu trong câu hát chăng? Cau là của ai? Sao người đó chẳng có cau? Bạn gần như buộc người đó phải có: “Làm sao cho đỏ miệng nhau thì làm”. Bạn bắt đền người đó chăng? Bạn có được đền đáp không? Miệng bạn đã đỏ thắm, nồng cay vào dịp nào? Một cảm giá nao nao cứ vây bọc lấy tôi…
Ít lâu sau. Nhân phải tra một chữ ở phần cuối sách, tôi gặp thêm điều phải suy nghĩ nữa. Đó là một tấm thiệp xuân. Cứ gọi là một tấm thiệp xuân, dù nó chỉ là một mảnh giấy kẻ ô li chưa đầy nửa trang vở. Nhưng nó được xếp và trình bày với hình thức một tấm thiệp. Mặt ngoài, bức tranh vẽ bằng bút chì: Xa xa, những dãy núi chạy dài chồng lên nhau, có thể tưởng tượng được rằng núi rất cao, núi liền núi. Cảnh gần là một ngã ba, hai con đường thẳng góc nhau tạo thành hình chữ T. Từ lề đường vào chân núi, những ô vuông có thể là ruộng, cũng có thể là đất trồng màu. Bên trái bức tranh hai chòm cây thấp, trông vẻ um tùm, không nhận được là cây gì. Phía sau, một cây cao hơn, rõ dáng cây gòn, ngọn cây vượt khỏi đỉnh núi, khắc lên nền trời. Nét bút chì tuy đơn sơ, nhìn cây gòn tôi hình dung ra những buổi chiều miền núi, nắng nhạt, vắng vẻ và buồn. Tôi nhớ những ngọn gòn thấy trong buổi hoàng hôn ở thung lung Lỗ Chảo thời ấu thơ vào thăm nhà bà dì. Cành cây xanh đen, nền trời pha một chút tím, nhánh gòn đâm ngang, mớ trái gòn lủng lẳng. Cây gòn trong thiếp gợi cho tôi cái ấn tượng êm đềm một thời xưa cũ. Vẫn nét bút chì, có mấy dòng chữ “Mùa Xuân Nhâm Tuất” và con số 1982 trong khung nhỏ. Dưới cùng,mấy hàng chữ viết bằng bút bi:
VƯƠNG CÔNG HI
Đội 7 K 2
Trại Z 30 C
Tôi mở tờ thiếp ra, lại nét bút bi, viết kín cả trang 3:
“1. Rồi đêm giao thừa lại qua đi…
Lời đầu năm ba chúc:
-Mẹ các con hạnh phúc và trẻ trung, giữ lòng chung thủy như hoa hướng dương.
-Các con trai của ba: khỏe và vui tươi.
-Các con gái của ba: đẹp và vui tươi.
Cuối năm 1981.
Thân ái, Vương Công Hi.
Nếu ba chưa về được, các con hãy vì ba, viếng mộ phần ông bà nội các con, thuận lợi nữa về thăm mộ phần ông bà ngoại các con.
2. Trại Z 30 C không giải quyết thăm gặp trại viên vào các ngày 30 đến mùng 3 Tết âm lịch này, mẹ hãy khoan thăm ba”.
Nét chữ đẹp, không nắn nót vẫn rõ ràng, dễ đọc.
