"50 -
Nhâm thân – bính - ngọ canh - ngọ canh thìn
Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Trụ này bính hỏa sát tinh tuy vượng, nhâm thủy có căn gốc ở thân kim, nhật chủ được canh kim tương trợ, được chi thìn thổ tương sinh.
Dụng nhâm thủy chế sát, thiên can đồng thuận; địa chi đồng thuận, nhất chế nhất hóa, thật là hữu tình.
Vận kim thủy thật đẹp, quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc.
51 -
Nhâm ngọ - bính ngọ - canh thân - mậu dần
Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Mệnh này với mệnh trên, đại đồng mà tiểu dị, nhật chủ tọa lộc thân kim, nhâm thủy cũng khẩn chế sát, cớ sao danh lợi đều không,
mệnh này chung thân không phát được sao? Cái khác nhau là mệnh trên
nhâm thủy tọa thân kim, thực thần vượng có thể chế sát, mệnh này
nhâm thủy tọa ngọ tức lâm tuyệt địa, không có lực chế sát vậy; mệnh trên thiên can thấu
canh có thể trợ nhật chủ lại có thể sinh nhâm thủy, mệnh này thiên can thấu mậu thổ khắc thủy, không thể sanh thực thần. Tả hữu không tình hiệp vậy".
Ở 2 ví dụ này rõ ràng tác giả đã luận theo
“Cách Cục Pháp” y chang như Hoàng Đại Lục đã luận tức lấy dụng thần chính là cách cục của Tứ Trụ đó. Cho nên 2 ví dụ này tác giả đã lấy
Nhâm là Thực thần làm dụng thần vì 2 ví dụ này đều thuộc
cách Thực thần chế Sát.
Chính vì lấy Nhâm làm dụng thần nên ở ví dụ 50 tác giả phải
Đẽo Gọt sao cho Nhâm (Thực thần) có lực đủ sức chế Sát (Bính) thì mới thành cách để phù hợp với thực tế phú quý của người này (
“Nhâm thủy tọa Thân kim,…Thực thần vượng có thể chế Sát vậy”) còn ví dụ 51 tác giả phải tìm ra các lý do sao cho Nhâm không có lực chế Sát nên cách cục không được tạo thành để phù hợp với thực tế nghèo hèn của đương số
(“Nhâm thủy tọa Ngọ tức lâm tuyệt địa, …không có lực để chế Sát vậy”).
Cho nên nhiều người đã khẳng định tác giả luận theo
“Cách Cục Pháp” thì quả là không sai mà không biết rằng tác giả đang dùng Tuyệt Chiêu
“Gọt Chân Cho Vừa Giày”.
Chỉ cần trình độ mới qua nhập môn thì bất kỳ người nào sử dụng
“Binh Pháp Tử Bình số 1” của tôi là
“Hỷ dụng thần thuộc về ta còn kỵ thần thuộc về người” đều có thể dễ dàng xác định được ví dụ 50 có Thân nhược vì có các vận
Mậu Thân, Kỷ Dậu và Canh Tuất đều có can chi thuộc hành Thổ và Kim là Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp của Tứ Trụ này nên chúng phải thuộc về ta là hỷ dụng thần thì mới huy hoàng như vậy còn ví dụ 51 rõ ràng trái ngược lại là Thân phải vượng thì Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp mới là kỵ thần thuộc về người nên mới nghèo hèn như vậy.
Đáng tiếc rằng tác giả đã không có khả năng này hoặc có nhưng không thể giải thích được vì sao ví dụ 50 Thân nhược còn ví dụ 51 Thân lại vượng nên đành phải lờ đi coi như không biết.
Vậy thì nguyên nhân sau xa là gì mà tác giả đã không thể xác định được chính xác Thân vượng hay nhược của 2 ví dụ này ?
Cái đầu tiên chính là Tuyệt Chiêu của những người cho rằng mình đã đạt tới trình độ
“Thâm Sâu” là chỉ biết
“Gõ Mõ Tụng Kinh” đếm 3 Kim, 3 Hỏa, 1 Thủy…
còn chúng bị khắc gần, trực tiếp hay xa hoặc chúng ở xa hay gần Nhật can thì không hề biết.
Sau đây là cách dùng Toán Học của tôi để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần của ví dụ 50 này.
Ví dụ 50:
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Theo sơ đồ trên thì Thân trụ năm, Bính trụ tháng và Canh trụ ngày bị khắc gần và trực tiếp nên chúng không còn khả năng nhận được sự sinh hay sinh, khắc với các can khác.
Ta thấy Thân kim có 14,85đv nhỏ hơn Hỏa là Quan Sát có 20,47đv nhưng do có Kiêu Ấn lớn hơn Thực Thương và Tài tinh thêm Nhật can Canh được lệnh nên Kiêu Ấn sinh được 50%đv của nó cho Thân là 50%.6,77 đv = 3,39đv. Vì vậy thân có 14,85đv được thêm 3,39đv thành 18,24đv nhưng số điểm này vẫn nhỏ hơn của Quan Sát nên Thân là nhược. Điều này là quá phù hợp với thực tế huy hoàng của người này
(vì Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp là hỷ dụng thần).
Ví dụ 51:
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Bây giờ chúng ta thử tìm xem nguyên nhân vì sao tác giả không thể xác định được đúng Thân vượng hay nhược của 2 Tứ Trụ 50 và 51.
Ở đây chúng ta chỉ cần để ý đến sự hoán vị của Ngọ trụ ngày và Thân trụ năm cho nhau trong 2 ví dụ này là đủ.
Ngọ trụ ngày của ví dụ 50 có 10đv chỉ bị giảm 1/10đv do bị Nhâm trụ năm khắc cách 2 ngôi còn 10.9/10đv = 9đv trong khi Ngọ trụ năm của ví dụ 51 cũng có 10đv nhưng bị Nhâm khắc trực tiếp nên giảm 50%đv và vào vùng tâm bị giảm tiếp 50%đv nữa còn 10.50%.50% đv = 2,5đv. Qua kết quả này chúng ta thấy chỉ vì vị trí khác nhau mà đv của riêng Ngọ ở 2 ví dụ này đã chênh nhau tới 9đv – 2,5đv = 6,5đv.
Trong khi Thân trụ năm của ví dụ 50 có 7đv và thêm 4,05đv là điểm đắc địa của Canh tại Thân thành 7đv + 4,05đv = 11,05đv. Số điểm này bị giảm 1/3 do Ngọ trụ tháng khắc gần và giảm 1/5 do Ngọ trụ ngày khắc cách 1 ngôi và vào vùng tâm giảm tiếp 50%đv còn 11,05.2/3.4/5.1/2 đv = 2,95đv (điểm đắc địa cũng bị giảm như bình thường do có 2 lực khắc).
Trong khi Thân ở ví dụ 51 ở trong vùng tâm rồi và Thân chỉ bị khắc bởi 1 lực của Ngọ trụ tháng (còn Ngọ trụ năm bị Nhâm cùng trụ khắc trực tiếp nên vô dụng) nên điểm đắc địa của Nhật can tại Thân trụ ngày là 4,05đv không bị giảm mà chỉ có điểm vượng của chi Thân là 7đv bị giảm 1/3 do Ngọ khắc gần còn 7.2/3 đv = 4,67đv, tổng cộng đv của Thân trụ ngày còn lại là 4,67đv + 4,05đv = 8,72đv. Vì vậy điểm chênh nhau của chi Thân ở 2 vị trí trụ năm và trụ ngày này phải là 8,72đv - 2,95đv = 5,77đv.
Chúng ta thấy ở ví dụ 50 điểm vượng của Hỏa tăng còn điểm vượng của Thân kim giảm còn ở ví dụ 51 thì ngược lại điểm vượng của Ngọ giảm còn của Thân kim lại tăng. Chính vì vậy mà mặc dù ví dụ 50 có thêm
Canh ở trụ giờ nhưng điểm vượng của Thân kim là 14,85 cũng chỉ tương đương với ví dụ 51 chỉ có 1 Canh kim là 14,32đv. Trong khi Hoả của ví dụ 50 có tới 20,47đv (chỉ vì Ngọ ở trụ ngày) còn Hoả ở ví dụ 51 chỉ có 13,97đv (chỉ vì Ngọ ở trụ năm). Chính vì lý do này mà khi Thân được cộng thêm 50%đv của Kiêu Ấn sinh cho thì ví dụ 50 có Thân nhược còn ví dụ 51 có Thân là vượng.
Đây chính là nguyên nhân sâu xa để giải thích vì sao tác giả đã không thể xác định được chính xác Tứ Trụ nào có Thân là vượng hay nhược.
Điều này đã chứng minh một cách không thể chối cãi được là vị trí xa hay gần của can chi so với Nhật can (Can ngày) cũng như các can chi khắc nhau gần, trực tiếp hay xa phải khác nhau và chúng phải tuân theo những quy tắc nhất định.
Chỉ cần 2 ví dụ này có thể kiểm tra trình độ xác định Thân vượng và nhược của bất kỳ cao thủ Tử Bình nào cũng như kiểm tra bất cứ Phương Pháp xác định Thân vượng hay nhược của bất cứ ai để xem có đáng tin cậy hay không ? Bởi vì khi đã xác định sai Thân vượng hay nhược thì dụng thần sẽ xác định sai và dĩ nhiên là người đó sẽ luận sai.