

Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#301
Gửi vào 21/09/2011 - 09:36
CÂY ĐA LỐI CŨ GỌI HỒN NGƯỜI XƯA
PHẦN BA
Cảm xúc và những tín hiệu kỳ lạ
Tôi xin mạn phép nhắc lại rằng trong Phần Hai: "Gọi hồn", cuộc đối thoại với hai mươi nhân vật bên Cõi Âm (không kể hai nhân vật mà chúng tôi không nhận biết được liên hệ gia tộc và một nhân vật mà tôi không thâu kịp trong lúc thay battery) kéo dài trong khoảng ba tiếng đồng hồ. Tôi đã trình bầy cho ngắn gọn trong Phần Hai và bây giờ tôi xin góp thêm ý kiến về các nhận xét và về phần cảm nhận riêng tư của tôi.
Các thành viên gia đình trong Cõi Âm của bốn người ngồi Gọi Hồn "xuất hiện" theo hệ thống ngôi thứ qua lời nói của cô đồng. Các cụ bên gia đình BN và H "về" theo thứ tự rất là quy củ: Cụ tổ năm đời về trước tiên, sau đó là cụ tổ bốn đời rồi ba đời. Các cụ tự xưng tên và các cụ cho biết sự liên hệ giữa đời nọ với đời kia. Riêng cụ tổ năm đời của BN và H, vì cả BN và H không biết đích danh của Cụ lúc ban đầu, Cụ cho biết cụ là thân sinh của cụ tổ bốn đời và cụ cũng cho bíết họ và tên của cụ tổ bốn đời nữa, vì vậy mà BN, H mới biết Cụ là ai. Còn bên gia đình tôi, bà Tổ Cô của tôi (Cụ cho biết Cụ là Bà Cô Trẻ của họ Ðàm) "về" trước tiên trong gìòng họ nội của tôi. Vì Bà tự giới thiệu tên bên Cõi Âm là Thu nên tôi lúng túng nhận không ra ngay được. Cô đồng quay qua phía BN:
- Họ Ðàm ấy mà! Thế không nhận ra sao?
Nhờ vậy tôi mới "đoán" được là Bà Tổ Cô của tôi. Lời nói của Bà qua cô đồng rất là ôn tồn và vẻ mặt cô đồng trông thật là an nhiên tự tại. Về phần tôi, tôi cảm thấy rất vui mừng vì đây thực sự là tôi đang được đối thoại với Bà Tổ Cô của tôi. BN và tôi hết sức ngạc nhiên khi nghe Bà nói:
- Các con đã về thăm nhà thờ (từ đường) và thăm mộ Bà, hôm nay Bà về thăm các con đây!
Lời nói này làm tôi nhớ lại những gì đã xẩy ra: tuần trước đó, chúng tôi đã về thăm làng quê tại Bắc Ninh. Chúng tôi đã vào từ đường thắp hương khấn vái các vị đã khuất bóng. Khi vào thăm mộ của gia tộc, tôi đang mải chụp hình, bỗng nhiên tôi nhìn thấy ngay ngôi mộ của Bà Tổ Cô và vợ chồng chúng tôi thắp hương khấn vái Bà. Chuyện về thăm mộ bà, tôi chưa nghĩ đến mà lúc đó, qua lời cô đồng. Bà nhắc lại, các chi tiết rất đúng sự thật, thật là không thể tưởng tượng được! Một điều hết sức ngạc nhiên nữa là Bà cho biết một người anh trai tôi cũng "về" nữa. Anh trai tôi (anh Hán) mất hồi anh ấy còn nhỏ, khi đó tôi mới lên ba cho nên tôi đâu có biết nhiều, huống chi là còn nhớ. Ðây là lần đầu tiên tôi "có chứng cớ" là vong linh Bà đang thực sự hiển linh và chính Bà đã cho tôi biết "Bà luôn luôn che chở cho tôi" qua lời nói của cô đồng.
Cái "tin vui" về người anh khuất bóng của tôi là một tin thật bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của tôi; ngay cả BN cũng chưa chắc biết chuyện về anh tôi nữa vì tôi chưa kể cho BN nghe nhiều về anh tôi, có lẽ vì tôi đã quên rất nhiều những việc xẩy ra hơn sáu mươi năm về trước! Tôi nhận xét thấy những nhân vật chết trẻ như anh tôi, cháu D. con chú H. và cô Bé (em gái của BN), khi họ về, nét mặt của cô đồng lộ vẻ rất tinh nghịch, cười đùa hồn nhiên và cách ăn nói qua cô đồng lại "láu táu" đúng như trẻ con, khác hẳn với vẻ mặt và cách ăn nói của người chết khi đã lớn tuổi. Một số chi tiết của những điều các Cụ nói ra rất "ăn khớp" với nhau khi chúng tôi ngồi kiểm chứng lại sau vụ Gọi Hồn này. Tôi xin lấy vài thí dụ dưới đây.
Cụ tổ bốn đời của BN và H (nhân vật thứ hai) cho biết một chắt trai của cụ (ngang vai vế với BN và H) mấy năm về trước đã bị bệnh hiểm nghèo may nhờ Cụ phù hộ cho nên mới tai qua, nạn khỏi. Ðiều này, thân phụ của BN (nhân vật thứ sáu) cũng cho biết:
- May nhờ Ông Nội (của thân phụ BN) che chở cho nó, chứ không thì nó không qua khỏi!
Trên thực tế, câu chuyện hoàn toàn đúng sự thực: chắt trai của cụ (chúng tôi biết rõ tên tuổi của người đó) đã phải trải qua hai kỳ giải phẫu hiểm nghèo nhưng sau đó thực sự khỏi bệnh. Các chi tiết mà Cụ tổ bốn đời và thân phụ BN cho chúng tôi biết về người chắt trai này không hề "trái cựa" với nhau! Các Cụ bên gia đình BN và H còn cho chúng tôi biết ngày giỗ của các Cụ nữa. Khi tra gia phả, những ngày giỗ này đúng y như đã ghi trong gia phả. Một điều ngạc nhiên ly kỳ khác: cụ bà NTN (vợ của Cụ tổ bốn đời của BN và chú H) không những đã cho biết ngày giỗ của Cụ vào mùng Hai, tháng Giêng âm lịch mà còn gọi đúng tên tôi nữa (Cụ chưa hề gặp tôi bao giờ)! Tôi nhớ rõ là hôm lên thăm nghĩa địa Yên Kỳ tại Sơn Tây với vợ chồng Chú H, BN và tôi đã thắp hương và khấn vái trước mộ Cụ.
Tôi còn chụp hình phần mộ của Cụ Bà và trong hình, tôi thấy ghi rõ trên mộ bia ngày Cụ mất: mùng Hai, tháng Giêng âm lịch! Phải chăng vì tôi đã thắp hương và khấn vái Cụ mà Cụ biết tên tôi rành mạch? (Ðiều này rất giống câu chuyện giữa Bà Tổ Cô và vợ chồng chúng tôi khi chúng tôi viếng mộ Bà). Thân phụ BN cho biết chú H. không thể qua Mỹ thăm gia đình vào năm 2005 được nhưng "sang năm" (tức là năm 2006) thì chú H sẽ qua Mỹ thăm gia đình được. Sau khi Gọi Hồn xong, chú H cho chúng tôi biết ngay từ đầu năm 2005, chú ấy đã nộp đơn xin giấy tờ đi Mỹ nhưng giấy tờ bị trục trặc và rốt cuộc không sang Mỹ được. Quả nhiên trong năm sau (năm 2006), việc xin giấy tờ sang Mỹ rất dễ dàng và vào Mùa Thu năm 2006, chú H đã qua thăm thân phụ và gia đình bên nội của chú ấy tại Hoa Kỳ. Xem ra mười tháng sau khi Gọi Hồn, lời nói của thân phụ của BN đúng với sự thực.
Ngày giỗ mà các Cụ bên gia đình Bích Nga nói đều giống hệt như đã ghi trong gia phả. Tuy nhiên, anh tôi dặn chúng tôi cúng anh ấy vào ngày 27 tháng Tư âm lịch. Khi về tới Canada, tôi coi trong gia phả gia đình họ nội, tôi thấy gia phả ghi anh ấy mất vào ngày 24 tháng Bẩỵ, âm lịch. Chẳng lẽ anh ấy đã nói lộn cho tôi biết ngày và tháng? Theo lời mẹ tôi (nhân vật thứ mười bảy) thì anh ấy đã về ở với mẹ tôi. Trước khi vợ chồng chúng về thăm Việt Nam, chúng tôi thường hay thắp hương khấn vái Bà Tổ Cô và Bố Mẹ tôi để báo tin cho các Cụ biết rằng chúng tôi sắp về Việt Nam thăm làng quê và họ hàng, chẳng lẽ vì vậy mà anh tôi đã nói:
- Khi chú về làng thắp hương cúng vái các Cụ, anh cũng về theo!
Rồi:
- Anh luôn luôn che chở cho chú.
Và mẹ tôi cũng cho biết:
- Nghe tin con về, Âm phần ai cũng vui!
Qua những mẩu chuyện này, tôi có cảm tưởng rằng người bên Cõi Âm đang hiện diện ở một nơi rất gần với chúng ta nhưng họ "sống" ở trong một môi trường khác (medium, frequency) với môi trường sinh sống của chúng ta cho nên chúng ta không thể nhìn thấy họ và cũng không nghe được tiếng họ nói. Tôi để ý thấy khi các Cụ tổ bên phía BN và chú H "về thăm" chúng tôi, nét mặt của cô đồng lộ vẻ bình tĩnh và lời nói không tỏ vẻ vui hay buồn. Tuy nhiên, khi cha mẹ của vợ chồng chúng tôi nói chuyện với chúng tôi, nét mặt của cô đồng trông khá đăm chiêu (tense). Dường như các Cụ vẫn còn nhiều vương vấn với Cõi Trần, nhất là còn chưa quên được những liên hệ mật thiết với các con, các cháu? Tôi chưa bao giờ được gặp mặt hai đấng thân sinh của BN nhưng theo lời BN, thân mẫu của BN có những điệu bộ chẳng khác gì như lúc Cụ còn sống nhất là cách cụ gõ các ngón tay trên sàn chiếu khi Cụ nói chuyện.
Cách xưng hô của bố mẹ đôi bên đều chẳng có gì khác khi còn sinh thời. Các Cụ còn nói rõ tên và hỏi thăm từng người con một. Bố mẹ tôi kể cho tôi nghe những chuyện riêng tư trong gia đình mà chỉ một mình tôi mới biết được mà thôi. Thân mẫu của tôi đã mất năm mươi năm trước đó và cô đồng mới có 36 tuổi thì không tài nào cô đồng "nghe lóm" được những gì đã xẩy ra trong gia đình nhà tôi trước khi cô sinh ra đời được. Cô đồng cũng không thể "dựa hơi" mà nói tên rành rọt từng người trong gia đình của chúng tôi vì chúng tôi không nói tên của tất cả các anh chị em chúng tôi! Thân phụ của tôi đã phải di tản đến hai lần: năm 1954 và 1975. Khi còn sở Sai gon cũng như khi Cụ sống với chúng tôi tại Mỹ và Canada, Cụ thường kể cho tôi nghe nhiều câu chuyện làng quê tại Bắc Ninh, nhất là cái gia trang của hai Cụ. Cụ hay nói tới đồng lúa, lũy tre, cái cầu ao, đền thờ Cụ Tiết Nghĩa, đề thờ Cụ Quốc Sư, họ hàng… Vì vậy mà tôi không hề ngạc nhiên khi nghe Cụ hỏi tôi qua lời cô đồng:
- Thế con đã về thăm làng Me chưa? Có biếu tiền cho người ta trông nom phần mồ mả cho các Cụ nhà mình không?
Trong lúc Gọi Hồn, tôi cứ ngỡ như là tôi đang ngồi nói chuyện với những người bên Cõi Dương vậy. Một số thân hữu đã hỏi tôi:
- Thế anh không sợ "gặp ma" trong lúc Gọi Hồn ả ?
Ðối với tôi, trong lúc hay sau khi Gọi Hồn, tôi thấy rất vui vì tôi đã "gặp" được nhiều người thân thương của tôi trong Thế Giới Bên Kia. Có lẽ tôi "ớn ma sống" trên Cõi Dương còn hơn là "sợ ma chết" trong Cõi Âm nữa! Tôi có thói quen hay thức khuya từ lúc còn đi học cho tới khi đi dậy học và kéo dài cho tới bây giờ. Tôi thích đêm khuya vì trong những lúc đó, tôi thấy được yên tĩnh và làm việc bằng đầu óc thấy dễ dàng hơn. Tôi còn nhớ sau khi thân mẫu tôi qua đời lúc tôi mới mười ba tuổi, tôi thường mơ ngủ thấy Cụ. Khi thì Cụ chui vào mùng trong lúc tôi đang nằm ngủ, khi thì Cụ vỗ về tôi trong những lúc tôi buồn hiu hắt.
Khi còn nhỏ, tôi thường tự trách mình là tôi hay "mơ mộng" vì bị ám ảnh bởi cái cảnh bà mẹ Cúc Hoa từ Cõi Âm về lại Cõi Dương để vỗ về, âu yếm hai đứa con thơ. Sau khi anh chị em chúng tôi đã có gia thất và nhất là sau khi tôi nghe anh lớn tôi kể truyện Mẹ về báo mộng cho anh ấy trong Tù Cải Tạo, tôi linh cảm có một cái gì kỳ lạ, huyền bí trong những giấc mơ của tôi. Những năm đầu khi tôi đi học tại Úc Ðại Lợi, tôi chỉ có biết học để mà ra trường. Sau khi đã ra trường, như nhiều các sinh viên khác, ban ngày tôi đi làm với chức vụ Kỹ Sư, ban đêm tôi đi học Cao Học. Sống một mình ở nơi xứ lạ quê người, tôi cảm thấy buồn và cô đơn. Tôi nghĩ tới chuyện lấy vợ. Mà lấy ai bây giờ nhỉ? Ban ngày tôi bận rộn với công việc, ban đêm bận bịu với việc học hành. Chỉ những đêm khuya trong căn nhà trọ một mình, tôi thường hay ngồi suy nghĩ về việc lấy vợ và tạo dựng tương lai gia đinh, nghề nghiệp về sau. Một đêm tôi nằm mơ ngủ gặp một linh mục mặt mũi rất phúc hậu (tôi là người gốc Phật Giáo). Cha nói tiếng Anh với tôi và tôi nghe loáng thoáng như:
- You will meet your wife in coma. (Con sẽ gặp vợ của con trong trạng thái hôn mê).
Khi thức dậy, nghĩ lại về giấc mơ, tôi thấy nó "không có ăn nhậu gì hết" như nhiều các giấc mơ khác. Tuy nhiên, tuần sau đó, tôi đi trượt tuyết cùng với một số bạn bè tại địa danh Kooma (địa danh này do thổ dân Úc đặt ra và phát âm giống như chữ "Coma"). NT cùng đi trượt tuyết với cả bọn chúng tôi để rồi hai đứa chúng tôi bắt đầu đi chơi riêng với nhau và hai năm sau đó, chúng tôi lấy nhau. Hóa ra tôi đã thực sự "gặp" NT, vợ tương lai của tôi tại địa danh Kooma, giống như lời nói của vị linh mục trong giấc mơ vậy! Sau khi đã lập gia đình, chúng tôi rất muốn biết sẽ lập nghiệp tại quốc gia nào. Một đêm, cũng trong một giấc mơ khác, tôi lại thấy một vị linh mục người da trắng rất hiền từ và linh mục đã nói với tôi bằng tiếng Anh:
- You will be there alright but keep trying! (Con sẽ tới được nơi đó nhưng phải cố gắng).
Quả nhiên, vài tháng sau, đôi vợ chồng trẻ chúng tôi đã tới lập nghiệp tại Canada rất thuận buồm suôi gió. Cho tới bây giờ tôi vẫn chưa đoán được hai vị linh mục đó là ai và tại sao lại có sự "trùng hợp" thật đúng với sự thật như vậy? Năm 1992, hai ngày trước khi bà ngoại của hai con trai tôi mất tại tư gia của chúng tôi, tôi nằm mơ nhìn thấy một bóng ma của một người đàn bà mặc đồ tang trắng đang ngồi vắt vẻo trên một cành cây ở ngoài vườn. Bóng người mặc tang trắng này đang ngó vào trong nhà chúng tôi. Tôi sợ toát mồ hôi và thức giấc. Lúc này thì gia đình bên ngoại của các cháu đã từ Hoa Kỳ và Âu Châu về tề tựu đầy đủ tại tư gia chúng tôi để cầu nguyện cho Cụ. Và Cụ đã thanh thản ra đi trong lúc nhà vắng người nhất.
Năm 1991, Cụ bị ngã trước cái chân cầu thang khi Cụ trèo lên gác. Cụ bị nứt xương tay bên phải và chỉ khi về đến nhà, chúng tôi mới biết điều đó. Kết quả là Cụ đã phải vào nhà thương bó bột. Cụ đã kể lại cho chúng tôi biết là sau khi Cụ đã ngã, tuy quá đau tay nhưng Cụ đã "nghe thấy" giọng một người đàn bà Việt Nam nói với Cụ:
- Tôi biết là Bà đã ngã và Bà đau lắm. Thôi để tôi giúp đưa bà trèo lên gác mà vào phòng nằm nghỉ!
Mùa Thu năm 1992, sau khi Cụ mất được ít lâu, một đêm tôi nằm mơ. Thoạt đầu trong giấc mơ, tôi "nghe" thấy tiếng động như một vật gì nặng mới rớt xuống đất. Sau đó, tôi "thấy" Cụ nằm sóng soải trên sàn nhà ngay trước bậc cầu thang đầu tiên từ phòng khách lên gác. Cụ mặc cả quần lẫn áo cà sa. Phải chăng là là hồn của Cụ đã về báo mộng cho tôi biết Cụ đã ngã tại chỗ nào (điều mà Cụ chưa kịp nói rõ cho tôi trước khi Cụ mất) và bây giờ Cụ đã được siêu thoát ở Thế Giới Bên Kia (người Tây Phương gọi là The Beyond). Sau khi bà ngoại của các cháu qua đời, đời tôi bắt đầu rất "vất vả" và kết quả là tôi đã phải dọn ra sống một mình trong một thời gian khá lâu. Tôi đã đi vào Thiền Ðịnh để cố gắng lấy lại sự bình an trong tâm hồn. Trong lúc ngồi thiền, tôi đã "nhìn thấy trong đầu" nhiều hình ảnh như những khi tôi đang đi du lịch vậy, đặc biệt là từ trên cao nhìn xuống.
Một đêm khuya thanh vắng như thường lệ, trong lúc ngồi thiền trong một căn phòng cao ốc một mình, tôi cảm nhận thấy rõ hình bóng mẹ của bạn tôi. Cụ đã qua đời được một, hai hôm trước đó và tôi cũng đã ngồi tụng niệm cho Cụ với mọi người trong gia đình của bạn tôi. Tôi "thấy" Cụ đang tiến lại phía tôi, tôi không hề sợ hãi mà còn thấy "vui" là đằng khác nữa rồi tôi cảm thấy Cụ "nhập" vào người tôi. Tôi vẫn ngồi nhắm mắt niệm Phật và không hề sợ hãi. Tự nhiên tôi cảm nhận thấy một luồng sinh lực (energy source) chạy xung quanh thân thể. Tôi cảm thấy khỏe khoắn và an vui lạ thường. Tôi cũng có cảm tưởng là tôi không còn ngồi trên sàn đất nữa mà thân thể tôi đang lơ lửng chừng 30, 40 cm cao hơn mặt sàn nhà. Tôi vẫn tiếp tục niệm Phật và tôi "nói trong đầu":
- Con xin cám ơn Bác đã đến "thăm" con!
Vài ba phút sau, tôi không còn cảm nhận thấy luồng sinh khí đó nữa và tôi "thấy" tôi trở về lại với vị trí của tôi trên sàn nhà. Tháng Hai, năm 1992, trong lúc tôi đang rất bận rộn với công việc nhà trường và sinh hoạt thiện nguyện. Sáng sớm một hôm Chủ Nhật, tôi mơ ngủ thấy bạn tôi đến "thăm tôi". Anh ta tươi cười và ăn mặc rất chỉnh tề như khi đi ăn cưới vậy. Anh ta nói với tôi:
- Tôi đến chào ông đây!
Nói xong, anh ta vui vẻ vẫy tay chào tôi rồi bỏ đi. Tôi bàng hoàng tỉnh giấc và chẳng có thể ngủ tiếp được nữa. Ðến trưa hôm đó, tôi được biết bạn tôi đã qua đời tối hôm Thứ Bẩy, hưởng dương bốn mươi bốn tuổi! Ðặc biệt là ngoài tôi ra còn có hai người khác bạn của chúng tôi cũng đã được anh đến "chào" như vậy! Anh và tôi đã từng sinh hoạt cộng đồng với nhau trong nhiều năm và thân nhau như hai anh em ruột vậy. Những khi nào anh em chúng tôi gặp những việc "khó nuốt" trong lúc sinh hoạt mà chẳng biết nói cùng ai, chúng tôi thường hay nhìn nhau rồi nói:
- Thôi thì tôi với ông mỗi đứa ngậm một quả bồ hòn vậy!
Nói xong, hai đứa phá ra mà cười với nhau. Sau khi bạn tôi đã vĩnh viễn ra đi, một mình tôi ngậm hai quả bồ hòn: một cho một kẻ Cõi Âm và một cho một kẻ Cõi Dương! Lâu lâu, tôi "gặp" lại anh trong giấc mơ; trông anh già hẳn đi nhưng có vẻ an nhiên tự tại và ít nói, ít tươi cười như ngày xưa! Năm 1995, khi đời tôi đang đi vào một khúc quanh một chiều, cũng trong một buổi sáng sớm tinh sương, tôi mơ ngủ thấy một một chị bạn đồng trang lứa với tôi. Chúng tôi đã đi du học cùng năm với nhau rồi cùng trở thành hai nhà giáo. Bạn tôi rất tươi cười, mặc áo đầm dài và chị nói với tôi trong giấc mơ:
- Tôi đến chào P. đây! Ở lại bình an nghe!
Tôi toát mồ hôi hột, giật mình thức giấc và tôi không tài nào nhắm mắt mà ngủ đưọc nữa vì tôi nhớ đến giấc mơ với anh bạn kia của tôi. Buổi trưa hôm đó, tôi được biết là bạn tôi đang hôn mê ở trong nhà thương và đang thoi thóp sống nhờ "hệ thống trợ sống" (life support) và qua đời sau đó một ngày. Tôi được nhà thương cho biết là bạn tôi đã bị "brain dead" (phần óc đã chết) ban đêm, trước khi chị "về chào từ biệt" tôi lúc buổi sáng sớm! Bạn tôi mất lúc năm mưoi ba tuổi và để lại bốn đứa con thơ trong sự thương tiếc của bạn bè. Tuyệt nhiên, tôi chưa hề "gặp lại" bạn tôi trong một giấc mơ nào cả. Qua những giấc mơ lạ lùng này (hay thực sự ra là những tín hiệu kỳ lạ?), tôi thường tự đặt câu hỏi cho chính tôi:
- Thế nào là sống, thế nào là chết? Sau khi chết, linh hồn sẽ đi về đâu? Mà làm sao chứng minh được là con người có linh hồn nhỉ?
Tôi đã đi vào Thiền Ðịnh và rất muốn tìm hiểu về Thế Giới Tâm Linh. Nhờ Thiền Ðịnh, nhờ những câu hỏi mà tôi tự đặt ra trong đầu óc, nhờ những kinh nghiệm sống ngoài đời và những giấc mơ lạ lùng mà tôi đã có hứng để viết bài "Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài" liên quan tới những điều mà tôi hằng nghĩ tới. Sau phần Gọi Hồn tại Hà Nội, tôi cảm thấy đầu óc rất thảnh thơi vì tôi đã cảm nhận thấy những câu hỏi về "sống, chết, linh hồn" mà tôi tự đặt ra cho tôi trong nhiều năm đã hầu như có câu trả lời tuy chưa thật là thỏa đáng nhưng cũng đã có một số chứng cớ khá rõ ràng mà chính tôi đã được dự kiến. Tôi thấy phấn khởi và vui vẻ muốn đi thăm nhiều nơi trên quê hương, đất nước Việt Nam của tôi. Chỉ ở ngay tại Việt Nam, tôi mới bắt đầu cảm nhận được thế nào là "Hồn Sông Núi" và vì vậy mà hai vợ chồng chúng tôi tiếp tục chuyến đi thăm quê hương cội nguồn từ Bắc xuống Nam.
PHẦN BA
Cảm xúc và những tín hiệu kỳ lạ
Tôi xin mạn phép nhắc lại rằng trong Phần Hai: "Gọi hồn", cuộc đối thoại với hai mươi nhân vật bên Cõi Âm (không kể hai nhân vật mà chúng tôi không nhận biết được liên hệ gia tộc và một nhân vật mà tôi không thâu kịp trong lúc thay battery) kéo dài trong khoảng ba tiếng đồng hồ. Tôi đã trình bầy cho ngắn gọn trong Phần Hai và bây giờ tôi xin góp thêm ý kiến về các nhận xét và về phần cảm nhận riêng tư của tôi.
Các thành viên gia đình trong Cõi Âm của bốn người ngồi Gọi Hồn "xuất hiện" theo hệ thống ngôi thứ qua lời nói của cô đồng. Các cụ bên gia đình BN và H "về" theo thứ tự rất là quy củ: Cụ tổ năm đời về trước tiên, sau đó là cụ tổ bốn đời rồi ba đời. Các cụ tự xưng tên và các cụ cho biết sự liên hệ giữa đời nọ với đời kia. Riêng cụ tổ năm đời của BN và H, vì cả BN và H không biết đích danh của Cụ lúc ban đầu, Cụ cho biết cụ là thân sinh của cụ tổ bốn đời và cụ cũng cho bíết họ và tên của cụ tổ bốn đời nữa, vì vậy mà BN, H mới biết Cụ là ai. Còn bên gia đình tôi, bà Tổ Cô của tôi (Cụ cho biết Cụ là Bà Cô Trẻ của họ Ðàm) "về" trước tiên trong gìòng họ nội của tôi. Vì Bà tự giới thiệu tên bên Cõi Âm là Thu nên tôi lúng túng nhận không ra ngay được. Cô đồng quay qua phía BN:
- Họ Ðàm ấy mà! Thế không nhận ra sao?
Nhờ vậy tôi mới "đoán" được là Bà Tổ Cô của tôi. Lời nói của Bà qua cô đồng rất là ôn tồn và vẻ mặt cô đồng trông thật là an nhiên tự tại. Về phần tôi, tôi cảm thấy rất vui mừng vì đây thực sự là tôi đang được đối thoại với Bà Tổ Cô của tôi. BN và tôi hết sức ngạc nhiên khi nghe Bà nói:
- Các con đã về thăm nhà thờ (từ đường) và thăm mộ Bà, hôm nay Bà về thăm các con đây!
Lời nói này làm tôi nhớ lại những gì đã xẩy ra: tuần trước đó, chúng tôi đã về thăm làng quê tại Bắc Ninh. Chúng tôi đã vào từ đường thắp hương khấn vái các vị đã khuất bóng. Khi vào thăm mộ của gia tộc, tôi đang mải chụp hình, bỗng nhiên tôi nhìn thấy ngay ngôi mộ của Bà Tổ Cô và vợ chồng chúng tôi thắp hương khấn vái Bà. Chuyện về thăm mộ bà, tôi chưa nghĩ đến mà lúc đó, qua lời cô đồng. Bà nhắc lại, các chi tiết rất đúng sự thật, thật là không thể tưởng tượng được! Một điều hết sức ngạc nhiên nữa là Bà cho biết một người anh trai tôi cũng "về" nữa. Anh trai tôi (anh Hán) mất hồi anh ấy còn nhỏ, khi đó tôi mới lên ba cho nên tôi đâu có biết nhiều, huống chi là còn nhớ. Ðây là lần đầu tiên tôi "có chứng cớ" là vong linh Bà đang thực sự hiển linh và chính Bà đã cho tôi biết "Bà luôn luôn che chở cho tôi" qua lời nói của cô đồng.
Cái "tin vui" về người anh khuất bóng của tôi là một tin thật bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của tôi; ngay cả BN cũng chưa chắc biết chuyện về anh tôi nữa vì tôi chưa kể cho BN nghe nhiều về anh tôi, có lẽ vì tôi đã quên rất nhiều những việc xẩy ra hơn sáu mươi năm về trước! Tôi nhận xét thấy những nhân vật chết trẻ như anh tôi, cháu D. con chú H. và cô Bé (em gái của BN), khi họ về, nét mặt của cô đồng lộ vẻ rất tinh nghịch, cười đùa hồn nhiên và cách ăn nói qua cô đồng lại "láu táu" đúng như trẻ con, khác hẳn với vẻ mặt và cách ăn nói của người chết khi đã lớn tuổi. Một số chi tiết của những điều các Cụ nói ra rất "ăn khớp" với nhau khi chúng tôi ngồi kiểm chứng lại sau vụ Gọi Hồn này. Tôi xin lấy vài thí dụ dưới đây.
Cụ tổ bốn đời của BN và H (nhân vật thứ hai) cho biết một chắt trai của cụ (ngang vai vế với BN và H) mấy năm về trước đã bị bệnh hiểm nghèo may nhờ Cụ phù hộ cho nên mới tai qua, nạn khỏi. Ðiều này, thân phụ của BN (nhân vật thứ sáu) cũng cho biết:
- May nhờ Ông Nội (của thân phụ BN) che chở cho nó, chứ không thì nó không qua khỏi!
Trên thực tế, câu chuyện hoàn toàn đúng sự thực: chắt trai của cụ (chúng tôi biết rõ tên tuổi của người đó) đã phải trải qua hai kỳ giải phẫu hiểm nghèo nhưng sau đó thực sự khỏi bệnh. Các chi tiết mà Cụ tổ bốn đời và thân phụ BN cho chúng tôi biết về người chắt trai này không hề "trái cựa" với nhau! Các Cụ bên gia đình BN và H còn cho chúng tôi biết ngày giỗ của các Cụ nữa. Khi tra gia phả, những ngày giỗ này đúng y như đã ghi trong gia phả. Một điều ngạc nhiên ly kỳ khác: cụ bà NTN (vợ của Cụ tổ bốn đời của BN và chú H) không những đã cho biết ngày giỗ của Cụ vào mùng Hai, tháng Giêng âm lịch mà còn gọi đúng tên tôi nữa (Cụ chưa hề gặp tôi bao giờ)! Tôi nhớ rõ là hôm lên thăm nghĩa địa Yên Kỳ tại Sơn Tây với vợ chồng Chú H, BN và tôi đã thắp hương và khấn vái trước mộ Cụ.
Tôi còn chụp hình phần mộ của Cụ Bà và trong hình, tôi thấy ghi rõ trên mộ bia ngày Cụ mất: mùng Hai, tháng Giêng âm lịch! Phải chăng vì tôi đã thắp hương và khấn vái Cụ mà Cụ biết tên tôi rành mạch? (Ðiều này rất giống câu chuyện giữa Bà Tổ Cô và vợ chồng chúng tôi khi chúng tôi viếng mộ Bà). Thân phụ BN cho biết chú H. không thể qua Mỹ thăm gia đình vào năm 2005 được nhưng "sang năm" (tức là năm 2006) thì chú H sẽ qua Mỹ thăm gia đình được. Sau khi Gọi Hồn xong, chú H cho chúng tôi biết ngay từ đầu năm 2005, chú ấy đã nộp đơn xin giấy tờ đi Mỹ nhưng giấy tờ bị trục trặc và rốt cuộc không sang Mỹ được. Quả nhiên trong năm sau (năm 2006), việc xin giấy tờ sang Mỹ rất dễ dàng và vào Mùa Thu năm 2006, chú H đã qua thăm thân phụ và gia đình bên nội của chú ấy tại Hoa Kỳ. Xem ra mười tháng sau khi Gọi Hồn, lời nói của thân phụ của BN đúng với sự thực.
Ngày giỗ mà các Cụ bên gia đình Bích Nga nói đều giống hệt như đã ghi trong gia phả. Tuy nhiên, anh tôi dặn chúng tôi cúng anh ấy vào ngày 27 tháng Tư âm lịch. Khi về tới Canada, tôi coi trong gia phả gia đình họ nội, tôi thấy gia phả ghi anh ấy mất vào ngày 24 tháng Bẩỵ, âm lịch. Chẳng lẽ anh ấy đã nói lộn cho tôi biết ngày và tháng? Theo lời mẹ tôi (nhân vật thứ mười bảy) thì anh ấy đã về ở với mẹ tôi. Trước khi vợ chồng chúng về thăm Việt Nam, chúng tôi thường hay thắp hương khấn vái Bà Tổ Cô và Bố Mẹ tôi để báo tin cho các Cụ biết rằng chúng tôi sắp về Việt Nam thăm làng quê và họ hàng, chẳng lẽ vì vậy mà anh tôi đã nói:
- Khi chú về làng thắp hương cúng vái các Cụ, anh cũng về theo!
Rồi:
- Anh luôn luôn che chở cho chú.
Và mẹ tôi cũng cho biết:
- Nghe tin con về, Âm phần ai cũng vui!
Qua những mẩu chuyện này, tôi có cảm tưởng rằng người bên Cõi Âm đang hiện diện ở một nơi rất gần với chúng ta nhưng họ "sống" ở trong một môi trường khác (medium, frequency) với môi trường sinh sống của chúng ta cho nên chúng ta không thể nhìn thấy họ và cũng không nghe được tiếng họ nói. Tôi để ý thấy khi các Cụ tổ bên phía BN và chú H "về thăm" chúng tôi, nét mặt của cô đồng lộ vẻ bình tĩnh và lời nói không tỏ vẻ vui hay buồn. Tuy nhiên, khi cha mẹ của vợ chồng chúng tôi nói chuyện với chúng tôi, nét mặt của cô đồng trông khá đăm chiêu (tense). Dường như các Cụ vẫn còn nhiều vương vấn với Cõi Trần, nhất là còn chưa quên được những liên hệ mật thiết với các con, các cháu? Tôi chưa bao giờ được gặp mặt hai đấng thân sinh của BN nhưng theo lời BN, thân mẫu của BN có những điệu bộ chẳng khác gì như lúc Cụ còn sống nhất là cách cụ gõ các ngón tay trên sàn chiếu khi Cụ nói chuyện.
Cách xưng hô của bố mẹ đôi bên đều chẳng có gì khác khi còn sinh thời. Các Cụ còn nói rõ tên và hỏi thăm từng người con một. Bố mẹ tôi kể cho tôi nghe những chuyện riêng tư trong gia đình mà chỉ một mình tôi mới biết được mà thôi. Thân mẫu của tôi đã mất năm mươi năm trước đó và cô đồng mới có 36 tuổi thì không tài nào cô đồng "nghe lóm" được những gì đã xẩy ra trong gia đình nhà tôi trước khi cô sinh ra đời được. Cô đồng cũng không thể "dựa hơi" mà nói tên rành rọt từng người trong gia đình của chúng tôi vì chúng tôi không nói tên của tất cả các anh chị em chúng tôi! Thân phụ của tôi đã phải di tản đến hai lần: năm 1954 và 1975. Khi còn sở Sai gon cũng như khi Cụ sống với chúng tôi tại Mỹ và Canada, Cụ thường kể cho tôi nghe nhiều câu chuyện làng quê tại Bắc Ninh, nhất là cái gia trang của hai Cụ. Cụ hay nói tới đồng lúa, lũy tre, cái cầu ao, đền thờ Cụ Tiết Nghĩa, đề thờ Cụ Quốc Sư, họ hàng… Vì vậy mà tôi không hề ngạc nhiên khi nghe Cụ hỏi tôi qua lời cô đồng:
- Thế con đã về thăm làng Me chưa? Có biếu tiền cho người ta trông nom phần mồ mả cho các Cụ nhà mình không?
Trong lúc Gọi Hồn, tôi cứ ngỡ như là tôi đang ngồi nói chuyện với những người bên Cõi Dương vậy. Một số thân hữu đã hỏi tôi:
- Thế anh không sợ "gặp ma" trong lúc Gọi Hồn ả ?
Ðối với tôi, trong lúc hay sau khi Gọi Hồn, tôi thấy rất vui vì tôi đã "gặp" được nhiều người thân thương của tôi trong Thế Giới Bên Kia. Có lẽ tôi "ớn ma sống" trên Cõi Dương còn hơn là "sợ ma chết" trong Cõi Âm nữa! Tôi có thói quen hay thức khuya từ lúc còn đi học cho tới khi đi dậy học và kéo dài cho tới bây giờ. Tôi thích đêm khuya vì trong những lúc đó, tôi thấy được yên tĩnh và làm việc bằng đầu óc thấy dễ dàng hơn. Tôi còn nhớ sau khi thân mẫu tôi qua đời lúc tôi mới mười ba tuổi, tôi thường mơ ngủ thấy Cụ. Khi thì Cụ chui vào mùng trong lúc tôi đang nằm ngủ, khi thì Cụ vỗ về tôi trong những lúc tôi buồn hiu hắt.
Khi còn nhỏ, tôi thường tự trách mình là tôi hay "mơ mộng" vì bị ám ảnh bởi cái cảnh bà mẹ Cúc Hoa từ Cõi Âm về lại Cõi Dương để vỗ về, âu yếm hai đứa con thơ. Sau khi anh chị em chúng tôi đã có gia thất và nhất là sau khi tôi nghe anh lớn tôi kể truyện Mẹ về báo mộng cho anh ấy trong Tù Cải Tạo, tôi linh cảm có một cái gì kỳ lạ, huyền bí trong những giấc mơ của tôi. Những năm đầu khi tôi đi học tại Úc Ðại Lợi, tôi chỉ có biết học để mà ra trường. Sau khi đã ra trường, như nhiều các sinh viên khác, ban ngày tôi đi làm với chức vụ Kỹ Sư, ban đêm tôi đi học Cao Học. Sống một mình ở nơi xứ lạ quê người, tôi cảm thấy buồn và cô đơn. Tôi nghĩ tới chuyện lấy vợ. Mà lấy ai bây giờ nhỉ? Ban ngày tôi bận rộn với công việc, ban đêm bận bịu với việc học hành. Chỉ những đêm khuya trong căn nhà trọ một mình, tôi thường hay ngồi suy nghĩ về việc lấy vợ và tạo dựng tương lai gia đinh, nghề nghiệp về sau. Một đêm tôi nằm mơ ngủ gặp một linh mục mặt mũi rất phúc hậu (tôi là người gốc Phật Giáo). Cha nói tiếng Anh với tôi và tôi nghe loáng thoáng như:
- You will meet your wife in coma. (Con sẽ gặp vợ của con trong trạng thái hôn mê).
Khi thức dậy, nghĩ lại về giấc mơ, tôi thấy nó "không có ăn nhậu gì hết" như nhiều các giấc mơ khác. Tuy nhiên, tuần sau đó, tôi đi trượt tuyết cùng với một số bạn bè tại địa danh Kooma (địa danh này do thổ dân Úc đặt ra và phát âm giống như chữ "Coma"). NT cùng đi trượt tuyết với cả bọn chúng tôi để rồi hai đứa chúng tôi bắt đầu đi chơi riêng với nhau và hai năm sau đó, chúng tôi lấy nhau. Hóa ra tôi đã thực sự "gặp" NT, vợ tương lai của tôi tại địa danh Kooma, giống như lời nói của vị linh mục trong giấc mơ vậy! Sau khi đã lập gia đình, chúng tôi rất muốn biết sẽ lập nghiệp tại quốc gia nào. Một đêm, cũng trong một giấc mơ khác, tôi lại thấy một vị linh mục người da trắng rất hiền từ và linh mục đã nói với tôi bằng tiếng Anh:
- You will be there alright but keep trying! (Con sẽ tới được nơi đó nhưng phải cố gắng).
Quả nhiên, vài tháng sau, đôi vợ chồng trẻ chúng tôi đã tới lập nghiệp tại Canada rất thuận buồm suôi gió. Cho tới bây giờ tôi vẫn chưa đoán được hai vị linh mục đó là ai và tại sao lại có sự "trùng hợp" thật đúng với sự thật như vậy? Năm 1992, hai ngày trước khi bà ngoại của hai con trai tôi mất tại tư gia của chúng tôi, tôi nằm mơ nhìn thấy một bóng ma của một người đàn bà mặc đồ tang trắng đang ngồi vắt vẻo trên một cành cây ở ngoài vườn. Bóng người mặc tang trắng này đang ngó vào trong nhà chúng tôi. Tôi sợ toát mồ hôi và thức giấc. Lúc này thì gia đình bên ngoại của các cháu đã từ Hoa Kỳ và Âu Châu về tề tựu đầy đủ tại tư gia chúng tôi để cầu nguyện cho Cụ. Và Cụ đã thanh thản ra đi trong lúc nhà vắng người nhất.
Năm 1991, Cụ bị ngã trước cái chân cầu thang khi Cụ trèo lên gác. Cụ bị nứt xương tay bên phải và chỉ khi về đến nhà, chúng tôi mới biết điều đó. Kết quả là Cụ đã phải vào nhà thương bó bột. Cụ đã kể lại cho chúng tôi biết là sau khi Cụ đã ngã, tuy quá đau tay nhưng Cụ đã "nghe thấy" giọng một người đàn bà Việt Nam nói với Cụ:
- Tôi biết là Bà đã ngã và Bà đau lắm. Thôi để tôi giúp đưa bà trèo lên gác mà vào phòng nằm nghỉ!
Mùa Thu năm 1992, sau khi Cụ mất được ít lâu, một đêm tôi nằm mơ. Thoạt đầu trong giấc mơ, tôi "nghe" thấy tiếng động như một vật gì nặng mới rớt xuống đất. Sau đó, tôi "thấy" Cụ nằm sóng soải trên sàn nhà ngay trước bậc cầu thang đầu tiên từ phòng khách lên gác. Cụ mặc cả quần lẫn áo cà sa. Phải chăng là là hồn của Cụ đã về báo mộng cho tôi biết Cụ đã ngã tại chỗ nào (điều mà Cụ chưa kịp nói rõ cho tôi trước khi Cụ mất) và bây giờ Cụ đã được siêu thoát ở Thế Giới Bên Kia (người Tây Phương gọi là The Beyond). Sau khi bà ngoại của các cháu qua đời, đời tôi bắt đầu rất "vất vả" và kết quả là tôi đã phải dọn ra sống một mình trong một thời gian khá lâu. Tôi đã đi vào Thiền Ðịnh để cố gắng lấy lại sự bình an trong tâm hồn. Trong lúc ngồi thiền, tôi đã "nhìn thấy trong đầu" nhiều hình ảnh như những khi tôi đang đi du lịch vậy, đặc biệt là từ trên cao nhìn xuống.
Một đêm khuya thanh vắng như thường lệ, trong lúc ngồi thiền trong một căn phòng cao ốc một mình, tôi cảm nhận thấy rõ hình bóng mẹ của bạn tôi. Cụ đã qua đời được một, hai hôm trước đó và tôi cũng đã ngồi tụng niệm cho Cụ với mọi người trong gia đình của bạn tôi. Tôi "thấy" Cụ đang tiến lại phía tôi, tôi không hề sợ hãi mà còn thấy "vui" là đằng khác nữa rồi tôi cảm thấy Cụ "nhập" vào người tôi. Tôi vẫn ngồi nhắm mắt niệm Phật và không hề sợ hãi. Tự nhiên tôi cảm nhận thấy một luồng sinh lực (energy source) chạy xung quanh thân thể. Tôi cảm thấy khỏe khoắn và an vui lạ thường. Tôi cũng có cảm tưởng là tôi không còn ngồi trên sàn đất nữa mà thân thể tôi đang lơ lửng chừng 30, 40 cm cao hơn mặt sàn nhà. Tôi vẫn tiếp tục niệm Phật và tôi "nói trong đầu":
- Con xin cám ơn Bác đã đến "thăm" con!
Vài ba phút sau, tôi không còn cảm nhận thấy luồng sinh khí đó nữa và tôi "thấy" tôi trở về lại với vị trí của tôi trên sàn nhà. Tháng Hai, năm 1992, trong lúc tôi đang rất bận rộn với công việc nhà trường và sinh hoạt thiện nguyện. Sáng sớm một hôm Chủ Nhật, tôi mơ ngủ thấy bạn tôi đến "thăm tôi". Anh ta tươi cười và ăn mặc rất chỉnh tề như khi đi ăn cưới vậy. Anh ta nói với tôi:
- Tôi đến chào ông đây!
Nói xong, anh ta vui vẻ vẫy tay chào tôi rồi bỏ đi. Tôi bàng hoàng tỉnh giấc và chẳng có thể ngủ tiếp được nữa. Ðến trưa hôm đó, tôi được biết bạn tôi đã qua đời tối hôm Thứ Bẩy, hưởng dương bốn mươi bốn tuổi! Ðặc biệt là ngoài tôi ra còn có hai người khác bạn của chúng tôi cũng đã được anh đến "chào" như vậy! Anh và tôi đã từng sinh hoạt cộng đồng với nhau trong nhiều năm và thân nhau như hai anh em ruột vậy. Những khi nào anh em chúng tôi gặp những việc "khó nuốt" trong lúc sinh hoạt mà chẳng biết nói cùng ai, chúng tôi thường hay nhìn nhau rồi nói:
- Thôi thì tôi với ông mỗi đứa ngậm một quả bồ hòn vậy!
Nói xong, hai đứa phá ra mà cười với nhau. Sau khi bạn tôi đã vĩnh viễn ra đi, một mình tôi ngậm hai quả bồ hòn: một cho một kẻ Cõi Âm và một cho một kẻ Cõi Dương! Lâu lâu, tôi "gặp" lại anh trong giấc mơ; trông anh già hẳn đi nhưng có vẻ an nhiên tự tại và ít nói, ít tươi cười như ngày xưa! Năm 1995, khi đời tôi đang đi vào một khúc quanh một chiều, cũng trong một buổi sáng sớm tinh sương, tôi mơ ngủ thấy một một chị bạn đồng trang lứa với tôi. Chúng tôi đã đi du học cùng năm với nhau rồi cùng trở thành hai nhà giáo. Bạn tôi rất tươi cười, mặc áo đầm dài và chị nói với tôi trong giấc mơ:
- Tôi đến chào P. đây! Ở lại bình an nghe!
Tôi toát mồ hôi hột, giật mình thức giấc và tôi không tài nào nhắm mắt mà ngủ đưọc nữa vì tôi nhớ đến giấc mơ với anh bạn kia của tôi. Buổi trưa hôm đó, tôi được biết là bạn tôi đang hôn mê ở trong nhà thương và đang thoi thóp sống nhờ "hệ thống trợ sống" (life support) và qua đời sau đó một ngày. Tôi được nhà thương cho biết là bạn tôi đã bị "brain dead" (phần óc đã chết) ban đêm, trước khi chị "về chào từ biệt" tôi lúc buổi sáng sớm! Bạn tôi mất lúc năm mưoi ba tuổi và để lại bốn đứa con thơ trong sự thương tiếc của bạn bè. Tuyệt nhiên, tôi chưa hề "gặp lại" bạn tôi trong một giấc mơ nào cả. Qua những giấc mơ lạ lùng này (hay thực sự ra là những tín hiệu kỳ lạ?), tôi thường tự đặt câu hỏi cho chính tôi:
- Thế nào là sống, thế nào là chết? Sau khi chết, linh hồn sẽ đi về đâu? Mà làm sao chứng minh được là con người có linh hồn nhỉ?
Tôi đã đi vào Thiền Ðịnh và rất muốn tìm hiểu về Thế Giới Tâm Linh. Nhờ Thiền Ðịnh, nhờ những câu hỏi mà tôi tự đặt ra trong đầu óc, nhờ những kinh nghiệm sống ngoài đời và những giấc mơ lạ lùng mà tôi đã có hứng để viết bài "Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài" liên quan tới những điều mà tôi hằng nghĩ tới. Sau phần Gọi Hồn tại Hà Nội, tôi cảm thấy đầu óc rất thảnh thơi vì tôi đã cảm nhận thấy những câu hỏi về "sống, chết, linh hồn" mà tôi tự đặt ra cho tôi trong nhiều năm đã hầu như có câu trả lời tuy chưa thật là thỏa đáng nhưng cũng đã có một số chứng cớ khá rõ ràng mà chính tôi đã được dự kiến. Tôi thấy phấn khởi và vui vẻ muốn đi thăm nhiều nơi trên quê hương, đất nước Việt Nam của tôi. Chỉ ở ngay tại Việt Nam, tôi mới bắt đầu cảm nhận được thế nào là "Hồn Sông Núi" và vì vậy mà hai vợ chồng chúng tôi tiếp tục chuyến đi thăm quê hương cội nguồn từ Bắc xuống Nam.
#302
Gửi vào 21/09/2011 - 09:40
CÂY ĐA LỐI CŨ GỌI HỒN NGƯỜI XƯA
PHẦN BỐN
Sau khi cô đồng ra về, chúng tôi ăn cơm trưa và tôi ăn vội để còn xem lại ba cuộn phim Gọi Hồn mà tôi vừa quay xong. Tôi ngồi chăm chú nghe đoạn Bà Tổ Cô, bố mẹ tôi và anh tôi đối thoại với vợ chồng chúng tôi. Tôi đã được người thân kể cho nghe những chuyện rất riêng tư của gia đình chúng tôi mà các chi tiết lại rất là chính xác. Bao nhiêu năm trước dây, tôi đã từng thắc mắc: "Liệu thực sự vong linh Bà Tổ Cô có theo và phù hộ tôi không hay là người coi Tử Vi cho tôi chỉ nói mò mà thôi". Ngày hôm đó, quả thực là vong linh của Bà đã về và Bà đã trả lời chúng tôi: "Hai con đã thăm mộ Bà, hôm nay Bà về thăm hai con đây!" Câu trả lời của Bà thật là bất ngờ và rất đúng sự thật vì tuần trước đó, anh em chúng tôi đã vào từ đường và khấn vái trước mộ Bà khi chúng tôi về thăm quê bên nội tại Bắc Ninh.
Các câu trả lời của Bà, của bố mẹ tôi, của anh tôi đã là một bằng chứng hùng hồn là con người có linh hồn và khi một người trên Cõi Dương "chết" thì chỉ có thân xác họ bị hủy diệt nhưng phần hồn của họ vẫn còn tồn tại. Tôi nở một nụ cười và trong đầu, tôi tự nói với tôi: "Tuyệt vời! Chẳng còn nghi ngờ gì nữa"! Chẳng lẽ những người Vô Thần còn phủ nhận sự hiện hữu của phần linh hồn hay họ vẫn còn ngụy biện như thường lệ? Mà tôi còn rất muốn biết thêm những người không tôn trọng Luật Trời sẽ bị quả báo ra sao, nhất là những kẻ giết người không tanh tay sẽ phải đối diện ra sao với linh hồn của những người đã bị chúng giết hại sau khi những kẻ độc ác này đã chết? Tôi sẽ đi tìm trong những tài liệu của Tây Phương và Ðông Phương về điều này! Buổi tối hôm đó tại nhà chú H, tôi ngồi ngay ở trong phòng bàn thờ. Tôi ngồi trên ghế, vừa Thiền thở vừa suy nghĩ về cuộc đời. Tôi thấy đời sống trên Cõi Trần này rất hữu hạn, đầy tranh chấp, tham, sân, si và tôi liên tưởng đến cái vô hạn khi tự mình thoát ra khỏi cái "tục lệ hữu hạn của Cõi Trần" này.
Một hôm trong lúc mua xôi, tôi thấy mấy cô nữ sinh mặc đồng phục: áo dài trắng, quần trắng, áo len mầu xanh đậm. Các cô với đôi má đỏ hồng đã làm tôi nhớ lại những tà áo dài đồng phục của các nữ sinh Trưng Vương, Gia Long của thuở tôi còn đi học Trung Học tại Sài Gòn. Tôi được biết các cháu là nữ sinh của Trường Bùi Thị Xuân và tôi hỏi các cháu đường đi đến trường Bùi Thị Xuân. Sáng hôm sau, trong khi BN ra chợ Ðà Lạt, tôi mang máy hình và đi bộ tới trường Bùi Thị Xuân. Trường này và tôi có một quan hệ rất là đặc biệt: tôi có một bà chị (chị TND, chị là dì ruột của hai con trai tôi) đã từng dạy học tại đó trước năm 1975. Trước khi chị TND mất tại Canada vào năm 2004, chị đã từng say mê kể cho tôi nghe những năm chị đi dạy tại Ðà Lạt. Ðịnh mệnh cuộc đời đã chia rẽ hai chị em chúng tôi sau khi tôi lặng lẽ ra sống riêng một mình và tôi chỉ "gặp lại chị" trong lúc tang lễ của chị. Ngày chị mất, tôi không khóc mà chỉ thấy một nỗi buồn lê thê, dài đằng đẵng. Tôi chụp hình hôm đám ma của chị và tôi đã làm bốn câu thơ viết tặng chị khi tiễn đưa chị lần cuối cùng:
Tiễn chị về lại Cõi Trời
Còn em ở lại với đời Trần Gian
Cầu mong chị sống an nhàn
Ở nơi Vĩnh Cửu, thênh thang tiếng cười.
Chắc là Tâm Thức của tôi đã thúc giục tôi thả bộ đến trường Bùi Thị Xuân như để tôi thăm viếng chị hay là để thăm viếng ngôi trường dùm cho chị vậy. Tôi hỏi thăm người gác cửa và vài người giáo sư trẻ nhưng họ không biết chị là ai hết. Một vị giáo sư trẻ nói với tôi:
- Chú vào hỏi thẳng bà Hiệu Trưởng họa may bà ấy biết cô TND là ai!
Bà Hiệu Trưởng cho tôi biết ngày xưa chị TND của tôi đã từng là giáo sư hướng dẫn của lớp bà khi bà học lớp chín tại trường Bùi Thị Xuân! Bà hỏi thăm chị tôi bây giờ ra sao, ở đâu ... Sau khi tôi báo tin cho bà biết chị tôi đã mất vào năm 2004, tôi xin phép được đi thăm trường và chụp vài tấm hình trường cũ của chị, coi như là một món quà tinh thần mà tôi muốn tặng riêng cho chị, một một kỷ niệm đặc biệt của hai chị em chúng tôi. Tối hôm đó, tôi mơ ngủ thấy chị đang tươi cười ngồi trong một chiếc xe "van". Ðặc biệt là chị ngồi ngay bên cạnh mẹ tôi. Cả chị và mẹ tôi cùng đang tươi cười vẫy tay chào tôi. Trên thực tế, chị và mẹ tôi chưa hề bao giờ quen biết nhau. Mẹ tôi đã mất hai mươi sáu năm trước khi tôi gặp chị lần đầu tiên vào năm 1981 khi chị tới định cư tại Canada.
Tôi bàng hoàng thức giấc. Sau khi tôi uống một ly nước tôi ngủ tiếp. Trong giấc mơ lần thứ hai tôi lại tiếp tục nhìn thấy chị và mẹ tôi vẫn đang tưoi cười vẫy chào tôi từ trong xe "van", giống hệt như hình ảnh của giấc mơ đầu tiên. Tôi cảm thấy vui vẻ và tôi lại thức giấc. Tôi đi rửa mặt cho "tỉnh ngủ" để biết chắc là tôi thực sự đã mơ lần thứ hai trước khi tôi vào giường để ngủ tiếp. Thế rồi tôi lại mơ ngủ và trong giấc mơ này, tôi cũng lại nhìn thấy chị và mẹ tôi vẫn tươi cười vẫy tay như để gọi tôi hay vẫy tay chào tôi trước khi xe đi. Tôi chẳng hề sợ hãi hay buồn bã mà trái lại, tôi cảm thấy an vui vô cùng vì tôi đã "gặp" được hai người đàn bà mà tôi thương mến vô cùng. Tôi đã có nhiều giấc mơ lạ lùng trong nhiều năm trước đó nhưng chưa bao giờ trong một đêm tôi mà tôi lại có cùng một giấc mơ trong ba lần mơ ngủ liên tiếp!
Chẳng lẽ chị tôi đã thực sự về báo mộng cho tôi biết rằng chị rất vui mừng khi thấy tôi về thăm trường cũ dùm chị? Mà tại sao lại có mẹ tôi đi cùng xe "van" với chị? Phải chăng là mẹ tôi hiện về trong giấc mơ này như là một người "bảo chứng" (collateral) báo mộng cho tôi biết đây không phải là một giấc mơ mà thực sự là một tín hiệu tâm linh? Chẳng lẽ mẹ tôi và chị đã có liên hệ với nhau trong tiền kiếp và đang vui vẻ "đoàn tụ" với nhau? Giá lúc đó mà tôi được theo mẹ tôi và theo chị "cùng đi du lịch", chắc là tôi sẽ đi theo ngay lập tức vì tôi cảm thấy rất vui và chẳng hề sợ ma hay sợ Cõi Âm gì hết!
Hôm nay khi ngồi viết tiếp phần cuối của bài viết dưới bóng cây bên bờ hồ Lake Ontario trong buổi trưa hè oi ả, tôi nhớ lại đoạn chót của chuyến về thăm quê hương. Tôi đã được "đối thoại" với nhiều người thân thương trong gia đình qua vụ Gọi Hồn. Tôi đã được đi từ ngạc nhiên này qua nhiều ngạc nhiên tâm linh khác. Giờ đây, tôi không còn phải băn khoăn và bận tâm với các câu hỏi về phần hồn, phần xác, thế nào thực sự là quê hương và thế nào là "sống" với "chết" nữa. Tôi đang an nhàn đi kiếm và đọc thêm những tài liệu về tâm linh qua cái nhìn của người Tây Phương và người Ðông Phương. Tôi hoàn toàn tin vào thuyết Nhân Quả. Tôi tin rằng người đời có thể may mắn tránh được cái sơ hở của luật pháp trong Cõi Trần nhưng lưới trời lồng lộng, những điều sai quấy và những hành động dã man, độc ác, tham nhũng...sẽ chẳng thể nào qua được Luật Trời Ðất. Nhân nào, quả ấy; ở hiền, gặp lành; có vay và có trả.
Ðàm Trung Phán
PHẦN BỐN
Sau khi cô đồng ra về, chúng tôi ăn cơm trưa và tôi ăn vội để còn xem lại ba cuộn phim Gọi Hồn mà tôi vừa quay xong. Tôi ngồi chăm chú nghe đoạn Bà Tổ Cô, bố mẹ tôi và anh tôi đối thoại với vợ chồng chúng tôi. Tôi đã được người thân kể cho nghe những chuyện rất riêng tư của gia đình chúng tôi mà các chi tiết lại rất là chính xác. Bao nhiêu năm trước dây, tôi đã từng thắc mắc: "Liệu thực sự vong linh Bà Tổ Cô có theo và phù hộ tôi không hay là người coi Tử Vi cho tôi chỉ nói mò mà thôi". Ngày hôm đó, quả thực là vong linh của Bà đã về và Bà đã trả lời chúng tôi: "Hai con đã thăm mộ Bà, hôm nay Bà về thăm hai con đây!" Câu trả lời của Bà thật là bất ngờ và rất đúng sự thật vì tuần trước đó, anh em chúng tôi đã vào từ đường và khấn vái trước mộ Bà khi chúng tôi về thăm quê bên nội tại Bắc Ninh.
Các câu trả lời của Bà, của bố mẹ tôi, của anh tôi đã là một bằng chứng hùng hồn là con người có linh hồn và khi một người trên Cõi Dương "chết" thì chỉ có thân xác họ bị hủy diệt nhưng phần hồn của họ vẫn còn tồn tại. Tôi nở một nụ cười và trong đầu, tôi tự nói với tôi: "Tuyệt vời! Chẳng còn nghi ngờ gì nữa"! Chẳng lẽ những người Vô Thần còn phủ nhận sự hiện hữu của phần linh hồn hay họ vẫn còn ngụy biện như thường lệ? Mà tôi còn rất muốn biết thêm những người không tôn trọng Luật Trời sẽ bị quả báo ra sao, nhất là những kẻ giết người không tanh tay sẽ phải đối diện ra sao với linh hồn của những người đã bị chúng giết hại sau khi những kẻ độc ác này đã chết? Tôi sẽ đi tìm trong những tài liệu của Tây Phương và Ðông Phương về điều này! Buổi tối hôm đó tại nhà chú H, tôi ngồi ngay ở trong phòng bàn thờ. Tôi ngồi trên ghế, vừa Thiền thở vừa suy nghĩ về cuộc đời. Tôi thấy đời sống trên Cõi Trần này rất hữu hạn, đầy tranh chấp, tham, sân, si và tôi liên tưởng đến cái vô hạn khi tự mình thoát ra khỏi cái "tục lệ hữu hạn của Cõi Trần" này.
Một hôm trong lúc mua xôi, tôi thấy mấy cô nữ sinh mặc đồng phục: áo dài trắng, quần trắng, áo len mầu xanh đậm. Các cô với đôi má đỏ hồng đã làm tôi nhớ lại những tà áo dài đồng phục của các nữ sinh Trưng Vương, Gia Long của thuở tôi còn đi học Trung Học tại Sài Gòn. Tôi được biết các cháu là nữ sinh của Trường Bùi Thị Xuân và tôi hỏi các cháu đường đi đến trường Bùi Thị Xuân. Sáng hôm sau, trong khi BN ra chợ Ðà Lạt, tôi mang máy hình và đi bộ tới trường Bùi Thị Xuân. Trường này và tôi có một quan hệ rất là đặc biệt: tôi có một bà chị (chị TND, chị là dì ruột của hai con trai tôi) đã từng dạy học tại đó trước năm 1975. Trước khi chị TND mất tại Canada vào năm 2004, chị đã từng say mê kể cho tôi nghe những năm chị đi dạy tại Ðà Lạt. Ðịnh mệnh cuộc đời đã chia rẽ hai chị em chúng tôi sau khi tôi lặng lẽ ra sống riêng một mình và tôi chỉ "gặp lại chị" trong lúc tang lễ của chị. Ngày chị mất, tôi không khóc mà chỉ thấy một nỗi buồn lê thê, dài đằng đẵng. Tôi chụp hình hôm đám ma của chị và tôi đã làm bốn câu thơ viết tặng chị khi tiễn đưa chị lần cuối cùng:
Tiễn chị về lại Cõi Trời
Còn em ở lại với đời Trần Gian
Cầu mong chị sống an nhàn
Ở nơi Vĩnh Cửu, thênh thang tiếng cười.
Chắc là Tâm Thức của tôi đã thúc giục tôi thả bộ đến trường Bùi Thị Xuân như để tôi thăm viếng chị hay là để thăm viếng ngôi trường dùm cho chị vậy. Tôi hỏi thăm người gác cửa và vài người giáo sư trẻ nhưng họ không biết chị là ai hết. Một vị giáo sư trẻ nói với tôi:
- Chú vào hỏi thẳng bà Hiệu Trưởng họa may bà ấy biết cô TND là ai!
Bà Hiệu Trưởng cho tôi biết ngày xưa chị TND của tôi đã từng là giáo sư hướng dẫn của lớp bà khi bà học lớp chín tại trường Bùi Thị Xuân! Bà hỏi thăm chị tôi bây giờ ra sao, ở đâu ... Sau khi tôi báo tin cho bà biết chị tôi đã mất vào năm 2004, tôi xin phép được đi thăm trường và chụp vài tấm hình trường cũ của chị, coi như là một món quà tinh thần mà tôi muốn tặng riêng cho chị, một một kỷ niệm đặc biệt của hai chị em chúng tôi. Tối hôm đó, tôi mơ ngủ thấy chị đang tươi cười ngồi trong một chiếc xe "van". Ðặc biệt là chị ngồi ngay bên cạnh mẹ tôi. Cả chị và mẹ tôi cùng đang tươi cười vẫy tay chào tôi. Trên thực tế, chị và mẹ tôi chưa hề bao giờ quen biết nhau. Mẹ tôi đã mất hai mươi sáu năm trước khi tôi gặp chị lần đầu tiên vào năm 1981 khi chị tới định cư tại Canada.
Tôi bàng hoàng thức giấc. Sau khi tôi uống một ly nước tôi ngủ tiếp. Trong giấc mơ lần thứ hai tôi lại tiếp tục nhìn thấy chị và mẹ tôi vẫn đang tưoi cười vẫy chào tôi từ trong xe "van", giống hệt như hình ảnh của giấc mơ đầu tiên. Tôi cảm thấy vui vẻ và tôi lại thức giấc. Tôi đi rửa mặt cho "tỉnh ngủ" để biết chắc là tôi thực sự đã mơ lần thứ hai trước khi tôi vào giường để ngủ tiếp. Thế rồi tôi lại mơ ngủ và trong giấc mơ này, tôi cũng lại nhìn thấy chị và mẹ tôi vẫn tươi cười vẫy tay như để gọi tôi hay vẫy tay chào tôi trước khi xe đi. Tôi chẳng hề sợ hãi hay buồn bã mà trái lại, tôi cảm thấy an vui vô cùng vì tôi đã "gặp" được hai người đàn bà mà tôi thương mến vô cùng. Tôi đã có nhiều giấc mơ lạ lùng trong nhiều năm trước đó nhưng chưa bao giờ trong một đêm tôi mà tôi lại có cùng một giấc mơ trong ba lần mơ ngủ liên tiếp!
Chẳng lẽ chị tôi đã thực sự về báo mộng cho tôi biết rằng chị rất vui mừng khi thấy tôi về thăm trường cũ dùm chị? Mà tại sao lại có mẹ tôi đi cùng xe "van" với chị? Phải chăng là mẹ tôi hiện về trong giấc mơ này như là một người "bảo chứng" (collateral) báo mộng cho tôi biết đây không phải là một giấc mơ mà thực sự là một tín hiệu tâm linh? Chẳng lẽ mẹ tôi và chị đã có liên hệ với nhau trong tiền kiếp và đang vui vẻ "đoàn tụ" với nhau? Giá lúc đó mà tôi được theo mẹ tôi và theo chị "cùng đi du lịch", chắc là tôi sẽ đi theo ngay lập tức vì tôi cảm thấy rất vui và chẳng hề sợ ma hay sợ Cõi Âm gì hết!
Hôm nay khi ngồi viết tiếp phần cuối của bài viết dưới bóng cây bên bờ hồ Lake Ontario trong buổi trưa hè oi ả, tôi nhớ lại đoạn chót của chuyến về thăm quê hương. Tôi đã được "đối thoại" với nhiều người thân thương trong gia đình qua vụ Gọi Hồn. Tôi đã được đi từ ngạc nhiên này qua nhiều ngạc nhiên tâm linh khác. Giờ đây, tôi không còn phải băn khoăn và bận tâm với các câu hỏi về phần hồn, phần xác, thế nào thực sự là quê hương và thế nào là "sống" với "chết" nữa. Tôi đang an nhàn đi kiếm và đọc thêm những tài liệu về tâm linh qua cái nhìn của người Tây Phương và người Ðông Phương. Tôi hoàn toàn tin vào thuyết Nhân Quả. Tôi tin rằng người đời có thể may mắn tránh được cái sơ hở của luật pháp trong Cõi Trần nhưng lưới trời lồng lộng, những điều sai quấy và những hành động dã man, độc ác, tham nhũng...sẽ chẳng thể nào qua được Luật Trời Ðất. Nhân nào, quả ấy; ở hiền, gặp lành; có vay và có trả.
Ðàm Trung Phán
#303
Gửi vào 21/09/2011 - 18:41
ĐỜI SỐNG TÂM LINH
MỞ ĐẦU
Những điều ghi chép trên đây là nội dung của các gia đình nói chuyện với người Âm đã chết thuộc dòng họ 4 đời của nhà mình. Thời gian tôi dự nghe từ 12-10 đến 19-11-2002, tôi ghi chép theo mục đích nghiên cứu của riêng mình. Vì vậy, tôi mong có nhiều nhà nghiên cứu theo dõi, ghi chép để có thể giới thiệu với bạn đọc nhiều khía cạnh tìm hiểu khác, phong phú hơn.
Việc thực hiện cứng nhắc những gì được nêu ra trong tài liệu này sẽ không dễ dàng vì tập quán mỗi nơi một khác. Để có cách nhìn toàn diện hơn về các mối quan hệ bí ẩn giữa cõi Trần, cõi Âm và cõi Thiên cần phải tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu, khảo sát tâm linh một cách tỷ mỷ và có hệ thống. Ngoài ra, không phải thông tin nào được nói ra trên đây cũng đúng và chính xác vì hiểu biết của người Âm cũng có những hạn chế và nhầm lẫn.
Tháng 10-2002, Liên hiệp Khoa học công nghệ và tin học ứng dụng (UIA) đã tổ chức thực nghiệm khoa học "Nói chuyện với người Âm", trong dân gian thường gọi là "Gọi hồn". Đây là đề tài khoa học thực nghiệm của 3 cơ quan là Liên hiệp UIA, Viện Khoa học hình sự Bộ Công an, Trung tâm Văn hóa kỹ thuật truyền thống. Địa điểm thực nghiệm: 93 đường Trung Kính - Trung Hòa - Hà Nội. ĐT: 7.845.613.
Hình thức giao tiếp: mọi người đều có thể yêu cầu gặp người quá cố từ 4 đời (tứ đại) trở lại.
Nội dung thường hỏi: đất đai, mồ mả, bàn thờ, việc thờ cúng, sức khỏe, việc làm ăn hiện tại... và được người Âm của gia đình mình trả lời. Khi đến gặp không cần hoa quả, hương đèn lễ bái như các nơi khác. Khi gặp chỉ nói rõ họ, tên của mình, địa chỉ và xin gặp ai (ông bà, bố mẹ, anh chị em, con...) thì lập tức được gặp ngay.
Tôi đã theo dõi những buổi "Nói chuyện với người Âm" của hơn 30 gia đình. Tôi chỉ ghi chép những điều mà tôi đang quan tâm nghiên cứu về "Cõi giới vô hình" như sự tổ chức, sự lãnh đạo và chỉ huy ở cõi vô hình, đời sống và hoạt động của các linh hồn người quá cố.
Những tục lệ thờ cúng, đi lễ của người Trần có tác dụng đến người Âm không? Mối quan hệ giữa người Âm với người sống trên cõi Trần, các hình thức và sự biểu hiện của các mối quan hệ đó.
Tôi đã từng giới thiệu tài liệu "Nói chuyện với người Âm" qua máy ghi âm ở Mỹ, còn ở đây thì nói chuyện với người Âm qua cỗ máy sinh học tinh vi là con người vừa nhanh chóng, vừa thuận tiện, lại không tốn kém gì. Nhưng không thể biết được mức độ xác thực của những điều mà người Âm đưa ra khi chưa có kiểm chứng.
Bạn đọc và các nhà nghiên cứu khoa học tâm linh mong muốn nghiên cứu "Cõi giới vô hình" nên tìm hiểu và nghe các buổi nói chuyện với người Âm của các gia đình rồi cùng chúng tôi hợp tác viết các phần tiếp của tài liệu này.
tamlinh
MỞ ĐẦU
Những điều ghi chép trên đây là nội dung của các gia đình nói chuyện với người Âm đã chết thuộc dòng họ 4 đời của nhà mình. Thời gian tôi dự nghe từ 12-10 đến 19-11-2002, tôi ghi chép theo mục đích nghiên cứu của riêng mình. Vì vậy, tôi mong có nhiều nhà nghiên cứu theo dõi, ghi chép để có thể giới thiệu với bạn đọc nhiều khía cạnh tìm hiểu khác, phong phú hơn.
Việc thực hiện cứng nhắc những gì được nêu ra trong tài liệu này sẽ không dễ dàng vì tập quán mỗi nơi một khác. Để có cách nhìn toàn diện hơn về các mối quan hệ bí ẩn giữa cõi Trần, cõi Âm và cõi Thiên cần phải tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu, khảo sát tâm linh một cách tỷ mỷ và có hệ thống. Ngoài ra, không phải thông tin nào được nói ra trên đây cũng đúng và chính xác vì hiểu biết của người Âm cũng có những hạn chế và nhầm lẫn.
Tháng 10-2002, Liên hiệp Khoa học công nghệ và tin học ứng dụng (UIA) đã tổ chức thực nghiệm khoa học "Nói chuyện với người Âm", trong dân gian thường gọi là "Gọi hồn". Đây là đề tài khoa học thực nghiệm của 3 cơ quan là Liên hiệp UIA, Viện Khoa học hình sự Bộ Công an, Trung tâm Văn hóa kỹ thuật truyền thống. Địa điểm thực nghiệm: 93 đường Trung Kính - Trung Hòa - Hà Nội. ĐT: 7.845.613.
Hình thức giao tiếp: mọi người đều có thể yêu cầu gặp người quá cố từ 4 đời (tứ đại) trở lại.
Nội dung thường hỏi: đất đai, mồ mả, bàn thờ, việc thờ cúng, sức khỏe, việc làm ăn hiện tại... và được người Âm của gia đình mình trả lời. Khi đến gặp không cần hoa quả, hương đèn lễ bái như các nơi khác. Khi gặp chỉ nói rõ họ, tên của mình, địa chỉ và xin gặp ai (ông bà, bố mẹ, anh chị em, con...) thì lập tức được gặp ngay.
Tôi đã theo dõi những buổi "Nói chuyện với người Âm" của hơn 30 gia đình. Tôi chỉ ghi chép những điều mà tôi đang quan tâm nghiên cứu về "Cõi giới vô hình" như sự tổ chức, sự lãnh đạo và chỉ huy ở cõi vô hình, đời sống và hoạt động của các linh hồn người quá cố.
Những tục lệ thờ cúng, đi lễ của người Trần có tác dụng đến người Âm không? Mối quan hệ giữa người Âm với người sống trên cõi Trần, các hình thức và sự biểu hiện của các mối quan hệ đó.
Tôi đã từng giới thiệu tài liệu "Nói chuyện với người Âm" qua máy ghi âm ở Mỹ, còn ở đây thì nói chuyện với người Âm qua cỗ máy sinh học tinh vi là con người vừa nhanh chóng, vừa thuận tiện, lại không tốn kém gì. Nhưng không thể biết được mức độ xác thực của những điều mà người Âm đưa ra khi chưa có kiểm chứng.
Bạn đọc và các nhà nghiên cứu khoa học tâm linh mong muốn nghiên cứu "Cõi giới vô hình" nên tìm hiểu và nghe các buổi nói chuyện với người Âm của các gia đình rồi cùng chúng tôi hợp tác viết các phần tiếp của tài liệu này.
tamlinh
#304
Gửi vào 21/09/2011 - 18:43
ĐỜI SỐNG TÂM LINH
NGHIÊN CỨU MỘT: Về đất cát, nhà ở
Đất cát của ai, ở đâu, kể cả cơ quan, xí nghiệp đều có người Âm quản lý. Không hỏi phần Âm, phạm sai lầm khó gỡ. Hỏi phần Âm là hỏi những người trong gia đình mình đã chết. Họ liên hệ với phần Âm quản lý đất ở đó rồi trả lời cho con cháu gia đình biết. Những người chết từ bốn đời (tứ đại) đều được về với gia đình, ai về nhà nấy. Con cháu có tâm luôn luôn nhớ tưởng Tổ tiên ông bà, cầu xin được các cụ tứ đại, ông bà về độ trì cho. Ai không nghĩ đến thì ông bà không về, họ có công việc ở phần Âm. Ai thích học nghề gì thì học, rèn luyện ở cõi Âm để vượt Thiên (linh hồn thanh sạch được lên cao là cõi Thiên), trong thời gian bốn đời sau thì đi đầu thai trở lại cõi Trần.
Đất đai, nhà ở của chủ gia đình nào thì thuộc Thổ công nhà ấy quản lý. Nếu phạm phần Âm như có mồ mả, hài cốt, đất của miếu mạo, đền chùa thì phải nhờ phần Âm của gia đình mình liên hệ hỏi Thổ công để biết rõ nguyên nhân và cách hóa giải. Khoa học như cảm xạ học, thầy pháp, thầy cúng không giải quyết được. Vì chuyện người Âm hiểu luật cõi Âm nên mới giải quyết đúng. Người Âm giải quyết theo sách vở của người Trần là sai lầm, không đúng luật của cõi Âm. Luật của cõi Âm theo thời gian cũng có thay đổi, giống như cõi Trần, theo như cũ cũng là không đúng. Khi người chủ gia đình chết thì Thổ công cũng thay đổi. Thổ công mới thay thế, đều có quan hệ đến số mệnh, tâm đức của người chủ gia đình. Lâu nay, người Trần hiểu Thổ công là người quản lý đất đai, tài sản khu vực đó một cách vĩnh viễn là không đúng. Thổ công khác với Thần linh, Thần linh như công an khu vực của người Trần vậy.
Xây dựng nhà, mua đất đai phải chọn ngày giờ, xây đúng hướng, hướng cửa quan trọng lắm, phải đúng kích thước, phải hỏi người Âm nhà mình hướng dẫn cho, dùng thước Lỗ Ban là không chính xác. Tuyệt đối không nhờ người khác động thổ. Nhờ họ, khi họ làm chủ, tức là người Âm nhà họ làm chủ, mình và người Âm nhà mình lại là người ở nhờ. Xảy ra trường hợp mượn người động thổ thì người Âm dòng họ mình bực tức lắm, con cháu ở cõi Trần không biết được. Vì người Âm nhà người đó đến tranh giành quyền nhà ở.
Đất, nhà ở có Âm tà vì có hài cốt ở dưới, hoặc khi đổ đất làm nền tuy không có xương cốt nhưng là đất có phần máu thịt tan rữa thì phần Âm vẫn nhập vào quấy phá.
Đất, nhà ở mà động là do mấy điểm sau đây:
- Có xương cốt, máu thịt, mồ mả của người Âm;
- Mồ mả của dòng họ được đào bới có sai phạm;
- Đất ở, đất cơ quan là nền đất chùa, miếu mạo;
- Tâm đức của người nhà mình có sai phạm với phần Âm;
- Tâm đức của cha ông sai trái, nay con cháu phải gánh chịu.
Làm nhà không nệ kim lâu, năm kim lâu vẫn có ngày trực, tháng tốt, giờ tốt. Hỏi người Âm nhà mình, họ sẽ chỉ ngày giờ tốt xây nhà.
Tuyệt đối không mời thầy pháp, thầy cúng yểm bùa chú ở nhà mình. Có gia đình mời thầy trừ ma yểm bùa chú, sau đó gặp tai họa ngay. Ví dụ, một vong là con nói với mẹ: "Mẹ mời thầy về yểm bốn hướng nhà nhưng con vẫn về được đây. Ma là các vong người 4 đời trong gia đình mình chứ không phải ma là người nhà khác mà vào được đâu. Theo luật cõi Âm vì có Thổ công quản lý, không ma nào được ra vào nhà người khác cả". Trước năm 2000, một số thầy có khả năng yểm bùa, có tác dụng trong một số việc nhất định. Từ năm 2000 trở đi thì không còn tác dụng nữa. Nếu làm sẽ có hại cho gia đình người thầy đó vì họ không hiểu luật cõi Âm.
Đất nhà ở của ba gia đình ở Hưng Yên có 10 người bị bệnh kinh giật, ở Thái Bình có 6 người chết trong thời gian ngắn, ở Quảng Trạch, Quảng Bình có 6 người bị điên là do bị phạm Âm, đất đền chùa và ông cụ của họ xưa kia là tên đao phủ độc ác, con cháu phải trả nghiệp quả. Họ đến trực tiếp gặp Cô Thiên đình sẽ được Cô giúp cách hóa giải. Nhà, đất nào cũng có ma tà ở quấy phá thì nhà ngoại cảm, thầy bùa, cảm xạ học không giải quyết được. ở cõi Âm cũng có từ cấp xã đến trung ương, phải có người Âm có quyền chức cao mới gọi Thổ công và người Âm ở đó hỏi nguyên nhân và cách giải quyết đúng thì mới hóa giải được.
Nếu nhà nào bị bùa yểm thì Cô Thiên đình gọi người Âm nhà bị yểm hỏi và giải quyết là xong ngay.
Làm nhà có 3 lần quan trọng: một là động thổ, hai là đổ mái, ba là dọn về nhà ở mới.
Nhà hoàn hảo loại một là nhà có con cái hòa thuận, làm ăn đúng hướng đúng khả năng và phát triển, không ai tranh giành kiện cáo (trong nhà và ngoài nhà), nội bộ đoàn kết. Ngược lại, là nhà có vấn đề.
Một vong là con nói với bố: “Cơ quan bố làm trên đất xưa kia là đình cổ, là miếu, lại còn đập phá làm nhà máy, cho nên xảy ra tai nạn lao động luôn. Muốn giải hạn thì giám đốc nhà máy phải xin gặp Cô Thiên đình giải hạn thì mới yên ổn".
Một vong khác nói với mẹ về việc ông bác là anh ruột của mẹ mà tranh giành nhau về đất, người con nói với mẹ: "Mẹ cứ giao nhà cho bác. Người Trần không tranh chấp được đâu. Con sẽ độ cho mua một nhà nhỏ khác mà ở, con vẫn ở lại nhà cũ. Người Âm với người Âm sẽ giải quyết. Gia đình bác về không ở được đâu. Bác có tâm không tốt, xấu bụng, phạm Âm. Hễ ngủ thì con dựng giường lên, đó là việc ma làm. Bác sợ không ở được sẽ phải trả lại mẹ thôi.
Đất nào cũng có người Âm cả. Chỉ có là họ đã vượt Thiên đi đầu thai hay chưa mà thôi. Phải hỏi người Âm mới biết.
Nhà mình mà cho thuê, cho người ta ở nhờ là phải chọn ngày. Nếu trúng ngày mà người thuê ở nhờ mệnh lớn, lấn át mình thì hậu quả rắc rối, gay go lắm!
Nhà ở tốt thì người Âm nhà mình cũng thích ở. Nếu bố bán đi thì khác nào đuổi người Âm nhà mình đi chỗ khác. "ấm tổ mới đẻ trứng, đẻ con". Nếu bố bán nhà thì anh con đang học nước ngoài không thành tài mà còn hư hỏng, còn bố làm ăn sẽ lụi bại đấy!...”.
NGHIÊN CỨU MỘT: Về đất cát, nhà ở
Đất cát của ai, ở đâu, kể cả cơ quan, xí nghiệp đều có người Âm quản lý. Không hỏi phần Âm, phạm sai lầm khó gỡ. Hỏi phần Âm là hỏi những người trong gia đình mình đã chết. Họ liên hệ với phần Âm quản lý đất ở đó rồi trả lời cho con cháu gia đình biết. Những người chết từ bốn đời (tứ đại) đều được về với gia đình, ai về nhà nấy. Con cháu có tâm luôn luôn nhớ tưởng Tổ tiên ông bà, cầu xin được các cụ tứ đại, ông bà về độ trì cho. Ai không nghĩ đến thì ông bà không về, họ có công việc ở phần Âm. Ai thích học nghề gì thì học, rèn luyện ở cõi Âm để vượt Thiên (linh hồn thanh sạch được lên cao là cõi Thiên), trong thời gian bốn đời sau thì đi đầu thai trở lại cõi Trần.
Đất đai, nhà ở của chủ gia đình nào thì thuộc Thổ công nhà ấy quản lý. Nếu phạm phần Âm như có mồ mả, hài cốt, đất của miếu mạo, đền chùa thì phải nhờ phần Âm của gia đình mình liên hệ hỏi Thổ công để biết rõ nguyên nhân và cách hóa giải. Khoa học như cảm xạ học, thầy pháp, thầy cúng không giải quyết được. Vì chuyện người Âm hiểu luật cõi Âm nên mới giải quyết đúng. Người Âm giải quyết theo sách vở của người Trần là sai lầm, không đúng luật của cõi Âm. Luật của cõi Âm theo thời gian cũng có thay đổi, giống như cõi Trần, theo như cũ cũng là không đúng. Khi người chủ gia đình chết thì Thổ công cũng thay đổi. Thổ công mới thay thế, đều có quan hệ đến số mệnh, tâm đức của người chủ gia đình. Lâu nay, người Trần hiểu Thổ công là người quản lý đất đai, tài sản khu vực đó một cách vĩnh viễn là không đúng. Thổ công khác với Thần linh, Thần linh như công an khu vực của người Trần vậy.
Xây dựng nhà, mua đất đai phải chọn ngày giờ, xây đúng hướng, hướng cửa quan trọng lắm, phải đúng kích thước, phải hỏi người Âm nhà mình hướng dẫn cho, dùng thước Lỗ Ban là không chính xác. Tuyệt đối không nhờ người khác động thổ. Nhờ họ, khi họ làm chủ, tức là người Âm nhà họ làm chủ, mình và người Âm nhà mình lại là người ở nhờ. Xảy ra trường hợp mượn người động thổ thì người Âm dòng họ mình bực tức lắm, con cháu ở cõi Trần không biết được. Vì người Âm nhà người đó đến tranh giành quyền nhà ở.
Đất, nhà ở có Âm tà vì có hài cốt ở dưới, hoặc khi đổ đất làm nền tuy không có xương cốt nhưng là đất có phần máu thịt tan rữa thì phần Âm vẫn nhập vào quấy phá.
Đất, nhà ở mà động là do mấy điểm sau đây:
- Có xương cốt, máu thịt, mồ mả của người Âm;
- Mồ mả của dòng họ được đào bới có sai phạm;
- Đất ở, đất cơ quan là nền đất chùa, miếu mạo;
- Tâm đức của người nhà mình có sai phạm với phần Âm;
- Tâm đức của cha ông sai trái, nay con cháu phải gánh chịu.
Làm nhà không nệ kim lâu, năm kim lâu vẫn có ngày trực, tháng tốt, giờ tốt. Hỏi người Âm nhà mình, họ sẽ chỉ ngày giờ tốt xây nhà.
Tuyệt đối không mời thầy pháp, thầy cúng yểm bùa chú ở nhà mình. Có gia đình mời thầy trừ ma yểm bùa chú, sau đó gặp tai họa ngay. Ví dụ, một vong là con nói với mẹ: "Mẹ mời thầy về yểm bốn hướng nhà nhưng con vẫn về được đây. Ma là các vong người 4 đời trong gia đình mình chứ không phải ma là người nhà khác mà vào được đâu. Theo luật cõi Âm vì có Thổ công quản lý, không ma nào được ra vào nhà người khác cả". Trước năm 2000, một số thầy có khả năng yểm bùa, có tác dụng trong một số việc nhất định. Từ năm 2000 trở đi thì không còn tác dụng nữa. Nếu làm sẽ có hại cho gia đình người thầy đó vì họ không hiểu luật cõi Âm.
Đất nhà ở của ba gia đình ở Hưng Yên có 10 người bị bệnh kinh giật, ở Thái Bình có 6 người chết trong thời gian ngắn, ở Quảng Trạch, Quảng Bình có 6 người bị điên là do bị phạm Âm, đất đền chùa và ông cụ của họ xưa kia là tên đao phủ độc ác, con cháu phải trả nghiệp quả. Họ đến trực tiếp gặp Cô Thiên đình sẽ được Cô giúp cách hóa giải. Nhà, đất nào cũng có ma tà ở quấy phá thì nhà ngoại cảm, thầy bùa, cảm xạ học không giải quyết được. ở cõi Âm cũng có từ cấp xã đến trung ương, phải có người Âm có quyền chức cao mới gọi Thổ công và người Âm ở đó hỏi nguyên nhân và cách giải quyết đúng thì mới hóa giải được.
Nếu nhà nào bị bùa yểm thì Cô Thiên đình gọi người Âm nhà bị yểm hỏi và giải quyết là xong ngay.
Làm nhà có 3 lần quan trọng: một là động thổ, hai là đổ mái, ba là dọn về nhà ở mới.
Nhà hoàn hảo loại một là nhà có con cái hòa thuận, làm ăn đúng hướng đúng khả năng và phát triển, không ai tranh giành kiện cáo (trong nhà và ngoài nhà), nội bộ đoàn kết. Ngược lại, là nhà có vấn đề.
Một vong là con nói với bố: “Cơ quan bố làm trên đất xưa kia là đình cổ, là miếu, lại còn đập phá làm nhà máy, cho nên xảy ra tai nạn lao động luôn. Muốn giải hạn thì giám đốc nhà máy phải xin gặp Cô Thiên đình giải hạn thì mới yên ổn".
Một vong khác nói với mẹ về việc ông bác là anh ruột của mẹ mà tranh giành nhau về đất, người con nói với mẹ: "Mẹ cứ giao nhà cho bác. Người Trần không tranh chấp được đâu. Con sẽ độ cho mua một nhà nhỏ khác mà ở, con vẫn ở lại nhà cũ. Người Âm với người Âm sẽ giải quyết. Gia đình bác về không ở được đâu. Bác có tâm không tốt, xấu bụng, phạm Âm. Hễ ngủ thì con dựng giường lên, đó là việc ma làm. Bác sợ không ở được sẽ phải trả lại mẹ thôi.
Đất nào cũng có người Âm cả. Chỉ có là họ đã vượt Thiên đi đầu thai hay chưa mà thôi. Phải hỏi người Âm mới biết.
Nhà mình mà cho thuê, cho người ta ở nhờ là phải chọn ngày. Nếu trúng ngày mà người thuê ở nhờ mệnh lớn, lấn át mình thì hậu quả rắc rối, gay go lắm!
Nhà ở tốt thì người Âm nhà mình cũng thích ở. Nếu bố bán đi thì khác nào đuổi người Âm nhà mình đi chỗ khác. "ấm tổ mới đẻ trứng, đẻ con". Nếu bố bán nhà thì anh con đang học nước ngoài không thành tài mà còn hư hỏng, còn bố làm ăn sẽ lụi bại đấy!...”.
#305
Gửi vào 21/09/2011 - 18:44
ĐỜI SỐNG TÂM LINH
NGHIÊN CỨU HAI: Về mồ mả
Mồ mả trong bốn đời nếu có điều kiện thì nên được chôn kín cố định. Chọn đất, hướng huyệt, xây gạch, đặt cỗ quan tài, rồi lấp kín. Sau đó để yên. Nếu xây bới, động mồ sẽ gây tại hoạ đấy vì làm xáo trộn vong linh người Âm đang yên tĩnh tu luyện ở cõi Âm để mau chóng vượt Thiên đi đầu thai kiếp khác. Đến thăm mộ chí thì khấn xin phép Thổ địa, Thần linh, không thắp hương ở mộ, không khấn gọi tên người chết ở mộ. Việc ấy chỉ làm tại nhà mình trước khi đi thăm mộ. Nếu ra mộ khóc lóc, gọi họ thì hồn người quá cố ở trên cao đi xuống nhập lại hài cốt, làm cho tốc độ rung động của năng lượng linh hồn sẽ chậm chạp, nặng nề, phí công tu luyện trong thời gian qua. Họ phải tu luyện lại, nguy hiểm lắm! Mặt khác, như vậy là làm xáo trộn quy luật cõi Âm nên nó có tác động đến cõi Trần. Có gia đình không biết, sau khi cất mộ tuỳ tiện thì con cháu trong gia đình đau ốm, gặp tai nạn... Chọn ngày, địa điểm để chôn chặt một lần là phù hợp hơn.
Nếu chính quyền bắt dời mộ thì phải chấp hành theo pháp luật, nhưng phải biết cách làm như sau. Phải khấn:
1- Khấn Thổ địa, Thần linh khu vực có mộ sắp dời;
2- Bà Cô Tổ dòng họ nhà mình cho dời mộ của... (tên họ...);
3- Và chôn cất nơi nào (địa điểm mới);
4- Nếu có gì mà con cháu không biết thì xin bỏ qua, tha thứ;
5- Còn sai phạm điều gì về phần Âm thì người ra lệnh chịu trách nhiệm.
Đến nơi mới cũng làm đầy đủ các thủ tục như khi chôn cất người chết. Không nên mua đất làm mộ giả trước, làm xong thì con cháu có người chết. Nơi đào huyệt có Thổ địa, Thần linh. Con cháu người nhà đi đào huyệt phải khấn như sau: Con tên là... ở... xin Thổ địa, Thần linh quản lý đất ở đây cho phép con gửi xác tên là... nơi đây. Khi nhập áo quan cũng nhắc lại và nói thêm: Nếu người Trần trong gia đình có gì sai sót, xin Thổ địa, Thần linh, Thần hoàng ở đây tha thứ, bỏ qua cho.
Một vong nói với mẹ: "Các bác quy tập tuỳ tiện mộ ông bà là động đấy, xây làm xáo trộn mồ mả là mang họa. Mẹ đứng ngoài không góp tiền tham gia quy tập như vậy thì mẹ không liên đới mang họa. Tốt nhất là mẹ nên khuyên các bác không nên tuỳ tiện quy tập mộ các cụ nữa".
Người Âm tồn tại 4 đời tu luyện rồi mới vượt Thiên đi đầu thai. Mồ mả, bia phải dùng bằng tiếng Việt, không dùng chữ Hán, chữ Nôm.
Tối kỵ là yểm bùa trong quan tài.
Mất mộ phần xác không ảnh hưởng đến linh hồn, không cần tìm mộ, không nên quy tập nhiều mộ về một chỗ. Ai có tâm nhớ ông bà, Tổ tiên thì tôn thờ trong tâm.
Vong một người con nói với bố: "Nhà mình đón thầy sửa mộ, thầy yểm không được vì mệnh thầy nhỏ hơn người Âm nhà mình. Sau 3 tháng, anh con chết có đúng không? (Ông bố gật đầu, đúng). Gia đình mình xảy ra tai nạn, vợ xa chồng, con xa bố mẹ, có người thay đổi công tác nơi xa. Phải nghiêm cấm việc tuỳ tiện động mồ. Mời thầy coi bốc nguy hiểm lắm!.
Đào mộ, dời xương cốt đi nhưng còn máu da thịt ở đó, người Âm đôi khi không đồng ý nên làm khó khăn cho con cháu. Đó là phạm quy luật cõi Âm.
Cảm xạ học tìm mộ là không tốt, không phải là làm phúc đâu, là phạm Âm đấy. Phần linh hồn thoát ra về với con cháu rồi. Ai không biết mời họ về thì họ ở cõi Âm tu luyện, học tập, trẻ thì ở cô nhi viện. Từ khi bố dùng cảm xạ học, con lắc, trứng, đũa tìm mộ thì buôn bán làm ăn lung tung, vắng khách có đúng không? (Ông bố: đúng).
Cách đây 5 năm, nhà mình dời mộ ông nhưng nhầm mộ người khác vì trẻ con đã nghịch dời bia mộ ông sang mộ người khác. Vậy là nhà người khác đã vào nhà mình đấy, gây trong nhà lục đục, nhiều khó khăn. Mặt khác, khi cúng nó hưởng, người Âm nhà mình không về. Nó hưởng xong, nó về nhà nó độ cho con cháu nhà nó, có láo không chứ! (Xung quanh nghe, cười). Tội người Trần hay đào mồ mả mà bốc nhầm là tai hại lắm!”.
NGHIÊN CỨU HAI: Về mồ mả
Mồ mả trong bốn đời nếu có điều kiện thì nên được chôn kín cố định. Chọn đất, hướng huyệt, xây gạch, đặt cỗ quan tài, rồi lấp kín. Sau đó để yên. Nếu xây bới, động mồ sẽ gây tại hoạ đấy vì làm xáo trộn vong linh người Âm đang yên tĩnh tu luyện ở cõi Âm để mau chóng vượt Thiên đi đầu thai kiếp khác. Đến thăm mộ chí thì khấn xin phép Thổ địa, Thần linh, không thắp hương ở mộ, không khấn gọi tên người chết ở mộ. Việc ấy chỉ làm tại nhà mình trước khi đi thăm mộ. Nếu ra mộ khóc lóc, gọi họ thì hồn người quá cố ở trên cao đi xuống nhập lại hài cốt, làm cho tốc độ rung động của năng lượng linh hồn sẽ chậm chạp, nặng nề, phí công tu luyện trong thời gian qua. Họ phải tu luyện lại, nguy hiểm lắm! Mặt khác, như vậy là làm xáo trộn quy luật cõi Âm nên nó có tác động đến cõi Trần. Có gia đình không biết, sau khi cất mộ tuỳ tiện thì con cháu trong gia đình đau ốm, gặp tai nạn... Chọn ngày, địa điểm để chôn chặt một lần là phù hợp hơn.
Nếu chính quyền bắt dời mộ thì phải chấp hành theo pháp luật, nhưng phải biết cách làm như sau. Phải khấn:
1- Khấn Thổ địa, Thần linh khu vực có mộ sắp dời;
2- Bà Cô Tổ dòng họ nhà mình cho dời mộ của... (tên họ...);
3- Và chôn cất nơi nào (địa điểm mới);
4- Nếu có gì mà con cháu không biết thì xin bỏ qua, tha thứ;
5- Còn sai phạm điều gì về phần Âm thì người ra lệnh chịu trách nhiệm.
Đến nơi mới cũng làm đầy đủ các thủ tục như khi chôn cất người chết. Không nên mua đất làm mộ giả trước, làm xong thì con cháu có người chết. Nơi đào huyệt có Thổ địa, Thần linh. Con cháu người nhà đi đào huyệt phải khấn như sau: Con tên là... ở... xin Thổ địa, Thần linh quản lý đất ở đây cho phép con gửi xác tên là... nơi đây. Khi nhập áo quan cũng nhắc lại và nói thêm: Nếu người Trần trong gia đình có gì sai sót, xin Thổ địa, Thần linh, Thần hoàng ở đây tha thứ, bỏ qua cho.
Một vong nói với mẹ: "Các bác quy tập tuỳ tiện mộ ông bà là động đấy, xây làm xáo trộn mồ mả là mang họa. Mẹ đứng ngoài không góp tiền tham gia quy tập như vậy thì mẹ không liên đới mang họa. Tốt nhất là mẹ nên khuyên các bác không nên tuỳ tiện quy tập mộ các cụ nữa".
Người Âm tồn tại 4 đời tu luyện rồi mới vượt Thiên đi đầu thai. Mồ mả, bia phải dùng bằng tiếng Việt, không dùng chữ Hán, chữ Nôm.
Tối kỵ là yểm bùa trong quan tài.
Mất mộ phần xác không ảnh hưởng đến linh hồn, không cần tìm mộ, không nên quy tập nhiều mộ về một chỗ. Ai có tâm nhớ ông bà, Tổ tiên thì tôn thờ trong tâm.
Vong một người con nói với bố: "Nhà mình đón thầy sửa mộ, thầy yểm không được vì mệnh thầy nhỏ hơn người Âm nhà mình. Sau 3 tháng, anh con chết có đúng không? (Ông bố gật đầu, đúng). Gia đình mình xảy ra tai nạn, vợ xa chồng, con xa bố mẹ, có người thay đổi công tác nơi xa. Phải nghiêm cấm việc tuỳ tiện động mồ. Mời thầy coi bốc nguy hiểm lắm!.
Đào mộ, dời xương cốt đi nhưng còn máu da thịt ở đó, người Âm đôi khi không đồng ý nên làm khó khăn cho con cháu. Đó là phạm quy luật cõi Âm.
Cảm xạ học tìm mộ là không tốt, không phải là làm phúc đâu, là phạm Âm đấy. Phần linh hồn thoát ra về với con cháu rồi. Ai không biết mời họ về thì họ ở cõi Âm tu luyện, học tập, trẻ thì ở cô nhi viện. Từ khi bố dùng cảm xạ học, con lắc, trứng, đũa tìm mộ thì buôn bán làm ăn lung tung, vắng khách có đúng không? (Ông bố: đúng).
Cách đây 5 năm, nhà mình dời mộ ông nhưng nhầm mộ người khác vì trẻ con đã nghịch dời bia mộ ông sang mộ người khác. Vậy là nhà người khác đã vào nhà mình đấy, gây trong nhà lục đục, nhiều khó khăn. Mặt khác, khi cúng nó hưởng, người Âm nhà mình không về. Nó hưởng xong, nó về nhà nó độ cho con cháu nhà nó, có láo không chứ! (Xung quanh nghe, cười). Tội người Trần hay đào mồ mả mà bốc nhầm là tai hại lắm!”.
#306
Gửi vào 21/09/2011 - 18:46
ĐỜI SỐNG TÂM LINH
NGHIÊN CỨU BA: Bàn thờ, thờ cúng, đi lễ
Bàn thờ để quay mặt ra hướng cửa chính. Cao, thấp, to, bé... tùy thuộc từng nhà. Để bát hương sát bàn thờ. Một bát hương, một lọ hoa, thế thôi. Không nên mời thầy đặt bát hương bàn thờ. Tự mình làm lấy, dùng hương thường, không dùng hương hóa học, thơm mà độc, nguy lắm, nhất là đối với trẻ em khi hít phải. Mời thầy họ yểm vào bát hương, nguy hiểm.
Tổ tiên ông bà yêu cầu con cháu có cái tâm. Tâm ở đây là tâm tin vào tâm linh. Tâm linh là tâm trong sáng, tâm có đức tin có tổ tông, ông bà. Con người có phần xác và phần hồn (linh hồn), tin có linh hồn là tâm linh. Tổ tiên tồn tại 4 đời, ở bên cạnh con cháu mà không biết đấy thôi. Lúc ăn thì mời như khi còn sống, đó là có cái tâm nhớ Tổ tiên ông bà, không phải đến ngày giỗ mới về.
Khi cúng phải xin Thổ công nhà mình cho vong linh người nhà mình vào thì mới được vào nhà. Người chết già còn ở gần cõi Trần chưa được tu luyện lâu, sự rung động năng lượng của linh hồn còn ở gần cõi Trần, nên họ còn hưởng mùi hương của hoa quả, thức ăn khi con cháu cúng giỗ. Còn người chết trẻ, chưa có tội lỗi ở cõi Trần (ví dụ, sẩy thai 2, 3 tháng, khi còn bú) thì thời gian siêu thoát để vượt Thiên thường rất ngắn, nên các vong chết trẻ rất thiêng, không cần cúng lễ, hương hoa gì vì các linh hồn này không có nhu cầu hưởng thụ. Họ chỉ cần cái tâm của người Trần luôn nghĩ đến họ là họ có mặt để độ trì cho người thân trong gia đình.
Vào lúc 6 giờ 30 ngày 23 tháng Chạp hàng năm, cúng tiễn đưa ông Táo về Trời, không nên đốt vàng mã, áo quần giấy, cá chép sống... Táo quân không dùng những thứ đó. Cúng bằng tiền thật, Táo quân chứng cho cái tâm của người cúng rồi báo cáo lại với Thiên đình cái thành tâm đó. ý nghĩa là vậy. Còn tiền giả, quần áo, mũ giả đốt đi thì Táo quân đâu có dùng và cũng không có hình bóng để báo cáo lại với Thiên đình. Tiền thật, áo quần thật, cúng xong thì ta dùng tiêu, mặc quần áo đó. Người Âm của dòng họ mình nương theo bóng đồng tiền, áo quần đó mà độ trì cho con cháu làm ăn có nhiều tiền, mặc áo đó sẽ được khỏe mạnh, bình an. Sau đó đốt chân hương, lau dọn sạch sẽ. Chân hương đốt đi, gói tro ném xuống ao hồ. Bát hương bàn thờ thay mới thì cái cũ cũng vứt bỏ xuống ao hồ. Cấm vứt vào sọt rác. Làm sai sẽ bị đau nhức đầu.
Người Âm chỉ cần cái tâm của con cháu, không cần có bàn thờ hay không. Cầu khấn ngay ở bàn uống nước, nơi làm việc, khi nằm, khi đi ngoài đường, khi đi ra khỏi nhà. Cầu khấn ai, xin gì, người đó sẽ độ trì cho mình. Khi cúng phải có 6 bát 6 đôi đũa: 2 bát cho các cụ tứ đại, 2 bát cho bố mẹ (nếu đã qua đời), 2 bát cho họ hàng. Người già hưởng mùi hương điều khiển mùi hương vào bát, người chết trẻ không cần. Cúng khấn 5, 10 phút thôi, không để lâu. Cúng xong là lộc nhà mình, con cháu hưởng, không cho nhà khác. Phải cúng tiền thật chia làm 3 phần: 1 phần cho người được cúng, 1 phần cho Thổ địa, Thần linh, Táo quân (đủ 3 vị) và một phần cho các cụ tứ đại, ông bà. Cúng xong dùng tiền bình thường. Tiền dùng vào việc bổ ích thì người được người Âm độ. Nếu dùng vào việc phi nghĩa như buôn lậu, đánh bạc, rượu chè be bét... thì người Âm sẽ không chứng, họ khó chịu bực mình và còn bị quả phạt nữa.
Bán vong cho chùa hoặc bố mẹ chết đưa lên chùa "ăn mày cửa Phật" là hiểu sai lầm. Chùa là để người Trần tu hành, không thu nạp vong linh người chết. Sau khi chết một thời gian, họ về với gia đình, sum họp với con cháu như khi còn sống, người Trần không biết mà thôi. Họ giúp đỡ con cháu để tu sửa cái tâm, làm ăn lương thiện. Ai biết thì "âm phù dương trợ", con cháu sống làm ăn khá lên.
Đi lên đền, chùa cũng phải đúng quy tắc người Âm: Trước khi đi, trình tiền đi lễ lên bàn thờ nhà mình, xin Tổ tiên ông bà chứng cho lòng thành của con cháu lên chùa (hoặc đền, mẫu) lễ Phật, Thánh, Mẫu.
Khi đến chùa, đền, mẫu phải đi ngay vào bàn thờ chính, đặt tiền khấn: Tên con..., lòng thành xin công đức nhà chùa (Thánh, Mẫu) số tiền là... xin Thánh, Thần, Phật, Mẫu... chứng giám; người Trần có gì sai trái xin ... tha thứ. Sau đó, cầm tiền bỏ vào hòm công đức thì người Âm mới chứng cho. Tức là người Âm nhà mình gặp, nói với người Âm quản lý các chùa đó (tức Thổ công) chứ không phải Phật, Thánh, Thần, Mẫu luôn có mặt ở đó để chứng cho mình. Lâu nay, người Trần hiểu sai, làm sai, đi cúng lễ mãi cũng vô ích, có ai chứng cho đâu.
Các anh em ruột là con trai, ai soi trước, mời các cụ tứ đại về thì cho các vong về nhà đó trước, không phải là con trai trưởng thờ cúng các cụ là các cụ về đâu.
Người Âm trong dòng họ, tuy trọng người con trai đứng đầu dòng họ, nhưng không phải là trai trưởng mà là người con trai nào có tâm đức, thành tâm tưởng nhớ ông bà, cầu khấn họ thì họ về. Khi về thì các người Âm đứng (ngự) trên hoa tươi đang nở. Vậy dòng họ phải chọn người có tâm đức, chứ không nhất thiết là con trai trưởng. Nhà không có con trai (chết cả) thì chọn con dâu, cũng chọn người có tâm đức để lo việc thờ cúng Tổ tiên ông bà (đây là sự hướng dẫn của người Âm cho các gia đình có hỏi về vấn đề này khác với các lệ lâu nay).
Bàn thờ đang đặt ở tầng 3, nếu đưa xuống tầng 1 thì không được. Nhưng khi cúng đặt lên bàn riêng ở tầng 1 thì được. Nếu chuyển về nhà mới thì có thể xin đặt ở tầng 1.
Một vong nói với bố chuẩn bị khi bà nội mất: "Bố nên làm thế này, đặt tiền thật lên bàn thờ, khấn bà Cô Tổ 4 đời nhà mình, xin gửi số tiền để bà Cô Tổ lo phần Âm cho bà nội khi chết. Rồi khấn: trước nay bà nội có gì sai trái xin bà Cô Tổ và dòng họ xóa bỏ cho. Xin cho linh hồn bà ra khỏi xác. Sau 3 đến 5 phút, cất tiền, rồi báo họ hàng biết có tang và làm lễ tang".
Khi hồn thoát khỏi xác thì khiêng áo quan thấy nhẹ. Khi hồn chưa ra khỏi xác thì khiêng áo quan thấy nặng. Hồn đã thoát xác, có hỏa táng thì cũng không cảm ứng nóng. Ngược lại, khi hồn chưa thoát xác mà đưa đi hỏa táng thì linh hồn bị đốt nóng. Vì vậy, tất cả gia đình phải cầu khấn như trên để linh hồn được ra khỏi xác.
Không đặt bàn thờ Thổ địa, Thần tài dưới đất, đó là sai lầm, phải đặt cùng với bàn thờ Tổ tiên. Chỉ một bát hương thôi, cúng ai thì khấn người đó, có tâm thành thì được linh ứng chứng giám.
NGHIÊN CỨU BA: Bàn thờ, thờ cúng, đi lễ
Bàn thờ để quay mặt ra hướng cửa chính. Cao, thấp, to, bé... tùy thuộc từng nhà. Để bát hương sát bàn thờ. Một bát hương, một lọ hoa, thế thôi. Không nên mời thầy đặt bát hương bàn thờ. Tự mình làm lấy, dùng hương thường, không dùng hương hóa học, thơm mà độc, nguy lắm, nhất là đối với trẻ em khi hít phải. Mời thầy họ yểm vào bát hương, nguy hiểm.
Tổ tiên ông bà yêu cầu con cháu có cái tâm. Tâm ở đây là tâm tin vào tâm linh. Tâm linh là tâm trong sáng, tâm có đức tin có tổ tông, ông bà. Con người có phần xác và phần hồn (linh hồn), tin có linh hồn là tâm linh. Tổ tiên tồn tại 4 đời, ở bên cạnh con cháu mà không biết đấy thôi. Lúc ăn thì mời như khi còn sống, đó là có cái tâm nhớ Tổ tiên ông bà, không phải đến ngày giỗ mới về.
Khi cúng phải xin Thổ công nhà mình cho vong linh người nhà mình vào thì mới được vào nhà. Người chết già còn ở gần cõi Trần chưa được tu luyện lâu, sự rung động năng lượng của linh hồn còn ở gần cõi Trần, nên họ còn hưởng mùi hương của hoa quả, thức ăn khi con cháu cúng giỗ. Còn người chết trẻ, chưa có tội lỗi ở cõi Trần (ví dụ, sẩy thai 2, 3 tháng, khi còn bú) thì thời gian siêu thoát để vượt Thiên thường rất ngắn, nên các vong chết trẻ rất thiêng, không cần cúng lễ, hương hoa gì vì các linh hồn này không có nhu cầu hưởng thụ. Họ chỉ cần cái tâm của người Trần luôn nghĩ đến họ là họ có mặt để độ trì cho người thân trong gia đình.
Vào lúc 6 giờ 30 ngày 23 tháng Chạp hàng năm, cúng tiễn đưa ông Táo về Trời, không nên đốt vàng mã, áo quần giấy, cá chép sống... Táo quân không dùng những thứ đó. Cúng bằng tiền thật, Táo quân chứng cho cái tâm của người cúng rồi báo cáo lại với Thiên đình cái thành tâm đó. ý nghĩa là vậy. Còn tiền giả, quần áo, mũ giả đốt đi thì Táo quân đâu có dùng và cũng không có hình bóng để báo cáo lại với Thiên đình. Tiền thật, áo quần thật, cúng xong thì ta dùng tiêu, mặc quần áo đó. Người Âm của dòng họ mình nương theo bóng đồng tiền, áo quần đó mà độ trì cho con cháu làm ăn có nhiều tiền, mặc áo đó sẽ được khỏe mạnh, bình an. Sau đó đốt chân hương, lau dọn sạch sẽ. Chân hương đốt đi, gói tro ném xuống ao hồ. Bát hương bàn thờ thay mới thì cái cũ cũng vứt bỏ xuống ao hồ. Cấm vứt vào sọt rác. Làm sai sẽ bị đau nhức đầu.
Người Âm chỉ cần cái tâm của con cháu, không cần có bàn thờ hay không. Cầu khấn ngay ở bàn uống nước, nơi làm việc, khi nằm, khi đi ngoài đường, khi đi ra khỏi nhà. Cầu khấn ai, xin gì, người đó sẽ độ trì cho mình. Khi cúng phải có 6 bát 6 đôi đũa: 2 bát cho các cụ tứ đại, 2 bát cho bố mẹ (nếu đã qua đời), 2 bát cho họ hàng. Người già hưởng mùi hương điều khiển mùi hương vào bát, người chết trẻ không cần. Cúng khấn 5, 10 phút thôi, không để lâu. Cúng xong là lộc nhà mình, con cháu hưởng, không cho nhà khác. Phải cúng tiền thật chia làm 3 phần: 1 phần cho người được cúng, 1 phần cho Thổ địa, Thần linh, Táo quân (đủ 3 vị) và một phần cho các cụ tứ đại, ông bà. Cúng xong dùng tiền bình thường. Tiền dùng vào việc bổ ích thì người được người Âm độ. Nếu dùng vào việc phi nghĩa như buôn lậu, đánh bạc, rượu chè be bét... thì người Âm sẽ không chứng, họ khó chịu bực mình và còn bị quả phạt nữa.
Bán vong cho chùa hoặc bố mẹ chết đưa lên chùa "ăn mày cửa Phật" là hiểu sai lầm. Chùa là để người Trần tu hành, không thu nạp vong linh người chết. Sau khi chết một thời gian, họ về với gia đình, sum họp với con cháu như khi còn sống, người Trần không biết mà thôi. Họ giúp đỡ con cháu để tu sửa cái tâm, làm ăn lương thiện. Ai biết thì "âm phù dương trợ", con cháu sống làm ăn khá lên.
Đi lên đền, chùa cũng phải đúng quy tắc người Âm: Trước khi đi, trình tiền đi lễ lên bàn thờ nhà mình, xin Tổ tiên ông bà chứng cho lòng thành của con cháu lên chùa (hoặc đền, mẫu) lễ Phật, Thánh, Mẫu.
Khi đến chùa, đền, mẫu phải đi ngay vào bàn thờ chính, đặt tiền khấn: Tên con..., lòng thành xin công đức nhà chùa (Thánh, Mẫu) số tiền là... xin Thánh, Thần, Phật, Mẫu... chứng giám; người Trần có gì sai trái xin ... tha thứ. Sau đó, cầm tiền bỏ vào hòm công đức thì người Âm mới chứng cho. Tức là người Âm nhà mình gặp, nói với người Âm quản lý các chùa đó (tức Thổ công) chứ không phải Phật, Thánh, Thần, Mẫu luôn có mặt ở đó để chứng cho mình. Lâu nay, người Trần hiểu sai, làm sai, đi cúng lễ mãi cũng vô ích, có ai chứng cho đâu.
Các anh em ruột là con trai, ai soi trước, mời các cụ tứ đại về thì cho các vong về nhà đó trước, không phải là con trai trưởng thờ cúng các cụ là các cụ về đâu.
Người Âm trong dòng họ, tuy trọng người con trai đứng đầu dòng họ, nhưng không phải là trai trưởng mà là người con trai nào có tâm đức, thành tâm tưởng nhớ ông bà, cầu khấn họ thì họ về. Khi về thì các người Âm đứng (ngự) trên hoa tươi đang nở. Vậy dòng họ phải chọn người có tâm đức, chứ không nhất thiết là con trai trưởng. Nhà không có con trai (chết cả) thì chọn con dâu, cũng chọn người có tâm đức để lo việc thờ cúng Tổ tiên ông bà (đây là sự hướng dẫn của người Âm cho các gia đình có hỏi về vấn đề này khác với các lệ lâu nay).
Bàn thờ đang đặt ở tầng 3, nếu đưa xuống tầng 1 thì không được. Nhưng khi cúng đặt lên bàn riêng ở tầng 1 thì được. Nếu chuyển về nhà mới thì có thể xin đặt ở tầng 1.
Một vong nói với bố chuẩn bị khi bà nội mất: "Bố nên làm thế này, đặt tiền thật lên bàn thờ, khấn bà Cô Tổ 4 đời nhà mình, xin gửi số tiền để bà Cô Tổ lo phần Âm cho bà nội khi chết. Rồi khấn: trước nay bà nội có gì sai trái xin bà Cô Tổ và dòng họ xóa bỏ cho. Xin cho linh hồn bà ra khỏi xác. Sau 3 đến 5 phút, cất tiền, rồi báo họ hàng biết có tang và làm lễ tang".
Khi hồn thoát khỏi xác thì khiêng áo quan thấy nhẹ. Khi hồn chưa ra khỏi xác thì khiêng áo quan thấy nặng. Hồn đã thoát xác, có hỏa táng thì cũng không cảm ứng nóng. Ngược lại, khi hồn chưa thoát xác mà đưa đi hỏa táng thì linh hồn bị đốt nóng. Vì vậy, tất cả gia đình phải cầu khấn như trên để linh hồn được ra khỏi xác.
Không đặt bàn thờ Thổ địa, Thần tài dưới đất, đó là sai lầm, phải đặt cùng với bàn thờ Tổ tiên. Chỉ một bát hương thôi, cúng ai thì khấn người đó, có tâm thành thì được linh ứng chứng giám.
#307
Gửi vào 21/09/2011 - 18:49
ĐỜI SỐNG TÂM LINH
NGHIÊN CỨU BỐN: Cái chết, chết già, chết trẻ
Khi mang thai dưới một trăm ngày thì thai còn non yếu. Linh hồn đầu thai ở bên ngoài, tác động vào cái thai bên trong như những đợt sóng năng lượng. Thai còn yếu nên dễ sẩy thai. Từ trên một trăm ngày, linh hồn tác động với cường độ mạnh hơn nên thai nhi ít bị sẩy. Nếu người mẹ bị ngã thì không có cảm giác đau vì có linh hồn nâng đỡ. Linh hồn chờ sẵn bên ngoài nên thường bị nhiễm những tật xấu, lời nói, hành động xấu của bố mẹ và người trong gia đình. Khi đứa trẻ thoát ra khỏi bụng mẹ, linh hồn đầu thai liền nhập vào xác và đứa trẻ liền cất tiếng khóc. Vì bắt đầu từ đây, xác này phải trả hậu quả xấu của bố mẹ và những người xung quanh đã tiêm nhiễm cho nó. Và cũng từ đây, linh hồn đầu thai không còn nhớ tiền tiếp của mình nữa.
Chết là rời bỏ cái xác vật chất để sống ở cõi phi vật chất, nên nó nhẹ nhàng, thanh sạch hơn. Vì vậy ai chết trẻ, chết sớm thì đâu có chuyện gì là vô phúc?
Chết trẻ là lúc tượng hình một tháng trở lên. Nó đã có duyên nợ với gia đình nên về với gia đình. Nhưng bố mẹ không biết, không tưởng nghĩ đến con, coi như không có con, không đặt tên, không nhớ ngày cúng bái. Vì vậy, các vong trẻ mới kiện lên Thiên đình, nay Thiên đình mở cửa cho các vong trẻ về với gia đình.
Chết càng trẻ càng không có sai lầm ở cõi Trần, nên thời gian ở cõi Âm tu luyện rất ngắn, là có thể vượt Thiên đi đầu thai. Có vong xin ở lại để hướng dẫn ông bà, bố mẹ chết sau tu luyện. Phải qua 4 kiếp sau vong trẻ mới đi đầu thai. Cho nên, chỉ gọi hồn 4 kiếp, không gọi kiếp trước nữa vì theo quy luật họ đi đầu thai cả rồi.
Ở cõi Trần ai sinh trước là anh, là chị. Khi về cõi Âm thì cũng thế. Ai về trước là anh, là chị. Ông bà, bố mẹ chết sau con cháu, khi về cõi Âm, con cháu trở thành người huấn luyện để mau chóng "vượt Thiên" thì gọi con cháu là anh hay đại ca (xung quanh cười).
Người chết già, sống cõi Trần bao nhiêu năm thì về cõi Âm phải tu luyện bấy nhiêu năm để gột rửa hết tội lỗi, tật xấu, mới thanh thoát "vượt Thiên" đi đầu thai kiếp khác.
Những vong chết trẻ, siêu thoát sớm được học nhiều, hiểu biết rộng có thể giúp gia đình cõi Trần nhiều việc, nhiều mặt. Còn người già phải lo tu luyện, chỉ biết những việc trong phạm vi gia đình nhỏ hẹp thôi. Vì vậy, xin gặp người chết trẻ thì được hướng dẫn cho nhiều điều hơn.
Mỗi gia đình khi về cõi Âm đều có bà Cô Tổ của dòng họ mình. Xưa kia, bà Cô Tổ 4 đời đó chết trẻ. Bà Cô Tổ đó sẽ độ trì cho con cháu trong dòng họ tu luyện ở cõi Âm.
Người cõi Trần, ai biết đến đây xin gặp bà Cô Tổ dòng họ mình đều gặp được. Bà sẽ độ trì cho gia đình dòng họ trong cuộc sống hiện tại.
Người Âm trong mỗi gia đình đều có những người biết đủ ngành nghề như ở cõi Trần. Con cháu cần giúp việc gì thì người Âm có được ngành nghề chuyên môn đó sẽ bày về cách làm ăn. Không phải chỉ có một người Âm phán bảo, hướng dẫn mà nhiều người có khả năng thì sẽ giúp con cháu về khả năng đó.
Cách giúp của người Âm cụ thể như sau. Một vong nói với bố: "Ví dụ, ngày mai bố đi nằm viện, bố cầu xin con hay mẹ theo giúp để bác sĩ chữa chóng khỏi và phục vụ tận tình. Con sẽ đến gặp người Âm là người nhà đi theo bác sĩ, yêu cầu giúp đỡ. Người Âm đó tác động vô hình để bác sĩ đó tận tình giúp đỡ. Đó là cách làm việc, cách quan hệ của người Âm với nhau để giúp người Trần khi họ yêu cầu”.
Chỉ có một bà Cô Tổ tứ đại, còn ba đời về sau gọi là ông cậu, bà cô (chết trẻ). Đất có Thổ công, sông có Hà bá. Thổ công quản lý linh hồn chết ở hầm mộ, trên cạn. Hà bá quản lý vong chết ở sông nước.
Chết tai nạn giao thông là khổ lắm. Chết ở đâu thì Thổ địa nhận xác ở đó. Sau 100 ngày thì linh hồn về với gia đình.
Đến ở đâu để tìm người Âm nhà mình thì phải khấn Thổ địa, Thần linh ở đó giúp đỡ, cho gặp.
Tại sao có nhà trùng tang? Vì mời thầy cúng, thầy pháp đến yểm bùa chú, cúng trừ tà ma. Thầy thấy mệnh người chết lớn hơn thầy nên thầy yểm, ảnh hưởng con cháu chết trùng tang!
Trẻ chết non nhiều không phải là vô phúc đâu.
Những vong trẻ tu luyện hoàn thiện, chưa muốn đi đầu thai mà muốn về gia đình thì phải làm phép về gia đình như đăng ký nhập hộ khẩu ở cõi Trần vậy.
NGHIÊN CỨU BỐN: Cái chết, chết già, chết trẻ
Khi mang thai dưới một trăm ngày thì thai còn non yếu. Linh hồn đầu thai ở bên ngoài, tác động vào cái thai bên trong như những đợt sóng năng lượng. Thai còn yếu nên dễ sẩy thai. Từ trên một trăm ngày, linh hồn tác động với cường độ mạnh hơn nên thai nhi ít bị sẩy. Nếu người mẹ bị ngã thì không có cảm giác đau vì có linh hồn nâng đỡ. Linh hồn chờ sẵn bên ngoài nên thường bị nhiễm những tật xấu, lời nói, hành động xấu của bố mẹ và người trong gia đình. Khi đứa trẻ thoát ra khỏi bụng mẹ, linh hồn đầu thai liền nhập vào xác và đứa trẻ liền cất tiếng khóc. Vì bắt đầu từ đây, xác này phải trả hậu quả xấu của bố mẹ và những người xung quanh đã tiêm nhiễm cho nó. Và cũng từ đây, linh hồn đầu thai không còn nhớ tiền tiếp của mình nữa.
Chết là rời bỏ cái xác vật chất để sống ở cõi phi vật chất, nên nó nhẹ nhàng, thanh sạch hơn. Vì vậy ai chết trẻ, chết sớm thì đâu có chuyện gì là vô phúc?
Chết trẻ là lúc tượng hình một tháng trở lên. Nó đã có duyên nợ với gia đình nên về với gia đình. Nhưng bố mẹ không biết, không tưởng nghĩ đến con, coi như không có con, không đặt tên, không nhớ ngày cúng bái. Vì vậy, các vong trẻ mới kiện lên Thiên đình, nay Thiên đình mở cửa cho các vong trẻ về với gia đình.
Chết càng trẻ càng không có sai lầm ở cõi Trần, nên thời gian ở cõi Âm tu luyện rất ngắn, là có thể vượt Thiên đi đầu thai. Có vong xin ở lại để hướng dẫn ông bà, bố mẹ chết sau tu luyện. Phải qua 4 kiếp sau vong trẻ mới đi đầu thai. Cho nên, chỉ gọi hồn 4 kiếp, không gọi kiếp trước nữa vì theo quy luật họ đi đầu thai cả rồi.
Ở cõi Trần ai sinh trước là anh, là chị. Khi về cõi Âm thì cũng thế. Ai về trước là anh, là chị. Ông bà, bố mẹ chết sau con cháu, khi về cõi Âm, con cháu trở thành người huấn luyện để mau chóng "vượt Thiên" thì gọi con cháu là anh hay đại ca (xung quanh cười).
Người chết già, sống cõi Trần bao nhiêu năm thì về cõi Âm phải tu luyện bấy nhiêu năm để gột rửa hết tội lỗi, tật xấu, mới thanh thoát "vượt Thiên" đi đầu thai kiếp khác.
Những vong chết trẻ, siêu thoát sớm được học nhiều, hiểu biết rộng có thể giúp gia đình cõi Trần nhiều việc, nhiều mặt. Còn người già phải lo tu luyện, chỉ biết những việc trong phạm vi gia đình nhỏ hẹp thôi. Vì vậy, xin gặp người chết trẻ thì được hướng dẫn cho nhiều điều hơn.
Mỗi gia đình khi về cõi Âm đều có bà Cô Tổ của dòng họ mình. Xưa kia, bà Cô Tổ 4 đời đó chết trẻ. Bà Cô Tổ đó sẽ độ trì cho con cháu trong dòng họ tu luyện ở cõi Âm.
Người cõi Trần, ai biết đến đây xin gặp bà Cô Tổ dòng họ mình đều gặp được. Bà sẽ độ trì cho gia đình dòng họ trong cuộc sống hiện tại.
Người Âm trong mỗi gia đình đều có những người biết đủ ngành nghề như ở cõi Trần. Con cháu cần giúp việc gì thì người Âm có được ngành nghề chuyên môn đó sẽ bày về cách làm ăn. Không phải chỉ có một người Âm phán bảo, hướng dẫn mà nhiều người có khả năng thì sẽ giúp con cháu về khả năng đó.
Cách giúp của người Âm cụ thể như sau. Một vong nói với bố: "Ví dụ, ngày mai bố đi nằm viện, bố cầu xin con hay mẹ theo giúp để bác sĩ chữa chóng khỏi và phục vụ tận tình. Con sẽ đến gặp người Âm là người nhà đi theo bác sĩ, yêu cầu giúp đỡ. Người Âm đó tác động vô hình để bác sĩ đó tận tình giúp đỡ. Đó là cách làm việc, cách quan hệ của người Âm với nhau để giúp người Trần khi họ yêu cầu”.
Chỉ có một bà Cô Tổ tứ đại, còn ba đời về sau gọi là ông cậu, bà cô (chết trẻ). Đất có Thổ công, sông có Hà bá. Thổ công quản lý linh hồn chết ở hầm mộ, trên cạn. Hà bá quản lý vong chết ở sông nước.
Chết tai nạn giao thông là khổ lắm. Chết ở đâu thì Thổ địa nhận xác ở đó. Sau 100 ngày thì linh hồn về với gia đình.
Đến ở đâu để tìm người Âm nhà mình thì phải khấn Thổ địa, Thần linh ở đó giúp đỡ, cho gặp.
Tại sao có nhà trùng tang? Vì mời thầy cúng, thầy pháp đến yểm bùa chú, cúng trừ tà ma. Thầy thấy mệnh người chết lớn hơn thầy nên thầy yểm, ảnh hưởng con cháu chết trùng tang!
Trẻ chết non nhiều không phải là vô phúc đâu.
Những vong trẻ tu luyện hoàn thiện, chưa muốn đi đầu thai mà muốn về gia đình thì phải làm phép về gia đình như đăng ký nhập hộ khẩu ở cõi Trần vậy.
#308
Gửi vào 21/09/2011 - 18:51
ĐỜI SỐNG TÂM LINH
NGHIÊN CỨU NĂM
Con cháu học chỉ mới lý thuyết thôi. Quan trọng là hành, là lao động. Bố mẹ không rèn lao động từ việc nhỏ trong gia đình như lau nhà, quét nhà, nấu cơm, rửa bát là không tốt, là tai họa đó.
Một vong nói với bố là người khai thác đá quý như sau: “Bố lợi dụng sơ hở của Nhà nước để khai thác, làm lợi cho cá nhân mình. Đó là tham nhũng. Làm như thế người âm nhà mình không độ cho bố đâu, làm ác không có kết quả. Chống tham nhũng là phải chống từ mỗi gia đình ngay từ lúc bé. Ông bà, cha mẹ phải có tâm đức. Ngay từ bào thai, nó đã tiếp nhận các hành động và các suy nghĩ, tư tưởng tốt xấu của bố mẹ, ông bà, những người thân trong gia đình. Tham nhũng có nguồn gốc sâu xa từ gia đình, từ lúc còn là bào thai. Hiện nay có nhiều gia đình lo việc cho con ăn học, đi học nước ngoài, tốn mấy cũng lo. Cha mẹ lo mọi việc trong gia đình, còn con thì không làm gì cả. Của ngon vật lạ cũng giành tất cả cho con. Vô tình tạo cho nó thói ăn tham từ bé, nó chẳng biết mời, biết nhường cho ông bà, bố mẹ. Lớn lên ra xã hội nó vẫn quen thói ăn tham, thói ỷ lại vào người khác. Tham nhũng bắt nguồn từ đó.”.
Gieo quả nào ăn quả đó. Bố mẹ làm thế nào con sẽ trả quả đó. Kiếp trước tốt, nay được hưởng. Nay làm điều xấu, kiếp sau sẽ khốn nạn. Nhìn cách sống thiện hay ác hôm nay sẽ đoán biết kiếp sau khốn nạn hay hạnh phúc. Vậy trước mắt, dù thế nào, đau khổ hay hạnh phúc cũng phải lo rèn cái tâm đức, lo làm điều thiện, thương người, giúp đỡ những người khó khăn, nhờ vả đến mình.
Vong người con nói với bố: “Bố phá rừng khai thác đá quý mà bố ăn tất nên phải nạn. Tiền lãi bố phải chia ba phần: 1 phần cúng tổ tiên, ông bà, 1 phần cúng chúa Thượng ngàn, cúng đền chùa để tạ ơn thì mới tồn tại và phát triển. Hoặc như khi Nhà nước trồng cây gây rừng nơi đã bị phá hủy thì bố phải ủng hộ tiền cho việc trồng đó. Nên nhớ “một lộc Thánh bằng một gánh lộc Trần”. Ai làm ăn kinh tế phải chú ý chia lãi 3 phần như trên. Rốt cuộc là 3 phần tiền đó cũng là của mình tiêu dùng cả. Nhưng đó là biểu hiện cái Tâm nhớ ơn Thần linh, Tổ tiên ông bà đã độ cho mình. Đó là người Trần kết hợp với phần âm. Thực tế là như vậy. Không hiểu, con cháu không khá lên được.
Không nên mắng trẻ con hay nghịch. Con trai, con gái nghịch là tốt. Nghịch để phát triển sức khỏe và tư duy. Nhưng phải giáo dục, hướng nó biết lao động những việc nhỏ trong gia đình. Bố mẹ không bao biện, nuông chiều con, làm thay mọi thứ cho con.
Con trai, con gái bắt đầu yêu, mẹ phải sâu sát con gái, bố sâu sát con trai, tâm tình như bạn, không nên ngăn chặn. Yêu là học, học mà yêu. Hướng dẫn con cái biết yêu, có lý tưởng. Nếu ngăn cấm, nó sẽ yêu trộm, nói dối bố mẹ, rồi vụng trộm, làm việc xấu. Phải tạo cho chúng nó gặp nhau, trao đổi tâm tình công khai, chính đáng. Tại cha mẹ không biết cách giáo dục mà làm cho con hư!
Hằng ngày có quà bánh, món ăn ngon, nên dạy con: Phần này cho ông bà, phần này của bố mẹ, phần này của con. Phải giáo dục cụ thể như vậy mà rèn cái tâm, cái đức cho con cái.
Phải hiểu từ con cái: Con là đứa ngoan. Cái là đứa bất hiếu, ngỗ nghịch. Trong con có cái, trong cái có con. Con vừa có cái hư cái xấu, vừa có nhiều cái ngoan. Cha mẹ phải biết rõ mà giáo dục con.
(Nhân người âm giải thích từ con cái, tôi xin nói bổ sung về từ Con người. Con là thú vật, do bản năng sinh tồn mà ăn thịt lẫn nhau; tham ăn; ăn thịt nhau là bản năng thú vật. Người là động vật, đã tiến hóa, đi 2 chân, có 2 tay, lao động, có bộ óc phát triển mà con vật không có, có ngôn ngữ, biết dùng lửa … Người là có trí tuệ, là tinh thần tập thể, biết yêu thương, có tâm thiện “nhân chi sơ, tánh bản thiện”. Trong ta, vừa có cái con, vừa có cái là người. Ai biết tu tâm thì bản chất người mạnh hơn, nhiều hơn. Ai không chịu tu tâm thì bản năng thú vật ngự trị trong anh ta nhiều hơn. M.Chánh).
Phải dạy con cái khi ăn nhớ mời cả người chết người sống. Người chết 4 đời, - nhất là người chết trẻ, đều về với gia đình. Ai nhớ đến họ, nhắc đến họ, cầu nguyện họ, thì họ độ cho. Người Trần dạy: “Uống nước nhớ nguồn” là phải làm từ việc nhỏ hàng ngày trong bữa ăn như thế đấy.
Một vong là con anh Bá, nhắc chị dâu có mặt ở đó như sau:
“Con dâu không được đem chuyện nhà chồng ra bàn tán, mách phía nhà mẹ đẻ mình, nhất là chuyện ấy không đúng sự thật. Thế là phạm Luật ở âm nhà chồng mình. Chị phạm khuyết điểm đó nên em phạt, nên chị đau bụng mãi mà không khỏi, có đúng không?”.
Người chị dâu nói: “Đúng.”
Bây giờ chị biết khuyết điểm thì sẽ khỏi. Chị xem đã khỏi chưa? Người chị dâu sờ bụng, nắn bụng một lúc rồi vui vẻ nói: Khỏi rồi! Vong người em trai nói tiếp: “Chị còn le te mách lẻo nữa thì sẽ đau bụng trở lại đấy”.
* Trước đây có luật ông bà, cha mẹ làm ác, khi còn sống, trả không hết nghiệp thì con cháu phải gánh chịu. Từ nay – bắt đầu từ 2002, ai làm ác nấy chịu, con cháu không phải trả nghiệp quả nữa. Thời thế cõi âm thay đổi. Ai làm nấy chịu!.
* Một vong chết trẻ nói với bố: “Bố than phiền con trai đi học nước ngoài mà không có đủ tiền cho con … Bố đang làm Công ty đá quý … Người con nói: “Con sẽ độ cho bố 10 ngày nữa sẽ có 2 người lạ mang đá quý đến, hàng thật chứ không phải rởm đâu. Bố bán có tiền lo cho anh con đi học nước ngoài. Từ nay đến Tết bố cần xin bao nhiêu triệu?”
Bố xin có độ 50 – 70 triệu.
Con độ cho bố có lãi 80 triệu. Được chưa? Nếu không đúng như vậy, sau Tết, Bố không cần gặp con nữa.
Người Trần thường đi bà Chúa Kho, đi đền mẫu cầu xin đủ thứ. Hiểu sai rồi! Các vị Thánh cũng có nghĩa vụ với gia đình họ theo luật cõi âm. Không ai chứng cho mình và giúp cho mình đâu. Phúc lộc tại tâm. Phúc lộc tại gia. Không đi cầu xin bà Chúa Kho nào cả. Không xin cành vàng lá ngọc nào cả. Chỉ có người âm trong gia đình mình, dòng họ mình mới độ cho gia đình mình thôi. Luật Thiên đình đấy! Tâm của mình đối với tổ tiên ông bà dòng họ nhà mình mà không có, không tưởng nghĩ đến, nhất là vong chết trẻ, thì đi tìm ở đâu mà linh ứng được? Mỗi gia đình đều có bà Cô tổ tứ đại. Vì chết trẻ, được tu luyện lâu nên nhiều quyền năng, thiêng lắm, nên tìm gặp Bà.
NGHIÊN CỨU NĂM
Con cháu học chỉ mới lý thuyết thôi. Quan trọng là hành, là lao động. Bố mẹ không rèn lao động từ việc nhỏ trong gia đình như lau nhà, quét nhà, nấu cơm, rửa bát là không tốt, là tai họa đó.
Một vong nói với bố là người khai thác đá quý như sau: “Bố lợi dụng sơ hở của Nhà nước để khai thác, làm lợi cho cá nhân mình. Đó là tham nhũng. Làm như thế người âm nhà mình không độ cho bố đâu, làm ác không có kết quả. Chống tham nhũng là phải chống từ mỗi gia đình ngay từ lúc bé. Ông bà, cha mẹ phải có tâm đức. Ngay từ bào thai, nó đã tiếp nhận các hành động và các suy nghĩ, tư tưởng tốt xấu của bố mẹ, ông bà, những người thân trong gia đình. Tham nhũng có nguồn gốc sâu xa từ gia đình, từ lúc còn là bào thai. Hiện nay có nhiều gia đình lo việc cho con ăn học, đi học nước ngoài, tốn mấy cũng lo. Cha mẹ lo mọi việc trong gia đình, còn con thì không làm gì cả. Của ngon vật lạ cũng giành tất cả cho con. Vô tình tạo cho nó thói ăn tham từ bé, nó chẳng biết mời, biết nhường cho ông bà, bố mẹ. Lớn lên ra xã hội nó vẫn quen thói ăn tham, thói ỷ lại vào người khác. Tham nhũng bắt nguồn từ đó.”.
Gieo quả nào ăn quả đó. Bố mẹ làm thế nào con sẽ trả quả đó. Kiếp trước tốt, nay được hưởng. Nay làm điều xấu, kiếp sau sẽ khốn nạn. Nhìn cách sống thiện hay ác hôm nay sẽ đoán biết kiếp sau khốn nạn hay hạnh phúc. Vậy trước mắt, dù thế nào, đau khổ hay hạnh phúc cũng phải lo rèn cái tâm đức, lo làm điều thiện, thương người, giúp đỡ những người khó khăn, nhờ vả đến mình.
Vong người con nói với bố: “Bố phá rừng khai thác đá quý mà bố ăn tất nên phải nạn. Tiền lãi bố phải chia ba phần: 1 phần cúng tổ tiên, ông bà, 1 phần cúng chúa Thượng ngàn, cúng đền chùa để tạ ơn thì mới tồn tại và phát triển. Hoặc như khi Nhà nước trồng cây gây rừng nơi đã bị phá hủy thì bố phải ủng hộ tiền cho việc trồng đó. Nên nhớ “một lộc Thánh bằng một gánh lộc Trần”. Ai làm ăn kinh tế phải chú ý chia lãi 3 phần như trên. Rốt cuộc là 3 phần tiền đó cũng là của mình tiêu dùng cả. Nhưng đó là biểu hiện cái Tâm nhớ ơn Thần linh, Tổ tiên ông bà đã độ cho mình. Đó là người Trần kết hợp với phần âm. Thực tế là như vậy. Không hiểu, con cháu không khá lên được.
Không nên mắng trẻ con hay nghịch. Con trai, con gái nghịch là tốt. Nghịch để phát triển sức khỏe và tư duy. Nhưng phải giáo dục, hướng nó biết lao động những việc nhỏ trong gia đình. Bố mẹ không bao biện, nuông chiều con, làm thay mọi thứ cho con.
Con trai, con gái bắt đầu yêu, mẹ phải sâu sát con gái, bố sâu sát con trai, tâm tình như bạn, không nên ngăn chặn. Yêu là học, học mà yêu. Hướng dẫn con cái biết yêu, có lý tưởng. Nếu ngăn cấm, nó sẽ yêu trộm, nói dối bố mẹ, rồi vụng trộm, làm việc xấu. Phải tạo cho chúng nó gặp nhau, trao đổi tâm tình công khai, chính đáng. Tại cha mẹ không biết cách giáo dục mà làm cho con hư!
Hằng ngày có quà bánh, món ăn ngon, nên dạy con: Phần này cho ông bà, phần này của bố mẹ, phần này của con. Phải giáo dục cụ thể như vậy mà rèn cái tâm, cái đức cho con cái.
Phải hiểu từ con cái: Con là đứa ngoan. Cái là đứa bất hiếu, ngỗ nghịch. Trong con có cái, trong cái có con. Con vừa có cái hư cái xấu, vừa có nhiều cái ngoan. Cha mẹ phải biết rõ mà giáo dục con.
(Nhân người âm giải thích từ con cái, tôi xin nói bổ sung về từ Con người. Con là thú vật, do bản năng sinh tồn mà ăn thịt lẫn nhau; tham ăn; ăn thịt nhau là bản năng thú vật. Người là động vật, đã tiến hóa, đi 2 chân, có 2 tay, lao động, có bộ óc phát triển mà con vật không có, có ngôn ngữ, biết dùng lửa … Người là có trí tuệ, là tinh thần tập thể, biết yêu thương, có tâm thiện “nhân chi sơ, tánh bản thiện”. Trong ta, vừa có cái con, vừa có cái là người. Ai biết tu tâm thì bản chất người mạnh hơn, nhiều hơn. Ai không chịu tu tâm thì bản năng thú vật ngự trị trong anh ta nhiều hơn. M.Chánh).
Phải dạy con cái khi ăn nhớ mời cả người chết người sống. Người chết 4 đời, - nhất là người chết trẻ, đều về với gia đình. Ai nhớ đến họ, nhắc đến họ, cầu nguyện họ, thì họ độ cho. Người Trần dạy: “Uống nước nhớ nguồn” là phải làm từ việc nhỏ hàng ngày trong bữa ăn như thế đấy.
Một vong là con anh Bá, nhắc chị dâu có mặt ở đó như sau:
“Con dâu không được đem chuyện nhà chồng ra bàn tán, mách phía nhà mẹ đẻ mình, nhất là chuyện ấy không đúng sự thật. Thế là phạm Luật ở âm nhà chồng mình. Chị phạm khuyết điểm đó nên em phạt, nên chị đau bụng mãi mà không khỏi, có đúng không?”.
Người chị dâu nói: “Đúng.”
Bây giờ chị biết khuyết điểm thì sẽ khỏi. Chị xem đã khỏi chưa? Người chị dâu sờ bụng, nắn bụng một lúc rồi vui vẻ nói: Khỏi rồi! Vong người em trai nói tiếp: “Chị còn le te mách lẻo nữa thì sẽ đau bụng trở lại đấy”.
* Trước đây có luật ông bà, cha mẹ làm ác, khi còn sống, trả không hết nghiệp thì con cháu phải gánh chịu. Từ nay – bắt đầu từ 2002, ai làm ác nấy chịu, con cháu không phải trả nghiệp quả nữa. Thời thế cõi âm thay đổi. Ai làm nấy chịu!.
* Một vong chết trẻ nói với bố: “Bố than phiền con trai đi học nước ngoài mà không có đủ tiền cho con … Bố đang làm Công ty đá quý … Người con nói: “Con sẽ độ cho bố 10 ngày nữa sẽ có 2 người lạ mang đá quý đến, hàng thật chứ không phải rởm đâu. Bố bán có tiền lo cho anh con đi học nước ngoài. Từ nay đến Tết bố cần xin bao nhiêu triệu?”
Bố xin có độ 50 – 70 triệu.
Con độ cho bố có lãi 80 triệu. Được chưa? Nếu không đúng như vậy, sau Tết, Bố không cần gặp con nữa.
Người Trần thường đi bà Chúa Kho, đi đền mẫu cầu xin đủ thứ. Hiểu sai rồi! Các vị Thánh cũng có nghĩa vụ với gia đình họ theo luật cõi âm. Không ai chứng cho mình và giúp cho mình đâu. Phúc lộc tại tâm. Phúc lộc tại gia. Không đi cầu xin bà Chúa Kho nào cả. Không xin cành vàng lá ngọc nào cả. Chỉ có người âm trong gia đình mình, dòng họ mình mới độ cho gia đình mình thôi. Luật Thiên đình đấy! Tâm của mình đối với tổ tiên ông bà dòng họ nhà mình mà không có, không tưởng nghĩ đến, nhất là vong chết trẻ, thì đi tìm ở đâu mà linh ứng được? Mỗi gia đình đều có bà Cô tổ tứ đại. Vì chết trẻ, được tu luyện lâu nên nhiều quyền năng, thiêng lắm, nên tìm gặp Bà.
#309
Gửi vào 21/09/2011 - 18:54
ĐỜI SỐNG TÂM LINH
NGHIÊN CỨU SÁU: Bệnh tật, chữa bệnh bằng nhân điện, cảm xạ học
Đau ốm, bệnh tật có hai nguyên nhân sâu xa: một là do cơ thể suy yếu, môi trường xấu, thời tiết bất thường mà vi khuẩn, vi trùng làm điều ác, trộm cắp, vi phạm pháp luật hoặc vi phạm luật âm trong gia đình mà không biết, đã bị người âm phạt, cảnh cáo. Phải chịu cầu khấn người âm tha thứ cho thì mới khỏi, như trường hợp cô dâu nhà anh Bá nói trên. Còn bệnh do vi trùng thì phải đi bệnh viện, phải có bác sĩ khám điều trị.
Chữa bệnh phải chuẩn đoán đúng nơi có bệnh. Nơi đó các tế bào bị hao hụt năng lượng; độc tố, tà khí ở đó mạnh, dương khí suy. Vậy trước hết phải rút tà khí ra sau đó mới tiếp năng lượng. Chữa bằng thuốc hay năng lượng cũng phải đúng quy tắc đó.
Chữa bệnh theo y học năng lượng rất tố (người âm trả lời câu hỏi của Giáo sư Lê Trọng Khánh). Làm sao để phát triển y học năng lượng? Năng lượng là vô hình. Năng lượng là linh hồn là Tâm linh. Y học năng lượng có người âm hướng dẫn thì mới tốt.
Cơ thể ví như xơ mướp, năng lượng có thể thâm nhập, xuyên qua. Thâm nhập đều khắp thì khỏe mạnh và tồn tại.
Trong khi chữa bệnh bằng y học năng lượng, phải biết kết hợp các nhà ngoại cảm với nhau để hiểu nhà cửa, đất đai, mồ mả của bệnh nhân.
Vì nguyên nhân hậu quả là do vi trùng hoặc vi phạm phần âm. Hiểu rõ nguyên nhân rồi thì cần phải biết bệnh ở chỗ nào, cơ quan, tạng phủ nào, mức độ thì mới chữa tốt. Không phát khí, truyền khí lung tung. Đầu tiên là rút khí độc ở tế bào, cơ quan bị bệnh. Rút khí phải làm chính xác, nhanh, người khác dẫm phải là mắc bệnh. Người ta thường nói: “Trời sinh, đất dưỡng”. Trời sinh bệnh thì trả lại bệnh cho không trung; tan hòa theo không khí. Sau đó mới tiếp năng lượng vào ổ bệnh. Có một số nhà ngoại cảm, chữa bệnh bằng năng lượng mà không hiểu rõ nguyên tắc này, đã làm không đúng, nên bệnh tạm thời khỏi, rồi đau trở lại, vì chưa trục hết tà khí ra.
Trong chữa bệnh y học năng lượng có hai loại nhà ngoại cảm:
I. Những người khổ luyện thành tài: Là người Trần tự học, tự tu luyện kiên trì, gian khổ thành tài. Loại này khi đạt kết quả thì thường xuất hiện cái Tôi, nảy sinh lòng ham muốn danh lợi … Vì vậy, tâm họ không kiên định, một thời gian thì khả năng suy kém hoặc vì thời gian tuổi tác.
II. Loại ngoại cảm Tâm linh: thì không có cái tôi, họ không học hành, không khổ luyện mà Trời cho cái thần nhãn, có nhĩ thông. Khi làm việc họ thư giãn, vô thức thì người âm giáng độ, giảng dạy, chữa bệnh … Cấp nào có cho Thầy cấp đó, cao thấp khác nhau, như thầy dạy cấp I, cấp II, cấp III vậy.
Các phương pháp dưỡng sinh ở Trần chỉ thích ứng một thời gian. Cái chính là rèn luyện cái tâm sáng, mới cân bằng trạng thái, mới khỏe mạnh.
Năng lượng là phần tối, phần sáng, có phần thô, có phần tinh, có phần thiện và phần ác. Phần xác vật chất thu nhận năng lượng bên ngoài vào. Còn linh hồn thì lọc cặn bã của năng lượng. Khi Tâm ác, tâm bất chính, tâm suy thì linh hồn không lọc cặn bã của năng lượng bên ngoài vào cơ thể nên phát sinh bệnh về thần kinh, Stress bệnh thuộc về Tâm linh. Tâm không trong sáng thì linh hồn không thanh lọc trược khí, tà khí được.
Cách chữa bệnh Tâm linh: Trước hết là rèn cái Tâm, cái Đức (từ trong gia đình ra ngoài xã hội) để linh hồn lọc được các tà khí, đọc khí trong năng lượng bên ngoài lọt vào cơ thể. Sau đó cầu người âm nhà mình giúp tác động năng lượng vào chỗ đau thì khỏi. Mỗi gia đình có 4 đời người âm theo dõi giúp đỡ trên các mặt kể cả chữa bệnh, mà ta không biết. Người Trần kết hợp với người âm thì làm gì cũng tốt, cũng thuận lợi. Luật cõi Trời là khi người âm giúp người Trần thì phải tôn trọng pháp luật người Trần. Còn khi người Trần nhờ người âm thì phải làm đúng luật cõi âm.
Đi tìm mộ bằng cảm xạ học, bằng trứng đũa … thì phải khấn người âm nhà có mọ làm đúng luật cõi âm.
Đứng trước mộ hỏi: - Vong ở đây phải tên là …. Tôi giúp gia đình ông (bà) đây. Xin độ cho con lắc … (hoặc cho trứng đũa trả lời: phải, không, đúng, sai …).
Cách chữa viêm phế quản, hen suyễn (người nhà bác Hà), người âm trong gia đình hướng dẫn như sau:
“Hai lá bỏng. Sau đứng mặt quay hướng Đông, chiều đứng quay mặt hướng Tây mà hái. Khi hái khẩn người âm độ trì xin chữa hen, ho, viêm phế quản … cho người bệnh là … Hít hơi dài, nín hơi, hái lá (nam 7 lá, nữ 9 lá). Rửa sạch, nhai nuốt. Nhai liền mấy hôm thì khỏi. Lâu, mau, tùy bệnh mới hay mãn tính.
Chữa đau dạ dày (người nhà anh Bá).
Hái một nắm lá chè xanh sạch (không phun thuốc hóa học) đặt vào đĩa để lên bàn thờ. Khấn xin người âm nhà mình độ để chữa bệnh dạ dày.
Sau đó đem chè đun nước đủ 1 cốc, uống buổi sáng, uống nóng. Sau 10 – 15 phút mới ăn sáng. Uống liền 1 tháng, 2 tháng thì khỏi.
NGHIÊN CỨU SÁU: Bệnh tật, chữa bệnh bằng nhân điện, cảm xạ học
Đau ốm, bệnh tật có hai nguyên nhân sâu xa: một là do cơ thể suy yếu, môi trường xấu, thời tiết bất thường mà vi khuẩn, vi trùng làm điều ác, trộm cắp, vi phạm pháp luật hoặc vi phạm luật âm trong gia đình mà không biết, đã bị người âm phạt, cảnh cáo. Phải chịu cầu khấn người âm tha thứ cho thì mới khỏi, như trường hợp cô dâu nhà anh Bá nói trên. Còn bệnh do vi trùng thì phải đi bệnh viện, phải có bác sĩ khám điều trị.
Chữa bệnh phải chuẩn đoán đúng nơi có bệnh. Nơi đó các tế bào bị hao hụt năng lượng; độc tố, tà khí ở đó mạnh, dương khí suy. Vậy trước hết phải rút tà khí ra sau đó mới tiếp năng lượng. Chữa bằng thuốc hay năng lượng cũng phải đúng quy tắc đó.
Chữa bệnh theo y học năng lượng rất tố (người âm trả lời câu hỏi của Giáo sư Lê Trọng Khánh). Làm sao để phát triển y học năng lượng? Năng lượng là vô hình. Năng lượng là linh hồn là Tâm linh. Y học năng lượng có người âm hướng dẫn thì mới tốt.
Cơ thể ví như xơ mướp, năng lượng có thể thâm nhập, xuyên qua. Thâm nhập đều khắp thì khỏe mạnh và tồn tại.
Trong khi chữa bệnh bằng y học năng lượng, phải biết kết hợp các nhà ngoại cảm với nhau để hiểu nhà cửa, đất đai, mồ mả của bệnh nhân.
Vì nguyên nhân hậu quả là do vi trùng hoặc vi phạm phần âm. Hiểu rõ nguyên nhân rồi thì cần phải biết bệnh ở chỗ nào, cơ quan, tạng phủ nào, mức độ thì mới chữa tốt. Không phát khí, truyền khí lung tung. Đầu tiên là rút khí độc ở tế bào, cơ quan bị bệnh. Rút khí phải làm chính xác, nhanh, người khác dẫm phải là mắc bệnh. Người ta thường nói: “Trời sinh, đất dưỡng”. Trời sinh bệnh thì trả lại bệnh cho không trung; tan hòa theo không khí. Sau đó mới tiếp năng lượng vào ổ bệnh. Có một số nhà ngoại cảm, chữa bệnh bằng năng lượng mà không hiểu rõ nguyên tắc này, đã làm không đúng, nên bệnh tạm thời khỏi, rồi đau trở lại, vì chưa trục hết tà khí ra.
Trong chữa bệnh y học năng lượng có hai loại nhà ngoại cảm:
I. Những người khổ luyện thành tài: Là người Trần tự học, tự tu luyện kiên trì, gian khổ thành tài. Loại này khi đạt kết quả thì thường xuất hiện cái Tôi, nảy sinh lòng ham muốn danh lợi … Vì vậy, tâm họ không kiên định, một thời gian thì khả năng suy kém hoặc vì thời gian tuổi tác.
II. Loại ngoại cảm Tâm linh: thì không có cái tôi, họ không học hành, không khổ luyện mà Trời cho cái thần nhãn, có nhĩ thông. Khi làm việc họ thư giãn, vô thức thì người âm giáng độ, giảng dạy, chữa bệnh … Cấp nào có cho Thầy cấp đó, cao thấp khác nhau, như thầy dạy cấp I, cấp II, cấp III vậy.
Các phương pháp dưỡng sinh ở Trần chỉ thích ứng một thời gian. Cái chính là rèn luyện cái tâm sáng, mới cân bằng trạng thái, mới khỏe mạnh.
Năng lượng là phần tối, phần sáng, có phần thô, có phần tinh, có phần thiện và phần ác. Phần xác vật chất thu nhận năng lượng bên ngoài vào. Còn linh hồn thì lọc cặn bã của năng lượng. Khi Tâm ác, tâm bất chính, tâm suy thì linh hồn không lọc cặn bã của năng lượng bên ngoài vào cơ thể nên phát sinh bệnh về thần kinh, Stress bệnh thuộc về Tâm linh. Tâm không trong sáng thì linh hồn không thanh lọc trược khí, tà khí được.
Cách chữa bệnh Tâm linh: Trước hết là rèn cái Tâm, cái Đức (từ trong gia đình ra ngoài xã hội) để linh hồn lọc được các tà khí, đọc khí trong năng lượng bên ngoài lọt vào cơ thể. Sau đó cầu người âm nhà mình giúp tác động năng lượng vào chỗ đau thì khỏi. Mỗi gia đình có 4 đời người âm theo dõi giúp đỡ trên các mặt kể cả chữa bệnh, mà ta không biết. Người Trần kết hợp với người âm thì làm gì cũng tốt, cũng thuận lợi. Luật cõi Trời là khi người âm giúp người Trần thì phải tôn trọng pháp luật người Trần. Còn khi người Trần nhờ người âm thì phải làm đúng luật cõi âm.
Đi tìm mộ bằng cảm xạ học, bằng trứng đũa … thì phải khấn người âm nhà có mọ làm đúng luật cõi âm.
Đứng trước mộ hỏi: - Vong ở đây phải tên là …. Tôi giúp gia đình ông (bà) đây. Xin độ cho con lắc … (hoặc cho trứng đũa trả lời: phải, không, đúng, sai …).
Cách chữa viêm phế quản, hen suyễn (người nhà bác Hà), người âm trong gia đình hướng dẫn như sau:
“Hai lá bỏng. Sau đứng mặt quay hướng Đông, chiều đứng quay mặt hướng Tây mà hái. Khi hái khẩn người âm độ trì xin chữa hen, ho, viêm phế quản … cho người bệnh là … Hít hơi dài, nín hơi, hái lá (nam 7 lá, nữ 9 lá). Rửa sạch, nhai nuốt. Nhai liền mấy hôm thì khỏi. Lâu, mau, tùy bệnh mới hay mãn tính.
Chữa đau dạ dày (người nhà anh Bá).
Hái một nắm lá chè xanh sạch (không phun thuốc hóa học) đặt vào đĩa để lên bàn thờ. Khấn xin người âm nhà mình độ để chữa bệnh dạ dày.
Sau đó đem chè đun nước đủ 1 cốc, uống buổi sáng, uống nóng. Sau 10 – 15 phút mới ăn sáng. Uống liền 1 tháng, 2 tháng thì khỏi.
#310
Gửi vào 21/09/2011 - 18:56
ĐỜI SỐNG TÂM LINH
NGHIÊN CỨU BẢY
Vong người con nói với mẹ:
- Bướm bay vào nhà là con xua vào để mẹ vui, mẹ đỡ buồn mẹ có biết không?
- Bướm đen, không có chấm trắng đen, bay vào nhà, bay trước mặt mình là báo trước tai nạn sẽ xảy ra, trước 1 ngày. Hôm sau không nên đi đâu cả.
- Hễ bướm vào nhà là có vong về đấy.
- Đang khỏe mạnh mà gà hoặc chim sa – lăn quay trước mặt là báo trước có tai nạn.
- Chó leo lên ghế ngủ là điềm báo trước có người lừa nhà mình.
- Xin độ cho làm việc gì thì tâm niệm khấn người âm nhà mình (bà cô Tổ, ông bà, con chết trẻ) độ giúp. Xin xong, thấy thoải mái thì làm; hễ đau đầu thì thôi.
- Thế kỷ XXI là thế kỷ Tâm linh, tức là người Trần đã biết người âm 1 đời về với gia đình, là thời kỳ người Trần kết hợp với người âm làm nhiều việc – gọi là thần kỳ, như chữa AID … Việt Nam giác ngộ về tâm linh Việt Nam làm nhiều thần kỳ, thế giới nể phục.
- Thế kỷ Tâm linh là thế kỷ chú trọng giáo dục cái tâm. Làm gì cũng phải có tâm đức là hàng đầu. Người Trần làm ăn gian dối, thất đức sẽ nhận hậu quả xấu.
-Từ năm 2000 thầy pháp dùng bùa chú không còn có tác dụng nữa. Không đốt vàng mã, không làm hương hóa học, không thờ cúng rườm rà, linh đình. Không mời thầy đặt bát hương bàn thờ.
Bàn thờ nên đặt theo hướng cửa chính của nhà ở, quay mặt ra cửa chính, đặt cao thấp là tự người nhà mình làm cho hợp với nhà (nhỏ, hẹp) và thuận tiện, đặt bàn thờ quá cao, ngã thì nguy lắm! Mọi việc đều do Tâm. Khi không có Tâm, khi đã không nghĩ đến người đã chết thì mọi hình thức cúng bái, mâm cỗ đều vô ích vì có ai chứng, ai độ cho đâu.
Từ năm 2002, ai làm phúc nấy hưởng, ai gây ác thì nhận tai họa. Con cháu không phải trả nghiệp cho ông bà, bố mẹ như trước.
Ở cõi thiên có nhiều máy phát tâm linh – có nhiều tần số khác nhau, người cõi Trần nhận kênh phát nào là tùy mức độ cái Tâm của người đó. Và người Trần thuộc 4 đời nhà mình cũng phát thông tin để độ cho con cháu.
Các nhà cảm xạ học dùng con lắc làm việc nên nhớ điều này, người nhờ mình giúp việc gì, như tìm mộ, chữa bệnh … đều có người âm nhà họ đi theo, nếu phần âm phù trợ nhà cảm xạ học mà thấp hơn người kia thì họ gạt đi nên nói không đúng, con lắc chỉ, hoặc trả lời không chính xác. Người Trần quan hệ, nói chuyện, làm việc với nhau đều có liên quan đến phần âm hai bên. Người Trần dấu với nhau được, nhưng không dấu được người âm. Mới nghĩ trong tâm (não) thì người âm đã nhận biết rồi. Có người tò mò muốn đến đây hỏi thử, cô biết cô không nói đâu! Có người phát khí công để thử, chỉ hao khí và người âm theo người đó bị cô quở phạt.
Người có Tâm linh, hiểu tâm linh là người giao tiếp với Tâm linh, chứ không phải đọc qua sách vở. Sách vở người Trần viết sai, không đúng về cõi giới Tâm linh. Mặt khác, qua nhiều thời gian ở cõi tâm linh cũng có những thay đổi như cõi Trần vậy. Nên ai đã nghe người âm nói trước đây thì bây giờ cũng khác rồi.
Chồng hay vợ đã chết trước, vẫn độ cho người kia đi bước nữa, chứ không khắt khe như người trần đã nói. Không đúng đâu!
Từ gia đình, cơ quan đến nhà nước nếu biết, cần đến người âm giúp chỉ dẫn trên mọi lĩnh vực thì sẽ có nhiều lợi ích.
Khi “cô Thiên đình” và người âm làm việc ở đây, thì môi trường xung quanh là năng lượng thanh sạch. Người ngồi nghe, tiếp nhận năng lượng, sạch sẽ thanh tâm, khỏe mạnh.
Cuộc đời người Trần nên phân chia 3 giai đoạn sau: 25 năm đầu là cho học hành, thu hoạch kiến thức, rèn luyện chuyên môn – 25 năm thứ hai, xây dựng gia đình, làm việc cho xã hội, đất nước – 25 năm thứ 3, chú ý đến cái Tâm, rèn tâm đức, làm điều thiện, hoạt động các công tác, tổ chức từ thiện, thì tâm được thanh thản, vui vẻ, khỏe mạnh. Từ 75 tuổi trở lên càng chú ý nhiều hơn việc làm từ thiện thì sẽ khỏe mạnh và chết an bình.
Con cháu biết hỏi người âm nhà mình thì họ sẽ hướng dẫn, định hướng việc làm ăn, kinh tế khá hơn.
Nhà nào làm động mồ mả, thì cô hướng dẫn làm lễ tạ mộ trong 4 – 5 phút là xong, là hóa giải được.
Trong 1 ngày, mỗi người có 15 phút gọi là “hâm hâm”. Đó là lúc người âm nhập mà người Trần không biết. Có 2 lý do: một là độ, giúp một vấn đề gì đó. Hai là trừng phạt vì phạm âm hay phạm đạo đức. Xưa kia, tướng ra trận là chọn ngày để người âm nhập độ.
Việt Nam hiện nay có nhiều lĩnh vực làm ăn ra tiền mà không biết đầu tư vào. Có người âm hướng dẫn thì làm ăn được. “Âm phù, dương trợ” thì nên mà.
Người âm về nhà. Khi cả nhà đi ngủ, người âm, bay là là ở trên bố mẹ, con cháu; khi thời tiết xấu thì cản khí độc … mà người Trần không biết đấy thôi.
Con cháu có chồng, theo gia đình bên chồng, phúc hay họa của nhà chồng, con dâu đều gánh chịu. Không nên đổ tội là do con dâu. Nếu sai, không đúng luật thiên đình. Đó là nói oan cho con dâu, sẽ bị tội khẩu nghiệp đấy.
Trong cuộc sống, không được nói dối, nói điều xấu chưa có đủ, để đánh lừa người khác, như “tôi bị ốm, không đi họp” hoặc “xe tôi hỏng” nên đến trễ, thực tế không có như vậy. Hoặc bố mẹ mắng con: “Đồ ngu. Đồ điên. Đồ đần …” Người Trần tưởng đó là chuyện bình thường, nhưng đó là khẩu hiệu, sẽ có ngày, có lúc, diễn ra đúng điều mình vô tình đã nói. Người xưa đã dạy: “Đó là nói gở”. Vậy không được nói gở!.
Khi chưa soi, tức là chưa mời hết người âm 4 đời nhà mình về, mà chỉ một mình con nói chuyện với gia đình, thì độ chính xác chỉ trong thời gian 10 ngày thôi. Sau cần, thì đến gặp, nói lại.
tamlinh
NGHIÊN CỨU BẢY
Vong người con nói với mẹ:
- Bướm bay vào nhà là con xua vào để mẹ vui, mẹ đỡ buồn mẹ có biết không?
- Bướm đen, không có chấm trắng đen, bay vào nhà, bay trước mặt mình là báo trước tai nạn sẽ xảy ra, trước 1 ngày. Hôm sau không nên đi đâu cả.
- Hễ bướm vào nhà là có vong về đấy.
- Đang khỏe mạnh mà gà hoặc chim sa – lăn quay trước mặt là báo trước có tai nạn.
- Chó leo lên ghế ngủ là điềm báo trước có người lừa nhà mình.
- Xin độ cho làm việc gì thì tâm niệm khấn người âm nhà mình (bà cô Tổ, ông bà, con chết trẻ) độ giúp. Xin xong, thấy thoải mái thì làm; hễ đau đầu thì thôi.
- Thế kỷ XXI là thế kỷ Tâm linh, tức là người Trần đã biết người âm 1 đời về với gia đình, là thời kỳ người Trần kết hợp với người âm làm nhiều việc – gọi là thần kỳ, như chữa AID … Việt Nam giác ngộ về tâm linh Việt Nam làm nhiều thần kỳ, thế giới nể phục.
- Thế kỷ Tâm linh là thế kỷ chú trọng giáo dục cái tâm. Làm gì cũng phải có tâm đức là hàng đầu. Người Trần làm ăn gian dối, thất đức sẽ nhận hậu quả xấu.
-Từ năm 2000 thầy pháp dùng bùa chú không còn có tác dụng nữa. Không đốt vàng mã, không làm hương hóa học, không thờ cúng rườm rà, linh đình. Không mời thầy đặt bát hương bàn thờ.
Bàn thờ nên đặt theo hướng cửa chính của nhà ở, quay mặt ra cửa chính, đặt cao thấp là tự người nhà mình làm cho hợp với nhà (nhỏ, hẹp) và thuận tiện, đặt bàn thờ quá cao, ngã thì nguy lắm! Mọi việc đều do Tâm. Khi không có Tâm, khi đã không nghĩ đến người đã chết thì mọi hình thức cúng bái, mâm cỗ đều vô ích vì có ai chứng, ai độ cho đâu.
Từ năm 2002, ai làm phúc nấy hưởng, ai gây ác thì nhận tai họa. Con cháu không phải trả nghiệp cho ông bà, bố mẹ như trước.
Ở cõi thiên có nhiều máy phát tâm linh – có nhiều tần số khác nhau, người cõi Trần nhận kênh phát nào là tùy mức độ cái Tâm của người đó. Và người Trần thuộc 4 đời nhà mình cũng phát thông tin để độ cho con cháu.
Các nhà cảm xạ học dùng con lắc làm việc nên nhớ điều này, người nhờ mình giúp việc gì, như tìm mộ, chữa bệnh … đều có người âm nhà họ đi theo, nếu phần âm phù trợ nhà cảm xạ học mà thấp hơn người kia thì họ gạt đi nên nói không đúng, con lắc chỉ, hoặc trả lời không chính xác. Người Trần quan hệ, nói chuyện, làm việc với nhau đều có liên quan đến phần âm hai bên. Người Trần dấu với nhau được, nhưng không dấu được người âm. Mới nghĩ trong tâm (não) thì người âm đã nhận biết rồi. Có người tò mò muốn đến đây hỏi thử, cô biết cô không nói đâu! Có người phát khí công để thử, chỉ hao khí và người âm theo người đó bị cô quở phạt.
Người có Tâm linh, hiểu tâm linh là người giao tiếp với Tâm linh, chứ không phải đọc qua sách vở. Sách vở người Trần viết sai, không đúng về cõi giới Tâm linh. Mặt khác, qua nhiều thời gian ở cõi tâm linh cũng có những thay đổi như cõi Trần vậy. Nên ai đã nghe người âm nói trước đây thì bây giờ cũng khác rồi.
Chồng hay vợ đã chết trước, vẫn độ cho người kia đi bước nữa, chứ không khắt khe như người trần đã nói. Không đúng đâu!
Từ gia đình, cơ quan đến nhà nước nếu biết, cần đến người âm giúp chỉ dẫn trên mọi lĩnh vực thì sẽ có nhiều lợi ích.
Khi “cô Thiên đình” và người âm làm việc ở đây, thì môi trường xung quanh là năng lượng thanh sạch. Người ngồi nghe, tiếp nhận năng lượng, sạch sẽ thanh tâm, khỏe mạnh.
Cuộc đời người Trần nên phân chia 3 giai đoạn sau: 25 năm đầu là cho học hành, thu hoạch kiến thức, rèn luyện chuyên môn – 25 năm thứ hai, xây dựng gia đình, làm việc cho xã hội, đất nước – 25 năm thứ 3, chú ý đến cái Tâm, rèn tâm đức, làm điều thiện, hoạt động các công tác, tổ chức từ thiện, thì tâm được thanh thản, vui vẻ, khỏe mạnh. Từ 75 tuổi trở lên càng chú ý nhiều hơn việc làm từ thiện thì sẽ khỏe mạnh và chết an bình.
Con cháu biết hỏi người âm nhà mình thì họ sẽ hướng dẫn, định hướng việc làm ăn, kinh tế khá hơn.
Nhà nào làm động mồ mả, thì cô hướng dẫn làm lễ tạ mộ trong 4 – 5 phút là xong, là hóa giải được.
Trong 1 ngày, mỗi người có 15 phút gọi là “hâm hâm”. Đó là lúc người âm nhập mà người Trần không biết. Có 2 lý do: một là độ, giúp một vấn đề gì đó. Hai là trừng phạt vì phạm âm hay phạm đạo đức. Xưa kia, tướng ra trận là chọn ngày để người âm nhập độ.
Việt Nam hiện nay có nhiều lĩnh vực làm ăn ra tiền mà không biết đầu tư vào. Có người âm hướng dẫn thì làm ăn được. “Âm phù, dương trợ” thì nên mà.
Người âm về nhà. Khi cả nhà đi ngủ, người âm, bay là là ở trên bố mẹ, con cháu; khi thời tiết xấu thì cản khí độc … mà người Trần không biết đấy thôi.
Con cháu có chồng, theo gia đình bên chồng, phúc hay họa của nhà chồng, con dâu đều gánh chịu. Không nên đổ tội là do con dâu. Nếu sai, không đúng luật thiên đình. Đó là nói oan cho con dâu, sẽ bị tội khẩu nghiệp đấy.
Trong cuộc sống, không được nói dối, nói điều xấu chưa có đủ, để đánh lừa người khác, như “tôi bị ốm, không đi họp” hoặc “xe tôi hỏng” nên đến trễ, thực tế không có như vậy. Hoặc bố mẹ mắng con: “Đồ ngu. Đồ điên. Đồ đần …” Người Trần tưởng đó là chuyện bình thường, nhưng đó là khẩu hiệu, sẽ có ngày, có lúc, diễn ra đúng điều mình vô tình đã nói. Người xưa đã dạy: “Đó là nói gở”. Vậy không được nói gở!.
Khi chưa soi, tức là chưa mời hết người âm 4 đời nhà mình về, mà chỉ một mình con nói chuyện với gia đình, thì độ chính xác chỉ trong thời gian 10 ngày thôi. Sau cần, thì đến gặp, nói lại.
tamlinh
#311
Gửi vào 24/09/2011 - 06:17
NHÀ NGOẠI CẢM NGUYỄN KHẮC BẢY
Nguyễn Khắc Bảy sinh ra và lớn lên tại Xã Vạn Ninh, Huyện Gia Bình, Tỉnh Hà Bắc, trong một gia đình nho giáo. Vùng đất của anh ở chạy dài theo con sông Đuống mà những địa danh nghe tên như: Gia Bình, Lang Tài, Thuận Thành, Tiên Du, Từ Sơn, Quế Dương cũng đủ nói lên một truyền thống hàng ngàn năm của vùng Luy Lâu, Kinh Bắc. Đây là một vùng đất đầy huyền thoại, đến nỗi người ta phải ví von: Ra cổng là gặp truyền thuyết. Tại vùng này từ xưa cho đến nay cũng đã phát xuất nhiều người tài giỏi, nhất là về mặt Lý số.
Vùng quê này cũng chính là nơi phát tích Đạo thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp là hiện tượng tín ngưỡng bản địa của nước ta mang đậm màu sắc của nền văn minh lúa nước kết hợp với Phật giáo, tôn giáo du nhập từ Ấn Độ, tồn tại khá phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ. Hình thái thờ thần Tứ pháp là một trong những hình thái tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ sơ, khi mà đời sống nông nghiệp lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Tứ Pháp bao gồm Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tượng trưng cho những thế lực thiên nhiên như mây, mưa, sấm, chớp. Sự tích Man Nương và tục thờ Tứ Pháp được lưu truyền từ thế kỷ thứ II sau Công Nguyên và đã được ghi chép trong rất nhiều truyện sách cổ xưa như: Lĩnh Nam Chích Quái, Kiến Văn Tiểu Lục, Văn Hiến Thông Khảo, An Nam Chí Lược với những chi tiết khác biệt nhau.
Tuy nhiên nguồn gốc của Tứ Pháp được nhiều người biết đến nhất được ghi lại trong truyện Man Nương, sách Lĩnh Nam Chích Quái và vào giữa thế kỷ XVII mới được in thành sách riêng. Hiện còn lưu lại sự tích này qua bản Cổ châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh Ngữ Lục khắc gỗ tại chùa Dâu được khắc vào năm thứ mười ba niên hiệu Cảnh Hưng 1752. Vùng này còn là một Kinh thành tráng lệ khi xưa, tục gọi là Kinh Bắc từ thời Sĩ Nhiếp làm Thái thú. Khu vực này có chín mươi chín ngọn đồi đất nổi lên thành một thế đất La Thành Viên cục chuẩn mẫu. Nam Giao Học Tổ. Nơi thờ Sĩ Nhiếp cũng được tọa trên một gò đất cực lớn. Ngày nay do việc xây dựng bừa bãi và nhất là hàng ngàn lò gạch được xây dựng tại vùng này nên Long mạch khu vực này đã bị tàn phá nghiêm trọng.
Nguyễn Khắc Bảy có khả năng tìm kiếm mộ từ xa cách đây khoảng hơn chục năm. Khác với nhiều nhà ngoại cảm khác, anh Bảy không phải trải qua những chấn động mạnh mẽ về tâm lý cũng như cơ thể (Chó cắn, điện giật hay bị điên...). Phương pháp tìm mộ từ xa của anh là ngồi đối diện với thân nhân cùng huyết thống với người mất, tay cầm giấy báo tử của Liệt sĩ, nhìn vào con mắt thứ ba của họ trên trán, anh có thể thấy hình ảnh của cả một vùng đất rộng lớn xung quanh ngôi mộ, biết được địa danh của vùng đất đó. Theo anh cái này gọi là Thiên Nhãn. Ngoài ra khi vẽ bản đồ khu vực có hài cốt, anh cũng biết được cả tên của những người sống gần đó. Người viết đã có lần cùng anh Bảy đi tìm mộ bị mất tích ở Hà Tây, đã chứng kiến khả năng tìm mộ rất nhanh nhạy của anh. Chỉ cần nói tên tuổi của người mất, anh đã có thể tả chính xác khu vực có hài cốt ra sao, những người còn sống trên mảnh đất đó là ai, tên gì?
Trong hơn mười năm, anh Nguyễn Khắc Bảy đã giúp mọi người tìm được hàng ngàn ngôi mộ bị thất lạc. Hàng năm cứ mỗi độ xuân về, anh Bảy cùng những đồng nghiệp tại Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người lại gửi hàng ngàn địa chỉ mộ Liệt sĩ bị thất lạc tại khắp nơi trên đất nước cho các gia đình đang tìm kiếm. Đây thực sự là món quà Tết có ý nghĩa to lớn với hàng ngàn gia đình. Ngày gần đây khi lên thăm anh Bảy, người viết được chứng kiến cảnh một gia đình lên cảm ơn anh Bảy giúp đỡ họ tìm được ngôi mộ Tổ cách đây hơn năm trăm năm. Ngày hôm đó người viết cũng đã chứng kiến việc anh Bảy vẽ sơ đồ tìm mộ cho một gia đình mà hài cốt nằm tại Núi Cấn, Thất sơn, Châu Đốc. Bản vẽ của anh thật chi tiết rõ ràng, có chú thích hơn chục đặc điểm riêng để người đi tìm dễ nhận biết, đặc biệt cả tên người có ngôi nhà năm trong khu vực đó.
Ngoài khả năng tìm mộ bị thất lạc, anh Bảy còn giúp Công An phá được nhiều vụ trọng án bằng khả năng ngoại cảm của mình. Đây chính là đề tài tìm kiếm người sống từ xa của Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người. Trong cuộc sống anh Bảy là một con người dễ gần, có chút gì đó chân chất, quê quê nhưng rất hóm hỉnh. Hàng ngày, ban ngày anh đi khắp nơi để tìm mộ giúp mọi người, buổi tối anh lại tiếp khách đến nhờ tìm mộ tới khuya. Bước vào căn phòng chật chội và đơn sơ của anh, mọi người đều nhận được sự giúp đỡ tận tình bất vụ lợi của anh. Chúc anh luôn đạt được nhiều thành công trong việc đem lại niềm vui cho hàng vạn gia đình.
TTVV
Nguyễn Khắc Bảy sinh ra và lớn lên tại Xã Vạn Ninh, Huyện Gia Bình, Tỉnh Hà Bắc, trong một gia đình nho giáo. Vùng đất của anh ở chạy dài theo con sông Đuống mà những địa danh nghe tên như: Gia Bình, Lang Tài, Thuận Thành, Tiên Du, Từ Sơn, Quế Dương cũng đủ nói lên một truyền thống hàng ngàn năm của vùng Luy Lâu, Kinh Bắc. Đây là một vùng đất đầy huyền thoại, đến nỗi người ta phải ví von: Ra cổng là gặp truyền thuyết. Tại vùng này từ xưa cho đến nay cũng đã phát xuất nhiều người tài giỏi, nhất là về mặt Lý số.
Vùng quê này cũng chính là nơi phát tích Đạo thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp là hiện tượng tín ngưỡng bản địa của nước ta mang đậm màu sắc của nền văn minh lúa nước kết hợp với Phật giáo, tôn giáo du nhập từ Ấn Độ, tồn tại khá phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ. Hình thái thờ thần Tứ pháp là một trong những hình thái tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ sơ, khi mà đời sống nông nghiệp lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Tứ Pháp bao gồm Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tượng trưng cho những thế lực thiên nhiên như mây, mưa, sấm, chớp. Sự tích Man Nương và tục thờ Tứ Pháp được lưu truyền từ thế kỷ thứ II sau Công Nguyên và đã được ghi chép trong rất nhiều truyện sách cổ xưa như: Lĩnh Nam Chích Quái, Kiến Văn Tiểu Lục, Văn Hiến Thông Khảo, An Nam Chí Lược với những chi tiết khác biệt nhau.
Tuy nhiên nguồn gốc của Tứ Pháp được nhiều người biết đến nhất được ghi lại trong truyện Man Nương, sách Lĩnh Nam Chích Quái và vào giữa thế kỷ XVII mới được in thành sách riêng. Hiện còn lưu lại sự tích này qua bản Cổ châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh Ngữ Lục khắc gỗ tại chùa Dâu được khắc vào năm thứ mười ba niên hiệu Cảnh Hưng 1752. Vùng này còn là một Kinh thành tráng lệ khi xưa, tục gọi là Kinh Bắc từ thời Sĩ Nhiếp làm Thái thú. Khu vực này có chín mươi chín ngọn đồi đất nổi lên thành một thế đất La Thành Viên cục chuẩn mẫu. Nam Giao Học Tổ. Nơi thờ Sĩ Nhiếp cũng được tọa trên một gò đất cực lớn. Ngày nay do việc xây dựng bừa bãi và nhất là hàng ngàn lò gạch được xây dựng tại vùng này nên Long mạch khu vực này đã bị tàn phá nghiêm trọng.
Nguyễn Khắc Bảy có khả năng tìm kiếm mộ từ xa cách đây khoảng hơn chục năm. Khác với nhiều nhà ngoại cảm khác, anh Bảy không phải trải qua những chấn động mạnh mẽ về tâm lý cũng như cơ thể (Chó cắn, điện giật hay bị điên...). Phương pháp tìm mộ từ xa của anh là ngồi đối diện với thân nhân cùng huyết thống với người mất, tay cầm giấy báo tử của Liệt sĩ, nhìn vào con mắt thứ ba của họ trên trán, anh có thể thấy hình ảnh của cả một vùng đất rộng lớn xung quanh ngôi mộ, biết được địa danh của vùng đất đó. Theo anh cái này gọi là Thiên Nhãn. Ngoài ra khi vẽ bản đồ khu vực có hài cốt, anh cũng biết được cả tên của những người sống gần đó. Người viết đã có lần cùng anh Bảy đi tìm mộ bị mất tích ở Hà Tây, đã chứng kiến khả năng tìm mộ rất nhanh nhạy của anh. Chỉ cần nói tên tuổi của người mất, anh đã có thể tả chính xác khu vực có hài cốt ra sao, những người còn sống trên mảnh đất đó là ai, tên gì?
Trong hơn mười năm, anh Nguyễn Khắc Bảy đã giúp mọi người tìm được hàng ngàn ngôi mộ bị thất lạc. Hàng năm cứ mỗi độ xuân về, anh Bảy cùng những đồng nghiệp tại Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người lại gửi hàng ngàn địa chỉ mộ Liệt sĩ bị thất lạc tại khắp nơi trên đất nước cho các gia đình đang tìm kiếm. Đây thực sự là món quà Tết có ý nghĩa to lớn với hàng ngàn gia đình. Ngày gần đây khi lên thăm anh Bảy, người viết được chứng kiến cảnh một gia đình lên cảm ơn anh Bảy giúp đỡ họ tìm được ngôi mộ Tổ cách đây hơn năm trăm năm. Ngày hôm đó người viết cũng đã chứng kiến việc anh Bảy vẽ sơ đồ tìm mộ cho một gia đình mà hài cốt nằm tại Núi Cấn, Thất sơn, Châu Đốc. Bản vẽ của anh thật chi tiết rõ ràng, có chú thích hơn chục đặc điểm riêng để người đi tìm dễ nhận biết, đặc biệt cả tên người có ngôi nhà năm trong khu vực đó.
Ngoài khả năng tìm mộ bị thất lạc, anh Bảy còn giúp Công An phá được nhiều vụ trọng án bằng khả năng ngoại cảm của mình. Đây chính là đề tài tìm kiếm người sống từ xa của Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người. Trong cuộc sống anh Bảy là một con người dễ gần, có chút gì đó chân chất, quê quê nhưng rất hóm hỉnh. Hàng ngày, ban ngày anh đi khắp nơi để tìm mộ giúp mọi người, buổi tối anh lại tiếp khách đến nhờ tìm mộ tới khuya. Bước vào căn phòng chật chội và đơn sơ của anh, mọi người đều nhận được sự giúp đỡ tận tình bất vụ lợi của anh. Chúc anh luôn đạt được nhiều thành công trong việc đem lại niềm vui cho hàng vạn gia đình.
TTVV
#312
Gửi vào 24/09/2011 - 06:24
NHÀ NGOẠI CẢM NGUYỄN VĂN NHÃ
Có ít tư liệu trên báo chí viết về nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, mặc dù nhiều người biết tên anh sau khi anh cùng Phan Thị Bích Hằng đã giúp Giáo Sư Trần Phương tìm được phần mộ em gái ông là bà Trần Thị Khang. Anh là kỹ sư hoá, làm công tác tư vấn đầu tư tại một công ty. Khả năng ngoại cảm của anh bắt đầu xuất hiện từ cuối năm 1998. Sự xuất hiện khả năng ngoại cảm ở Nguyễn Văn Nhã ít nhiều mang màu sắc tâm linh. Ban đầu do ham vui và nhiệt tình giúp đỡ bạn bè, anh đã cùng tham gia đi tìm hài cốt của những người thân. Khi đến Đà Nẵng anh đã gặp nhà ngoại cảm Bùi Đăng Chiến (Năm Chiến). Ra Hải Dương anh lại được gặp nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên. Sau khi tìm được mộ ông Hoàng Lê Kha, trước là Bí thư Tỉnh ủy Tây Ninh, người nhà liệt sĩ đã dẫn Nguyễn Văn Nhã đến gặp một bà đồng nổi tiếng ở vùng này. Khi thấy anh, bà ta cười và nói rằng:
- Ơ kìa, ông này sắp được phân công đi tìm mộ liệt sĩ rồi đó!
Nghe bà ta nói, anh hơi rợn tóc gáy và hỏi lại:
- Sao bà biết?
- Vì tôi thấy có một con dấu đóng trên trán ông!
Dù bà ta bình thản trả lời như vậy, nhưng bản thân Nguyễn Văn Nhã khi đó không muốn dính dáng vào việc này vì không rõ rồi sẽ đi đến đâu. Một tháng sau 4-1998, nhân có việc nên anh lại bay ra Bắc để gặp nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên. Tình cờ, anh gặp một phụ nữ trạc năm mươi tuổi, dáng dấp quê mùa và không biết chữ. Vậy mà trên năm ngón tay của bà ta có buộc năm vật gì như quản bút. Bà ta cặm cụi viết cái gì đó như chữ Phạn, một thứ văn tự cổ của Ấn Độ. Thấy anh, bà ta nói:
- Bây giờ anh Nhã nhận công tác tìm hài cốt liệt sĩ!
Anh im lặng đi ra và thầm hiểu đây là “sư mẫu” của Nguyễn Văn Liên. Anh nhớ lại là vào tháng 4-1998, sau khi tìm thấy nơi chôn cất liệt sĩ Đoàn Văn Bơ thì bỗng nhiên bên tai văng vẳng tiếng nói của một giọng nữ:
- Tôi là sư mẫu của Nguyễn Văn Liên đây, tôi giúp anh có khả năng thấy được hài cốt của người đã chết nằm ở đâu và khả năng điều khiển các vật thể làm dấu...
Anh buột miệng:
- Tôi đâu có quen biết mà cô tốt bụng giúp tôi, hơn nữa tôi còn nhiều điều sân, si trên trần thế này thì làm sao có thể thực hiện được công việc nặng nề đó?
Bà ta đáp:
- Anh không biết tôi, nhưng tôi biết rất rõ về anh.
Rồi người phụ nữ đó cố tìm một ví dụ để Nguyễn Văn Nhã tin là bà ấy biết rành rẽ về các hoạt động sinh sống của anh... Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã đã vẽ bản đồ cho hàng ngàn ngôi mộ với tỷ lệ thành công trên dưới sáu mươi phần trăm. Có trường hợp anh đã vẽ chính xác đến mức mà chính bản thân cũng phải kinh ngạc. Tâm trí anh thu được thông tin như thế nào thì anh vẽ ra như vậy. Còn thông tin đó từ đâu tới, đúng hay sai thì đối với anh cũng là điều bí ẩn. Khi anh vẽ bản đồ cho một ngôi mộ cần tìm thì không đòi hỏi thủ tục hương khói gì cả. Dữ liệu liên quan đến người quá cố cần được cung cấp cho anh có thể là họ tên, năm sinh, ngày tháng mất, nơi mất, người đi tìm tên là gì... Đôi khi anh hỏi thêm một số chi tiết cần thiết khác. Rồi anh vẽ bản đồ cho phần mộ người quá cố một cách thư thả, lưu loát, thường không tẩy xoá gì. Mọi việc chỉ diễn ra trong vòng mươi phút.
Ngoài việc vẽ bản đồ cho phần mộ, Nguyễn Văn Nhã còn có khả năng điều khiển người (trẻ em), con vật (côn trùng hay vật nuôi) hoặc cây cỏ (nở hoa) để chỉ dẫn. Các thông tin trên bản đồ và chỉ dẫn có thể được chính xác hoá từ xa trong quá trình tiến hành tìm kiếm phần mộ thất lạc.
ST
Có ít tư liệu trên báo chí viết về nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, mặc dù nhiều người biết tên anh sau khi anh cùng Phan Thị Bích Hằng đã giúp Giáo Sư Trần Phương tìm được phần mộ em gái ông là bà Trần Thị Khang. Anh là kỹ sư hoá, làm công tác tư vấn đầu tư tại một công ty. Khả năng ngoại cảm của anh bắt đầu xuất hiện từ cuối năm 1998. Sự xuất hiện khả năng ngoại cảm ở Nguyễn Văn Nhã ít nhiều mang màu sắc tâm linh. Ban đầu do ham vui và nhiệt tình giúp đỡ bạn bè, anh đã cùng tham gia đi tìm hài cốt của những người thân. Khi đến Đà Nẵng anh đã gặp nhà ngoại cảm Bùi Đăng Chiến (Năm Chiến). Ra Hải Dương anh lại được gặp nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên. Sau khi tìm được mộ ông Hoàng Lê Kha, trước là Bí thư Tỉnh ủy Tây Ninh, người nhà liệt sĩ đã dẫn Nguyễn Văn Nhã đến gặp một bà đồng nổi tiếng ở vùng này. Khi thấy anh, bà ta cười và nói rằng:
- Ơ kìa, ông này sắp được phân công đi tìm mộ liệt sĩ rồi đó!
Nghe bà ta nói, anh hơi rợn tóc gáy và hỏi lại:
- Sao bà biết?
- Vì tôi thấy có một con dấu đóng trên trán ông!
Dù bà ta bình thản trả lời như vậy, nhưng bản thân Nguyễn Văn Nhã khi đó không muốn dính dáng vào việc này vì không rõ rồi sẽ đi đến đâu. Một tháng sau 4-1998, nhân có việc nên anh lại bay ra Bắc để gặp nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên. Tình cờ, anh gặp một phụ nữ trạc năm mươi tuổi, dáng dấp quê mùa và không biết chữ. Vậy mà trên năm ngón tay của bà ta có buộc năm vật gì như quản bút. Bà ta cặm cụi viết cái gì đó như chữ Phạn, một thứ văn tự cổ của Ấn Độ. Thấy anh, bà ta nói:
- Bây giờ anh Nhã nhận công tác tìm hài cốt liệt sĩ!
Anh im lặng đi ra và thầm hiểu đây là “sư mẫu” của Nguyễn Văn Liên. Anh nhớ lại là vào tháng 4-1998, sau khi tìm thấy nơi chôn cất liệt sĩ Đoàn Văn Bơ thì bỗng nhiên bên tai văng vẳng tiếng nói của một giọng nữ:
- Tôi là sư mẫu của Nguyễn Văn Liên đây, tôi giúp anh có khả năng thấy được hài cốt của người đã chết nằm ở đâu và khả năng điều khiển các vật thể làm dấu...
Anh buột miệng:
- Tôi đâu có quen biết mà cô tốt bụng giúp tôi, hơn nữa tôi còn nhiều điều sân, si trên trần thế này thì làm sao có thể thực hiện được công việc nặng nề đó?
Bà ta đáp:
- Anh không biết tôi, nhưng tôi biết rất rõ về anh.
Rồi người phụ nữ đó cố tìm một ví dụ để Nguyễn Văn Nhã tin là bà ấy biết rành rẽ về các hoạt động sinh sống của anh... Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã đã vẽ bản đồ cho hàng ngàn ngôi mộ với tỷ lệ thành công trên dưới sáu mươi phần trăm. Có trường hợp anh đã vẽ chính xác đến mức mà chính bản thân cũng phải kinh ngạc. Tâm trí anh thu được thông tin như thế nào thì anh vẽ ra như vậy. Còn thông tin đó từ đâu tới, đúng hay sai thì đối với anh cũng là điều bí ẩn. Khi anh vẽ bản đồ cho một ngôi mộ cần tìm thì không đòi hỏi thủ tục hương khói gì cả. Dữ liệu liên quan đến người quá cố cần được cung cấp cho anh có thể là họ tên, năm sinh, ngày tháng mất, nơi mất, người đi tìm tên là gì... Đôi khi anh hỏi thêm một số chi tiết cần thiết khác. Rồi anh vẽ bản đồ cho phần mộ người quá cố một cách thư thả, lưu loát, thường không tẩy xoá gì. Mọi việc chỉ diễn ra trong vòng mươi phút.
Ngoài việc vẽ bản đồ cho phần mộ, Nguyễn Văn Nhã còn có khả năng điều khiển người (trẻ em), con vật (côn trùng hay vật nuôi) hoặc cây cỏ (nở hoa) để chỉ dẫn. Các thông tin trên bản đồ và chỉ dẫn có thể được chính xác hoá từ xa trong quá trình tiến hành tìm kiếm phần mộ thất lạc.
ST
#313
Gửi vào 24/09/2011 - 06:32
NHÀ NGOẠI CẢM ĐOÀN VIỆT TIẾN
Kể từ tháng 3-2003, trong đội ngũ các nhà ngoại cảm Việt Nam có thêm một người vốn là họa sĩ tự học với những khả năng khác thường chưa từng có ở nước ta và có lẽ cả trên thế giới. Đó là Đoàn Việt Tiến, người có biệt tài vẽ chân dung ngược lên kính bằng ngón tay và vẽ chân dung của người đã mất qua tiềm thức của người thân ngồi đối diện.
Đoàn Việt Tiến sinh năm 1961 tại xã Phú Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, hiện nay là thương binh. Ngay từ thời còn là học sinh, cậu bé Tiến đã nổi tiếng là người khéo tay, vẽ giỏi. Phát hiện ra năng khiếu của đứa cháu, người bác ruột là nhà văn Đoàn Giỏi đã tích cực kèm cặp và dạy dỗ Tiến. Năm mười tám tuổi Đoàn Việt Tiến tham gia quân đội. Anh vừa chiến đấu vừa ký hoạ vào những năm tháng ở chiến trường biên giới Tây Nam. Chiến tranh kết thúc, anh trở về với thương tật hạng 3/4 và căn bệnh sốt rét kinh niên. Nhà nghèo lại là lao động chính, mơ ước được vào giảng đường Đại học Mỹ thuật của anh không thực hiện được. Anh quyết định tìm sách và dụng cụ mỹ thuật để tự học nâng cao trình độ dưới sự hướng dẫn của nhà văn Đoàn Giỏi.
Hành trình theo đuổi niềm đam mê hội hoạ đã đẩy Đoàn Việt Tiến vào cơn bĩ cực kéo dài. Căn bệnh sốt rét hành hạ liên miên, người anh gầy đen. Anh và gia đình sống cơ cực trong túp lều tranh tồi tàn dưới một vườn cây ảm đạm. Và đỉnh điểm của tấn bi kịch là lúc vợ anh dứt áo ra đi theo tiếng gọi ở một phương trời xa, bỏ lại anh với người mẹ già. Nghèo đói, bệnh tật, tình vợ chồng bị hủy hoại, Đoàn Việt Tiến suy sụp đến mức tưởng như không thể vượt qua. Nhiều trận ốm thập tử nhất sinh đã xảy ra với anh.
Vào đêm 26-3-2003, trong khi miệt mài vẽ tranh để kịp triển lãm, Đoàn Việt Tiến đã bị đuối sức nên đi ngủ sớm. Vừa ngả lưng xuống giường thì toàn thân anh đau nhừ như thể bị hành xác. Thế rồi anh rơi vào trạng thái mê man. Quá nửa đêm bất thần Tiến bật dậy. Anh như kẻ mộng du rồi lao vào vẽ. Kỳ lạ thay đôi tay của anh cứ hành động một cách vô thức. Tay này lấy màu cho tay kia vẽ, trôi chảy như một cỗ máy, mắt chẳng nhìn, đầu chẳng nghĩ, thế mà đường nét vẽ cứ đâu vào đấy. Thấy lạ Tiến liền bỏ đi nằm. Nhưng lưng chưa chạm giường thì bỗng nhiên như có một bàn tay vô hình nào đó đẩy ngược trở lại. Sức mạnh của cú đẩy khiến anh ngã dúi về phía trước. Cả chục lần đều như vậy. Rồi Tiến nhận thấy có luồng ánh sáng lạ ập vào người mình. Đầu óc anh quay cuồng dữ dội mồ hôi vã ra như tắm.
Đến sáng hôm sau anh cảm thấy mình như một con người khác, giọng nói oang oang, đầu óc như chiếc máy tính khổng lồ với vô số dữ liệu. Khi nhắc đến chuyện gì là có hàng loạt những hình ảnh về đề tài đó hiện lên từ vô thức. Người mẹ già của anh không hiểu điều gì xảy ra, cứ bàng hoàng, rụng rời chân tay. Bà thắp hương khấn vái tiên tổ. Kỳ lạ thay, mỗi khi mẹ anh lầm rầm nhắc đến tên của ông, bà, cụ, kỵ... thì trước mắt Tiến hiện lên rõ mồn một gương mặt, dáng dấp, giọng nói, tính cách của một người đó, dù khi anh sinh ra thì các bậc tiền nhân đã là người thiên cổ. Tiến mô tả lại cho mẹ nghe, bà ôm lấy con trai với giọng nghẹn ngào:
- Mày là người nhà Trời rồi, Tiến ơi!
Anh phát hiện ra hai tay mình có thể vẽ cùng một lúc và làm hai việc cùng một thời điểm. Lúc đó anh thực sự hoang mang, lo sợ và đau đớn thể xác. Anh không thể ăn uống được gì và luôn nghe thấy những tiếng nói văng vẳng. Anh lo sợ mình bị hoang tưởng thần kinh, nhưng đi khám sức khoẻ không thấy gì đặc biệt. Anh bắt đầu tập luyện khí công, cảm xạ và thấy đỡ dần. Để tránh sự chú ý của mọi người, bà mẹ khuyên con nên vào ở tại một ngôi chùa. Đoàn Việt Tiến đã xin quy y và được đặt pháp danh là Thiện Thông. Khi vào chùa rồi vẫn có những cơn đau thể xác luôn ập đến. Đêm nào Tiến cũng quằn quại vì đau đớn. Nhiều lần trong cơn mê Tiến nghe tiếng nói vọng về từ cõi xa xăm, rằng hãy kiên trì và chịu đựng một thời gian nữa rồi sẽ có năng lượng.
Qua một trăm ngày bị hành hạ thể xác, sau một cơn mưa giông dữ dội ở Bến Tre, Đoàn Việt Tiến cảm thấy mình hết đau đớn và bắt đầu có khả năng ngoại cảm. Theo anh, quá trình khổ luyện vẽ tranh bằng tay đã giúp bản thân rất nhiều trong việc rèn luyện khả năng tâm trí nhạy cảm của mình. Khả năng ngoại cảm của Đoàn Việt Tiến thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
- Vẽ chân dung người đã mất qua sóng tâm linh.
- Chẩn đoán và chữa bệnh.
- Tìm mộ thất lạc.
Đoàn Việt Tiến có cách giải thích rất độc đáo và bí hiểm về khả năng ngoại cảm của mình. Anh cho biết: Mỗi người đều mang trong mình một hệ gen di truyền. Đó là một tổ hợp gen của nhiều thế hệ từ cha mẹ, ông bà, cụ kỵ... Khi ai đó nhờ tìm mộ thất lạc hoặc vẽ chân dung người thân quá cố, thì anh thu nhận tần số gen di truyền của người đó qua giọng nói. Từ đó tìm ra thông tin về hình ảnh hoặc vị trí chôn cất hài cốt của người quá cố. Làm được như vậy là nhờ gen di truyền, mà gen được các nhiễm sắc thể tạo thành, nhiễm sắc thể bao gồm các phân tử tế bào, phân tử do các nguyên tử hợp lại, và trong mỗi nguyên tử có các hạt mang điện âm (electron) và các hạt mang điện dương (proton).
Chính sự chuyển động của tổ hợp các hạt mang điện đó tạo ra năng lượng sinh học hay trường sinh học của mỗi người. Vì vậy khi nghe một cá nhân nói, anh bắt được tần số sóng năng lượng sinh học của người đó và từ tần số thu được, tâm trí anh xử lý và giải mã số để phát hiện ra những đối tượng cần tìm vì họ có cùng hệ tần số trường sinh học. Khi bắt được tần số sóng, anh phóng năng lượng về hướng đó và thu năng lượng bức xạ trở lại để giải mã theo hệ âm dương. Qua đó anh biết được những thông tin hữu ích cho việc cần giúp đỡ. Chính nhờ phương pháp như vậy mà từ năm 2005 đến nay, Đoàn Việt Tiến đã giúp tìm được khoảng một trăm bộ hài cốt liệt sĩ và vẽ được một số chân dung của những người quá cố không có di ảnh.
ST
Kể từ tháng 3-2003, trong đội ngũ các nhà ngoại cảm Việt Nam có thêm một người vốn là họa sĩ tự học với những khả năng khác thường chưa từng có ở nước ta và có lẽ cả trên thế giới. Đó là Đoàn Việt Tiến, người có biệt tài vẽ chân dung ngược lên kính bằng ngón tay và vẽ chân dung của người đã mất qua tiềm thức của người thân ngồi đối diện.
Đoàn Việt Tiến sinh năm 1961 tại xã Phú Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, hiện nay là thương binh. Ngay từ thời còn là học sinh, cậu bé Tiến đã nổi tiếng là người khéo tay, vẽ giỏi. Phát hiện ra năng khiếu của đứa cháu, người bác ruột là nhà văn Đoàn Giỏi đã tích cực kèm cặp và dạy dỗ Tiến. Năm mười tám tuổi Đoàn Việt Tiến tham gia quân đội. Anh vừa chiến đấu vừa ký hoạ vào những năm tháng ở chiến trường biên giới Tây Nam. Chiến tranh kết thúc, anh trở về với thương tật hạng 3/4 và căn bệnh sốt rét kinh niên. Nhà nghèo lại là lao động chính, mơ ước được vào giảng đường Đại học Mỹ thuật của anh không thực hiện được. Anh quyết định tìm sách và dụng cụ mỹ thuật để tự học nâng cao trình độ dưới sự hướng dẫn của nhà văn Đoàn Giỏi.
Hành trình theo đuổi niềm đam mê hội hoạ đã đẩy Đoàn Việt Tiến vào cơn bĩ cực kéo dài. Căn bệnh sốt rét hành hạ liên miên, người anh gầy đen. Anh và gia đình sống cơ cực trong túp lều tranh tồi tàn dưới một vườn cây ảm đạm. Và đỉnh điểm của tấn bi kịch là lúc vợ anh dứt áo ra đi theo tiếng gọi ở một phương trời xa, bỏ lại anh với người mẹ già. Nghèo đói, bệnh tật, tình vợ chồng bị hủy hoại, Đoàn Việt Tiến suy sụp đến mức tưởng như không thể vượt qua. Nhiều trận ốm thập tử nhất sinh đã xảy ra với anh.
Vào đêm 26-3-2003, trong khi miệt mài vẽ tranh để kịp triển lãm, Đoàn Việt Tiến đã bị đuối sức nên đi ngủ sớm. Vừa ngả lưng xuống giường thì toàn thân anh đau nhừ như thể bị hành xác. Thế rồi anh rơi vào trạng thái mê man. Quá nửa đêm bất thần Tiến bật dậy. Anh như kẻ mộng du rồi lao vào vẽ. Kỳ lạ thay đôi tay của anh cứ hành động một cách vô thức. Tay này lấy màu cho tay kia vẽ, trôi chảy như một cỗ máy, mắt chẳng nhìn, đầu chẳng nghĩ, thế mà đường nét vẽ cứ đâu vào đấy. Thấy lạ Tiến liền bỏ đi nằm. Nhưng lưng chưa chạm giường thì bỗng nhiên như có một bàn tay vô hình nào đó đẩy ngược trở lại. Sức mạnh của cú đẩy khiến anh ngã dúi về phía trước. Cả chục lần đều như vậy. Rồi Tiến nhận thấy có luồng ánh sáng lạ ập vào người mình. Đầu óc anh quay cuồng dữ dội mồ hôi vã ra như tắm.
Đến sáng hôm sau anh cảm thấy mình như một con người khác, giọng nói oang oang, đầu óc như chiếc máy tính khổng lồ với vô số dữ liệu. Khi nhắc đến chuyện gì là có hàng loạt những hình ảnh về đề tài đó hiện lên từ vô thức. Người mẹ già của anh không hiểu điều gì xảy ra, cứ bàng hoàng, rụng rời chân tay. Bà thắp hương khấn vái tiên tổ. Kỳ lạ thay, mỗi khi mẹ anh lầm rầm nhắc đến tên của ông, bà, cụ, kỵ... thì trước mắt Tiến hiện lên rõ mồn một gương mặt, dáng dấp, giọng nói, tính cách của một người đó, dù khi anh sinh ra thì các bậc tiền nhân đã là người thiên cổ. Tiến mô tả lại cho mẹ nghe, bà ôm lấy con trai với giọng nghẹn ngào:
- Mày là người nhà Trời rồi, Tiến ơi!
Anh phát hiện ra hai tay mình có thể vẽ cùng một lúc và làm hai việc cùng một thời điểm. Lúc đó anh thực sự hoang mang, lo sợ và đau đớn thể xác. Anh không thể ăn uống được gì và luôn nghe thấy những tiếng nói văng vẳng. Anh lo sợ mình bị hoang tưởng thần kinh, nhưng đi khám sức khoẻ không thấy gì đặc biệt. Anh bắt đầu tập luyện khí công, cảm xạ và thấy đỡ dần. Để tránh sự chú ý của mọi người, bà mẹ khuyên con nên vào ở tại một ngôi chùa. Đoàn Việt Tiến đã xin quy y và được đặt pháp danh là Thiện Thông. Khi vào chùa rồi vẫn có những cơn đau thể xác luôn ập đến. Đêm nào Tiến cũng quằn quại vì đau đớn. Nhiều lần trong cơn mê Tiến nghe tiếng nói vọng về từ cõi xa xăm, rằng hãy kiên trì và chịu đựng một thời gian nữa rồi sẽ có năng lượng.
Qua một trăm ngày bị hành hạ thể xác, sau một cơn mưa giông dữ dội ở Bến Tre, Đoàn Việt Tiến cảm thấy mình hết đau đớn và bắt đầu có khả năng ngoại cảm. Theo anh, quá trình khổ luyện vẽ tranh bằng tay đã giúp bản thân rất nhiều trong việc rèn luyện khả năng tâm trí nhạy cảm của mình. Khả năng ngoại cảm của Đoàn Việt Tiến thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
- Vẽ chân dung người đã mất qua sóng tâm linh.
- Chẩn đoán và chữa bệnh.
- Tìm mộ thất lạc.
Đoàn Việt Tiến có cách giải thích rất độc đáo và bí hiểm về khả năng ngoại cảm của mình. Anh cho biết: Mỗi người đều mang trong mình một hệ gen di truyền. Đó là một tổ hợp gen của nhiều thế hệ từ cha mẹ, ông bà, cụ kỵ... Khi ai đó nhờ tìm mộ thất lạc hoặc vẽ chân dung người thân quá cố, thì anh thu nhận tần số gen di truyền của người đó qua giọng nói. Từ đó tìm ra thông tin về hình ảnh hoặc vị trí chôn cất hài cốt của người quá cố. Làm được như vậy là nhờ gen di truyền, mà gen được các nhiễm sắc thể tạo thành, nhiễm sắc thể bao gồm các phân tử tế bào, phân tử do các nguyên tử hợp lại, và trong mỗi nguyên tử có các hạt mang điện âm (electron) và các hạt mang điện dương (proton).
Chính sự chuyển động của tổ hợp các hạt mang điện đó tạo ra năng lượng sinh học hay trường sinh học của mỗi người. Vì vậy khi nghe một cá nhân nói, anh bắt được tần số sóng năng lượng sinh học của người đó và từ tần số thu được, tâm trí anh xử lý và giải mã số để phát hiện ra những đối tượng cần tìm vì họ có cùng hệ tần số trường sinh học. Khi bắt được tần số sóng, anh phóng năng lượng về hướng đó và thu năng lượng bức xạ trở lại để giải mã theo hệ âm dương. Qua đó anh biết được những thông tin hữu ích cho việc cần giúp đỡ. Chính nhờ phương pháp như vậy mà từ năm 2005 đến nay, Đoàn Việt Tiến đã giúp tìm được khoảng một trăm bộ hài cốt liệt sĩ và vẽ được một số chân dung của những người quá cố không có di ảnh.
ST
#314
Gửi vào 24/09/2011 - 06:40
NHÀ NGOẠI CẢM DƯƠNG MẠNH HÙNG
Dương Mạnh Hùng ở tại số nhà 35 Lãn Ông, Hà Nội. Anh làm nghề lương y trước và sau khi có khả năng ngoại cảm. Do có thể nhìn thấy hình ảnh và nghe được tiếng nói của vong linh, nên anh đã thu được nhiều thông tin cần thiết từ những người quá cố để phục vụ cho các đề tài nghiên cứu và giúp đỡ mọi người.
Năm hai mươi tuổi, Dương Mạnh Hùng đã ở vào trạng thái tường là chết sau một cơn sốt cao. Người nhà rất đau buồn, nhưng rồi cũng phải khâm liệm (vẫn còn lưu giữ những bức ảnh về điều này). Một bác ở quê ra muộn, nên định lật tờ giấy bản để nhìn mặt đứa cháu lần cuối. Bỗng ông giật mình vì thấy tờ giấy lay động. Tất cả những người có mặt vừa mừng, vừa hoảng hốt. Mấy người họ hàng khẩn cấp đưa anh vào bệnh viện Việt Đức để hồi sức cấp cứu. Sau đó anh tỉnh lại và dần dần bình phục sức khoẻ.
Đến thế hệ Dương Mạnh Hùng thì gia đình anh đã có bốn đời làm nghề thuốc, cả bên nội và bên ngoại. Cụ anh nguyên là Ngự y Triều đình Huế, đã từng chữa bệnh cho bà Từ Dũ và được bà tặng một giò hoa Lan, đến bây giờ vẫn còn sống. Bố Dương Mạnh Hùng quyết định truyền nghề thuốc cho anh, gồm cả Nho, Y, Lý, Số. Anh vừa học trường Mỹ thuật Công nghiệp, vừa học trường Tuệ Tĩnh.
Sự kiện ngoại cảm ở Dương Mạnh Hùng đã xảy ra một cách bất ngờ. Một hôm, khi bắt mạch cho một người bệnh, tự nhiên anh nói vanh vách về ông ta cùng thân nhân, gia cảnh... Người bệnh ngạc nhiên vô cùng. Bản thân anh còn ngạc nhiên hơn, bởi vì từ đó trở đi có rất nhiều lần (không phải là tất cả), mỗi khi bắt mạch chữa bệnh là anh lại nghe thấy những tiếng vọng khi mờ khi tỏ. Có khi còn nhìn thấy hình người qua làn khói thuốc lá của mình và nói ra tên người đó. Nếu gia đình bệnh nhân có sự cố gì đặc biệt như mất mộ, gia đình có người điên, vợ chồng bất hòa... thì thông tin đến với anh rất rõ. Lúc đầu Dương Mạnh Hùng cứ ngỡ mình nằm mơ, khi lấy cốc nước nóng áp lên má vẫn thấy có cảm giác mới tin là thật. Nhưng anh không dám tự nghiên cứu bản thân mình. Càng biết thêm lĩnh vực nào (như thiền, phong thủy), anh càng thấy sợ bởi thông tin về quá khứ, hiện tại và tương lai của người bệnh cứ hiện rõ ra, trừ khi cơ thể anh không được khoẻ.
Nhưng anh vẫn xác định chữa bệnh là chính, có biết thêm điều gì thì chỉ để hỗ trợ cho việc chữa bệnh, để hoàn thiện thêm ý nguyện làm phúc cho mọi người. Làm phúc cho mọi người đến đâu thì làm, không thể lạm dụng kiếm tiền để rồi con cái phải trả nợ suốt đời không hết. Bố anh thường dặn: việc chữa bệnh cứu người phải là Vương đạo, chứ không thể là Bá đạo.
Một sự kiện ngoại cảm mà có lẽ Dương Mạnh Hùng sẽ nhớ suốt đời đã xảy ra vào khoảng năm 1980. Lần đó anh vào Thành Phố Sài Gòn để thăm người bạn. Tự nhiên anh thấy hình ảnh tâm linh của một người lính mặc đồ rằn ri hiện ra. Dương Mạnh Hùng nghe anh ta nói:
- Tôi là Nguyễn Hoài Nhơn, nhờ anh đưa về nhà tôi ở phố Cộng Hòa.
Anh hỏi Nhơn:
- Người nhà anh tên gì? Số nhà bao nhiêu?
- Chị tôi là Nguyễn Thị Cúc, số nhà 256/2.
Rồi hình ảnh tâm linh biến mất. Sáng hôm sau, Dương Mạnh Hùng đi tìm theo chỉ dẫn của Nhơn. Nhưng phố Cộng Hòa bây giờ đã đổi tên, anh hỏi thăm mãi mới tới. Đúng là có chị Cúc. Chị dè dặt hỏi anh đến có việc gì. Dương Mạnh Hùng hỏi lại:
- Chị có em tên là Nhơn phải không?
- Có, nhưng đã chết rồi.
- Tôi muốn báo tin về anh Nhơn.
Lúc này chị Cúc mới mời Dương Mạnh Hùng vào nhà. Anh bắt mạch cho chị Cúc thì Nhơn lại xuất hiện. Anh hỏi Nhơn là có phải chị Cúc ở đây không thì được xác nhận là đúng, rồi Nhơn đặt tay lên vai chị mình (anh nhìn thấy). Rồi Nhơn kể là mình bị chết trận ở Chu Lai, nằm trong vườn dừa nhà Út Tám như thế nào. Dương Mạnh Hùng nói lại cho chị Cúc nghe, chị khóc và nhờ anh tìm mộ em mình. Lại theo chỉ dẫn của chính Nhơn, anh đã tìm thấy hài cốt của Nhơn có phủ tăng dưới gốc cây dừa cùng với đôi giầy còn nguyên.
Hiện nay Dương Mạnh Hùng là cộng tác viên tích cực của bộ môn Cận tâm lý thuộc Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người. Anh tham gia nhiều đề tài nghiên cứu, trong đó đáng chú ý là đề tài TK.08 xác định tên liệt sĩ trên một vô danh, mà thực chất là dựa vào những cuộc giao tiếp với các vong linh, để xác định danh tính của họ và thẩm định thông tin thu được qua những người thân quen còn sống, do chính các liệt sĩ cung cấp. Khả năng nhìn thấy hình ảnh và nghe được tiếng nói vong linh của Dương Mạnh Hùng và một số nhà ngoại cảm khác, còn có thể giúp cho các nhà khoa học tiến hành những cuộc thực nghiệm lý thú và hữu ích, để có thêm căn cứ khẳng định sự tồn tại của thế giới tâm linh song song với thế giới chúng ta.
ST
Dương Mạnh Hùng ở tại số nhà 35 Lãn Ông, Hà Nội. Anh làm nghề lương y trước và sau khi có khả năng ngoại cảm. Do có thể nhìn thấy hình ảnh và nghe được tiếng nói của vong linh, nên anh đã thu được nhiều thông tin cần thiết từ những người quá cố để phục vụ cho các đề tài nghiên cứu và giúp đỡ mọi người.
Năm hai mươi tuổi, Dương Mạnh Hùng đã ở vào trạng thái tường là chết sau một cơn sốt cao. Người nhà rất đau buồn, nhưng rồi cũng phải khâm liệm (vẫn còn lưu giữ những bức ảnh về điều này). Một bác ở quê ra muộn, nên định lật tờ giấy bản để nhìn mặt đứa cháu lần cuối. Bỗng ông giật mình vì thấy tờ giấy lay động. Tất cả những người có mặt vừa mừng, vừa hoảng hốt. Mấy người họ hàng khẩn cấp đưa anh vào bệnh viện Việt Đức để hồi sức cấp cứu. Sau đó anh tỉnh lại và dần dần bình phục sức khoẻ.
Đến thế hệ Dương Mạnh Hùng thì gia đình anh đã có bốn đời làm nghề thuốc, cả bên nội và bên ngoại. Cụ anh nguyên là Ngự y Triều đình Huế, đã từng chữa bệnh cho bà Từ Dũ và được bà tặng một giò hoa Lan, đến bây giờ vẫn còn sống. Bố Dương Mạnh Hùng quyết định truyền nghề thuốc cho anh, gồm cả Nho, Y, Lý, Số. Anh vừa học trường Mỹ thuật Công nghiệp, vừa học trường Tuệ Tĩnh.
Sự kiện ngoại cảm ở Dương Mạnh Hùng đã xảy ra một cách bất ngờ. Một hôm, khi bắt mạch cho một người bệnh, tự nhiên anh nói vanh vách về ông ta cùng thân nhân, gia cảnh... Người bệnh ngạc nhiên vô cùng. Bản thân anh còn ngạc nhiên hơn, bởi vì từ đó trở đi có rất nhiều lần (không phải là tất cả), mỗi khi bắt mạch chữa bệnh là anh lại nghe thấy những tiếng vọng khi mờ khi tỏ. Có khi còn nhìn thấy hình người qua làn khói thuốc lá của mình và nói ra tên người đó. Nếu gia đình bệnh nhân có sự cố gì đặc biệt như mất mộ, gia đình có người điên, vợ chồng bất hòa... thì thông tin đến với anh rất rõ. Lúc đầu Dương Mạnh Hùng cứ ngỡ mình nằm mơ, khi lấy cốc nước nóng áp lên má vẫn thấy có cảm giác mới tin là thật. Nhưng anh không dám tự nghiên cứu bản thân mình. Càng biết thêm lĩnh vực nào (như thiền, phong thủy), anh càng thấy sợ bởi thông tin về quá khứ, hiện tại và tương lai của người bệnh cứ hiện rõ ra, trừ khi cơ thể anh không được khoẻ.
Nhưng anh vẫn xác định chữa bệnh là chính, có biết thêm điều gì thì chỉ để hỗ trợ cho việc chữa bệnh, để hoàn thiện thêm ý nguyện làm phúc cho mọi người. Làm phúc cho mọi người đến đâu thì làm, không thể lạm dụng kiếm tiền để rồi con cái phải trả nợ suốt đời không hết. Bố anh thường dặn: việc chữa bệnh cứu người phải là Vương đạo, chứ không thể là Bá đạo.
Một sự kiện ngoại cảm mà có lẽ Dương Mạnh Hùng sẽ nhớ suốt đời đã xảy ra vào khoảng năm 1980. Lần đó anh vào Thành Phố Sài Gòn để thăm người bạn. Tự nhiên anh thấy hình ảnh tâm linh của một người lính mặc đồ rằn ri hiện ra. Dương Mạnh Hùng nghe anh ta nói:
- Tôi là Nguyễn Hoài Nhơn, nhờ anh đưa về nhà tôi ở phố Cộng Hòa.
Anh hỏi Nhơn:
- Người nhà anh tên gì? Số nhà bao nhiêu?
- Chị tôi là Nguyễn Thị Cúc, số nhà 256/2.
Rồi hình ảnh tâm linh biến mất. Sáng hôm sau, Dương Mạnh Hùng đi tìm theo chỉ dẫn của Nhơn. Nhưng phố Cộng Hòa bây giờ đã đổi tên, anh hỏi thăm mãi mới tới. Đúng là có chị Cúc. Chị dè dặt hỏi anh đến có việc gì. Dương Mạnh Hùng hỏi lại:
- Chị có em tên là Nhơn phải không?
- Có, nhưng đã chết rồi.
- Tôi muốn báo tin về anh Nhơn.
Lúc này chị Cúc mới mời Dương Mạnh Hùng vào nhà. Anh bắt mạch cho chị Cúc thì Nhơn lại xuất hiện. Anh hỏi Nhơn là có phải chị Cúc ở đây không thì được xác nhận là đúng, rồi Nhơn đặt tay lên vai chị mình (anh nhìn thấy). Rồi Nhơn kể là mình bị chết trận ở Chu Lai, nằm trong vườn dừa nhà Út Tám như thế nào. Dương Mạnh Hùng nói lại cho chị Cúc nghe, chị khóc và nhờ anh tìm mộ em mình. Lại theo chỉ dẫn của chính Nhơn, anh đã tìm thấy hài cốt của Nhơn có phủ tăng dưới gốc cây dừa cùng với đôi giầy còn nguyên.
Hiện nay Dương Mạnh Hùng là cộng tác viên tích cực của bộ môn Cận tâm lý thuộc Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người. Anh tham gia nhiều đề tài nghiên cứu, trong đó đáng chú ý là đề tài TK.08 xác định tên liệt sĩ trên một vô danh, mà thực chất là dựa vào những cuộc giao tiếp với các vong linh, để xác định danh tính của họ và thẩm định thông tin thu được qua những người thân quen còn sống, do chính các liệt sĩ cung cấp. Khả năng nhìn thấy hình ảnh và nghe được tiếng nói vong linh của Dương Mạnh Hùng và một số nhà ngoại cảm khác, còn có thể giúp cho các nhà khoa học tiến hành những cuộc thực nghiệm lý thú và hữu ích, để có thêm căn cứ khẳng định sự tồn tại của thế giới tâm linh song song với thế giới chúng ta.
ST
#315
Gửi vào 24/09/2011 - 07:12
NGOẠI CẢM LÊN RADIO MỸ
Chuyện tìm mộ bằng phương pháp ngoại cảm tại Việt Nam đã được tường thuật trên hệ thống NPR (hệ thống truyền thanh công cộng quốc gia của Mỹ). Các giới chức Hoa Kỳ vẫn còn đang tìm kiếm hài cốt của khoảng một ngàn năm trăm binh sĩ Mỹ mất tích trong cuộc chiến tại Việt Nam. Chính phủ Việt Nam nói rằng, họ vẫn không thể tìm được hài cốt của khoảng ba trăm ngàn bộ đội nước họ. Hơn ba mươi năm đã trôi qua, người Việt đang quay sang những phương cách khác thường để tìm kiếm quân nhân mất tích.
Mỗi tối chủ nhật, truyền hinh Việt Nam có chương trình nhắn tìm đồng đội. Đây là một chương trình giúp cho người dân tìm kiếm hài cốt của các bộ đội Bắc Việt mất tích trong cuộc chiến Việt Nam. Chương trình chiếu hình ảnh của các chiến binh mất tích. Những gương mặt tươi trẻ trong những tấm hình trắng đen từ thập niên 1960. Xướng ngôn viên chương trình đọc tên của từng chiến binh, quê quán, thời điểm và nơi chốn chiến binh tử trận và kết thúc với lời kêu gọi: Ai biết tin tức nơi chôn cất của các liệt sĩ này, xin liên lạc về địa chỉ. Cho đến gần đây, khán giả thường cung cấp tin tức và quân đội dựa vào đó để tìm kiếm hài cốt của các chiến binh. Nhưng cuộc chiến đã kết thúc quá lâu và những manh mối đang lụi tàn dần. Điều này giải thích tại sao một giáo sư đại học khả kính tại Hà Nội, ông Hàng, đã thực hiện một điều mà ông không thể tưởng tượng nổi cách đây vài năm. Ông và gia đình đã nhờ một nhà ngoại cảm tìm kiếm manh mối hài cốt cùa em ông.
Ông Hàng cho biết:
- Em tôi và tôi trước đây chưa bao giờ tin tưởng vào những chuyện nhảm nhí như vậy!
Câu chuyện của vị giáo sư thật ly kỳ. Ông điều hành một trung tâm dạy tiếng Anh cho các viên chức nhà nước tại trường đại học. Ông Hàng và người em cùng là bộ đội Bắc Việt, người em chết năm 1970 chỉ một năm sau khi nhập ngũ. Đó là tất cả tin tức mà gia đình có được và quân đội vẫn chưa tìm thấy hài cốt của em ông. Ông Hàng cho biết là gia đình ông luôn cảm thấy bất an vì em ông chưa được mồ yên mả đẹp.
Ông nói:
- Vì thế gần ba mươi năm nay, ba tôi đến tất cả nghĩa trang viếng thăm từng ngôi mộ để xem có tên em tôi hay không. Em tôi vẫn biệt tích.
Gần đây, ông Hàng đã gặp được một nhà ngoại cảm tên là Phan thị Bích Hằng, người này rất nổi tiếng trong việc tỉm mộ liệt sĩ. Cô cùng toàn bộ gia đình ông Hàng tụ họp trước bàn thờ gia đình của người cha. Nhiều gia đình Việt Nam có bàn thờ trong nhà, đó là một nơi thờ Phật và tổ tiên, thường được trang hoàng sáng sủa với những bình hoa tươi, đĩa trái cây và rượu đế. Các thành viên trong gia đình thường tụ họp trước bàn thờ để giao tiếp với người thân đã khuất. Trong ngày đó, có sự hiện diện của song thân ông Hàng, vợ và con trai, cùng cô em dâu là góa phụ của người liệt sĩ và nhà ngoại cảm (NNC).
- Cha tôi đưa tấm hình của em tôi cho NNC, sau đó NNC cho biết cô có thể nói chuyện với vong em tôi. Chúng tôi tụ họp lại, tò mò lắng nghe xem NNC nói gì. Ông Hàng nhớ lại.
NNC chỉ đơn giản thắp nhang, chăm chú nhìn bức hình của người em quá cố và đột ngột bắt đầu nói chuyện với vong linh. Ông Hàng cho biết việc đó không có vẻ đồng bóng chút nào. NNC trông như một nhân viên kế toán bình thường, công việc hàng ngày của cô. Ông Hàng cho biết người em quá cố của ông bắt đấu nói chuyện qua NNC. Vong linh người em kể rằng: Sau khi chết năm 1970, dân làng đã chôn xác mình trong ngôi mộ vô danh ở một nghĩa trang cách xa hàng trăm cây số. Vong linh người em diễn tả rất chi tiết, cho biết tên nghĩa trang và thuộc thành phố nào. Thế là cả nhà ông Hàng dồn vào một chiếc xe ô tô mượn từ trường đại học và đi tới nghĩa trang đó để tìm mộ người em. NNC cũng đi cùng với họ.
Ông Hàng cho biết có hơn một ngàn mộ trong nghĩa trang, nhưng NNC đi thẳng đến một dãy mộ vô danh, chỉ vào một ngôi mộ và nói:
- Đây là ngôi mộ của em bác.
Ông Hàng vô cùng kinh ngạc. Ông cho biết:
- Trước khi đi, NNC đã mô tả chi tiết ngôi mộ, chúng tôi nhận ra ngay lập tức.
Có một chút lẫn lộn đã xảy ra. Gia đình ông Hàng cảm thấy bối rối vì khi nói chuyện với vong linh tại Hà Nội, vong em ông cho biết là hài cốt nằm trong ngôi mộ thứ ba thuộc dãy mộ vô danh, còn bây giờ ngay tại nghĩa trang thì họ cảm thấy ngôi mộ thứ tư mới là đúng theo mô tả trước đây. Vì thế, NNC liền yêu cầu vong linh cho biết lý do. Và vong linh người em đã giải thích sự lẫn lộn qua NNC. Vong linh nói rằng: lúc đầu cho gia đình biết là hài cốt được chôn ở mộ thứ ba vì vong linh chỉ tính mộ của những bộ đội thôi, còn ngôi mộ đầu là mộ của một thiếu nữ trong làng, vì thế không tính đến. Ông Hàng cho biết lời giải thích như vậy cũng tạm thuyết phục được gia đình là họ đang đứng đúng ngôi mộ của người em. Nhưng họ muốn xác định chắc chắn.
Ông Hàng cho biết:
- Chúng tôi muốn kiểm tra, một trong những cách kiểm tra là cắm một chiếc đũa ngay tại mộ, lấy một quả trứng đặt lên trên chiếc đũa. Đầu đũa rất nhỏ, bạn có thể thử nhiều lần để đặt quả trứng lên đầu chiếc đũa, việc làm này không dễ với một người bình thường. Nhưng nếu hài cốt trong mộ là người thân của bạn thì bạn có thể làm được điều đó dễ dàng. Vì thế, ba tôi năm nay đã bảy mươi lăm tuổi, với đôi bàn tay run rẩy đã đặt quả trứng lên đầu chiếc đũa và quả thật, quả trứng đứng yên trên đầu đũa.
Gia đình ông Hàng đã tiến hành bốc mộ với sự giúp đỡ của giới chức quân đôi. Ông Hàng cho biết, gia đình ông không mang hài cốt đi thử để xác định đúng là của em ông hay không, vì điều đó không cần thiết. Họ tin là mình đả tìm đúng hài cốt người thân. Họ mang hài cốt về Hà Nội, cùng với bạn bè, bà con thân thích đã cử hành nghi thức an táng tại một phần mộ đẹp đẻ trong nghĩa trang liệt sĩ.
Ông Hàng kể tiếp:
- Tôi không biết phải diễn tả ra sao. Về cảm xúc, cái chết của em tôi vốn là một tin buồn, nhưng trong năm mới này, niềm vui sẽ đến với gia đình tôi. Tôi tin rằng qua việc tìm thấy mộ em tôi, ba tôi có thể thọ thêm mười, mười lăm năm nữa. Tôi có thể nhìn thấy niềm vui ánh lên trong đôi mắt của cha mẹ tôi trong năm mới này. Chúng tôi đã đợi chờ hơn ba mươi năm mới tìm thấy em tôi!
Giới chức Việt Nam cho biết họ vẫn tìm kiếm hài cốt của hàng trăm ngàn bộ đội, họ đang tài trợ cho một đề tài nghiên cứu để xác định khả năng tìm mộ liệt sĩ của các nhà ngoại cảm. Một chủ nhiệm đề tài nghiên cứu cho biết rằng, các NNC đã tìm kiếm hơn hai ngàn bộ đội mất tích năm ngoái và đã tìm thấy hài cốt của 70% trong số đó.
KHT
Chuyện tìm mộ bằng phương pháp ngoại cảm tại Việt Nam đã được tường thuật trên hệ thống NPR (hệ thống truyền thanh công cộng quốc gia của Mỹ). Các giới chức Hoa Kỳ vẫn còn đang tìm kiếm hài cốt của khoảng một ngàn năm trăm binh sĩ Mỹ mất tích trong cuộc chiến tại Việt Nam. Chính phủ Việt Nam nói rằng, họ vẫn không thể tìm được hài cốt của khoảng ba trăm ngàn bộ đội nước họ. Hơn ba mươi năm đã trôi qua, người Việt đang quay sang những phương cách khác thường để tìm kiếm quân nhân mất tích.
Mỗi tối chủ nhật, truyền hinh Việt Nam có chương trình nhắn tìm đồng đội. Đây là một chương trình giúp cho người dân tìm kiếm hài cốt của các bộ đội Bắc Việt mất tích trong cuộc chiến Việt Nam. Chương trình chiếu hình ảnh của các chiến binh mất tích. Những gương mặt tươi trẻ trong những tấm hình trắng đen từ thập niên 1960. Xướng ngôn viên chương trình đọc tên của từng chiến binh, quê quán, thời điểm và nơi chốn chiến binh tử trận và kết thúc với lời kêu gọi: Ai biết tin tức nơi chôn cất của các liệt sĩ này, xin liên lạc về địa chỉ. Cho đến gần đây, khán giả thường cung cấp tin tức và quân đội dựa vào đó để tìm kiếm hài cốt của các chiến binh. Nhưng cuộc chiến đã kết thúc quá lâu và những manh mối đang lụi tàn dần. Điều này giải thích tại sao một giáo sư đại học khả kính tại Hà Nội, ông Hàng, đã thực hiện một điều mà ông không thể tưởng tượng nổi cách đây vài năm. Ông và gia đình đã nhờ một nhà ngoại cảm tìm kiếm manh mối hài cốt cùa em ông.
Ông Hàng cho biết:
- Em tôi và tôi trước đây chưa bao giờ tin tưởng vào những chuyện nhảm nhí như vậy!
Câu chuyện của vị giáo sư thật ly kỳ. Ông điều hành một trung tâm dạy tiếng Anh cho các viên chức nhà nước tại trường đại học. Ông Hàng và người em cùng là bộ đội Bắc Việt, người em chết năm 1970 chỉ một năm sau khi nhập ngũ. Đó là tất cả tin tức mà gia đình có được và quân đội vẫn chưa tìm thấy hài cốt của em ông. Ông Hàng cho biết là gia đình ông luôn cảm thấy bất an vì em ông chưa được mồ yên mả đẹp.
Ông nói:
- Vì thế gần ba mươi năm nay, ba tôi đến tất cả nghĩa trang viếng thăm từng ngôi mộ để xem có tên em tôi hay không. Em tôi vẫn biệt tích.
Gần đây, ông Hàng đã gặp được một nhà ngoại cảm tên là Phan thị Bích Hằng, người này rất nổi tiếng trong việc tỉm mộ liệt sĩ. Cô cùng toàn bộ gia đình ông Hàng tụ họp trước bàn thờ gia đình của người cha. Nhiều gia đình Việt Nam có bàn thờ trong nhà, đó là một nơi thờ Phật và tổ tiên, thường được trang hoàng sáng sủa với những bình hoa tươi, đĩa trái cây và rượu đế. Các thành viên trong gia đình thường tụ họp trước bàn thờ để giao tiếp với người thân đã khuất. Trong ngày đó, có sự hiện diện của song thân ông Hàng, vợ và con trai, cùng cô em dâu là góa phụ của người liệt sĩ và nhà ngoại cảm (NNC).
- Cha tôi đưa tấm hình của em tôi cho NNC, sau đó NNC cho biết cô có thể nói chuyện với vong em tôi. Chúng tôi tụ họp lại, tò mò lắng nghe xem NNC nói gì. Ông Hàng nhớ lại.
NNC chỉ đơn giản thắp nhang, chăm chú nhìn bức hình của người em quá cố và đột ngột bắt đầu nói chuyện với vong linh. Ông Hàng cho biết việc đó không có vẻ đồng bóng chút nào. NNC trông như một nhân viên kế toán bình thường, công việc hàng ngày của cô. Ông Hàng cho biết người em quá cố của ông bắt đấu nói chuyện qua NNC. Vong linh người em kể rằng: Sau khi chết năm 1970, dân làng đã chôn xác mình trong ngôi mộ vô danh ở một nghĩa trang cách xa hàng trăm cây số. Vong linh người em diễn tả rất chi tiết, cho biết tên nghĩa trang và thuộc thành phố nào. Thế là cả nhà ông Hàng dồn vào một chiếc xe ô tô mượn từ trường đại học và đi tới nghĩa trang đó để tìm mộ người em. NNC cũng đi cùng với họ.
Ông Hàng cho biết có hơn một ngàn mộ trong nghĩa trang, nhưng NNC đi thẳng đến một dãy mộ vô danh, chỉ vào một ngôi mộ và nói:
- Đây là ngôi mộ của em bác.
Ông Hàng vô cùng kinh ngạc. Ông cho biết:
- Trước khi đi, NNC đã mô tả chi tiết ngôi mộ, chúng tôi nhận ra ngay lập tức.
Có một chút lẫn lộn đã xảy ra. Gia đình ông Hàng cảm thấy bối rối vì khi nói chuyện với vong linh tại Hà Nội, vong em ông cho biết là hài cốt nằm trong ngôi mộ thứ ba thuộc dãy mộ vô danh, còn bây giờ ngay tại nghĩa trang thì họ cảm thấy ngôi mộ thứ tư mới là đúng theo mô tả trước đây. Vì thế, NNC liền yêu cầu vong linh cho biết lý do. Và vong linh người em đã giải thích sự lẫn lộn qua NNC. Vong linh nói rằng: lúc đầu cho gia đình biết là hài cốt được chôn ở mộ thứ ba vì vong linh chỉ tính mộ của những bộ đội thôi, còn ngôi mộ đầu là mộ của một thiếu nữ trong làng, vì thế không tính đến. Ông Hàng cho biết lời giải thích như vậy cũng tạm thuyết phục được gia đình là họ đang đứng đúng ngôi mộ của người em. Nhưng họ muốn xác định chắc chắn.
Ông Hàng cho biết:
- Chúng tôi muốn kiểm tra, một trong những cách kiểm tra là cắm một chiếc đũa ngay tại mộ, lấy một quả trứng đặt lên trên chiếc đũa. Đầu đũa rất nhỏ, bạn có thể thử nhiều lần để đặt quả trứng lên đầu chiếc đũa, việc làm này không dễ với một người bình thường. Nhưng nếu hài cốt trong mộ là người thân của bạn thì bạn có thể làm được điều đó dễ dàng. Vì thế, ba tôi năm nay đã bảy mươi lăm tuổi, với đôi bàn tay run rẩy đã đặt quả trứng lên đầu chiếc đũa và quả thật, quả trứng đứng yên trên đầu đũa.
Gia đình ông Hàng đã tiến hành bốc mộ với sự giúp đỡ của giới chức quân đôi. Ông Hàng cho biết, gia đình ông không mang hài cốt đi thử để xác định đúng là của em ông hay không, vì điều đó không cần thiết. Họ tin là mình đả tìm đúng hài cốt người thân. Họ mang hài cốt về Hà Nội, cùng với bạn bè, bà con thân thích đã cử hành nghi thức an táng tại một phần mộ đẹp đẻ trong nghĩa trang liệt sĩ.
Ông Hàng kể tiếp:
- Tôi không biết phải diễn tả ra sao. Về cảm xúc, cái chết của em tôi vốn là một tin buồn, nhưng trong năm mới này, niềm vui sẽ đến với gia đình tôi. Tôi tin rằng qua việc tìm thấy mộ em tôi, ba tôi có thể thọ thêm mười, mười lăm năm nữa. Tôi có thể nhìn thấy niềm vui ánh lên trong đôi mắt của cha mẹ tôi trong năm mới này. Chúng tôi đã đợi chờ hơn ba mươi năm mới tìm thấy em tôi!
Giới chức Việt Nam cho biết họ vẫn tìm kiếm hài cốt của hàng trăm ngàn bộ đội, họ đang tài trợ cho một đề tài nghiên cứu để xác định khả năng tìm mộ liệt sĩ của các nhà ngoại cảm. Một chủ nhiệm đề tài nghiên cứu cho biết rằng, các NNC đã tìm kiếm hơn hai ngàn bộ đội mất tích năm ngoái và đã tìm thấy hài cốt của 70% trong số đó.
KHT
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
![]() Trưởng c.an huyện du lịch ven biển |
Tử Vi | Kimthuy20212054 |
|
![]()
|
|
![]() Suy nghĩ với hỗn hợp nhiều môn huyền học cho lá số VNXHCN |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
![]() |
|
![]() NGŨ BỘ CHÚ - QUÁN ÂM - Huyền Thanh dịch |
Sách Huyền Thuật | administrator |
|
![]() |
|
![]() ![]() Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
![]() |
|
![]() ![]() những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
![]() |
|
![]() Câu chuyện hy hữu mà có trên đời nầy |
Nguồn Sống Tươi Đẹp | Đinh Văn Tân |
|
![]()
|
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












