Jump to content

Advertisements




Truyện ngắn huyền bí - hiendde


1072 replies to this topic

#316 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/09/2011 - 07:55

MẠC GIA THƯ KIẾM

Một sáng nọ, tôi đang ngồi uống cà phê ngoài vườn thì bà giúp việc mang tới một bức thư, nói người ta đưa từ chiều hôm qua nhưng quên mất. Bà vẫn quên như vậy, có khi mấy ngày liền. Vì thư nhiều và thường chẳng có gì đặc biệt nên tôi không giận.

Bức thư viết:

“Thưa ông,

Mọi người sẽ cho rằng câu chuyện Tiểu Ái ông in ở tạp chí Nhà Văn tháng trước là chuyện bịa như hầu hết những truyện ngắn khác xưa nay. Nhưng tôi thì tôi tin từng chữ ông viết. Đừng hỏi vì sao. Cũng đừng nghĩ tôi điên. Tôi từng là nhà khảo cổ học, hàng chục năm chuyên nghiên cứu điển tích Trung Quốc, thậm chí có thể cung cấp thêm một số chi tiết liên quan đến Tiểu ái. Nếu muốn, ông còn được tận mắt nhìn thấy ở nhà tôi một trong hai chiếc kiếm của Can Tương, mà tôi nghĩ một người như ông không thể chưa nghe nói đến. Hân hạnh được đón ông”.

Cuối thư có chữ ký của người viết là Cao Kiêm Ngạc, và địa chỉ.

- Chuyện gì vậy?

Vợ tôi lúc ấy ngồi bên, hỏi khi thấy tôi đặt bức thư xuống bàn, mặt bần thần.

- Một ông điên nào đó nhận xét truyện Tiểu ái. Bây giờ nhiều người điên thật. Nghe nói riêng ở Hà Nội đã hơn mười nghìn. Vợ tôi cầm bức thư đọc qua rồi đứng dậy sửa soạn đi làm.

- Ừ, điên thật. Có lẽ ông cũng là một trong con số mười nghìn kia!

Có nhiều truyền thuyết khác nhau về hai thanh kiếm nổi tiếng Can Tương, Mạc Gia, hay còn gọi Hùng kiếm (kiếm ông) và Thư kiếm (kiếm bà). Theo Đông Chu Liệt Quốc thì Can Tương là thợ kim khí giỏi của nước Ngô. Một lần, vua Ngô lúc ấy là Hạp Lư sai ông đúc một thanh kiếm thật tốt, thật quí. Ông cho mở lò ngay trước cửa Tượng Môn, rồi chọn giờ tốt, sai ba trăm đồng nam, đồng nữ ngày đêm túc trực đốt than bên lò, nhưng đốt ba tháng liền mà vàng và sắt vẫn không chảy. Ông buồn lắm, vì biết để đúc kiếm tốt, ngoài kim khí cần có thêm “nhân khí”, tức là thần linh muốn được tế bằng người sống, mà phải người cao quí, thân thích. Ông nghĩ ngay tới Mạc Gia, vợ ông. Trước kia người thầy của ông cũng phải bắt vợ mình hy sinh như vậy. Theo đạo lý tòng phu, trung quân, cuối cùng Mạc Gia chấp nhận. Bà tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới rồi nhảy vào lò lửa đang cháy rừng rực. Quả một lúc sau sắt và vàng đều chảy, Can Tương đem đúc được hai thanh kiếm tốt.

Thanh đúc trước đặt tên là Can Tương, có màu sáng trắng. Thanh sau nhỏ hơn chút ít, màu xanh nhạt buồn buồn, gọi là Mạc Gia. Cả hai đều rất sắc, đến mức con ruồi vô ý đậu lên lưỡi sẽ bị cắt làm đôi. Ông đem thanh đúc trước dâng lên vua Ngô, được vua tặng một trăm nén vàng. Sau này có người mách còn thanh nữa, vua cho quân đến lấy. Can Tương không chịu, rút kiếm Mạc Gia định chống trả. Thanh kiếm bỗng hóa thành con rồng xanh. Ông cưỡi lên lưng rồng rồi bay mất, từ đấy không tin tức gì nữa. Đến đời nhà Tấn, tức khoảng sáu trăm năm sau, huyện lệnh Phong Thành là Lôi Hoán ngẫu nhiên đào được cái rương bằng đá dài sáu thước, rộng ba thước, mở ra thấy hai thanh kiếm cổ, lấy đất ở núi Tây Sơn mà đánh thì một thanh sáng chói, thanh kia màu lam nhạt. Trên kiếm, chỗ sát tay cầm có ghi hai chữ Can Tương và Mạc Gia. Ông đem thanh Hùng kiếm tặng thừa tướng Trương Hoa. Một hôm hai người mang kiếm báu đi chơi, đến bến Diên Bình Tây thì bỗng nhiên cả hai thanh kiếm nhảy xuống sông, biến thành hai con rồng ngũ sắc. Từ đấy không ai biết gì thêm về hai thanh Can Tương và Mạc Gia.

Sách Liệt Dị Truyện, tương truyền của Tào Phi, thì chép như sau: “Can Tương rèn kiếm cho vua Sở ba năm mới xong. Ông dâng Thư kiếm cho vua, còn Hùng kiếm thì dấu đi, bảo vợ: "Ta giấu kiếm ở phía bắc Nam Sơn, phía đông Bắc Sơn, cạnh cây tùng mọc trên đá. Nếu vua biết mà giết ta, và nếu mình sinh con trai thì hãy bảo nó tới đấy lấy kiếm mà trả thù". Quả nhiên vua biết chuyện, giết Can Tương. Mạc Gia sinh con trai, đặt tên là Xích Tỵ. Lớn lên, Tỵ đào bới khắp nơi, chặt hết cả tùng bách ở Nam Sơn và Bắc Sơn vẫn không thấy kiếm đâu, sau tình cờ đào dưới cột nhà mình lại thấy. Vua Sở chiêm bao có người muốn hại mình, bèn sai quân đến giết Xích Tỵ. Tỵ trốn vào núi Chu Hưng, gặp được người đồng ý giúp chàng báo thù cho cha. Theo kế, Tỵ dùng Mạc Gia thư kiếm tự cắt đầu mình, đưa cho người ấy mang vào cung nộp vua Sở. Vua sai ném vào vạc dầu, nhưng nấu ba ngày đêm đầu Tỵ vẫn không chìm.

Thấy lạ vua ghé lại xem, liền bị người kia dùng kiếm chém đầu rơi xuống vạc, rồi ông ta cũng tự cắt đầu mình ném vào đó. Một lúc sau cả ba đầu đều chìm, da thịt tróc hết, không phân biệt được của ai là cái nào. Người ta đành đem cả ba chôn chung một mộ, gọi là mộ ba vua. Văn hào Lỗ Tấn về sau dựa trên tích này viết truyện ngắn “Luyện Kiếm” nổi tiếng của ông. Cuốn “Sưu Thần Ký” của Can Bảo đời Tấn, cuốn “Sở Vương Trù Kiếm Ký” của Triệu Hoa đời Hậu Hán và chắc còn nhiều cuốn khác mà tôi không biết cũng nhắc đến hai thanh kiếm Can Tương và Mạc Gia. Tất cả chỉ là những truyền thuyết, người ta đọc như đọc những câu chuyện cổ tích ly kỳ. Riêng tôi chỉ thấy hay và xúc động những chi tiết liên quan đến Mạc Gia, người đàn bà nạn nhân muôn thuở của đàn ông và những giáo lý độc ác họ nghĩ ra. Còn cái ông Cao Kiêm Ngạc kỳ cục này thì liên quan gì? Làm sao một trong hai thanh kiếm kia rơi vào tay ông ta, nếu quả trên đời có những thanh kiếm như thế? Ông ta là kẻ điên khùng, hẳn vậy. Nhưng sao dám hứa cho tôi xem? Hay có âm mưu mờ ám gì chăng? Tôi cứ băn khuăn mãi điều ấy. Cuối cùng, do bị ám ảnh không sao thoát ra nổi, tính tò mò khiến tôi quyết định đến gặp ông ta theo địa chỉ đã ghi. Tôi rủ vợ đi cùng nhưng bà ấy không chịu.

***

Hóa ra ông Ngạc ở trong một ngôi nhà tử tế, khu phố tử tế. Bản thân ông hình như cũng là người tử tế nốt. Chí ít không điên hoặc dở hơi như tôi vẫn ngại. Đó là một ông già gầy gò trong bộ vest rộng màu xám kiểu cổ, đã cũ nhưng còn tươm tất. Thoạt nhìn, trông ông từa tựa một con chim. Con cú xám. Mái tóc ông bạc gần hết, chiếc mũi nhọn, khuôn mặt dài và quắt. Lúc tôi bước vào, ông đang ngồi trên chiếc ghế không lưng tựa cạnh bàn và cúi xuống làm gì đó, đúng cái thế một con cú co ro trên cây, nên tôi mới nảy ra sự so sánh ấy, chứ bản thân con người ông không toát lên sự gian trá hay độc ác nào. Một người tử tế như đã nói. Ông ngước đôi mắt chim nhìn tôi, đầu hơi ngoẹo sang một bên.

- Tôi biết thế nào ông cũng đến.

Ông nói, có vẻ biết rõ tôi là ai, và không mảy may ngạc nhiên.

- Mà đến là đúng. Ông sẽ không hối tiếc đâu.

- Vì tò mò thôi,

Tôi thành thật đáp.

- Chứ chẳng vì tin những gì ông nói.

- Không sao. Rồi ông sẽ tin.

Nói đoạn, ông nhẹ nhàng bước vào phòng trong. Cả cách đi của ông cũng giống loài chim. Tôi đưa mắt nhìn quanh. Không gì đặc biệt, ngoài việc trong phòng có rất nhiều đồ cổ để rải rác trong tủ, các góc và trên tường. Cả căn phòng cũng thuộc loại phòng xưa, sạch và ngăn nắp theo cách riêng của mình. Điều này làm tôi đoán ông sống độc thân. Lát sau chủ nhà quay ra với một thanh gỗ dẹt hình chữ nhật đen xạm vì thời gian, nhìn kỹ thấy giống chiếc vỏ kiếm.

- Nó đây! Thanh Mạc Gia thư kiếm tôi nói đây! Đúng chiếc Can Tương đã đúc. Có phần máu thịt của vợ ông ta trong đấy!

Ông Ngạc lại chăm chú nhìn tôi, đầu vẫn ngoẹo như trước.

- Tôi biết ông không tin. Nếu có tin thì đang tự hỏi bằng cách nào nó lọt vào tay tôi. Đúng không?

Tôi gật đầu.

- Trước hết ta thống nhất với nhau một điều. Như tôi tin và không căn vặn gì về câu chuyện Tiểu ái của ông, xin ông cứ tin những gì nghe, thấy hôm nay, và không hỏi những câu ngốc nghếch. Đời có nhiều sự lạ, tiếc bây giờ người ta quá thiển cận không nhận ra. Tôi là hậu duệ của cụ Cao Biền Trung Hoa ngày xưa. Chắc ông biết cụ. Cụ người Bột Hải, một nhà thơ lớn đời Đường. Hình như ông có dịch một số bài tứ tuyệt của cụ?

Tôi lại gật đầu, thầm ngạc nhiên ông già này cũng đọc tập Cổ Thi Tác Dịch tôi in mấy năm trước.

- Vậy thì như ông biết, cụ được phong Chinh Nam Tướng Quân sang trấn trị Giao Châu từ năm 864 tới năm 875. Cụ có công khai khẩn nhiều vùng đất, góp phần làm nên nước Việt Nam ta ngày nay. Tất cả người Việt mang họ Cao đều con cháu cụ. Cụ giỏi phong thủy, thường cưỡi diều bay đi khắp nơi để yểm địa mạch. Các giai thoại về cụ chắc ông còn biết nhiều hơn tôi. Tiếc rằng sau khi được gọi về nước làm Tiết độ sứ Hồ Nam, cụ bị bọn gian thần gièm pha mà buộc phải tự tử. Tự tử chứ không bị giết như sử sách chép. Cụ đủ khôn ngoan để biết trước sự việc và lo kế trù liệu. Một tháng trước khi chết, cụ sai người con út là Cao Kiệm mang báu vật duy nhất của gia tộc là thanh kiếm này sang Giao Châu cất dấu. Rất tiếc tôi không biết cụ có nó từ bao giờ và cách nào. Chỉ biết Cao Kiệm định cư hẳn ở Giao Châu, chính xác là ở tổng An Lão, Bắc Ninh ngày nay, và lập nên dòng họ Cao đông đúc của chúng tôi ở đó. Còn thanh bảo kiếm thì được truyền hết đời này sang đời khác cho đến tôi.

Ông Ngạc đứng dậy, rút thanh kiếm khỏi vỏ. Nó mỏng và khá dài. Không phải màu xanh nhạt mà hơi trắng xỉn, đôi chỗ đen như vết gỉ. Trông nó khá bình thường, là điều ít nhiều làm tôi thất vọng.

- Ông có thấy hai chữ Mạc Gia đây không?

Tôi cúi xuống nhìn nhưng chẳng thấy gì ngoài mấy nét mờ vòng vèo chỗ sát đuôi kiếm. Tuy vậy, tôi vẫn có cái cảm giác hồi hộp thật lạ khi chạm ngón tay vào thanh kiếm mát lạnh, như chạm vào quá khứ xa xôi cùng những truyền thuyết ly kỳ về nó, dù thực ra tôi chưa tin lắm những gì đang được chứng kiến.

- Đừng chạm vào lưỡi. Sắc lắm đấy!

Rồi như để chứng minh cho độ sắc của thanh kiếm, ông vung tay chém cây nến còn mới nguyên dài bằng gang tay trên chiếc đôn gỗ lim cạnh đấy.

- Ông xem này!

Ông Ngạc nói chìa cây nến cho tôi.

- Tôi mới chém ngang qua nó, nhưng lưỡi kiếm sắc đến mức dẫu bị cắt làm đôi, cây nến vẫn còn nguyên, đơn giản vì không có thời gian để đứt. Chỉ để lại một nhát cắt rất mảnh, nếu mắt kém, chắc ông không thấy.

Tôi nhìn thấy vết cắt ấy, thấy cả lưỡi kiếm chém đúng giữa thân nến, nhưng không thể tin cách ông giải thích. Biết tôi đang băn khoăn, ông Ngạc đưa mắt nhìn quanh như muốn thử lần nữa. Bỗng nhiên tôi thấy sợ. Một nỗi sợ mơ hồ như đang bị lôi vào một âm mưu mờ ám, dẫu con người đang cầm thanh kiếm sắt ngọt trước mặt có vẻ tử tế và chắc không muốn hại tôi. Chợt một con mèo tam thể rất to nhưng gầy từ phòng trong đi ra. Nó nhảy lên đứng trên góc xa chiếc bàn lớn tôi đang ngồi, rồi uể oải vươn cổ ngáp đúng lúc ông Ngạc vẩy lưỡi kiếm về phía nó. Con mèo kêu một tiếng. Chẳng hiểu vì bị chém hay nó vẫn kêu như vậy mỗi lần ngáp.

- Tôi mới chém đứt cổ nó xong. Đứt mà không đứt như vừa nói. Bây giờ chắc ông đã tin?

Tôi ngồi im phần vì sững sờ phần chẳng biết nói gì.

- Vậy hóa ra chém mà không chém? Cuối cùng tôi lên tiếng.

- Theo cách ông nghĩ thì đúng thế.

Ông Ngạc mãi lúc sau mới đáp. Ông cẩn thận cho kiếm vào vỏ. Tôi lén thở dài nhẹ nhõm. May ông không có ý định thử chém người. Tức là một thanh kiếm vô tích sự vì không còn chức năng chém giết?

- Không. Đây là Mạc Gia Thư kiếm, báu vật có một không hai trên đời. Chuyện nó hóa rồng xanh cùng nhiều chuyện khác là do người ta phịa, nhưng quả đúng thanh kiếm có phép lạ. Muốn giết ai, chỉ cần trỏ mũi kiếm vào người đó. Ông lại ngạc nhiên? Vì nó sắc và mạnh đến mức có thể làm chết người qua khoảng cách, tất nhiên nếu khoảng cách ấy không quá lớn.

Thế thì thật nguy hiểm. Tôi nghĩ. Vì vô ý hoặc do đùa, người ta có thể gây án mạng.

- Đúng. Nhưng không phải trong bất kỳ tay ai nó cũng có được phép lạ ấy.

Ông Ngạc nói. Tôi thầm ngạc nhiên sao ông đoán hiểu điều tôi nghĩ. Hay tôi đã nói lên thành lời?

- Chỉ những người chủ hợp pháp của nó mới làm được. Ông nói tiếp:

- Mà lúc chỉa mũi kiếm, phải có ý nghĩ muốn giết người ấy. Ông có muốn tôi thử cho xem không?

- Không, cảm ơn. Tôi vội đáp.

- Ông ta kể mình nghe, cho mình xem tất cả những điều này để làm gì nhỉ?

Tôi lại nghĩ. Ông ta cần gì ở mình? Chắc mình được mời đến đây không phải vô cớ.

- Vâng, tôi muốn thương lượng với ông một chuyện.

Ông Ngạc nói ngay. Lần này thì tôi tin chắc ông có khả năng đọc được ý nghĩ người khác, và thầm nhắc mình phải cẩn thận.

- Chuyện gì? Tôi hỏi.

- Nếu ông đồng ý, tôi xin được đổi thanh kiếm gia bảo này lấy cánh tay nàng Tiểu ái.

- Nhưng đó là câu chuyện tôi phịa hoàn toàn.

Tôi kêu lên suýt nữa phì cười.

- Tôi là nhà văn như ông biết, và chẳng hề có cánh tay Tiểu ái nào cả. Cái tên ấy cũng do tôi phịa ra!

- Không quan trọng! Tiểu ái hay không Tiểu ái không quan trọng. Cái quan trọng là từng có một cô gái bị chặt tay như thế, và nhờ ông, cô gái ấy đã sống lại, được mọi người biết đến.

Có thể ông không có cánh tay Tiểu ái thật, nhưng tôi hy vọng ông còn giữ được cái gãi lưng bằng nhựa hình bàn tay người mua năm ngoái ở Trung Quốc. Cái mà ông viết bị con chó con gặm mất một ngón, và bà vợ ghen đem giấu đi ấy mà. Bây giờ ông vẫn có nó chứ?

- Có. Luôn ở ngay trên bàn làm việc của tôi. Nhưng tôi cũng phịa cả chi tiết nó bị vợ giấu...

- Không quan trọng. Vậy ông có đồng ý đổi nó cho tôi để lấy thanh kiếm này không? Một khi chẳng xem trọng nó như thế thì chắc ông không tiếc. Xin ông khỏi bận tâm tôi cần nó làm gì. Tôi là người tử tế như ông nghĩ, và tất nhiên chỉ làm những việc tử tế.

- Nhưng đây là Mạc Gia Thư kiếm, bảo bối vô giá của dòng họ ông?

- Thì cánh tay Tiểu ái, hay cái gãi lưng nhựa rẻ tiền trên bàn như ông nói, cũng là vật quí hiếm không kém. Vả lại tôi đã già, sống một mình và hiện không người thân thích.

Lớp người trẻ chi họ Cao Kiêm chúng tôi ngày nay chẳng đứa nào ra hồn, không đáng truyền lại một vật quí hiếm thế này. Trong tay kẻ xấu, nó có thể gây tai họa. Thà giao cho ông còn hơn. Lại được thêm nàng Tiểu ái! Thế nào, ông đồng ý chứ?

- Tôi sẽ làm gì với một thanh kiếm quí như thế?

Tôi hỏi, thầm nghĩ ông già này có lẽ điên thật, nhưng vội đỏ mặt khi chợt nhớ ông ta biết đọc ý nghĩ người khác. Quả có điên mới nghĩ ra được một vụ đổi chác kỳ cục như thế. Tức là ông ta cho không tôi thanh kiếm.

- Đó là việc của ông. Cũng như việc của tôi muốn làm gì với Tiểu ái thì làm. Hy vọng ông sẽ không giết người một cách vô cớ...

- Tôi không bao giờ giết người.

- Vậy thì hãy giữ nó như một thứ đồ cổ. Ông chẳng thích đồ cổ lắm đó sao?

Thấy tôi có vẻ xuôi xuôi, ông Ngạc nói thêm:

- Xin ông đừng lo tôi thiệt. Có thể ông chưa biết hết giá trị cái gãi lưng của ông. Tôi sẽ có cách lấy nó mà chẳng phiền ông mang đến đây. Còn cây kiếm này thì coi như đã thuộc về ông. Hoàn toàn hợp pháp. Thế là chúng ta thỏa thuận xong. Cảm ơn ông.

Ông Ngạc lại nghiêng đầu nhìn tôi bằng đôi mắt chim màu xám của mình, rồi đứng dậy, ông thong thả đi vào phía trong. Chiếc áo vest rộng màu xám xòe hai thân như hai cánh chim đang vỗ. Một chốc sau ông biến mất (có cảm giác như ông nhẹ nhàng bay đi), để tôi một mình ngơ ngác bên bàn với thanh kiếm Mạc Gia trên tay.

***

Về nhà, việc đầu tiên tôi làm là chạy tới bàn xem chiếc gãi lưng có còn ở đấy không. Không! Tôi ngồi xuống giường, thừ người một lúc. Vậy là ông Cao Kiêm Ngạc đã lấy nó đi. Bao giờ, cách nào không biết, nhưng chắc chắn là ông. Nó vẫn luôn nằm ở chỗ cố định ấy và chẳng ai ngoài tôi động đến nó. Cái ông Ngạc này là ai nhỉ? Người hay ma? Hay chim cú? Hay đơn giản tất cả chỉ là một trò đùa chẳng mấy thú vị? Còn bán tín bán nghi, nhưng tôi bị kích động thực sự và rất hồi hộp. Dù trong nhà chẳng có ai trừ bà giúp việc luôn ở trong bếp, tôi vẫn đóng chặt cửa phòng mình và quyết định thử chiếc kiếm. Tôi run run rút nó khỏi vỏ, để ngửa lên mặt bàn và cũng run run như thế, đặt lên lưỡi kiếm một tờ giấy trắng mới cứng. Ngay lập tức tờ giấy bị cắt làm đôi. Lưng tôi ướt đẫm từ lúc nào.

Sẵn trên bàn có cây nến, không còn nguyên nhưng khá dài, tôi vội cầm kiếm cắt ngang. Chậm thôi, có lẽ vì vậy đoạn bị cắt rơi xuống chứ không dính liền như ở nhà ông Ngạc. Tôi thử lần nữa, nhanh hơn, mạnh hơn, rồi cầm lên xem, còn bẻ bẻ ở chỗ mới bị chém. Quả nó không sao. Thậm chí không thấy cả vết chém. Tôi lại ngồi thừ người nhìn thanh kiếm, không phải không thoáng lo sợ. Tuy nhiên, vẫn còn một điều nữa phải thử. Nhà tôi không nuôi mèo nhưng có con chó con nghịch ngợm, hay sủa vu vơ. Nó là con chó dễ thương, nó yêu tôi nhất vì không bị tôi mắng và hay được cho ăn. Tôi không thể đem nó làm vật thí nghiệm. Cuối cùng, ngồi trước bàn làm việc nhìn ra ngoài qua ô cửa sổ có kính che, tôi giơ thanh kiếm nheo mắt chỉ đúng vào một quả trên cây cau trước nhà, ở khoảng cách bảy mét. Cả buồng còn xanh non, không hiểu sao nó có màu vàng. Vừa ngắm, tôi vừa mong nó rụng.

Mấy giây sau, nó rụng thật, hình như bị bổ làm đôi. Sau đó tôi chĩa mũi kiếm vào quả bóng nhựa màu xanh bọn trẻ đá lên mái nhà hàng xóm từ bao giờ. Lập tức nó cũng rơi xuồng đất. Tôi còn thử một số khoảng cách khác, và phát hiện thấy nó chỉ có tác dụng trong vòng hai mươi lăm, ba mươi mét. Thế cũng xa lắm rồi. Tôi cho kiếm vào vỏ, giấu kỹ dưới gầm tủ rồi lên giường nằm suy nghĩ miên man.

***

Vâng, không nghi ngờ gì nữa, tôi đang có trong tay Mạc Gia thư kiếm, thanh kiếm quí giá nhất trên đời, quí hơn cả nàng Tiểu ái kiều diễm, nếu quả thật nàng đang ẩn mình trong chiếc gãi lưng rẻ tiền của tôi mà ông Cao Kiêm Ngạc đang giữ. Tôi thầm mỉm cười thương hại ông già tội nghiệp. Mong cho ông được hạnh phúc với nàng. Nhưng tôi sẽ làm gì với thanh kiếm quí có phép lạ ấy? Trước hết tôi quyết định giấu kín không cho ai biết, vì sợ vợ tôi tò mò có thể bị đứt tay hoặc thậm chí làm chết tôi hay ai đó. Tôi có thể đơn giản giữ nó như giữ một thứ đồ cổ quí hiếm. Ông Ngạc từng nói như vậy. Tất nhiên, nhưng nó không chỉ là đồ cổ, mà còn là thứ vũ khí lợi hại. Vậy là tôi được trao phép lạ có thể hủy diệt cái gì đó, ai đó mà không ai biết. Chẳng phải đấy không là một cám dỗ lớn? Tuy nhiên, vốn hiền lành, lại đã qua từ lâu cái thời có thể hung hăng gây gổ, nên bây giờ tôi hoàn toàn không có nhu cầu giết người. Mà cũng không có ai thù oán đến mức phải giết.

Tôi có anh hàng xóm là một chủ doanh nghiệp tư nhân trẻ. Một tay hãnh tiến lắm tiền nhiều thế lực. Kể ra anh ta cũng chẳng quá tồi so với người khác, có điều thích khoe giàu một cách lộ liễu nên bị cả xóm ghét, chính xác hơn là ghen tị. Tôi thì dửng dưng, chỉ hơi khó chịu vì chiếc Mercedes mới toanh của anh ta hay đột ngột bấm còi (để nhắc người khác nhớ đến sự hiện diện của nó), lại thường xuyên để chềnh ềnh trước nhà tôi làm vướng lối đi. Hôm nọ thấy tôi vội vã ra bến xe buýt, anh ta ngỏ ý mời lên xe đi cùng vì tiện đường. Có thể chân thành chứ chẳng ý gì, nhưng tôi vẫn thấy như bị xúc phạm. Lúc này từ trong phòng nhìn ra, với thanh kiếm có phép lạ bên cạnh, tôi bất chợt thấy mình có ý nghĩ muốn chĩa mũi kiếm sắc nhọn vào lốp hay lớp sơn bóng lộn của chiếc xe, biểu tượng giàu có và địa vị xã hội, đồng thời cũng là cái làm người sở hữu nó trở nên kệch cỡm. Chắc thấy xe xẹp lốp hoặc thân bị chọc thủng, anh ta sẽ đau đớn lắm. Hay cứ dạy cho anh ta một bài học?

Vì không là người ác, cuối cùng tôi đã không làm điều ấy. Nhưng ý nghĩ kỳ cục này cứ lẫn quất mãi trong đầu, đến mức không tập trung làm việc được. Cuối cùng tôi giấu thanh kiếm vào chỗ cũ và bỏ đi dạo. Thường vẫn thế, khi ta cố không nghĩ đến cái gì đó, thì cái ấy càng ám ảnh ta nhiều hơn. Đúng, tôi đang bị thanh kiếm ám ảnh, ám ảnh ghê gớm. Suốt buổi chiều hôm ấy tôi không nghĩ được gì khác ngoài nó. Thậm chí tay như ngứa ngáy. Bước đi trên hè phố, tôi hình dung đang cầm kiếm giết kẻ ác giúp đời. Giết cả bọn khủng bố quốc tế như Bin Laden chẳng hạn. Ngớ ngẩn, nhưng quả thật tôi có những ý nghĩ như vậy. Hệt như một tên khát máu giết người không ghê tay. Thấy con chó chạy ngang, tôi nghĩ kể cũng hay nếu chém nó đứt đôi mà không đứt đôi như cây nến ở nhà ông Ngạc.

Chiều hôm ấy tôi phóng xe đến nhà ông, và không tin nổi mắt mình khi thấy ở đúng số nhà trên phố hôm trước, tôi đã đến theo đúng địa chỉ ghi trong thư, bây giờ là một nhà khác hẳn, với bà lão chủ nhà đang ngồi bán mấy thứ vặt vãnh trước cửa. Vậy là ông Ngạc này không phải người mà ma quỉ! Tôi lo lắng nghĩ rồi bỏ đi luôn. Buổi tối ngồi ăn cơm, tôi nhìn chiếc cổ trắng hơi đẫy đà của vợ, và lại nghĩ đến thanh kiếm. Tôi rùng mình hình dung thấy thanh kiếm sắc ngọt chém đứt cái cổ trắng đẫy đà ấy mà đầu vẫn không rơi. Không có máu. Không chết.

- Ông nhìn gì thế?

Vợ tôi hỏi.

- Hình như dạo này bà béo ra.

- Vớ vẩn. ăn đi. Lại phịa ra một nàng Tiểu ái nào nữa chắc? Đã điên còn làm người khác điên theo.

Vợ tôi vẫn có kiểu nói như vậy nhưng thường lại nghĩ khác nên tôi không bao giờ cãi lại.

- Lần này thì là chuyện thật đấy, không đùa chút nào đâu!

Tôi nghĩ, nhưng không nói ra miệng. Tôi ngủ một đêm chập chờn với những giấc mơ kỳ cục và kinh hãi.

***

- Ban đêm ông dậy lục tủ lạnh đấy à?

Vợ tôi hỏi khi ngồi vào bàn ăn sáng.

- Không. Tôi đáp.

- Thì sao?

- Chẳng sao cả. Tôi nghe có tiếng động.

- Hình như nhà ta có ma... Bà giúp việc rụt rè lên tiếng.

- Đêm qua, lúc gần sáng, cháu thấy động ở phòng khách, sợ con mèo nhà bà Nguyệt làm đổ mấy lọ sứ, nên chạy vào xem. Cháu hoảng hồn đứng lặng người khi thấy ai đó mặc đồ xanh, đang múa may quay cuồng như tấm vải lớn lượn vòng với cái gì đó sáng loáng trong tay. Cháu sợ quá không kêu lên nổi. Khi dụi mắt nhìn kỹ thì chẳng thấy gì nữa. Nói ông bà đừng cười, nhưng người ấy, tấm vải ấy múa thế này này...

Bà đưa bàn tay đang cầm đũa khua một vòng trước mặt.

- Sau đó cháu chẳng dám ngủ nữa, cũng chẳng dám vào phòng khách, nhưng chắc chắn người đó còn múa thêm một lúc mới thôi.

- Nhảm nhí. Ma với quỉ! Tôi nói át đi.

- Người ta bảo xóm ta trước đây là nghĩa địa phải không ạ?

- Cũng nhảm nhí nốt. Ao muống chứ nghĩa địa nào?

Tôi đáp, dù biết quả đúng như thế. Nghĩa địa làng Ngọc Lâm. Nhưng chắc điều này không liên quan gì đến chuyện bà ta kể. Chúng tôi sống ở đây gần chục năm mà chẳng có gì xẩy ra. Cả ba ngày tiếp theo bà giúp việc vẫn kêu nhà có ma, mặt phờ phạc hẳn do mất ngủ và lo sợ. Vợ tôi không nói gì thêm, nhưng chắc nghĩ chồng đêm đêm vẫn lục tủ lạnh. Tôi lại lấy thanh kiếm ra xem. Nó vẫn ở chỗ cũ, lạnh lẽo, vô hồn. Từ trong phòng, qua lớp kính cửa sổ, tôi thử nghịch, làm đứt một cành lớn hoa giấy, cách chỗ ngồi đến mười lăm mét. Những ý nghĩ vớ vẫn lại lởn vởn trong đầu. Hai tay như ngứa ngày muốn làm điều gì. Sự ngứa ngáy của người có sức mạnh muốn đem ra thử. Đấy là sự lạ vì xưa nay tôi ít khi bị phân tán tư tưởng, càng không nghĩ vẩn vơ việc chém giết. Nghĩa là đã xuất hiện một sự thay đổi nào đó trong tôi. Thanh kiếm! Chính sức mạnh và phép lạ của nó làm tôi thay đổi. Thay đổi theo hướng nguy hiểm. Thế thì thật đáng sợ...

Tối ấy đang ngủ, tôi chợt mở mắt và thấy đứng ngay đầu giường là một người phụ nữ, hay đúng hơn cái gì đó giông giống người phụ nữ với thanh kiếm sáng loáng trong tay. Tưởng mình mơ tôi dụi mắt, vẫn thấy người ấy đứng yên và đang chăm chú nhìn tôi. Dụi lại lần nữa thì chẳng còn thấy đâu. Sáng hôm sau chưa kịp dậy, tôi đã nghe bên ngoài nhốn nháo tiếng người. Thì ra có kẻ ghen tị độc ác đã dùng dao đâm thủng hai vết lớn vào thân xe bóng lộn chiếc Mercedes của anh hàng xóm vẫn đỗ bên cổng nhà tôi như mọi lần...

P.S: Chuyện này xẩy ra cách đây ba ngày. Trong khoảng thời gian ấy công an đã kịp đưa cậu Hoàng lên đồn. Cậu ta thuộc loại “thanh niên chậm tiến”, con một gia đình trong xóm vừa có trận cãi nhau với chủ chiếc Mercedes. Tôi kịp thuyết phục bà giúp việc đừng vì sợ ma vu vơ mà bỏ về quê. Trong ba ngày ấy, tôi cũng kịp lén lút đem thanh Mạc Gia Thư kiếm quí hiếm đến một lò rèn ở phố Sinh Từ nhờ rèn thành mấy chiếc liềm cắt cỏ. Vì sao lại liềm cắt cỏ? Đơn giản lúc ấy tôi không nghĩ được gì khác ngoài chúng. Tôi vốn từ nông thôn, ngày bé từng chăn trâu cắt cỏ. Ông chủ lò rèn có vẻ tiếc khi phải đem thanh kiếm cổ làm thành những vật tầm thường như vậy. Ông gạ mua, trả giá cao nhưng tôi không chịu. Cuối cùng, sau ba giờ mấy người làm việc cật lực, tôi có được bốn chiếc liềm mang về nhà. Những chiếc liềm bình thường, thậm chí hơi thô. Tôi giữ một chiếc cho mình làm kỷ niệm, còn lại có dịp sẽ gửi về quê.

Vậy là thoát được thanh kiếm quí. Thật lạ rằng tôi có thể giải quyết mọi việc đơn giản và nhanh chóng đến vậy. Và không mảy may luyến tiếc. Bà giúp việc không còn thấy ma, do vậy đêm ngủ không bật đèn sáng trưng như trước. Tôi cũng lấy lại được sự thanh thản, trong đầu không còn lẩn quẩn những ý nghĩ kỳ cục, trừ một ý nghĩ nhỏ rằng một người bình thường có thể sống thảnh thơi, hạnh phúc suốt đời nếu không vì bỗng nhiên có được sức mạnh hay loại vũ khí phi thường nào đó. Lúc ấy mọi việc sẽ phức tạp và nguy hiểm hơn nhiều. Cho mình và cho người khác. À, còn thêm điều này nữa. Đêm qua tôi đã gặp Mạc Gia.

Vâng, đúng thế. Số là đang ngủ, tôi có cảm giác như ai đang chăm chú nhìn mình. Mở mắt ra thì thấy người đàn bà áo xanh hôm nọ. Bà xưng tên và cho biết trước đây bà chỉ là cô gái nông thôn nghèo bình dị, vì có chút nhan sắc nên bị Can Tương bắt về làm lẽ, sau cũng chính ông ta xô bà vào lò luyện kiếm chứ chẳng phải tự bà hy sinh vì chồng như người ta nói. Từ ấy bà phải làm cái việc chém giết mà bà luôn kinh tởm. Nay được giải phóng về với nơi mình vốn quen thuộc là làm ruộng, bà rất mừng, do vậy bà đến để cảm ơn tôi trước khi lên đường trở lại quê cũ. Câu chuyện ly kỳ đến mức tôi không dám tin là thật, và dù được tận mắt nhìn thấy bà, nghe bà nói, tôi vẫn nghĩ có thể đấy đơn giản chỉ là một giấc mơ. Dạo này già, thỉnh thoảng tôi vẫn có những giấc mơ như vậy.


Thái Bá Tân

Thanked by 1 Member:

#317 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/09/2011 - 08:07

QUYẾT ĐẤU VỚI TỬ THẦN

Mặc dù là kẻ có đạo gốc, nhưng tôi có lúc đã rất yếu lòng tin về “cuộc sống đời sau” có nghĩa là chết không phải là hết, mà linh hồn người quá cố sẽ được chuyển qua một thế giới khác, nơi đó sẽ cuộc phán xét để phân loại người lành kẻ dữ, rồi mới thưởng phạt bằng thiên đàng hay địa ngục! Nhưng cái không vững tin thuộc về tín điều ấy của tôi, đã bị đánh gục hoàn toàn khi tôi lần đầu tiên trong đời được chứng kiến một buổi giành giật linh hồn giữa người và ác quỷ, và người có khả năng thần sầu và hiếm có này lại là một người đàn ông già cả trông rất đỗi tầm thường như bao người nghèo khổ khác.

“Ông Thánh Sủng” là tên mà những gia đình chịu ơn đã đặt cho ông, khi ông có dịp đến giúp bất cứ người nào sắp đến giờ lâm tử. Sở dĩ người ta gọi ông là Thánh Sủng vì ông sống một cuộc đời giản dị và khắc khổ dù gia đình ông có rất nhiều con cái đang định cư ở nước ngoài. Thánh Sủng cũng còn có nghĩa là một người toàn thiện được ơn ưu đãi từ Trời để làm những công việc cứu nhân độ thế. Khi đến việc, người ta thấy ông còng mình trên chiếc xe đạp cọc cạch nhìn mà ái ngại vì ông đã quá tuổi bảy mươi, nhưng thực ra thể chất của ông vẫn còn sung mãn lắm. Đối với ông giờ mà tử thần đến đoạt người bệnh còn quan trọng hơn cả mạng sống của chính ông, vì vậy trong đầu ông lúc nào cũng có điều tâm niệm: “không bao giờ được đến trễ”.

Ông Thánh Sủng trước đây là một hạ sĩ quan trong QLVNCH, trong những lần hành quân ông được cấp chỉ huy cắt cử làm y tá băng bó cho các thương binh ngay tại mặt trận, vì trước khi đi khóa hạ sĩ quan ở Đồng Đế Nha Trang ông đã tốt nghiệp một khóa học về y tế. Vì phải đối diện thường trực với những người cận kề cái chết, ông thấy ông đã làm được một vài việc cần kíp về thể xác, nhưng chẳng thể giúp gì được cho họ về phần linh hồn. Những lúc an ủi, theo dõi và chứng kiến giờ phút hấp hối của đồng đội, ông đã nhận ra một điều, họ đều chết không nhắm mắt và phần lớn đã ra đi trong sự đau đớn, tuyệt vọng và cô đơn. Từ những ánh mắt vô vọng và đau khổ ấy, ông linh cảm được một điều vô cùng quan trọng, mà chỉ có ông trong những giây phút cuối cùng ấy mới có thể làm được cho họ, đó là giành giật với ác quỷ để đưa họ lại gần với tầm tay với của thiên thần.

Trong các quân binh chủng, đều có các sĩ quan tuyên úy của các tôn giáo, họ có thể làm tâm hồn của các chiến binh bình an khi ra mặt trận, bằng những lời thuyết giảng, và các nghi thức tôn giáo, nhưng họ lại rất hiếm khi cận kề với các thương binh khi gặp nạn và trút hơi thở cuối cùng. Biết vậy, ông tìm hiểu về các phương pháp giúp đỡ người lính trong lúc hấp hối qua kinh sách, và sau đó nhờ một Linh mục ban cho ông cái đặc ân được phép mang bánh Thánh trong người để trao cho những ai muốn rước lễ khi cần kíp. Từ đó ông trở thành chỗ nương tựa tinh thần cho những người đồng đội, và là người ủi an không thể thiếu khi họ bị thương tích. Nhờ quen việc và có một cảm quan sắc bén, ông chỉ cần cầm tay bệnh nhân lên nghe mạch là ông khắc biết người đó có thể cứu chữa được hay không, và còn bao lâu nữa thì tắt thở. Ông chẩn đoán tài tình đến độ nói được trước giờ mà người bệnh sắp ra đi, và lần đoán sai lớn nhất trong đời ông chỉ là một tiếng! Khi còn ở trong quân ngũ, ông đã tận dụng khả năng trời cho này để cứu đồng đội.

Những người nguy kịch cần được cứu chữa gấp, còn những người bị nhẹ thì sẽ chữa sau, riêng những người hấp hối và biết không còn cứu chữa được, ông dành những thời giờ còn lại để chuyển những lời trăn trối và giúp họ chết một cách bình an. Sau năm 1975 ông ở lại Saigòn, trong khi con cái ông lần lượt tìm đường vượt biển. Sau này con cái làm bảo lãnh, vợ chồng ông cũng từ chối không đi, lấy cớ đã già cả, nhưng thực ra ở lại là để có cơ hội giúp những người bệnh hoạn và sắp qua đời. Đức độ và khả năng làm việc của ông cho người bệnh vang dội và được nhiều người biết đến hơn cả mấy ông Cha Xứ trong vùng gộp lại, vì thế khi ông đi đến đâu, những người biết mặt đều ngả mũ cúi đầu chào kính, và một số giáo xứ đã mời ông đến để huấn luyện và thuyết giảng về kinh nghiệm của một người chuyên “giúp kẻ liệt”, để ngộ nhỡ mai này ông chết đi thì vẫn còn những người “thừa kế”.

Khi mẹ tôi nằm liệt giường, ông đã là người đầu tiên đến hỏi thăm và an ủi mẹ tôi về đủ thứ chuyện, rồi hướng dẫn mẹ tôi các công việc “dọn mình” để được ơn chết lành, rồi thường xuyên mang Mình Thánh Chúa đến khi mẹ tôi còn tỉnh. Trong một lần đến thăm trước khi mẹ tôi được chở vào bệnh viện điều trị, ông yêu cầu người nhà nên mời Linh mục đến ban các bí tích sau cùng vì ngày đi của mẹ tôi đã gần kề. Đối với một số người Công giáo, họ chỉ mời Linh mục đến ban phép Thêm Sức khi người bệnh đã mê man, hấp hối. Riêng đối với ông Thánh Sủng thì việc này hoàn toàn khác, gia đình phải mời Linh mục đến ngay khi người bệnh còn tỉnh táo và nhận biết hết đủ mọi việc, chứ để chậm hơn thì không còn gì ích lợi nếu bệnh nhân đã mê man hoặc qua đời. Khi bác sĩ chê, mẹ tôi được người thân đem về nhà dưỡng bệnh (nói đúng hơn là để chờ chết, dù hàng ngày vẫn có bác sĩ đến chích và thăm bệnh). Ông Thánh Sủng đã có mặt gần như hàng ngày và sau khi bắt mạch thêm lần nữa, đã cho biết mẹ tôi chỉ còn sống được hơn một tuần lễ.

Thế là mấy đứa em tôi ở Việt Nam liền gọi điện thoại sang Úc để kêu tôi về nhìn mặt mẹ lần cuối. Khi mẹ tôi còn tỉnh, tôi đã được cái diễm phúc ở cận kề, và nay đã đến giờ mẹ tôi hấp hối tôi cũng mong được ở bên như thế, nhưng tiếc thay lúc mẹ tôi trút hơi thở cuối cùng lại là lúc tôi không có bên cạnh để vuốt mắt mẹ, vì phải chờ đợi chuyến bay. Sau này, khi xem lại cuốn video do thằng cháu đặt quay trong những giờ phút sau cùng của cuộc đời mẹ tôi, tôi đã không cầm được nước mắt khi chứng kiến cảnh ông Thánh Sủng lo toan cho người chết! Ông ngồi cả ngày bên cạnh mẹ tôi để đọc kinh lần hạt, và cứ sau mỗi năm mươi kinh ông ta lại đưa tay bắt mạch cho mẹ tôi. Ông đặt trên ngực mẹ tôi một cây Thánh Giá (nghịch chiều) để mẹ tôi lúc nào cũng có thể nhìn thấy tượng Chúa chịu nạn.

Lần sau cùng, là vào lúc mười một giờ tối, tôi thấy qua video ông cầm chặt tay mẹ tôi rồi kêu lên những tiếng kêu cầu thống thiết, liên tục, thành khẩn và như đang tập trung mọi nghị lực qua đôi mắt nhắm chặt và vầng trán nhăn nheo. Ông kêu tên Chúa và Mẹ Maria, cùng các Thánh, rồi đọc các kinh dành cho người bệnh trong giờ lâm tử. Tôi thấy vầng trán của ông nhíu lại, vã mồ hôi, như thể ông đang đứng ở một biên giới vô hình, quyết đấu với quỷ ma để giành giật lại linh hồn của người chết. Hình ảnh này không khác gì một buổi sống mái sanh tử giữa ông ta và tử thần, bởi từ thể xác ông hình như đang phát ra những thần lực để ông truyền lại cho người đang nằm bất động. Đúng lúc ấy, con chó thả ngoài sân của nhà hàng xóm bỗng tru lên những hồi rùng rợn, và có lúc rên i ỉ như có người đang dọa nạt, mặc dù ngoài sân không một bóng người.

Và ngay khi mẹ tôi thở hắt ra hơi cuối để từ giã cuộc đời thì con chó cũng im ngay thôi sủa, trong khi ông Thánh Sủng đưa tay lên quệt những mảng mồ hôi đang vã ra như tắm. Lúc ấy ông mới buông tay, quay lại cây Thánh Giá trên ngực mẹ tôi cho đúng chiều, rồi nói:

- Bà cụ đã ra đi trong yên bình.

Cần nói thêm, việc chiến đấu của ông không phải chỉ lẻ loi và đơn độc, vì trước đó một giờ đồng hồ ông đã huy động tất cả mọi người thân gần đó quy tụ thành một khối, yểm trợ ông bằng những lời cầu kinh lâm râm trong miệng. Theo ông, với sức mạnh tinh thần được tập trung cùng lúc, với sự thành khẩn và cầu xin, thì họ có thể xua đuổi được ác thần, lôi kéo người bệnh về được với đường ngay nẻo chánh. Ông Thánh Sủng nói rằng, phút lâm chung linh hồn con người thật yếu đuối, họ rất dễ bị phủ dụ bởi ma quỷ, vì ma quỷ luôn lợi dụng lúc này để đưa ra biết bao điều nhung lụa để lôi kéo người sắp chết về phe nó. Phía ác thì như vậy, nhưng phía thiện chỉ đưa ra những điều thiện hảo, bằng sự thưởng phạt công minh, nên rất khó dẫn dắt được những kẻ yếu lòng tin. Vì vậy, khi người bệnh còn sống, còn minh mẫn, họ đã được hướng dẫn tuyên xưng đức tin và thề hứa từ bỏ ma quỷ. Rồi đến khi cầu nguyện bên một người sắp chết, là người ta cầu xin ơn Chúa Thánh Thần ngự trị, tạo thành một hàng rào để bảo vệ quanh người bệnh, đẩy lùi các mưu ma chước quỷ của tử thần!

Cách đây mấy tháng, tôi có người bạn thân tên Nguyễn B.Lộc, cư ngụ tại trại lính Hoàng Diệu cũ, thuộc khu chợ Hòa Hưng. Anh đột ngột ra đi trong đêm tối khi mới có bốn mươi sáu tuổi đời. Bạn bè ai cũng thương tiếc vì anh sống rất hòa nhã và vui vẻ với tất cả mọi người, vợ con cũng vậy tiếc ngẩn ngơ vì mất đi một người chồng, người cha luôn coi gia đình làm trọng. Sau khi hỏa thiêu, tro cốt của anh được đem về đặt dưới bàn thờ trong nhà để gia đình và người thân đến cầu nguyện cho anh. Anh có hai đứa con trai, đứa sau mười lăm tuổi lại là đứa thương anh hơn ai hết. Từ khi anh chết, nó nhất định không chịu vào giường ngủ, mà cứ ngủ dưới chân bàn thờ, nơi có đặt di ảnh của anh và hũ tro cốt, với hy vọng sẽ được gặp bố. Mẹ nó cầm lòng không đặng, đau khổ hỏi nó muốn gặp bố làm gì, nó nói chỉ để hỏi tại sao bố đi đâu lâu quá mà mãi đến nay cũng chưa về? Ai can ngăn dỗ dành thế nào nó cũng không từ bỏ lời cầu nguyện tha thiết xin được gặp bố, và nó tin tưởng rằng Chúa sẽ có ngày cho bố nó về, vì bố rất thương yêu mọi người trong nhà.

Lời cầu xin của nó đã được đáp lại. Một đêm kia, khi nó nằm co quắp ngủ dưới chân bàn thờ thì có người lay nó dậy. Nó tưởng mẹ nó như mọi lần, nhưng không, chính bố nó đã hiện về! Nó mừng quá lập cập hỏi:

- Bố đi đâu mà lâu vậy? Bố có biết mẹ và các con khóc hết nước mắt vì nhớ bố không? Bố đi đâu vậy?

Bố nó lặng thinh đứng nhìn nó mà không trả lời, còn ngoảnh mặt quay đi như cố giấu giếm một điều gì bí ẩn. Thấy vậy nó lại hỏi:

- Tại sao bố không nói? Trước đây bố đi đâu cũng nói cho mọi người biết, giờ thì tại sao bố lại không nói?

Nói rồi nó ôm mặt khóc hu hu. Mẹ nó ngủ gần đó nghe tiếng nó khóc giật mình tỉnh giấc, chị sững sờ khi thấy bóng chồng đang đứng gần con, nhưng vì quá sợ nên chị chỉ biết bụm miệng ngồi co gối trên giường để nhìn. Bóng ma ông chồng lúc ấy mới nhẹ nhàng trả lời con:

- Bố chết rồi! Bố không thể nào trở về được nữa!

Thằng con khóc rú:

- Bố chết? Vậy ai bắt bố chết?

- Quỷ bắt bố chết! Quỷ đưa bố đi...

Thằng bé hốt hoảng:

- Vậy Chúa đâu? Bố có thấy Chúa không?

- Bố chưa thấy Chúa! Bố chưa thấy Chúa...

- Vậy bây giờ bố ở đâu? Bố có cần con gửi cho bố cái gì không?

- Bố chưa được gặp Chúa, con giúp bố đi...

Chị vợ của anh Lộc nghe tới đây, thấy đau thương quá, nén lòng không nổi liền bật òa lên khóc, hồn ma hốt hoảng tan nhanh như làn khói bị gió mạnh cuốn đi! Hôm sau hai mẹ con vội vã đem chuyện này ra kể với cha xứ Hòa Hưng để xin cha giúp ý, cha nói trong Thánh Lễ chiều nay cha sẽ chia xẻ điều này để xin cả giáo xứ cầu nguyện cho anh. Trong bài giảng hôm đó, cha xứ nói rằng, vì không kịp chuẩn bị cho giờ ra đi, nên anh Lộc đã không xác định được nơi chốn sẽ đến, vì vậy bọn ma quỷ đã ập đến để lôi kéo anh đi trong cái giờ phút mà chính anh cũng không ngờ. Nay nhờ những lời cầu nguyện anh đã hết lòng ăn năn thống hối, muốn được gặp mặt Chúa, nhưng chưa được vì còn bị giam ở “lò luyện tội”. Tuy vậy, nhờ Hồng ân của Thiên Chúa anh đã được cho về để nói với gia đình về điều còn đang bị vướng mắc. Rồi cha xứ nhấn mạnh:

- Con anh Lộc nói bố chưa được gặp Chúa, có nghĩa như là một lời cầu xin đầy ước ao rồi, và chúng ta phải giúp anh hoàn thành được ước nguyện đó.

Cái chết nào cũng là một sự mất mát, ra đi và không bao giờ trở lại. Nó khô khốc, bi quan và chán nản, nó tuyệt vọng và đau thương! Thế nhưng, đối với niềm tin của người Công Giáo, họ đã biến cái bi quan ấy thành một quan niệm lạc quan, vui mừng và hy vọng. Vì chết không phải là hết mà là bắt đầu một cuộc sống mới, họ coi cuộc sống trên dương thế chỉ là khởi điểm, và khi chết là đã hoàn tất cuộc hành trình trở về nhà Cha. Tuy nhiên, đối với một số người, cái chết vẫn còn mang vẻ huyền bí, vô lý, bởi đã là người thì ai cũng phải chết, nhưng giờ chết thì lại không ai định trước được! Bất cứ lời cảm ơn hay tặng vật nào của tang gia gửi đến cũng đều bị ông Thánh Sủng từ chối, ông nói:

- Các ông bà đừng làm mất ân nghĩa của tôi, vì người chết khi về được với Chúa thì chính họ sẽ cầu bầu lại cho chúng ta, là những người đã cầu nguyện cho họ. Đây là một cử chỉ bác ái và cũng là bổn phận của bất cứ người Công giáo nào.

Ông Thánh Sủng hơn người ở chỗ đã sớm giác ngộ để được biết cuộc sống đời sau mới thực là quan trọng, còn mọi thứ khác ở trên đời này đều là phù vân, mộng ảo. Vì vậy ông đã áp dụng đúng mức hai giới răn quan trọng nhất khi sống ở cõi trần gian tạm bợ này là “mến Chúa và yêu người”, và ông chọn con đường khó khăn và gian nan nhất là yêu những người... sắp chết. Tôi tin là ông Thánh Sủng đã “nhìn” được những gì ở đằng sau mỗi cái chết mà ông đã chứng kiến. Bởi có lần một ông hàng xóm qua đời mà nhất định không chịu ăn năn thống hối để trở lại với Chúa, ông đã rầu rĩ khóc lóc, và đi hết chỗ này chỗ nọ để xin Lễ cho người đã chết! Ông kể:

- Tôi bất lực khi đánh mất một Linh hồn, để Linh hồn này rơi vào tay ma quỷ. Tôi sẽ cầu nguyện cho ông ấy suốt những ngày còn lại của đời tôi!

Người hàng xóm kể:

- Lúc nghe tin có người bệnh này, ông đã đến ngay nhưng bị xua đuổi, nhưng ông vẫn quỳ bẹp ngoài sân cùng với những người khác trong gia đình để cầu nguyện. Lợi dụng lúc người bệnh đã mê man, ông vào bắt mạch và biết giờ người này sẽ ra đi, ông vạch ra một kế hoạch để quyết đấu với ma vương. Ông dùng nước phép vẩy quanh nhà, treo lại các ảnh tượng, rồi cắt cử luân phiên cho các tốp người đọc kinh trợ lực. Thế nhưng, khi người bệnh tắt thở, ông nhạt nhòa nước mắt nói rằng:

- Ông ấy đã bịt tai, nhắm mắt, và đưa tay cho bọn quỷ dữ...

Người nhà của ông này cũng xác nhận như vậy, vì trong ba ngày quàng xác tại nhà, ông ta đều hiện về với hình ảnh rũ rượi, đau thương, và tru lên những tiếng kêu thống thiết! Trước khi lên đường trở lại Úc, tôi đã đến tận nhà để cảm ơn ông Thánh Sủng, ông nói ngay lời xin lỗi đã không đến dự bữa cơm gia đình sau đám tang của mẹ tôi, nhưng ông hứa sẽ tiếp tục cầu nguyện cho mẹ tôi trong vòng một trăm ngày, và yêu cầu mọi người thân trong gia đình cũng làm y như vậy, để linh hồn của người chết mau chóng được về chốn an bình. Tôi nói với ông, tôi tin có sức mạnh ở lời cầu nguyện, vì trong đời tôi đã có nhiều lần nguy biến mà nhờ sự thành tâm cầu khẩn mà tôi và những người thân đã vượt thoát qua được lưới bủa của tử thần.


Nguyễn Vi Túy

Thanked by 1 Member:

#318 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/09/2011 - 08:09

LINH HỒN BẮT TRỘM

Một tên trộm ở Malaysia khẳng định anh ta bị một “nhân vật siêu nhiên” bắt giữ trong ba ngày, mà không hề được ăn hoặc uống, trong khi đột nhập vào ngôi nhà vắng chủ. Một cặp vợ chồng người Malaysia trở về nhà tại thành phố Kampung Binjai sau kỳ nghỉ lễ, đã phát hiện một thanh niên hai mươi sáu tuổi bất tỉnh trên sàn nhà, vì kiệt sức đói và khát. Họ đã nhanh chóng gọi xe cứu thương và sau đó điện thoại cho cảnh sát. Tên trộm đã khai với cảnh sát rằng sau khi lẻn vào nhà bằng cửa sau, hai mắt anh ta bỗng dưng tối sầm lại như có người bịt chặt, và cảm thấy như lạc vào trong một hang động tối tăm.

Tên trộm khai:

- Mỗi lần muốn bỏ chạy, tôi lại cảm thấy một sức mạnh siêu nhiên đang đẩy tôi xuống đất.

Kết quả là tên trộm đã bị giam cầm bởi linh hồn trong bảy mươi hai giờ đồng hồ, không thức ăn nước uống. Cặp vợ chồng chủ nhà ngoài năm mươi tuổi cho biết họ đã đi nghỉ lễ Hari Raya Haji của đạo Hồi. Khi trở về và mở cửa nhà, họ phát hiện tên trộm đang nằm trong một căn phòng, đan tay vào nhau trong một cử chỉ xin lỗi vì hành động ăn cắp. Thay vì thông báo ngay cho cảnh sát, chủ nhà đã quyết định gọi một chiếc xe cứu thương, để nhanh chóng đưa tên trộm đến bệnh viện gần nhất. Tên trộm khẳng định đây là lần đầu tiên, anh ta phải trải qua một chấn thương tâm lý hãi hùng đến như vậy. Tên trộm đã không có lựa chọn nào khác là ở lại trong căn phòng trong ba ngày, vì mọi tiếng gào thét kêu gọi sự giúp đỡ đều vô vọng.

Ông Abdul Marlik Hakim Johar phó cảnh sát trưởng vùng Kemaman, cho biết hiện nay tên trộm đã trở lại tình trạng ổn định, sau khi được đưa đến cấp cứu tại bệnh viện Kemaman.

Star

Thanked by 1 Member:

#319 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/09/2011 - 08:13

CẦU CƠ BỊ MA NHẬP

Ở xóm tôi vào khoảng ba năm về trước, có một gia đình gồm hai vợ chồng và ba đứa con. Nếu người con gái lớn còn sống năm nay cũng được khoảng hai mươi ba tuổi. Chuyện xảy ra với cô bé này cũng vì tánh tò mò của tuổi mới lớn, em đã nghe lời những đứa bạn cùng vào nghĩa địa để chơi cầu cơ, khi về đến nhà em đã bị chính cái vong đó theo và nhập luôn vào người. Từ đó trở đi em thành một người khác hẳn, suốt ngày nói nhảm một mình, đêm đến thì không ngủ mà chỉ nhìn vào vách tường và nói chuyện một mình, gia đình vì sợ quá cho nên nhốt em trong nhà, và không cho ai trong xóm biết cả.

