#121
Gửi vào 22/10/2018 - 01:47
P/s: Tôi chẳng biết sao chứ cứ bị bắt đi tù là xấu.Như con chim chẳng tham đánh lộn sao mắc lưới,Như con cá chẳng tham mồi sao bị mắc câu?.
Khoe cái gì không khoe .Khoe cái đấm đá và đi tù =))))).
#122
Gửi vào 22/10/2018 - 02:34
Thanked by 5 Members:
|
|
#123
Gửi vào 22/10/2018 - 03:05
Thanked by 2 Members:
|
|
#124
Gửi vào 22/10/2018 - 06:58
Phải chấm dài vào cho mấy đứa tu duy kém chậm hiểu có thời giờ tiêu hoá.
#125
Gửi vào 25/10/2018 - 21:15
Chuyện Dinh Độc Lập: Bâng khuâng kiến trúc sư Ngô Viết Thụ
TP - Cảm giác bâng khuâng không chỉ khi đứng ở Dinh Độc Lập, công trình thiết kế của kiến trúc sư (KTS) Ngô Viết Thụ, mà mỗi khi chợt bắt gặp và phải chạm mặt với những mảng khối kiến trúc, trang trí rối rắm lòe loẹt hoa hoét tại một tư gia hay công sở nào đó, những khi ấy liền nghĩ ngay đến cái chất Ngô Viết Thụ dung dị uẩn súc hàm chứa bao liên tưởng tốt lành.
Không làm cái việc biên chép lại những thông số các hạng mục trong Dinh Độc Lập xây dựng hết những 150 ngàn lượng vàng thời 1960.
Cứ lẩn thẩn nghĩ thêm về một KTS từng được hai người mời một cách ưu ái khẩn thiết. Đó là Ngô Đình Diệm và Võ Văn Kiệt.
Ngô Viết Thụ quê Thừa Thiên có một tuổi thơ nhọc nhằn, túng thiếu. Phải ở với ông ngoại may được ông kèm cặp chữ Hán. Chả phải mệnh thân cư thê, nhưng quả chàng trai Ngô Viết Thụ mang ơn nhiều bên vợ. Năm 1948, học xong Trường Cao đẳng kỹ thuật Đà Lạt, được gia đình vợ giúp sang du học ở Pháp. Năm 1950, Ngô Viết Thụ thi đậu vào Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris.
KTS Ngô Viết Thụ
Đoạt giải khôi nguyên năm 1955, ông đỗ đầu giải kiến trúc La Mã, được Hội Kiến trúc sư Pháp tặng huy chương vàng. Muốn tham dự cuộc thi này, thí sinh phải có quốc tịch Pháp; tuổi dưới 25, độc thân và phải có đạo Thiên Chúa. Trong khi đó, Ngô Viết Thụ không có quốc tịch Pháp; tuổi đã 28, đã có vợ con và lại là Phật tử. Có lẽ tài năng đã cứu giúp ông. Ông đã lần lượt vượt qua 4 vòng của cuộc thi và có mặt trong số 10 người ở vòng cuối. Trong kỳ thi cuối cùng (100 ngày) thí sinh không được bước chân ra ngoài trường thi.
Bài thi Ngôi thánh đường trên đảo Địa Trung Hải, có ngôi thánh đường hình parabol trên mặt bể Địa Trung Hải như ẩn hiện dưới bầu trời. Kết quả khi bỏ phiếu của Ban giám khảo cuộc thi (28/29), ông đoạt giải nhất - gọi là Khôi nguyên La Mã (Premier Grand Prix de Rome); khi ấy ông 29 tuổi. Với việc đoạt giải Khôi nguyên La Mã của Viện Hàn lâm Pháp, ông được cấp học bổng 3 năm nghiên cứu và sáng tác tại các khu biệt thự Medicis thuộc tài sản Pháp ở La Mã. Một vinh dự lớn nữa, một triển lãm trình bày các sơ đồ kiến trúc mang tên Ngô Viết Thụ được Tổng thống hai nước Pháp và Ý đến cắt băng khánh thành.
Phòng làm việc của TT NVT
Vào những năm đầu 60, ngành quy hoạch trên toàn thế giới vẫn còn đang ở giai đoạn đầu phát triển, và tại Việt Nam lúc đó chỉ có ba người có cả hai văn bằng kiến trúc sư và văn bằng phát triển quốc gia tại nước ngoài là: KTS Huỳnh Kim Mãng (GS Cao đẳng kiến trúc Sài Gòn), KTS Lê Văn Lắm (giám đốc Tổng nha kiến thiết đô thị) và KTS Ngô Viết Thụ.
Năm 1960, KTS Ngô Viết Thụ về Sài Gòn làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm ở tuổi 30. Một thời kỳ sung sức, hứng khởi. Ông là tác giả nhiều đồ án xây dựng, kiến trúc đồ sộ, trong đó có Dinh Độc Lập, bây giờ là dinh Thống Nhất, Đại học sư phạm Huế, Trung tâm nguyên tử Đà Lạt. Đại Chủng viện Đà Lạt, Viện Đại học Huế, Làng Đại học Thủ Đức, chợ Đà Lạt, Khách sạn Hương Giang 1 Huế, Nhà thờ Phú Cam, Trụ sở Việt Nam Hàng không,Crystal Palace vv…
… Tới lui trên khoảng cỏ trước Dinh Độc lập, tôi ngắm ngó hồi lâu để cố mà vỡ vạc ra những nắc nỏm của thiên hạ rằng trong kiến trúc Dinh, yếu tố mỹ thuật và kỹ thuật luôn đổi mới sáng tạo, dung chứa một bản sắc độc đáo và triết lý sâu sắc. Trong công trình Dinh Thống Nhất, ông áp dụng khoa chiết tự vào thiết kế mặt đứng: chữ Vương và chữ Tam - tượng trưng cho Nhân, Minh, Võ đức - để nhắc nhở những ai chủ trì tại đó phải có tài đức của một nhà lãnh đạo. Chữ Chủ - giữ vững chủ quyền đất nước, chữ Khẩu - đảm bảo tự do ngôn luận của người dân, chữ Trung - trung với quốc dân, và chữ Hưng - làm cho đất nước hưng thịnh. Tổng thể khối kiến trúc Dinh thống nhất có hình chữ Cát hàm nghĩa tốt lành...
Hình như ý nghĩa chiết tự - triết học và cái t*o nhã của Dinh Độc Lập như một mục đích, cảm hứng chủ đạo là dân chủ đã rộng đường cho hậu thế, ngay từ lúc Dinh khánh thành (1966) đã mặc sức khen chê?
Chữ Trung, nếu là trung với vua, với nước thì phải có chữ Tâm ở dưới? Còn không thì trung chỉ mang nghĩa chính giữa. Chữ cát là tốt. Nhưng chiết tự, chữ cát có hình thót hậu. Về phong thủy, người ta kiêng kiểu đất thót hậu. Vượng địa phải là vuông vắn hay nở hậu, mới lâu dài, tốt đẹp.
Cũng như vậy, bao nhiêu những lời khen tặng về bức rèm đá hình cây trúc theo điển Tiết trực Tâm Hư của nhà Nho ca tụng khí tiết cương trực của người quân tử. Trúc tiết tâm hư thị ngã sư (lòng rỗng của đốt trúc đích thầy ta) Rằng đây là điều mà ông Diệm ưa thích. Quốc huy thời ông Diệm chính là cành trúc.
Tấm rèm đá này ở giữa với mục đích che chắn hung khí từ đại lộ Thống Nhất nhiễm vào và đón ánh sáng không khí tự nhiên ùa vào hành lang.
Các phòng trong Dinh Độc Lập
Có lẽ hiếm một công trình như Dinh Độc Lập tròn nửa thế kỷ dằng dặc những luận bàn này khác nhưng nó vẫn tồn tại vẫn trở thành một trong Trung tâm hành chính quốc gia mọi thời. Vẫn rốt cuộc một mẫu số chung là nó… lạ nhưng bắt mắt. Và đẹp!
Xin trích thêm bộc bạch của KTS Ngô Viết Nam Sơn (con trai cố KTS Ngô Viết Thụ) trong một bài viết về cha mình.
Về mặt phong thủy, đa số công trình cho các vị vua ngày xưa đều xây dựng theo triết lý bá đạo, tức là làm sao có lợi nhất cho chủ nhân, mà không tính đến chuyện gây hại cho người khác.
Với Dinh Độc Lập, cha tôi theo quan điểm vương đạo, tức là làm sao cho cộng đồng phát triển tốt, khi cộng đồng thịnh vượng, trong đó sẽ có mình. Nhiều người cho rằng trục chính đi thẳng vào dinh là xấu, nhưng cha tôi vẫn làm, và dùng hồ nước để hóa giải. Ông cho rằng, vua thì phải làm gương, phải đứng ra gánh vác, chiếu không ngay, không ngồi. Tôi tự hào về cha, và ảnh hưởng nhiều về phong cách Á Đông kết hợp với kiến trúc cổ điển Pháp trong các công trình kiến trúc của ông.
Trên nóc Dinh Độc Lập
Tài liệu còn lưu lại trong Dinh 40 năm trước
…Cha tôi là người khí tiết, không chỉ trong lời nói, mà cả hành động. Sau này ông Diệm muốn đưa cha tôi vào chức vụ Bộ trưởng Bộ Xây dựng, nhưng cha tôi từ chối. Lúc đó, làm bộ trưởng Xây dựng giàu sang, uy quyền lắm, phụ trách luôn cả xổ số kiến thiết.
Và vẫn luôn một KTS Ngô Viết Thụ đa tài! Trong lãnh vực hội họa, nội bộ tranh Sơn Hà Cẩm Tú gồm 7 bức, mỗi bức dài 2m, rộng 1m được trưng ngay trong chính Dinh Độc Lập đã khiến ông nổi danh. Lại thạo ngón chơi đàn Tranh, đàn Kìm và Sáo. Ông để lại hàng trăm bài thơ và bài viết.
Ông Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) dường như tìm đến ông hơi bị muộn? Đó là thời điểm sau khi ông Thụ đi học tập cải tạo 1 năm trở về…
Lúc rời Dinh nhớ thêm chi tiết của người hướng dẫn, Ban tổ chức đám tang KTS Ngô Viết Thụ đã cho dừng linh cữu xe tang trước cổng Dinh Độc Lập để vong hồn ông được nhìn lại lần cuối tác phẩm ông đắc ý nhất trong số các tác phẩm kiến trúc mà ông đã thực hiện trong suốt cuộc đời.
[indent]
KTS Ngô Viết Thụ dường như đã thanh thản ra đi 15 năm trước bởi có người con trai tài danh đã kế được nghiệp mình. Đó là TS.KTS Ngô Viết Nam Sơn có hơn 20 năm trong ngành kiến trúc và quy hoạch, từng thành công với nhiều dự án lớn ở Mỹ như đại học Washington tại Seattle. Đại học California tại San Francisco; dự án quy hoạch khu nhà ở thương mại cao cấp Lachine ở Montreal (Canada); quy hoạch xây dựng Phố Đông và hai bờ sông Hoàng Phố (Thượng Hải - Trung Quốc); quy hoạch đô thị mới Filinvest (Philippines); Almaden Plaza, San Jose (Mỹ)...; thành viên nhóm thiết kế khu đô thị Nam Sài Gòn, quy hoạch khu đô thị Hà Nội Mới, quy hoạch lại Đà Nẵng, Phú Quốc…[/indent]
Xuân Ba
Thanked by 3 Members:
|
|
#126
Gửi vào 26/10/2018 - 07:13
Thanked by 1 Member:
|
|
#127
Gửi vào 30/12/2018 - 13:13
Con đường Chiêm không có ê
09:02 - 30/12/2018 Thanh Niên
Con đường nhỏ dài chưa đầy 100 m nhưng thuộc loại là “đường lớn” - có quán, nhà hàng mà các đại gia ở Sài Gòn hay tụ tập.
Đường Nguyễn Văn Chiêm (Q.1)
Ảnh: Ngọc Dương
Ấy là con đường mang tên Nguyễn Văn Chiêm, bên tay phải (từ hướng Phạm Ngọc Thạch đi vào) là tòa nhà Diamond Plaza, bên tay trái là sân quần vợt của Nhà văn hóa Thanh niên. Đi lên phía trên một chút là nhà hàng Thanh Niên - nơi ăn sáng, ăn trưa bàn công việc của rất nhiều đại gia.
Thời gian gần đây, để tiện phục vụ ăn uống lề đường cho người dân, UBND thành phố chọn con đường này để mở khu buôn bán thức ăn đường phố từ tháng 8.2017. Bởi vậy, khu lề đường Nguyễn Văn Chiêm sáng, trưa, chiều tối tấp nập người dân buôn bán, hay dân công sở chung quanh khu vực này ra vào.
Nhiều sử gia lề đường cắc cớ hỏi vậy chứ ông Nguyễn Văn Chiêm là ai? Nhân vật lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm hay danh nhân văn hóa thuộc lĩnh vực văn chương, giáo dục thời kỳ nào? Ngay cả hai bậc thức giả Nguyễn Q.Thắng -Nguyễn Đình Tư trong quyển Đường phố TP.H.C.M (NXB Văn hóa - Thông tin năm 2001) cũng chẳng thấy đề cập.
Một tay vợt xuất sắc từng tranh giả thế giới
Một số tài liệu rải rác trên mạng cho thấy có lẽ đây là con đường duy nhất của VN mang tên một nhà hoạt động thể thao? Tìm trong tư liệu đây đó thì được biết con đường này mang tên một nhà vô địch quần vợt đầu tiên của VN tên là Nguyễn Văn Chim (1899 - 1952). Người viết biết tên ông Chim cùng một tay vợt khác nữa là Giao (Huỳnh Văn Giao) từ quyển tiểu thuyết Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng khi nhà văn này nói về ước mơ của Xuân Tóc Đỏ là “trở thành Chim và Giao trong môn “ban quần”. Báo Phụ Nữ Tân Văn số ra ngày 1.8.1929 có viết: “Hai tay đánh banh vợt đại tài của ta là Chim -Giao bữa trước còn tức khí với nhau người này hơn người kia, cho nên ngày thứ bảy 20.6 mới rồi, hai bên thử tài nhau những 5 set. Bữa đó Chim đã thắng Giao vậy đủ chứng rõ rằng trong nghề múa vợt, Giao chưa hơn thầy học của mình”.
Chim nổi danh đến nỗi tên được dùng để quảng cáo bán vợt trên báo Écho Annamite ngày 9.9.1927: “Các vợt của Lamquang và Chim được làm theo những dữ kiện từ vợt của hai nhà đại vô địch Nam Kỳ của chúng ta Lâm Quang Vinh và Chim đã thắng vẻ vang trên khắp Nam Kỳ. Bởi những đặc trưng mới, đã thu hút sự chú ý của các nhà chơi thể thao quần vợt mong muốn cải thiện lúc mình chơi quần vợt đánh với vận tốc thật nhanh. Quí vị hãy chơi với hai cây vợt này của Lamquang và Chim. Tên tuổi của họ là đủ quảng cáo cây vợt rồi…”.
Trước đó, ở trong nước cặp Chim - Giao đã hạ các tay vợt vô địch người Pháp nổi danh như Cochet, Tilden… Tháng 8.1929 Nguyễn Văn Chim và Huỳnh Văn Giao được mời tranh giải quần vợt Mã Lai tại Singapore. Sự kiện này được dân ái mộ thể thao Nam Kỳ ủng hộ nhiệt liệt. Ba kép hát của gánh Trần Đắt đã trình diễn ngày 30.6 năm đó ở nhà hát gây quỹ cho hai nhà thể thao Chim và Giao đi dự giải quần vợt Mã Lai. Sau đó báo chí Pháp đưa tin Chim và Giao giành được chức quán quân quần vợt đánh đôi.
Theo tài liệu của ông Nguyễn Đức Hiệp, một nhà nghiên cứu, thì "năm 1931, với danh tiếng vô địch quần vợt Đông Dương, Nguyễn Văn Chim và Huỳnh Văn Giao được mời qua Pháp và Anh tham dự hai giải Grand Slam lớn nhất mà tất cả các tay quần vợt trên thế giới đều mơ ước được tham dự: giải quần vợt Pháp mở rộng và giải Wimbledon ở Anh. Đây là lần đầu tiên có hai người VN tham dự các giải Grand Slam.
Nguyễn Văn Chim đánh với Jean Borotra, tay vợt nổi tiếng của Pháp, một trong “4 chàng ngự lâm pháo thủ” (4 mousquetaires) thời đó, vô địch 15 lần hai giải Grand Slam (9 lần vô địch giải quần vợt Pháp mở rộng và 6 lần vô địch giải Wimbledon). Với một đối thủ như vậy Chim tuy thua 4-6, 3-6, 3-6 nhưng đã gây ấn tượng trong giới quần vợt thế giới.
Khi mất, ông Nguyễn Văn Chim được dựng tượng và chôn trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (công viên Lê Văn Tám bây giờ). Vào tháng 10.1955, tên ông đã được chính quyền khi đó dùng để thay tên cho đường Mac Pourpe (trước đó là đường Square) thời Pháp thuộc. Nhưng có điều là không biết tại sao từ Nguyễn Văn Chim đã biến thành Nguyễn Văn Chiêm miết từ đó tới giờ? Khi phát âm thì Chim hay Chiêm gì cũng na ná như nhau, chỉ khác nhau khi viết là có dư thêm chữ ê mà thôi!
Con đường cũng không quá dài, có quá nhiều địa chỉ để gây rắc rối cho số đông - nên chăng Hội đồng đặt tên đường của thành phố dịp nào đó thẩm định và có quyết định điều chỉnh lại viết cho đúng tên một nhà thể thao hiếm hoi được đặt tên đường.
LÊ VĂN NGHĨA
30/12/2018
Thanked by 2 Members:
|
|
#128
Gửi vào 21/01/2019 - 09:14
Xin giới thiệu một bài viết về ông.
TÀN MỘT CUỘC CHƠI...
Đoàn Dự
“Rốt cuộc, mọi người đều thấy đời mình chỉ là một cuộc chơi”
(Nhạc sĩ Phạm Duy)
THƯA QUÝ BẠN, cổ nhân có câu: “Nhân tình như chỉ, trương trương bạch. Thế sự như kỳ, cục cục tân” – (Nhân tình như giấy, mỗi trang đều trắng. Chuyện đời như cờ, mỗi ván đều mới). Trước đây tôi đã trình bầy hầu quý bạn đời sống như một cuộc chơi của vị học giả kiêm nhà “cổ ngoạn” – người chơi đồ cổ – nổi tiếng Vương Hồng Sển. Nay, tôi xin trình bầy tiếp chuyện sau khi “cuộc chơi” của cụ đã tàn thì con cháu cụ ra sao. Sự thực, ngay người con trai duy nhất của cụ – anh Vương Hồng Bảo – đời sống của anh cũng giống như một cuộc chơi vậy thôi và anh đã chết trong tù. Trước khi mời quý bạn coi chuyện con cháu cụ Vương hiện nay, tôi xin thuật lại các chuyện về cụ để quý bạn hiểu rõ.
Thân thế, tình yêu và sự nghiệp của cụ Vương Hồng Sển
Cụ Vương Hồng Sển là người mê đồ cổ. Nhưng mê đến nỗi hai lần bị vợ bỏ và tự mình viết cuốn “Hơn nửa đời hư” hết sức thành thật để kể lại chuyện “hư” do tính đam mê đó thì thật hết mức!
Trước đây, nghe nói về những cổ vật và các cuốn sách không ai có nổi của Vương lão gia, nhiều người tự hỏi rằng ông lấy tiền đâu mà mua được như vậy? Sau này, đọc sách do ông tự thuật, người ta mới hiểu thì ra trời sinh ra ông có những đam mê thì cũng sinh ra ông có những gặp gỡ khiến ông “nặng túi”, dư sức mua các báu vật. Ví dụ đang không lấy gì làm giàu có lắm, cưới vợ xong, gia đình bên vợ cho vợ chồng ông số tiền hồi môn tới 600 đồng – một con số khủng khiếp lúc bấy giờ – cộng với một ngôi nhà ở ngoài mặt đường La Grandière (đường Gia Long cũ, bây giờ là Lý Tự Trọng, quận 1), trị giá tới 1.000 đồng, đâu phải chuyện nhỏ? Thế rồi, lần cưới vợ thứ hai, đang làm nhân viên tại Trường Máy (nay là trường Kỹ thuật Cao Thắng) ở Sài Gòn, ông đổi về làm nhân viên kế toán tại tòa bố (tòa tỉnh trưởng) Sa Đéc, hai vợ chồng phải ở nhà thuê. Tự dưng bà cô vợ là một trong số 4 người giàu có nhứt miền Tây lúc ấy, cho hai vợ chồng ông 240 mẫu ruộng ở Hoà Tú, Sóc Trăng, cộng với một hộp gồm 320 hột xoàn, ấy là chưa kể các hộp khác đựng vòng vàng, xuyến vàng, cà rá, bông tai…, ông “nghèo” sao được?
Lúc còn sinh tiền, ngoài 80 tuổi Vương lão gia vẫn tiếp tục là người bộc trực, vui tính và… thích tiếu lâm. Quý bạn thấy trong sách của ông có những câu “tả chân” như thế này thì cũng… hết chỗ nói luôn:
“Hai quả núi vàng pha núm tuyết
Một khe hang ngọc nức mùi hương”
Ông kể trong cuốn Một nửa đời hư:
“Tôi sanh năm Nhâm Dần (1902), ngày 27 tháng 9 ta. Nhà cha tôi ở châu thành Sóc Trăng nhưng khi sanh, mẹ tôi về quê, sanh tôi tại làng Xài Cá Nả (bây giờ là làng Đại Tâm)”.
Học giả Vương Hồng Sển được người đời tôn vinh là nhà khảo cổ tầm cỡ thế giới. Nhưng về tình duyên ông thiếu may mắn: Hai lần đổ vỡ. Điều này chúng ta có thể thấy được qua những trang sách hóm hỉnh, sâu sắc trong tập hồi ký Hơn nửa đời hư của ông. Ông viết rất nôm na, chân thật, không chút giấu diếm.
Người vợ đầu tiên của ông tên Trần Thị Thố. Lúc bấy giờ, ông đã đậu bằng Brevet Elémentaire (ngoài Bắc thường gọi là bằng Diplôme) tại trường Chasseloup Laubat (nay là trường Lê Qúy Đôn) ngày 18. 6.1923. Sau đó ông thi đậu cuộc thi tuyển chọn người làm thư ký cho nhà nước và được bổ nhiệm công tác tại “Trường Máy” trên đường Đỗ Hữu Vị (nay là đường Huỳnh Thúc Kháng) Sài Gòn.
Sau khi làm việc được một năm thì ông cưới vợ. Đám cưới diễn ra vào ngày 16. 6.1924 theo đủ lễ, có coi tuổi, coi ngày chu đáo. Nàng sinh năm 1910, lúc ấy mới 14 tuổi. Còn chàng, sinh năm 1902, lúc ấy 22 tuổi, quá đẹp! Thế nhưng, chỉ chín tháng sau hai vợ chồng trẻ đã đưa nhau ra tòa và ngày 12.4.1926 tòa cho ly dị dù “chưa nát chiếc chiếu tân hôn”.
Lỗi thuộc về ai? Sau này, ông viết:
“Lỗi tại người đàn bà theo mặt luật pháp, mà đúng ra lỗi về người đàn ông ham mua sách và mê đọc sách đến quên người vợ trẻ nằm kề bên. Tiền hồ đám cưới được 600 bạc là một số tiền kếch xù, lại tiền ông nhạc cung cấp mỗi tháng không phải là nhỏ, cộng với sáu bảy chục bạc tiền lương, chỉ vèo trong mấy tháng, kết quả tủ sách không còn chỗ để, mà ái tình đã nhẹ bước ra đi. Ai chịu nổi với thằng chồng như vậy?”
Sau khi ly dị, ông còn lại căn nhà ở số 214 đường La Grandière (trước là Gia Long, nay Lý Tự Trọng, Sài Gòn), đem bán được 1,000 bạc. Không dám giữ số tiền quá lớn này trong mình vì ông biết tính mình quen tiêu xài lớn, sợ xài hết tiền, ông đem gửi một người bạn thân tên Nguyễn Văn Xuân. Không ngờ “đem trứng gửi cho ác”, đến lúc cần lấy lại thì bạn đã đánh bạc thua sạch!
Chừng hơn năm sau, tiếng sét ái tình lại đến với ông. Cô tư Dương Thị Tuyết, cháu bà Phủ An (đây là “Phủ” hàm, trong Nam không có chức quan phủ, quan huyện như ngoài Bắc). Đám cưới diễn ra vào ngày 9.11.1927. Nàng sinh năm 1911, lúc ấy 16 tuổi. Còn chàng, 23 tuổi. Hôm đám hỏi, ông bà nhạc (tên là ông Kính, trong lời tự thuật không hiểu sao ông thường gọi là “thầy Kính”) chê lên chê xuống là không có kim cương hột xoàn mà chỉ có mười lượng vàng đôi (vàng đã đánh thành đồ gia bảo, từng đôi một như cặp xuyến, cặp kiềng, theo số chẵn để tiện khi cưới hỏi). Nhưng đối với ông, đây là vốn liếng của mẹ ông khi chết để lại cho ông nên nó vô giá, bên vợ đâu có hiểu điều đó, họ cứ chê trách.
Hôm ấy đám cưới thật linh đình, thân phụ của nghệ sĩ Hữu Phước (ông nội ca sĩ Hương Lan) là ông Bảy Cảnh làm phụ rể. Không biết rể phụ bưng thế nào mà cái chạo rượu lễ khi rót ra không còn một giọt! Điềm gở chăng? Lại nữa, căn phòng tân hôn đêm đó được cha mẹ cô dâu “mượn tạm” làm chỗ đánh bạc khiến hai người không có chỗ ngủ!
Cưới vợ xong, ông ở chung với gia đình vợ tại ngôi nhà số 260 đường Richaud (trước 75 là đường Phan Đình Phùng, Đa Kao, nay là đường Nguyễn Đình Chiểu, Q.1). Thời gian này họ sống với nhau cực kỳ hạnh phúc và ăn xài “như nước vỡ bờ”. Sau đó, họ dọn về nhà số 69 đường Taberd (nay là đường Nguyễn Du).
“Vợ tôi mới 16 tuổi, không biết lo gì hết. Lương tôi tám chục đồng, vừa bằng với lương thông phán của ông già vợ nhưng tôi dạy thêm Việt ngữ cho bốn anh Tây, mỗi anh hai chục, mỗi tháng kiếm thêm được tám chục nữa, vậy mà tháng nào cũng sạch bách, nhiều bữa ngồi sụ một đống, mẹ vợ đi đánh bài tứ sắc về phải cho 5 đồng, hai đứa dẫn nhau đi ăn cơm nhà hàng Yeng Yeng chớ không bao giờ ăn cơm nhà…”.
Rồi mẹ vợ mất. Bản thân ông đã rời Trường Máy, đổi về tòa bố Sa Đéc. Vợ ở Sài Gòn, chồng ở Sa Đéc.
“Lúc này thân tôi như chiếc thuyền bé gặp cảnh bão táp, tai họa dập dồn. Vì không lo xa nên không dành dụm được xu nào”. Vợ chồng ông bèn cùng dọn về Sa Đéc, ngụ tại nhà số 106 đường Vĩnh Long, ít lâu sau lại dọn về nhà số 2 đường Vĩnh Phước – sát với dốc cầu Sa Đéc. “Tại đây, cách xa gia đình nhà vợ, tình duyên của tôi và Tuyết đằm thắm như hai con chim thoát khỏi ổ mẹ, ríu rít trên cành, rất tự do, đói bụng mà vui, nghèo mà hạnh phúc…”.
Nếu cứ như thế mãi chắc họ sẽ không chia lìa nhau. Số là ngày 20 tháng 11 năm 1928, họ gặp cứu tinh là bà Phủ hàm Lê Văn An, nghiệp chủ ở Sóc Trăng. Bà lên Sa Đéc dự tiệc cưới tại nhà thầy Cai tổng Nguyễn Tấn Cao tự Keo.
“Tôi và Tuyết cũng có mặt ở đó. Tuyết kêu bà là bà nội nhưng sự thiệt là bà cô ruột (tức em ruột của ông nội). Bà cháu nhận nhau, tôi còn nhớ lời bà nói hôm ấy:
“t*o nghĩ tội nghiệp cho con cháu nội của t*o nay đã côi cút, mất mẹ. Chớ nếu mẹ nó còn sống, dầu nó ngậm ngọc mà nói t*o cũng không màng. Thằng Tư (tức là tôi) mầy không biết chớ mẹ nó lúc trước cùng với chồng nó là thằng Kính đi kiện bà đây đặng tranh gia tài, bà còn tích giận. Nay thấy vợ chồng bây nghèo túng bà động lòng thương. Bây ráng ăn ở cho có hậu thì bà không bỏ tụi bây đâu”.
Ba năm sau, ngày 6 tháng 5 năm 1931, bà Phủ An qua đời. Trước khi mất, bà để lại di chúc, cho vợ chồng ông Vương Hồng Sển 220 hecta ruộng tốt trong làng Hoà Tú, 8.000 đồng tiền mặt và một số tư trang gồm không biết bao nhiêu là kim cương hột xoàn, riêng một hộp cũng đã có 320 hột, không kể bông tai, cà rá bằng vàng, nhiều không tưởng tượng nổi…
“Nhưng than ôi, cũng vì tiền quá nhiều mà nhơn tâm thay đổi. Sau 19 năm, từ 1927 đến 1946, vợ chồng đang ăn ở với nhau như bát nước đầy bỗng Tư sanh tâm ôm cầm sang thuyền khác. Án ly dị đề ngày 7 tháng 7 năm 1958. Thế là tan vỡ duyên nợ. Em bảo chia ruộng, chia vàng bạc, chia kim cương hột xoàn, tôi bảo để cho em hưởng trọn”.
“Em ôm mớ hột xoàn và các vòng vàng, xuyến vàng, cà rá, bỏ tôi bơ vơ một mình với mớ đồ cổ cùng các chén bát cũ, các sách rách bìa xác xơ mà em cho là vô dụng cũng như chủ của nó…”.
Sau đó ông ở với người khác, không có hôn thú, không có đám cưới đám hỏi nhưng lại bền chặt và hạnh phúc cho đến cuối đời. Người đó chính là bà Nguyễn Kim Chung, một nghệ sĩ lừng lẫy danh tiếng trên sân khấu miền Nam thuở trước với nghệ danh Bà Năm Sa Đéc.
Về cuối đời, học giả Vương Hồng Sển đã dành cho bà nhiều tình cảm trân trọng và đầy yêu dấu: “Người thứ ba nầy đã khóc với tui biết bao nhiêu là nước mắt”. Và theo ông: “Một khi đã có con trai nối dõi, tờ hôn thú vẫn là thừa”.
Bà Năm Sa Đéc qua đời 29 năm sau, tức năm 1987. Còn ông mất sau đó mười năm, tức năm 1996, thọ 94 tuổi. Trước khi mất, ông lập di chúc tặng tòan bộ các bảo vật, đồ cổ, sách ốc và cả ngôi nhà của ông cho nhà nước và các thế hệ mai sau. Đây là một kho tàng vô giá không ai có thể xác định rõ được giá trị của nó như thế nào. Ví dụ chiếc giường của một vị quý phi triều Nguyễn; một bộ gồm đầy đủ 211 số Nam Phong Tạp Chí mà theo ông cho biết, năm 1954, chỉ cần 60 số thôi ông cũng đã phải đổi cho một bà người Bắc vừa di cư vào Nam một căn nhà lầu đủ cho gia đình bà ở. Rồi thủ bút của học giả Petrus Trương Vĩnh Ký, thủ bút của học giả Huỳnh Tịnh Của với cuốn Quấc âm Tự vị in lần thứ nhất khi tiếng Việt hãy còn manh nha. Rồi các lọ độc bình, các chóe cổ từ đời Tống, đời Minh..vv.. Không vàng bạc nào có thể mua được. Chúng sẽ bị hao hụt đi thôi.
Chúng ta nên nhớ Thư viện Khoa học Xã Hội & Nhân Văn (ngày trước gọi là Thư viện Gia Long, nằm trên đường Gia Long, đối diện Bộ Quốc Phòng VNCH, khoảng giữa đường Tự Do nay là đường Đồng Khởi và đường Pasteur) đã có từ thời Pháp thuộc, giá trị như thế, sang trọng như thế, đã có biết bao nhiêu con người, bao nhiêu thế hệ thành công trên đường học vấn từ thư viện này. Nhưng nay, nếu bạn muốn mượn một cuốn sách, số hiệu trong thư mục thì có nhưng sách thì không. Người ta đã lấy trộm hoặc bán trộm mất rồi.
Kho tàng đồ cổ và các sách cổ quý còn hơn vàng của đại lão gia họ Vương rồi cũng sẽ thế thôi, không thể hơn được, đáng tiếc thay! Tại sao lại mất? Bởi vì các nhân viên thay nhau trực hàng đêm. Đêm nay người này lấy trộm một hai món. Đêm mai người khác lấy trộm một hai món. Vài ba năm kiểm tra lại một lần, đối chiếu với danh sách thấy mất nhưng không biết ai lấy, chẳng lẽ lại đuổi tất cả? Hơn nữa “cấp trên” đi kiểm tra cũng có trách nhiệm, thôi thì im lặng là hơn!
Bà Dương Thị Tuyết mất ngày 4-7-1992, thọ 81 tuổi. Bà Trần Thị Thố mất ngày 18-1-1992, thọ 82 tuổi. Cả hai bà đều không có con với ông. Riêng bà Năm Sa Đéc thì có, cả con trai lẫn con gái, người con trai tên Vương Hồng Bảo nhưng tài năng kém xa ông, không nối được nghiệp của cha.
Chuyện gia đình tang thương của cụ Vương Hồng Sển
“Tôi lấy anh Vương Hồng Bảo năm 1979, có ba đứa con. Chúng là tài sản lớn nhất của tôi”. Chị Liên con dâu cụ Vương Hồng Sển mở đầu câu chuyện kể về đời làm dâu gian truân của mình như thế.
“Ngoảnh lại, thấy bố chồng, chồng mình đều đã ở nơi chín suối. Cuộc đời vàng son như trong Hồng Lâu Mộng…”.
Ngày xưa lá ngọc cành vàng
Vương Hồng Bảo, chồng chị Liên, mất năm 1998 trong tù. Các con chị Liên đã lớn. Chị nói: “Ngày trước tôi rất sợ chết vì lo các con mồ côi cha, mồ côi mẹ. Nay các con tôi đều đã trưởng thành, tôi nhắm mắt cũng được rồi… Tiếng là làm dâu cụ Vương Hồng Sển, danh gia vọng tộc mà tôi chẳng nhận được một cái gì. Hộ khẩu tôi cũng chẳng có ở nhà này. Nhưng thực lòng tôi không tiếc”.
Chị Võ Ngọc Liên (sinh năm 1951) và anh Vương Hồng Bảo cùng học trường Tây, quen nhau từ nhỏ. Lớn lên, chị lập gia đình với một bác sĩ người Pháp, có một đứa con, rồi ông bác sĩ mất. Còn anh Bảo, chính chị đã làm mai mối anh Bảo cho người bạn gái gốc Ấn Độ rất đẹp. Họ có hai con, mất một con. Năm 1978, người vợ Ấn này đưa đứa con gái đi khỏi Việt Nam. Chị Liên và anh Bảo, người góa chồng, người không có vợ, về sống với nhau (năm 1979).
Khi đó họ cùng làm trong một hãng phim của nhà nước. Anh làm kế toán, chị làm chuyên viên hóa trang. Chị về làm dâu cụ Vương Hồng Sển, bước vào tòa nhà cổ lừng lẫy danh tiếng tại đường Nguyễn Thiện Thuật Gia Định với hàng ngàn món đồ cổ quý giá. Nhưng chị không có hộ khẩu trong gia đình dù đã sinh ba đứa cháu nội cho cụ Vương.
Chị nhớ lại: “Lúc đó cây cối um tùm. Nhà cửa thâm u. Khi tôi sanh cháu nội cho ông, ông nói với má tôi: “Con Liên nó trúng số độc đắc”. Có lần, ông chỉ những món đồ cổ quý giá cho tôi coi. Ông nói: “Con ơi, món này 30 cây, món kia 200 cây…”. Ông sợ rằng khi ông chết, tôi không biết giá trị của chúng, sẽ làm tiêu tán tài sản nên dặn dò như vậy”.
Chị Liên kể tiếp: “Cụ Vương có ba đời vợ. Nửa đời mới có được một con trai là anh Bảo trong khi người Hoa rất quý con trai. Bây giờ tôi sanh cháu nội, cụ mừng lạ thường”.
Làm dâu nhà cụ Vương Hồng Sển – một nhà sử học danh tiếng, một nhà văn hóa đã viết trên 20 cuốn sách, một người chơi đồ cổ nổi tiếng hạng nhất Sài Gòn, một biểu tượng của văn hóa miền Nam – quả không phải chuyện dễ dàng. Chị cho biết, khi có khách đến chơi, khách cỡ nào thì đứng ở ngoài cửa nói chuyện, khách cỡ nào thì được mời vào bàn trà ở phía bên trong, khách cỡ nào được mời đến cái bàn ở bên trong nữa, phía trước bàn thờ, khách cỡ nào thì được mời vô phòng khách…, tất cả những việc đó cụ Vương đã quy định rõ ràng, mọi người phải theo.
“Tôi là một chứng nhân sống trong ngôi nhà danh tiếng ấy – chị Liên nói – Ông cụ sống rất giản dị. Mẹ chồng tôi là bà Năm Sa Đéc cũng góp phần gây dựng nên sự nghiệp, nhưng sự thực bà cụ chưa được hưởng gì”.
Tiếng là làm dâu nhưng chị Liên chẳng có gì: “Cái xe hơi riêng tôi cũng không có. Đi học lái xe, ông cụ sợ gây tai nạn. Học bơi thì cụ sợ tôi chết đuối. Học đàn thì cụ bảo: Mày đàn như đứa mù vậy”.
Chị làm dâu 10 năm (1979-1989), lương chuyên viên hóa trang ở hãng phim được bỏ vào túi xài riêng. “Mỗi tháng ông cụ phát tiền chợ, tiền mua 1 tạ gạo, tiền đóng học phí của ba cháu nội, tiền đổ rác, tiền công người giúp việc, tiền lương người quản gia, tiền bà cụ ăn sáng, tiền cho hai vợ chồng tôi ăn sáng…, tất cả mọi thứ tiền đều do cụ đích thân phân phát”.
“Vì cuộc sống quá an bình, chẳng phải lo nghĩ gì nên tôi không hề giành giật với ai. Khi chồng tôi có nhân tình, tôi bèn bỏ về nhà cha mẹ ở gần chợ Bến Thành”. Chị ra đi, buồn bã lắm, để lại ba đứa con ở ngôi nhà cổ. Chị bảo chồng: “Giữa hai người đàn bà anh phải chọn một. Có họ thì không có tôi, có tôi thì không có họ”. Nhưng anh không thể “chọn” được bởi vì còn vướng mắc tiền bạc rất lớn với người đó.
Chuyện nợ nần
Khi chị Liên và anh Vương Hồng Bảo còn làm trong hãng phim, cuộc sống rất yên bình. Rồi hãng phim giải thể, anh Bảo xin vào làm trong Công ty Vàng bạc và Đá quý. Vốn là một nhân viên kế toán, anh thấy công ty lời rất lớn, nhất là lại kết hợp việc làm ăn với bên Trung Quốc thì lời không biết bao nhiêu mà kể. Anh bèn bỏ Công ty Vàng bạc và Đá quý, ra mở tiệm vàng riêng và thường sang Trung Quốc giao dịch. Anh Bảo – kể cả chị Liên – học chương trình Pháp từ nhỏ nên rất giỏi tiếng Pháp và tiếng quan thoại. Đó là những ngày tháng vô cùng quan trọng đã quyết định cuộc đời của vợ chồng anh Bảo. Anh là “tay mơ”, không thể chống chọi với những tay sừng sỏ ở bên Trung Quốc, nên sau một thời gian buôn bán, anh bị lừa gần hết tiền.
Chị Liên kể: “Chồng tôi đem 300 cây vàng đi mở cửa tiệm và buôn bán vàng bạc và đá quý với bên Trung Quốc. Ít lâu sau, chỉ còn lại khoảng 20 cây. Ảnh bảo: “Em sang Trung Quốc đòi tiền giùm anh đi”. Tôi nói: “Em là phụ nữ, có biết gì đâu mà đòi. Người ta đã cố tình lừa đảo, em qua bển chúng giết em, em sợ lắm”. Vậy là thôi, ảnh cũng không đi, vậy là mất tiêu gần 300 cây vàng lúc đó cực lớn”.
Những thất bại trong chuyện làm ăn khiến anh Bảo rất buồn. Anh tiếc của nên kết hợp với cô nhân tình tên là Phạm Thị Hồng, một người rất ghê gớm, tìm cách lừa đảo nhiều người khác để… làm giàu và anh Bảo lấy lại của cải đã bị bên Trung Quốc lừa gạt.
Chị Liên kể: “Tôi mất tất cả. Chồng và cô Hồng nhân tình của chồng vào tù với án chung thân. Anh chết trong tù (1998). Có người nói anh buồn quá nên tự tử mà chết. Ba chồng tôi cũng mất trước đó 2 năm (1996). Gia đình bỗng chốc tiêu tan. Trước khi mất, phần vì giận anh Bảo làm mất thanh danh của mình, phần vì sợ không ai cáng đáng nổi cơ nghiệp nên cụ lập di chúc tặng ngôi nhà cùng toàn bộ các đồ cổ có giá trị không biết bao nhiêu mà kể cho nhà nước. Khi cụ mất là cán bộ văn hóa và công an đến kiểm kê ngay. Tôi từ nhà ba má tôi ở gần chợ Bến Thành trở lại ngôi nhà này để chăm sóc ba đứa con còn nhỏ dại, lần hồi kiếm sống, chạy ăn từng bữa với khoản nợ nần không biết lấy gì mà trả theo lịnh của tòa án do chồng tôi ở trong tù để lại cho gia đình. Giả thử nếu cụ còn sống và không hiến toàn bộ cổ vật kể cả ngôi nhà cổ cho nhà nước, đem bán để trả thì cũng đỡ hơn… ”.
Chuyện ngôi nhà cổ hiện nay
Chị Võ Ngọc Liên kể tiếp: “Giờ tôi thường đi nhà thờ mỗi ngày. Đứa con gái lớn của tôi cứ 5 giờ chiều là mở cửa hàng bán ốc. Ban ngày, chúng tôi cho thuê mặt bằng để họ bán cơm bình dân, mỗi ngày thu 60 ngàn đồng cho mướn, lấy tiền đong gạo”.
Theo di chúc của cụ Vương Hồng Sển, ngôi nhà cổ được hiến cho nhà nước làm nơi trưng bày các cổ vật của cụ và lập một cái quỹ văn hóa mang tên Vương Hồng Sển. Các cổ vật đã được đưa vào Viện Bảo tàng cất giữ. Nhưng chuyện bàn giao ngôi nhà cho nhà nước để tôn tạo làm di tích thì không hề đơn giản.
Chị Liên xót xa: “Căn nhà này danh tiếng bao nhiêu thì càng đau khổ bấy nhiêu. Phải chi cụ có một ngôi nhà bình thường không chừng lại sướng” .
Ba cháu nội cụ Vương Hồng Sển, con của chị Liên, cháu lớn nhất tên Vương Hồng Liên Hương (sinh năm 1983), ở nhà bán ốc. Hai em trai là Vương Hồng Bảo Thành, Vương Hồng Bảo Minh đang đi làm ở các công ty với đồng lương ít ỏi.
Việc giải quyết nhà cửa cho con cháu của cụ Vương Hồng Sển vẫn chưa đến đâu. Các cơ quan chức năng muốn đền bù, đưa gia đình ra khỏi di tích để tu sửa, tôn tạo. Nhưng qua thời gian dài, chưa tìm được phương cách nào.
Ngôi nhà cổ xuống cấp, hư hại nghiêm trọng, có thể sập bất cứ lúc nào. Nhiều người chung sống trong căn nhà, “Khi mưa, trong nhà dột chẳng kém ngoài trời”. Phần nhà cơi nới ra cũng hư hỏng nhiều.
Vương Hồng Liên Hương nói với các phóng viên: “Chúng tôi muốn bình yên. Tôi muốn sống ở đây. Giờ biết sống nơi nào. Các em của tôi cũng đã lớn.Tôi muốn yên tâm bán ốc để sống. Tôi cũng đã ngoài ba mươi tuổi rồi, có chồng, có con rồi. Nhà này giờ không còn gì hết, chỉ còn cái xác thôi, mà cũng không được xây dựng, sửa chữa gì cả”.
Ngôi nhà cổ đã được công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố từ năm 2003. Đến giờ, trông nó chẳng khác gì một phế tích mà các con cháu sinh sống trong đó đang chật vật với nắng mưa.
Anh Nam, Phòng Di sản văn hóa, Sở VHTTDL TPHCM cho biết: “Thành phố đã theo di chúc của cụ Vương Hồng Sển, xác lập quyền sở hữu nhà nước đối với di tích, nhưng chưa thực hiện được việc quản lý vì người nhà của cụ vẫn còn sống ở đó”. Anh cho biết: “Nhiều lần nhà nước đã cấp nhà cho chị Liên Hương và các em, nhưng gia đình chưa đồng ý, kể cả cấp nhà mặt tiền ở đường Vạn Kiếp với giá 8 tỷ đồng”.
(còn tiếp)
Đọc xong đoạn này thấy tính chất Đẩu quân hiện trong con người cụ Sển .
Nếu chỉ đọc Hơn nửa đời hư thì chưa thấy rõ
Nhưng nghe con dâu sống trong nhà và sống trực tiếp kể chuyện thì thấy rõ ràng hơn .
Thanked by 3 Members:
|
|
#129
Gửi vào 04/02/2019 - 22:46
-Người vợ thứ 2 tên Tuyết, khi ly dị, chọn hột xoàn, Cụ cũng rất hài lòng vì Cụ giữ dc đồ cổ của Cụ. Nghe đâu người vợ này, khi chơi bài đã quen 1 thanh niên công tử trẻ tuổi ở sòng bài và sau khi ly dị đã lấy người này, Cụ có nói với người này hãy đối tốt với bà Tuyết (Cụ e rằng người thanh niên niên này sẽ bỏ bà Tuyết), nhưng người thanh niên và Bà Tuyết cũng đã sống với nhau trọn đời!
-Cụ chỉ có duy nhất 1 con trai là Vương Hồng Bảo (ko có con gái)
-Cũng may Cụ hiến (xác) nhà, nhờ vậy mà 3 cháu Cụ mới có quyền đòi hỏi đất nếu ko thì các cháu Cụ cũng ko có nhà để ở (Hiến Vân Đường Phủ ko bao gồm đất ở). Các cháu cụ cần mỗi đứa 1 căn nhưng nhà nước chỉ cho 1 căn nên đến nay vẫn day dưa chưa dứt điểm. Và cháu gái Cụ thì cần 1 căn nhà (mặt tiền) để có thể buôn bán (ốc) kiếm sống sinh nhai. (Chắc các cháu Cụ cũng biết tài sản ông Nội mình hiến là rất lớn nên cũng yêu cầu cũng ko phải là quá đáng)
-Còn về vụ thất thoát cổ vật sau khi hiến thì: có 1 cái chén trà dc cụ đặt tên là Tham thì thâm, vì trên chén có 1 cái lỗ, nếu rót quá mức thì nước sẽ chảy ra hết. Vào 1 ngày xấu trời, 1 nhân viên đang kiểm định chén trà, thì tự dưng muốn đi ra ngoài nên đã để cái chén trên bàn, khép cửa lại và đi ra ngoài, sau đó quay lại, cái chén mất tích... chẳng ai phải chịu lỗi trong vụ này cả. Hết! (phải chi bắt đền thì hay biết mấy nhỉ?)
Sửa bởi tuphuongsg: 04/02/2019 - 22:53
Thanked by 3 Members:
|
|
#130
Gửi vào 05/02/2019 - 16:46
Sửa bởi tuphuongsg: 05/02/2019 - 17:01
#131
Gửi vào 05/02/2019 - 17:12
Sửa bởi tuphuongsg: 05/02/2019 - 17:15
#132
Gửi vào 05/02/2019 - 20:15
Thanked by 3 Members:
|
|
#133
Gửi vào 24/02/2019 - 12:16
Gặp lại những nhà văn Tuổi ngọc
24/02/2019
Trước 1975, song song với việc ra báo dành cho thì nhiều nơi còn chủ trương thực hiện các tủ sách viết về học trò, trong số ấy, đình đám nhất vẫn là Tuổi ngọc.
6 tác phẩm mới xuất bản của các cây bút Tuổi ngọc
Ảnh: Quỳnh Trân
Việc NXB Văn hóa Văn nghệ (TP.H.C.M) quyết định làm “bà đỡ” cho một số tác giả của “thiên đường không tuổi” này trở lại đã mang đến bất ngờ thú vị cho độc giả.
Các nhà văn Tuổi ngọc có sách xuất bản vừa ra mắt là Đinh Tiến Luyện với Anh Chi yêu dấu, Từ Kế Tường ngọt ngào Tình yêu có màu gì, Mường Mán say sưa Cạn chén tình, Hoàng Ngọc Tuấn tít tận Ở một nơi ai cũng quen nhau, Nguyễn Thị Minh Ngọc hoài niệm Tuổi ngọc ngày chưa xưa cùng Đoàn Thạch Biền hồn nhiên với Đâu phải cái gì cũng mong manh. Đây là những cây bút góp mặt thường xuyên trên tuần báo Tuổi ngọc mà những trang viết của họ từng tạo thành hiện tượng của dòng văn học “tươi xanh”, hay còn gọi bằng một cái tên quen thuộc “Tuổi của những tháng năm đẹp nhất đời người”.
Tuần báo của yêu thương
“Theo tôi dòng sách văn học viết về tuổi mới lớn vẫn là dòng sách hấp dẫn, bởi tuổi ngọc là những tháng năm đẹp nhất của đời người. Ai cũng có giai đoạn này, sống, trải qua với tâm trạng của mình và luôn được hồi tưởng trong suốt các giai đoạn tiếp theo của cuộc đời. Nhưng hiện nay rất ít nhà văn viết chuyên về lĩnh vực này một cách bền bỉ và tâm huyết. Việc chủ trương ra lại tủ sách là việc làm thích hợp và mang nhiều ý nghĩa tích cực, khơi dậy một dòng văn học có thời đã bị lãng quên”.
Nhà thơ Từ Kế Tường Suốt cả cuộc đời miệt mài sáng tác, nhà thơ Từ Kế Tường vẫn không bao giờ quên giai đoạn này, ông kể: “Thời đó, sách báo dành cho lứa tuổi học trò chỉ đếm trên đầu ngón tay. Về báo có: Thiếu nhi, Ngàn thông, Tuổi ngọc. Nhu cầu của thị trường không chỉ đòi hỏi về báo, nên song song với việc ra báo, những người thực hiện tờ Ngàn thông đã chủ trương mở thêm tủ sách Tuổi hoa gồm ba loại: Hoa xanh, Hoa tím và Hoa đỏ. Còn NXB Đời Mới có tủ sách Trăm hoa dành cho lứa tuổi mới lớn và tủ sách Tay ngà dành cho lứa tuổi thiếu nhi. Vì vậy những người làm tờ báo Tuổi ngọc mới có chủ trương ra tủ sách Tuổi ngọc để làm đa dạng thị trường”.
Tờ báo Tuổi ngọc do chủ nhiệm, chủ bút là nhà văn, nhà thơ Duyên Anh - Vũ Mộng Long điều hành, thư ký: Từ Kế Tường - Anh Chi (Đinh Tiến Luyện) cùng đặc phái viên Phạm Chu Sa và quản lý Đặng Xuân Côn, đặt trụ sở tại địa chỉ 38 Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn. Tuổi ngọc xuất bản thứ năm hằng tuần với slogan: “Tuần báo của yêu thương”. Ngoài văn, thơ, nhạc, mục thường xuyên… phần còn lại dành nhiều đất để đăng truyện dài. Thời đó, có rất nhiều cây bút trẻ được phát hiện và thành danh sau này từ Tuổi ngọc như: Từ Kế Tường, Từ Hoài Tấn, Phương Tấn, Đoàn Thạch Biền (Nguyễn Thanh Trịnh), Mường Mán, Hạc Thành Hoa, Hoàng Đình Huy Quan, Huỳnh Hữu Võ, Mang Viên Long, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Nguyễn Nhật Ánh, Tôn Nữ Thu Dung, Nguyễn Nguy Anh, Trần Anh, Khuê Việt Trường, Nguyễn Man Nhiên, Phạm Sỹ Sáu, Nguyễn Hải Thảo, Nguyễn Vân Thiên, Nguyễn Ngọc Nghĩa, Nguyễn Tấn Sĩ, Tạ Văn Sỹ, Nguyễn Thái Dương (Nguyễn Mặt Trời), Trần Viết Dũng, Lê Minh Quốc (Thiên Bất Hủ), Tôn Nữ Thu Nga, Văn Công Mỹ, Hồ Việt Khuê, Mai Việt, Nguyễn Như Mây, Phạm Khánh Vũ, Hoàng Trần, Đỗ Thị Hồng Liên, Bùi Hữu Miên (Nguyễn Liên Châu), Nguyễn Tấn Cứ, Chu Ngạn Thư, Phạm Thanh Chương…
Một thời đã sống trọn vẹn
Khi có thông tin tên mình nằm ở một trong 6 cuốn sách của những tác giả Tuổi ngọc được xuất bản, nhà văn Đinh Tiến Luyện nhận được nhiều lời chúc yêu thương của độc giả dành cho. Mọi người như sống lại cả thời hoa niên ngày xưa. Nhà văn Đinh Tiến Luyện viết trên trang cá nhân: “Chẳng tiếc gì khi một thời mình đã sống trọn. Tuổi ngọc một thời là góc kỷ niệm của chung chúng ta. Lật lại những trang báo cũ đã quên thật trong tôi tự lâu, tất cả mọi số báo, từng góc trang một, tôi vẫn chẳng quên được, vì nó đều qua tay tôi sắp xếp... Như người đầu bếp, thế thôi. Giờ thì bàn tiệc tuổi mộng mơ đã tàn tự lâu lắm rồi, chỉ còn thoáng hương vị quyện trong khói tàn lại làm tôi nhớ khi khéo léo trộn lại hình ảnh những ấn phẩm mới và cũ để nhận ra Tuổi ngọc”.
Bà Đinh Thị Phương Thảo, Tổng biên tập - Giám đốc NXB Văn hóa Văn nghệ, cho biết: “Nhu cầu tìm đọc những tác giả Tuổi ngọc ngày xưa là rất lớn, vì vậy chúng tôi quyết định tuyển chọn làm tủ sách Thiên đường không tuổi. Hạnh phúc là nhận được rất nhiều sự ủng hộ của bạn đọc. Các thầy cô giáo ở các trường học từng một thời say mê với Tuổi ngọc thì nay cũng tình nguyện làm những sứ giả văn hóa, mọi người cùng vận động mua sách để tặng lại học sinh, giúp các em tiếp cận được với dòng văn học về tình bạn, tình yêu hết sức trong sáng một thời. Hy vọng nhiều tác giả Tuổi ngọc sắp tới được tiếp tục giới thiệu trong tủ sách này sẽ lan tỏa những yêu thương đến với cuộc đời”.
Nhà văn Từ Kế Tường bộc bạch: “Đây là đề tài muôn thuở, tác giả nào viết hay, được giới trẻ chấp nhận sẽ tạo được tên tuổi và có dấu ấn. Tôi hy vọng tủ sách này sẽ lớn mạnh, phát triển, không chỉ quy tụ, tập hợp được những tác giả tên tuổi như 6 tác giả và các tác phẩm vừa rồi mà sẽ là sự nối tiếp bởi những tác giả trẻ”.
Thanked by 2 Members:
|
|
#134
Gửi vào 10/03/2019 - 20:45
Lê Văn Nghĩa
10/03/2019
Bên cạnh mì ăn liền, ăn liền, đã có hãng sản xuất cả phở gà ăn liền. Vậy mà hà cớ gì khi nói đến phở người ta chỉ mặc định là phở bò? Có thiệt thòi cho phở gà lắm không?
Quán phở gà còn lại của đường Hiền Vương cũ (nay là Võ Thị Sáu)
Ảnh: Ngọc Dương
Cách đây trên 20 năm, trong khuôn viên sau lưng Trường Marie Curie (Q.3, TP.H.C.M) có một gánh phở gà nhỏ do vài người bạn gái hùn hạp mở bán, vừa làm chủ, vừa làm công. Tụi tôi thường hẹn nhau đến “phở gà Tâm Lý” hay đôi lúc còn gọi là “phở gà Cô giáo”. Cách gọi đó nhấn mạnh vào nghề nghiệp chính thức, có ghi vào lý lịch và thi đua cuối năm của các cô gái bán phở. Phở gà chỉ là cách mưu sinh cộng thêm ngoài nghề giáo - và trong đó có một cô là đạo diễn của hãng phim.
Dù không phải được sinh ra để có nghề nấu phở gà nhưng phở gà của các cô ăn được lắm. Nước ngọt, bánh dẻo, gà ta thịt chắc ngọt. Hành, ngò, lá chanh non xắt nhỏ làm đậm thêm hương vị của thịt gà. Tất cả các cô giáo kiêm thêm nghề bán phở này là người miền Bắc nên phở gà nơi đây là phở gà nấu theo lối bắc. Phở ngon, giá lại vừa phải nên đến khoảng 9 giờ sáng là các cô dọn dẹp quang gánh để trở lại nghề chính của mình.
Phở gà Nam tiến
Những gánh phở gà nho nhỏ, be bé này thuộc loại phở gà du kích, còn chính quy hiện đại là những quán phở gà có bảng hiệu nằm một loạt sáu, bảy tiệm ở đường Võ Thị Sáu (Hiền Vương cũ). Trước 1975, khu này được đóng dấu cho cái sự nổi tiếng của phở gà.
Đứng từ ngã ba Duy Tân (Phạm Ngọc Thạch bây giờ) - Hiền Vương (Võ Thị Sáu) là sẽ thấy những chiếc xe hơi đậu san sát chở khách vào những tiệm phở gà Cát Tường, Kim Hồng, phở Hiền Vương, Hương Bình, phở Bình, Chí Thành (chi nhánh của phở gà Hiền Vương) dọc theo đường Hiền Vương.
Đây được gọi là con đường phở gà tiêu biểu của Sài Gòn lúc đó. Tất nhiên cũng còn những quán phở nhỏ nằm ở khu vực khác, không tập trung như khu phở Hiền Vương như quán phở gà Nam Xuyên chẳng hạn - chỉ để cái xe trước cửa nhà trong con hẻm ở đường Trần Quang Diệu nhưng cũng được cầu chứng bởi những cái miệng sành ăn phở.
Phở gà - sau này là miến gà đều theo dấu chân Nam tiến của người miền Bắc nhưng phở gà tiến vào chậm hơn phở bò. Trước năm 1950, ở Sài Gòn có một vài quán phở nổi tiếng, được các nhà văn nhà báo ghi nhận đều là phở bò. Sau năm 1954, theo bước chân của những người di cư, phở bò phát triển và phở gà dùng hai chân, hai cánh ăn theo, treo lúc lắc cả thân mình vàng ươm, tươm mỡ quảng cáo trước cửa hiệu.
Những nhà văn ăn phở chuyên nghiệp như Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hà Đỗ đều xác nhận rằng thoạt kỳ thủy ở Hà Nội chỉ có phở bò. Và riêng nhà văn Nguyễn Tuân chỉ chấp nhận có một loại phở đó là phở bò: “Có thể có nhiều thứ thịt loài bốn chân, loài ở nước, loài bay trên trời, nó ngon hơn thịt bò, nhưng đã phở thì phải là bò. Có phải là vì muốn chống công thức mà người ta đã làm phở vịt, phở xá xíu, phở chuột? Cứ cái đà tìm tòi ấy, thì rồi sẽ có những hàng phở ốc, phở ếch, phở dê, chó, khỉ, ngựa, tôm, cá chép, bồ câu, cắc kè... nghĩa là loạn, phở nổi loạn”.
Vậy mà, Thị trưởng Hà Nội thời đó không chiều lòng các ông mê phở bò khi Hà Nội trước năm 1950 có hai ngày trong tuần mà những người chuyên môn ăn phở bực mình: thứ sáu và thứ hai. Hai ngày đó là hai ngày không thịt bò cho dân chúng tiêu thụ. Các gánh phở bò xoay qua bán phở gà. Có một số người nghiện phở bò không chịu ăn phở gà. Nhưng sau cùng, khẩu vị lại thua cái bao tử hay thói quen ăn phở buổi sáng nên đành phải ăn, rồi quen.
Ăn quen rồi lại thấy ngon. Nhà báo Hà Đỗ khen hàng phở gà ở phố Triệu Việt Vương (Hà Nội): “Nước lèo vàng óng ánh mỡ nổi váng từng quãng, từng quãng. Tôi chịu vị phở gà hơn phở bò quý vị ạ. Và một miếng phở vào miệng, nhai từ từ miếng thịt có da, sao nó mềm mại mà mỡ màng thơm ngon bổ béo đến thế. Nó không như anh phở bò dù nước lèo đã tẩy gừng kỹ sao vẫn có mùi hôi... Có người chê tô phở gà yếu kém không được hào hùng như tô phở bò. Ấy là một điều ngộ nhận theo ý của riêng tôi. Phở gà nó không ồn ào. Thế thôi. Còn nó cũng hùng lắm chứ… Ăn xong tô phở gà, no bụng rồi, ấy mà sao lạ quá, người vẫn thấy thanh thản nhẹ nhàng, không thấy nặng bụng, không thấy trì phệ như sau khi ăn tô phở bò” (Phở Hà Nội - Tạp chí Văn Học Sài Gòn - 1972).
Nhà văn Vũ Bằng, sau khi nhẩn nha tô phở gà sáng thì nhẹ nhàng hơn “phở gà cũng có phong vị riêng của nó, khác hẳn phở bò. Điều người ta nhận thấy trước nhất là phở gà thanh hơn phở bò… Bát phở gà có phong vị của một nàng con gái ấm áp - nếu ta so sánh một bát phở bò với một chàng trai hào khí bốc lên ngùn ngụt…”.
Như vậy là đã rõ một điều phở gà là đứa em của phở bò, sinh ra từ những ngày Hà Nội không có thịt bò để nấu phở. Nghe nói đã có lúc các chủ quán chế biến cả phở lợn (chứ không phải phở heo) rồi cả phở chó (đọc đến đây là biết người miền nào sáng chế rồi hén). Rốt cuộc chỉ có phở gà là sống nhăn.
Biến tấu ở Sài Gòn
Rồi miến gà - một biến tấu từ phở gà đã nghiễm nhiên lên mâm cúng tết, nhiều gia đình nấu miến gà ăn thay cho món cháo gà mùng ba cúng ông bà. Điều này chứng tỏ phở gà được chấp nhận và càng sống mạnh, sống vững chắc khi đã bị “Sài Gòn hóa” hương vị cho hợp với người sở tại nên đã có nhiều chủ quán phở gà đã xây nhà lầu, mua xe hơi và cưới vợ chân dài (dần dà mập như gà Đông Tảo).
Hiện nay, trừ khu phở Hiền Vương xưa đã mất tiếng, chỉ còn lại một quán chen đua cùng các tiệm bán xe đạp thì khắp chốn Sài Gòn có nhiều quán to mặt đường, nhiều quán ẩn cư trong hẻm bán phở, miến gà nấu theo kiểu bắc hoặc nam, quán nào cũng đầy khách. Phở, miến gà khu Hiền Vương xưa, các quán ở đường Nguyễn Du, Thủ Khoa Huân… nấu theo “gu” bắc. Phở miến gà Kỳ Đồng, Nam Xuyên, hẻm Trần Cao Vân (Phú Nhuận) nấu theo “gu” nam. Và bây giờ, dù “gu” nào đi nữa, phở và miến gà đã trở nên thức ăn sáng, ăn chiều, ăn tối quen thuộc của người Sài Gòn.
Thanked by 3 Members:
|
|
#135
Gửi vào 24/03/2019 - 19:45
Ghé Chợ Lớn, khám phá 5 hội quán có từ trăm năm nay
24/03/2019
Hầu như các Hội quán của người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn (Q.5, TP.H.C.M) đã tồn tại hàng trăm năm với lối kiến trúc, văn hoá độc đáo thu hút nhiều khách du lịch.
Các hội quán của người Việt gốc Hoa thường tập trung ở khu vực Quận 5, TP.H.C.M
PHẠM HỮU
Quận 5 mang bề dày lịch sử văn hoá hơn 300 năm hình thành và phát triển ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn. Nơi tập trung đa phần những người Việt gốc Hoa sinh sống từ lâu đời, bởi thế những Hội quán được xây dựng và tồn tại song song nhau. Có 5 trong số 10 Hội quán nổi bật tồn tại rất lâu đời của người Hoa tại quận 5.
Hội quán Tuệ Thành
Hội quán Tuệ Thành là di tích cấp Quốc gia (1993) ở số 710 Nguyễn Trãi, P.11, Q.5, TP.H.C.M.
Hội quán Tuệ Thành hay còn gọi là chùa Bà Thiên Hậu, chùa Bà Chợ Lớn là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời ở TP.H.C.M của người Hoa nhóm ngôn ngữ Quảng Đông. Chùa đóng vai trò quan trọng trong đời sống tín ngưỡng, sinh hoạt văn hoá truyền thống của người Hoa trong quá trình định cư tại đây.
Hội quán Tuệ Thành hay còn gọi là chùa Bà Thiên Hậu là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời
PHẠM HỮU
Được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII bởi một nhóm người Hoa gốc Tuệ Thành (tức Quảng Châu) di dân sang Việt Nam, Hội quán được dùng làm nơi hội họp, quản lý di dân, giúp đỡ đồng hương, đồng thời cũng là nơi thờ cúng Thiên Hậu Thánh Mẫu để tỏ lòng biết ơn.
Theo truyền thuyết, bà Thiên Hậu đặc biệt thấy trước tương lai, cứu những người đi biển. Cho nên trên chuyến hải hành đến Việt Nam, nhóm người Hoa đã mang theo bài vị của bà để cầu xin phù hộ.
Trải qua hơn hai thế kỷ, hội quán vẫn gìn giữ được nét đẹp của một công trình kiến trúc cổ. Từ sự tinh tế, sắc sảo của nghệ thuật chạm khắc gỗ trên các phù điêu hương án, các bao lam, khám thờ, liễn đối; cho đến nghệ thuật hội hoạ và thư pháp trên các tranh tường. Đặc biệt nhất là nghệ thuật – kỹ thuật chế tác các phù điêu gốm dù trăm năm mưa nắng vẫn giữ được nguyên vẹn đường nét và màu sắc.
Hàng năm, vào ngày 23.3 âm lịch, hội quán tổ chức long trọng lễ dâng hương Vía Bà, với các nghi thức truyền thống và các hoạt động văn hoá thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách.
Hội quán Nhị Phủ
Hội quán Nhị Phủ - Miếu Nhị Phủ hay chùa Ông Bổn là một trong những ngôi miếu cổ xưa do nhóm người Hoa ở hai phủ Tuyền Châu và Dương Châu (tỉnh Phúc Kiến) xây dựng.
Miếu được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII để thờ cúng và làm nơi gặp gỡ giao lưu giữa những người đồng hương. Vị thần thờ chính là Ông Bổn tức Phúc Đức Chính Thần – vị thần bảo hộ đất đai và con người theo tín ngưỡng của người Hoa.
Hội quán Nhị Phủ hay còn gọi là Miếu Nhị Phủ hay chùa Ông Bổn
PHẠM HỮU
Nét nổi bật trong kiến trúc của hội quán là mái nhà cong hình thuyền rồng, có trang trí phù điêu rồng, cá chép được ghép lại bằng những mảnh sứ rất công phu. Là một công trình kiến trúc đặc sắc với nghệ thuật chạm khắc gỗ tinh xảo, hội quán không chỉ thể hiện sự giao lưu văn hoá Hoa – Việt mà còn đánh dấu quá trình định cư và hội nhập của nhóm người Hoa Phúc Kiến.
Hội quán Nhị Phủ được công nhận là di tích cấp Quốc gia năm 1998
PHẠM HỮU
Hàng năm, theo lịch âm, Hội quán Nhị Phủ tổ chức nhiều ngày cúng tế thu hút đông đảo người dân đến chiêm bái. Hai ngày lễ tế chính là ngày sinh và ngày mất của Ông Bổn và Rằm tháng Giêng và Rằm tháng Tám. Hội quán Nhị Phủ được công nhận là di tích cấp Quốc gia năm 1998.
Hội quán Phước An
Hội quán Phước An do những người Hoa Minh Hương có nguyên quán ở bảy phủ thuộc các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến và Chiết Giang đến sinh sống ở vùng Chợ Lớn xây dựng.
Hội quán Phước An nằm ở đường Hồng Bàng, Q.5, TP.H.C.M
PHẠM HỮU
Hội quán được xây dựng trên nền tảng ngôi miếu cổ An Hoà từ năm 1865 và được trùng tu vào năm 1902. Tuy đã trải qua khoảng thời gian dài, nhưng hội quán vẫn giữ được diện mạo kiến trúc nghệ thuật đặc sắc cũng như các cổ vật được bảo tồn nguyên vẹn.
Hội quán nổi tiếng về giá trị kiến trúc, nghệ thuật trang trí, đặc biệt là nghệ thuật chạm khắc gỗ. Trên 24 bức hoành phi, 4 tấm biển gỗ lớn và 8 cặp liễn đối. Các nghệ nhân thời xưa đã dùng kỹ thuật chạm chìm, chạm nổi để tạo ra các dây hoa, rồng, phụng xen kẽ với các nét chữ mạnh mẽ và uyển chuyển nhằm chuyển tải tấm lòng tôn kính đối với chí khí và sự nghiệp của các vị thánh, thần được tôn thờ tại đây.
Hội quán Phước An được xây dựng trên nền tảng ngôi miếu cổ An Hoà từ năm 1865 và được trùng tu vào năm 1902
PHẠM HỮU
Hội quán thờ phụng nhiều nhân vật lịch sử và tín ngưỡng như: Quan Thánh Đế Quân, Quan Âm Bồ Tát, Phật Di Lặc, Ngũ Hành Nương Nương…
Hàng năm, ngày vía Quan Thánh Đế Quân (13 tháng Giêng âm lịch) được tổ chức rất trọng thể và thu hút đông đảo du khách đến dâng hương. Hội quán nằm ở số 184 đường Hồng Bàng, P.12, Q.5, TP.H.C.M.
Hội quán Ôn Lăng
Hội quán Ôn Lăng còn được gọi là chùa Quan Âm, chùa thu hút rất nhiều thiện nam tín nữ đến cúng bái. Hội quán được xây dựng vào nửa cuối thế kỷ XVIII, vừa là trụ sở của người Hoa quê ở phủ Tuyền Châu (tỉnh Phúc Kiến) vừa là nơi thờ cúng Thiên Hậu Thánh Mẫu – vị nữ thần thường cứ giúp người đi biển.
Hội quán Ôn Lăng còn được gọi là chùa Quan Âm
PHẠM HỮU
Hội quán là một di tích bao hàm nhiều ý nghĩa lịch sử, văn hoá, nổi bật nhất là giá trị về kiến trúc nghệ thuật. Kiến trúc ảnh hưởng theo kiểu đền miếu cổ Trung Hoa, đặc biệt là các tạo hình và trang trí mái ngói lợp ống mang đậm phong cách của người Phúc Kiến.
Theo phong thuỷ, phía trước di tích phải có một hồ, ao để trấn mạch, tụ khí cho miếu thờ được linh thiên. Vì vậy, năm 1908, Ban quản trị Hội quán đã xây dựng một hồ cá phóng sinh ở phía đối diện của Hội quán.
Hội quán Ôn Lăng là nơi thờ tự Quan Thế Âm Bồ Tát
PHẠM HỮU
Ngày nay không chỉ riêng người Phúc Kiến mà đông đảo người Hoa, Việt, du khách nước ngoài đến Hội quán để bày tỏ lòng thành với các vị thần, đồng thời chiêm ngưỡng một công trình kiến trúc nghệ thuật ghi dấu lịch sử vân hoá của Sài Gòn xưa. Hội quán Ôn Lăng nằm tại số 12 đường Lão Tử, P.11, Q.5, TP.H.C.M.
Hội quán Nghĩa An
Hội quán Nghĩa An - chùa Ông hay miếu Quan Đế, nơi thờ Quan Thánh Đế Quân do cộng đồng người Hoa Triều Châu di dân sang Việt Nam thành lập.
Hội quán Nghĩa An - chùa Ông hay Miếu Quan Đế, nơi thờ Quan Thánh Đế Quân
PHẠM HỮU
Hội quán mang nhiều giá trị về nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật chạm đá và chạm gỗ nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Hội quán có những bao lam cửa chạm hai mặt, bao lam khám thờ… được chạm trổ tinh tế từ những điển tích cổ xưa đến những hoạt động sinh hoạt đời thường...
Qua hai thế kỷ tồn tại, hội quán là nơi bảo tồn những truyền thống văn hoá, tín ngưỡng và cả những hiện vật quý giá của cộng đồng người Triều Châu tại TP.H.C.M.
Hằng năm, theo lịch âm, Hội quán có hai lễ lớn và quan trọng nhất là Lễ Nguyên Tiêu và ngày Vía Ông vào 24.6. Hội quán nằm ở số 678 đường Nguyễn Trãi, P.11, Q.5, TP.H.C.M.
Thanked by 2 Members:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
8 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 8 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |