Dòng máu Việt trong gia đình Hoàng thân Souphanouvong

Ảnh cưới của Hoàng thân Souphanouvong và bà Kỳ Nam ở Nha Trang.
Trong gia đình Hoàng thân Souphanouvong lưu truyền câu chuyện khi ông còn bé, có nhà chiêm tinh ở cung điện Xuxavanna phán: Lớn lên, Souphanouvong sẽ trở thành một danh nhân và lấy vợ là người nước ngoài. Trong lần đầu tiên giáp mặt Hoàng thân, người con gái đó sẽ mặc áo mầu hồng. Lời tiên đoán định mệnh ấy như gắn kết mối tình đầy duyên nợ của Hoàng thân với vợ, bà Viêng Khăm Nguyễn Thị Kỳ Nam - Hoa khôi xứ Trung kỳ một thuở...
Hoa khôi xứ Trung kỳ trở thành đệ nhất phu nhân Lào
Khi biết tôi có ý định thực hiện chuyến đi dọc nước Lào, những người bạn ở Trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi khuyên: Đến Vientiane, nhất định phải tìm gặp Xu Chính, Xu Đại, nhắn là bạn bè Việt Nam lúc nào cũng nhớ... Xu Chính, Xu Đại - cái tên dí dỏm mà lính Trỗi thường gọi những người con của Hoàng thân Souphanouvong, khi họ cùng trải qua những năm tháng thơ ấu trên đất Việt. Nhờ đó, tôi đã có cơ hội bước vào ngôi nhà của một trong những gia đình Hoàng gia danh giá nhất nước Lào, được những người con của Hoàng thân đón tiếp như người thân đi xa mới về, được thắp hương cho vợ chồng Hoàng thân, và thấy mình lặng đi vì xúc động trong khoảnh khắc khi nhận ra bức ảnh thờ Hoàng thân là bức ảnh ông chụp chung với Bác Hồ giữa chiến khu Việt Bắc những ngày khó khăn nhất của Cách mạng hai nước. Những người con của Hoàng thân đều thờ cha mình và Bác Hồ bằng bức ảnh chụp chung đó trong nhà riêng của họ. Với họ, đó là lời nhắc nhở con cháu đời sau, dù thế nào cũng không được quên mối thâm tình với đất nước Việt Nam, không được quên trong huyết quản mình có một nửa dòng máu Việt...
Năm 1937, sau khi kết thúc quãng thời gian du học ở Pháp, Hoàng thân Souphanouvong bị Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm làm công chức Sở Công chánh An Nam Trung kỳ ở Nha Trang. Đến Nha Trang, bước chân vào khách sạn Bon Air với ý định xin nghỉ trọ, Hoàng thân Souphanouvong đã gặp một người con gái kiều diễm mặc áo hồng, mà sau này ông mới biết đó chính là tiểu thư Kỳ Nam - ái nữ của ông chủ khách sạn và cũng là hoa khôi xinh đẹp nức tiếng xứ Trung kỳ. Là nữ sinh Đồng Khánh được bao quan chức Pháp theo đuổi, lại là con gái nhà tư sản giàu có Nguyễn Văn Sung, nhưng chỉ sau lần đầu gặp Souphanouvong, dù chưa biết bất cứ điều gì về ông, tiểu thư Kỳ Nam đã nói với cha mình: “Nếu đó là một người thất nghiệp đang tìm việc làm hay là người nghèo khó, hoặc là người gặp chuyện chẳng may của gia đình phải đi ở trọ, thì xin cha cứ cho anh ấy ở lại. Nếu anh ấy nghèo khổ, không nơi nương tựa, không có tiền trả phòng trọ, thì lúc con học xong, đi làm có lương, con sẽ nuôi anh ấy...”. Kỳ Nam chẳng thể ngờ người mình vừa gặp là một vị Hoàng thân xuất thân từ dòng Tiền Cung cao quý của Hoàng gia Lào. Sau này kể lại với con cái, Hoàng thân Souphanouvong thường mỉm cười hạnh phúc: “Giây phút đó, ta gần như cấm khẩu, không thể nói và nghĩ được bất cứ điều gì. Vừa bị choáng ngợp trước vẻ đẹp của tiểu thư ở trước mặt mình, ta lại vừa có cảm giác rất quen thuộc, cứ như là đã gặp nàng ở đâu đó từ rất lâu rồi...”.
Lúc còn nhỏ, Souphanouvong không mấy để ý đến lời của nhà chiêm tinh. Trong những giấc mơ thuở thiếu thời, ông thường thấy mình được đặt chân đến xứ sở của người Khôn Kẹo (tên người Lào gọi nước Việt thời đó) và được một thiếu nữ áo hồng đưa đi thăm thú khắp nơi. Ý nghĩ về giấc mơ và lời phán của nhà chiêm tinh năm nào đột ngột xuất hiện trong đầu Hoàng thân vào đúng khoảnh khắc ông mặt đối mặt Kỳ Nam. Như duyên tiền định, Souphanouvong luôn tin rằng cô gái ở khách sạn Bon Air chính là “cô gái áo hồng” mà số phận đã sắp đặt cho ông.
Sáu tháng sau cuộc gặp đầu tiên, Hoàng thân kết hôn với tiểu thư Kỳ Nam. Ông đặt cho bà cái tên mới Viêng Khăm Souphanouvong - nghĩa là bức Thành vàng quý giá của dòng họ Soupha. Lấy chồng, hoa khôi xứ Trung kỳ đã từ bỏ cuộc sống an nhàn của một tiểu thư nhà giàu, chấp nhận dấn thân theo con đường của chồng - con đường mà ngay từ khi cưới nhau, Hoàng thân đã nói rõ với người vợ yêu của mình: “Sẽ là con đường của đấu tranh giành lại đất nước Lào thực sự độc lập cho người Lào”. Là người phụ nữ Việt về làm dâu nước Lào, bà Viêng Khăm Kỳ Nam đã trọn vẹn đạo vợ chồng với Hoàng thân Souphanouvong. Ngay cả khi ông gặp biến cố, hay trong những ngày kháng chiến gian khổ, bà vẫn luôn cận kề bên chồng. Khi Hoàng thân bị chính quyền phản động Lào bắt giam, bà lần hồi dắt cả đàn con nhỏ lặn lội từ Lào sang Hà Nội tìm gặp Bác Hồ, nhờ Người giúp đỡ giải cứu Hoàng thân. Sau này, dù ở cương vị phu nhân Chủ tịch nước, bà Viêng Khăm vẫn sống rất giản dị. Bà đích thân vào bếp nấu cho chồng con các món ăn Việt Nam và Lào mà bà dày công học hỏi. Bà dạy các con nói giỏi cả tiếng Việt và tiếng Lào.
Vynaythong (tên Việt là Nguyễn Văn Chính) - người con trai thứ ba của vợ chồng Hoàng thân kể rằng: “Nhiều lúc tôi cũng không thể nhận ra mẹ tôi là phụ nữ Việt hay Lào? Dường như bà là cả hai - vì bà sinh ra đã thế và vì tình yêu với cha tôi. Sáng nào cũng vậy, dù là đệ nhất phu nhân, nhưng bà vẫn dậy rất sớm như bao phụ nữ Lào khác, tắm rửa sạch sẽ, khoác tấm Cà Piêng đẹp nhất quỳ rạp trước cổng nhà, chờ đoàn sư khất thực đi qua và cung kính dâng lên các nhà sư lễ vật của gia đình mình trong nghi lễ không thể thiếu của người Lào mỗi ngày. Đó là lý do vì sao mẹ tôi luôn được người dân Lào yêu quý, dù bà là một bà Hoàng có xuất xứ ngoại lai”.

Con trai thứ ba của Hoàng thân: Vinaythong Souphanouvong (Nguyễn Văn Chính)
Luôn tự hào về quê ngoại Việt Nam
Những người con của vợ chồng Hoàng thân đều nói: Cha họ dạy cho họ cảm giác về trách nhiệm của một người thuộc dòng họ Soupha với Tổ quốc, với nhân dân Lào; còn mẹ dạy cho họ sự dịu dàng, nhân ái và tình ruột thịt không thể chia tách với đất nước Việt Nam. Vợ chồng Hoàng thân có 10 người con. Tất cả đều được đặt tên Việt Nam, đều biết tiếng Việt và từng đi học ở Việt Nam, gắn bó với người dân Việt Nam. Có những người con của Hoàng thân tiếp tục lấy vợ Việt. Ai cũng tâm niệm, trong họ có một nửa dòng máu Việt Nam và họ luôn tự hào về điều đó. Nhotkeomani (tên Việt là Kiều Nga) người còn gái thứ năm của Hoàng thân kế thừa được vẻ đẹp thuần khiết của mẹ. Khi còn nhỏ, Kiều Nga đã được mẹ dạy cho cách nấu các món ăn Việt. Mỗi khi có khách từ Việt Nam sang chơi, bà lại nấu những món rất Hà Nội như bún chả, phở, canh cua mùng tơi cà pháo, khéo léo không kém bất cứ phụ nữ Việt đảm đang nào, khiến những người Việt sang Vientiane vừa ăn vừa xuýt xoa khen ngợi.

Hoàng thân Souphanouvong và phu nhân năm 1976.
Sinh thời, Hoàng thân Souphanouvong đã từng xây đập thủy lợi Đô Lương (Nghệ An), đóng góp to lớn vào việc phát triển nông nghiệp ở mảnh đất miền Trung này. Năm 2008, kỹ sư Xivana Souphanouvong - con trai út của Hoàng thân đã thực hiện một chuyến “về nguồn” đặc biệt: Anh tự lái xe theo con đường số 13 từ Viêng Chăn về Trung Lào rồi theo đường số 8 về Vinh - đúng con đường mà khi xưa cha anh đã đi khi sang Việt Nam. Bon bon trên con đê làng mà cha mình từng góp phần xây dựng 70 năm trước, Xivana gặp một lão nông hơn 80 tuổi râu tóc bạc phơ đang ngồi hóng mát. Nghe giới thiệu về Xivana, cụ ông nắm chặt tay anh rưng rưng: “Thì ra cháu là con ngài Souphanouvong? Lão biết cha cháu từ khi còn trẻ. Ngài đã từng cưỡi ngựa đi theo con đê này để kiểm tra đập nước. Cháu cũng đẹp trai y như cha cháu ngày xưa...”.
--------------------
Nương dáng cha, nép bóng mẹ

Giáo sư Nguyễn Văn Huyên và phu nhân Vi Kim Ngọc (1936).
“Tôi muốn kể câu chuyện của những người con liên quan đến cha mẹ mình. Ðấy là câu chuyện về từng tháng năm dài của bố mẹ, về các mối quan hệ của bố mẹ trong cuộc đời và xã hội. Lịch sử vừa là cái chung, nhưng cũng vừa là cái riêng, còn phải thông qua những con người cụ thể, câu chuyện cụ thể, thông qua ứng xử của họ trong các giai đoạn khác nhau, thời kỳ khác nhau để làm cho lịch sử trở nên sống động như có thể cầm nắm được, để thế hệ đương thời thêm hiểu biết. Ðơn giản bởi những con người đó vừa là chứng nhân vừa là tác nhân của lịch sử”. PGS,TS Nguyễn Văn Huy tự sự khi Bảo tàng gia đình mang tên Nguyễn Văn Huyên - vị Bộ trưởng Giáo dục lâu năm nhất của Chính phủ (từ tháng 11-1946 đến khi mất, tháng 10-1975) đang dần bước vào giai đoạn hoàn tất...
Qua khỏi cánh cổng sắt trầm ngâm là mọi ồn ào bụi bặm của dẻo đất khởi đầu con phố Trần Hưng Đạo, cách đê sông Hồng không bao xa đã dường như thuộc về thế giới khác. Thắp một nén hương lên bàn thờ đặt ngay phòng khách được treo kín tường các bức tranh do bà Vi Kim Ngọc vẽ, PGS, TS Nguyễn Văn Huy bày tỏ: “Tôi thành tâm nghĩ người sống và người đã khuất luôn giao hòa với nhau, chứng kiến sẻ chia niềm vui nỗi buồn của nhau, khích lệ động viên nhau trong mỗi ngày thường”. Bốn người con của GS Nguyễn Văn Huyên, một trai, ba gái đều sát vách quần tụ trong khuôn viên yên bình tĩnh lặng này: “Khi bán ngôi nhà mặt phố hóa giá của Nhà nước, bốn chị em tôi chỉ có ý định mua được đám đất đằng sau để tiếp tục ở gần nhau đúng như nguyện ước của cha mẹ và cả mong muốn của mỗi người. Bán nhà mua đất xong vẫn còn dư ít tiền. Tôi đề nghị chia đều cho cả bốn. Nhưng các chị không chịu, nhất định bảo tôi là con trai phải được phần hơn. Đương nhiên là tôi không đồng ý. Tranh cãi mãi chẳng ai chịu ai, cuối cùng đành thống nhất phương án chia làm năm phần, mỗi con một phần, phần còn lại dành làm quỹ chung, lo việc gia tộc như để làm bảo tàng ở Lai Xá quê cha” - người con trai duy nhất của vợ chồng GS Nguyễn Văn Huyên chia sẻ trong một buổi chiều nhập nhoạng tối của Hà Nội ngày cận Tết.
Đoàn kết, đùm bọc yêu thương nhau là điều đã được bà Vi Kim Ngọc, phu nhân GS Nguyễn Văn Huyên chỉn chu rèn cặp con cái. Với bà thì trai gái, dâu rể đều là con, cho nên phải được hưởng sự đối xử công bằng, bình đẳng để khỏi so bì ghen tị. “Mẹ tôi khéo vun vén và rất chân thành. Cụ không bao giờ phân biệt bà con bên nội, bên ngoại, người nhà quê hay người thành phố, luôn định hướng, dẫn dắt các con đi từ từ và luôn luôn quan tâm, chăm sóc chuyện học hành của con cái. Khi mẹ mất, đọc di chúc của mẹ, xem lại những bức thư mẹ gửi cho các chị lúc đi học bên Trung Quốc trùng thời điểm cao trào của cách mạng văn hóa, tôi mới vỡ lẽ: Nếu không phải mẹ, không nhờ cách hành xử tinh tế và bản lĩnh kiên định của mẹ, chưa chắc gia đình tôi đã giữ được sự trọn vẹn, ấm êm, hạnh phúc như bây giờ”, PGS Nguyễn Văn Huy hồi tưởng lại. Thập niên 50, 60 thế kỷ 20, tâm lý xã hội phát sinh những biến động ít nhiều gây xáo trộn trong một số nếp nhà Việt Nam, ý thức hệ dâng trào mạnh mẽ khiến xuất hiện những xầm xì nhỏ to về xuất thân danh gia vọng tộc, về nguồn gốc đại quan phong kiến của bà Vi Kim Ngọc, ái nữ quan Tổng đốc Thái Bình, Hà Đông Vi Văn Định. Bà Vi Kim Ngọc đã nỗ lực phấn đấu, rèn luyện để hiểu xã hội, để được xã hội tôn trọng và để kéo được con cái về với mình. Tự học, tự đào tạo, nhiều quãng thời gian dài, bà Vi Kim Ngọc đảm nhiệm chức phận kỹ thuật viên bộ môn Ký sinh trùng, Trường đại học Y Hà Nội, một phụ tá đắc lực, đáng được tin cậy của GS Đặng Văn Ngữ. Các hình vẽ dưới kính hiển vi như bộ tranh côn trùng của bà là giáo cụ trực quan sinh động, một phương tiện nghiên cứu hữu hiệu cho sinh viên trong giai đoạn chuyện dạy và học còn trăm bề thiếu thốn. Bỏ qua quá khứ lá ngọc cành vàng, để lại sau lưng tháng năm thảnh thơi trong cương vị phu nhân thành viên người châu Á duy nhất trong Trường Viễn đông bác cổ Pháp được hưởng lương cao ngất trời, bà Vi Kim Ngọc đã lần mò tới tận chuồng trâu, chuồng lợn, biến mình thành mồi cho muỗi đốt để bắt về quan sát.
Nỗi lo lắng của bà Vi Kim Ngọc không là thái quá vì ngay thời điểm ấy, trong số bạn bè của GS Nguyễn Văn Huyên đã có người phải lâm cảnh ngộ đau lòng, bị con cái từ mặt, quay lưng không nhận mẹ, cha sau khi du học nước ngoài trở về. Bất chấp những dịch chuyển thời gian và sự vắng mặt đã lâu năm của cha mẹ, bốn người con trong đại gia đình GS Nguyễn Văn Huyên thường xuyên duy trì được thói quen đã tạc thành nếp: Dù có đi đâu, làm gì, xa xôi cách trở cỡ nào, sáng mồng một Tết, tất cả cháu con cũng trở về góp mặt tại nhà PGS Nguyễn Văn Huy, thắp hương báo cáo trước bàn thờ tổ tiên về thành tích của mình trong năm qua. Con trai, con gái, con dâu, con rể, cả những trí thức nổi tiếng như GS Nguyễn Lân Dũng, phu quân của người con gái thứ ba - Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Kim Nữ Hiếu, và thế hệ sau này, những người cháu ngoại cũng đã được xã hội ghi nhận: PGS, BS tim mạch Nguyễn Lân Hiếu, nữ TS Trương Huyền Chi, nữ PGS trẻ nhất Việt Nam Nguyễn Kim Nữ Thảo... hay những em bé chưa hình dung rõ ràng về tầm vóc của tổ tiên dòng họ vẫn nghiêm cẩn thực hành nghi thức ấy như tìm về một sự bằng an thanh thản cho tâm hồn trong ngày đầu năm mới.

Bà Vi Kim Ngọc và các cháu. (Ảnh tư liệu do gia đình cung cấp).
Trong tâm tưởng người con trai út, GS Nguyễn Văn Huyên vốn ít nói, nhưng là con người hành động: “Công việc của một bộ trưởng vốn bận rộn, cho nên những ngày nghỉ ở nhà, cụ thường dành thời gian cho sách vở, nghiên cứu. Nhiều buổi chiều chủ nhật, cụ dẫn tôi đi các hiệu sách nhân dân tìm mua sách. Cụ cũng thường đưa vợ con tới thăm những người bạn đang chịu cảnh ở ẩn vì bị người đời xa lánh để bày tỏ thịnh tình với bằng hữu và định hướng cho các con một lẽ sống ở đời”. Gần gũi nết ăn, nết ở với mẹ và chịu ảnh hưởng từ tư tưởng của cha, PGS Nguyễn Văn Huy nối nghiệp cụ ông, trở thành nhà nghiên cứu dân tộc học. Bảo tàng Dân tộc học mà ông khởi xướng, gây dựng và nhiều năm liền nhận lãnh cương vị giám đốc cho tới lúc về hưu, tọa lạc trên mặt tiền con đường mang tên Nguyễn Văn Huyên, luôn trở thành địa chỉ văn hóa được cả người trong và ngoài nước tìm đến khi về Thủ đô: “Có hai điều tôi luôn khắc ghi và day dứt. Một là điều mẹ nhắc về cha, nói về cha từ lúc cha qua đời cho đến tận ngày mẹ mất: Cha con lớn lắm, các con không hiểu hết cha đâu. Người bây giờ cũng không hiểu hết cha đâu. Phải một trăm năm nữa người ta mới hiểu hết cha con. Điều nữa, như một nỗi ân hận mà tôi không còn cơ hội để tỏ tường, thông hiểu: Sắp xếp sách vở, soạn sửa các di cảo của cha, tôi thấy còn các tư liệu lịch sử cụ ghi chép rất nhiều từ những năm trước. Cụ thường chép tay những sự kiện lịch sử, văn hóa trên các phiếu nho nhỏ, là những mẩu giấy cắt ra từ các bản tin của Thông tấn xã. Ở đó có vô vàn dữ liệu lịch sử mà tôi chưa giải mã được, cụ kết nối chúng lại với nhau nhằm dụng ý gì, nghiên cứu vấn đề gì. Ngày còn bên cha, tôi đã không để tâm đến. Chỉ khi cụ ra đi, rồi theo con đường nghiên cứu, tôi mới thấm thía và nuối tiếc, rằng mình đã không thấu đạt được dụng ý của cụ từ rất sớm. Tất cả các di cảo đó sẽ được chúng tôi đưa về Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên ở quê hương làng Lai Xá và hy vọng chúng sẽ có ích cho các nhà khoa học sau này”.
Ðoàn kết, đùm bọc yêu thương nhau là điều đã được bà Vi Kim Ngọc, phu nhân GS Nguyễn Văn Huyên chỉn chu rèn cặp con cái.
Hai người phụ nữ mà cháu đọc về họ xong rất ngưỡng mộ, mẫu người "vượng phu quý tử"
Sửa bởi TuViThamLang: 01/07/2014 - 21:54