Tình trạng như thế xảy ra vài tháng, thì một hôm người chú của cô bé này trong xóm bằng tuổi tôi, nên chúng tôi coi nhau như bạn. Người chú này có gia đình và ở riêng, nên lâu lâu cũng về thăm người anh của mình. Tức là Ba của cô bé bị nhập. Hôm đó cậu ta vô tình đến nhà nhưng không đóng cửa, thế là cô bé được dịp nên đã bỏ chạy ra khỏi nhà và leo lên nhà của một người khác, không may em bị xẩy tay rớt xuống, gãy xương cổ và bể xương hàm được người ta đưa vào bệnh viện vài ngày sau thì chết. Sau khi đám ma em xong, gia đình dọn dẹp nhà cửa vô tình thấy một cuốn sổ tay của em, đã ghi lại bệnh tình của mình vào những lúc em được tỉnh!

Em đã kể trong cuốn sổ tay, người mà nhập vào em là một con Quỷ đã chết hơn sáu trăm năm và muốn bắt em để theo hầu cho hắn, cuối cùng hắn đã thành công em đã chết, sau khi bắt được em rồi con Quỷ này muốn bắt luôn đứa em gái của em, nên đứa em này cũng có hiện tượng nói nhảm giống như chị của mình. Gia đình vì quá sợ hãi nên đã đưa người em này ra Hà Nội và sau đó thì dọn nhà đi nơi khác. Chuyện của người em như thế nào rất tiếc là không được biết kết quả như thế nào? Vì họ đã dọn nhà đi, và người chú của những cô gái đó cũng không còn ghé xóm chúng tôi nữa, nên không biết câu chuyện cuối cùng như thế nào!

Đây là một câu chuyện thật, tôi khuyên những người hằng ngày có ý định chơi cầu cơ để xin số đánh đề! Hay bất cứ hình thức gì, cũng đừng nên thử nếu không sẽ ân hận đấy. Nhiều chuyện đau lòng đã xảy ra rồi...Tôi cũng đã từng chơi cầu cơ rồi, lại là người ngồi cho cơ chạy và đọc lời thỉnh nguyện luôn mới ghê chứ. Bây giờ tu hành rồi mới thấy lúc trước sao mình ngu và dại thế không biết.

Khang

Thanked by 1 Member:

#320 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/09/2011 - 08:21

KIÊM QUẬN CÔNG THÁI BÁ KỲ

Năm Bính Tý 1567 tướng nhà Mạc là Hữu quận công Nguyễn Thiện đem quân vào cướp châu Hoan. Vua Lê Quang Hưng sai Chân quận công Thái Bá Du cùng hai tướng khác là Nguyễn Cảnh Hoan và Lai quận công Phan Công Tích con rể Thái Bá Du, xuất binh đánh dẹp. Với sự giúp đỡ của tám người con trai, tất cả đều là dũng tướng, đặc biệt có con cả Kiêm Quận công Thái Bá Kỳ cầm quân đi tiên phong, đô đốc Thái Bá Du trong một trận đã giết hơn nghìn quân Mạc, được vua Lê phong thưởng hai phiến bài vàng, ba con voi và mười ngựa chiến. Sau khi quân Nguyễn Quyện bị đánh bại phải lui về Thanh Hóa tập hợp lực lượng, vua còn ban chiếu chỉ khen “Chân quận công Thái Bá Du giúp rập nước nhà, công nghiệp lớn lao thật không phụ trách nhiệm”, thưởng thêm ba nén vàng, ba phiến bài vàng, cấp bổng lộc hai huyện và trấn phong tước vị Thiếu bảo Chân Quận công.

Tiếp đến, vào năm Cảnh Hưng thứ mười lăm, vua Lê lại sai Thái Bá Du cùng các con và Thư quận công Nguyễn Cảnh Kiên theo Bình An vương Trịnh Tùng dẫn đại binh đánh Mạc Mậu Hợp nhằm chiếm lại Đông Đô. Trong trận quyết định ở Cầu Giền phía nam Hà Nội, với thế áp đảo về quân số, quân vua Lê giành thắng lợi lớn, bắt sống vua Mạc cuối cùng là Mạc Mậu Hợp. Đóng góp không nhỏ cho chiến thắng này là đạo quân của Thái Bá Du và các con trai Thái Bá Kỳ, Thái Bá Phiên, Thái Bá Tỉnh, Thái Bá Chiến, Thái Bá Hộ, Thái Bá Phúc, Thái Bá Vinh và Thái Bá Đức. Liên quan đến trận đánh này, dòng họ Thái Bá ở Nghệ An có lưu truyền một câu chuyện như sau về người con cả của Thái Bá Du là Phò mã Kiêm quận công Thái Bá Kỳ, được vua ban sáu chữ vàng “Trí dũng trung đẳng đại vương” và gả con gái cho là Lê Thị Công chúa, hiệu Đoan Trang Trinh Thục Tôn Linh, nay còn đền thờ chính ở xã Kim Lai, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương.

Câu chuyện này không thấy ghi trong gia phả dòng họ hoặc chính sử, nhưng được cháu con truyền tụng hết đời này sang đời khác, lâu dần thành việc ai cũng tin có thật. Đó là chuyện lần ấy, trong trận Cầu Giền lịch sử, Kiêm Quận công Thái Bá Kỳ được thân phụ sai dẫn mấy nghìn tinh binh thọc sâu vào trận địa quân Mạc, với ý định làm rối đội hình đối phương rồi đánh bật lại, hỗ trợ cho đại binh sẽ kéo đến sau. Ngài cưỡi con ngựa chiến màu huyết dụ tuyệt vời mới được vua ban, giáp trụ sáng ngời với thanh đại đao mà người bình thường khó cầm vững trong tay chứ chưa nói vung lên hạ xuống làm đầu giặc rụng như sung. Ngài luôn đi trước xông pha mở đường làm gương cho các phó tướng và binh sĩ. Ngài đi đến đâu, quân Mạc tan tác đến đấy. Tuy nhiên vì ham đánh, không biết tự lúc nào, ngài chợt thấy mình đang đứng trước chân thành Đông Đô.

Ngoái lại thì thấy giặc đã bao vây bốn phía. Một lính của ngài phải chống trả bốn năm lính địch, còn ngài thì tả xung hữu đột luôn tay chém giết, quyết mở đường máu quay về với đại binh của thân phụ ngài. Lúc ấy đã ngả về chiều. Trời âm u lại lác đác mưa. Xung quanh la liệt xác chết và những ngọn khói hiệu phía xa xa. Đang lúc ngài mải giao chiến với hai tướng nhà Mạc trước mặt thì một tên thứ ba lén phi ngựa đến từ phía sau rồi giơ cao thanh đao sáng loáng của hắn. Em trai ngài là Thái Bá Chiên, Phò mã Phụ mạ Hoành Quận công (Vợ là Trịnh Thị Công chúa, hiệu Từ Huệ Trinh Thục Tôn Linh, đền thờ hai người ở xã Vĩnh Phúc, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Thái Bá Chiến sau này được ban phong “Dũng Lược Trung Đẳng Đại Vương”) luôn ở bên cạnh.

Hoành Quận công Thái Bá Chiến chưa kịp kêu to báo điều nguy hiểm cho huynh trưởng thì đầu của chủ tướng Thái Bá Kỳ đã bị chém lăn xuống đất. Quân Mạc reo hò vang dậy, tưởng nắm chắc phần thắng trong tay. Tuy nhiên, vị tướng nhà Lê vẫn ngồi yên trên ngựa, không đầu, không thấy máu chảy. Ngài quay lại, chém một nhát xẻ đôi người tên kia. Quân giặc thấy thế cả kinh, chỉ biết há mồm, trợn mắt đứng yên như trời trồng. Thừa thế, quân Lê lại lao vào chém giết. Một người cúi nhặt chiếc đầu bị chém, giơ hai tay đưa lên cho ngài. Ngài bình thản đặt lên cổ mình, tiếp tục giao chiến. Chốc chốc, để hù dọa, ngài nhấc đầu mình lên cầm trên một tay, tay kia giơ cao ngọn đại đao sáng loáng. Quân tướng nhà Mạc sợ quá, bỏ chạy tán loạn, không đánh đã tan. Tối hôm ấy trở lại bản doanh, chỉ khi quỳ xuống cúi chào thân phụ và bẩm báo kết quả trận đánh, đầu ngài mới rơi xuống đất, trước sự ngạc nhiên của đô đốc Thái Bá Du và quân tướng trong trại...

***

Một truyền thuyết đẹp đượm màu huyền thoại. Theo gia phả họ Thái Bá, thì Phò mã Kiêm Quận công Thái Bá Kỳ thuộc hàng đại thọ, giặc tan, sống hạnh phúc với Lê Thị công chúa và một đàn cháu con thành đạt. Có lẽ câu chuyện trên chỉ được thêu dệt để tôn vinh khí phách, lòng dũng cảm của ngài và binh sĩ dưới quyền ngài. Điều này có thể hiểu được và dễ châm chước. Vả lại, nó là chuyện của thời xa xưa không ai kiểm chứng và có lẽ cũng không cần kiểm chứng. Nhưng chuyện dưới đây thì hoàn toàn có thật, ít ra theo lời kể của ông trưởng họ trông coi nhà thờ dòng họ Thái Bá ở Đô lương, Nghệ An.

Chuyện rằng vào năm 1953 và cả mấy lần sau này nữa, khi ở Nghệ An quê tôi rộ lên cái việc đáng hổ thẹn là đập phá đền chùa, thì chính ngài, Kiêm Quận công Thái Bá Kỳ, đã làm người ta phải chùn tay, do vậy nhà thờ tổ họ Thái mới giữ được đến ngày nay, dù bị mất mát khá nhiều. Số là trong nhà thờ có tượng ngài bằng gỗ sơn son thếp vàng, và như các cán bộ đập phá thời ấy kể lại, thì cái đầu của ngài đã xoay đúng một vòng quanh cổ, để trợn mắt nhướng mày nhìn hết lượt những người đang đứng xung quanh với dao búa trong tay. Thấy thế họ hoảng sợ bỏ chạy, không dám làm gì. Tuy nhiên, ông trưởng họ bị một phen long đong về tội xúi thần linh cản trở cách mạng xóa bỏ mê tín dị đoan và xây dựng nếp sống văn hóa mới. Nhờ thế mà nhiều đền chùa miếu mạo trong vùng được nương tay hơn.

Nhà thờ họ Thái Bá chúng tôi ở Đô Lương thờ cụ tổ Thái Bá Du, năm 1993 được nhà nước cấp bằng công nhận Di tích Lịch sử Văn hóa, để ghi nhận công lao các công thần danh tướng họ Thái Bá đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước các triều vua trước đây. Kèm theo bằng là các ghi chép cụ thể về cuộc đời và sự nghiệp những người danh tiếng trong dòng họ. Nổi bật nhất là vị tổ thứ bảy Thái Bá Du 1521-1582, người sau này được phong chức Thái Phó, chức quan thứ hai trong hàng Tam Công của triều đình nhà Lê. Cụ có tám người con trai đều nối dõi binh nghiệp của cha, hai người là phò mã được phong tước Quận công, sáu người còn lại mang tước hầu, có đền thờ rải rác khắp nước. Sáu con gái của cụ thì một lấy vua Lê Thần Tông (Thái Ngọc Thụy), một lấy vua Lê Triết Vương (Thái Ngọc Bản), người nữa lấy Chúa Trịnh (Thái Ngọc Quỳnh).

Ba người còn lại là vợ các Quận công danh tiếng trong triều. Hàng cháu chắt cụ cũng nhiều người làm nên công sự lớn, trong đó có cụ tổ chi Diễn Châu của tôi là Thái Bá Đậu, sau này được vua Nguyễn phong là Mậu Quốc công Trụ quốc Trung trật, coi như rường cột triều đình. Vậy là dòng họ Thái Bá trải qua bao đời vua chủ yếu nổi tiếng nhờ các quan võ. Quan văn đến nay mới chỉ biết đến một người là Thái Thuận, cố của Thái Bá Du. Cụ Thái Thuận sinh 1441 năm mất không rõ, đậu tiến sĩ khoa ất Mùi năm 1475, làm việc ở quán các dưới triều vua Lê Thánh Tông hơn hai mươi năm, một thời gian còn kiêm chức Tham Chính tỉnh Hải Dương. Cụ làm thơ hầu như suốt cả đời mình, có tới hàng nghìn bài nhưng chỉ lưu được tập Lã Đường Di Cảo hơn hai trăm bài, người đời hết lời ca ngợi. Trong tập Truyền Kỳ Mạn Lục, Nguyễn Dữ dành hẳn một truyện viết về cụ, là truyện Kim Hoa Thi Thoại Ký.

Vua Lê Thánh Tông phục tài thơ Thái Thuận mà đặc phong cụ làm Tao Đàn phó nguyên suý, chỉ sau vua là chánh. Cụ mất và được an táng tại làng Liêu Lâm, huyện Siêu Loại, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nơi còn lưu được chiếc miếu nhỏ thờ cụ. Một trường trung học ở thị xã Bắc Giang hiện mang tên Thái Thuận. Ông nội cụ là Thái Bá Tâm, một người nổi tiếng đời Trần, từng theo Trần Tùng Quang đánh quân nhà Minh, giữ chức Tư lệnh Quân vụ.

***

Tôi nay đã thuộc lớp người già, mà người già thì hay có những trò bị coi là lẩm cẩm. Thi thoảng tôi giấu gia đình vào Quốc Tử Giám, ngồi tựa lưng vào tấm bia tiến sĩ có khắc tên cụ tổ để được gần cụ, được hưởng chút hơi hướng văn thơ của cụ, hoặc đơn giản được sung sướng nghĩ rằng tôi là người có gốc có rễ, gốc rễ bám rất sâu vào lịch sử dân tộc. Cách đây không lâu tôi đưa vợ về quê, dẫn ra nghĩa trang chi Thái Bá ở Diễn Châu, trên một ngọn đồi gần làng. Trước bàn thờ là lăng cụ tổ Thái Bá Khiếu với tấm bia đá ghi rõ công trạng cụ. Phía dưới là mấy dãy mộ các đại gia đình trong họ, ngắn dài tùy theo số lượng người đã chết. Tôi chỉ vào phần đang dành sẵn cho tôi và nói:

- Tôi và bà sau này sẽ nằm đây!

Vợ tôi một người Hà Nội gốc lại còn trẻ chỉ cười không nói gì. Thế mà tôi buồn mất mấy ngày. Tất nhiên cả điều này cũng bị vợ coi là lẩm cẩm. Hôm sau chúng tôi đi xe đò lên Đô Lương viếng nhà thờ gốc của dòng họ Thái Bá thờ cụ tổ mà cháu con rất đỗi tự hào là Tả Tư mã, Thái phó Thái Bá Du. Trong nhà thờ có nhiều tượng lớn nhỏ mà thú thực tôi chẳng biết rõ tượng nào là của ai, trừ tượng cụ tổ. Tôi thơ thẩn hồi lâu, cố tìm một điều và cuối cùng đã tìm thấy nó. Một vết cắt rất mảnh quanh cổ pho tượng ngay bên phải dưới tượng cụ tổ. Chắc đây là tượng cụ Thái Bá Kỳ, Phò mã Thái Bảo Kiêm Quận công, Trí dũng trung đẳng đại vương, kỵ sĩ không đầu trong trận Cầu Giền oanh liệt đại thắng quân Mạc năm Quang Hưng thứ mười lăm!

Tối hôm ấy (thêm một trò lẩm cẩm nữa của người già), tôi xin phép ông trưởng họ được ngồi lại một mình trong nhà thờ, lúc nào muốn thì về nhà ông ngủ. Tôi ngồi yên rất lâu trong sự im lặng gần như tuyệt đối, dưới ánh đèn điện màu hồng hình nến cao trên bệ thờ, giữa bao nhiêu là tượng, bài vị, gươm giáo và cả một đôi ngựa gỗ. Trong đầu tôi chẳng có ý định gì cụ thể. Từ lâu đã qua cái tuổi sợ và tin những điều vẩn vơ, nhưng lúc ấy tôi rất muốn và cố tình chờ ai đấy trong số các bức tượng, cụ Thái Bá Kỳ chẳng hạn, sẽ từ từ bước ra thành người thật như trong các truyện ma tôi viết gần đây. Có thể các cụ sẽ cho biết thêm đôi điều về về lịch sử dòng họ chăng? Có thể các cụ sẽ trách mắng tôi và lũ hậu duệ hèn nhát, bất tài chăng? Quả thật tôi chẳng biết và chẳng nghĩ tới điều đó.

Đơn giản tôi muốn được nhìn thấy ai đấy trong số các cụ. Thậm chí tôi gần như tin điều kỳ diệu này nhất định sẽ xẩy ra. Thì đã gọi là người già hay lẩm cẩm. Tôi tin và kiên nhẫn ngồi chờ trong trạng thái lâng lâng mê muội. Mấy lần tôi nghe có tiếng sột soạt, tiếng gì rất lạ và bí ẩn. Tôi nhắm mắt, hy vọng khi mở ra sẽ thấy điều kỳ diệu. Cuối cùng lúc ấy đã quá nửa đêm, tôi chợt nghe có tiếng động và tiếng bước chân rất nhẹ, những âm thanh có thật và mỗi lúc một rõ hơn. Tôi nín thở chờ đợi. Tiếng bước chân đã rất gần, hình như ngay bên cạnh, và tôi từ từ mở mắt.

- Ông lẩm cẩm vừa thôi. Khuya rồi không về ngủ, còn ở đây làm gì?

Trước mặt tôi không phải cụ Thái Bá Kỳ oai phong lẫm liệt, mà là bà vợ cau có được ông trưởng họ dẫn đi tìm chồng. Tôi miễn cưỡng đứng dậy, lần nữa buồn bã nhìn ông tượng có đường cắt rất mảnh quanh cổ. Vì lý do nào đó, ngài đã không hiện lên với tôi, nhưng tôi thấy ngài hình như đang nheo một mắt tinh nghịch và mỉm cười. Là người viết truyện ma, tôi có thể dễ dàng phịa ra đủ chuyện, nhưng đây là chuyện nghiêm túc liên quan đến tổ tiên dòng họ, tôi phải trung thành với sự thật. Cái sự thật đó là lúc ấy có một trong những cụ tổ của dòng họ Thái Bá đã nhìn tôi với nụ cười bao dung thông cảm

Thái Bá Tân

Thanked by 1 Member:

#321 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/09/2011 - 08:27

MA HIỀN

Đêm cuối tháng, trời không trăng nhưng chi chít những chấm sao mờ. Sau mấy ngày nắng nóng, nhờ cơn giông buổi chiều, lúc này không khí thật mát mẻ dễ chịu. Xung quanh vắng vẻ, yên tĩnh, khác hẳn với cái World Cup hừng hực ồn ào ở thành phố, nơi người ta đang chăm chú dán mắt vào màn hình vô tuyến, hăng hái bình luận, hăng hái tranh cãi hoặc cá cược nhau. Nếu không vì miếng cơm manh áo thì nhân vật chính câu chuyện của chúng ta, chắc chắn cũng đang say mê cái niềm vui, bốn năm mới có một lần ấy của cả thế giới. Tiếc rằng bác nghèo, phải kiếm sống bằng nghề xe ôm bất kể giờ giấc. Hơn thế, như nhiều người nghèo khác, bác ôm mộng bỗng chốc thành giàu, bằng chơi lô đề và cá cược đủ loại.

Rất có thể dịp bóng đá này sẽ giúp bác thực hiện ước mơ đó. Bây giờ thì phải có tiền đã, như muốn câu cá lớn, trước hết phải có cá con làm mồi. Vậy là lúc ấy nhân vật của chúng ta đang đi làm. Ta hãy gọi bác bằng tên cho tiện. Vâng, bác tên là Sáu Râu, mặc dù mặt mũi nhẵn nhụi và không hề có sợi râu nào. Có thể trước có nhưng nay thì không, hoặc đã bị cạo nhẵn. Mà thôi, chi tiết này không quan trọng. Hơn chín giờ tối, Sáu Râu được một cô gái nhờ chở từ Hà Đông về Văn Điển. Cô mảnh dẻ hình như xinh vì trời tối không nhìn rõ. Giọng nói cũng nhỏ nhẹ và có cái gì đấy thật mủi lòng. Vì thế Sáu Râu mới nhận đi, chứ nếu là thanh niên thì chắc chẳng dám. Quãng đường này vắng và thường nguy hiểm. Dọc đường mấy lần bác định bắt chuyện, nhưng thấy khách không mặn mà nên thôi. Sắp tới nghĩa trang, bác cười hỏi:

- Cô có sợ ma không?

- Trước có, nhưng bây giờ thì không.

- Lạ nhỉ.

Sáu Râu tò mò.

- Vì sao?

- Vì bây giờ tôi đã là ma. Tôi chết Tết vừa rồi. Chôn ở đây. Hay bác vào thăm chỗ tôi một chốc?

Thấy người lái xe im lặng, cô gái nói tiếp:

- Bác không tin à? Vậy quay lại mà xem.

Sáu Râu ngoái lại, chẳng thấy cô gái ngồi sau lưng nữa. Lớp da nửa chiếc yên trống bàng bạc dưới ánh sao. Sáu Râu sững sốt đến mức phanh két xe lại, đang định bước xuống thì vướng chân vào người cô gái, vẫn đang ngồi trên nửa chiếc yên trống lúc nãy.

- Sao bác không đi tiếp?

Cô kia hỏi, hình như cố nín cười.

- Cô làm cái trò gì thế?

Sáu Râu cố tình nói vẻ gắt gỏng để che dấu nỗi sợ của mình. Quả thật Sáu Râu đang rất sợ, sợ đến muốn khuỵu xuống đất.

- Ma mà được như cô thì tôi cũng muốn làm ma...

- Bác vẫn chưa tin à?

Cô gái nói, và lần nữa biến mất để rồi lại xuất hiện ngay sau đó. Sáu Râu không nói gì thêm muốn bỏ chạy, muốn kêu to nhưng không hiểu sao vẫn đứng bất động.

- Ta đi tiếp đi bác.

Cô gái nói:

- Vậy là bác đồng ý vào thăm chỗ tôi rồi nhé!

Tự nhiên chiếc xe nổ máy. Sáu Râu lại thấy mình đang cầm lái, nhưng người thực sự điều khiển xe là cô gái ngồi phía sau. Giờ thì không nghi ngờ gì nữa, bác thầm lo sợ nghĩ, mình đã gặp ma. Hơn thế, còn bị bắt cóc đưa xuống âm phủ. Đến cổng nghĩa trang, xe rẽ trái, rồi cứ thế lao thẳng vào chiếc cổng sắt đang đóng chặt với cuộn dây xích buộc mấy vòng qua hai cánh. Sáu Râu hoảng hốt lo tai nạn, nhưng lạ thay, nó vẫn phóng vào như không có gì ngăn cản. Bác không tin nổi mắt mình. Chiếc cổng nặng nề không hề mở mà xe bác chẳng va phải gì. Một điều lạ nữa là lúc ấy đang có hai nhân viên bảo vệ ngồi uống nước bên cạnh, thế mà họ không nhìn thấy gì, nghe gì. Chiếc xe đi tiếp. Sau khi nhẹ nhàng xuyên qua một ngôi nhà nhỏ, một bức tường và mấy ghế đá, nó bắt đầu đi xuống theo con đường nhờ nhờ tối và mỗi lúc một sâu thêm.

Sáu Râu từng nhiều lần đến nghĩa trang Văn Điển, biết chắc ở đây không có con đường nào thế này. Không thấy mặt đường nhưng bác nghĩ chắc nó được trải nhựa vì xe đi êm và rất nhanh. Bên tai có tiếng vun vút như gió thổi ngược. Cuối cùng chiếc xe đi vào một thành phố, hình như cũng bình thường như nhiều thành phố khác. Có điều ở đây mọi cái nhỏ hơn, mờ ảo hơn, đặc biệt rất vắng vẻ và yên tĩnh. Không hề có tiếng động nào. Không hiểu lúc ấy là đêm hay ngày, chỉ thấy âm u, không tối cũng không sáng. Hai bên phố nhà xếp thành hàng rất đều, chỉ một tầng, màu đỏ hoặc vàng, tất cả đều có mái bốn góc uốn cong. Trước nhà nào cũng có một phiến đá lớn dựng thẳng đứng, có lẽ vừa làm cổng, vừa làm nơi ghi tên chủ nhà. Trên phố lác đác người qua lại, toàn mặc quần áo màu vàng, mỗi lần gió thổi nhẹ lại bay lên, trông như được làm bằng giấy. Có cả xe máy và ô tô, cũng màu vàng và cũng có vẻ nhẹ tênh như giấy. Tất cả không phải chuyển động mà cứ như lướt nhẹ trên mặt đường.

Sáu Râu ngồi đơ người trên xe, muốn hỏi cô gái đây là đâu mà không nói được. Cảm giác sợ hãi ban đầu dần dần nhường chỗ cho sự tò mò kinh ngạc. Hóa ra âm phủ là thế này đây. Có vẻ chẳng đáng sợ như miêu tả trong truyện cổ tích. Bác cấu mạnh vào má, thấy tê tê, chứng tỏ không phải đang mơ, rồi cố tình chạm vào người ngồi phía sau. Dẫu không có cảm giác người thật, nhưng vẫn là cái gì đó hữu hình chứ chẳng phải không khí. Cô gái này đúng là ma, hẳn thế, nhưng chắc không phải ma ác. Chưa thấy có dấu hiệu nó sẽ hại bác. Cuối cùng, chiếc xe tự động dừng lại trước một ngôi nhà nhỏ, hình như mới xây và sơ sài.

- Nhà tôi đây.

Cô gái nói khi hai người xuống xe đi vào và bật đèn. ánh đèn không trắng vàng, mà xanh nhờ nhờ như ở những nhà khác họ vừa đi ngang.

- Tôi mới xuống đây nên mọi thứ còn bừa bộn.

Sáu Râu đưa mắt nhìn quanh. Căn phòng nhỏ chỉ dành cho một người. Trên tường treo vòng hoa toàn màu trắng, chứng tỏ cô này chết chưa chồng. Chiếc bàn thờ kê ở tường đối diện, cùng lư hương đang nghi ngút khói và bức ảnh người chết trăng trắng.

- Ra đây là âm phủ?

Sáu Râu nói khi hai người ngồi xuống chiếc bàn trà bằng gỗ tạp cũ kỹ, tự lấy làm lạ nghe tiếng mình xa xăm rất khác.

- Không đến nỗi nào!

Bác cố lấy giọng vui vẻ rồi đưa mắt nhìn kỹ người khách kỳ lạ. Đó là một cô gái xinh đẹp, còn trẻ, chắc chưa quá hai mươi lăm, tóc lượn sóng phủ chấm vai, nước da trắng bệch, đôi mắt đen tròn và sâu.

- Vâng, đây là thế giới bình thường của người đã chết, nói chung chẳng khác mấy so với trên ấy...

- Còn địa ngục? Người ta nói kẻ ác chết phải xuống địa ngục để chịu bao điều kinh khủng...

- Địa ngục ở tầng dưới cùng, đây chỉ mới tầng trên nhất, cho những con ma lương thiện, ở đây ma cũng phải vất vất kiếm sống như người, bằng đủ các nghề và mánh khóe, có khi còn gian xảo hơn. Thế giới của ma với nhau mà.

Sáu Râu trố mắt ngồi nghe.

- Thế cô làm nghề gì?

- Tôi vốn là kế toán một công ty lớn, nhưng nay sẽ xin làm cô giáo cấp một. Dưới này cũng có trường học, có ma con nít làm học trò, nhưng tôi mới xuống, chưa xin được. Vả lại, thế giới âm phủ cũng quan liêu, phức tạp lắm. Người ta bảo làm cô giáo thì lý lịch phải trong sạch, mà tôi lại có vấn đề. Số là khi còn sống, do tôi biết rõ các hành vi tham ô của ban giám đốc, người ta đã xô tôi xuống sông, rồi bảo em tự tử vì bị thụt két nhà nước. Hôm nay tôi đến Hà Đông để kêu oan với ông chánh án, nhưng ông ta không tin...

- Đã là ma, sao cô không báo oán những kẻ vu oan cô? Bắt chúng chết chẳng hạn. Cô thiếu gì phép lạ.

- Tôi không làm được điều ấy. Vì tôi không phải ma ác. tôi là ma hiền. Mà rồi có muốn cũng không làm được.

Thực ra nói chung ma chẳng làm được gì để hại người, ngoài việc báo mộng khiến họ ăn năn hối lỗi. Tôi thậm chí không mở được két cơ quan để lấy các chứng từ gian lận đưa cho ông chánh án làm bằng chứng. Cũng có thể ông ấy không cần đến chúng. Ma không hối lộ được người vì chỉ có tiền âm phủ.

- Xưa nay tôi cứ nghĩ chết là hết, chết là thoát cái nợ đời, và rằng chẳng có ma quỉ gì cả.

- Trước tôi cũng nghĩ vậy, và rất mong được như vậy. Đằng này làm ma khổ lắm, nhất là ma hiền như tôi.

- Ít ra ở đây yên tĩnh hơn.

- Tại bác không nghe thấy đó thôi. Dưới này cũng đinh tai nhức óc không kém. Suốt ngày hết lũ ma điên kêu thét, bây giờ lại đến cái trò bóng đá World Cup này nữa. Đấy, người ta đang reo hò ầm lên đấy. Chắc bóng lại vào lưới.

Cô gái nói, nhăn mặt như khó chịu vì tiếng ồn.

- Sao, dưới âm phủ cũng có tivi và ma cũng xem bóng đá?

Sáu Râu vội hỏi.

- Có chứ. Thì đã bảo tất cả y hệt như trên ấy mà. Bác có thích xem không để tôi bật máy?

Cô gái nói rồi giơ tay về phía trước, khẽ bấm ngón trỏ. Ngay lập tức trên tường xuất hiện chiếc màn hình vô tuyến loại nhỏ.

- Các chương trình trên ấy dưới này chỉ bắt được đen trắng, lại hơi nhiễu. Của bọn tôi làm mới có màu.

Tivi đang phát trực tiếp một trận bóng đá từ Seoul. Quả có hơi bị nhiễu nhưng nhìn khá rõ. Trận đấu diễn ra sôi nổi và đang vào hồi kết thúc. Cả biển người reo hò ầm ĩ (nhìn cử chỉ thì biết chứ không có tiếng, hoặc có nhưng không nghe được), tay giơ cao những lá cờ chính giữa có hình tròn màu trắng. Họ là cổ động viên của đội có cầu thủ nhỏ con hơn. Mấy phút sau trên màn hình xuất hiện kết quả trận đấu: 2-1.

- Ủa, ra đây là trận Ba Lan gặp Hàn Quốc?

Sáu Râu ngạc nhiên kêu lên.

- Theo lịch, trận này ngày mai, mồng bốn tháng Sáu, mới đấu cơ mà?

- Dưới này nhanh hơn trên ấy hai mươi bốn giờ. Đúng một ngày đêm.

Cô gái giải thích.

- Anh cũng mê bóng đá à?

- Vâng.

- Cả cá độ nữa?

Sáu Râu ngập ngừng một chốc:

- Đúng thế. Nhưng chỉ cho vui thôi.

- Dưới này người ta cũng máu mê cái trò ấy lắm. Khối anh tan cửa nát nhà, hoặc thậm chí bị đày xuống các tầng sâu hơn vì nó...

- Cô nói ở đây nhanh hơn một ngày đêm? Nghĩa là hiện giờ trên ấy mới mồng ba tháng Sáu, và ngày mai trận Ba Lan Hàn Quốc mới diễn ra?

Sáu Râu ngắt lời, hỏi.

- Vâng, bác định cá cược trận này à?

- Sao lại không? Tôi biết trước kết quả. Tôi sẽ thắng, sẽ thu lại những khoản tiền xưa nay đã thua. Sẽ trở thành giàu có.

- Tùy bác thôi. Nhưng theo tôi thì không nên dính vào các trò may rủi. Chúng chẳng bao giờ mang lại điều gì hay ho đâu.

Một chốc sau, Sáu Râu tỏ ý muốn về, bác có vẻ bồn chồn ra chiều đang suy nghĩ điều gì lung lắm.

- Phải có tôi cùng đi bác mới ra khỏi đây được.

Cô gái nói, rồi hai người đứng dậy. Chiếc xe lại lặng lẽ lăn bánh ngược chiều lúc nãy...

Hôm nay là mồng sáu tháng Sáu, hai ngày sau chiến thắng vang dội 2-1 của đội Hàn Quốc trước đội Ba Lan châu Âu giàu truyền thống bóng đá. Nhiều người còn hân hoan, phần nào hơi ngỡ ngàng với kết quả bất ngờ ấy. Nhưng cũng hôm nay, khi tôi viết những dòng này, bỗng có người đến báo tin Sáu Râu vừa mới bị một bọn đâm thuê chém mướn xông vào nhà chém chết và lấy đi tất cả số tiền bác thắng cược. Nhiều lắm, nghe nói hàng trăm triệu. Chẳng giấu gì các bạn, Sáu Râu (không phải tên thật) là một người bên nội nhà tôi. Cách đây ba hôm, tức vào tối mồng ba, bác đến hỏi tôi vay tiền, “càng nhiều càng tốt”, hẹn “đúng mồng năm hoặc cùng lắm mồng sáu sẽ trả. “Để làm gì?” tôi hỏi, nhưng không chịu nói. Chỉ khi tôi tuyên bố dứt khoát sẽ không cho vay nếu không biết số tiền đó dùng làm gì, bác mới kể những điều tôi viết ở phần trên.

Tất nhiên có thêm bớt đôi chút cho văn vẻ, chứ ngôn ngữ của bác thì không thể bê nguyên xi lên giấy được. Vả lại, lúc đầu tôi định dựa vào đấy để viết một truyện ngắn với phần kết khác hẳn. Bây giờ thì các bạn biết đấy, tôi không thể viết gì khác ngoài cái kết cục bất ngờ và đau buồn, là bác đã bị giết chết. Ai giết thì cả tôi và các bạn có thể đoán biết: Chính kẻ thua tiền cá cược với bác trận Hàn Quốc thắng Ba Lan. Ngay tối hôm ấy và cả bây giờ, tôi hoài nghi tính xác thực câu chuyện của bác ở nghĩa trang Văn Điển. Đơn giản tôi nghĩ bác mê cá cược quá thành hoang tưởng, hoặc có thể ngẫu nhiên đoán đúng kết quả trận đấu. Cuối cùng nể bác tôi cũng cho vay. Chỉ mấy triệu. Chắc bác phải vất vả lắm mới kiếm đủ tiền để cá cược một cú lớn như vậy. Có lẽ một ăn năm, ăn bảy gì đấy, vì đội Hàn Quốc vẫn bị coi là đội yếu hơn nhiều, do vậy, khả năng thắng, lại thắng đậm, là rất ít.

Không hiểu Sáu Râu có kể cho những người khác bác hỏi vay tiền, nghe câu chuyện kỳ lạ kia của bác không? Nếu có, những người ấy bây giờ đang nghĩ gì? Phần tôi, quả thực tôi đang bối rối. Tôi băn khoăn không biết nên nói gì với người thân của bác và cả với nhà chức trách, nếu được hỏi. Tuy nhiên, ngay bây giờ có một điều tôi có thể nói chắc với mọi người, kể cả các bạn, rằng tôi hoàn toàn đồng ý với con “ma hiền”. Cô gái kế toán bị giết oan kia, nếu quả thật có một cô gái như vậy, là “đừng bao giờ dính vào những trò may rủi”, vì “chúng sẽ không bao giờ mang lại điều gì hay ho cả”.

Thai Bá Tân

Thanked by 1 Member:

#322 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/09/2011 - 13:35

NGƯỜI BÁN TUỔI

- Chú mày không còn gì nữa thật à?

- Vâng. Ðúng thế, hắn đáp.

- Vậy sao còn đến hiệu cầm đồ?

Hắn lúng túng đứng im vì chẳng biết nói gì. Hắn còn trẻ, trẻ lắm, chính xác là hai mươi tuổi. Mới cách đây một tuần hắn kỷ niệm cái tuổi ấy ở quán nước cùng vài thằng bạn như hắn, bằng nước chè chén và kẹo lạc. Chỉ thế thôi, vì lúc ấy trong túi không đứa nào có tiền.

Hắn là sinh viên năm thứ ba một trường đại học con ông cháu cha ở Hà Nội, mặc dù ông bà cha mẹ hắn bao đời nay chỉ là nông dân nghèo, lại ở tỉnh xa. Hắn vào được trường này đơn giản vì học giỏi, vào thẳng, nhờ trước đó đoạt giải cao trong một lần thi toán quốc tế và ba lần giải nhất nhì trong nước. Hắn khá đẹp trai, lại thông minh và có dáng rất trí thức. Cả con người hắn toát lên điều đó, ai thoạt nhìn cũng nhận thấy ngay. Ðôi mắt hắn thật sáng và luôn hấp háy sau cặp kính trắng hình ô-van gọng mạ kền hợp mốt mà không hiểu hắn đeo vì cận thật hay chỉ để tôn thêm cho khuôn mặt vốn đã rất ưa nhìn của mình. Hắn có thói quen chốc chốc đưa ngón tay trỏ nâng cặp kính trên chiếc mũi thon thẳng, dù chẳng mấy khi nó tụt xuống. Da hắn trắng và mịn. Ðôi môi chúm chím, mọng và hồng hồng như môi con gái. Dáng điệu và cách nói năng, cư xử của hắn cũng lịch sự. Tóm lại, cả phần trong lẫn phần ngoài, hắn là một người gần như hoàn thiện. Hắn luôn ý thức điều ấy, kể cả việc rất nhiều cô gái để ý đến hắn.

Chỉ tội mỗi cái là hắn nghèo. Sinh viên tỉnh lẻ ai chẳng nghèo? Hẳn thế. Nhưng với người khác thì đó là khó khăn tài chính, còn với hắn thì vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều. Hắn muốn có cuộc sống vật chất (tức sinh hoạt, chi tiêu và nhất là giao du với bạn bè) tương xứng với một người thông minh, đẹp trai và lịch lãm như hắn. Hắn tiếc, chứ không oán giận bố mẹ. Hắn biết thân phận mình nên không bao giờ chủ động viết thư xin tiền. Có thì các cụ cho, không thì tự lo lấy. Hắn nghĩ thế và đã tìm mọi cách để có tiền. Toàn những cách lương thiện và sạch sẽ, làm gia sư, viết hộ luận án cho người khác, học giỏi để được nhận học bổng và tham gia các đề tài nghiên cứu, các chương trình, dự án. Nhưng để có được cách sống như hắn mong muốn thì các khoản thu nhập ấy không đủ, dù hắn đã rất cố.

Là người tự trọng, hắn không mua chịu cái gì và cũng không hỏi vay tiền ai, kể cả bạn bè thân thiết. Mà đã tự trọng thì dễ thành sĩ diện. Thế là hắn tìm đến hiệu cầm đồ, với cảm giác xấu hổ và chua xót. Ðầu tiên hắn cầm chiếc đồng hồ Thuỵ Sĩ chính hiệu được tặng lần đi thi ở nước ngoài, để có tiền mua quà sinh nhật cho một cô bạn gái con nhà giàu yêu hắn và cũng được hắn yêu lại. Tiếp đến là chiếc nhẫn vàng hai chỉ do một bà cô nghèo ở Sài Gòn đã khóc vì mừng và tự hào đưa cho hắn khi được vào thẳng đại học. Có thể dễ dàng đem bán những thứ ấy, nhưng hắn không làm thế vì không muốn chia tay với những vật kỷ niệm có ý nghĩa. Hắn từng đem cầm và chuộc lại chúng mấy lần, cho đến khi chẳng kiếm đâu ra tiền để chuộc. Cách đây ba tháng hắn phải đem cái duy nhất còn lại có thể mang tới hiệu cầm đồ này là chiếc xe máy không tốt lắm nhưng cũng chẳng đến nỗi cà tàng, để có tiền hoàn thành dự án do một công ty tư nhân thuê hắn và hai đứa bạn khác làm nhưng không được ứng trước đồng nào. Hắn tin làm xong sẽ có tiền không chỉ đủ chuộc lại xe mà cả những thứ khác. Nhưng cái công ty ấy vỡ nợ, do vậy đẩy hắn vào thế tuyệt vọng.

Chẳng hiểu vì sao hôm nay hắn đến đây, một khi không có tiền để chuộc lại cái đã cầm. Hắn lờ mờ nghĩ số tiền hắn vay chỉ già nửa giá trị chiếc xe, biết đâu lão chủ hiệu cầm đồ thương tình đưa thêm chút ít nữa chăng. Tuy nhiên hắn không muốn hỏi xin điều ấy, vì hắn biết rõ tính lão và mức lãi lão bắt hắn trả. Thành ra hắn cứ nấn ná nửa muốn ở lại, nửa muốn về ngay để khỏi phải nhìn con người hắn đang căm ghét.

- Vậy là quả thật cậu không còn gì nữa?

lão hỏi lại cái câu vừa hỏi lúc nãy.

- Thì tôi đã nói là không rồi! Ông điếc à?

Tự nhiên hắn nổi cáu. Từ trước tới nay hắn luôn lịch sự bác cháu với lão, nhưng giờ thì hắn chuyển sang ông tôi. Lão giả vờ không nhận thấy thái độ ấy của hắn, vẫn nhỏ nhẹ:

- Tôi thấy hình như cậu vẫn còn cái để cầm hoặc bán cho tôi đấy. Quý và đắt tiền nữa là khác...

- Ông ỡm ờ, lảm nhảm gì thế?

Hắn vẫn chưa hết cáu.

- Tôi mà không biết mình đang có gì sao? Hay ông biết, ông nói thử tôi nghe. Tôi đang cần tiền.

- Rất cần?

- Vâng, rất cần.

- Cần ngay bây giờ?

- Cần ngay bây giờ!

Lão già chủ hiệu cầm đồ húng hắng ho. Từ nãy đến giờ lão ngồi sau chiếc quầy gỗ cáu bẩn, trên chiếc ghế tròn cao bằng sắt có thể xoay đi xoay lại như ở quầy bar, còn hắn thì đứng cạnh. Lão thong thả bước xuống, pha ấm trà mới rồi mời hắn ngồi xuống bộ sô pha cũng già nua và nhăn nheo như lão.

- Mời cậu uống nước và hút thuốc.

Lo nói, tay chìa bao ba số. Ðây là lần đầu lão đối xử tử tế với hắn. Hắn thầm ngạc nhiên, nhưng chỉ lặng lẽ chờ xem lão định giở trò gì.

- Xin được nhắc lại: Cậu không biết cậu còn một cái rất quý mà tôi đang cần. Nếu cậu muốn, ta có thể thương lượng...

- Cái gì?

Hắn tò mò hỏi.

- Thì cậu hãy uống nước, hút thuốc đi đã. Việc này quan trọng, không vội được.

Lão nói, nhìn thẳng vào mắt hắn, một cái nhìn sắc lạnh và đáng sợ, đến mức không chịu nổi, hắn phải cúi mặt.

- Thế này nhé.

lão lên tiếng sau hồi lâu hai người im lặng:

- Cậu đang có cái quý nhất của con người, đó là tuổi trẻ. Cậu có thể đem nó cầm ở cửa hàng tôi, hay tốt nhất là bán hẳn cho tôi, được không?...

- Ông nói gì cơ? Tuổi trẻ? Bán tuổi trẻ của tôi cho ông?

Hắn thốt lên, lúc đầu ngạc nhiên, sau phì cười:

- Ông điên à?

- Chính xác năm nay cậu bao nhiêu tuổi nhỉ?

Lão hỏi như không nghe hắn vừa nói gì.

- Hai mươi.

- Cái tuổi thật đẹp mà tôi rất muốn có, dù phải trả giá đắt. Cậu đồng ý bán nó cho tôi chứ?

"Lão già này điên thật rồi! hắn thầm nghĩ. Lão nói lảm nhảm gì vậy không biết".

- Cứ cho là tôi muốn bán đi, nhưng ông cần nó làm gì, và... việc mua bán này thực hiện như thế nào? Ðây không phải chiếc xe máy hay một đồ vật cụ thể, ông hiểu ý tôi chứ?

- Hiểu, rất hiểu.

Lão già gật đầu.

- Tôi sẽ cho anh biết sau. Biết về các điều kiện mua bán ấy mà. Bây giờ chỉ cần anh nói anh có đồng ý không đã.

"Hay lão ta là phù thuỷ?" hắn tự hỏi rồi mỉm cười, buột miệng thành tiếng:

- Ông nói cứ như ông là phù thủy không bằng.

- Nếu muốn, anh có thể coi tôi là phù thủy cũng được. Không sai nhiều lắm đâu.

Lão thản nhiên đáp. Hắn bắt đầu thấy câu chuyện trở nên thú vị, dù chẳng tin chút nào những điều lão nói. Với hai chữ phù thủy"lởn vởn trong đầu, hắn đưa mắt nhìn lão một lượt từ đầu đến chân, và thấy lão cũng hơi hơi giống phù thủy thật. Người lão bé choắt, khuôn mặt gầy, đen xỉn, đầy những nếp nhăn sâu, đặc biệt trên trán và hai bên khóe mắt. Nhìn lão, cái đập vào mắt trước tiên và dễ nhận thấy nhất là một nốt ruồi to, hồng hồng như hạt đậu đỏ với mấy sợi lông không hiểu sao lão không cắt mà cứ để mọc dài, trông rất khó chịu. Chiếc mũi lão nhọn, kéo xuống gần miệng, nhưng không khoặm. Trên mũi là chiếc kính trắng mắt tròn và nhỏ như kính thầy bói. Các ngón tay lão dài, chỉ còn da bọc xương, nhưng khá sạch và không có móng nhọn như phù thủy. Còn đôi môi lão thì đúng là môi phù thuỷ, mỏng, nhỏ, bên ngoài xám ngoét nhưng càng sâu vào trong càng đỏ, đỏ như máu. Cả đôi mắt và giọng nói cũng đúng của phù thủy. ở chúng có cái gì đấy độc ác và đáng sợ.

Hắn thầm ngạc nhiên sao mãi bây giờ mới nhận thấy những điều này ở lão. Cũng có thể do bị ám ảnh nên hắn mới thấy thế chăng? Hắn đảo mắt nhìn qua căn nhà. Ðúng là hang phù thủy! Nó ở trong một con hẻm và cũng sâu hun hút như thế. Một phần bên ngoài lão dùng làm cửa hiệu, hay đúng hơn là nơi giao dịch của cửa hiệu; các bức tường cáu bẩn đến mức không thể nhận ra nó từng được quét bằng loại vôi ve gì, trên đó có treo một cặp sừng nai cong queo, một con đồi mồi, một chiếc mặt nạ màu đen bằng gỗ với đôi nanh trắng hếu, một con chồn nhồi đang bám vào tường và... một giấy chứng nhận gia đình văn hóa mới được lồng trong khung kính! Hắn bĩu môi khi thấy cái vật quá ư đời thường, lạc lõng này. Tất cả đều bị phủ một lớp bụi dày đen xỉn. Hắn chưa bao giờ vào phòng trong, nhưng đoán biết nó rất dài, không có chút ánh sáng nào lọt vào, là nơi cất giữ những thứ người ta đem đến cầm cố, và chắc chắn phải có đủ dụng cụ hành nghề của một lão phù thủy. Hình như lão sống một mình. Ít ra xưa nay hắn chưa hề gặp ai khác ở đây, ngoài khách hàng của lão.

- Thời này không còn phù thủy nữa, tất nhiên.

Kắn nhận xét.

- Nhưng thực tình tôi thấy ông chẳng khác phù thủy mấy.

- Thì tôi chính là phù thủy thật mà. Tôi biết anh không tin, nhưng quả đúng thế.

- Tôi không ngờ ông là người thích đùa. Ðã vậy, tôi cũng xin đùa theo. Tôi đồng ý bán tuổi trẻ của tôi cho ông. Xin cho biết cách thức và giá cả cụ thể!

- Nhưng đây không phải chuyện đùa. Chuyện nghiêm túc đấy.

- Ừ, thì nghiêm túc. Ông nói đi.

Lão già im lặng một lúc như suy ngẫm điều gì.

- Ðược, vậy là anh năm nay hai mươi tuổi. Anh có thể nhượng lại cho tôi số tuổi này dưới dạng cầm đồ... trong trường hợp này là cầm tuổi, lúc nào có tiền anh chuộc lại. Nhưng tôi muốn và cũng khuyên anh nên bán đứt cho tôi thì được lợi hơn nhiều, lại đỡ rắc rối sau này...

- Tôi đồng ý theo cách thứ hai. Rồi sao nữa?

- Tốt lắm. Bây giờ ta bàn giá cả. Ðây là mặt hàng ít mua bán nên không có giá chung. Tôi định trả cho anh mỗi năm tuổi mười triệu đồng, anh thấy thế nào?

- Mười triệu một năm!

Hắn khẽ thốt lên, không hiểu vì nghĩ như thế là quá đắt hay quá rẻ.

- Vâng, cứ cho là tôi chấp nhận giá ấy. Tiếp theo là gì?

- Là coi như vụ mua bán này xong xuôi. Hai người sẽ ký hợp đồng. Anh giao hàng, tôi trao tiền. Thế thôi. Như các vụ mua bán bình thường khác ấy mà.

- Giao hàng, nhận tiền?

Hắn lại ngạc nhiên, và mỉa mai hỏi tiếp:

- Thế cái bản hợp đồng ấy có phải đem ra ủy ban phường hoặc phòng công chứng xác nhận không?

- Kể làm được thế thì tốt hơn, nhưng mà thôi, không cần. Tôi là người tử tế và hi vọng anh cũng vậy. Vả lại phù thuỷ chúng tôi có luật riêng của mình.

Lão nói một cách rất nghiêm túc. Bỗng nhiên hắn ngồi thừ người, im lặng hồi lâu. Hắn vẫn nghĩ lão già chỉ đùa, nhưng hắn không thích kiểu đùa này, nhất là với một người như lão. Cuối cùng hắn hỏi:

- Chuyện gì sẽ xảy ra với tôi sau khi bán tuổi cho ông?

- Sao một người thông minh như anh còn phải hỏi tôi điều ấy?

Lão cười to thành tiếng.

- Cái người ta đã bán tất nhiên sẽ không còn thuộc về mình nữa. Anh bán hai mươi năm tuổi trẻ của anh cho tôi thì nghĩa là anh sẽ mất đi hai mươi năm tuổi trẻ ấy. Anh vẫn chưa hiểu à? Nôm na là ngay sau khi nhận tiền, anh trở thành người bốn mươi tuổi chứ không phải hai mươi như bây giờ. Tuy nhiên, để tránh đột ngột và không gây bất tiện cho anh trong cuộc sống, tôi và anh nên thỏa thuận mua bán từ từ thôi, một tháng một tuổi chẳng hạn. Anh sẽ không bị già đi quá nhanh, lại không phải có quá nhiều tiền một lúc, là điều mang tai họa chứ chẳng phải ích lợi.

- Ðược, cứ cho là thế. Nhưng ông sẽ làm gì với tuổi trẻ của tôi sau khi mua nó?

- Lại một câu hỏi ngốc nghếch nữa. Ðể tôi được trẻ thêm hai mươi tuổi chứ còn gì!

Lão già lại cười, lần này to và có vẻ thích thú.

- Tôi đoán năm nay ông khoảng sáu mươi lăm. Vậy ông sẽ thành một người đàn ông bốn mươi lăm tuổi. Sao ông không chọn mua tuổi của ai đấy ba mươi, bốn mươi để được trẻ hơn?

- Ồ, cái gì cũng phải có giới hạn, anh bạn trẻ ạ.

Lão lại cười. Bây giờ hắn thấy tiếng cười của lão thật đáng ghét.

- Anh nghĩ xem, từ một ông già lọm khọm thế này, bỗng dưng tôi thành thằng trai tơ, người ngoài trông vào khó coi lắm.

- Tôi hỏi ông câu cuối cùng: Vì sao ông chọn mua tuổi của tôi chứ không phải của người khác?

- Ðơn giản thôi. Vì anh thông minh, khỏe mạnh, và quan trọng nhất là chưa nhiễm những thói xấu không thể tha thứ. Nói anh biết, chứ bọn nghiện ma túy và trộm cướp, có cho không tôi tuổi trẻ của chúng, tôi cũng chẳng thèm. Là người mua, tôi phải biết chọn hàng!

Lão ngừng nói, tợp một ngụm nước rồi nhìn thẳng vào mắt hắn:

- Vậy là ta nhất trí?

Thay cho lời đáp mà rõ ràng lão chủ hiệu cầm đồ đang nóng lòng muốn nghe, hắn đứng dậy, cố tình tỏ vẻ chậm chạp, uể oải để che giấu những ý nghĩ đang rối lên trong đầu.

- Thôi, đùa thế đủ rồi. Ông xem tôi như con nít không bằng. Tôi về đây, hắn nói.

- Ấy, gượm đã!

Lão vội chặn hắn lại.

- Việc mua bán chẳng ai ép ai, hẳn thế. Nhưng tôi xin nhắc lại rằng đây là chuyện nghiêm túc. Rất nghiêm túc...

- Nghiêm túc?

Hắn kéo dài giọng một cách mỉa mai.

- Ông thử giải thích tôi nghe cái nghiêm túc ấy của ông xem nào. Làm sao trong thời đại tàu vũ trụ và Internet hiện nay bỗng chốc tôi già đi hai mươi tuổi chỉ vì câu đùa ngu ngốc nào đó của một lão già khốn khổ như ông?

- Thì đã nói rằng tôi là phù thủy...

- Phù thủy với cái này treo trên tường?

Hắn chỉ tay vào khung kính có tấm bằng gia đình văn hóa mới.

- Anh cứ chuyện nọ xọ chuyện kia.

Lão già đáp, giọng nhún nhường. Rõ ràng lão không muốn mất khách.

- Cái ấy chẳng liên quan gì đến việc chúng ta đang bàn. Còn chuyện trẻ ra hay già thêm bằng cách nào thì anh khỏi lo. Ðó là việc của tôi. Chỉ cần anh đồng ý là xong, ta sẽ ký hợp đồng...

- Như hợp đồng giữa Faust và Mephisto trong vở kịch thơ của ông Goethe người Ðức...

- Vâng, vâng, đúng thế. Quả tôi chọn người không nhầm. Thời buổi này mà một sinh viên trẻ tuổi như anh còn có thì giờ tìm đến tác phẩm này thì kể cũng hiếm. Có điều, Faust bán linh hồn cho Mephisto, còn anh chỉ bán tuổi trẻ của anh mà thôi. Nhân tiện, xin được tiết lộ điều này, một khi anh nhắc đến Mephisto. Tôi là hậu duệ của một trong những đồ đệ của ông ta đấy...

- Nghĩa là ông sống trên đời này đã lâu, rất lâu.

Hắn ngắt lời lão.

- Xin hỏi, ông đã gạ mua tuổi trẻ của bao nhiêu người rồi?

- Anh tò mò quá đấy, anh bạn trẻ ạ. Tất nhiên anh không phải người đầu tiên và chắc cũng chẳng là người cuối cùng, cho đến lúc tôi phải chết vì một lý do ngớ ngẩn nào đó. Tôi biết trước số phận của mình mà. Nhưng thôi, ta quay lại với vở kịch Faust kia của ông Goethe. Anh có nhớ dàn đồng ca của bầy phù thủy trong cảnh Ðêm hội quỷ ở miền rừng núi giữa Siec và Elen không, với hai câu kết rất ấn tượng là Qua đá, qua ghềnh; Phù thủy đánh rắm, dê già thối inh? Các cụ kỵ của tôi đấy. Công bằng mà nói, cái ông phó giáo sư, phó tiến sĩ Ðức Soạn nào đó đã dịch Faust ra tiếng Việt cũng thối inh chẳng kém gì mùi rắm tổ tiên chúng tôi.

Nói đến đây, lão già nhăn mũi như ngửi thấy mùi thối thật.

- Mà thôi, chuyện ấy không quan trọng. Vì như tôi đã nói, đây là việc nghiêm túc, anh có thể suy nghĩ thêm trước khi trả lời dứt khoát. Tôi chờ anh quyết định. Anh vẫn cần tiền đấy chứ?

- Vẫn.

Hắn đáp cộc lốc.

- Cần để sống cho ra sống và làm việc tốt hơn.

- Tốt. Xin nhắc lại: Tôi sẵn sàng mua hai mươi tuổi xuân của anh, với giá mười triệu đồng một tuổi. Mỗi tháng giao hàng, nhận tiền một lần. Lần đầu tôi có thể ứng luôn cho anh hai chục triệu để anh vừa chuộc lại xe, vừa có tiền tiêu. Trường hợp cần tiền, nếu anh muốn, trong một tháng tôi có thể mua cho anh hai tuổi hoặc hơn thế. Hi vọng với số tiền lớn này anh sẽ có điều kiện sinh hoạt và làm việc tốt hơn như anh nói. Là người thông minh và cần cù, tôi tin anh sẽ thành tài. Muốn thành tài, ai cũng phải trả giá. Cái giá của anh kể cũng có đắt, nhưng chưa hẳn đã đắt lắm nếu so với nhiều người khác. Vậy nhé. Tôi chờ anh...

***
Ðang đói tin giật gân, báo chí Hà Nội bỗng vớ được dịp may hiếm thấy để tăng số lượng xuất bản. Các báo tranh nhau đưa tin về một hiện tượng xưa nay chưa từng thấy xảy ra ở ngay thủ đô. Vì là tin hiếm nên người ta cố tình kéo dài, mỗi ngày chỉ hé cho bạn đọc một số thông tin nhất định, hôm sau ly kỳ hơn hôm trước.

Ngoài đường, trên tất cả các phố, đội quân bán báo rong vừa đạp xe vừa vặn to hết cỡ những chiếc micro rè chạy pin của họ, dài dòng kể chuyện ở trường nọ không hiểu sao trong vòng một năm (có báo nói mấy tháng, có báo nói hai năm) một sinh viên năm thứ ba bỗng biến thành một "ông già lụ khụ" sáu bảy mươi tuổi (cũng có báo nói chỉ bốn hoặc năm mươi). Rằng chàng sinh viên - ông cụ ấy đã bị y tế nhà trường dùng vũ lực đưa đến một loạt các bệnh viện, kể cả Viện lão khoa trung ương, nơi các chuyên gia đầu ngành khẳng định chàng mắc chứng già trước tuổi, một căn bệnh nan y, rất hiếm nhưng không phải không có, mặc dù chàng khăng khăng tuyên bố không hề đau ốm gì. Cái lý do học thi nhiều nên chóng già chàng đưa ra để giải thích trường hợp có một không hai này đã bị cả giới khoa học lẫn bạn bè thẳng thừng bác bỏ, cho là không nghiêm túc và phi lý.

Tiếp đến là những bài báo dài, nói một cách chi tiết, cặn kẽ (chắc không tránh khỏi đôi chút phóng đại) về những nỗi khổ đau, phiền toái trong đời sống thường ngày của anh chàng hai mươi tuổi bỗng chốc thành ông cụ sinh viên râu ria xồm xoàm bị người yêu bỏ, bị bạn bè cười giễu, bị từ chối và đuổi thẳng về nước không được tham dự một cuộc thi tin học quốc tế dành cho sinh viên, với lý do khai man tuổi. Thậm chí chàng suýt bị khai trừ khỏi đoàn thanh niên, cũng vì tuổi tác và bộ râu rậm đã lốm đốm nhiều sợi bạc.

Suốt mấy năm sau đó báo chí còn đều đều đưa tin về "cụ sinh viên" này. Có tờ còn coi "cụ" như niềm tự hào dân tộc. Có tờ nêu vấn đề mời đại diện Guiness tới Việt Nam để tận mắt chứng kiến và đưa hiện tượng này vào sách kỷ lục thế giới. Cũng qua báo chí, người ta biết được rằng "cụ" đã tốt nghiệp xuất sắc trường đại học của mình, đủ tiêu chuẩn nhận học bổng du học ở Mỹ để lấy bằng tiến sĩ. Tuy nhiên, lại lần nữa vì tuổi tác, "cụ" bị từ chối không được nhập trường, dù phía Việt Nam đã xuất trình giấy khai sinh gốc được chính quyền địa phương xác nhận bằng dấu tròn màu đỏ. Là nhà khoa học đầy triển vọng, "cụ" được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. Nay cụ đã là một giáo sư tiến sĩ đáng kính, niềm tự hào của trường và của cả đất nước. "Cụ" đã lập gia đình, với người vợ hơn mình hai mươi tuổi. Ấy thế mà có kẻ độc mồm còn dám nói sau lưng họ: "Trông cứ như bố con!" Sinh viên rất quý "cụ", cả về kiến thức lẫn đạo đức. Có điều, họ hơi lấy làm lạ là hầu như buổi học nào "cụ" cũng nhắc họ một điều chẳng mấy ăn nhập chương trình giảng dạy: "Các em phải luôn nhớ rằng trên đời này không gì quý bằng tuổi trẻ, và bất luận trường hợp nào các em cũng không được để mất nó, cũng như không được đánh đổi nó lấy bất kỳ cái gì khác!"

***
Cách đây không lâu, có tờ báo ở thành phố Sài Gòn đưa tin một người đàn ông trạc tuổi bốn mươi hay hơn một tí, có nốt ruồi lớn màu hồng hồng bên má trái, bị tai nạn giao thông ở Gò Vấp lúc mười giờ đêm, may được bác xích lô tốt bụng đưa vào bệnh viện. Mặc dù được các bác sĩ hết lòng cứu chữa, người này đã chết một giờ sau đó. Ðiều đáng nói là lúc ông ta tắt thở, các bác sĩ rất ngạc nhiên khi thấy toàn thân ông ta rữa ra và bốc hơi rất nhanh, cuối cùng chỉ còn lại ít xương mủn trên chiếc giường bệnh trải ga trắng ông ta vừa nằm. Câu chuyện quá kỳ dị nên người ta không tin, và chỉ coi đó như một trong vô số trò tung tin giật gân câu khách của tờ báo vốn bị nhiều tai tiếng này.


Thái Bá Tân

Thanked by 1 Member:

#323 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 29/09/2011 - 06:53

CHUYỆN KỂ VỀ XÓM TÔI

Tôi được sinh ra và lớn lên ở một quận vùng ven thành phố Sài Gòn. Căn nhà của gia đình tôi nằm sâu trong một con hẻm lớn. Muốn vào hẻm, người ta phải đi qua một con đường dài hơn trăm mét, hai bên tre mọc san sát. Ban ngày đi dưới bóng tre mát rượi, còn ban đêm từ ngoài nhìn vào hẻm tối đen như mực, trông con đường như một cái hang khổng lồ ẩn chứa bên trong biết bao điều huyền bí. Bà con trong xóm đều là lao động nghèo, họ làm đủ nghề khác nhau để sống. Vợ chồng chú Sáu Lễ làm nghề xe nhang, chú đi lính biệt động quân bị đạp trúng mìn cóc tiêu hết một chân nên giải ngũ sớm, ở nhà cà nhắc nhồi bột cho vợ con xe nhang bán; bà Hai Hụi chuyên đi gom hụi mở các dây hụi khác nhau, nếu bà không đến nhà ai thì người ta cũng ra vào nhà bà nườm nượp. Vợ chồng chú Năm Bừa đi làm phu lục lộ, vợ chồng chú Út Thoại ra đường bán xăng lậu, ông Tư Cầu chạy xe ngựa...chỉ có gia đình ông Hai Cẩu là tương đối thảnh thơi. Con cái lớn rồi đi làm ăn xa, hai ông bà có một mảnh đất sau nhà gần đồng mã để lên vài ba liếp cải, mấy giàn bầu mướp, khổ qua...lai rai mỗi ngày cũng có chút đỉnh xài.

Lúc trước ông chạy xe lam nhưng từ khi khá giả, ông bán chiếc xe ở nhà trồng trọt với bà Hai. Nhà ông bà cũng tương đối rộng rãi, lại có cái Tivi Nationnal nên luôn luôn là trung tâm điểm cho cả xóm. Lúc nhỏ, nhà tôi nghèo quá không có tiền mua Tivi coi nên thỉnh thoảng cũng ghé nhà ông bà coi ké. Những lúc Tivi không có chương trình hay, mọi người cứ theo thói quen tập trung lại ngồi nói dóc chuyện thế sự. Ôi thôi hằm bà lằng đủ mọi chuyện trên đời, từ chuyện mùa pháp nạn năm 1963 Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu cho đến chuyện Tết Mậu Thân hai bên bắn nhau dữ dội, từ chuyện bà Ngô Đình Nhu với đạo Cao Đài cho đến chuyện vợ chồng ông Thiệu với cái Long Đỉnh ở Thất Sơn...nhưng những chuyện mà lũ trẻ chúng tôi mê nhất vẫn là những câu chuyện ma không có hồi kết thúc.

Thiệt tình, bà con thích kể chuyện ma cũng có lý do. Khu vực chúng tôi ở giáp ranh với ngoại thành, nơi đó có một cây da cổ thụ hơn trăm tuổi, nhánh cây um tùm sà xuống le te sát đầu người. Từ lâu chẳng có ai dám chặt phá nhánh cây. Nghe nói trước đây ban quản lý hội đình có mướn người mé nhánh cho quang đãng, nhưng thợ thầy mới chặt được một nhánh thì...ông thợ chính bỗng buông cưa ôm bụng oằn oại, rồi co giật như mắc kinh phong. Mọi người hoảng hốt chạy đến cứu chữa thì bỗng ông ngồi bật dậy, mắt trợn dọc đập đầu vào gốc cây bôm bốp. Ông từ giữ đình phải thắp hương cầu khấn mãi mới êm. Thấy vậy, mấy ngườI thợ khác rủ nhau trốn biệt, không dám làm. Cây da ngày càng um tùm rậm rạp.

Bao quanh khu vực cây da là những ao sen, ao rau muống liên tiếp. Năm Mậu Thân, nghe nói rất nhiều người đã chết ở tại chỗ này. Con đường ở đây nằm trên trục lộ chính trong những mũi tiến công vào Sài Gòn của quân giải phóng. Quân Cộng hoà cũng đóng chốt dày đặc. Vô hình chung, khu vực xóm tôi trở thành bãi chiến trường ác liệt. Xác của binh lính hai bên và của những người dân chết oan chất đầy con đường, có xác chìm sâu trong những ao hồ quanh đó... Bình yên trở lại, một cái miễu cô hồn được dựng ngay gốc cây da, ban ngày khói hương nghi ngút cháy, ban đêm leo lét ánh đèn dầu.
Con đường tre vào xóm tôi cũng có nhiều người chết. Phía sau nhà ông Hai Cẩu lại là cánh đồng mã mênh mông. Mã lớn, mã nhỏ, mã người già, mã trẻ sơ sinh đủ loại. Mã nhà giàu thì có kim tỉnh bằng đá ong, đá mài. Mã ông Bá Hộ Huy thì chạm đá đá hoa cương, lại xây nguyên căn nhà mồ tuyệt đẹp; mã người nghèo thì sơ sài tấm bia và gò đất; mã trẻ con chết non thì vun lên một nấm đất như cái thúng úp chẳng có mộ bia gì... Tối tối, có chuyện đi ngang đồng mã, thấy vài đốm lửa ma trơi lập loè trên mấy ngôi mã mới, không ai có đủ can đảm mà bước đi thong thả. Vì vậy, những câu chuyện ly kỳ rùng rợn về các loài ma trở thành đề tài hấp dẫn cho biết bao người trong xóm của tôi, kể cả người có đạo hay không có đạo, kể cả người tin lẫn kẻ không tin, kể cả người lớn và trẻ nhỏ. Dĩ nhiên, trong đó có... tôi.


Minh Thông

Thanked by 1 Member:

#324 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 29/09/2011 - 07:01

LÃNH NGHIỆP CHO NGƯỜI

Tôi vừa làm xong một chuyến phiêu lưu vắt dài từ biển về núi.

Lâu lắm rồi mới về thăm lại Hàm Tân, nơi có dinh Thầy Thím vốn đã đi vào huyền thoại dân gian. Cuộc sống ở nơi đây có phần yên ả và bình dị hơn những vùng biển khác. Con người ở vùng đất này quả là mộc mạc và đáng yêu. Có lẽ nếp sống tỉnh lẻ ít bị phồn hoa vật chất cám dỗ nên người ta sống gần gũi chân chất ít đãi bôi, giả tạo.

Từ Hàm Tân, đi theo Quốc lộ 55 về Bảo Lộc, tôi ghé qua Tánh Linh một chút. Nơi đây vẫn còn rừng núi hoang vu. Con người ở La Ngâu đa phần là dân tứ phương hội tụ, đặc biệt là khu vực thủy điện. NHững người công nhân nghèo tha hương lang thang theo công trình xây dựng rồi cũng có chỗ dừng chân. Họ chọn cho mình nơi này làm quê hương. Nhưng, người xưa có nói: Cõng cực mà đổ lên non. Cong lưng mà chạy, cực còn theo sau.

Cuộc sống ở vùng quê mới cũng chẳng khấm khá hơn chút nào. Những đứa trẻ sinh ra ở đây muốn kiếm được con chữ bốn giờ sáng phải đốt đuốc băng rừng xuống núi mà đi học. Nghèo vẫn hoàn nghèo. Nghiệp đời trước truyền lại cho đời sau, vợ chồng con cái gặp nhau trong cái nghiệp đói nghèo...Vận động được một số nhà hảo tâm, tôi cũng cảm thấy chút ấm lòng khi chia sẻ được với bà con vùng đất này một chút tình đồng loại...

Mà cũng lạ. Nghe nói nơi này nổi tiếng linh thiêng, nhưng lần đầu tôi mới chứng kiến. Trước đó mấy hôm, một cư sĩ địa phương gọi điện cho tôi bày tỏ sự lo âu:

- Thầy ơi, mấy hôm nay mưa tầm tả. Đường đèo đang thi công sạt lở rất nhiều. Chúng tôi lo thầy không thể đến được.

Hmmm... kế hoạch đã lên rồi đâu thể thay đổi được. Tôi liều đi luôn. Đến nơi, trời vẫn còn mây đen nhưng lâu lâu cũng có chút nắng. bà con chào đón chúng tôi bằng vẻ hân hoan của đứa trẻ được quà. Các vị đạo hữu chúc mừng vì đến tám giờ sáng nay trời vẫn còn giông gió, vậy mà bây giờ có nắng ấm mới lạ kỳ. Hì, đi làm từ thiện như thế này cũng thú vị, có dịp cho sắp nhỏ thấy chuyện lạ giữa đời thường. Làm lễ xong, trao hết quà tặng, chúng tôi tranh thủ vài chén cơm chay rồi tiếp tục đăng trình. Bữa cơm đạm bạc giữa núi rừng, chỉ có mít kho, măng khô, canh bí đỏ mà sao bắt ngon kỳ lạ. Chợt nghĩ đến mấy món tôm giả, mực giả, gan giả, cá viên giả... một đống đồ giả ở mấy tiệm chay lớn mà phát ngán. Chay tịnh quý ở tự nhiên, sao người đời cứ cố tình tạo thành món mặn để thỏa mãn cái thị dục của mình làm mất đi ý nghĩa chân thật vốn có của sự thanh tịnh...

Rời Tánh Linh, tôi khởi hành đi Bảo Lộc rồi lên Đà Lạt. Những tưởng có thể hưởng thụ không khí trong lành của thành phố cao nguyên rồi chứ. Nhưng rồi hàng loạt biến cố xảy ra cho riêng tôi... ban đầu là trúng gió. Quái lạ! Dân huyền môn lấy nhật nguyệt tinh làm nguyên khí mà trúng gió cũng thật hy hữu... Sau đó là mất mát tài vật, mất một cách buồn cười. Vốn biết mình hay quên, tôi để luôn đồ đạc trên xe. Sắp nhỏ tưởng tôi quên mang xuống giùm tôi, sau đó tụi nhỏ quên béng việc đưa lại túi đồ. Hì... túi đồ vô chủ bỏ tênh hênh ngay phòng lễ tân nhanh chóng có chủ mới... Đến khi biết sự việc, tôi chỉ còn biết thở dài cười trừ...

Rồi nhiều chuyện khác nữa nhưng không đủ thời gian kể...

Tức mình, tôi ngồi nghiệm mãi vẫn không ra lý do. Cho đến lúc thanh toán tiền phòng, nhìn trong ví thấy có mấy tờ bạc năm trăm ngàn gói trong mảnh giấy, tôi mở ra mới sực nhớ trước lúc lên đường có một người quen gửi nhờ chuyển lên Tánh Linh cúng dường và nhờ sư trụ trì lập đàn giải nạn. Mải mê công việc tôi quên béng. Bây giờ thời hạn cúng giải nạn đã qua mất mấy ngày...

Phải chăng tôi đang ôm trọn “show” này?

Dù phải dù không, tôi vẫn nghiệm ra một điều rằng, nhận giải tai giải nạn, nhận cúng dường của người thì phải nhanh chóng toàn tâm toàn ý mà làm. Bằng không, nghiệp của người nếu ta không ôm trọn thì cũng ôm một phần hai...

Híc!

Đi theo Phật khó quá! Nhưng mặc áo Phật phải làm giống Phật. Bằng không, sớm muộn gì cũng thành chó giữ chùa...


Minh Thông

Thanked by 1 Member:

#325 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 29/09/2011 - 07:17

TRẢ LỜI VỀ PHÉP CÚNG VONG, BINH

- Đương nhiên là các Thầy huyền môn nhìn biết họ có về hưởng đầy đủ. Nhưng nếu như Sư Cô trên chỉ y theo kinh sách mà cúng, thì có hiện tượng nào để biết là họ có về hưởng đầy đủ không? Tôi chỉ biết là sau khi cúng xong, khuyên nhủ thì họ đi, nhưng không nhận biết đồ vật cúng đã được hưởng chưa? Nói thì nghe hơi mâu thuẫn nhưng quả tình là...mù mờ. Tôi học lóm được sau khi trì chú, khoán chữ...đầy đủ nghi thức xong, thì xoay các dĩa vật thực một vòng. Vậy là họ đã hưởng xong rồi. Nhưng chẳng tận mục sở thị gì cả. Xin Thầy cho chút giải thích.

- Đây là vấn đề vô hình nên khó dùng hiện tượng hữu hình để kết luận. Trong huyền môn, sau khi cúng xong, thầy chỉ cần sờ tay vào dĩa thức ăn hoặc ngửi mùi là biết ngay. Thậm chí có thầy chỉ cần nhìn là cảm nhận được...Có những trường hợp sau đây hữu hình có thể nhận biết: ăn vào thấy cảm giác nhờn nhợn khó nuốt, cơm hoặc thức ăn đổ ra chén khác, chén vừa cúng bị đổ nhớt ở đáy chén hoặc thành chén, ngửi thức ăn vừa cúng nghe có mùi thiu hoặc thum thủm khó chịu.

Khi cúng vong, cúng binh... người bình thường cũng có thể nhận biết có những làn gió nhẹ cuộn ở dưới chân mình, từ đầu gối trở xuống. Đó là phần âm có mặt để hưởng. Vong linh không vượt qua được chiều cao hơn một mét. Cho nên khi cúng, phải để bàn thấp từ đầu gối trở xuống chư linh mới hưởng được. Riêng đối với ngạ quỷ, cần có phép cúng riêng. Cách cúng thông thường không dành cho ngạ quỷ, mặc dù tháng bảy họ vẫn được lên thế gian hưởng vật thực.


catbui

Thanked by 1 Member:

#326 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 29/09/2011 - 09:28

MỘT CÕI ÂM DƯƠNG

Chiều xuống nhanh, cái ánh sáng vàng vọt mặt trời xuyên qua tàng cây trứng cá rọi xuống chiếc võng tôi đang nằm. Những cơn gió nhè nhẹ thổi rung cành lá, từng đốm sáng lấp lánh nhảy múa quanh võng tôi như trêu ghẹo. Tia sáng đã nhạt rồi, không còn cảm giác gay gắt như lúc nãy. Giá như trước đây, giờ này tôi đã leo lên sân thượng luyện mặt trời. Mới nghĩ đến thôi, cả người tôi bỗng chạy rần rật như điện chạy, trong đầu tôi vang lên ong ong câu chú “Án thiết toà thần lai ứng hiện..”. Nhưng tôi liền gạt phắt sang một bên không muốn nhớ tới. Giờ đây những tia sáng yếu ớt này không còn đủ ma lực quyến rũ tôi như trước nữa. Tôi bỏ tất cả kể từ cái ngày định mệnh ấy..

Đó là cái ngày đứa em trai út của tôi bị tai nạn giao thông mà chết. Tôi không có mặt ở nhà để được nhìn mặt em lần cuối. Đâu có ai hiểu hết nỗi đau khổ của tôi, một người làm thầy, đoán biết khí số của em mình đã tận mà không cách gì cứu vãn được. Dù sư công tôi có khuyên nhủ rằng đó là định số, nhưng tôi vẫn không cam lòng. Ngày mồng Năm tháng Năm, nhận được điềm báo tử, tôi tính ra điềm báo ứng vào tháng Sáu. Tôi vội vã trao cho em tôi bài kinh Tổ, chú hộ mạng, cả bức tượng Lục Tổ Magaham mà sư công tôi bỏ ra hai mươi mốt ngày chú nguyện tơm phép. Tôi bắt buộc nó mỗi ngày phải thay tôi thắp nhang trì tụng, không được phép cởi dây chuyền và mặt tượng, không được uống rượu bia...Tôi thắp sẵn ngọn đèn bổn mạng của nó trên bàn thờ, ngày đêm canh chừng không cho đèn tắt. Vậy mà nó vẫn rời bỏ gia đình, bỏ cuộc đời này một cách dữ dội và đau đớn.

Bước sang ngày mồng Một, tôi kẹt đưa đoàn khách đi miền Tây ba ngày. Trưa hôm đó, một con bướm nhỏ bay vào trong bóng đèn và chết cháy, ngọn đèn cũng tắt theo. Tối hôm đó, vì lỡ uống rượu bia với đám bạn cũ, em tôi không dám đeo tượng. Nó cũng không dám đọc kinh chú, chỉ lặng lẽ thắp hương để rồi sau đó một giờ, trong lúc băng qua đường, nó bị xe hàng cán chết. Từ ngày đó, tôi bỏ công việc, từ chối gặp gỡ bạn bè, đồng đạo, tự nhốt mình trong nhà, rút vào trong vỏ ốc của sự cô đơn vằn vặt. Cô Hai Xa Cảng đã về từ lâu, mặt trời cũng đã mất hẳn cuối chân trời phía Tây, chỉ còn lại một quầng sáng đỏ hắt lên bầu trời ảm đạm. Tôi khẽ đung đưa chiếc võng, không khí mát dịu nhưng lòng tôi vẫn cảm thấy nặng nề u uất. Tiếng cô Hai Xa Cảng vẫn còn văng vẳng trong đầu:

- Cậu Hai nghĩ lại đi. Người ta đang cần cậu giúp đỡ, cậu lại nỡ khoanh tay làm ngơ sao? Cứu một người bằng xây bảy cảnh chùa, huống chi bây giờ cậu cứu cả nhà người ta, cả người sống và người chết!

Cô Hai đâu có hiểu tâm trạng của tôi lúc này. Cứu làm gì khi vận mệnh của mình còn không biết sẽ ra sao. Tôi đâu phải là Phật thì làm gì có thể hoá độ mọi người chứ! Ngay đến em tôi, tôi còn không cứu được nữa là.

- Cậu Hai suy nghĩ lai nghe! Nếu cậu đồng ý, tôi thuê xe rước cậu về Mộc Hoá liền.

Câu nói vẫn còn dư âm, nhưng tôi chỉ thở dài và chìm vào trong giấc ngủ nặng nề

**

..Tôi đang đi trên một con đường bờ mấp mô nhỏ hẹp. Trước mặt tôi là một cánh đồng trải dài. Lúa đã gặt sạch chỉ còn trơ gốc rạ vàng úa cằn cỗi. Xa xa thấp thoáng rặng dừa nước. Chắc là phía ấy có nhánh sông hay rạch gì đó. Không gian ảm đạm như buổi chiều tà tắt nắng sớm, dường như có một chút khói sương đang giăng giăng mờ ảo. Tôi đứng lại ngơ ngác nhìn quanh. Bóng một người con gái thấp thoáng trên con đường bờ phía trước. Tôi rảo bước đi theo, còn kịp nhận ra chiếc áo bà ba bông tím hoa cà phất phơ trong màn sương khói. Tôi cất tiếng gọi nhưng tiếng của tôi tan vào trong hư vô. Dường như cô gái cảm nhận tiếng kêu của tôi cô đi chậm như nấn ná.

Đến những lối rẽ cô dừng lại hẳn như chờ đợi. Khi tôi tới gần cô lại rảo bước đi nhanh. Tôi không nhớ là mình đã theo cô gái được bao lâu, chỉ biết là đi mãi... Đến một hàng tre rậm rạp cạnh đó là một ngôi mộ đất có trồng cây chuối sứ, cô gái đột ngột quay mặt lại nhìn tôi. Đến lúc này tôi mới nhìn rõ gương mặt của cô. Phải nói rằng cô rất đẹp, một cái đẹp mặn mà chân chất của cô gái vùng sông nước miền Tây Nam Bộ. Nước da ngăm đen, chân mày thanh tú, đặc biệt là đôi mắt, nó cứ đen láy mở to và đượm buồn. Từ khoé mắt của cô, những giọt lệ cứ trào ra và lăn dài trên gò má.. Tôi chưa kịp hỏi han gì thì cô bỗng mờ dần, mờ dần rồi tan biến trong màn khói sương hư ảo..

**

.. Tiếng còi xe làm tôi giật mình mở mắt, xung quanh tối đen, trong nhà đã lên đèn tự lúc nào. Tôi đưa tay nhìn đồng hồ đã hơn chín giờ tối. Tôi đã ngủ quên gần bốn tiếng đồng hồ, như vậy những hình ảnh ban nãy chỉ là một giấc mơ. Tôi lại thở dài, cuộc đời này cũng đang là một giấc mơ không hơn không kém, thoáng nhớ đến hai câu trong bài sám hồng trần: Chiêm bao khéo khuấy lạ lùng. Mơ màng trong một giấc nồng mà thôi. Quơ tay xua đám muỗi háu ăn, tôi ngồi dậy lững thững đi vào nhà. Má tôi đã dọn cơm sẵn cho tôi tự lúc nào. Mâm cơm nguội ngắt.

Ba tuần sau tôi về công ty tiếp tục làm việc. Ở nhà mãi cũng chẳng làm gì. Suốt ngày ra vào an ủi nói chuyện cho nội và má tôi đỡ buồn. Đến giờ thì tụng kinh trì chú cho thằng em. Từ hôm nó mất đến nay, tôi không còn luyện phù nữa mà chuyển sang tụng kinh Di Đà và trì Vãng sanh thần chú. Tôi biết nó chết dữ như vậy khó mà siêu thăng Tịnh độ, nhưng chắc chắn nó sẽ được về cảnh giới Trung thiên để tu tiếp, chờ cơ hội trở lại nhân gian để hoàn tất đoạn nhân duyên cuối cùng của nó. Thỉnh thoảng tôi có thấy và trò chuyện với em tôi, tuy chỉ một hai câu thì nó biến nhưng tôi có thể đoán được phần nào. Những điều này, tôi không bao giờ dám kể cho gia đình nghe vì sợ nhắc đến chuyện buồn đã qua.

Thấy nội và má tôi bình thường trở lại, tôi mới dám nhận tour mới. Chuyến hành trình này xuôi theo quốc lộ dọc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long theo yêu cầu của khách. Trước ngày khởi hành, Giám đốc gọi tôi lên văn phòng nói nhỏ:

- Em cố gắng săn sóc tốt mấy vị này nhé. Cớm không đấy!

Như sợ tôi chưa hiểu, Giám đốc giải thích thêm:

- Đây là đoàn cán bộ văn hoá của Trung ương đi thực tế tự do. Họ không muốn đón tiếp rườm rà nên xin kinh phí rồi tự hợp đồng với công ty mình hướng dẫn. Họ muốn có một người rành về miền Tây đưa đi.

- Trong công ty mình thiếu gì người am hiểu Nam Bộ.

- Ấy, rành thì có rành. Nhưng nghe nói đi với cán bộ Trung ương ai nấy đều rét. Tụi nó sợ ăn nói có gì thất thố làm ảnh hưởng đến uy tín công ty.

Tôi cười buồn:

- Trung ương hay địa phương gì cũng là người cả thôi, làm gì phải cuống lên thế chứ.

- Anh biết rồi, nhưng đâu phải đứa nào cũng như em. Thôi anh cẩn thận dặn dò em trước, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ nghe.

Hôm sau đoàn chúng tôi lên đường. Chuyến đi khởi hành ngày mồng Một, đúng ba tháng sau khi thằng em tôi mất. Đến Long An, sau khi làm việc với Sở Văn hoá Thông tin tỉnh xong, lẽ ra đoàn đi thẳng đến khu Di tích Óc Eo như kế hoạch định sãn. Nhưng anh trưởng đoàn chợt nhớ ra có người bạn thân đang làm cán bộ chủ chốt ở Huyện uỷ Mộc Hoá, đã lâu rồi hai người không có dịp gặp nhau. Thế là xe đổi hướng nhắm Mộc Hoá khởi hành. Chuyện gặp gỡ hàn huyên của những người bạn thân xa cách lâu ngày thiết nghĩ chẳng cần phải kể vào đây. Sau phần xã giao, anh em đồng chí khoác tay nhau đến một quán lá bên bờ sông để làm tiệc tẩy trần họp mặt. Rượu đế Gò Đen chính hiệu rót ra ly sủi tăm trong vắt, khăn lạnh đập nổ lốp bốp vui tai, không khí họp mặt có chút rượu bia bỗng tưng bừng rộn rã làm sao. Dĩ nhiên là tôi cũng được dự phần. Nhưng lấy cớ bị bệnh đường ruột, không ăn uống được đồ sống nên tôi tìm cách xin kiếu sau khi hẹn khách gặp lại vào sáng hôm sau.

Thật ra, tôi không ăn được là một lý do. Sâu xa hơn, tôi không chịu được cái cảnh người ta đem cả thau cá lóc ra đập đầu từng con để nướng trui. Những con cá lóc đen trùi trũi, to bằng cườm tay người lớn, bị đập đầu bôm bốp bằng khúc gỗ to, thân cá giãy lên đành đạch rồi giần giật những cơn run rẩy cuối cùng trước khi bị người ta xiên ống tre vào bụng đem lên than đỏ. Hay đau đớn hơn là cái cảnh lũ cá kèo đang nhảy lung tung trong rỗ, bị người ta trút thẳng vào nồi nước đang sôi. Cả lũ quẫy tung thiếu điều bung cả nắp nồi, những cái chết thảm khốc phục vụ cho buổi tâm tình họp mặt của những người bạn cũ... Nhìn cảnh ấy, tôi chợt nhớ đến đoạn phim tài liệu về nạn diệt chủng chiếu cách đây vài năm. Người ta cũng giết nhau bằng cách đập đầu như thế. Lòng nhân cuả con người tan biến trong cái lý tưởng u mê mà họ đang thờ phụng! Tôi vừa bước ra ngoài vừa cúi đầu trì niệm hồi hướng cho lũ cá đáng thương kia: “Um, gavira gam svaha”. Cầu cho tụi bây dứt sạch sự đau đớn trong nghiệp thức, cầu cho bây dứt sạch nỗi oán hận dày vò để hoá kiếp làm người.. tự nhiên tôi nhớ đến câu văn của nhà văn Nam Cao: “kiếp người như kiếp tao chẳng hạn..”