Bây giờ, trong tôi lại dâng lên một cảm xúc khác. Tấm thiếp Xuân này tuy cũng là một kỷ niệm quá khứ, nhưng quá khứ mới mẻ, gần gũi như hiện tại, đến hôm nay nhiều người trong chúng ta chưa hết bàng hoàng. Tôi đoán Vương Công Hi là một sĩ quan hay một công chức ở miền Nam trước 1975, đến cuối năm 1981 còn phải cải tạo. Vợ ông hẳn là còn trẻ, bởi vậy lời chúc ông gửi cho vợ là trẻ trung và giữ lòng chung thủy như hoa hướng dương. Bà lấy chồng sớm, ít nhất đã có bốn con – các con trai và các con gái theo như lời ông – và ít nhất đứa con đầu đã hiểu được lời chúc của cha: khỏe – đẹp, vui tuơi, đã biết thay cha đưa các em về viếng mộ phần ông bà nội ngoại. Lúc đầu, tôi có chút lo lắng vu vơ. Tại sao Vương Công Hi không viết cho vợ mà viết cho con, ông chúc vợ giữ lòng chung thủy, phải chăng có một ý nghĩ nào? Nhưng ở câu sau cùng, ông dặn: “Mẹ hãy khoan thăm ba”, vậy là bà vẫn thường xuyên thăm nuôi ông. Cái lo lắng vu vơ của tôi bị đánh tan khi tôi cho rằng con ông đã có phần nào hiểu biết, trong trường hợp này, người chồng viết lời âu yếm cho vợ không tiện. Ông bà Hi trưởng thành trong nền giáo dục nho phong, ở đây cả tình yêu và tình thương vợ chồng đều dồn cho các con, qua các con vợ chồng hiểu nhau và thương yêu nhau hơn. Tôi yên tâm về bà Hi, dù sau mỗi biến cố xã hội,nhiều gia đình cùng chịu ảnh hưởng lâm vào cảnh tan vỡ. Có không ít bà vợ đã bỏ chồng khi chồng đi cải tạo để chạy theo một người mới đang có quyền thế hoặc tiền của. Tôi lại giả sử, đứa con út ông Hi sinh năm 1975, đứa con đầu sinh cỡ trước sau năm 1970, nếu vậy ông đã bắt con cái gánh trách nhiệm tinh thần quá nặng nề: vừa thay cha làm tròn đạo hiếu với ông bà đã khuất, vừa giúp mẹ giữ lòng chung thủy như hoa hướng dương.
“Rồi đêm giao thừa lại qua đi…” Câu mở đầu của ông Hi trên tấm thiếp nhắc tôi câu văn của A.Tolstoi trong tiểu thuyết “Con đường đau khổ”: “Rồi năm tháng qua đi. Những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần, những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét. Chỉ còn lại tình em, dịu dàng, nhẫn nại và chan chứa yêu thương”. Thật là đẹp đẽ, thật là hạnh phúc, nhưng thực tế, khi chiến traanh qua đi, khi những cuộc cách mạng thôi gào thét, còn lại nhiều cay đắng, ngậm ngùi, đau đớn. Biết làm sao được!
Mùa xuân Nhâm Tuất 1982 đến nay… Chắc Vương Công Hi được phóng thích đã lâu, đoàn tụ với vợ con, ông lại là mặt trời cho lòng bà như hoa hướng dương mười phương đổ lại. Gia đình ông còn sống ở xứ sở này hay đã ra đi đến một đất nước xa lạ? Tôi biết, có nhiều người đã hăm hở ra đi, có nhiều người ra đi vì phải ra đi, chết cả cõi lòng chứ không phải chết một ít, có nhiều người nhất định ở lại. Mỗi người có một hoàn cảnh, mỗi người là nạn nhân, dù kẻ khác thấy khinh bỉ, tội nghiệp, yêu quý hay kính trọng. Nếu gia đình Vương Công Hi đã ra đi, cầu trời cho họ vẫn luôn luôn hạnh phúc ở cái xã hội thiếu vắng hình ảnh nho phong.
Buổi tối, tôi bỗng mơ thấy mình đang ngồi trong thư viện tra cứu. Một người đàn bà đứng tuổi đi vào. Bước chân khoan thai, dáng dấp tươi trẻ và một nụ cười. Người ấy gật đầu chào tôi.Tôi biết quen lắm mà không nhận ra, cười đáp lễ và cau mày cố nhớ. Người đàn bà hỏi sau khi tháo cặp kính nhạt màu ra khỏi mắt:”Không nhận ra sao?”. Rồi cúi xuống, cầm lấy cây bút và tờ giấy tới đặt bên cạnh để ghi chép, viết nhanh ba chữ “Lâm Ngân Sương”. Tôi chưa kịp nói gì thì thức giấc vì một tàu dừa khô rơi ào ngoài sân. Cuộc hội ngộ tức khắc tan biến, dù chẳng qua do tôi nghĩ ngợi mà có giấc mơ. Nói như Bình Nguyên Lộc thì giấc mơ tạo thành bởi ám ảnh của những hồn ma cũ. Ở thế hệ ông, những con ma áo tím và thời chúng tôi, những con ma áo xanh da trời.
Tối hôm ấy, tôi không phủ nhận đã dành nhiều tình cảm cho quyển tự điển Khai trí Tiến đức mới mua. Nó như một nhân chứng, dẫu chỉ thoáng qua, với mấy dòng chữ, một bức vẽ bút chì, đã đem về cho tôi đủ cả những suy nghĩ về Tuổi trẻ,Bạn bè, Chiến tranh, Tình yêu, Gia đình, Hợp và tan, Hạnh phúc và đau khổ… Một nhân chứng ít lời, chỉ thấp thoáng hé lộ cho thấy vài nét đơn sơ trong bức tranh chấm phá. Thành ra, nỗi thắc mắc của tôi, tại sao quyển sách của Lâm Ngân Sương lại lạc tới đây, tại sao trong đó có tấm thiếp Xuân từ trại cải tạo của ông Vương Công Hi, giữa bạn tôi và ông Hi có mối quan hệ nào chăng, quá khứ và hiện tại, những gì còn mất của mỗi người… dẫu muốn tìm lời giải đáp trong mộng cũng không thể nào giải đáp được. (Trần Huiền Ân)
**********************
P/S:TÌM RA NGƯỜI TRONG TRUYỆN
Truyện ngắn “Người chứng ít lời” đăng trên báo Thanh Niên cuối tuần (số ra ngày 10/10/1993) gây ấn tượng sâu sắc khiến mình quyết định giữ lại tờ báo. Một phần mình xúc động vì thấy thấp thoáng hình ảnh gia đình mình trong đó. Tuy chỉ là truyện ngắn nhưng không hiểu sao mình cứ tin đây là câu chuyện có thật và mình mong biết thêm thông tin về ông Vương Công Hi cùng gia đình.
Gần 30 năm, mình cứ mang nỗi day dứt không biết số phận của gia đình này cuối cùng ra sao. Với hy vọng có manh mối thông tin, sáng nay, mình đăng bài lên hai group có nhiều người Việt từng sống ở Sài Gòn. Chưa đầy 5 phút sau, mình đọc được bình luận từ người cháu ruột của ông Vương Công Hi. Theo lời anh, ông Hi nguyên là giáo sư Việt Văn của trường Mạc Đĩnh Chi (Sài Gòn). Vì là sĩ quan biệt phái nên sau 30/4/1975, ông đi tù cải tạo đến 8 năm. Hiện giờ ông sống ở Mỹ theo chương trình HO. Tuy không còn minh mẫn nhưng đáng mừng là ông bà vẫn còn khoẻ.
Cảm ơn anh đã cất bỏ cho tôi gánh nặng gần 30 năm nay.
·
Lần ấy tôi mua được một quyển “Việt Nam tự điển” của Hội Khai Trí Tiến Đức, do nhà Mặc lâm xuất bản. Thường khi mua sách cũ, tôi cẩn thận lật từng tờ kiểm lại, xem có còn đủ trang hay không, có chỗ nào bị bôi bẩn, vẽ bậy, nhưng lần đó gặp một việc gấp, vội quá, và tin ở người bán sách quen thuộc, tôi cứ để nguyên trong gói giấy đem về vứt lên bàn, hơn tuần sau mới mở ra, đặt vào giá.
Nhìn dòng chữ mạ vàng trên gáy sách, tuy đã mờ nhạt, tôi mừng thầm: Thêm một quyển sách. Trước đây tôi đã có một tủ sách khá đầy đủ. Nhưng những ngày tháng ba 1975, trong lúc hỗn loạn, hùa theo kẻ gian khi cướp phá, đám trẻ con xông nhà vào tôi cạy tủ bê đi hết. Khi trở về, thấy cơ sự, tôi tiếc đến ngẩn ngơ và cay đắng nghĩ: từ nay thôi, giã từ sách vở. Mấy năm sau tôi mới có ý định phục hồi tủ sách và dành dụm lần hồi mua lại từng quyển. Có quyển mua trong đôi thúng của bà bán giấy vụn, có quyển đóng dấu trường Huyền Trân, có quyển đóng dấu Thư viện Thành ủy, có quyển trên trang đầu trang trọng và thiết tha lời những lời đề tặng.
Ngắm nghía một lúc, tôi thấy lúc này rãnh cũng nên xem qua, bèn lấy quyển sách xuống. Góc trên, trang đầu, có nét chữ con gái ghi: Phần thưởng lớp IV niên khóa 1959-1960. Trang thứ hai, ngay dưới dấu hiệu “góp lại tự bốn phương, tung ra khắp bốn phương” của nhà xuất bản cũng nét chữ ấy, ghi câu ca dao: Có trầu mà chẳng có cau. Làm sao cho đỏ miệng nhau thì làm. Câu ca dao ngồ ngộ khiến tôi chú ý đến nét chữ. Thoạt đầu thấy hình như quen quen, càng lúc nhận ra quen lắm. Tôi lật lại trang đầu, tự hỏi: Phần thưởng cho lớp Bốn, sao tặng đến một quyển tự điển mà bậc Tiểu học chưa dùng? Sự phân vân khiến tôi suy nghĩ thêm: Niên khóa 1959- 1960, ở miền Nam chưa áp dụng hệ thống từ lớp Một đến lớp Mười hai, bậc Tiểu học tính từ dưới lên trên gồm các lớp Năm, Tư, Ba, Nhì, Nhất. Vậy IVA là lớp Tư A, tức lớp Hai bây giờ. Vô lý, không ai đem tặng học sinh lớp Hai, dẫu xuất sắc đến đâu, một quyển tự điển. Và tôi chợt hiểu, IVA là lớp Đệ Tứ A, bậc Trung học đệ nhất cấp, tức lớp Chín ngày nay. Một quyển tự điển tặng cho học sinh Đệ Tứ là đúng. Học sinh Đệ tứ cuối thập niên 50 coi như đã trưởng thành. Nét chữ ở đây với nét chữ câu ca dao là một, cho tôi kết luận: Dòng ghi này là do người được tặng thưởng, chứ không phải của người phát thưởng.
Thỏa mãn được điều này rồi, nhưng nét chữ của ai mà sao quen quá, cứ còn là một thắc mắc. Tôi nhắm mắt nhớ lại nét chữ những bạn gái một thời. Những trang thư của họ lần lượt hiện lên. Một Võ Thị Mỹ Dung luôn tươi trẻ, tinh nghịch, dân Marie Cuirie, xuất hiện trước hết, nhưng nét chữ Dung tròn trịa hơn, con trai hơn và niên khóa này Dung chưa học đến Đệ Tứ. Vào thời gian ấy, có Bùi Thị Điểm, chữ nhỏ như con kiến, như nỗi buồn sớm sủa của bạn, có Dương Thu Nguyệt, chữ nghiêng nghiêng, mảnh mai như cái dáng dấp tiểu thư, đài các của bạn… Và Lâm Ngân Sương, dân Gia Long, một cô bạn gái thông minh, đoan trang, chuẩn mực. Đúng là nét chữ Lâm Ngân Sương: những nét cong của các chữ n,m, u rất tròn, rất đều, chữ t, chữ d, chữ h đều cao bằng nhau, vòng chữ e mở rộng, nét lên của chữ g bao giờ cũng ngoéo lại một chút. Tôi muốn kêu lên như nhân vật Kỳ của Bình Nguyên Lộc trong truyện ngắn “Hồn ma cũ” khi anh ta uống cà phê trong một quán cóc của người Tàu, nhớ lại lối viết dùng f thay cho ph của một bạn gái, học trò trường Áo Tím. Những hồn ma cũ, những hồn ma Áo tím hiện lên, những con ma dĩ vãng rất đáng yêu thương. Tôi tự trách mình. Đáng lẽ tôi phải nhớ ra, nhận ra sớm hơn, những hồn ma cũ của Gia Long, Trưng Vương, Marie Cuirie, của dĩ vãng rất đáng yêu thương vẫn còn lẩn quất bên tôi giữa bao tháng năm cơ cực.
Tôi bỏ kính xuống và bồi hồi như mình vừa chạm tay sờ vào quá khứ. Những người bạn gái của một thời tuổi trẻ. Những mẩu chuyện trao đổi, bàn luận, những vui buồn, chìu chuộng, có khi tranh cãi, giận trách. Đẹp biết là bao! Tôi thoáng thấy ngây ngất như buổi sáng bụng trống uống một ly cà phê thật đậm, một ly rượu mạnh. Xen vào đó là nỗi băn khoăn. Hiện tại, tôi không còn liên lạc với ai. Tất cả, Dung, Sương, Điểm, Nguyệt, và ai nữa… Mỗi người vào đời ra sao, chồng con, cuộc sống, yêu thương và hạnh phúc thế nào? Chưa có một tình cờ đưa đẩy cho tôi bất ngờ gặp lại họ hay có tin tức về họ. Còn quyển tự điển này, tôi chắc chắn là của Sương, dù không có chữ ký của bạn làm bằng chứng, lý do nào vào tay những người bán sách cũ, để hôm nay nằm trên giá sách của tôi? Một điều nữa là, ngay năm được giải thưởng, hay một năm khác về sau, bạn ghi lên sách câu ca dao: “Có trầu mà chẳng có cau…”? Tại sao bạn ghi câu ấy? Nghe như có gì dỗi hờn, trách móc ai? Bạn tự ví mình như người đưa ra lá trầu trong câu hát chăng? Cau là của ai? Sao người đó chẳng có cau? Bạn gần như buộc người đó phải có: “Làm sao cho đỏ miệng nhau thì làm”. Bạn bắt đền người đó chăng? Bạn có được đền đáp không? Miệng bạn đã đỏ thắm, nồng cay vào dịp nào? Một cảm giá nao nao cứ vây bọc lấy tôi…
Ít lâu sau. Nhân phải tra một chữ ở phần cuối sách, tôi gặp thêm điều phải suy nghĩ nữa. Đó là một tấm thiệp xuân. Cứ gọi là một tấm thiệp xuân, dù nó chỉ là một mảnh giấy kẻ ô li chưa đầy nửa trang vở. Nhưng nó được xếp và trình bày với hình thức một tấm thiệp. Mặt ngoài, bức tranh vẽ bằng bút chì: Xa xa, những dãy núi chạy dài chồng lên nhau, có thể tưởng tượng được rằng núi rất cao, núi liền núi. Cảnh gần là một ngã ba, hai con đường thẳng góc nhau tạo thành hình chữ T. Từ lề đường vào chân núi, những ô vuông có thể là ruộng, cũng có thể là đất trồng màu. Bên trái bức tranh hai chòm cây thấp, trông vẻ um tùm, không nhận được là cây gì. Phía sau, một cây cao hơn, rõ dáng cây gòn, ngọn cây vượt khỏi đỉnh núi, khắc lên nền trời. Nét bút chì tuy đơn sơ, nhìn cây gòn tôi hình dung ra những buổi chiều miền núi, nắng nhạt, vắng vẻ và buồn. Tôi nhớ những ngọn gòn thấy trong buổi hoàng hôn ở thung lung Lỗ Chảo thời ấu thơ vào thăm nhà bà dì. Cành cây xanh đen, nền trời pha một chút tím, nhánh gòn đâm ngang, mớ trái gòn lủng lẳng. Cây gòn trong thiếp gợi cho tôi cái ấn tượng êm đềm một thời xưa cũ. Vẫn nét bút chì, có mấy dòng chữ “Mùa Xuân Nhâm Tuất” và con số 1982 trong khung nhỏ. Dưới cùng,mấy hàng chữ viết bằng bút bi:
VƯƠNG CÔNG HI
Đội 7 K 2
Trại Z 30 C
Tôi mở tờ thiếp ra, lại nét bút bi, viết kín cả trang 3:
“1. Rồi đêm giao thừa lại qua đi…
Lời đầu năm ba chúc:
-Mẹ các con hạnh phúc và trẻ trung, giữ lòng chung thủy như hoa hướng dương.
-Các con trai của ba: khỏe và vui tươi.
-Các con gái của ba: đẹp và vui tươi.
Cuối năm 1981.
Thân ái, Vương Công Hi.
Nếu ba chưa về được, các con hãy vì ba, viếng mộ phần ông bà nội các con, thuận lợi nữa về thăm mộ phần ông bà ngoại các con.
2. Trại Z 30 C không giải quyết thăm gặp trại viên vào các ngày 30 đến mùng 3 Tết âm lịch này, mẹ hãy khoan thăm ba”.
Nét chữ đẹp, không nắn nót vẫn rõ ràng, dễ đọc.
Bây giờ, trong tôi lại dâng lên một cảm xúc khác. Tấm thiếp Xuân này tuy cũng là một kỷ niệm quá khứ, nhưng quá khứ mới mẻ, gần gũi như hiện tại, đến hôm nay nhiều người trong chúng ta chưa hết bàng hoàng. Tôi đoán Vương Công Hi là một sĩ quan hay một công chức ở miền Nam trước 1975, đến cuối năm 1981 còn phải cải tạo. Vợ ông hẳn là còn trẻ, bởi vậy lời chúc ông gửi cho vợ là trẻ trung và giữ lòng chung thủy như hoa hướng dương. Bà lấy chồng sớm, ít nhất đã có bốn con – các con trai và các con gái theo như lời ông – và ít nhất đứa con đầu đã hiểu được lời chúc của cha: khỏe – đẹp, vui tuơi, đã biết thay cha đưa các em về viếng mộ phần ông bà nội ngoại. Lúc đầu, tôi có chút lo lắng vu vơ. Tại sao Vương Công Hi không viết cho vợ mà viết cho con, ông chúc vợ giữ lòng chung thủy, phải chăng có một ý nghĩ nào? Nhưng ở câu sau cùng, ông dặn: “Mẹ hãy khoan thăm ba”, vậy là bà vẫn thường xuyên thăm nuôi ông. Cái lo lắng vu vơ của tôi bị đánh tan khi tôi cho rằng con ông đã có phần nào hiểu biết, trong trường hợp này, người chồng viết lời âu yếm cho vợ không tiện. Ông bà Hi trưởng thành trong nền giáo dục nho phong, ở đây cả tình yêu và tình thương vợ chồng đều dồn cho các con, qua các con vợ chồng hiểu nhau và thương yêu nhau hơn. Tôi yên tâm về bà Hi, dù sau mỗi biến cố xã hội,nhiều gia đình cùng chịu ảnh hưởng lâm vào cảnh tan vỡ. Có không ít bà vợ đã bỏ chồng khi chồng đi cải tạo để chạy theo một người mới đang có quyền thế hoặc tiền của. Tôi lại giả sử, đứa con út ông Hi sinh năm 1975, đứa con đầu sinh cỡ trước sau năm 1970, nếu vậy ông đã bắt con cái gánh trách nhiệm tinh thần quá nặng nề: vừa thay cha làm tròn đạo hiếu với ông bà đã khuất, vừa giúp mẹ giữ lòng chung thủy như hoa hướng dương.
“Rồi đêm giao thừa lại qua đi…” Câu mở đầu của ông Hi trên tấm thiếp nhắc tôi câu văn của A.Tolstoi trong tiểu thuyết “Con đường đau khổ”: “Rồi năm tháng qua đi. Những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần, những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét. Chỉ còn lại tình em, dịu dàng, nhẫn nại và chan chứa yêu thương”. Thật là đẹp đẽ, thật là hạnh phúc, nhưng thực tế, khi chiến traanh qua đi, khi những cuộc cách mạng thôi gào thét, còn lại nhiều cay đắng, ngậm ngùi, đau đớn. Biết làm sao được!
Mùa xuân Nhâm Tuất 1982 đến nay… Chắc Vương Công Hi được phóng thích đã lâu, đoàn tụ với vợ con, ông lại là mặt trời cho lòng bà như hoa hướng dương mười phương đổ lại. Gia đình ông còn sống ở xứ sở này hay đã ra đi đến một đất nước xa lạ? Tôi biết, có nhiều người đã hăm hở ra đi, có nhiều người ra đi vì phải ra đi, chết cả cõi lòng chứ không phải chết một ít, có nhiều người nhất định ở lại. Mỗi người có một hoàn cảnh, mỗi người là nạn nhân, dù kẻ khác thấy khinh bỉ, tội nghiệp, yêu quý hay kính trọng. Nếu gia đình Vương Công Hi đã ra đi, cầu trời cho họ vẫn luôn luôn hạnh phúc ở cái xã hội thiếu vắng hình ảnh nho phong.
Buổi tối, tôi bỗng mơ thấy mình đang ngồi trong thư viện tra cứu. Một người đàn bà đứng tuổi đi vào. Bước chân khoan thai, dáng dấp tươi trẻ và một nụ cười. Người ấy gật đầu chào tôi.Tôi biết quen lắm mà không nhận ra, cười đáp lễ và cau mày cố nhớ. Người đàn bà hỏi sau khi tháo cặp kính nhạt màu ra khỏi mắt:”Không nhận ra sao?”. Rồi cúi xuống, cầm lấy cây bút và tờ giấy tới đặt bên cạnh để ghi chép, viết nhanh ba chữ “Lâm Ngân Sương”. Tôi chưa kịp nói gì thì thức giấc vì một tàu dừa khô rơi ào ngoài sân. Cuộc hội ngộ tức khắc tan biến, dù chẳng qua do tôi nghĩ ngợi mà có giấc mơ. Nói như Bình Nguyên Lộc thì giấc mơ tạo thành bởi ám ảnh của những hồn ma cũ. Ở thế hệ ông, những con ma áo tím và thời chúng tôi, những con ma áo xanh da trời.
Tối hôm ấy, tôi không phủ nhận đã dành nhiều tình cảm cho quyển tự điển Khai trí Tiến đức mới mua. Nó như một nhân chứng, dẫu chỉ thoáng qua, với mấy dòng chữ, một bức vẽ bút chì, đã đem về cho tôi đủ cả những suy nghĩ về Tuổi trẻ,Bạn bè, Chiến tranh, Tình yêu, Gia đình, Hợp và tan, Hạnh phúc và đau khổ… Một nhân chứng ít lời, chỉ thấp thoáng hé lộ cho thấy vài nét đơn sơ trong bức tranh chấm phá. Thành ra, nỗi thắc mắc của tôi, tại sao quyển sách của Lâm Ngân Sương lại lạc tới đây, tại sao trong đó có tấm thiếp Xuân từ trại cải tạo của ông Vương Công Hi, giữa bạn tôi và ông Hi có mối quan hệ nào chăng, quá khứ và hiện tại, những gì còn mất của mỗi người… dẫu muốn tìm lời giải đáp trong mộng cũng không thể nào giải đáp được. (Trần Huiền Ân)
**********************
P/S:TÌM RA NGƯỜI TRONG TRUYỆN
Truyện ngắn “Người chứng ít lời” đăng trên báo Thanh Niên cuối tuần (số ra ngày 10/10/1993) gây ấn tượng sâu sắc khiến mình quyết định giữ lại tờ báo. Một phần mình xúc động vì thấy thấp thoáng hình ảnh gia đình mình trong đó. Tuy chỉ là truyện ngắn nhưng không hiểu sao mình cứ tin đây là câu chuyện có thật và mình mong biết thêm thông tin về ông Vương Công Hi cùng gia đình.
Gần 30 năm, mình cứ mang nỗi day dứt không biết số phận của gia đình này cuối cùng ra sao. Với hy vọng có manh mối thông tin, sáng nay, mình đăng bài lên hai group có nhiều người Việt từng sống ở Sài Gòn. Chưa đầy 5 phút sau, mình đọc được bình luận từ người cháu ruột của ông Vương Công Hi. Theo lời anh, ông Hi nguyên là giáo sư Việt Văn của trường Mạc Đĩnh Chi (Sài Gòn). Vì là sĩ quan biệt phái nên sau 30/4/1975, ông đi tù cải tạo đến 8 năm. Hiện giờ ông sống ở Mỹ theo chương trình HO. Tuy không còn minh mẫn nhưng đáng mừng là ông bà vẫn còn khoẻ.
Cảm ơn anh đã cất bỏ cho tôi gánh nặng gần 30 năm nay.
·
Thanked by 1 Member:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Văn khấn cổ truyền Việt Nam |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
||
Truyện thần tiên- Cát Hồng |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
||
Túc Kê Linh Quái (Phương pháp coi giò gà bí truyền) - Hồ Quang |
Tủ Sách | administrator |
|
||
Michelle Obama BẢO VỆ Gus Walz sau Khoảnh khắc DNC lan truyền với Bố Tim Walz |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Tử vi Nam Phái chân truyền tiếng Trung quốc, bên trung quốc truyền, rất hiếm |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Elohim |
|
||
Dòng Họ (dòng di truyền) |
Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Elohim |
|
|
27 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 27 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |