BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU XU HƯỚNG NGHIÊN CỨU KINH DỊCH NGÀY NAY
PHẠM VĂN THẮM
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Kinh Dịch là một trước tác kinh điển cổ xưa của dân tộc Trung Hoa có ảnh hưởng rất sâu rộng trong đời sống văn hóa ở Trung Quốc và các nước ở trong khu vực như Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên. Việc nghiên cứu Kinh Dịch đã trở thành một bộ môn chuyên ngành, gọi là Dịch học. Dịch học đã trải qua 2 nghìn năm lịch sử, hình thành ra nhiều học phái, đến nay vẫn phát triển. Ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với nền triết học, tôn giáo, khoa học, văn học nghệ thuật, đời sống chính trị của Trung Quốc là sâu sắc. Để góp phần tìm hiểu tác phẩm này, chúng tôi trình bầy một số xu hướng nghiên cứu về tác phẩm này như sau:1- Một số vấn đề đã và đang được nghiên cứu trong Kinh Dịch
1.1- Niên đại tác phẩm Chu Dịch
Chu Dịch do Dịch kinh và Dịch truyện hợp thành. Về niên đại của tác phẩm này, Tư Mã Thiên trong Khổng Tử thế gia sách Sử ký cho rằng Kinh Dịch do Khổng tử sáng tác, ảnh hưởng rất sâu rộng. Đến Âu Dương Tu (1007-1072) viết Dịch đồng tử vấn đã nghi ngờ Hệ từ không phải Khổng Tử viết ra thì các nhà nghiên cứu đã rất chú ý tới niên đại của Chu Dịch. Qua các tài liệu khảo cổ mới phát hiện được và sự cố gắng khảo cứu, các học giả đại thể nhất trí cho rằng Dịch kinh ra đời vào khoảng đầu thời Tây Chu (Thế kỷ XI. TCN - 771 TCN). Dịch truyện ra đời khoảng thời Chiến quốc (403.TCN - 221 TCN). Nội dung hai tác phẩm này có sự khác biệt, nhưng giữa chúng có mối liên hệ, đó là truyện giải thích kinh. Từ Dịch kinh đến Dịch truyện có quá trình hơn 700 năm, từ đây các nhà nghiên cứu có thể nhận thấy tiến trình phát triển tư tưởng của người Trung Quốc thời Tiên Tần.
1.2- Mối quan hệ giữa Dịch kinh và Dịch truyện
1.2.1- Dịch kinh
Dịch kinh là sách bói có 64 quẻ. Mỗi quẻ có hào âm và hào dương hợp thành. Hào âm được ký hiệu bằng một nét đứt (- -), hào dương được ký hiệu bằng một nét liền (一 ). Có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc ra đời của hào âm và hào dương. Nhưng xét trên phương diện sự vật mang tính chất đối lập và sự biến hóa tụ hợp sắp xếp giữa chúng thì thấy những ký hiệu này được dùng để thể hiện sự khái quát các loại hiện tượng xẩy ra trong giới tự nhiên và xã hội loài người. Người xưa đã khái quát tự nhiên thành 8 loại là Trời, Đất, Sấm, Núi, Lửa, Nước, Đầm, Gió và đặt tên cho mỗi loại là Càn, Khôn, Chấn, Cấn, Ly, Khảm, Đoài, Tốn.
Dịch kinh là sách bói mang đậm sắc thái duy tâm. Nhưng trong một số hào người ta cũng nhận thấy có hạt nhân của phép biện chứng thời nguyên thủy ví dụ :
- Quẻ Sư, hào sơ lục có câu: 師出以律 , 否臧 , 凶 = sư xuất dĩ luật phẫu tàng, hung (Quân đội hành động có kỷ luật, nếu không sẽ nhận thất bại). Đây là sự tổng kết kinh nghiệm thành công và thất bại trong chiến tranh, được ghi lại dưới hình thức tư duy trìu tượng. Các quẻ Thái với quẻ Bĩ, quẻ Tổn với quẻ Ích, quẻ Ký Tế với quẻ Vị Tế được coi là các quẻ trái ngược nhau. Điều này chứng tỏ Kinh Dịch coi quan hệ mâu thuẫn là quan hệ tồn tại phổ biến khách quan, không mất đi qui phạm trong phương pháp tư duy biện chứng nguyên thủy. Quẻ Thái, hào cửu Tam có câu: 無平不陂 , 無往不復 = vô bình bất ba, vô vãng bất phục. Điều này chứng tỏ khái niệm đối lập bằng với không bằng; vãng, phục (bước đi, trở lại) liên hệ với nhau, là tính tất nhiên của sự chuyển hóa tương hỗ ấy. Quẻ Càn, hào cửu tam có câu: 君子終日乾乾,夕惕若無咎。勵無咎 = Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược vô cữu, lệ vô cữu. Câu này chỉ người quân tử hàng ngày phấn đấu chăm chỉ công tác, tối về lại suy ngẫm răn giới, tuy ở vào hoàn cảnh nguy khốn thì cũng không lo lắng gì. Điều này nói lên con người cần phát huy tính năng động có cách nghĩ chuyển nguy làm an...
1.2.2- Dịch truyện.
Dịch truyện có 7 loại 10 thiên gồm:
- Thoán thượng hạ
- Tượng thượng hạ
- Văn ngôn
- Hệ từ thượng hạ
- Thuyết quái
- Tự quái
- Tạp quái.
Người Hán gọi đây là thập dực (10 cánh). Dực mang nghĩa phụ giúp.
So với Dịch kinh thì đặc điểm của Dịch truyện là triết lý hóa sách bói thời cổ đại. Khuynh hướng giải thích Dịch bắt đầu từ thời kỳ Xuân Thu. Đến thời Chiến Quốc, theo sự hình thành và phát triển các thuyết của Chư Tử thì các thuyết của Âm dương gia, quan niệm về luân lý của Nho gia, Thiên đạo quan của Đạo gia đang lưu hành ở đời lúc bấy giờ trở thành tư tưởng chỉ đạo cho việc giải thích Dịch. Dịch truyện có 2 loại ngôn từ, một là ngôn từ bói toán, hai là ngôn từ triết học. Về ngôn từ bói toán, sách Trang Tử, thiên thiên hạ nói về âm dương trong Chu Dịch. 一陰一陽之謂道 , 繼之者善也 , 成之者性也。仁者見之謂之仁 , 智者見之謂之智 , 百姓日用而不知 , 君子知道鮮矣 = nhất âm nhất dương chi vị đạo. kế chi giả thiện dã, thành chi giả tính dã. Nhân giả kiến chi vị chi nhân, trí giả kiến chi vị chi trí. Bách tính nhật dụng nhi bất tri. Quân tử tri đạo tiển hĩ.
Mệnh đề 一陰一陽 là nói trong âm có dương, trong dương có âm, âm có thể biến thành dương, dương có thể biến thành âm.. Đó là qui luật phàm người nào kế thừa được qui luật này là hoàn thiện. Ai có đầy đủ nhất âm nhất dương 一陰一陽 là bản tính hoàn thiện. Nói chung người ta ít ai thấy được 2 mặt âm dương; hoặc thấy nhân mà không thấy trí; hoặc thấy trí mà không thấy nhân. Mỗi người lấy cái điều mình biết để nói về cái tồn tại. Người hiểu được qui luật nhất âm nhất dương 一陰一陽 không nhiều.
Về đại thể âm dương trong Dịch truyện có 3 phương diện:
1- Đem nguyên lý cơ bản trong Chu Dịch khái quát thành nhất âm nhất dương:
- Nói về nét quẻ, 2 số kỳ ngẫu (奇偶二數), âm dương nhị hào (陰陽二爻), càn khôn lưỡng quẻ (乾坤兩卦) đều là nhất âm nhất dương.
- Nói về 6 quẻ thì có Chấn, Khảm, Cấn (震, 坎, 艮) là quẻ dương, Tốn, Ly, Đoài (巽, 离, 兌) là quẻ âm. 2 loại quẻ này đối lập nhau tạo nên nhất âm nhất dương.
- Nói về 64 quẻ thì do 32 quẻ đối lập tạo nên cũng là nhất âm nhất dương.
- Trong một quẻ cũng có cương nhu, trên dưới, qua lại cũng là nhất âm nhất dương.
2- Đem tính chất của sự vật và qui luật biến hóa của nó để qui vào nhất âm nhất dương. Nói về việc giải thích phép bói cỏ thi khi đơn cử sự việc trong hệ từ thì hàm nghĩa âm dương của rất rộng bao gồm cả hiện tượng tự nhiên đến cuộc sống của nhân loại.
- Hàm nghĩa của dương bao gồm: 天, 日, 暑, 畫, 剛, 進, 健, 明, 辟, 伸, 貴, 男, 君, 君子.
- Hàm nghĩa của âm bao gồm: 地, 月, 寒, 夜, 柔, 順, 幽, 退, 闔, 屈, 賤, 女, 民, 小人。
Quan hệ giữa chúng là đối lập, nhưng có thể biến thông với nhau như nhật nguyệt đổi nhau, hành động khi khuất khi hiện. Loại biến hóa này là nhất âm nhất dương.
3- Nhất âm nhất dương chi vị đạo (一陰一陽之謂道) là thừa nhận sự vật đều có lưỡng trùng tính, là đại biểu cho lưỡng điểm luận trong triết học cổ đại. Mệnh đề nhất âm nhất dương chi vị đạo (一陰一陽之謂道) có nguồn gốc từ Tây Chu, từ việc luận bàn sự vật cụ thể, như sự biến hóa của 2 khí ấm, lạnh trong thiên văn học, sự đầy vơi của mặt trời mặt trăng, sự lộ diện hay ẩn nấp trong binh pháp đã được trìu tượng thêm một bước để trình bầy bề ngoài phạm trù mang tính chất đối lập, đồng thời chỉ rõ giữa chúng có mối quan hệ chuyển hóa tương hỗ nhau tồn tại. Dịch truyện coi nhất âm nhất dương là qui luật biến hóa và bản tính của sự vật., đó là một cống hiến lớn trong nền triết học cổ đại Trung Quốc.
Dịch truyện coi tự nhiên và xã hội là một chỉnh thể. Nhất âm nhất dương chi vị đạo (一陰一陽之謂道) sử dụng thích hợp với giới tự nhiên và xã hội. Đây là một nguyên tắc bao trùm. Nếu tách ra mà nói thì lập thiên chi đạo là âm và dương; lập địa chi đạo là cương và nhu; lập nhân chi đạo là nhân và nghĩa.
Về ngôn từ triết học trong Dịch truyện.
Dịch truyện nêu lên một hệ thống tư tưởng triết học về nhân đạo, địa đạo, thiên đạo (易之為書也 , 廣大必備 , 有天道焉, 有地道焉, 有人道焉。兼三才而兩之 , 故六。六者非它也 , 三才之道也 = Dịch chi vi thưdã quảng đại tất bị, hữu thiên đạo yên, hữu địa đạo yên, hữu nhân đạo yên, kiêm tam tài nhi lưỡng chi, cố lục. Lục giả phi tha dã (系辭下 = hệ từ hạ).
Xét về nội dung, hệ thống này thể hiện một giai đoạn phát triển mới trong hoạt động nhận thức của con người ở thời đại Chiến quốc. Không giống với bói toán trong Dịch kinh, Dịch truyện tự giác coi nhân đạo, địa đạo, thiên đạo là đối tượng nghiên cứu của mình, muốn dựng lên một hệ thống hoàn bị, rộng lớn bao gồm muôn vàn hiện tượng bao la, tiến hành phân loại thành các mặt đối lập để khái quát về mặt triết học. Thiên địa nhân gọi là tam tài, là cơ sở quan trọng nhất trong vũ trụ, cũng là khái niệm thường dùng trong văn hóa Trung Quốc. Tam tài là âm dương đối lập nhau, hai ba là sáu kiêm tam tài nhi lưỡng chi 兼三才而兩之。 Phản ánh trên hình tượng quẻ là 6 nét một quẻ. Cơ sở kết cấu này không chỉ giống Dịch kinh, có mối liên quan mật thiết đến mê tín bói toán, mà còn là kết quả dựa trên việc quan sát đối với thế giới khách quan. Trong tự quái 序卦 có câu: 有天地 , 然后萬物生焉。盈天地之間維萬物 = hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật sinh yên. Doanh thiên địa chi gian duy vạn vật. Đây là hạt nhân duy vật trong Dịch truyện.
Qua Dịch truyện người ta thấy được trật tự văn hóa dương tôn âm ty cũng như cách nhìn nhận về bậc Thánh nhân. Thánh nhân phải là người nắm chắc Dịch lý (lý lẽ của Dịch).
Như vậy, mối quan giữa Dịch kinh và Dịch truyện là truyện giải thích kinh.
1.2.3- Về chú giải từ ngữ trong Chu Dịch
Vấn đề chú giải từ ngữ trong Chu Dịch là một đề tài được nhiều nhà nghiên cứu rất quan tâm. Ví dụ lời quẻ Càn: 元亨利貞 = nguyên hanh lợi trinh. Theo cách chú giải của Chu Hy 元大也 = nguyên đại dã; 亨通也 = hanh thông dã; 利宜也 = lợi nghi dã; 貞正固也 trinh chính cố dã. Chữ貞 theo truyền thống chú giải là chính, cứng rắn. Gần đây do phát hiện hàng loạt văn giáp cốt, người ta được biết 貞者占也 = trinh giả chiêm dã (trinh nghĩa là xem bói). Mệnh đề 元亨利貞 = nguyên hanh lợi trinh được các nhà nghiên cứu Trần Cổ Ứng và Triệu Kiến Vĩ chú: 元亨謂大順 , 大吉. Nguyên hanh nghĩa là đại thuận đại cát. 利貞 lợi trinh là xem bói [ thì ] có lợi.
2- Các xu hướng nghiên cứu Chu Dịch ngày nay
Bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX, giới học thuật rất quan tâm tới việc nghiên cứu Chu Dịch. Có nhiều lý do để lý giải vấn đề này. Việc nghiên cứu Chu Dịch hiện đang tập trung vào 6 lĩnh vực sau:
1- Khảo cổ Dịch: sử dụng tài liệu mới khai quật được về Chu Dịch để tiến hành nghiên cứu ngọn nguồn của Chu Dịch
2- Khoa học Dịch: từ góc độ khoa học tự nhiên đi sâu tìm hiểu các nhân tố tự nhiên mà hệ thống phù hiệu ẩn chứa trong các hào của quẻ
3- Truyền thống Dịch: theo phương pháp và tư duy Dịch học về nghĩa lý (Tống Nho), tượng số (Hán Nho) tiến hành chú thích, lý giải cách đọc, ở một trình độ nhất định đi tổng hợp, tổng kết thành quả học thuật của các nhà nghiên cứu Chu Dịch trong lịch sử.
4- Lịch sử Dịch: ở góc độ lịch sử, tiếp tục truyền thống của người xưa đã nói lục kinh đều là sử để nghiên cứu sự thực lịch sử hoặc ảnh sạ có quan hệ tới lịch sử mà trong Chu Dịch đã ghi chép.
5- Dự trắc Dịch: theo lời bói trong Chu Dịch cùng với tư tưởng về số mệnh mà người đời sau đã phát triển đưa vào thực tiễn việc tính quẻ.
6- Văn hóa Dịch: tiến hành phân tích giảng giải về mặt lý luận của khoa học văn hóa nhân loại. Qui nạp lời bói ban đầu trong Chu Dịch vào phạm vi bói toán, từ đó đi tìm cội nguồn của văn hóa Trung Hoa, cội nguồn của thuật bói.
Tài liệu tham khảo
1- 諸子百家。朱義祿編著。同濟大學出版社。 2001。
2- 周易今注今釋。商務印書館。北京。 2007。
3- Kinh Dịch. Ngữ văn Hán Nôm, Nxb. KHXH, H. 2002./.
(Thông báo Hán Nôm học 2009, tr.896-903)
Và:
MÃ CHỮ 元亨利貞(NGUYÊN HANH LỢI TRINH) TRONG
QUẺ CÀN CỦA KINH DỊCH
PHẠM VĂN THẮM
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Như chúng ta đã biết Kinh Dịch có 64 quẻ. Đầu tiên là quẻ Càn. Lời mở đầu của quả Càn có mệnh đề: 元亨利貞 (nguyên hanh lợi trinh).Về mặt chữ trong mệnh đề này, hiện có 2 cách chú giải, thứ nhất là căn cứ vào mặt chữ, các chú giải đã chú:
元者生物之始 (nguyên là sự khởi đầu của vạn vật sinh thành)
亨者生物之通 (hanh là sự thông đạt của vạn vật sinh thành)
利者生物之遂 ( lợi là sự thỏa mãn của vạn vật sinh thành)
貞者生物之成 (trinh là sự phát triển của vạn vật sinh thành)
Trong Thoán truyện chú:
元者大也 (nguyên là to lớn)
利者順也 (hanh là thuận)
Trong Dịch truyện chú:
貞者正也 (trinh là chính)
Gần đây các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng căn cứ vào bản Kinh Dịch mới phát hiện được ở gò mã Vương thì chữ trinh貞được chí là chiêm 占 (貞者占也 = trinh giả chiêm dã), cho nên mã chữ 利貞 được giải nghĩa là xem bói thì có lợi.
Mệnh đề 元亨利貞 được vận dụng trong đời sống xã hội và tự nhiên như thế nào ? Chúng ta biết rằng Chu Dịch gồm Dịch kinh và Dịch truyện hợp thành. Dịch kinh ra đời trên nền tảng tích lũy sự ghi chép về bói toán rất phong phú từ thời Ân đến đầu thời Tây Chu. Nên ngôn từ trong Dịch kinh là ngôn từ bói toán. Dịch truyện là phần triết lý hóa sách bói thời cổ đại. Khuynh hướng giải thích Dịch là bắt đầu từ thời Xuân Thu. Đến thời Chiến Quốc, theo sự hình thành và phát triển các thuyết của Chư tử thì xuất hiện lấy Dịch truyện làm đại biểu cho tác phẩm giải thích Dịch. Các thuyết của Âm dương gia, quan niệm về luân lý của Nho gia, thiên đạo quan của Đạo gia đang lưu hành ở đời lúc bấy giờ trở thành tư tưởng chỉ đạo cho việc giải thích Dịch… Dịch kinh là nói về chiêm phệ (bói bằng cỏ thi), Dịch truyện có 2 loại ngôn từ, một là ngôn từ chiêm phệ, hai là ngôn từ triết học. Có 7 loại thiên gồm - Thoán thượng hạ; - Tượng thượng hạ; - Văn ngôn; - Hệ từ thượng hạ; - Tự quái; - Thuyết quái; - Tạp quái. Người Hán gọi đây là thập dực (10 cánh). Dực mang nghĩa phụ giúp. Mối quan hệ giữa Kinh và Truyện về mặt hình thức là mối liên hệ truyện giải thích kinh.
Đề nói rõ mệnh đề 元亨利貞, trong thoán truyện ghi: “乾道變化, 各正性命, 保合太和, 乃利貞 - càn đạo biến hóa, các chính tính mệnh, bảo hợp thái hòa, nãi lợi trinh = đạo trời do khí lớn của trời quyết định, mối loại sinh thành theo đúng bản tính của nó, duy trì và giữ vững sự hòa hợp, như vậy khiến vạn vật sinh thành theo đúng bản năng của nó).
Theo văn ngôn (文言 ) “元者善之長也, 亨者嘉之會也, 利者義之和也, 貞者事之幹也 . 君子體仁足以長人, 嘉會足以合禮, 利物足以和義, 貞固足以幹事 .君子行此四德者, 故曰乾元亨利貞”.
Theo Chu Tử (Chu Hy) 元亨利貞謂之四德 . 元者生物之始, 亨者生物之通, 利者生物之遂, 貞者生物之成 .
Theo cách giải thích của Chu Hy thì 元大也, 亨通也, 利宜也, 貞正固也 . Ông ví 元亨利貞 như các loài cốc có thể nuôi sống người. Cây bắt đầu có mầm là 元, mầm nẩy thành mạ là 亨, mạ phát triển thuận là 利, cây trưởng thành là貞.
梅藥所生為元, 開花為亨, 結子為利, 成熱為貞 . ( )
元亨利貞 còn được dẫn dụ trong đời sống của con người. Theo Chu Hy 聖人在下亦在上 .元亨利貞不必在上方.如此如孔子出類拔萃, 便是首出次物, 著書 ; 立言,澤及後. 便是萬國咸寧. ( )
Ngày nay, các nhà nghiên cứu Kinh Dịch cho rằng (乾道變化, 各正性命, 保合太和, 乃利貞 . 首出庶物, 萬國咸寧 ) (đạo trời do khí lớn của trời quyết định, mỗi loài sinh thành theo đúng bản tính của nó, phải duy trì trật tự quy định trời cao đất thấp, dương tôn âm tỳ… khiến vạn vật sinh thành theo đúng bản năng của nó). Từ đây ta có thể nhận thấy mệnh đề 元亨利貞 luôn được khai thác ở các cấp độ khác nhau và các hướng khác nhau. Điều này làm cho việc nghiên cứu Kinh Dịch là vô cùng tận./.
(Thông báo Hán Nôm hoc, 2010, tr.348-350)
theo: (từ khoá: Chu Dịch)