**

Tôi thả bộ dọc theo nhánh sông nhỏ. Vài chiếc ghe hàng còn neo trên bến chờ mối, nắng xiên quai buổi chiều phản chiếu trên dòng sông lấp loáng. Đến chợ Mộc Hoá, tôi ghé vô một quán cà phê ven sông gọi ly chanh đá nhâm nhi. Cảm giác mát lạnh vừa ngọt vừa chua của ly nước cùng những cơn gió từ mặt sông thổi vào làm tôi sảng khoái hơn. Đang ngồi ngó mông lung, chợt có tiếng gọi mừng rỡ vang lên:

- Cậu Hai! cậu Hai!

Nghe giọng quen thuộc, tôi quay người nhìn lại. Cô Hai Xa Cảng đang bước vô quán, nét mặt đầy vẻ mừng rỡ:

- Cậu Hai đi đâu vậy? sao cậu lại ở đây? Nhìn thấy cái lưng áo tui nghĩ ngay là cậu mà, cái dáng của cậu không lầm với ai được cả. Gặp cậu ở đây tui mừng quá xá. Thôi, vậy là ổn rồi.

Cô hai liếng thoắng một tràng dài như đại liên bắn làm tôi nghe không kịp thở, cũng chẳng trả lời lại được tiếng nào. Bất giác tôi phì cười, nụ cười hiếm hoi từ khi thằng em tôi chết.

- Sao cậu cười vậy?

Cô Hai nhìn tôi ngơ ngác.

– Tui nói có gì hổng phải hả cậu?

- Không có, tại tôi thấy cô hỏi liên tục chẳng cho ai nói tiếng nào nên tôi cười vậy mà.

- Vậy hả, tui xin lỗi cậu nghe. Gặp cậu ở đây tôi mừng quá nên...

- Thôi, được rồi, cô ngồi xuống đi, bà con người ta nhìn kìa.

Cô Hai kéo ghế cái rột và ngồi xuống đối diện tôi, miệng cô vẫn còn cười toe toét lộ hàm răng trên sún hết mấy cái. Thấy cô tỏ vẻ vui mừng ra mặt, tôi cũng thấy xúc động. Nhìn cô tôi nhớ lại cái ngày đầu quen biết với cô.

..Bà Chín Linh nhi là một đạo hữu mà tôi quen biết trong một lần đi núi Cấm. Lúc ấy trong đoàn hành hương của bà có người bị chư vị tá điển mà không xuất được, cả đoàn cuống quít khấn vái tứ tung. Tình cờ lúc đó tôi cùng sư huynh Minh Tịnh đi ngang qua. Thấy cô gái bị vật vã không thôi, chịu không được tôi liền xin một chén nước làm phép giải điển, nửa chén tạt vào mặt và rưới lên đầu, nửa chén còn lại cho cô uống. Sau khi cô gái tỉnh hẳn, chúng tôi tiếp tục lên đường. Bà Chín chạy theo làm quen vậy là tôi có thêm một đạo hữu mới. Sở dĩ gọi là bà Chín Linh nhi vì chồng bà thứ Chín, gọi theo thứ của chồng. Phần của bà là thu thập các vong con nít về nhà lập trang thờ, hương khói mỗi ngày nghiêm túc. Mỗi khi có ai đó hiếm muộn đến nhờ vả cầu con, bà liền coi tướng trạng, hỏi tên tuổi, nghe mạch lý. Thấy được, bà liền đưa vào bàn thờ van vái Tử Tôn nương nương và xin quẻ âm dương. Được keo, bà đưa ngay ra phía sau nhà, nơi có gian thờ biệt lập để lựa con. Ở trong gian thờ, bà đóng thành kệ như bậc thang. Trên mỗi kệ bà để lủ khủ các con búp bê lớn nhỏ đủ kiểu đặt ở tư thế ngồi. Thân chủ có duyên với con búp bê nào, bà đưa con búp bê ấy đem về nhà để thờ, cho đến khi nào thân chủ có mang thì đem hoá nó đi.

Có một lần bà Chín đi thu gom nhằm càn ranh con lộn thuộc loại oan gia trái chủ. Ngay tối hôm đó gian thờ linh nhi của bà dậy rân trời tiếng trẻ con khóc thét, tiếng la hét, đùa giỡn, đập phá đồ đạc ầm ầm như một trận ác chiến. Cả nhà hoảng hồn mở đèn chạy vào xem thì mọi thứ vẫn nằm im lìm nguyên vẹn như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Sự việc ngày càng tệ hơn. Ở những đêm kế tiếp, phòng ngủ của từng người bị gõ cửa liên tục như sắp bị phá đến nơi, thức dậy mở cửa ra thì không có người nào. Ban đầu lũ quỷ con chỉ phá lúc tắt đèn. Về sau dù đèn mở sáng choang vẫn nghe mồn một tiếng la hét quậy phá của một bầy con nít. Sự việc lên đến cao trào khi đứa con gái đầu của bà Chín đang ngủ, đến nửa đêm nghe nặng ngực khó thở, mở mắt ra nhìn thì thấy một đứa trẻ mình mẩy máu me không đang ngồi chễm chệ trên ngực. Cô hoảng hồn la hét kinh hoàng đến nỗi hàng xóm xung quanh mở đèn chạy sang cứu giúp..

Bà Chín đã làm hết cách nhưng vẫn không hiệu quả, nhiều huynh đệ khác nhảy vào cúng bái kết cục vẫn như cũ. Cuối cùng, bà chợt nhớ đến tôi. Ngày đầu tiên tôi đến cúng mọi thứ có vẻ êm đẹp. Nhưng chỉ yên ổn đúng một đêm, qua đêm sau mọi thứ vẫn đâu vào đấy, thậm chí đám tiểu quỉ quậy còn bạo hơn lúc trước. Tức mình tôi sử dụng ấn Tam Sơn quyết của Tổ sư truyền kết hợp với bùa trị càn ranh con lộn để khắc chế. Kết quả cũng chẳng ăn thua. Tôi đành chạy về cầu cứu thầy tôi. Thầy tôi nói từ trước đến nay chưa gặp trường hợp này nên chưa nghĩ ra cách tốt nhất, thầy khuyên tôi chạy về chùa gặp sư công một chuyến. Sau khi nghe tôi thưa chuyện, sư công tôi cười nói:

- Con nít nó biết cái gì mà mày dùng Tam Sơn quyết, chẳng khác nào đem súng ra doạ đứa trẻ lên ba. Còn bùa trị Càn ranh con sát, con lộn chỉ có tác dụng khi nó đang ám người mẹ. Hiện tại nó đang là quỉ linh nhi ở ngoài pháp phù không phát huy hiệu lực đâu.

- Vậy làm sao bây giờ hả sư công?

- Bản chất của trẻ con là nghịch ngợm, hiền lành. Đứa nhỏ con ranh kia sở dĩ dữ tợn như thế là do oan nghiệp tiền khiên đời trước nên nó mới đeo theo mà báo ứng đến giờ. Đạo hữu của con không biết nguồn cội, không xét thiệt hơn đã vội thu thập nó về, thử hỏi làm sao nó không quậy phá cho được.

Nghe sư công nói, tôi toát mồ hôi lạnh.

- Sư công ơi, con biết rồi. Làm sao giải bây giờ hả ông? Con cái bà Chín bỏ nhà chạy hết trơn, còn bà lo đến tóc hai bên thái dương bạc trắng luôn.

- Cái gì cũng có phép hoá giải cả. Oan có đầu, nợ có chủ mà. Con bảo đạo hữu của con đến nhà thân chủ là mẹ cuả đứa con lộn ấy, thuyết phục thân chủ thỉnh các sư về lập đàn tràng siêu độ cho đứa bé.

- Vậy là xong hả ông?

- Đâu có dễ vậy. Nếu vong nào cũng siêu độ được thì cần gì có thầy pháp hả con. Đó chỉ là bước đầu giúp nó tan bớt oán khí đi. Vong nó dữ tợn, mạnh bạo là do oán khí chất chồng, giải oán khi đi tức nhiên sức mạnh của nó phải sút giảm.

- Vậy là lúc đó có thể ra tay trị nó được rồi phải không ông?

- Sao lúc nào con cũng nghĩ đến chuyện đánh và trừng trị không vậy? Hồi truyền cho con mấy chữ phù Ngũ Lôi, thầy bay nói công dụng của nó để làm gì?

- Dạ, để đánh tà..

- Không phải đánh tà mà là chữa tà, giải tà.

- Vậy có gì khác nhau đâu sư công?

- Hiểu đúng công năng để hiểu rõ tôn chỉ của người làm thầy. Mục đích dùng Ngũ lôi là để răn đe, rồi hoá độ chứ không phải để hành hạ, trừng trị.. hiểu chưa?

- Dạ.

- Trong khi đánh tà, con phải khởi tâm từ bi mà biến thành phẫn nộ, có vậy mới đỡ gây oán nghiệp về sau.

- Dạ, sư công nói con hổng hiểu gì hết. Từ bi thì làm sau mà phẫn nộ được, cũng như nước đá làm sao mà đốt cháy thành lửa.

- Con chịu khó tụng kinh niệm Phật và trì Bát nhã thường xuyên đi, sau này con sẽ hiểu dần. Còn bây giờ con chưa thấu triệt được đâu.

- Sư công ơi, vậy còn vụ quỉ linh nhi giải quyết ra sao?

- À, con đem bánh kẹo, sữa bò, đồ chơi vào trong am cúng tụi nó. Sau khi gom lại đủ rồi thì dùng lịnh và chú của Quỷ Tử mẫu mà thu phục. Nếu được, con khuyên đạo hữu của con siêu độ đám tiểu linh nhi này đi. Làm công việc của bà ấy chẳng khác nào đang sử dụng con dao hai lưỡi, không biết lưỡi thứ hai cắt đứt tay mình lúc nào.

Tôi trở về am bà Chín và làm đúng theo những gì sư công hướng dẫn. Cũng may là mọi người đều nhất nhất nghe lời. Công việc tiến triển thuận lợi. Bà Chín qua chuyện này cũng không còn mặn mà việc thờ cúng linh nhi nữa, nên vừa nghe đề nghị của tôi, bà lập tức đồng ý. Sau khi thu phục bọn trẻ, bà Chín và tôi lập đàn tràng đốt xe giấy thỉnh chư thần đến rước toàn bộ tiểu linh nhi về núi tu hành. Sau này có hai đứa thành tài, cảm duyên của bà Chín nên quay trở lại tá điển vào xác bà chữa bệnh, coi bói đó là chuyện sau này. Tôi ghé nhà bà Chín Linh nhi lúc bà đang có khách. Đó là một người phụ nữ gầy ốm, vận bộ bà ba nâu, khuôn mặt bà ta dài ngoẳng thật phù hợp với cái dáng vẻ khẳng khiu như cây tre miễu của bà. Chỉ có đôi mắt lúc nào cũng nheo nheo và cái miệng như muốn cười là làm cho người ta cảm mến.

Bà Chín đứng dậy giới thiệu:

- Cậu Hai vào chơi. Giới thiệu với cậu, đây là cô Hai Xa Cảng, cũng người trong bổn đạo. Nhà cô ở ngay bến xe miền Tây nên huynh đệ gọi cổ là cô Hai Xa Cảng cho dễ nhớ.
Q
uay sang tôi, bà Chín nói tiếp:

- Còn đây là..

Thấy tôi nháy mắt, bà hiểu ý, lập tức đổi tông.

– Đây là cậu Hai Dũng, làm nghề hướng dẫn du lịch. Cẩu đi tối ngày hà, hôm nay mới ghé chơi. Thôi, cậu Hai ngồi xuống uống nước

- Dạ.

Tôi nhấc nhẹ chiếc ghế về phía mình và ngồi xuống. Cô Hai quay sang ngắm nghía tôi một lúc lâu như xem tướng rồi quay sang bà Chín nói lởi xởi:

- Cô Chín à, tui thấy cậu này có căn lắm đó nghen. Cô cúng ra căn cho cẩu đi.

Suýt tí nữa tôi phì cười. Mấy vị linh căn này, hễ gặp ai biết đi chùa lễ bái hay tìm đến am miếu là y như rằng phán ngay cho họ hai chữ có căn. Trên đời này ai mà không có căn kia chứ. Không có căn làm sao có mình ở đây. Còn có căn theo kiểu mấy bà đồng đội khăn đỏ nhập xác về ợ ngáp quay cuồng theo tiếng chuông tiếng nhạc, tiếng hát tiếng hò thì tôi xin bái.

Thấy tôi ngồi im có vẻ suy nghĩ, cô Hai phấn khởi coi tiếp:

- Tôi thấy cậu sáng lắm đó nghe. Tiền đồ thiệt là rộng mở. À, cậu cũng có người anh hay em gì đó đi theo độ cậu, nhớ cúng cho người ta. Còn nữa, tôi thấy có một ông gì.. ông gì.. lớn lắm.

Nói đến đây, cô Hai ngẩn người ra như mất hồn. Thấy mặt cô Hai ngẩn ra, tôi cười thầm. Tôi luyện phù từ năm mười lăm tuổi, đến giờ đã hơn mười năm, được cấp sắc ra sư rồi làm sao cổ soi thấu được. Mấy vị án hết thiên linh làm cổ nói lạc quẻ hết trơn. Cô Hai hàm hồ nói tiếp:

- Số cậu không gần cha mẹ, sinh ra lớn lên như cây mọc trơ trọi giữa đồng, một mình chịu đựng sóng gió..

Nói đến đây tôi chịu hết nổi rồi. Tôi chưa bao giờ sống xa cha mẹ, dĩ nhiên là trừ những ngày tôi dẫn tour du lịch, anh em đang chung sống đông đầy với nhau. Còn sóng gió ư.. có lẽ trong đám bạn bè tôi quen biết, kể cả trong huynh đệ học cùng thầy, tôi là thằng sướng nhất. Thấy cô Hai bắt đầu nói lung tung, tôi giả vờ chắp tay cung kính:

- Con cảm ơn cô Hai đã cho con biết thêm nhiều điều..

- Không có gì đâu, có duyên dữ lắm mới gặp được tui nói cho vài lời đó.

Quay sang bà Chín nãy giờ chỉ ngồi trên võng tủm tỉm cười, cô Hai nói tiếp:

- Cậu này tương lai sáng lắm đó nghe. Cô Chín liệu mà lo cúng căn cho cậu ta đi.

Tính hiếu thắng của tuổi trẻ bốc lên. Tôi co tay bấm quyết triệu thần, thầm gọi chư vị:

-..Linh quang phổ chiếu..khí dụng thành huờn.. án mộc linh thần chi nhĩ báo..

Trong chốc lát, một số tư liệu về cô Hai đã có trong tay, tôi lễ phép xin cô Hai để cho tôi coi lại. Thấy cô tỏ vẻ ngạc nhiên tôi nói luôn:

- Cô Hai gốc thuộc đạo Cao Đài Tây Ninh. Nhưng cô lớn lên không tu theo Cao đài mà lại theo Tịnh Độ. Mười năm nay cô bị căn hành lang thang đây đó, không làm ăn mua bán gì được cả.

- Trời ơi, sao cậu biết?

- Dạ, cô cũng theo thọ học đến ba bốn ông thầy, nhưng chẳng có thầy nào chịu cấp sắc cho cô cả, cho nên cô lại mang ý định muốn tìm một thầy khác để xin cái sắc chữa bệnh. Bây giờ thật ra cô cũng có thể cắt gió cạo lưng hoặc coi lặt vặt cho người khác chút đỉnh. Nhưng cô làm việc có cơn, lúc muốn coi thì không biết nói gì, lúc không muốn coi thì tự nhiên cứ buột mồm nói ào ào không kiềm chế được.

Cô Hai há hốc mồm nhìn tôi, bà Chín ngồi trên võng cười ngất:

- Đúng hôn vậy cô Hai?

Cô Hai Xa Cảng không trả lời mà quay sang tôi chờ nghe tiếp. Tôi thấy hình như cô đang thu người lại.

- Bây giờ cô vẫn cứ lang thang, gia đình con cái coi thường cô, không ai chịu nghe cô dù chỉ một lời, không ai chịu hiểu cho cô cả.

Cô Hai bật khóc ngon lành khóc tức tưởi. Nước mắt cô tuôn tràn khiến tôi có cảm giác như cô đã chuẩn bị khóc từ lâu lắm rồi. Vừa khóc cô vừa than thở chuyện nhà cửa, chuyện chồng con, chuyện lang thang của cô. Tôi đột nhiên trở thành người nghe bất đắc dĩ, bấc giác tôi hối hận về việc làm của mình.

- Cậu Hai ơi, cậu có cách nào giúp giùm tôi không vậy cậu?

Cô Hai chợt đổi giọng một cách đáng thương. Bà Chín lúc này mới góp lời:

- Tôi nhắn cậu ghé qua đây cũng là vì chuyện này đó. Thấy cổ bỏ nhà bỏ cửa đi hoài mà thương, có khi không ăn không uống gì cả. Thấy đám cúng bà cúng miểu, cúng đình là cổ sà vô bái lạy nấn ná đến chừng tan hàng mới thôi. Nay biết cậu rồi, nhờ cậu giúp giùm.

Tôi thở dài, giá mà lúc nãy mình đừng có thử nghề với cổ, giá mà trước đây mình đừng có vướng vô mấy vị linh căn này thì bây giờ đỡ khổ biết bao. Nhưng thôi, mọi thứ đều có duyên nợ cả, mình làm mình chịu chứ trách ai bây giờ. Vả lại nếu giúp cho cổ ổn định lại, cổ sau này làm thầy giúp được cho bá tánh thì mình cũng có chút âm công để dành. Nghĩ vậy tôi liền quyết định chỉ cho cô Hai Xa Cảng bài Cửu Thiên Huyền nữ Tổng chú và Cửu Thiên huyền nữ lệnh phù. Sau đó, tôi vẽ cho cô chín chữ Định tâm phù uống trong chín ngày cúng đức Cửu Thiên huyền nữ.. Từ đó cũng như bà Chín, cô Hai trở thành đạo hữu của tôi. Hễ có chuyện gì khó khăn nan giải, cô liền chạy đến nhờ tôi hỗ trợ một tay.

Tiếng cô Hai kéo tôi trở về với thực tại:

- Cậu Hai nghĩ gì mà thần người ra vậy?

- À, không, tôi chỉ nhớ lại chuyện cũ thôi mà!

- Cậu Hai à, từ sau chuyện xảy ra ở nhà cậu, tui thấy cậu hay mơ màng lắm nghe…

Tôi đánh trống lảng:

- Sao cô lại có mặt ở đây vậy?

- Ủa, cậu quên tui quê ở đây sao?

- Ờ há, tôi không để ý..

- Còn cậu, sao cậu lại ở đây?

- Tôi đưa khách đi miền Tây, ghé Uỷ Ban nghỉ một đêm, mai đi tiếp.

- Vậy là tốt quá rồi. Cậu ghé đây rõ ràng là do ơn trên xoay chuyển. Tui không còn lo nữa.

- Nhưng mà cô lo chuyện gì?

- Cậu hổng nhớ tháng trước tui ghé nhà cậu nhờ cậu về Mộc Hoá một chuyến giúp gia đình tui à?

- Lúc đó rối bời, tôi đâu có để ý kỹ. Thôi, cô kể lại chi tiết giùm tôi đi.

- Chuyện là vầy.. Châu là con gái bác Tư Xê, gọi cô Hai Xa Cảng là cô họ. Năm nay Châu vừa tròn mười chín tuổi, cái tuổi xuân thì vừa đủ độ chín mùi để làm gục ngã bao chàng trai trong vùng. Chẳng những thế Châu còn hát hay cấy giỏi. Mỗi khi bà con cấy vần công ai nấy bị Châu bỏ xa. Có khi cô còn cấy bao nhốt mấy chàng vào trong đám mạ phải la oai oái. Nhiều nhà có con trai mới lớn đều ngắm nghía và tính chuyện làm suôi với bác Tư. Bác Tư lấy chuyện này làm điều thích thú. Mỗi khi đi đám tiệc ở đâu, nhắc đến Châu là y như rằng bác khoe hết lời khiến nhiều người cứ tấm tắc hít hà. Thật ra bác cũng đang âm thầm kiếm một chàng rễ vừa ý. Vậy mà đùng một cái cô Châu có bầu. Lúc đầu thấy cô nôn oẹ biếng ăn ở nhà cứ tưởng cô làm nhiều sinh bệnh. Nhưng rồi những triệu chứng của một người ở cử càng lúc càng lộ rõ, nhất là cái eo vốn thon thả của cố cứ tròn dần ra một cách công khai khiến mọi người tá hoả. Bà con lối xóm xì xầm bàn tán, rủ nhau đoán già đoán non về tác giả cái bào thai kia.

Trước đây mọi người ca ngợi Châu bao nhiêu thì bây giờ cái tiếng thị phi cũng tương xứng bấy nhiêu. Vợ chồng bác Tư thì khỏi nói. Bác gái lúc nào cũng rền rĩ than trời trách đất, rồi trách bản thân vô phước có một đứa con gái hư thân mất nết như Châu. Bác Tư Xê thì ngày nào cũng tra hỏi cật vấn rồi mắng chửi đánh đập. Có hôm ra đồng mặt mày Châu sưng tím, tay chân lằn ngang lằn dọc vì trận đòn dữ tợn của bác Tư. Mọi người càng dè bĩu, bác Tư càng đánh chửi thì Châu càng im lặng. Cái im lặng thật đáng sợ ẩn chứa một sự phản kháng ngầm. Bất ngờ lúc giữa trưa làng xóm nghe tiếng gào khóc của bác Tư gái. Mọi người ùa sang thì thấy cô Châu cả người tím tái, mắt trợn dọc, bọt mép sùi ra hai bên ướt cả chiếc áo bà ba màu tím hoa cà, ướt cả chiếc chiếu cô nằm. Người cô nẩy lên từng cơn như bị kinh phong. Bà con xúm nhau lại cạo gió, cắt lưng, giật tóc mai nhưng cô chỉ còn nảy người lên vài cái rồi rủ xuống tắt thở. Cô chết nhưng đôi mắt vẫn mở to, nhìn vào hư không như oán trách điều gì. Dưới chân giường vẫn còn chai thuốc xịt rầy đã vơi hơn phân nửa.

Vậy là mọi người lại bắt tay vào lo hậu sự cho cô Châu. Đôi mắt cô vẫn mở to không nhắm, người nhà làm đủ cách nhưng đôi mắt vẫn cứ mở trừng trừng khiến ai nấy rởn óc không dám nhìn lâu. Cuối cùng, mấy vị chức sắc trong Cao Đài quyết định lấy chiếc khăn đỏ phủ lên đôi mắt cô rồi làm nghi thức an táng. Vì cô Châu chết lúc đang có mang nên bên mộ của cô Châu, người ta trồng một cây chuối sứ, chừng nào chuối trổ buồng thì đứa nhỏ ma cũng được chào đời. Ba ngày sau chuyện lạ bắt đầu xảy ra. Ông Tám thợ rèn đi ăn đám giỗ bên kia sông nên về muộn hơn thường ngày. Trời chạng vạng ông mới khật khà khật khưỡng qua đến đám ruộng của bác Tư Xê. Một cơn gió lạnh thổi qua làm ông rùng mình. Cái bầu tâm sự của ông cần có chỗ để trút. Ngó quanh quất không thấy ai ông tè luôn trên bờ ruộng. Chợt ông nghe tiếng nói văng vẳng:

- Ông Tám đi đâu về tối quá vậy?

Tưởng gặp người quen ông trả lời:

- Ừ, tao đi đám giỗ về.. mà đứa nào hỏi đó bây?

Nhưng khi quay người lạ ông chẳng thấy bóng dáng người nào. Tưởng uống rượu nhiều quá nên mơ hồ ông Tám lắc lắc cái đầu như xua tan cơn say, ông lại nghe thêm tiếng kêu thật lớn:

- Ông Tám..

Lần này không thể lầm lẫn được ông Tám quay phắt lại nhìn. Trong không gian nhá nhem tối ông chợt phát hiện mình đang đứng gần nấm mộ của cô Châu. Mồ hôi lạnh toát ra ướt áo ông Tám tỉnh hẳn rượu vội co giò chạy một mạch về nhà, mặt mày tái mét nói chẳng ra lời. Hôm sau ông ngã bệnh..Trường hợp ông Tám không phải là duy nhất. Thím Năm Hoài, rồi cô Hai Lành, thằng Rạch con ông Ba Thớm đầu xóm cũng thấy cô Châu hiển linh. Thằng Rạch kể, chiều hôm đó nó lùa trâu về nhà, lúc ấy trời chưa tối hẳn đi ngang mộ của Châu, nó thấy cô đứng sẵn tự lúc nào. Lúc đầu nó còn tưởng cô nào ở trong vùng đang hẹn hò với bồ, không dè đến gần nó thấy cô Châu đang cười nhìn nó. Vẫn là chiếc áo bà ba bông tím hoa cà mà ở nhà mặc lúc liệm xác cô, vẫn nụ cười duyên quen thuộc với bà con lối xóm. Cô lấy tay ngoắc. Hồn vía lên mây thằng Rạch cắm đầu chạy, vừa chạy nó vừa la bài hãi:

- Trời ơi!..ma.. ma..

Về đến nhà nó ngã vật ra sùi bọt mép, lên cơn co giật. Báo hại cả xóm gần cả đêm không ngủ với nó. Người lớn vừa kiếm thầy cắt lễ cho thằng Rạch vừa cử mấy tay thanh niên chạy ra ruộng tìm trâu. Trong khi cả xóm còn đang kinh hoàng thì sau lễ cúng cửu đầu tiên (đạo Cao đài lấy chín ngày để cúng vong nên gọi là cửu, khác với đạo Phật cúng thất sau khi người chết được bảy ngày) nhà cô Châu bắt đầu có chuyện. Buổi tối cả nhà nghe tiếng lục đục trong buồng ngủ của cô. Tưởng là chuột nên bác Tư chỉ vỗ vỗ vào vách mấy cái rồi ngủ tiếp. Đến tối hôm sau thì tiếng động càng lớn hơn như ai đó đang lục lọi đồ đạc trong buồng. Cất tiếng hỏi không nghe ai trả lời, bác Tư bưng đèn vào trong xem thử. Tất cả bình thường không có vẻ gì là xáo trộn. Đêm tiếp theo nữa cả nhà không ai ngủ được vì tiếng khóc rấm rức từ trong buồng văng vẳng vang ra. Nghe kỹ thì đó là tiếng khóc quen thuộc của cô Châu mỗi khi bị bác Tư đánh mắng. Ở nhà rởn da gà không ai dám ho he. Riêng bác Tư trai vốn có vai vế trong đạo nên còn bình tĩnh, bác hét lớn át cả tiếng khóc:

- Bây sống làm nhục nhã cha mẹ, giờ chết rồi tính làm ma để báo hại gia đình [hải không?

Tiếng khóc chấm dứt. Cả nhà yên giấc đến sáng. Nhưng rồi những đêm sau mọi thứ vẫn tiếp diễn như cũ. Lần này càng lộng hơn người nhà thấy cô Châu hiện hồn rành rành. Từ trong buồng cô bước ra quanh quẩn gần tủ thờ rồi khóc lóc. Có khi đang ngủ vợ chồng bác Tư giật mình thức giấc nghe tiếng của Châu kêu gọi thảm thương:

- Má..ơi! Tía.. ơi..ơi!

Mở mắt ra nhìn hai ông bà thấy cô xoã tóc đứng ngay cạnh giường ngủ của mình. Ở dưới quê lúc bấy giờ chưa có đèn điện, nhà nào sang lắm mới xài điện bình. Bình gần cạn phải đi ghe ra ngoài chợ để sạc lại. Nhà bác Tư cũng chỉ xài đèn dầu, trong ánh đèn dầu tù mù leo lét, bóng cô Châu lúc ẩn lúc hiện với mái tóc xoã dài với tiếng khóc nức nở làm mọi người sợ đến mất vía. Ban đầu là bác gái bỏ buồng trong chạy ra bộ ván ngủ với bác trai, rồi sau đó cả nhà dọn giường qua gian bếp ngủ chung với nhau. Cuối cùng cả nhà bỏ sang nhà bác Ba Xàng ngủ nhờ. Thế là căn nhà của bác Tư ban ngày.. dành cho người, còn ban đêm..để lại cho cô Châu về ở.

**

Dường như kể nhiều hơi mệt, cô Hai Xa Cảng dừng lại hớp một ngụm cà phê đá.

- Cô Hai à, tính đến bữa nay thì cô Châu chết được mấy ngày rồi cô?

- Đến ngày mai là vô cửu thứ bảy rồi đó cậu. Nói thiệt với cậu từ hôm cậu từ chối không nhận ở nhà đã làm hết cách rồi. Mời bổn đạo đến hộ niệm, mời thầy đến cúng giải vong, mời đồng bóng về cúng bà.. hễ ai bày gì là anh chị Tư tui làm nấy nhưng coi bộ hổng ai làm được gì cả cậu Hai à. Cực chẳng đã anh chị Tư tui nói quá nên tui mới về cúng thử xem sao. Biết đâu nó thương tui thiệt lòng cầu nguyện cho nó mà chịu đi đầu thai thì phước ba đời luôn đó cậu.

- Cô về được mấy hôm rồi.

- Mấy đâu mà mấy. Tui đi chuyến xe đầu hôm nay, về đến đây mới có mười giờ hà. Vậy mà có chút thời gian rảnh đã nghe không biết bao nhiêu chuyện về con Châu nữa.

- Còn thêm chuyện gì nữa?

- Đó, mới hôm qua thôi. Buổi chiều, anh Bảy Niễng chạy hào hễn từ ngoài ruộng về. Vô tới nhà ổng la um lên:

- Con Châu nó rượt tui, con Châu nó rượt tui.

Gặp chị Bảy nghễnh ngãng còn hỏi lại:

- Trâu làm gì mà rượt ông chứ?

Thiệt là cười ra nước mắt luôn. Đến khuya hôm nay, bạn hàng của chị Tư đi ghe qua trước nhà, tính ghé lên lấy đồ. Dè đâu vừa ghé vô thấy nó đứng ngời ngời ngay bến, ai nấy bò càng luôn vậy đó.

Tôi cắt ngang câu chuyện:

- Bây giờ cô định làm sao?

- Thì làm sao nữa, tui định tối nay tụng kinh cầu siêu cho nó. Thấy còn thiếu vài món nên vội chạy ra chợ mua thêm cho đủ.

Cô Hai đổi giọng:

- Cậu Hai ơi gặp cậu ở đây rồi thôi cậu giúp tui chuyến này đi nghe cậu.
Tôi không trả lời quay ra ngó mông lung ngoài sông lớn. Phải chăng tôi gặp cô Hai ở đây là một sự tình cờ? Còn giấc mộng cách đây gần tháng phải chăng cũng là trùng hợp? Câu chuyện kể của cô Hai làm tôi xúc động. Tự nhiên tôi thấy thương cảm cho số phận của một con người sống bị người ta chê cười chết lại bị người ta sợ hãi. Họ sợ hãi điều gì kia chứ? Sợ ma ư? Ai chết rồi mà chẳng thành ma? Ma là người đã chết người là ma lúc còn sống có gì khác nhau đâu. Cái kiếp sinh tử luân hồi ai mà chẳng có một lần phải trải qua. Có điều người thì ra đi nhẹ nhàng kẻ thì quyến luyến nấn ná. Chẳng qua là vì họ chẳng cam lòng đó thôi, hoặc giả họ còn điều tâm nguyện nào đó chưa giải quyết nên không chịu nhắm mắt đi xuôi. Cái tâm tham lam, sân hận, si mê theo họ vào cả trong cõi u minh. Biết bao giờ mới giải thoát đây.

- Cậu Hai ơi, cậu giúp giùm tui đi cậu!

Tôi sực tỉnh, quay sang nói với cô Hai:

- Được rồi, cô ghé tiệm thuốc Bắc mua giùm tôi một số vị thuốc sau: Châu sa–năm chỉ, Thần Sa–năm chỉ, Son Tàu–năm chỉ, A Nguỳ-mộtlượng..Rồi cô ghé vô chợ mua luôn nhang đèn, giấy áo, nãi chuối sứ, ít giấy vàng..

Cô Hai mừng quýnh:

- Giấy vàng và nhang đèn tui mua rồi nè, còn mấy cái kia có ngay thôi. Cậu chờ tui chút nghe.

Nói xong, cô Hai đi nhanh ra khỏi quán. Cái dáng cao gầy của cô tất tả giữa dòng người đang từ dưới bến đi lên.

Nhà bác Tư cách chợ Mộc Hoá khoảng chín cây số đường sông. Chúng tôi đi ghe máy về tới nhà thì đồng hồ đã chỉ năm giờ chiều. Thấy cô Hai từ dưới bến đi lên, một người phụ nữ trạc sáu mươi tuổi chạy ra đón lấy giỏ đồ trên tay cô Hai vừa nói:

- Trời chiều rồi mà cô chưa về làm tui lo quá. Sao mà lâu quá vậy?

- Gặp được quới nhơn nên về muộn đó mà.

Quay sang chỉ tôi, cô Hai giới thiệu.

- Cậu Hai Dũng, người mà tui kể với chị hồi tháng rồi đó. Hôm nay ra chợ mua đồ, may sao gặp cậu ấy đang ghé huyện làm công chuyện. Vậy là tui đưa cẩu về đây luôn. Còn đây là chị Tư của tui đó cậu.

Bác Tư gái có vẻ mừng rỡ:

- Mời cậu vô nhà, hôm nay mùng Một ở nhà có mấy mẹ con tui. Ổng mắc việc ngoài Thánh thất chắc không về được.

Bữa cơm chiều được dọn ra đạm bạc. Tàu hủ chiên vàng, dĩa rau mốp làm chua chấm chao và tô canh canh rau dền con ăn với cơm gạo mới. Tôi làm luôn ba chén đầy mà vẫn còn muốn ăn thêm, trong đầu chợt liên tưởng đến bữa tiệc ban trưa, nặng nề và tanh tưởi. Ăn xong trời cũng bắt đầu chạng vạng. Thoắt cái cả nhà bác Tư biến đi đâu mất chỉ còn tôi và cô Hai loay hoay chuẩn bị thời kinh. Khi theo chân cô Hai đi lên gian nhà trên, nơi đó thờ Thiên nhãn, Cửu huyền, bàn thờ của cô Châu cũng đặt ở đấy. Vừa bước vào gian trên tôi nhận ra ngay một cảm giác rất lạ. Gian thờ đóng kín cửa lớn, nhưng tôi vẫn cảm thấy gió ở đâu quyện nhè nhẹ vào cổ chân, xương sống tôi có một luồng khí lạnh chạy lên chạy xuống.

Tưởng linh phù chữ Phật an ở đảnh và tâm ngực xong, tôi tiếp tục bước vào trong. Đến trước bàn thờ cô Châu, tôi bàng hoàng giật mình đánh thót một cái..chắc mọi người đã đoán ra điều gì rồi. Bức di ảnh của cô Châu trên bàn thờ giống với cô gái trong giấc mộng tháng rồi của tôi như đúc. Nói cách khác, cô gái mà tôi thấy trong lúc mơ màng chính là cô Châu, nhân vật trong tấm ảnh thờ đang đưa mắt nhìn tôi với nụ cười buồn bã. Thoáng chút bàng hoàng tôi vội trấn tĩnh và bắt đầu thời kinh tụng. Tiếng chuông mõ hoà vào trong ánh sáng lung linh của hai ngọn đèn cầy, trong mùi nhang trầm phảng phất tạo nên bầu không khí liêu trai huyền ảo nhưng ấm cúng. Tôi và cô Hai hoà niệm bài chú Đại Bi:

“..Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, nam mô a rị da bà lô yết đế thước bát ra da, bồ đề tát đoả bà da..”

Tiếng chuông điểm vào cảnh tỉnh, tiếng mõ đều đặn dằn tâm, tôi để lòng mình duyên theo bài chú, tâm thức như thấy hình tướng đức Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm đang ngự giữa hư không, ánh hào quang phóng ra tiếp dẫn vong hồn..từng luồng điện chạy dọc theo sống lưng, chạy ra hai tay từng đợt từng đợt làm tôi gai cả người. Tôi có cảm giác như vong hồn cô Châu đang hiện về trong tiếng chú.

“..Nam mô Liên trì Hải hội Phật Bồ tát..Phật thuyết A Di Đà kinh. Như thị ngã văn..”

Bổn kinh Di Đà hầu như tôi thuộc nằm lòng. Từng lời từng lời trong kinh như mở ra cả một thế giới hư không với cõi Tây phương trang nghiêm Tịnh độ. Bốn mươi tám lời thệ nguyện của đức Phật Di Đà dẫn dắt chúng sanh về Phật quốc, cầu cho vong hồn của cô Châu thức tỉnh bến mê mà quay về bờ giác. Về đi thôi, về đi cô Châu ơi, luyến tiếc làm chi một chút hồng trần, hãy duyên theo lời hộ niệm mà thức tỉnh, hãy nương theo ánh hào quang của chư Phật ba đời mà thoát khỏi biển khổ này. Tôi tụng cho cô cũng như tụng cho thằng em đã mất của tôi. Nó và cô đã lìa bỏ cuộc đời, vậy đừng nên quyến luyến làm gì thêm khổ não.

Xong thời kinh Phật, tôi nhờ cô Hai đem sẵn châu sa thần sa hoà trộn với son tàu thành một thứ mực đỏ sẫm. Chắp tay kết ấn trì tụng Quang Minh cam lộ chơn ngôn hai mươi mốt biến, tôi dùng son tàu vẽ thành bảng phù ấn Tỳ lô hoa tạng. Sau đó tiếp tục vẽ thêm các linh phù bổn môn. Đợi đến mười một giờ đêm, tôi bắt đầu khai đàn tác pháp. Cô Hai đứng ngoài hộ đàn. Không khí lúc này yên tĩnh lạ thường, không một tiếng động, dù là tiếng gió. Tôi có cảm giác không gian như đặc quánh lại, tay chân bỗng trở nên nặng nề. Tôi đốt phù và đọc chú gọi hồn. Trong cái yên lặng khác thường của gian phòng tranh tối tranh sáng, tôi nghe tiếng đọc của mình lanh lảnh:

- ơi…ơi… ma chi la …a…ma chi li… pon on ti pê sa…a… sắc sa quắt…ơi.. ơi…i…

Ngọn đèn cầy bên phải bàn thờ bỗng chao đảo liên hồi như có gió thổi, không khí bổng dưng lạnh một cách kỳ lạ. Hai lỗ tai tôi lùng bùng vang lên những tiếng vo vo như có hàng vạn con ve đang cất tiếng kêu. Biết là hồn cô Châu đang hiện về, theo thói quen tôi kết thủ ấn làm thành bị giáp kim cương hộ thân. Và rồi trong khoảng tranh tối tranh sáng giữa cửa buồng của cô Châu với bàn thờ vong, tôi thấy một bóng người mờ mờ ảo ảo. Thoáng nghe tiếng cô Hai Xa Cảng “ư” lên một rồi tắt lịm, dường như cô đang lấy tay bịt miệng mình lại. Bóng hình rõ dần, rõ dần.. đúng là hình ảnh tôi từng thấy trong mơ, cũng chiếc áo bà ba bông màu tím hoa cà trong ánh sáng huyền ảo của ngọn đèn cầy, đã trở màu đen sẫm. Cũng dáng vẻ thanh nhã với cái bụng to hơn bình thường một chút, cũng khuôn mặt khả ái và những giọt nước mắt lăn dài trên má. Sau một thoáng xúc động, tôi vừa giữ ấn vừa hỏi:

- Cô có phải là cô Châu không?

Thoáng thấy chiếc bóng gật đầu. Tôi lại hỏi tiếp:

- Cô có biết tự vẫn huỷ hoại mình và thai nhi là mang tội với đất trời hay không ?

Vẫn là một cái gật đầu, nước mắt tiếp tục lăn dài trên gương mặt cô.

Cố nén tiếng thở dài, tôi nói:

- Cô biết mang tội mà vẫn làm chắc chắn là có nỗi khổ tâm. Nhưng cô có biết rằng ở lại thế gian phá quấy mọi người là chuốc thêm tội hay không? Người sống có con đường của người sống, kẻ chết có nẻo riêng của kẻ chết. Cô lẫn lộn âm dương, không lo an phận chờ ngày đứa trẻ ra đời thì chắc chắn sớm muộn gì mộ của cô cũng bị lôi đả cho mà xem.

Vẫn là tiếng nức nở. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao cô Châu không thể nói với tôi một lời nào. Tôi lại cất lời khuyên nhủ:

- Cô Châu à, tôi và cô gặp nhau là do duyên. Tôi chỉ mong giải toả uất ức trong lòng cô để cô yên lòng ra đi. Tôi không đủ sức siêu độ cho cô nhưng tôi sẽ nhờ hạnh nguyện ba đời chư Phật và oai linh Thầy Tổ để đưa mẹ con cô về núi tu hành.

Cô Châu khẽ cúi đầu như ngẫm nghĩ. Thật lòng lúc bấy giờ nếu cô Châu từ chối tôi cũng không biết phải xử trí cô ra sao nữa. May cho tôi cô Châu ngẩng lên nhìn tôi như tỏ vẻ ưng thuận. Rồi cô đưa tay chỉ về phía bàn thờ Thiên nhãn và Cửu huyền như muốn nói gì đó. Tôi biết cô không dám đến gần bàn thờ Thiên nhãn.

- Cô muốn tôi làm gì ở đó?

Vong linh của cô Châu vẫn chỉ về phía bàn thờ. Nhìn theo tay chỉ của cô, hình như là trong tủ thờ có cái gì đó. Quay sang cô Hai Xa cảng định nhờ cô giúp thì thấy cô chắp tay che kín mặt, miệng lầm thầm niệm liên tục không dám mở mắt. Tôi đành đứng dậy đi về phía tủ thờ. Bây giờ nghĩ lại không hiểu tại sao mình làm được chuyện đó. Vì muốn đến tủ thờ phải đi ngang qua chỗ hồn ma cô Châu đang đứng, chỉ nghĩ đến thôi đã ớn lạnh rồi. Vậy mà lúc ấy tôi bước thản nhiên lòng không có chút gì lo sợ. Vẫn nắm thủ ấn trong tay áo tôi tiến đến tủ thờ. Bàn thờ gia tiên được làm bằng gỗ cẩm lai cẩn xà cừ. Hai bên hông tủ là hai cánh cánh cửa nhỏ. Ở dưới quê thường cất chén bát, ly tách quý giá vào bên trong tủ, mỗi khi có đám tiệc mới lấy ra xài một lần.

Tôi bước đến mở tủ ra bên trong tối om. Với tay lấy ngọn đèn dầu trên bàn thờ Cửu huyền xuống rọi vào, một mùi ẩm mốc xộc ra khiến tôi muốn nhảy mũi. Bên trong là từng chồng chén đĩa được gói lại cẩn thận bằng giấy báo, bụi bám đầy bên ngoài chứng tỏ lâu lắm không ai sử dụng. Không thấy gì tôi lại quay ra nhìn hồn ma của cô Châu. Cô vẫn đứng xa xa chỉ về phía tủ thờ tôi đang mở, khuôn mặt mờ ảo của cô có vẻ khẩn thiết hơn. Tôi lại phải quay vào soi đèn tìm tiếp. Lần này tôi đưa tay giở từng chồng chén đĩa lên để tìm. Bất chợt tôi phát hiện một túi ni-lông được gói cẩn thận nhét ở dưới đống dĩa. Cầm túi ni–lông ra, tôi xoay lại định hỏi cô Châu thì cô biến mất tự lúc nào.

Quay trở lại đàn, tôi ngồi xếp bằng xuống và mở túi ni-lông ra. Cái túi được gói cẩn thận mấy lớp. Gỡ đến lớp trong cùng, một xấp thư và hai tấm ảnh rơi ra. Trong ảnh là cô Châu đang tươi cười bên cạnh một thanh niên khá đẹp trai. Cả hai đang đứng bên một hòn giả sơn khá lớn. Tôi chợt hiểu.. Cô Châu ơi, chữ tình đối với cô lớn đến như vậy sao? Vì một người đàn ông mà cô nỡ bỏ cả mạng sống của mình, cũng vì những món vật còn để lại này mà cô không chịu ra đi. Thế gian trầm luân cũng bởi thế này. Thôi, tôi sẽ hoàn thành tâm nguyện cho cô, mong cô an lòng mà về núi. Tôi bắt đầu tác pháp, kết thủ ấn định tâm nhập vào Tỳ Lô hoa tạng thế giới, tập trung trì niệm Quang Minh cam lộ chơn ngôn hồi hướng cho vong hồn mẹ con cô Châu được thoát khỏi ma chướng oán nghiệp, giải toả oan kết thế gian.

Cuối cùng tôi đốt linh phù bổn môn, nhờ oai linh thầy tổ đưa cô về núi. Những vật thực cúng dường, phù ấn, vàng bạc và cả những bức thư, tấm ảnh của cô Châu đều được hoá cẩn thận. Thôi, sơn quy sơ, thổ quy thổ. Những gì của quá khứ xin trả về cho cát bụi, chết đi rồi có mang theo được gì đâu. Còn chút ân tình cũng nên trả lại thế gian, cầu chúc cô về núi tu hành tinh tấn. Pháp sự hoàn mãn cũng là lúc chuông đồng hồ thong thả điểm ba tiếng. Cô Hai và tôi lặng lẽ thu dọn và ra bến chờ đứa cháu cô Hai lấy xuồng. Đến bây giờ bác Tư gái mới xuất hiện tôi định nói với bác vài lời nhưng lại thôi. Nói gì bây giờ đây dù gì đi chăng nữa cô Châu cũng đã đi rồi, tâm nguyện của người chết và mong muốn của người sống đã được thoả mãn có nói cũng vô ích mà thôi. Tôi lặng lẽ ra bến ngồi chờ chiếc xuồng máy đuôi tôm đang tư từ trờ tới.

Chiếc xuồng nổ máy chạy về chợ Mộc Hoá. Trên bến bác Tư gái còn đứng nhìn theo. Bóng của bác mất hút trong màn đêm buổi sớm. Tôi ngồi ở mũi xuồng từng cơn gió lạnh trên sông thổi vào mát rượi. Một ngày mới lại bắt đầu một chuyến hành trình mới của tôi lại tiếp tục. Trên những nẻo đường giong ruổi, tôi lại chất thêm vào hành trang ký ức của mình một kỷ niệm siêu linh, ngẩng lên nhìn bầu trời chi chít những ngôi sao, tôi có cảm giác như linh hồn của cô Châu đang là một trong những vì sao ấy.


Tamandieungo

Thanked by 1 Member:

#327 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 29/09/2011 - 23:09

CHUYỆN CỦA BÀ HAI CẨU

Tối thứ Tư, chương trình Tivi thường có cải lương Hồ Quảng do đoàn Huỳnh Long hoặc Minh Tơ biểu diễn. Mấy người lớn tuổi trong xóm lục tục kéo đến từ hồi chạng vạng. Hôm nay đoàn Minh Tơ biểu diễn vở Thập Tam Thái Bảo, ai nấy náo nức chờ đợi. Vậy mà ông nhà đèn lại nỡ phụ lòng người dân xóm nghèo. Đúng 6g45, chương trình Tivi mới bắt đầu thì..phụp, đèn tắt tối thui. Lũ nhỏ tụi tôi rên rỉ, người lớn thở dài, càu nhàu. Bà Hai Cẩu tức mình chửi bâng quơ:

- Bà nội cha nó, tiền điện hàng tháng mình đóng đủ. Vậy mà nó cũng không cho mình coi ti-qui nữa!

Ông Hai kêu mấy đứa con thắp đèn dầu. Một vài người trong xóm bỏ về. Còn lại hơn phân nửa nấn ná xem ông nhà đèn có đổi ý hay chăng. Tôi ngồi trong góc bộ ván, nép mình thu lu. Phần vì bắt chước những người ở lại nuôi chút hy vọng mong manh, phần vì cúp điện tối thui về nhà hay ở lại cũng vậy thôi.

Bà Hai Nhà in lên tiếng trước (xóm tôi có thói quen gọi tên người kèm theo nghề nghiệp của họ hoặc của chồng hay vợ):

- Cúp điện trời này sao tôi thấy giống năm Mậu Thân quá!

Thím Ba Cam tiếp lời:

- Trời cũng tối đen như mực thế này. Súng nổ ầm ầm, tui chỉ biết ẳm con Hà chui đại xuống gầm ván mà trốn.

Tôi nghĩ bâng quơ “Thì ra con Hà cũng nằm dưới gầm ván giống mình. Hèn chi nó học ngu quá xá..”

Tiếng bà Hai Cẩu cắt ngang suy nghĩ của tôi:

- Lúc đó vừa nghe tiếng súng, ông Hai ẳm thằng Út Mười, tui ôm con Út Chín, mấy đứa lớn chạy lúp xúp theo sau. Đạn bắn đùng đùng trên đầu, may không chết hết rồi.

Bà Tư Cầu hiền lành ít nói nhất, bây giờ cũng góp lời:

- Mô Phật, dạo đó chỗ mình chết nhiều quá!

- Ừ, chết nhiều thiệt.

Bà Hai Cẩu trả lời ngay.

- Tui nghe nói bên xóm thịt ngựa họ bị pháo dập chết gần chục người. Có người bị nhà sập đè chết, có người bị mảnh pháo mà chết..Thiệt là tội nghiệp. Ở trong nhà mà cũng bị mảnh pháo xẻ thịt, đúng là số.

Bà Tư nhỏ nhẻ:

- Bao lâu nay họ chuyên xả thịt ngựa, bây giờ họ lại bị xả thịt. Nghĩ lại bắt rùng mình. Sau dạo đó tôi không dám đi buổi tối đến cả năm trời. Cứ mỗi lần có công việc gì đi với ổng về, trời chạng vạng ngang qua cây da là tôi sởn cả da gà.

- Chị sợ là do tâm lý thôi, chứ có bao giờ chị bị ma nhát đâu.

Cô Tư Gôm giờ này mới lên tiếng.

- Ma nhát coi mặt người ta. Chỉ có mấy người yếu bóng vía mới thấy ma thôi, còn nặng bóng vía, muốn thấy cũng không làm sao mà thấy được. Trong xóm mình, có mấy người thấy ma đâu?

- Từ Mậu Thân đến giờ thì tui không thấy ma, chứ hồI mới dìa đây ở tôi gặp một chuyện kinh khủng mà đến giờ nhắc lại tui còn nổi gai ốc.

Bà Hai Cẩu nói. Mọi người nhao nhao:

- Kể đi chị Hai, kể đi..

Hớp một ngụm nước trà thông giọng, bà Hai cất giọng nhừa nhựa:

- Lúc đó tui nhớ là năm Thìn. Thằng Nhiệm Lớn được một tuổi là tui với ổng dọn nhà từ ấp chiến lược về đây ở. Ngày đó ở đây có vợ chồng anh Bảy Nhà Báo với vợ chồng Bảy Tình Liên gia trưởng. Tui với ổng che tạm cái chòi lá ở ngay nền nhà này sống bằng nghề gói bánh tét đi bán dạo. Công việc cực thì có cực đó, nhưng sống cũng đắp đổi.

Bữa đó tui đi giao bánh sớm, đi ngang qua chỗ miếu Ngũ hành bây giờ, tui thấy một ông già ngồi dựa gốc cây, cầm cái quạt phe phẩy. Tui vừa ngạc nhiên vừa tức cười, trời khuya sương xuống lạnh ngắt như vầy mà ngồi quạt, ông già này chắc bị tâm thần; vừa nghĩ vừa đi, ai dè ngang qua chỗ ngồi của ổng, ổng chợt kêu giật giọng:

- Có bánh tét nóng bán cho mấy đòn.

Không biết tính sao, tui hạ gánh xuống cắt cho ổng hai đòn bánh mỡ. Loáng cái ổng làm sạch bách, lại còn đòi thêm, cắt cho hai đòn nữa ổng cũng làm cái ào hết trơn. Trong chốc lát, ổng ăn sạch nửa chục bánh tét. Ăn xong, ổng hỏi tiền, tui nói giá xong, ổng biểu tui đi bán xong rồi quay lại lấy sau. Thấy trời còn tối, đường lại vắng, đôi co với ông này nghĩ không có lợi, tui tự nhủ thầm phen này mất toi hết nửa chục bánh. Thế là tui đứng dậy gánh giỏ bánh đi luôn. Đi khoảng chục bước, tui quay lại dòm.. Trời đất ơi! mấy bà biết gì không?

Bà Hai Nhà in nhổ cổ trầu ra đất cái toẹt, vừa quẹt mép vừa nói:

- Thì chị cứ kể luôn đi, có ai biết gì mà trả lời!

- Tui thấy.. tui thấy ông già cứ bự dần lên như cái bong bóng thổi to, mới đầu ổng bằng cái bao gạo, sau đó bằng cái miễu nhỏ, rồi bằng mái nhà, cuối cùng ổng cao bằng ngọn tre đầu hẻm luôn. Tui nói..tui quăng gánh chạy bò càng, vừa chạy vừa la bài hãi, bỏ luôn buổi chợ.

Ông Hai Cẩu phụ hoạ:

- Bữa đó tui mới đánh xe ra, tính qua xóm bên chở mối đi chợ, thấy bả chạy xấc bấc xang bang về nhà, mặt mày thì hớt hơ hớt hải, cắt hổng còn chút máu, miệng thì cứ ngáp ngáp chỉ ra ngoài hướng chợ. Tui chẳng hiểu ất giáp gì hết trọi.

- Rồi sau đó làm sao? Cô Tư Gôm nóng ruột nói chen vào.

- Thì.. tui một mình quay ra chỗ bả chỉ, thấy quang gánh bả quăng bên đường, hai trạc bánh tét ngã bù lăn bù lóc, xung quanh đâu có ai đâu. Đành phải bỏ mối quen ở xóm trên mà chở bả ra chợ giao bánh cho kịp.

Bà Tư Cầu trầm ngâm:

- Theo tui thì đây hổng phải ma đâu. Chắc là chư vị nào đó muốn đùa cợt chút thôi mà.

- Tui cũng nghĩ vậy. Hổng hiểu sao từ ngày xảy ra chuyện đó về sau, ở nhà làm ăn xuôi chèo mát mái. Bán buôn cũng khấm khá hơn. Có được chút vốn, vợ chồng tui sang lại miếng đất của ông Năm Trước trồng tỉa chút đỉnh cho đến bây giờ. Lâu lâu nhớ ổng, tui cũng cúng cho ổng mâm cơm với nửa chục bánh tét.

Bà Hai kết thúc câu chuyện. Mọi người trầm ngâm suy nghĩ. Có lẽ mọi người đang ước mơ một ngày nào đó được gặp ông già quái dị này chăng? Sau này, khi lớn lên, được học đạo với sư công, tôi có kể lại câu chuyện này. Nghe xong, sư công tôi mỉm cười nói:

- Đó là ông chủ thổ. Ai gặp được ông ấy là có duyên lắm. Trừ phi mình bỏ vùng đất này mà đi, chứ ở lại nơi đó sẽ được phù hộ quanh năm.


ST

Thanked by 1 Member:

#328 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 29/09/2011 - 23:20

CHUYỆN CỦA ÔNG TƯ CẦU

Bỗng, cô Tư Gôm quay sang bà Tư Cầu hỏi:

- Anh Tư mấy hôm nay đỡ chưa vậy chị?

- Mô Phật, ổng khoẻ lại rồi. Nhưng hơn tuần nay ổng không chịu đánh xe ngựa nữa. Báo hại mối mang người ta la quá trời. Thằng Mỹ phải xin nghỉ làm nửa buổi ở nhà đánh xe thay ổng.

Chuyện của ông Tư Cầu tôi cũng có nghe lỏm bỏm. Thấy người lớn họ nói với nhau về chuyện này có vẻ kín đáo lắm. Hình như là ông gặp ma thì phải. Từ hôm đó đến nay gần một tháng, chẳng thấy ông ra ngồi dưới cây táo trước sân nhậu khô sặc nữa. Tụi nhỏ bọn tôi cũng sờ sợ, không dám lảng vảng hái táo nhà ông như trước đây. Bà Hai Nhà in vừa bỏ miếng trầu vô miệng vừa trệu trạo nói:

- Mấy bữa xóm trong cứ xì xào chuyện anh Tư mà tui hổng có để ý lắm. Chỉ nghe nói ảnh bịnh rồi qua thăm vậy thôi. Nay ảnh khoẻ rồi, thôi thì chị kể lại chuyện của ảnh cho mọi người rõ một chút được không!

- Mô Phật. Chuyện cũng chẳng có gì. Chỉ tại ổng sợ quá rồi phát bịnh thôi. Chuyện như vầy.. ba giờ sáng, như thường lệ, ông Tư đánh xe ngựa lên Bình Trị Đông chở mối hàng bông. Không khí trở lạnh hơn mọi khi, thỉnh thoảng vài cơn gió thổi qua làm ông khẽ rùng mình. Thò tay vào túi lấy cuộn giấy quyến và bọc thuốc rê, chuyển sợi cương ngựa xuống quấn vào ngón chân cái, ông cặm cụi vấn một điếu thuốc rồi bật cái hộp quẹt zippo châm lửa hút. Một làn khói trắng tuôn ra từ cái miệng móm xọm của ông rồi nhanh chóng lan toả vào không gian mù mịt. Bập được vài hơi, ông Tư cảm thấy ấm hẳn. Thả bọc thuốc rê vào sàn xe, ông dựa vào thành xe, mắt lim dim tận hưởng cái cảm giác lâng lâng của khói thuốc. Với tay nắm nhẹ dây cương, ông cho con ngựa chạy nước kiệu.

Chợt, con ngựa của ông Tư hí nhỏ một tiếng rồi khựng lại. Giật mình, ông Tư vội gò cương ngựa chồm dậy nhìn. Trong ánh sáng mơ hồ của ánh trăng hạ tuần đã xế bóng và ánh đèn bão móc trên tay nắm của xe, ông Tư nhìn thấy một cô nữ sinh mặc chiếc áo dài trắng đang đứng bên đường ngoắc xe. Ghì cương cho con ngưạ đứng hẳn lại, ông Tư cất tiếng hỏi:

- Làm cái gì mà đêm hôm khuya khoắt chận xe người khác vậy hả?

- Dạ, con đi học ở Sài Gòn. Hôm nay Chủ nhật về sớm thăm nhà, bác làm ơn cho con quá giang một đoạn. Tiếng cô gái nhỏ nhẽ trả lời.

- Thăm nhà thì cũng đợi sáng rồi đi chứ?

- Dạ, con ở nhờ bà con trong xóm thịt ngựa. Tranh thủ đi về sớm để chơi với nhà lâu chút. Chiều là con phải lên Sài Gòn lại rồi.

- Con gái con đứa, đêm hôm khuya khoắt, đi một mình ngoài đường vắng như vầy, gặp ma có ngày..

Tiếng cô gái cười:

- Dạ, con chỉ sợ ma cô thôi. Bác cho con quá giang lên chợ Gò Cát được hôn bác?

- Tao chỉ chạy tới Bình Trị Đông hà.

- Dạ, vậy cũng được. Tới đó rồi con tính tiếp.

- Được rồi, lên sau xe đi. Thiệt tình, tuổi trẻ tụi bay sau này không hiểu nổi. Khuya lắt khuya lơ, đứng bên đường lại còn mặc áo dài trắng nữa, làm tao cứ tưởng..

Mãi lo nói, ông Tư không để ý con ngựa cứ dậm chân khịt mũi, vẻ bồn chồn. Ông cũng không để ý chiếc xe ngựa chẳng hề trì nặng xuống phía sau như lệ thường mỗi khi có người leo lên. Ông lại tiếp tục giật cương cho con ngựa rảo bước. Chiếc xe chồm lên rồi lại lóc cóc lăn trên con đường nhựa nham nhở đá. Ông Tư cũng chẳng buồn quay lại phía sau, và cũng chẳng nghe cô gái nói năng gì. “Con gái bây giờ thiệt lạ. Ông Tư nghĩ thầm, ngày xưa làm gì có chuyện đi khuya về sớm một mình một chợ như thế chứ. Ngẫm lại gia đình nào không chịu dạy dỗ cho đàng hoàng, rủi có chuyện gì thì.. Ôi mà chuyện của người ta hơi đâu mà nghĩ..” Một cơn gió lạnh thổi qua, ông Tư bất giác rùng mình. “Phải làm một điếu nữa thôi”. Vừa nghĩ, ông vừa với tay ra sau lấy bọc thuốc rê. Bỗng tay ông chạm phải một thứ gì đó dài dài, trơn muợt. Theo phản xạ tự nhiên ông rụt tay và quay phắt lại nhìn.. Quỷ thần ơi!

Không có cô gái nào cả. Phía sau xe ngựa là một mái tóc dài đậm đà đậm đuột xả từ trên nóc xe vắt vẻo qua thành xe trải một đống trên sàn xe ngựa. Trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn bão, mái tóc dài đung đưa theo nhịp lắc lư của chiếc xe ngựa càng trở nên rùng rợn. Thần hồn nát thần tính, ông Tư Cầu vừa nhảy phóc xuống xe ngựa vừa hét:

- Cha mẹ ôi! Ma..ma..a..

Con ngựa kéo xe cũng giật mình hí lên một tiếng rồi chồm bốn vó chạy băng về phía trước. Tiếng ngựa hí làm ông Tư sực tỉnh hồn. Ông liền đuổi theo chụp lấy càng xe ghì mạnh lại, miệng hô to:

- Họ..họ..ọ..

Chiếc xe còn trớn lăn thêm hai vòng nữa rồi dừng hẳn. Ông Tư giơ tay áo quẹt mồ hôi trán đẫm ướt tự bao giờ, thở hào hển. Trên xe trống rỗng. Ngẩn ngơ một chút, ông Tư tiếp tục lên xe, ra roi cho cho ngựa lên đường. Mặc dù tim còn đập thình thình, mệt thở hào hển, ông Tư vẫn không quên làm một điếu thuốc rê. Quái, bọc thuốc rê đâu rồi? Có lẽ nó bị rơi trong lúc xe chạy dằng xóc. Ông chép miệng như tiếc nuối “Thôi. Đến chợ rồi xin ai đó một điếu hút bậy cũng được”. Con đường độc đạo đến chợ Bình Trị Đông phải qua một dãy ao sen và cánh đồng mã lạng. Xa hơn, phía bên trong là vành đai ấp chiến lược những năm trước Mậu Thân. Rải rác mới có một căn nhà trơ trọi giữa khoảng không bao la. Xe gần tới chợ, ông Tư nhìn lên bầu trời. Trăng gần xế. Hơn ba giờ rưỡi rồi, chắc giờ này bạn hàng cũng đang gánh ra chợ. Chép miệng, ông Tư lại thèm thuốc.

Có tiếng nói cười vang lên. Phía trước ông, ngay khoảng trống vào gò mã lạng, hai người đang ngồi nói chuyện. “Chắc là dân đi soi ếch ban đêm”. Ông Tư nghĩ thầm. Thấy một trong hai người đang hút thuốc, ông Tư gò cương ngựa cho xe dừng lại, nhảy xuống đi chậm rãi lại chỗ hai người đang ngồi.

- Anh em có thuốc rê cho tui xin một điếu!

Hai người vẫn ngồi thu lu như có vẻ lạnh. Tỏ thái độ tự nhiên, ông Tư ngồi xuống bên cạnh, mở lời xuề xoà:

- Mấy anh em đi soi ếch hả?

- Ừm..ừm..m. Người hút thuốc trả lờI ậm ừ trong cổ họng.

- Đi đêm đi hôm nhiều khi gặp phải mấy thứ gì không hà.

Vừa đón lấy bọc thuốc rê từ tay người đàn ông hút thuốc, ông Tư vừa nói:

- Hồi nãy tui bị một vố suýt chết vì sợ luôn.

- Vố gì mà sợ dữ vậy?

Hai người đàn ông có vẻ chú ý.

- Tui tin mấy chú mà gặp cũng sợ chết đứng như tui thôi.

Tay vân vê cục thuốc, ông Tư trả lời.

- Hồi nãy chạy trên đường, tui gặp ma..

- Ma hả? nó ra làm sao vậy?

- Lúc đầu nó hiện thành đứa con gái mặc áo dài trắng, lát nữa nó biến thành mái tóc dài thòn vắt vẻo trên thành xe ngựa thấy phát ớn.

- Vậy mái tóc nó dài cỡ nào?

Ông Tư bực mình:

- Hỏi chi kỹ vậy? Lúc đó sợ gần chết làm sao tui nhớ nổi chứ.

- Vậy, nó có dài bằng cỡ này không?

Nói xong hai người cùng đứng dậy. Người đàn ông hút thuốc chụp lấy đầu người kế bên vặn ngược ra sau, rồi.. nắm lấy đầu tóc của ông ta kéo ra. Nắm tóc cứ dài dần, dài dần theo bàn tay kéo của người kia.

Ông Tư há hốc mồm, thả rơi cục thuốc rê. Ngực ông nặng ì như bị đá đè, hai lỗ tai kêu vo vo, thân hình cứng đơ như khúc củi. Trong giây lát, mái tóc của người đàn ông kia bị kéo dài xoả thành một đống dưới đất. Trong bầu trời khuya mờ mờ ảo ảo, hai con người cùng với nắm tóc đổ dài khiến cho ông Tư muốn ngất xỉu. Giây lâu sau, như kịp định thần ông Tư chỏi hai chân đạp đạp về phía trước lết người lùi lại, rồi ông chụp dây cột cương con ngựa kéo chạy bán sống bán chết, lần này ông không la được một tiếng nào… Bà Tư Cầu thở dài kết thúc câu chuyện:

- Mô Phật. Buổi sáng hôm đó, mới dọn cháo ra bán thì một chú tiểu ở chùa Vạn Phước tìm đến hỏi. Nghe kể lại thì nhà chùa thức dậy tụng kinh thời khuya, thấy ngoài cửa có chiếc xe ngựa mới chạy ra dòm. Mấy thầy nhìn thấy ông nhà tui nằm sấp bất động bên chiếc xe mới đưa vào trong cứu tỉnh. Phải để ổng ở lại chùa cho mấy thầy dọng Đại Hồng chung ba ngày ổng mới tỉnh táo hoàn toàn. Sau này nhớ lại, tôi không biết lần gặp ma ấy của ông Tư là tốt hay xấu nữa. Bởi vì từ đó về sau, ông ăn chay, hay đi chùa. Con người thay đổi hẳn. Lúc bà cố (má của ông Tư) bệnh gần mất, ông cùng ban hộ niệm quây quần quanh giường niệm Phật cả tuần cho đến lúc bà đi xuôi luôn. Nghe mấy người tẩn liệm nói lúc đưa vào hòm, đỉnh đầu của bà vẫn còn nóng hổi.


ST

Thanked by 1 Member:

#329 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 29/09/2011 - 23:39

NHỮNG CÂU CHUYỆN CỦA MÁ

Nhà tôi cũng làm nghề gói bánh tét. Tính đến tôi tổng cộng là bốn đời. Cái gánh bánh tét ấy đã đưa gia đình tôi qua những chặng đường gian khổ nhất, nuôi ba tôi vào trường Petrus Ký rồi đi du học nước ngoài (xin nói thêm, ngày xưa được du học là hoàn toàn miễn phí, lại còn được cấp học bổng nữa). Cũng nhờ cái gánh bánh tét này mà chúng tôi được trưởng thành. Nhiệm vụ của mấy anh em tôi là mỗi sáng thức dậy lúc năm giờ để phụ cột bánh, xâu bánh lại theo chục và chất bánh vào nồi để nấu. Trẻ con thức dậy sớm thường hay buồn ngủ. Thằng em tôi ngồi cột bánh mà nó mổ như gà. Còn tôi, bà nội kêu châm nước thêm vào thùng nấu bánh, tôi bưng luôn nguyên thùng trấu đổ vô nồi.. báo hại bữa đó bị mấy roi cháy đít.

Những lúc biết tụi tôi quá buồn ngủ, nội tôi thường kể chuyện đời xưa. Có những câu chuyện nghe đi nghe lại mãi mà không biết chán: chuyện Thạch Sanh chém Chằn, chuyện Chàng nhái Kiểng Tiên, chuyện Đứa con trời đánh… Cho đến giờ, tôi vẫn nhớ in những câu thơ nội đọc: “Đờn kêu trách bấy Lý Thông Nỡ quên hiền đệ đem lòng bạc phai Đờn kêu ai bắn chim bay Đại bàng gãy cánh chạy dài xuống hang Đờn kêu tích tịch tình tang Ai đem công chúa lên thang mà về..” Có khi nội mệt, tôi xung phong kể chuyện cho nội nghe. Quẩn quanh vẫn là các chuyện tiếu lâm, chuyện xe cán chó.. mà tôi nhặt nhạnh được trong những lúc lê la trong xóm. Đặc biệt, mấy câu chuyện ma tôi kể tạo cảm hứng cho mọi người. Chỉ có cô Ba tôi bị lãng tai không nghe, còn lại đều im lặng một cách tôn trọng làm tôi rất cao hứng. Các câu chuyện ma tôi kể làm má tôi nhớ về những năm tháng còn ở với ngoại. Và đây, hồi ức và những câu chuyện ma của má tôi.

Quê ngoại của tôi ở Củ Chi, quê hương của địa đạo, nơi từng được khen tặng danh hiệu “Đất thép thành đồng”. Suốt hai trào Pháp Mỹ, gần phân nửa số dân ở đây đã về với đất. Từ những người dân thường vô tội cho đến những người cầm súng.. đạn bom không chừa một ai. Hồi chín năm (bà con có thói quen gọi thời kỳ chống Pháp giai đoạn 1945-1954 như thế), vùng quê ngoại tôi nằm giữa hai chiến tuyến, một bên là quân đội giáo phái Cao Đài thân Pháp và một bên là Việt Minh. Người dân vì không nỡ rời bỏ mảnh đất tổ tiên, nên trở thành nạn nhân của cả hai phía. Ban ngày lính Cao Đài vào nhà yêu cầu gia đình phải dán cờ đạo để được bảo hộ. Ban đêm Việt Minh đến gõ cửa những căn nhà có dán cờ, đưa chủ nhà đi biệt tích. Người dân luôn sống trong cảm giác thấp thỏm lo âu, sợ hãi không biết khi nào sẽ tới mình. Vậy là, bà con phải sống theo “con nước”. Lính đến, cờ dán lên. Lính đi, cờ hạ xuống. Chỉ một giai đoạn chín năm, không biết bao nhiêu người đã trở thành cô hồn dã quỉ theo cách như thế.

Má tôi kể, Ở phía trên làng, gần bìa rừng có một mội nước rất ngọt (mội: hố nước tự nhiên, sâu chỉ khoảng tới ngực người lớn, nơi mạch nước ngầm chảy vào, rất trong, không bao giờ cạn), bà con trong xóm thường lấy nước này về xài. Những năm gần giải phóng, không hiểu vì sao đất lở lấp mội nước gần hết, bà con liền ra tay nạo vét và xây xi măng bao quanh. Trong quá trình làm, người ta phát hiện ngay cạnh mội nước là một cái hố chôn gần ba trăm cái đầu lâu đủ cỡ, không biết ở đó tự bao giờ. Bà con đào lên rửa sạch từng cái rồi làm lễ an táng chung trong một cái mã lớn gọi là mã đầu lâu. Từ đó không ai dám uống nước ở mội nước này nữa.

Thời kỳ lính Mỹ tấn công Củ Chi mới là giai đoạn ác liệt nhất. Bà con bị gom hết vô ấp chiến lược. Chú SAM mở các trận càn vào khu địa đạo, trong đó qui mô nhất là trận càn mang tên “ Bóc vỏ trái đất”. Bom, pháo, đạn, chó Bẹc-giê, lính Sài Gòn, lính Mỹ..đổ xuống dày đặc bắn nhau suốt mấy tháng liền. Chiến sự đi qua, để lại trên vùng quê của ngoại bao tang tóc. Những xác chết không còn hình dạng, những khúc xương, mảnh thịt tung toé hoà lẫn vào trong đất, trở thành phân bón cho cây. Có những căn hầm trú ẩn bị bom dội trúng chỉ còn lại một hố sâu thẳm thẳm nghi ngút khói. Thể xác hoà trong đất, anh linh của những người đã chết vẫn còn phảng phất trong sương khói.

Bên cạnh đám ruộng của ngoại tôi là ruộng của ông Năm Giàu. Ngày đầu sau giải phóng, về nhận lại đất ruộng để cấy cày, người nhà ông Năm cày lên từng khúc xương đầu, xương ống, có cả những mảnh biđông nước, vải dù.. Lẽ ra họ phải gom lại và an táng để an ủi vong linh, đằng này nhặt được khúc xương nào họ lại quăng chài lên bờ khúc đó, lại còn chửi rủa lầm bầm. Hôm ra ruộng ngoại tôi nhìn thấy bất nhẫn có lờI nhắc nhở, thằng Hai Đực con ông Năm còn lớn tiếng:

- Chết là hết rồi! Mắc nợ gì mà tụi tôi phải chôn cất cúng bái chứ. Nếu bà dị đoan quá thì cứ rước về mà cúng.

Ngoại tôi chỉ biết thở dài, kêu cậu Năm tôi ra thu nhặt đem chôn cất cẩn thận. Ba tháng sau, ruộng các nơi bị sâu rầy phá hại, thiệt hại không nhỏ. Ruộng nhà ngoại cũng bị rầy cắn phá đôi chút. Chỉ có ruộng nhà ông Năm Giàu là vẫn xanh mượt mà, không có bóng dáng một con rầy nào. Ai cũng cho là lạ. Ngoại tôi lén thở dài:

- Ông trời không có mắt.

Mấy tháng sau nữa, lúa chín vàng, mọi người bắt đầu thu hoạch. Kỳ lạ làm sao! ruộng lúa nhà ông Năm vẫn cứ một màu xanh ấy từ lúc lúa người ta trổ đòng đòng, ngậm sữa rồi chắc hạt, vàng hạt. Đến khi ai nấy thu hoạch xong xả rồi, xung quanh chỉ còn trơ gốc rạ, đám ruộng ấy vẫn cứ xanh mượt như cỏ non, không có một bông lúa. Ngoại tôi lại nói:

- Trời cao có mắt. Tại mình không chịu tin đó thôi.

Trong cái xóm nhỏ dưới chân dốc Bến Mương, ngoại tôi được bà con yêu thương vì biết sống tốt với mọi người. Ngoại hiền và đức độ, vậy mà bà thường xuyên gặp ma mới là chuyện lạ. Hồi đó, thỉnh thoảng má tôi lại thấy ngoại đứng trước sân nói chuyện bâng quơ với ai đó. Khi ngoại vào nhà, má hỏi thì ngoại trả lời ậm ừ:

- Thì.. mấy chú lính đó mà!

Những lúc như vậy thì ngay hôm sau, thế nào má cũng thấy ngoại nấu một nồi cơm gạo thơm, đánh ra, vò thành nắm như trứng vịt rồi bày ra cái sàng tre có lót lá chuối, kèm theo dĩa muối tiêu, mấy lát hột vịt, có khi là vài miếng khô cá trèn xé nhỏ. Ngoại bưng ra ngoài đầu ngõ, đặt dước gốc cây to nhất và lặng lẽ thắp nhang, nói chuyện một mình. Về sau, ngoại mới kể lại cho má nghe rằng anh linh của các chiến sĩ trận vong không tan đi, họ vẫn tìm về thăm ngoại như những ngày ngoại còn nấu cơm nuôi quân. Những lúc nghe tay chân phát lạnh, ở trong nhà mà gió cuộn dưới chân liên tục, bụng bồn chồn là biết các anh các chú đang về ở ngoài vườn. Ngoại lập tức chạy ra ngay, y như rằng trước mặt ngoại là vô số bóng hình đứng ngồi lố nhố ẩn ẩn hiện hiện sau mấy tán cây. Người thì tay chân mất hết, người thì dập nát nửa đầu, người thì bị pháo cắt ngang nửa người chỉ còn một phần thịt dính lủng lẳng, có một điều là họ luôn tỏ vẻ mừng rỡ khi gặp ngoại.

- Lúc đầu thì sợ thiệt.

Ngoại nói.

- Nhưng riết rồi cũng quen thấy thương nhiều hơn sợ.

Ước mong của ngoại là tìm một vị cao tăng về lập đàn tràng siêu độ cho các vong linh ấy. Ngoại nói:

- Bây giờ tao còn đây, còn cúng cho mấy chú đó. Ngày nào tao chết, biết ai lo cho họ.

Ngoại tôi là một người bình thường không đi chùa, không tụng kinh niệm Phật. Nhưng ngoại sống bằng cả tấm lòng, cho dù người đó còn sống hay đã chết. Tôi nhớ những năm đầu sau giải phóng, Sài Gòn bị một trận đói tàn khốc, phải ăn độn khoai sắn, bột mì, lúa mì viện trợ. Má tôi lập tức di tản tôi về ngoại. Cuộc sống ở quê lam lũ mà vui. Mỗi sáng bốn giờ, ngoại thức dậy gánh hai giỏ bánh bò và bánh da lợn lên chợ bỏ mối. Có hôm, tôi nằng nặc đòi theo, ngoại lắc đầu mãi rồi cũng đồng ý. Con đường ra chợ chỉ có năm cây số nhưng tối đen như mực, phải đi qua một con dốc và hai cánh rừng mới đến nơi. Con đường này ban ngày đạp xe đạp đi chở mía tôi đâu thấy sao đâu. vậy mà lần đầu đi đêm với ngoại mới cảm thấy đáng sợ. Ngoại gánh gồng đi trước, tôi xách cái giỏ lót tót đi sau. Một tiếng chim ăn khuya đột ngột cất lên cũng đủ làm tôi giật thót mình. Vừa đi, vừa niệm “Án ma ni bát di hồng” liên hồi kỳ tận. Bất chợt ngoại dừng gánh làm tôi suýt đâm sầm vào giỏ sau.

- Chuyện gì vậy ngoại.

- Ờ, con chờ chút.

Vừa nói ngoại vừa lấy ở giỏ trước ra một cái bánh bò và cái bánh da lợn gói sẵn trong lá chuối. Ngoại tiến đến gò mối lớn cạnh bìa rừng, để xuống chân gò và xoè diêm châm đỏ mấy cây nhang đã chuẩn bị sẵn. Mùi khói nhang phảng phất trong không gian buổi sớm làm tôi tỉnh hẳn người. Xong việc bà cháu lại lên đường. Thắc mắc mãi cuối cùng ra đến chợ tôi cũng đánh bạo hỏi đại:

- Sao ngoại cúng ở đó vậy ngoại, chỗ đó thờ ông địa hả?

Ngoại khoát tay tỏ ý ngăn tôi lại:

- Để lúc rảnh ngoại kể cho nghe.

Và ngoại đã thực hiện lời hứa. Lúc ấy, tụi tôi đã xay bột làm bánh xong. Trong khi chờ mợ Năm tôi làm cơm, ngoại bắt đầu kể. Hồi mới giải phóng, con đường chưa tráng nhựa. Ngoại vẫn như lệ thường gánh bánh ra chợ bán. Con đường đất sáng ánh trăng nên ngoại đi khá dễ dàng. Bất chợt, trước mắt ngoại tối mịt mù như có ai đó lấy vải đen che kín tất cả. Quờ quạng trong màn đêm đen kịt, lúc đầu ngoại cũng hơi hoảng hốt. Ngoại chợt nhớ đến câu chuyện của ông Năm Bảng. Ở đây có một thứ ma gọi là ma giăng hàng. Nó thường nắm tay giăng hàng quanh người tạo thành ảo giác khiến cho người bị nhát tối tăm mặt mũi không thấy đường sá gì cả. Ông Năm đã từng bị trêu ghẹo như thế nhiều lần, nhưng ông có cách giải quyết hiệu quả vô cùng. Ông lột trái quần ra, tròng lên đầu, rồi tháo hai chiếc guốc dông cầm tay, vừa đi vừa gõ. cứ thế mà về được đến nhà.

Nhưng ngoại không làm như ông Năm được. Đứng thần người trong khi trước mắt đen kịt một màu, lẳng lặng một lúc lâu ngoại mới cất lời:

- Mấy ông mấy bà ơi! Toàn là dân nghèo mình với nhau không hà. Sao nỡ lòng nào đi phá khuấy như thế. Cũng còn để cho bà con kiếm sống với chứ. Nếu các vị có buồn phiền gì cũng xin hỷ xả cho nhẹ lòng, còn nếu có đói thì tui sẽ làm mâm cơm cúng. Để cho tui ra chợ buôn bán với.

Thở than trong giây lát, trước mặt ngoại sáng dần lên. Ngoại thấy mình đang đứng trước bìa rừng, cạnh một gò mối lớn. Đó chính là gò mối mà tôi đã kể. Lúc ấy, bên cạnh gò mối là một người đang đứng. Trong ánh sáng mờ mờ của bầu trời, ngoại thấy người đó mặc chiếc áo bà ba đen, cột cái khăn rằn ở bụng, cách ăn mặc của những cán bộ hồi chín năm. Có một điều đáng sợ hơn là bóng người đó không có đầu. Cái bóng cụt đầu sừng sững trong đêm làm ai thấy cũng phải thất kinh hồn vía. Ngoại tôi cũng sợ điếng hồn, nhưng rồi ngoại nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Những hình ảnh này đốI với ngoại không quá xa lạ, chỉ có điều hơi cảm thấy bất ngờ.

- Chú ơi!

Ngoại lên tiếng.

- Chú sống khôn thác thiêng, anh linh của chú ở lại đây hưởng khói hương phù hộ bà con. Đừng nhát người ta tội nghiệp.

Cái bóng cụt đầu khẽ lay động như muốn nói điều gì. Nhưng rồi sau đó cái bóng mờ dần và biến mất hẳn. Lúc bấy giờ ngoại cũng không hiểu nguyện vọng của bóng ma. Nhưng đúng lời hứa, mỗi ngày đi chợ ngoại đều ghé ngang gò mối thắp cây nhang, cúng hai cái bánh.

- Từ đó đến giờ còn thấy nữa hôn ngoại?

Tôi sốt ruột ngắt lời.

- Không. Kể từ dạo đó đến giờ không chỉ ngoại mà những người khác cũng không còn thấy nữa. Chắc là họ đi rồi.

Sau này nhớ lại, tôi không tin những anh linh đó đã đi mất, chỉ có điều không hiện hình đấy thôi. Họ vẫn còn ở đó bên những cánh rừng, nơi chôn vùi thân xác họ. Thể xác không nguyên vẹn thì linh hồn làm sao an được. Giá mà có ai tìm được hài cốt của họ qui tập trở về hoặc có người lập trai đàn chẩn tế thì tốt biết bao.


ST

Thanked by 1 Member:

#330 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 29/09/2011 - 23:45

CHUYỆN CỦA TÔI

Sinh ra và lớn lên ở một nơi đầy rẫy huyền thoại như cái xóm Chuồng Trâu, người ta không tin ma, không sợ ma mới là chuyện lạ. Trước nhà tôi có trồng một cây dừa bị. Cây dừa không ngọt nước bằng dừa xiêm nhưng trái to, có quanh năm. Ngọn dừa cao quá nóc nhà. Lũ nhóc trong xóm thường kháo nhau cây dừa có ma. Chúng nó kể bà Tư quán ở xóm trong có việc đi về khuya, ngang qua cây dừa, bà thấy có một quả cầu lửa cháy nhờ nhờ như lửa ma trơi. Cầu lửa bay qua bay lại như múa, đáp từ tàu dừa này qua tàu dừa khác rồi sau đó vót qua đậu trên ngọn tre của nhà chú Năm Bừa đối diện. Sợ đến ríu chân, bà ngồi thụp xuống mà niệm Phật. Giây lâu mở mắt nhìn lên, không thấy gì nữa bà mới bươn bả về nhà.

Không biết câu chuyện có bao nhiêu phần trăm sự thật, nhưng gia đình tôi ở đó lâu rồi không hề thấy có con ma nào hết trơn. Cho đến năm 1979, ba tôi bán nhà cho bà Hai Nhà in và dọn nhà đi chỗ khác ở mới có sự lạ xảy ra.

Một buổi trưa tháng Hai, bầu trời đang nắng gắt. Mây đen bỗng kéo tới đầy trời. Ai nấy còn đương ngạc nhiên vì cơn mưa trái mùa thì..rầm.. một tiếng nổ long trời lở đất, cây dừa bị trời đánh tét ngọn ra thành ba miếng, khói bốc mù mịt. Cả xóm thất kinh hồn vía, bà Hai Hui ở sát nhà tôi lật đật lấy nhang ra đốt, sì sụp vái lạy. Nghe mọi người kể, tôi cũng tức tốc trở về nhà cũ để xem, cây dừa cháy đen cả ngọn. Phần trên bị tét loe ra trông thê thảm làm tôi bần thần cả người. Hổng lẽ cây dừa này có quỷ thật. Nếu không thì làm sao bị trời đánh chứ, cho đến giờ câu hỏi của tôi vẫn chưa có lời giải đáp thích đáng. Ba tháng sau sự việc sét đánh, bà Hai nhà in đột ngột phát bệnh. Căn bệnh kéo dài hai năm rồi bà Hai qua đời. Bác sĩ nói bà bị bệnh ung thư, bà con trong xóm lại đồn đãi vì mua nhà tôi nên bị xui xẻo.

Trở lại chuyện tôi, càng nghe kể nhiều chuyện ma thì tôi lại càng sợ ma kinh khủng. Đã vậy tôi còn mê đọc truyện tranh Con quỷ truyền kiếp, nên óc tưởng tượng của tôi lại càng phong phú hơn. Mỗi tối sau khi cắp rỗ bánh qui, bánh ít đi bán dạo về, tôi thường ngồi lì ngoài đầu hẻm. Nhìn vô con hẻm tối thui sâu hun hút hai bên tre mọc uốn oằn xuống như hang động, tôi sợ teo cả người. Khi nào có một người lớn đi vào tôi mới thừa cơ hội đi theo. Những hôm xui xẻo chờ cả tiếng đồng hồ không có ai vô tôi đành liều vô đại. Cắp chặt rỗ bánh trong tay lần từng bước chậm chạp vào hẻm, tôi có cảm giác con hẻm giống như cái miệng của con quỷ truyền kiếp khổng lồ đang há to nuốt tôi vào dần. Vừa khuất chỗ đèn sáng tôi cắm đầu chạy một mạch bất kể trời đất vừa chạy vừa niệm Phật vang trời. Vô được trong nhà rồi tôi thở ào ào như trâu, tưởng chừng như mới vượt qua thử thách gì ghê gớm lắm.

Sau này lớn lên tôi phải thật lòng cảm ơn cái xóm Chuồng Trâu cùng mấy con ma trong những câu chuyện phiếm của bà con. Nhờ sợ ma mà tôi tin Phật, tin vào đạo thuật, một niềm tin chắc chắn và dai dẳng không có gì lay chuyển được.

Tôi nhớ, có dạo bà dì của tôi đi núi mang về ba bức tượng Phật dùng để đeo. Tôi nằng nặc xin cho bằng được một bức rồi dùng chỉ đỏ xỏ qua đeo vào. Pho tượng nhỏ xíu bằng nhựa đem lại cho tôi sự tự tin ghê gớm. Tôi đi ra đi vào con hẻm không phải chạy ào ào nữa. Từng bước vững vàng, tay nắm chặt lấy tượng Phật, miệng không ngừng niệm Phật. Sau này coi tuồng Na Tra đại náo Thuỷ Cung, thấy mấy ông tiên cầm cây phất trần “Hô biến, Hô thâu”, thích quá tôi liền kiếm dây ni-long tước ra cột vào đầu đũa làm thành cây phất trần mini làm pháp bảo hộ mạng. Từ đó, cây phất trần và bức tượng nhỏ trở thành vật bất ly thân của tôi, lúc đi học, đi bán, đi ngủ.


ST

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

5 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 5 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |