Jump to content

Advertisements




Truyện ngắn huyền bí - hiendde


1072 replies to this topic

#286 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/09/2011 - 00:57

CHẾT KÉO THEO

Như một sự chia sẽ đến với các bạn. Chuyện này xảy ra trong chính gia đình người bác của tôi và tất nhiên 100%. Anh của mẹ tôi lấy vợ, và câu chuyện này trong gia đình bác gái của tôi, mới xảy ra vỏn vẹn chưa đầy hai năm. Anh của bác gái tôi có một người anh họ bị tai nạn qua đời mà một điều làm nhiều người hết sức ngạc nhiên, là ông ấy chết nhưng người vẫn ấm áp hồng hào, nhưng để nhiều ngày tim không đập nên mọi người khẳng định là đã chết và đem an táng.

Trong vòng hai tháng sau, lần lượt hai người con trai của ông anh họ, của anh bác gái tôi qua đời, làm cho mọi người rất shock, và lại đặc biệt nữa người chết nhưng cơ thể vẫn hồng hào ấm áp không như những người chết khác là lạnh và cứng, ở đây lại ấm và mềm như người sống. Mọi người cảm thấy lạ nhưng không hiểu tại sao. Vài tháng sau vợ của ông ta cũng qua đời tương tự. Và cốt truyện chính là ở đây, ít lâu sau anh của bác gái tôi cũng mất và tất nhiên là... tương tự ấm và mềm. Bác gái tôi cũng tham dự đám tang, ai cũng bỡ ngỡ về việc này, và đột nhiên có một người bạn quen với anh bác gái tôi nói rằng:

- Gia đình cẩn thận chết kéo theo đó.

Ông này kể cho mọi người nghe về cái này, nhà có ai chết kiểu như thế, nếu không biết cách trị thì người chết sẽ lần lượt đem người nhà đi theo hết, mọi người rất lo sợ, vì nếu như vậy bác gái tôi sẽ là người sẽ "cất bước" ra đi tiếp theo. Ông ấy dẫn một người tới, người nảy nói muốn cứu mọi người thì phải kiếm cho ông ta một bộ bài trắng, giải thích là bộ bài chỉ có bên Phật dùng, mà phải là bài xài rồi.

Nhà tôi đạo Chúa nên không biết tìm đâu ra, mọi người trong nhà chạy nhau đi tìm, nhưng tìm hoài không ra cái bộ bài đó. May sao gọi điện lên Sài Gòn có một người biết nơi có, liền đến xin cấp tốc đem về. Ông này cầm bộ bài xếp xung quanh người chết, rồi làm cái gì nữa tôi không rỏ, nhưng cuối cùng ông ta lấy bốn con tướng ra, kêu mọi người đem đốt đi. Và đã hơn một năm mọi chuyện vẫn êm xuôi. Cam đoan tất cả là thật, sự thật 100% kể cho các bạn nghe để mọi người cùng biết, và nếu bị như thế thì hãy cẩn thận, tìm cách gỡ đừng vội vàng mà chôn không thì được chôn tập thể đấy.

ST

#287 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/09/2011 - 03:06

NHỮNG TRÁI TIM BỊ MẤT

Như tôi còn nhớ chắc chắn vào tháng chín năm 1811, một chiếc xe ngựa trạm đi đến trước cửa toà nhà Aswarby Hall ở trung tâm Lincolnshire. Một cậu bé, hành khách duy nhất trong xe, nhảy ngay ra ngoài khi xe dừng và nhìn quanh một cách tò mò trong khoảng thời gian ngắn ngủi giữa lúc bấm chuông và lúc cửa gian sảnh mở ra. Cậu trông thấy một toà nhà gạch cao, vuông vắn, kiểu từ thời nữ hoàng Anne, một cái cổng có cột đá tôn thêm nét cổ kính của hồi 1790, các cửa sổ rất nhiều đều cao và hẹp với các ô kính nhỏ, khung là gỗ trắng dày.

Bên phải bên trái đều có nhà nối với nhau bằng những hành lang sáng lấp lánh một cách kỳ lạ, cũng đều có cột nâng, giữa là khối nhà chính. Hai bên cánh chỉ là chuồng ngựa cũng văn phòng. Bên trên mỗi cánh nhô lên một cái vòm trang trí với chiếc chong chóng gió thếp vàng. Ánh đèn buổi tối chiếu ra từ toà nhà làm các ô kính cửa sổ long lanh như muôn vàn tia lửa. Phía trước gian sảnh là một công viên bằng phẳng, điểm đây đó những cây sồi, riềm là những cây sam. Chiếc đồng hồ trên tháp chuông bị che lấp bởi những cây cao ở bờ công viên, riêng có chiếc chong chóng chỉ chiều gió là lộ ra ánh sáng.

Đúng sáu giờ, tiếng chuông đồng hồ vang êm đềm trong gió. Toàn cảnh đem lại một cảm giác vui tươi, tuy đượm vẻ buồn của buổi chiều đầu thu, nhuốm vào tâm trạng cậu bé đang đứng ngoài cổng chờ người ta mở cửa cho mình. Chiếc xe trạm đưa cậu từ Warwickshire tới, nơi mà sáu tháng trước đây cậu trở thành cậu bé mồ côi. Giờ đây nhớ lời đề nghị hào hiệp của ông anh họ lớn tuổi, ông Abney, mà cậu tới ở Aswarby. Lời đề nghị rất bất ngờ, bởi tất cả những người biết ông Abney đều coi ông là một người ở ẩn khá khắc nghiêt, một cậu bé tự nhiên đi vào cuộc sống ổn định của ông hẳn sẽ là một điều mới lạ, không thích hợp chút nào.

Sự thực là ít ai hiểu ông Abney theo đuổi cái gì và tính tình ông ra sao. Vị giáo sư tiếng Hy lạp ở Cambridge nghe nói đã từng tuyên bố không ai hiểu biết về tín ngưỡng của những người theo tà giáo nhiều hơn ông chủ của Aswarby này. Quả thật thư viện của ông đầy những quyển sách hồi đó có thể tìm được, nói về các bí mật, các bài thơ bí hiểm, việc thờ phụng các thần Mithras, Một vị thần của tôn giáo Ấn độ hồi năm 1300 trước Công nguyên mà sự thờ phụng mang nhiều bí ẩn. Và những người theo học thuyết Platon: triết gia Hy lạp 427-347 trước Công nguyên mới.

Trong gian sảnh lát đá hoa cương người ta thấy một nhóm tượng các thần Mithras đang giết một con bò, mua khá đắt từ Levant đem về. Chủ nhân đã viết một bài mô tả nhóm tượng cho tờ Tạp chí Người Phong Lưu, và cũng viết một loạt bài báo đáng chú ý trong tờ Bảo tàng, về sự mê tín của những người La Mã đối với Đế chế Thấp. Đế chế La Mã thấp gồm các vùng Aulu-gettle, Ausone, Claudien, Macrobe, Végèce.

Một cách chính xác, mà ta được nhìn nhận như một người được bao bọc trong sách vở, thành thử láng giềng đều lấy làm lạ ngay từ việc ông ta có nghe nói tốt người em họ là Stephen Elliott chứ đừng nói tới việc ông ta đem cậu bé về ở cùng Aswarby Hall với mình. Dù cho hàng xóm có chờ đợi gì đi chăng nữa, điều chắc chắn là ông Abney người đàn ông cao gầy, nghiêm khắc có vẻ như đón chào người họ hàng nhỏ tuổi khá tử tế. Cửa gian sảnh vừa mở, ông đã từ phòng học chạy ra vui vẻ xoa tay.

- Cậu bé khoẻ chứ Khoẻ không ? Bao nhiêu tuổi ấy nhỉ ? Hy vọng cậu không đến nỗi mệt lắm vì đi đường. Ăn bữa tối nhé.

Ông ta nói.

- Dạ không xin cám ơn ông.

Cậu bé nói:

- Tôi khoẻ ạ.

- Ngoan quá. Thế cậu bao nhiêu tuổi ?

Ông ta hỏi. Kể cũng hơi lạ, mới gặp có hai phút mà ông ta có vẻ quá quan tâm đến việc này

- Đến sinh nhật này tôi mười hai ạ.

Stephen đáp.

- Sinh nhật là vào hôm nào ? Mười một tháng chín phải không? Hay lắm! Tốt. Gần một năm nữa đấy nhỉ ? Ha! Ha! Tôi phải ghi vào sổ mới được. chắc chắn là mười hai chứ ?

- Dạ vâng, chắc ạ.

- Tốt, tốt. Ông Parkes đưa cậu ta đến phòng bà Bunch, để cậu dùng trà hay ăn tối, gì gì cũng được.

- Vâng ạ.

Ông Parkes điềm đạm đáp rồi đưa cậu bé xuống nhà dưới. Bà Bunch là người đàn bà dễ chịu nhất và gần gũi nhất mà Stephen gặp ở Aswarby. Bà làm cậu cảm thấy như mình đang ở nhà, chỉ mười lăm phút sau hai người đã trở thành bạn và họ là những người bạn lớn của nhau mãi mãi. Bà Bunch sinh trưởng ở vùng lân cận khoảng năm mươi năm, trước ngày cậu bé đến Aswarby và ở Aswarby Hall đã hai chục năm nay. Vì vậy bất kỳ ai từng ra vào toà nhà này, cũng như vùng này bà đều biết, và rất sẵn sàng phổ biến thông tin đó cho người khác.

Dĩ nhiên có biết bao điều mà Stephen muốn biết, kể từ toà nhà cho đến khu vườn vì cậu có đầu óc phiêu lưu thích tìm hiểu. "Ai xây ngôi đền ở cuối chặng đường liều chỗ kia? Ai là ông già có ảnh treo ở cầu thang, đang ngồi bên bàn tay cầm một cái sọ người? Những điều như thế và giống như thế được trí nhớ khá vững của bà Bunch làm sáng tỏ, tuy nhiên vẫn còn một số điều giải thích chưa được rõ ràng. Một buổi tối tháng Mười một, Stephen ngồi bên ngọn lửa trong phòng bà coi nhà, ngẫm nghĩ về mọi thứ xung quanh, bỗng dưng cậu lên tiếng hỏi:

- Ông Abney có phải là người tốt không bà, và ông có được lên Thiên đường không ?

Đây là câu hỏi mà trẻ con thường có lòng tin đặc biệt vào người lớn có khả năng trả lời, tính chất những câu hỏi này chỉ dành riêng cho toà án.

- Trời! Tội nghiệp cậu bé.

Bà Bunch nói:

- Ông chủ là loại người tốt tôi chưa thấy bao giờ. Thế tôi chưa kể cậu nghe ông đã từng nhặt một đứa bé ngoài đường về nuôi cách đây bảy năm. Lại còn cô gái nhỏ, hai năm sau ngày tôi đến đây làm.

- Chưa ạ. Bà chưa kể. Bà hãy nói cho tôi nghe ngay đi!

- Thế này nhé.

Bà Bunch kể.

- Cô gái nhỏ thì tôi không nhớ rõ lắm. Chỉ nhớ một hôm ông đi dạo về đem theo cô bé và ra lệnh cho bà Ellis, lúc đó là người giữ nhà, trông nom thật chu đáo. Cô bé tội nghiệp không còn một người thân thích nào chính cô bé bảo tôi vậy và sống ở đây với ông chủ ba tuần thì phải. Sau đó cô ta gặp một người gypsy cùng dòng máu với cô ta hay sao đấy, chỉ biết là một buổi sớm mai cô dậy sớm hơn tất cả chúng tôi rồi đi đâu mất, không ai nhìn thấy nữa. Ông chủ rất tuyệt vời, cho tát tất cả các ao, nhưng theo tôi thì cô ta trốn đi theo bọn gypsy vì đêm hôm cô ta bỏ đi, quanh nhà có tiếng hát cất lên độ một giờ đồng hồ.

Parkes nói là có nghe tiếng gọi từ trong rừng vẳng ra.

- Trời ơi! Cô bé mới lặng lẽ làm sao, cái cách cô ta bỏ đi như thế chẳng giống chút nào, với tính cách thuần thục của cô ta, tôi thật lấy làm lạ.

- Thế còn chú bé kia thì sao?

Stephen hỏi.

- A! Cái chú bé tội nghiệp ấy!

bà Bunch thở dài.

- Chú bé là người ngoại quốc tên là Jevanny, vừa đi lên con đường vào nhà vừa quay một chiếc đàn quay vào một ngày mùa đông, ngay phút đó ông chủ đón chú ta ngay và hỏi cậu từ đâu tới, bao nhiêu tuổi, làm thế nào sinh nhai, họ hàng ở đâu…rất tử tế. Nhưng cũng giống như cô bé kia, một hôm chú ta bỏ đi vào một buổi sáng, vì sao bỏ đi, bỏ đi làm gì, hàng năm sau chúng tôi vẫn tự hỏi, bởi cây đàn quay vẫn còn để lại trên giá không mang theo.

Suốt thời gian còn lại của buổi tối, Stephen hỏi bà Bunch rất tỉ mỉ cố xem có gợi ra được một điệu nhạc nào từ chiếc đàn quay không. Đêm hôm đó cậu mơ một giấc mơ kỳ lạ. Cuối hành lang lên tầng trên cùng của ngôi nhà, nơi có phòng cậu ở, có một cái buồng tắm cũ nay không dùng, được khoá kỹ, tuy thế phần trên cửa ra vào vẫn nhìn qua được, vì là kính mà màn cửa bằng vải tơ đã rã hết, thấy được cả ống dẫn nước bằng chì gắn vào trong tường mé bên phải, đầu ống nước quay về phía cửa sổ. Đêm hôm mà tôi nói ở trên, Stephen tự nhiên nhìn qua kính cái cửa ra vào đó. Ánh trăng chiếu qua cửa sổ, cậu nhìn thấy một hình người nằm trong bồn tắm.

Mô tả của cậu làm tôi nhớ lại có lần chính mắt tôi đã nhìn thấy trong vòm nhà thờ St. Michan nổi tiếng ở Dublin những xác người chết được lưu giữ sao cho không bị rữa từ nhiều thế kỷ. Hình người cậu nhìn thấy gầy và thường không tưởng tượng được, màu xám như chì, bọc trong tấm áo giống khăn liệm, đôi môi nở nụ cười nhợt nhạt dễ sợ, hai tay chắp lại để trên ngực nơi trái tim. Cậu vừa nhìn vào thì nghe có tiếng rên rỉ khe khẽ thốt ra từ đôi môi, và hai cánh tay thây người hơi cử động. Hoảng hồn cậu lùi lại, tỉnh lại cậu thấy mình quả đang đứng trên sàn gỗ lạnh toát trong hành lang vằng vặc ánh trăng.

Với một lòng can đảm phi thường, mà tôi cho rằng trẻ con ở tuổi ấy khó có thể có được, cậu bé tới cánh cửa phòng tắm nhìn vào, xem có thực là trong bồn tắm có người nằm không. Không. Thế là cậu vào lại giường, đi ngủ. Sáng hôm sau bà Bunch rất bị ấn tượng bởi câu chuyện cậu bé kể, và thay ngay tấm màn mới vào cửa kính buồng tắm. Ông Abney nghe cậu kể vậy vào bữa ăn sáng có vẻ quan tâm ghê lắm, và nói là phải ghi vào "quyển sách của ông ta"

Tiết xuân sắp đến. Cũng như mọi khi ông Abney nhắc người họ hàng trẻ rằng, thời tiết này các cụ ngày xưa coi là rất nguy hiểm cho người ít tuổi, Stephen phải lo giữ sức khoẻ, phải đóng cửa sổ khi đi ngủ, việc nhắc nhở đó còn kèm theo vài nhận xét khá giá trị, bởi thời kỳ này còn hai sự kiện nữa tác động đến tâm trí Stephen. Sự kiện đầu tiên xảy ra sau một đêm cậu trằn trọc khó ngủ. mặc dù cậu không mơ thấy giấc mơ nào đặc biệt như hôm nọ. Tối hôm bà Bunch lo vá cho cậu tấm áo ngủ

- Trời ạ, cậu Stephen

Bà kêu lên có vẻ giận dữ.

- Sao cậu lại xé cái áo ngủ tan nát ra thành từng mảnh thế này ? Này, mời cậu nhìn xem, làm khổ đầy tớ phải vá víu như thế này đây. Thật đúng là một kiểu phá hoại tinh nghịch.

Cái áo bị xé từng rạch, phải tài tình lắm mới vá nổi. Đặc biệt bên ngực trái, những vết rạch dài khoảng mười lăm phân một, một số vết rạch không đứt hẳn lần vải. Stephen hoàn toàn không biết gì về chuyện này. Đêm qua chắc chắn không như thế.

- Nhưng bà Bunch ạ, chúng giống hệt những vết cào trên cánh cửa buồng ngủ của tôi, mà đảm bảo với bà là tôi không hề động chạm gì đến cánh cửa cả.

Bà Bunch nhìn vào Stephen, miệng há hốc, sau khi thắp cây nến, vội vã rời khỏi phòng mình, lên gác. Vài phút sau bà đi xuống.

- Phải đấy cậu Stephen ạ, kỳ lạ thật, những vết đó phải có ai đến tạo ra chứ chó hoặc mèo không với tới được, chuột càng không thể. Chúng cứ như móng tay người bán đồ sứ cào vào ấy.

Chú tôi là người buôn trà thường bảo chúng tôi như vậy khi chúng tôi còn nhỏ. Thôi tôi sẽ không bảo là cậu gây nên những tổn hại này nữa đâu, khi đi ngủ cậu nhớ khoá cửa buồng vào.

- Tối nào cầu kinh xong tôi cũng khóa đấy bà ạ.

- À, cậu bé này ngoan đây, đêm nào cũng cầu kinh, chẳng ai làm hại cậu được đâu.

Bà Bunch vừa nói một mình vừa vá chiếc áo rách và suy nghĩ, cho đến lúc đi ngủ. Đó là một đêm thứ sáu tháng ba năm 1812. Chiều tối hôm sau, buổi đàm thoại thường xuyên giữa bà Bunch và Stephen sôi nổi thêm vì có ông Parkes, quản gia, vốn có xu hướng ở một mình trong căn phòng nhỏ phía sau của mình. Thoạt vào, ông ta không nhìn thấy Stephen ở đó. Ông có vẻ xôn xao hơn và nói nhanh hơn.

- Ông chủ có muốn tự mình đi lấy rượu thì lấy, vào buổi tối ấy.

Đó là lời nhận xét đầu tiên của ông ta.

- Tôi chỉ đi lấy rượu ban ngày thôi. Không hiểu là cái gì, trong hầm rượu có chuột hay sao ấy, hay chỉ là gió cũng nên. Tôi đâu còn trẻ con như trước nữa, giờ tôi chịu không nổi những thứ ấy như trước kia.

- Ồ, ông Parkes, chuột thì thích nhất là ở phòng ăn lớn chứ.

- Tôi không chối cãi điều đó bà Bunch ạ, và có điều chắc chắn là tôi đã nghe nhiều người ở xưởng đóng tàu, bảo chuột có thể nói được. Trước đây tôi không tin, nhưng đêm nay nếu tôi hạ mình ghé tai vào cánh cửa của ngăn bên kia hầm rượu, dám chắc tôi nghe được lũ chuột nói gì.

- Ồ ông Parkes, tôi không chịu nổi những thứ ông tưởng tượng ra nữa. Ai đời chuột nói chuyện với nhau trong hầm rượu bao giờ.

- Bà Bunch tôi không lý sự với bà nữa, tôi chỉ muốn nói với bà có mỗi một điều thôi. Nếu như bà đi tới thùng rượu phía cuối, ghé tai vào cánh cửa, bà sẽ hiểu những điều tôi nói, chỉ trong vài phút thôi.

- Sao ông cứ nói những chuyện vớ vẩn thế nhỉ, đâu phải chuyện cho trẻ con nghe. Ông không sợ làm cậu Stephen đây hoảng lên sao ?

- Cậu Stephen ở đây ư ?

Đến lúc này ông Parkes mới nhận ra sự có mặt của Stephen.

- Cậu ấy phải hiểu là tôi chỉ nói đùa với bà thôi.

Thực tế Stephen biết quá rõ ông Parkes ngay từ đầu có định đùa hay không. Cậu không vui vẻ gì lắm, nên lưu tâm ngay đến tình hình này, tuy nhiên làm thế nào cũng không moi thêm được chi tiết nào nữa, từ ông quản gia về những gì xảy ra trong hầm rượu. Chúng ta đã tới ngày 24 tháng ba năm 1812, một ngày mà Stephen chứng kiến nhiều chuyện lạ xảy ra. Ngày hôm đó náo động và nhiều gió, nó làm cho cả ngôi nhà lẫn khu vườn có một cảm giác không yên.

Stephen đứng bên hàng rào của ngôi nhà nhìn ra công viên. Cậu cảm thấy như thể có rất nhiều người vô hình cứ diễu qua trước mặt cậu trong làn gió, họ lướt qua vô mục đích, nhưng cũng không sao ngăn họ lại được, không sao nắm được một cái gì để làm họ đừng bay nữa, cho họ tiếp cận trở lại với thế giới sống mà họ từng là một phần trong đó. Sau cơm trưa ông Abney bảo cậu:

- Stephen ạ, tối nay cậu thu xếp đến gặp tôi muộn một chút, lúc mười một giờ, trong phòng học được không? Tôi bận suốt ngày, lúc đó mới rảnh. Tôi sẽ cho cậu xem một thứ liên quan đến tương lai cậu mà cậu cần biết, vì nó rất quan trọng. Cậu đừng nói việc này với bà Bunch hoặc bất cứ ai trong nhà nhé, cậu cứ về phòng ngủ vào giờ thường lệ.

Lại thêm một kích thích nữa đối với cuộc sống. Stephen hăm hở nắm lấy ngay dịp được thức khuya đến mười một giờ đêm. Trên đường lên cầu thang cậu liếc nhìn vào cánh cửa thư viện. Cậu thấy một cái lò than xưa nay vẫn để trong góc phòng, nay được đưa ra cạnh lò sưởi, một cái cốc cổ viền bạc đặt trên bàn trong đựng đầy rượu vang đỏ, bên cạnh là mấy tờ giấy. Ông Abney đang rắc trầm hương vào lò, từ một chiếc hộp tròn bằng bạc mà không để ý tới bước chân cậu.

Gió đã lặng. một đêm yên tĩnh. Trăng tròn. Lúc mười giờ Stephen đứng bên cửa sổ nhin ra ngoài. Mặc dù đêm lặng lẽ êm đềm nhưng đoàn người bí ẩn trong những cánh rừng sáng trăng vẫn không ngủ yên. Thỉnh thoảng vẫn có những tiếng kêu như của những kẻ lang thang lạc đường tuyệt vọng vẳng lên qua ao hồ. Chẳng lẽ lại là tiếng cú kêu, tiếng những con chim sống trên mặt nước? không giống tiếng của chúng. Liệu những tiếng kêu đó có tới gần không ? Lúc này nghe như chúng đã ở bên bờ ao bên này, chẳng mấy chốc nữa mà bay tới các bụi dâu. Rồi bỗng im.

Stephen đang định đóng cửa sổ, vào phòng đọc nốt quyển sách Robinson Crusoe, thì bỗng nhìn thấy trên nền đất rải sỏi chạy dọc theo phía vườn của ngôi nhà, có hai dáng hình người đang đứng. Một cô con gái và một cậu con trai, họ đứng bên nhau, nhìn lên các cửa sổ. Cô gái gợi lại giấc mơ của cậu, đúng là hình người nằm trong bồn tắm. Cậu con trai khiến Stephen kinh hoàng hơn. Trong khi cô gái đứng yên hơi mỉm cười, hai tay chắp trước chỗ trái tim, thì cậu con trai rất gầy tóc đen, áo quần tơi tả, giơ cao cánh tay với vẻ dọa dẫm đồng thời lộ vẻ mong chờ. Ánh trăng chiếu vào hai bàn tay trong suốt của cậu bé, những móng tay dài cũng trong suốt, trăng chiếu qua được. Đứng giơ tay như thế lộ ra một cánh tượng khủng khiếp, sườn trái cậu bé là một kẽ nứt đen ngòm, và từ óc Stephen thì đúng hơn là từ tai, cậu nghe thấy những tiếng kêu tuyệt vọng, mà lúc chập tối vẳng tới từ rừng Aswarby.

Được một lúc thì cả đôi di chuyển không tiếng động trên lớp sỏi, không còn nhìn thấy đâu nữa. Sợ hãi khôn tả Stephen cầm cây nến xuống phòng học của ông Abney, vì cũng sắp đến giờ hẹn. Phòng học hay thư viện một bên mở ra sẳn, và Stephen do quá sợ, tới chỗ đó rất nhanh. Nhưng không dễ vào. Cửa không khoá, chìa khoá vẫn cắm ngoài nhưng gõ mãi không thấy tiếng trả lời. Ông Abney đang bận. Ông đang nói. Ủa! Sao ông lại kêu lên thế nhỉ? Tiếng kêu như nghẹn trong cổ họng. Hay là ông cũng nhìn thấy hai đứa trẻ kia? Thế rồi yên lặng. Stephen đẩy cửa vào không khó khăn gì. Trên bàn ông Abney có một vài tờ giấy chỉ rõ cho Stephen hiểu được ngọn ngành câu chuyện. Có một số câu quan trọng như sau:

- "Cổ nhân đa số tin tưởng vững chắc, tôi đã thể nghiệm sự khôn ngoan của họ trong những vấn đề này, từ đó đưa tôi đến chỗ tin tưởng ở sự khẳng định của họ rằng, nhờ một vài quá trình nào đó, những quá trình mà người tân tiến chúng ta coi là man rợ, có thể đạt được ở con người một năng lực tinh thần rất đáng kể. Thí dụ như nếu hấp thụ những cá tính của một số đồng loại, thì một cá thể có thể vươn lên hoàn toàn khỏi cái trật tự, của các sinh vật có linh hồn vốn đang điều hành, những thế lực cơ bản của thế giới chúng ta. Simon Magus có thể bay trên không, trở nên vô hình hoặc biến thành bất cứ hình thù nào mà mình thích, nhờ lực của linh hồn một cậu bé mà ông ta "đã ám sát", từ này có tính cách bôi nhọ tác giả của Clementine recognittons dùng.

Hơn nữa tôi còn tìm thấy khá nhiều chi tiết trong các bài viết của Hermes Trismegistus, cho biết những kết quả tốt đẹp tương tự, có thể đạt được nếu người ta hấp thụ, ít nhất là ba trái tim của ba con người dưới hai mươi mốt tuổi. Nhằm chứng minh sự thật này, tôi đã dành phần lớn thời gian của hai mươi năm cuối cùng, vào việc lựa chọn ra các corpora vilia (thân thể hèn hạ) cho việc thực nghiệm, tức là những người mà nếu có mất đi cũng không gây tổn thất gì cho xã hội. Bước đầu tôi loại trừ một cô bé gypsy tên Phoebe Stanley ngày 24 tháng ba 1792. Người thứ hai là một cậu bé con người Ý tên Gionvanni Paoli, đêm 29 tháng ba 1805. Nạn nhân cuối cùng, từ này làm tôi kinh tởm hết sức, sẽ là em họ tôi Stephen Elliott, và vào ngày 24 tháng ba 1812.

Phương thức hấp thụ tốt nhất là lấy từ trái tim người sống ra, đốt thành tro, trộn vào một phần tư lít rượu vang đỏ, tốt nhất là rượu porto. Xác hai người đầu tiên rất dễ giấu. Vào một buồng tắm bỏ không dùng hoặc là hầm rượu, hai địa điểm thuận lợi cho việc giấu xác. Cái bất tiện là ở cái phần hồn của họ mà dân gian thường gọi là ma. Nhưng đối với người có tính khí triết nhân, mà đối với họ chỉ thí nghiệm là quan trọng, thì họ nề hà gì đến cố gắng yếu ớt của người chết lo trả thù họ. Tôi rất thoả mãn nhìn nhận cuộc đời được mở rộng và giải phóng của mình, mà thí nghiệm này nếu thành công sẽ mang lại cho tôi, vì nó không những khiến cho cái người ta gọi là công lý của con người, không tầm nã nổi tôi, mà còn có thể loại trừ cho tôi khỏi cái chết".

Ông Abney được tìm thấy trong ghế bành, tư thế ngồi, đầu ngửa ra, nét mặt mang đầy vẻ căm hờn, sợ sệt, đau đớn của cái chết. Bên trái là một vết thương mới bị rạch, để lộ ra trái tim. Tay ông không máu, con dao để trên bàn vẫn sạch nguyên. Có lẽ một con mèo rừng đã gây nên vết thương này. Cửa sổ mở. Theo cảnh sát tư pháp, ông Abney chết do lực của một con thú hoang dã. Nhưng Stephen Elliott đã được đọc mấy tờ giấy trên kia, thì lại đi đến kết luận khác hẳn.


Montague Rhodes James

#288 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/09/2011 - 03:12

CÂY TẦN BÌ

Ai đã từng đi qua miền đông nước Anh đều biết những ngôi nhà thôn quê nho nhỏ rải rác khắp nơi: những ngôi nhà khá ẩm thấp thường xây theo kiểu Ý, bao quanh là công viên độ tám mươi đến một trăm mẫu tây. Đối với tôi bao giờ chúng cũng có sức hấp dẫn mạnh mẽ, cái hàng rào xám bằng những thanh gỗ sồi, các cây cao quý phái, ao hồ với thảm lau sậy, xa xa là cánh rừng. Tôi cũng thích cái cổng có cột chống, có lẽ dính liền vào một ngôi nhà gạch đỏ xây từ thời nữ hoàng Anne, mặt trước trát vữa, khiến nó sánh được với phong cách Hy Lạp cuối thế kỷ mười tám.

Bên trong là sảnh cao lên tận mái nhà có cái hành lang chạy quanh với một chiếc đàn organ nhỏ. Tôi cũng thích cả thư viện của nó trong có từ Thánh Kinh thế kỷ mười ba, đến tác phẩm của Shakespeare in giấy khổ bốn. Dĩ nhiên tôi thích cả những bức tranh phần lớn hình dung cuộc sống trong những ngôi nhà ấy lúc mới xây, thời đã có ống dẫn nước, chủ đất đã khá giả, và ngay cả bây giờ, nhiều tiền nhiều thị hiếu khác nhau, cuộc sống nhiều thú vị. Bản thân tôi cũng muốn có một ngôi nhà như vậy ở thôn quê. Và đủ tiền bảo trì nó, thỉnh thoảng đưa bạn bè đến vui chơi một cách khiêm tốn.

Nhưng tôi lạc đề mất rồi. Tôi có nhiệm vụ phải kể các bạn nghe những chuyện xảy ra trong một ngôi thái ấp giống như thế. Đó là Castringham Hall ở vùng Suffolk. Từ thời có câu chuyện kể của tôi đến nay, ngôi nhà đã được sửa chữa nhiều lần, nhưng những nét chính tôi mô tả trên kia thì vẫn vậy, cổng kiểu Ý, bốn khối nhà màu trắng, trong nhà cổ hơn ở ngoài, công viên được bao quanh bởi một dải đất có nhiều cây to, và có cái ao. Vẻ khác biệt với hàng tá ngôi nhà khác không còn. Nhìn từ phía công viên vào, bạn sẽ thấy một cây tần bì cổ đại mọc cách tường độ sáu mét, cành lá gần như chạm vào nhà. Tôi cho là nó đã mọc ở đó kể từ thời ngôi nhà không còn là một pháo đài, hào chung quanh được lấp đi, nhà xâytheo kiểu thời nữ hoàng Elizabeth. Kiểu gì thì nhà cũng gần bằng kích thước hồi năm 1690.

Trong cái năm kể trên, trong vùng ngôi nhà toạ lạc, có nhiều vụ xử án các mụ phù thuỷ. Chắc còn rất lâu ta mới có thể đánh giá đúng các lý do nếu có, nằm tận gốc rễ nỗi sợ phù thuỷ của toàn thế giới. Cũng có thể những người bị kết tội thực sự cho rằng, họ có quyền lực bất thường, hoặc giả ít nhất không có quyền, thì cũng có ý chí gây chuyện ác độc cho hàng xóm, hoặc giả nhiều lời thú tội bị những kẻ tàn ác đi săn lùng phù thủy bẻ quẹo đi. Tôi cho là có rất nhiều vấn đề chưa giải quyết được. Chuyện kể sau đây làm tôi bối rối, không thể hoàn toàn cho là chuyện bịa đặt. Xin được để độc giả tự đánh giá.

Catringham đã cống hiến một nạn nhân cho việc bị kết tội hoả thiêu. Tên bà này là Mothersole, khác với các bà phù thuỷ trong các làng khác chỉ ở chỗ sống sung túc hơn, và có vị trí gây ảnh hưởng nhiều hơn. Các trại chủ trong giáo khu tìm hết cách gỡ tội cho bà, cố hết sức chứng thực tính cách bà và khá lo lắng cho sự tuyên án của Toà. Nhưng tai hoạ chết người cho bà, lại do chứng cứ mà ông chủ Castringham Hall nêu ra, ông Mathew Fell. Ông khai đã nhiều lần từ cửa sổ nhìn vào đêm trăng sáng, thấy bà "tỉa những cành con của cây tần bì gần ngôi nhà". Bà trèo lên các cành cây, mặc mỗi chiếc áo sơ mi, cắt những cành nhỏ với một con dao cong rất đặc biệt, miệng lẩm bẩm cái gì đó.

Lần nào ngài Mathew cũng tìm cách bắt lấy bà ta nhưng chỉ một tiếng động nhỏ của ông, bà biết ngay vội vàng trèo xuống, chạy rất nhanh về phía làng. Đêm thứ ba chạy theo không kịp, ông đến tận nhà bà Mothersole, đập cửa đến mười lăm phút mới thấy bà ta ra, rất giận dữ và có vẻ buồn ngủ như vừa mới ra khỏi giường, thành ra chẳng biết giải thích việc đến thăm của mình như thế nào. Chủ yếu dựa vào chứng cứ này, tuy các thành viên trong giáo khu còn đưa ra nhiều điều không đáng chú ý bằng, bà Mothersole đã bị kết tội chết. Toà xử được một tuần thì bà bị treo cổ cùng sáu người không may nữa, ở Bury St Edmunds.

Ngài Mathew Fell lúc đó là phó Quận trưởng, chứng kiến cuộc hành hình. Hôm đó là một sáng tháng ba sương mù ẩm ướt, xe bò leo dốc lên ngọn đồi mọc cỏ dại ở bên ngoài Northgate nơi có giá treo cổ. Những nạn nhân khác trông hờ hững hoặc vô cùng đau khổ, riêng bà Mothersole, sống cũng như chết, lại trong tâm trạng khác hẳn. "Nỗi giận dữ như thuốc độc của bà, theo một phóng viên nói lại, đã ảnh hưởng lớn đến những người đứng xem, ngay cả người phụ trách việc treo cổ, và về sau những người này cũng khẳng định bà thể hiện hình ảnh sống của một mụ điên. Mặt không chống đối người thi hành pháp luật, bà nhìn những bàn tay chạm vào người bà với vẻ nham hiểm và ác độc đến mức, một trong số họ sau này bảo đảm với tôi rằng, còn sợ hãi trong người đến sáu tháng sau mỗi khi nhớ lại". Tuy nhiên nghe nói là, bà ta đã nói những lời có vẻ vô nghĩa như sau:

"Khách sẽ tới thăm ngôi nhà" Những lời này được khe khẽ nhắc đi nhắc lại mấy lần. Ngài Mathew Fell không phải là không cảm động trước thái độ của người đàn bà. Ông nói chuyện với cha xứ, sau đó cùng cha đi về nhà khi việc hành quyết đã xong. Thực ra ông cũng chẳng tự nguyện ra làm chứng trước toà, ông chẳng thấy chứng mê săn lùng phù thuỷ là việc mình bị nhiễm phải, về sau ông có nói đưa chứng cứ như vậy ông chẳng được tiếng tốt nào, biết đâu ông có thể nhầm về những gì mình nhìn thấy. Ông ghê tởm toàn bộ chuyện này, ông vốn thích có quan hệ vui vẻ với mọi người, sở dĩ ông làm như vậy chỉ bởi bốn phận. Có lẽ đó là lý do theo như tình cảm ông, khiến cho cha xứ tán thưởng cũng như những người có hiểu biết nghĩ vậy là phải.

Vài tuần sau đúng vào ngày trăng tròn của tháng năm, cha xứ và nhà điền chủ nông thôn gặp nhau tại công viên và cùng đi vào thái ấp. Phu nhân Fell đang ở nhà bà mẹ ốm nặng, ông Fell ở một mình, vì thế cha xứ, ông Crome và ông Fell dự định ăn bữa tối cùng nhau tại thái ấp. Ông Mathew tối hôm ấy có vẻ không thích chuyện trò mấy, câu chuyện chủ yếu xoay quanh những gia đình trong giáo khu, và cũng may, ông ngồi viết một bản ghi nhớ về các ý định muốn thực hiện trong lãnh địa của mình, sau này nó tỏ ra vô cùng ích lợi. Khi ông Crome định ra về lúc chín giờ rưỡi, thì ngài Mathew cùng ông đi dạo trên con đường rải sỏi sau ngôi nhà. Ông Crome bị sự kiện tác động mạnh: tới chỗ cây tần bì, mà tôi tả là mọc gần ngôi nhà, thì ông Mathew dừng lại bảo:

- Có con gì cứ chạy lên chạy xuống trên cây như con sóc ấy nhỉ? Giờ này chúng phải về hang cả rồi chứ?

Cha xứ nhìn lên cây xem con vật đang di động đó như thế nào, nhưng không rõ màu sắc của nó dưới ánh trăng. Tuy nhiên vẫn nhìn rõ hình, óc ông còn nhớ lắm, ông thề rằng, tuy hơi điên, chẳng biết có phải con sóc hay không nhưng nó có nhiều hơn bốn chân… Lúc đó nhìn thì chỉ biết vậy, hai người đàn ông chia tay nhau, hàng hai chục năm sau mới gặp lại. Sáng hôm sau sáu giờ vẫn chưa thấy ông Fell xuống dưới nhà như lệ thường, bảy giờ, tám giờ cũng không. Đầy tớ lên gõ cửa phòng ngủ của ông, nghe ngóng rồi gõ mãi, cuối cùng đành mở cửa ra, họ thấy ông chủ đã chết xám đen. Hẳn bạn cũng đoán được. Không có dấu vết của bạo lực. Cửa sổ mở toang.

Một người đầy tớ đi tìm cha xứ, nhờ chỉ đường đi tìm cảnh sát tư pháp. Ông Crome thì lập tức tới thái ấp ngay và được đưa vào gian phòng người chết nằm. Về sau ông này có để lại vài tờ giấy tỏ lòng thực sự kính trọng và tiếc thương ông Mathew Fell, trong đó có đoạn sau đây soi sáng phần nào sự kiện xảy ra và suy nghĩ chung của mọi người: "Không có dấu hiệu dùng vũ lực đột nhập vào gian phòng, nhưng cửa sổ thì mở như mùa này bạn tôi vẫn để ngỏ. Ông có uống không hết một phần tư lít rượu táo để trong chiếc cốc bằng bạc. Ông Hodgkins, bác sĩ ở Bury đã khám nghiệm chỗ rượu còn lại, và tuyên thệ theo yêu cầu của cảnh sát tư pháp, trong đó không có chất độc. Vì dĩ nhiên quanh đó người ta nói đến độc tố vì thấy xác ông đen và trương lên. Cơ thể nằm trên giường, chăn nệm lộn xộn, chứng tỏ đã quằn quại đau đớn nhiều trong lúc hấp hối.

Có điều tôi không lý giải được cho cuộc ám sát dã man khủng khiếp này, là hai người đàn bà được giao đem thây người chết ra lau rửa, hai người này vốn chuyên nghiệp về công việc nhà đòn đám ma, đến chỗ tôi, rất buồn phiền lộ vẻ đau đớn, giơ hai bàn tay chạm vào ngực xác chết, ra cho biết lòng bàn tay họ và mặt trước cánh tay bị đau ghê gớm, nỗi đau còn kéo dài nhiều tuần lễ, phải bỏ việc, tuy trên da không sao. Nghe vậy tôi bèn mời ông bác sĩ vẫn còn ở trong nhà ra. Chúng tôi dùng kính lúp soi trên da ở ngực tử thi, không thấy gì quan trọng nhưng có nhiều vết chấm, chúng tôi kết luận đây là nơi độc tố được đưa vào và nhớ lại chiếc nhẫn của Pope Borgia, là dụng cụ đưa độc tố vào của tay đầu độc người Ý thế kỷ trước, trong thứ nghệ thuật kinh hãi của ông ta.

Chỉ có vậy về mặt triệu chứng trên tử thi. Đây chỉ là kinh nghiệm riêng của tôi, thế hệ sau sẽ đánh giá xem có gì là giá trị hơn không. Trên bàn cạnh giường ngủ có một quyển Kinh Thánh nhỏ mà bạn tôi đều đặn dùng mỗi đêm, mỗi sáng sớm dậy ông cũng đọc một đoạn định sẵn. Tôi cầm lên không khỏi nhỏ một giọt nước mắt thích đáng, thương cho cái bản phác hoạ đơn giản này nay đang bị chuyển sang sự chiêm ngưỡng, bản Kinh Thánh vĩ đại nguyên thủy. Chợt tôi có ý nghĩ, trong những giờ phút mà ta vô kế khả thi như thế này, ta có xu hướng dùng những tia le lói để tìm ra ánh sáng. Do đó tôi đã dùng biện pháp được coi là duy tâm để thử một kiểu rút thăm: Như trong trường hợp Đức Vua Tử vì Đạo, King Charles và chúa công Falkland người ta đã lấy làm ví dụ mà nay còn nhắc tới.

Tôi phải thừa nhận thử nghiệm này không giúp được gì cho tôi cả, tuy nhiên biết đâu sau đây có thể Nguyên nhân và Nguồn gốc của những sự kiện hãi hùng này sẽ được tìm ra. Tôi cứ đưa kết quả ra đây, biết đâu chúng chỉ ra hướng của tội ác một cách thông minh hơn tôi. Tôi làm tất cả ba thử nghiệm, mở cuốn Kinh Thánh ra đặt ngón tay vào một số chữ nào đó, lấy ra những chữ đầu, ở chỗ Luke XII I7 chặt nó đi, lần hai Isaiah XIII 20, không ai được ở đấy nữa, lần ba Job XXVIII 30: con cái nó cũng bị hút hết máu. Đó là những lời trích dẫn từ giấy tờ ông Crome để lại. Ông Mathew Fell được cho vào quan tài đem chôn, lời giảng kinh của cha Crome trong lễ an táng Chủ nhật sau đó được in dưới đầu đề "Một phương thức không thể tìm ra được, hoặc Nỗi nguy hiểm nước Anh và Những cách thức xảo quyệt của việc chống lại Chúa".

Vì theo quan điểm của cha xứ cũng như của hàng xóm láng giềng, vị quý tộc điền chủ nông thôn là nạn nhân của sự trở lại, của những âm mưu theo kiểu đầu độc Giáo hoàng. Con trai ông Fell là Sir Matthew II thừa kế tước vị và lãnh địa của cha. Đến chấm dứt phần đầu của tấm thảm kịch Castringham. Cũng nên nhắc tới việc ngài Nam tước mới không ở căn phòng cũ của cha mình nữa, vậy cũng phải thôi. Cũng chẳng ai ngủ trong đó trừ một vị khách vô tình đi qua ở lại. Ông chủ ở thái ấp Sir Matthew II mất năm 1735, nơi này không xảy ra chuyện gì đối với ngoại trừ việc trâu bò lợn gà chết ngày một nhiều, sau còn có xu hướng tăng dần lên. Người nào lưu ý tới chi tiết chuyện này có thể đọc bảng thống kê số liệu súc vật nuôi, của ngài nam tước viết trong thư gửi tờ tạp chí Người Phong Lưu 1772.

Ông chấm dứt việc trâu bò chết nhiều bằng cách ban đêm dồn hết chúng vào chuồng khoá kỹ, cừu không thả tự do ngoài công viên nữa. Vì ông nhận xét ở trong chuồng không con vật nào bị tấn công. Sau đó chỉ các chim rừng và thú vật hoang dã bị hại, không ai biết gì về triệu chứng tử nạn của các con thú hoang này, cho người canh suốt đêm thì lãng phí vô ích, tôi không muốn đi sâu thêm vào cái mà các trại chủ ở Suffolk gọi là "căn bệnh của Castringham". Sir Matthew II mất năm 1735, được con trai là Sir Richard thừa kế. Sir Richard cho xây khu ghế ngồi riêng của gia đình, ở bên ngoài nhà thờ giáo khu về mạn bắc, vì khá rộng nên theo ý ông quý tộc điền chủ nông thôn này, cần dời đi một số ngôi mộ nằm trong khu của những kẻ vô đạo, trong đó có mộ của bà Mothersole, địa điểm ngôi mộ này sở dĩ biết được chính xác, là do trong số giấy tờ ông Crome để lại có bản đồ nhà thờ và sân nhà thờ.

Khi biết mộ bà phù thủy được khai quật, thì trong làng một số người còn nhớ bà ta có bị kích động đôi chút. Và ai cũng lấy làm lạ lo lắng nữa, khi trong quan tài dù gỗ rất chắc chắn, không bị vỡ nứt, không hề thấy vết tích xác chết đâu, dù là xương hay bụi. Quả là hiện trường kỳ quặc, thời đem chôn bà chưa có chuyện người chết sống lại, mà hình dung việc xác chết bị lấy cắp đem cho viện giải phẫu để phẫu tích lại càng khó hơn. Hiện tượng này gợi lại một thời gian có những câu chuyện về phiên toà xử phù thuỷ, về chiến công của các bà này mà người ta lâu nay đã quên lãng. Ông Richard cho đem đốt quan tài, dù nhiều người nghĩ là điên. Rõ ràng ông Richard là một nhà sáng chế phát minh đến là khó chịu. Trước thời ông, ngôi nhà thái ấp bằng gạch đỏ là một khối nhà dễ thương nhất, nhưng vì ông du lịch qua Ý bị nhiễm thị hiếu Ý, và vì có nhiều tiền hơn cha và ông, ông biến ngôi nhà thôn quê Anh thành một lâu đài kiểu Ý.

Vữa và đá khối che lấp hết gạch, một vài tấm đá hoa cương Ý đứng thờ ơ nơi vào gian sảnh và ngoài vườn, một ngôi đền sao chép kiểu Sibyl ở Tivoli dựng ngay bên bờ ao. Castringham mang một vẻ hoàn toàn mới, tôi phải nói là nom nó không được duyên dáng như trước, nhưng được nhiều người trầm trồ thán phục và trở thành kiểu mẫu cho các quý tộc nông thôn bắt chước trong nhiêu năm về sau này. Một buổi sáng vào năm 1754, ông Richard tỉnh dậy sau một đêm không thoải mái chút nào. Trời gió, ống khói lò sưởi phả khói liên tục, trời lạnh nên phải đốt lò sưởi trong nhà. Đã thế cái cửa sổ cứ kêu lạch cạch không để cho người ta yên. Triển vọng chiều nay khách khứa sang trọng đến chơi đông đấy, nếu trong lúc tiến hành các trò chơi mà ông cứ liên tục có cảm giác khó ở thế này, sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng của ông, vốn được coi là người chịu khó duy trì việc tổ chức các trò chơi.

Điều làm ông chán ngán nhất lại là chuyện khác cơ trong cái đêm mất ngủ. Ông không thể tiếp tục ngủ trong căn buồng này được. Trong bữa ăn sáng, ông cứ nghĩ mãi về chuyện này, thành ra ăn sáng xong ông đi thăm một cách có hệ thống tất cả các phòng, để xem phòng nào theo ông là tốt nhất. Mãi mới tìm ra được một phòng, có cửa sổ quay ra phía đông và cửa sổ quay ra phía Bắc, cửa phía Bắc này đầy tớ luôn qua lại nên không thích lắm. Ông muốn nó nhìn ra phía Tây để mặt trời khỏi đánh thức ông dậy sớm quá, và không bị quấy rối bởi các hoạt động buổi sáng ở trong nhà. Người giữ nhà cho biết chỉ có một phòng đạt được yêu cầu ấy.

- Là phòng nào vậy?

Ông Richard hỏi.

- Phòng của ngài Mathew trước đây vốn được gọi là Tây Phòng.

- Thế thì chuyển buồng ngủ của tôi sang đấy, tối nay tôi ngủ ở đấy.

Ông chủ nói.

- Đi lối nào nhỉ, à đây rồi.

Và ông vội vã đi.

- Nhưng thưa ngài Richard, đã bốn mươi năm nay không ai ngủ ở đấy cả. Từ ngày ngài Mathew qua đời không khí gian phòng đã đổi khác.

Vừa nói bà ta vừa rượt theo chủ.

- Nào bà Chiddock, mở khoá ra ít nhất tôi muốn xem phòng ra sao đã.

Thế là cánh cửa được mở ra, gian phòng xông lên mùi không khí tù hãm ẩm mốc. Ông Richard tiến ra phía cửa sổ và nóng lòng mở tung các cửa chớp cửa sổ. Nơi này, ở cuối ngôi nhà, sự sửa chữa bấy lâu nay không hề động chạm tới, lại bị cây tần bì um tùm che khuất.

- Bà Chiddock, thông khí gian phòng này cho tôi, mở cửa cả ngày vào, đưa đồ đạc phòng ngủ của tôi sang đây. Phòng cũ của tôi để cho linh mục Kilmore nằm.

Tự nhiên có tiếng nói ở đâu ngắt lời ông:

- Xin cho tôi hầu chuyện ngài một lát được không ạ?

Ông Richard quay người lại thấy một người mặc đồ đen, đứng ở ngưỡng cửa đang cúi chào mình.

- Xin thứ lỗi cho tôi đã đột ngột vào đây, ngài không nhớ tôi đâu, tên tôi là William Crome, ông nội tôi là cha xứ cùng thời với ông nội của ngài.

- Phải. Cái tên Crome bao giờ cũng là tấm hộ chiếu để vào Castringham này. Tôi rất vui được nối lại quan hệ của hai thế hệ sau. Tôi giúp gì ông được đây? Ông có vẻ hơi vội và vào giờ này…

- Đúng vậy tôi đã phi ngựa suốt từ Norwich để tới Bury St Eđmunhs, chỉ dừng lại đây để trao cho ngài một số giấy tờ, ông nội tôi đã để lại khi qua đời, theo tôi có liên quan đến gia đình ngài.

- Cám ơn ông quá.

Ông Richard nói:

- Xin mời ông ra phòng khách uống chén rượu, ta cùng xem các giấy tờ đó với nhau được không. Còn bà, bà Chiddock, thông khí gian phòng này như tôi đã bảo…Phải đây là nơi ông nội mất. Phải cái cây có lẽ làm cho nơi này khá ẩm thấp. Không tôi không muốn nghe nữa, bà làm gì thì làm đi. Còn ông xin theo tôi.

Họ vào phòng đọc. Ông Williams Crome, người trở thành một thành viên trong Ban lãnh đạo của Clare Hall Cambridge, vừa cho xuất bản một quyển Polyaenus giá trị, đã mang theo một cái gói trong đó có các ghi chép của cha xứ ông nội liên quan đến cái chết của Sir Matthew Fell. Vậy là lần đầu tiên Sir Richard đối mặt với việc bói Kinh Thánh mà ta đã biết ở trên, nó làm ông thích thú lắm.

- Vâng.

Ông Crome trẻ nói:

- Quyển Kinh Thánh của ông nội tôi đã cho một lời khuyên giá trị, chặt nó đi, tức là cái cây tần bì đấy ạ, tôi không dám sao lãng lời khuyên này của cụ để cụ được yên nghỉ. Quả thật chưa từng thấy một cái ổ cho bệnh sổ mũi và bệnh sốt rét nào như cái cây này. Trong phòng khách có một số sách của gia đình, không nhiều lắm, hiện nay còn chờ bộ sưu tập từ Ý của ông Richard đưa sang, một phòng sách mới đang được xây để nhận số sách ấy.

Ông Richard nhìn từ tờ giấy lên giá sách và nói:

- Tôi tự hỏi không hiểu cái quyển Kinh Thánh tiên tri ấy nay còn không? Tôi có cảm giác đã từng nhìn thấy nó ở đâu đó.

Ông băng qua gian phòng, lấy ra một quyển Kinh thánh lùn bè bè, trên trang đầu để trong có dòng chữ sau đây: "Tặng Matthew Fell, từ mẹ đỡ đầu yêu thương Anne Aldous, 2 tháng Chín 1659".

- Tôi lại thử nó lần nữa xem sao, ông Crome nhỉ. Chắc lại gặp phải mấy cái tên trong biên niên sử. Hừm, cái gì đây?

"Anh đến tìm tôi sáng mai nhưng tôi sẽ không ở đấy đâu".

- Phải! Phải! Ông nội ông đã đưa ra một điềm báo hiệu đây rồi! Thôi tiên tri như vậy là đủ. Toàn chuyện không đâu cả ấy mà. Thôi ông Crome, xin cám ơn cái gói của ông vô cùng. Tôi e rằng ông đang vội đi, xin hãy uống thêm một ly rượu nữa.

Với thái độ ông chủ nhà mến khách như thế, ông Richard nghĩ rất tốt về phong cách và cách nói năng của người đàn ông trẻ tuổi, hai người tạm biệt nhau. Buổi chiều khách khứa đến, giám mục Kilmore, Phu nhân Mary Hervey, ông William Kentfield.. Ăn tối lúc năm giờ, uống rượu chơi bài ăn khuya, sau đó phân tán ai về phòng nấy. Sáng hôm sau ngài Richard không có ý định đi săn với những người kia, mà nói chuyện với giám mục Kilmore. Vị giám mục này khác với các giám mục Ireland thời ấy, đã tới thăm toà giám mục của mình và cư trú ở đó một thời gian khá lâu. Sáng hôm ấy hai người đi dạo ở sân đang nói về những thay đổi và cải tiến của ngôi nhà, vị giám mục bảo, chỉ vào cửa sổ Tây Phòng.

- Ngài Richard ạ, ngài mà cho dân Ireland của tôi ở những chỗ như thế này là không được đâu.

- Sao thế, chính là phòng của tôi đấy.

- Người nông dân Ireland kỵ nhất ngủ bên cạnh chỗ có cây tần bì, mà cây tần bì này mọc um tùm gần ngay cửa sổ phòng, cách không đến hai mét. Có lẽ..

Ông giám mục mỉm cười nói tiếp:

- Chính vì nó mọc tốt cao to như thế cho nên vẻ mặt ngài mới kém tươi như bạn bè ngài nhìn thấy đây.

- Quả như thế hay sao ấy, suốt từ mười hai giờ đêm đến bốn giờ sáng tôi không sao ngủ được. Nhưng mai tôi cho hạ cây rồi, khỏi phải nghe nói về nó nữa.

- Tôi hoan nghênh quyết định ấy của ngài đấy. Lá cây dày đặc thế kia thì làm ngài thở sao nổi.

- Ngài nói đúng. Nhưng đêm qua tôi không mở cửa sổ. Vì có nhiều tiếng động quá, có lẽ các cành cây chà vào ô kính cửa sổ làm tôi chong mắt ra.

- Không thể được ngài Richard ạ, đây ngài xem, không cành cây nào vươn tới khung cửa sổ cả trừ khi có trận gió mạnh, mà đêm qua có gió đâu! Cành lá cách ô cửa sổ có đến ba chục phân kia mà.

- Không! Thế tại sao có vết cào để lại khắp trên lớp bụi ở ngưỡng cửa sổ?

Cuối cùng họ cho là có chuột từ đám dây thường xuân. Đức giám mục đưa ý đó ra, ngài Richard chộp lấy ngay. Cả ngày trôi qua êm đềm, đêm đến mọi người về phòng đi ngủ, chúc ngài Richard ngủ ngon. Giờ đây ông ta đang ở trong phòng mình, nằm trong giường tắt đèn. Phòng này ở ngay trên nóc bếp, đêm lại ấm do đó cửa sổ để mở. Chỗ khung giường rất ít ánh sáng, nhưng người ta thấy động đậy tựa như ngài Richard trở đầu, từ bên này qua bên kia rất nhanh và gây tiếng động khe khẽ. Ta có thể hình dung như là ông ta có rằng nhiều cái đầu màu nâu trong bóng tối mờ, chúng đưa ra trước rồi lại ra sau và cả lồng ngực cũng vậy. Ảo giác này thật đáng sợ.

Còn gì nữa không? Có đấy! Một tiếng động của cái gì đó từ giừơng rơi xuống đánh bộp, đó là một thứ mập mạp trông như con mèo con, chạy vút ra khỏi cửa sổ như một ánh chớp, rồi một cái gì đó như thế nữa bốn tất cả sau đó yên lặng hoàn toàn. "Anh đến tìm tôi sáng mai nhưng tôi sẽ không ở đấy nữa" Giống như ngài Matthew, ngài Richard cũng chết trong giường, đen kịt lại! Một đám khách khứa lặng lẽ và đầy tớ đứng đầy dưới cửa sổ khi biết tin. Nào là ngộ độc kiểu Ý, nào là phái viên của Giáo hoàng đến ám hại, nào là ô nhiễm bởi không khí. Khách khứa đưa ra nhiều giả thiết, riêng giám mục Kilmore nhìn vào cái cây, nơi chẽ ba thấp có một con mèo đen đang thu người lại nhìn vào cái hốc, từ lâu đã có ở thân cây. Nó có vẻ như đang nhìn vào một cái gì rất đáng chú ý trong đấy.

Bỗng dưng nó vươn cổ nhòm hẳn vào cái lỗ và vì đứng chênh vênh, nó trượt tõm vào cái lỗ. Người ta nghe thấy tiếng nó rơi. Ta đều biết mèo có thể kêu nhưng ít ai nghe thấy nó thét, cái tiếng thét từ trong hốc cây vọng ra. Hai, ba tiếng thét! Mấy người làm chứng không chắc lắm. Sau đến tiếng đông nghèn nghẹn, tiếng vật lộn. Phu nhân Mary Hervey ngất đi, bà quản gia bịt tai chạy thẳng lên đến sân thượng mới bỏ tay ra. Riêng giám mục Kilmore và ngài William Kentfield ở lại. Cho dù tiếng kêu đầy đe doạ, nhưng cũng chỉ là tiếng kêu của một con mèo, ngài William nuốt nước bọt mấy cái trước khi nói:

- Xin thưa là trong cái cây thể nào cũng có cái gì đó mà ta chưa biết. Tôi sẽ tìm hiểu ngay đây.

Mọi người nhất trí. Một cái thang được đem tới, một người làm vườn trèo lên nhìn vào trong hốc, chẳng thấy rõ gì cả trừ một cái gì đó lờ mờ đang động đậy ở bên dưới. Người ta lấy một cái đèn lồng buộc dây thừng thả xuống.

- Chúng ta phải xuống dưới đáy. Xin lấy cuộc sống của tôi ra mà thề, bí mật của những cái chết khủng khiếp này nhất định là nằm ở dưới đó.

Người làm vườn lại trèo lên thang tay cầm đèn, thận trọng thả đèn xuống cái hốc. Ông ta cúi xuống, mặt có ánh đèn chiếu vàng khè, sau đó thì cái mặt đó nhăn nhúm lại như nhìn thấy một cái gì thực kinh khủng và ghê tởm, ông ta thét lên một tiếng hãi hùng, và ngã ngửa ra rơi từ trên thang xuống, may thay được hai người đàn ông ở gốc cây đỡ lấy, riêng cái đèn thì rơi vào trong. Ông ta ngất đi tưởng như đã chết, thành ra chưa ai moi được lời nào từ miệng của ông ta cả. Nhưng rồi lại có một thứ khác cho mọi người nhìn. Vì cái đèn rơi xuống, lửa bắt vào rác rưởi và lá cây khô ở trong thành ra vài phút sau từ trong hốc một làn khói dày đặc bốc lên, sau đến ngọn lửa, nói tóm lại cả cái cây đang bùng cháy. Những người đứng xem quây thành một vòng ở xa mấy mét, ngài William và đức giám mục cử người đi tìm vật khí hoặc bất cứ dụng cụ gì cũng được, bởi rất rõ ràng là con thú nào dùng hốc cây đó làm hang, thế nào cũng phải vọt ra do lửa hun.

Đúng thế. Thoạt tiên ngay chỗ chẽ cây là một thân hình tròn xoe, như cái đầu người đang bốc lửa, đột ngột nhô lên sau đó xỉu ngay rơi xuống. Rồi đến sáu bảy lần như thế, cuối cùng một quả cầu lửa vọt lên không trung, tiếp đến nhào xuống bãi cỏ nằm im. Vị giám mục tới gần, nhìn thấy…những gì còn lại của một con nhện khổng lồ mắt đầy gân vỡ bung ra! Cái cây cháy thấp xuống thì rằng nhiều con vật giống như thế từ trong thân cây bổ ra, chúng có lông lá xám xịt. Cả ngày hôm ấy cây tần bì cháy và người ta đứng quanh cho đến lúc nó rụi hẳn. Con nhện nào ra đến ngoài cũng bị diệt ngay. Cuối cùng một lúc lâu không thấy gì bò ra nữa họ xúm lại nhìn vào những rễ cây.

- Họ tìm thấy.

Giám mục Kilmore nói:

- Dưới cùng chỗ đất lõm sâu có vài ba xác con vật như thế chết vì ngạt khói, và lạ thay bên cạnh cái hố đó, sát vào tường nhà, là một bộ xương người, bên trên còn lớp da khô, vài sợi tóc đen, những người đến xem bảo rõ ràng đây là, một bộ xương đàn bà chết cách đây khoảng năm mươi năm.


Montague Rhodes James

#289 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/09/2011 - 03:15

ĐỨA BÉ ĂN MÀY

Nó là thằng bé ăn mày tội nghiệp. Hơn thế, lại mù. Chiếc quần bẩn khó xác định màu rách bươm cả hai ống cho thấy không chỉ người mà lũ chó cũng chẳng thích nó. Hai ống tay áo đen bóng vì luôn được dùng làm khăn lau mũi. Ðầu nó đội chiếc mũ cói méo mó hơi hất về phía sau, để lộ khuôn mặt đói ăn gầy đét, xạm nắng, và nhất là hai hố mắt trắng dã càng làm tăng thêm vẻ thảm hại đáng sợ. Có thể nó chủ ý phô ra thế để người ta thương hại mà cho chút gì chăng? Vì mù, nó phải chống gậy, chiếc gậy trúc già bằng ngón tay cái, trơn nhẵn và cũng gầy đanh như nó.

Sau khi thận trọng gõ hai lần xuống đất, nó mới đi một bước. Nó lặng lẽ đi giữa trời nắng chang chang, chiếc bị, cũng bằng cói, đeo sát nách, và hình như còn lép kẹp hơn bụng nó. Không ai biết nó từ đâu tới. Thứ nhất vì đây là lần đầu tiên nó xuất hiện ở làng Thượng. Thứ hai, đơn giản vì những loại như nó không đáng được người ta quan tâm. Mà rồi lúc ấy đang giữa trưa nắng gắt chẳng có ai gần đấy ngoài một thằng bé khác trạc tuổi nó, cũng nhếch nhác, nhưng vì không ăn mày nên to khỏe hơn và cũng lành lặn hơn. Thằng này đang chổng đít cố búng viên bi thủy tinh vào một lỗ nhỏ trước mặt dưới bóng cây đa cụt đầu làng. Nó đang cáu vì búng mãi không vào đúng lỗ.

Ðã thế, viên bi bị búng mạnh quá lăn đi đâu mất. Nó thất vọng định đứng dậy bỏ về nhà ăn trưa thì bất chợt nhìn thấy thằng ăn mày khốn khổ. Nó thấy có cái gì đấy vừa buồn cười vừa khó chịu ở vẻ ngoài và cách dò đường hai cộc một bước của thằng kia. Ðôi mắt trắng dã làm nó, vốn bực mình vì mất viên bi, càng thêm khó chịu. Cứ như viên bi của nó đã bay vào nằm gọn trong hố mắt thằng kia. Một ý nghĩ chợt lóe lên. Nhẹ và rón rén như con mèo săn chuột, nó bước lại gần thằng ăn mày, bất chợt giật lấy chiếc gậy trúc rồi chạy nhanh về phía gốc đa. Thằng bé ăn mày kêu ới ới, hai cánh tay khẳng khiu bất lực huơ huơ phía trước.

- Ai trả lại chiếc gậy cho tôi đi! Trả lại đi, đừng đùa thế! Trả lại đi!...

Giọng nó yếu lắm, chắc vì đói. Chờ mãi không thấy ai trả lại gậy, nó đành dò dẫm đi tiếp, điệu bộ trông thật buồn cười, cứ như nó đang lấy thăng bằng đi trên dây thép trong rạp xiếc. Bây giờ thay cho gõ gậy, nó thận trọng uớm thử chân hai lần trước mỗi bước đi. Bằng cách ấy nó có thể không vấp ngã, nhưng khốn nỗi điều quan trọng đối với nó là hướng đi chứ không phải đi như thế nào. Mà hướng nó đang đi tới hiện giờ là chiếc giếng hơi sâu rộng đầy nước của làng Thượng. Ngồi dưới gốc đa, thằng chơi bi thích thú quan sát điều này. Ở các làng khác, giếng nước ăn luôn có bờ gạch bao quanh, là điều dễ hiểu, thế mà bao đời nay giếng làng Thượng không hề có cái bờ gạch bao quanh ấy, lại sát đường đi, nên nhiều lần trẻ con và cả trâu bò rơi xuống đó, nhưng luôn vào lúc đông người nên được vớt lên kịp.

Khốn khổ thằng bé ăn mày. Nó cũng bị sẩy chân ngã xuống giếng và đã chết, vì bờ giếng lát gạch trơn chẳng có gì để bấu víu, vì nó quá yếu do đói ăn, vì xung quanh không có ai để vớt nó lên. Còn thằng bé chơi bi lếu láo kia thì thấy vậy liền hoảng sợ bỏ chạy về nhà... Chuyện này xảy ra đã mấy chục năm nay, nhưng dân làng Thượng vẫn nhớ. Mà không chỉ có nhớ. Phải ba ngày sau xác thằng bé mới nổi lên. Người ta chôn nó ở nghĩa địa Ðồng Chùa như chôn nhiều người vô gia cư chết đói trước đấy. Khác chăng, mộ của nó nhỏ hơn một chút, vì nó là con nít. Có điều đáng ngạc nhiên là không hiểu sao cái mộ bé nhỏ ấy của nó cứ mỗi ngày một lớn thêm, đến mức lấn át cả mộ cụ tổ họ Phạm thế lực nhất trong làng.

Thường người ta vui với những trường hợp như thế. Phát mả đồng nghĩa với phát tài, phát lộc, nhưng đây lại là mả một thằng bé ăn mày, vậy thì phát gì? Phát nghề ăn mày à? Các vị chức sắc trong làng không giấu nổi vẻ lo lắng mơ hồ về một tai hoạ nào đó đang treo lơ lửng trên đầu. Cuối cùng cái tai họa ấy đã đến. Sau nhiều năm liền mất mùa vì thiên tai, nhiều người làng Thượng xách bị đi ăn xin xứ người. Lúc đầu người ta không chú ý mấy đến hiện tượng này, vì xưa nay ăn mày chẳng hiếm. Nhưng khi số lượng gia tăng một cách đáng lo ngại, người ta bắt đầu nghĩ đến cái mả ăn mày phát kia. Sao các làng lân cận đói ăn chẳng kém mà chẳng mấy người làm cái nghề nhục nhã ấy? Vậy chắc đây là đòn báo oán của thằng bé nọ.

Ðể giảm bớt tai hoạ, người ta xây mộ xi măng cho nó, bây giờ đã được gọi là Ông. Mấy năm sau xây miếu hẳn hoi, có bàn thờ và được hương khói cẩn thận đúng dịp, đúng quy cách. Dần dần, khi người ta thấy nghề ăn xin cũng không đến nỗi nào cả về thu nhập lẫn quan niệm xã hội, người làng Thượng bỏ nhà đi ăn xin có giấy chứng nhận đàng hoàng của xã, kèm theo chiếc dấu tròn đỏ chói. Tự lúc nào không biết, thằng bé ăn mày tội nghiệp nghiễm nhiên trở thành thành hoàng của làng Thượng, thay chỗ một vị tướng lừng danh thời Lê Mạc. Dần dần trong dân gian, tên làng cũng được gọi khác. Làng Ăn Mày!

- Chính tôi là thằng bé chơi bi láo lếu ấy đấy, ông ạ.

Ông M. thở dài nói. Ông M. là hàng xóm của tôi. Hàng xóm với nghĩa nhà cạnh nhau, chứ giữa nghề viết lách của tôi và nghề buôn sắt vụn phát đạt của ông chẳng có gì liên quan. Ông quý tôi vì tôi nhiều chữ. Tôi chơi với ông vì ông nhiều tiền mà không hợm mình, và cả vì ông đồng ý để chúng tôi luân phiên nhau trả tiền bia ở quán Gió Mới bên cầu Long Biên. Xưa nay ông nổi tiếng hảo tâm, một nhà từ thiện đích thực. Có lẽ ông đã cúng tới hàng chục, nếu không muốn nói hàng trăm triệu đồng cho mục đích cao cả ấy, mà đối tượng bao giờ cũng là những đứa trẻ mù. Trường Nguyễn Ðình Chiểu coi ông như ân nhân. Một số trường khiếm thị ở các địa phương khác cũng vậy.

- Tất nhiên lúc ấy tôi chẳng dám cho ai biết tôi đã làm thằng bé ăn mày phải chết.

Ông nói tiếp sau khi uống một hơi hết sạch vại bia.

- Tôi hối hận và sợ lắm. May mà tháng sau bố tôi, một cán bộ cỡ ở Tổng cục Thống kê, đưa cả nhà lên sống hẳn ở Hà Nội. Từ bấy đến nay tôi chẳng một lần dám trở lại làng Thượng. Vì sao thì ông biết. Tuy vậy, tôi biết hết mọi chuyện xảy ra ở làng. Tôi hỏi thật nhé: Ông có mê tín không?

- Không.

Tôi đáp.

- Ông có tin vào báo ân, báo oán không?

- Tôi không tin. Sao ông hỏi vậy? Ông tin à?

Ông M. trầm ngâm một chốc rồi nói, vẻ bần thần:

- Cả có mà cả không. Nhưng tôi cứ thấy nó thế nào ấy, nhất là thời gian gần đây. Có lẽ tôi già rồi đâm lẩn thẩn. Nói ông đừng cười, đêm nào nằm ngủ tôi cũng nghe tiếng gõ chiếc gậy trúc của thằng bé kia và tiếng kêu yếu ớt:

- Ai đó trả lại gậy cho tôi, đừng đùa . Tình hình có vẻ như ngày càng tồi tệ. Tôi chẳng biết phải tính sao đây. Ông khuyên tôi làm gì bây giờ?

Tôi ngồi im vì chẳng biết trả lời thế nào.

- Hay ông đi khám bác sĩ thần kinh.

Cuối cùng tôi lên tiếng.

- Thời này khối người căng thẳng như ông. Tôi cũng chẳng hơn gì. Còn chuyện thằng bé thì chỉ do ông hay nghĩ đến nó mà tưởng tượng ra thôi.

Tôi an ủi, mặc dù tự biết ở đây có cái gì đó nghiêm trọng và đáng sợ hơn nhiều. Mấy hôm sau, trước lời năn nỉ của ông M. và cũng vì tò mò, tôi nhận lời cùng đi với ông về làng Thượng, Làng Ăn Mày. Ông M. thắp hương, lầm rầm khấn vái hồi lâu trước bàn thờ thành hoàng làng mình. Trước đấy tôi cũng thắp một nén, gọi là tưởng nhớ vong linh thằng bé xấu số. Tôi tế nhị bỏ ra ngoài để ông được tự nhiên sám hối, hi vọng sẽ thanh thản hơn đôi chút. Bằng đức tính nhân từ vốn có và những việc làm từ thiện xưa nay, ông xứng đáng được hưởng một tuổi già thanh thản. Tối hôm ấy chúng tôi ngủ lại nhà một người bà con xa của ông M.. Nhà ngói hẳn hoi, có tivi, có đài, anh con trai chủ nhà còn có cả xe máy, xe Nhật chứ chẳng phải Tàu.

Từ lâu dân làng Thượng không còn xách bị đi ăn xin, nhưng người ta vẫn thành kính thờ cúng ông tổ ăn mày của làng. Ngôi mộ của ông đã phát càng phát thêm, nay gần giống một cái gò nhỏ, trẻ con không dám cho trâu bò dẫm lên. Nửa đêm, tôi đang ngủ say sau một ngày đi đường vất vả thì bị ông M. túm tay áo giật mạnh. Ông hoảng hốt thì thầm:

- Ông nhìn kìa. Ngài đấy!

- Ngài nào?

Tôi ngạc nhiên hỏi vì chẳng thấy gì.

- Thần hoàng làng Thượng! Ðứa bé ăn mày...

Ông M. không nói hết câu, liền sụp xuống đất, vái lạy liên hồi:

- Con xin ngài tha tội. Dạ, con xin ngài tha tội. Con trót dại... Con chỉ đùa... Lúc ấy con còn nhỏ... Con xin ngài tha tội! Con xin ngài...

- Ông làm sao thế?

Tôi định đỡ ông dậy nhưng ông không chịu.

- Tôi có thấy gì đâu! Ông vái lạy ai đấy?

Quả tôi không thấy gì thật. Nhưng ông M. vẫn tiếp tục cầu khẩn van xin. Dẫu chẳng tin ma quỷ và không thuộc loại nhát gan, tôi vẫn thấy ớn lạnh khắp người. Lát sau, ông M. im lặng ngồi rũ xuống sàn nhà, thở hổn hển:

- Ngài đi rồi. Ði mà chẳng nói gì cả. Nghĩa là ngài không tha thứ cho tôi. Trời ơi, tôi phải làm gì bây giờ?...

Lúc này tôi mới lọ mọ lại gần chiếc công tắc điện để bật đèn. Ông M. mặt cắt không còn hột máu. Ông ngồi yên trong tư thế ấy rất lâu, cuối cùng như để xác minh về sự hiện diện có thật của ngài, ông quay sang tôi, chìa ra một viên bi thủy tinh bóng loáng dưới ánh đèn.

- Ngài để lại đấy!

Sau đó có việc tôi đi công tác xa ba tháng. Lúc về thì được tin ông M. đã chết. Người ta kể rằng ông hóa điên, đi đâu cũng ngửa tay xin ăn như thằng ăn mày. Bị con cháu nhốt trong nhà và cả ở bệnh viện tâm thần, gặp ai ông cũng xin. Có người cho hòn đá, ông rối rít cảm ơn, xúc động đến rơi nước mắt. Một hôm ông khôn khéo trốn khỏi bệnh viện. Ðến tối thì có người thấy ông nằm chết trong chiếc ao nhỏ cạnh Cầu Chui Gia Lâm. Vì ao hầu như không có nước chỉ toàn bùn, nên ông không chìm. Ấy thế mà ông chết. Một điều lạ nữa là lúc chết ông đeo chiếc bị cói sát nách, tay giữ chặt chiếc gậy trúc già trơn bóng, những thứ trước đấy chưa ai nhìn thấy bao giờ.

- Một người nhân đức nhường ấy mà phải chết thế thì thật tội nghiệp.

Ông trưởng dân phố nơi ông M. sống bùi ngùi nói khi người ta liệm ông vào quan tài.

Thái bá Tân

#290 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/09/2011 - 03:17

BÙA TRẤN TRẠCH

Bùa chú luôn thuộc quyền sở hữu của các Pháp sư, Thầy cúng và Thiền sư. Không ai trong chúng ta có ý định giải thích về chúng, mà chỉ coi đó là một lĩnh vực không thể hiểu, là cánh cửa luôn đóng giữa đời và tâm linh. Ngay cả những nguời sử dụng cũng chỉ hiểu chức năng của từng loại bùa chú, chứ không hẳn đã hiểu hết ý nghĩa và thần năng tiềm ẩn trong mỗi loại bùa. Mặc dù khi hành lễ, lúc thăng hoa, nhập đồng họ có thể vẽ ra những lá bùa, để con nhang đệ tử xin về trấn trạch cầu bình an cho gia đình.

Trong từ điển Hán-Việt gọi bùa là:“ Linh phù” nghĩa là bùa thiêng. Thực ra bùa trấn là sự lồng ghép giữa các hình ảnh mang tính ma thuật với các câu thần chú, càng làm cho nó mang đậm sự huyền bí và mê hoặc, buộc nguời ta phải chấp nhận nhiều hơn là thắc mắc. Xét về thực chất, sự hình thành của bùa chú có lẽ đây là một sản phẩm văn hoá, khởi nguyên từ thời Nguyên Thuỷ. Khi mà thiên nhiên là cái hùng vĩ, còn con nguời lúc đó luôn sợ hãi và trong tâm thức họ lại cảm thức rất rõ rệt sự tuơng quan của mình đối với tự nhiên.

Suy cho cùng, nếu đánh giá qua lăng kính khoa học hiện đại, thì bùa trấn trạch là sự phản ánh sự bất lực hoàn toàn của con nguời truớc cái chết, mà sự thuơng tiếc của người sống luôn muốn vời nguời chết trở về, cũng như sự sợ hãi rằng: nguời chết đi nếu không vui vẻ sẽ rủ theo những nguời sống khác. Từ những quan niệm đó mà nẩy sinh các loại hình bùa trấn, nhằm trấn áp sự trở lại của một thế lực vô hình trong thế giới huyền hoặc: Trấn tà ma, bệnh tật, trùng tang, rủi ro... để tạo ra một cảm giác có một sức mạnh huyền bí nào đó luôn ở cạnh, ở trên, ở với thế giới hiện hữu nhằm bảo vệ sự bình an cho con nguời.

Bùa trấn trạch thuờng cấu tạo bởi các nội dung sau:

Hình nguời: Phật, Bồ Tát, Kim Cuơng, Tứ Trấn, Thần Độc Cước và các hình nhân cùng các hình biến dạng khác.

Hình vật: Con vật tuợng trung cho bốn phuơng: Thanh Long, rồng trấn ở phuơng Đông. Bạch hổ, hổ trấn ở phuơng Tây. Chu Tuớc, chim trấn ở phuơng Nam. Huyền vũ, rùa trấn ở phuơng Bắc.

Ký tự: Chữ Phạn duới dạng thần chú, chữ trấn, chữ sát quỷ, và các biến hình tự, cùng nhiều chữ hán duới dạng thần chú và triện ấn.

Hình hoa lá: Hoa sen, hoa dây, sóng nuớc.

Hình tuợng trưng: Âm duơng, bát quái, các quẻ kinh dịch, các vì sao Nhị thập bát tú…

Nội dung bùa trấn trạch gồm sáu đoạn, tính từ ngoài vào trong:

1. Hàng trên cùng là dòng chữ:

- Nam mô thiên thủ thiên nhãn linh cảm Quán thế Âm.

- Cột bên phải là Nhị thập Bát tú: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vỹ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vi, Mão, Tất, Chủy, Sâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, tinh, Truơng, Dực, Chấn.

- Cột bên trái: Bẩy khuyên đầu là Âm đẩu thất tinh, duới là tên các vì sao trong tử vi đẩu số: Tham lang, Cự môn, Lộc tồn, Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc, Phá quân.

Tiếp đến là can chi và bốn đặc tính của quẻ Càn:

Nguyên, trinh, hạnh, lợi, duới là ngũ hành: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

- Hàng duới cùng đề: bức tranh bùa chùa Vĩnh Khánh, Yên Ninh, Thanh Lâm, Hải Duơng.

2. Trung tâm là chữ “Sắc lệnh” viết biến hình đuợc vẽ trên đầu bùa trấn.

Sắc lệnh có nghĩa là ra chỉ thị, mệnh lệnh nào đó, mà thầy phù thủy coi mình như nguời tiếp nhận một quyền năng siêu nhiên, lệnh dụ cho đám ma tà. Hai chữ này đuợc vẽ gắn bó với nhau, trên chữ Sắc lệnh biến hình hai con rắn chầu vào trung tâm, đầu nét chữ sắc bọc ngoài là chữ thiên (trời), nhật, nguyệt và lôi hỏa. Bốn góc bùa do bốn vị tuớng trấn giữ: Mã Uất Lâm trấn ở phương Đông, Đặng Cung Chấn trấn ở phương Bắc, Quách Nguyên Cảnh trấn ở phương Nam, Phuơng Trọng Cao trấn ở phương Tây.

3. Hình ảnh đức Phật Quan Âm Bồ Tát ngồi tọa thiền trên đỉnh núi, bên phải là Pháp Thông Thiền sư, bên trái là Hồ Tinh Tôn Giả. Hai bên đề hai câu thơ:

Bảo tòa thiền lâm thanh liễu diệp.
Kim đài thúy dẫn bạch liên hoa.

Tạm dịch: Liễu biếc rừng thiền tòa báu.

Sen trắng thấu khiết đai vàng.

4. Là hai hình ảnh của: Lý Bạch Bá Duơng và Mậu Thần Tính Chu, điểm xen kẽ là bài thơ:

Ngàn thánh cùng nhau trừ quỷ dữ.
Ngọc Hoàng sắc lệnh trấn duơng gian.
Bùa thiêng tới chốn, yêu ma giảm.
Muôn thần cùng họp khử tà gian.

5. Là hình Tử Vi trấn trạch cỡi trên lưng Hổ Phù, Hổ Phù đuợc tạo bởi tinh khí của các chòm sao trong Nhị thập bát tú. Từ miệng Hổ Phù nhả ra một luồng khí chứa hai chữ “Sát Quỷ” với ba nét đao mác mạnh mẽ mang ý nghĩa: Nét mác là trời đánh mày chết, nét \ là đất đánh mày chết, nét sổ I là tao đâm mày chết. Hai bên tả hữu là hình bùa Bạch xà, chính giữa là hình bát quái.

6. Là chữ “Trấn” có nghĩa là trấn áp, trấn yểm, nhằm ngăn cản một thế lực ma quái nào đó muốn xâm hại đời sống con nguời.

Tóm lại Bùa trấn trạch là một loại hình văn hóa dân gian phi vật thể, chứa đựng sự dung hợp nhiều yếu tố tôn giáo và tín nguỡng, cùng các học thuyết khác tiềm ẩn bên trong đạo bùa. Được bố cục tuơng đối hài hòa giữa hình và chữ, trong và ngoài, phụ và chính… Tạo nên nét đặc sắc về mặt nội dung và hình thức. Tuy nhiên bùa có linh thiêng hay không, đều tùy thuộc vào sự tín tâm và công năng gia trì của tín đồ.

Vũ Đằng

#291 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/09/2011 - 03:20

TÀU TITANIC BỊ BÙA CHÚ MÀ CHÌM

Tháng ba năm 1912 một công ty vận tải biển Anh quốc đầu tư đóng một con tàu khách to lớn nhất thế giới lúc bấy giờ, tàu Titanic. Tàu này có trọng tải 46.328 tấn, là tàu khách duy nhất trên thế giới bấy giờ có tải trọng vượt quá bốn vạn tấn. Tàu dài 159m, chổ rộng nhất 28m. Phần lái tàu nặng trăm tấn, tất cả có ba chân vịt, cái giữa nặng nhất hai mươi hai tấn. Trong tàu có lỗ buồng dự phòng nước, được tạo bởi những phòng kín. Những phòng đó có thể dùng máy chạy điện hoặc sức người để giãm đến mức thấp nhất độ nguy hiểm khi bị rò nước. Nói cách khác trong
mười sáu buồng đó, nếu ngập nước vài phòng thì con tàu vẫn vô sự.

Tàu Titanic vượt xa tiêu chuẩn quốc tế về mức độ sang trọng của vũ trường, quầy bar... Các thiết bị đều thuộc loại xa xỉ nhất. Trong khoang hành khách có những đèn chùm sang trọng, sàn phòng trải bằng thảm đó Apganistan dày, bằng len thật. Ngay cả trần phòng cũng khiến cho người ta không thể rời mắt vì những bức trang trí thanh thoát, nhã đạm. Khách có thể ngồi bất cứ chỗ nào, ngẩng đầu lên, thời gian rất lâu cũng vẫn thoải mái trong tư thế đó. Tàu Titanic đúng là một cung điện ngọc trên biển. Tàu chạy từ Anh sang New York, thời gian dự định là bảy ngày, trên tàu có tất cả 2208 hành khách lẫn thuyền viên. Tàu xuất phát từ Anh đã sang ngày thứ năm, tức 14/4 tàu vẫn hành trình với tốc độ cao, hai mươi ba hải lý một giờ. trên Đại Tây Dương, lúc 11h40' đêm, bỗng tàu bị va vào tảng băng trôi, phát ra một tiếng kêu ghê rợn, tiếp đó, toàn thân tàu lắc lư mạnh, nước trong xô chậu té ra sàn tàu.

Tiếng kính vỡ pha lẫn tiếng người kêu cứu thảm thiết, trên tàu bao trùm một nỗi kinh hoàng. Dọc hành lang, trên boong tàu, hành khách chen chúc nhau tìm đường tháo thân, trên tàu trở nên hỗn loạn. 0h15' đêm tàu phát tính hiệu SOS, đến 0h45', sau khi tín hiệu phát đi, xuồng cứu hộ được thả xuống. Hành khách phát điên tranh nhau xuồng cứu hộ. Nhưng mật ít mà ruồi lại nhiều, chỉ có hai mươi chiếc tàu cứu sinh, thế là đàn ông quyết định nhường cho phụ nữ và trẻ em, còn họ thì tự nguyện ở lại trên tàu. Thuyền trưởng smith cũng ở trên tàu cùng những người đàn ông khác. 2h20' con tàu tự xưng là tàu không chìm đã đem theo 1513 người chôn xuống đáy đại dương. Lúc tàu chìm, mặt biển cuộn thành dòng xoáy lớn, nhưng chỉ một lát sau thì biến mất như chưa từng xảy ra bất cứ việc gì.

Chỉ có 695 người được cứu sống, một con số chỉ chiếm 1/3 số người trên tàu. Trên thực tế, trước lúc tàu Titanic chìm, đã có nhiều tiên đoán vụ chìm tàu xảy ra. Lúc đó một nhà buôn nổi tiếng của Anh, ngài John, vì một thương vụ phải đi Mỹ, khó khăn lắm mới tìm mua được một vé tàu Titanic, đó là việc của ngày 23-3-1912. Khi đó chuyến khởi hành đầu tiên của tàu Titanic đã làm xao động trong xã hội, kiếm được một vé tàu thật không dễ chút nào. Nhưng trước khi khởi hành mười ngày, John đã hai đêm liền gặp cùng một cơn ác mộng. Ông mơ thấy tàu Titanic bị chìm xuống biển. Rất nhiều trẻ em và người lớn bị vứt ra biển. Ông bị giấc mơ ám ảnh riết, cảm thấy không yên tâm cuối cùng đã hủy bỏ chuyến đi.

Mục sư Morgan ở thành phố Viniper Canađa cũng mơ thấy ác mộng, một tàu lớn đang chìm xuống biển. Chiều hôm xảy ra tai nạn, mục sư Morgan đã suy nghĩ rất nhiều về nội dung buổi chiều tối, lúc quá mệt đã ngủ thiếp đi. Ông mơ thấy một cảnh tượng đáng sợ, một chiếc tàu khổng lồ đang đi trên biển bỗng nhiên trời tối sập, sương mù dày đặc, trong sương mù chiếc tàu va vào núi băng. Trên boong tàu đầy những người gào thét kêu cứu. Cuối cùng chiếc tàu khổng lồ đó ngả nghiêng rồi chìm xuống biển. Sau khi tàu Titanic chìm toàn thế giới xôn xao, đã đủ các lời tiên đoán được đưa ra. Trong đó nổi tiếng nhất là lời nguyền của xác ướp Ai Cập.

Vào trước sau năm 1900, các nhà khảo cổ khai quật một mộ cổ Ai Cập, phát hiện thấy một quan tài đá. Trên quan tài có khắc lời nguyền như sau: "Tất cả những người đụng phải quan tài này sẽ gặp nạn" Nhưng những nhà khảo cổ nhiệt tình không để ý đến những lời nguyền đó, vẫn cứ mở nắp quan tài. Trong áo quan có xác ướp cổ ngàn năm tuổi vẫn nằm đó. Lúc bấy giờ xác ướp và quan tài đều được chuyển sang Anh quốc được đưa vào viện bảo tàng cho dân chúng xem. Nhưng chẳng bao lâu thì nhà khảo cổ này chết một cách không rõ ràng. Về sau các nhà khảo cổ từng tham gia vụ đó đều lần lượt chết một cách mờ ám. Thế là bảo tàng quyết định dời quan tài và xác ướp đến chỗ dân chúng không nhìn thấy, để tránh những người tham quan tò mò muốn xem.

Sau mười năm, một nhà kinh doanh giàu có người Mỹ đã đề nghị viện bảo tàng bán cho ông cả quan tài đá và xác ướp. Ông đã được toại nguyện. Khi vận chuyển chúng về Mỹ thì vừa may gặp tàu Titanic chạy chuyến đầu tiên. thế là ông đưa xác ướp và quan tài đá lên tàu sau khi chạy vạy mua được tấm vé. Nhưng lúc đó không ai chú ý tới, cuối cùng lời nguyền khắc trên quan tài đá, tất cả những người gặp phải quan tài đá đều gặp nạn, không ai ngờ nạn đó là bị nước biển nhấn chìm.


nguyenhuynhduc

#292 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/09/2011 - 03:22

CẢ THẾ GIỚI ĐEO BÙA

Một điều hết sức lạ lùng là Đông cũng như Tây, cổ cũng như kim, văn minh hay mông muội, da vàng hay da trắng, da đỏ hoặc da đen, đàn ông hoặc đàn bà…dân tộc nào trên thế giới cũng đều có…bùa. Tôn thờ ở một đấng Thần linh, mà dường như sự phát triển của khoa học và sự nghiêm khắc của giáo dục vẫn không thể nào hạ gục được, người ta cho rằng nếu trong người có một vật gì để làm tin thì sẽ được Thần linh phù hộ. Vật làm tin ấy gọi là Bùa. Nhân loại làm bùa, không phải từ thời Trung cổ mà từ thời tiền sử, sống trong hang đá. Bởi vậy bùa...nhiều vô kể.

Chất liệu làm bùa phong phú vô cùng. Lúc đầu là những vỏ sò, vỏ hến có hình dạng đặc biệt, rồi bằng đất sét nung, bằng giấy, bằng vải, bằng kim loại, bằng đá quý kể cả kim cương, bằng răng báo, vuốt hổ, ngà voi.. Hình dạng khác nhau, màu sắc khác nhau tuỳ thuộc vào tôn giáo hoặc nền văn hoá. Bùa các nước Trung Đông xưa có khắc những câu thần chú khó hiểu, như acabradacabra chẳng hạn.. Hoặc những câu trích từ thánh kinh, các hình vẽ kỳ quặc có tính chất biểu tượng, ví dụ con bọ hung tượng trưng cho sự tái sinh, con ếch tượng trưng cho lắm con nhiều cháu, chiếc móng ngựa tượng trưng sự may mắn.

Ở châu Phi bùa còn là những chiếc túi nhỏ bằng thổ cẩm, hoa văn đẹp trong đó đựng các cây thuốc, các lá thiêng. Thật thú vị trường Đại học Freiburg Đức, có một bảo tàng bùa nho nhỏ, dành riêng cho một chuyên đề hẹp, trưng bày hàng nghìn lá bùa Ai Cập, mà cổ nhất là những bùa bằng đất nung làm từ thế kỷ mười hai trước Công nguyên. Nhiều loại tìm thấy khi khai quật các Kim tự tháp. Quyền lục của bùa là đại diện của Thần linh, bùa được gán cho biết bao nhiêu là tác dụng. Nó bảo vệ con người, tránh đủ mọi thứ rủi ro bất hạnh: tai nạn, bệnh tật, sự quấy nhiễu của ma quỷ và đôi khi còn có tác dụng chữa bệnh nữa.

Phổ biến nhất là xua đuổi tà ma. Trước đây nhà có tang, nhất thiết phải mời các thầy phù thuỷ cao tay về, vẽ những lá bùa phù phép vào, rồi đưa gia chủ treo trên khung cửa để “trấn”, không cho lũ ma vô hình có lối vào nhà. Trẻ con được một lá bùa thầy cấp, đeo trên khuyết áo là yên tâm, không sợ bị ma quỷ nhập làm lẩn thẩn ốm đau. Đi trận tiền có bùa hộ mệnh trên mình thì “đạn tránh người chứ người không cần tránh đạn”. Có lẽ hiện nay trong hoàn cảnh các lái xe lái bừa lái ẩu, đường chật người đông, có rất nhiều vị ngồi trên ô tô thủ sẵn một lá bùa kiểu này trong ví.

Không chỉ ta thôi đâu nhé báo chí đăng: Vận động viên nổi tiếng người Đức Michael Schumacher, nhà vô địch đua ô tô Công thức một của thế giới, cương quyết đeo bùa khi thi đấu, bất chấp lệnh cấm của Liên đoàn đua xe ô tô thế giới FIA. Anh tâm sự: Đó là chiếc bùa mà anh được vợ là Corinna trao cho, sau khi bị gãy chân trên đường đua Silvestone vào năm 1999. Kể từ đó anh liên tục đoạt chức vô địch. Chẳng phải là bùa mang cho anh may mắn đó sao? Đến một số chùa cúng tiền vào hòm công đức, bạn sẽ được các vị sư trụ trì tặng lại một lá bùa bằng hai ngón tay, ép plastic cẩn thận để bạn đặt trên túi áo ngực.

Họ bảo bạn sẽ luôn luôn có quý nhân phù trợ. Sang Lào và Thái vãn cảnh chùa, bạn sẽ được hoà thượng đeo vào cổ tay một sợi dây, rảy nước và dặn cứ để vậy mãi. Bùa đấy. Song bùa không chỉ bảo vệ con người, mà còn bảo vệ tài sản và những con vật nuôi trong nhà. Người ta tin rằng dán bùa nơi chuồng gà vịt, chuồng trâu bò, chúng sẽ không bị bệnh. Dán bùa trước cửa nhà (dân A-rập không dán mà chôn) chúng sẽ được bảo vệ khỏi cháy và ngập lụt. Bùa chống được Thần Dịch, Thần Lửa, Thần Nước, người ta tin thế. Tuy nhiên ở đâu cũng vậy, bùa chỉ thiêng sau khi được phù phép, tức là được Thần linh thừa nhận. Nếu không, nó chỉ là một vật vô tri không có ý nghĩa gì. Đó là chưa kể có loại bùa còn phải luyện theo một quy trình công nghệ bí truyền nào đó.



ST

#293 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/09/2011 - 03:24

LINH CẢM KHẢ NĂNG ĐẶC BIỆT

Một câu chuyện có thật kể rằng Alech là một nhân viên thuộc một trong những trường Đại học tổng hợp bang Ogeron Mỹ. Một hôm anh ta ngồi ở nhà lau chùi thật kỹ khẩu súng ngắn với băng đạn chứa được sáu viên. Khẩu súng của anh ta hoạt động như sau. Mỗi lần ấn cò súng một viên đạn được bắn đi, còn băng đạn sẽ tự quay và dịch chuyển viên tiếp theo lên nòng súng để sẵn sàng nhả đạn. Để cẩn thận và an toàn, Alech bao giờ cũng chỉ lắp năm viên đạn vào hộp đạn, và để kim hỏa hướng vào ô trống thứ sáu trong hộp đạn.

Vào ngày hôm đó khi lau súng, anh ta rút hết năm viên đạn để lên bàn. Sau khi lau súng xong, Alech lắp đạn trở lại vào hộp đạn như thường lệ. Nhưng khi đến viên thứ năm, anh ta bỗng cảm thấy một nỗi lo lắng bất chợt ập đến, và Alech linh cảm thấy một hiểm nguy nào đó liên quan đến viên đạn thứ năm này. Alech liền để lại viên đạn thứ năm đó lên bàn và không lắp nó vào hộp đạn. Còn kim hỏa vẫn hướng vào ô trống số sáu trong hộp đạn. Và lần này trong hộp đạn có hai ô trống: ô thứ sáu và ô thứ năm bên cạnh. Hai tuần sau đó gia đình Alech có một cuộc vui lớn với đông đủ quan khách, trong số đó có hôn thê chưa cưới của Alech. Cuộc vui đang tiến triển thì bỗng nhiên có hai vị khách nốc quá nhiều rượu rồi tranh cãi nhau kịch liệt.

Một trong hai người vớ lấy khẩu súng của chủ nhà treo trên tường và chĩa về phía đối thủ, nhưng ngay lúc đó vị hôn thê của Alech bỗng nhiên đi lại chắn ngang đường ngắm. Alech nhảy chồm tới dùng thân mình che chắn cho cô. Một phát bóp cò vang lên khô gọn nhưng không có đạn. Một cú bóp cò thứ hai tiếp theo, nhưng kim hỏa cũng chỉ nhằm vào ô trống mà hai tuần trước đó Alech đã không lắp đạn như thường lệ. Thế là mọi người kịp giằng lấy khẩu súng và Alech thoát nạn. Những trường hợp linh cảm thấy mối nguy hiểm như vậy cách xa nhau về thời gian không phải là hiếm, và từ lâu đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Có nhiều cách giải thích hiện tượng này, nhưng xem ra có ba cách có cơ sở nhất.

Khi mối nguy hiểm được cảm thấy vài phút hoặc vài giây, có các tác nhân kích thích trong hệ thống nhận thức của con người liền phát tín hiệu báo động. Chúng ta không nhận thấy điều đó, nhưng bộ não ghi nhận được và khiến chúng ta né tránh không có ý thức. Phương án thứ hai: Những linh cảm tương tự xuất hiện trong chúng ta không hiếm, nhưng chúng ta chỉ nhận thấy khi sự việc đã bỗng nhiên nhớ lại những tín hiệu đã từng báo động cho mình nhưng không để ý. Tuy nhiên, nhà tâm lý học Raydin ở Anh cho rằng con người chúng ta thực sự có giác quan thứ sáu, nhiều khi cứu chúng ta thoát nạn. Ông đã tiến hành một loạt thí nghiệm chứng tỏ linh cảm là có thật.

Những người thí nghiệm được ngồi trước một màn hình trên đó chương trình máy tính điều khiển để thể hiện ngẫu nhiên các bức ảnh khác nhau. Một số bức có tính vô hại như cảnh vật tĩnh lặng, một số bức khác có tính rùng rợn gây cảm giác sợ hãi như cảnh các con rắn độc hoặc bò cạp độc. Các bức ảnh hiện ra trong vòng ba giây. Khoảng lặng giữa các bức ảnh là tám giây. Trong quá trình thí nghiệm, các chuyên gia đo điện trở của da và áp lực của dòng máu. Thí nghiệm được tiến hành trong một căn buồng cách ly, không có mặt các chuyên gia ở đó. Kết quả thí nghiệm ban đầu thoạt nhìn thì không có gì đáng ngạc nhiên.

Khi các bức ảnh rùng rợn xuất hiện thì các đường cong phản ánh trạng thái sinh lý của cơ thể có đột biến. Còn khi xem các bức ảnh tĩnh lặng thì các đường cong cũng điều hòa. Nhưng nếu xem kỹ một chút thì thấy ngay một hiện tượng rất thú vị. Ngay trước khi xuất hiện các bức ảnh rùng rợn khoảng hai giây, các chỉ số trạng thái tâm lý bỗng tăng vọt. Nghĩa là cơ thể con người đã phản xạ từ trước đối với các sự kiện. Thí dụ, điện trở của da tăng vọt, chứng tỏ cơ thể đã phản xạ sinh lý sớm trước hai giây so với thời điểm xuất hiện các bức ảnh có nội dung gây cảm xúc sợ hãi.

Theo nhận xét của Tiến sĩ Raydin, kết quả thí nghiệm chứng tỏ con người chúng ta đã cảm nhận được từ trước đối với các biến cố và mách bảo chúng ta ở mức độ tâm lý, xúc cảm, là một chuyên gia ngoại cảm đã từng tiến hành các thi nghiệm tương tự từ năm 1993. Hồi đó ông đã nghiên cứu hiện tượng con người, cảm thấy ai đó đang ngắm nhìn mình từ phía sau. Trong hai căn phòng cách nhau tám thước và được nối với nhau bằng một hệ thống vô tuyến truyền hình, người ta bố trí người được thí nghiệm và chuyên gia thí nghiệm. Thông qua Camera vô tuyến, chuyên gia thí nghiệm có thể trông thấy người được thí nghiệm ở phòng bên kia, nhưng người đó không hề biết là đang có ai đó đang nhìn mình.

Thế mà vào các thời điểm người đó "bị ngắm" thì họ đều cảm thấy được "một cái gì đó" khác lạ. Nói chính xác hơn là anh ta không cảm thấy gì, nhưng điện trở của da anh ta bỗng nhiên thay đổi một khi chuyên gia thí nghiệm ngắm nhìn anh ta qua Camera vô tuyến. Các chuyên gia đi đến câu hỏi rất quan trọng: Nếu như hai người cách xa nhau trong không gian có thể cảm nhận được nhau qua "giác quan thứ sáu”. Vậy thì họ có thể cảm nhận được nhau qua khoảng cách thời gian được không? Liệu con người có thể cảm nhận được các tín hiệu từ tương lai của chính mình gửi đến, giống như Alech cảm nhận được mối nguy hiểm đang đe dọa tính mạng anh sau đó hai tuần? Chính từ ý nghĩ đó mà Raydin đã tổ chức thí nghiệm với các bức ảnh. Các thí nghiệm tương tự cũng được các nhà khoa học ở Hà Lan và Đức tiến hành thành công với kết quả tương tự. Bản thân Raydin chưa hoàn toàn khẳng định chắc chắn có linh cảm đối với các nguy cơ đe dọa con người trong tương lai.

Theo ông các kết quả này cần được tiến hành lặp lại trên toàn thế giới, trong hàng trăm phòng thí nghiệm. Lúc đó mới có thể đưa ra kết luận cuối cùng. Các thí nghiệm ngoại cảm đầu tiên được tiến hành cách đây gần một trăm năm chục năm. Trong suốt thời gian đó đã có nhiều thí nghiệm chứng tỏ có ngoại cảm và khả năng thấu thị. Nếu các thí nghiệm tiếp tục được tiến hành thành công thì các kết luận có thể làm rung chuyển nền tảng của triết học và khoa học hiện đại, và cũng rất có ích lợi trong cuộc sống hàng ngày. Từ trước tới nay ta vẫn quan niệm tương lai không thể tác động vào quá khứ, quy luật nhân quả không thể tác động ngược trở lại. Nhưng nếu như không phải như thế, thì chúng ta buộc phải xem xét lại tất cả các tiền đề của khoa học.


ST

#294 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/09/2011 - 03:27

SATAN NHẬP XÁC BÉ GÁI ĐỐT CHẾT LINH MỤC TRONG KHI LÀM PHÉP TRỪ TÀ

Tiếng Nổ Long Trời Lở Đất... Cùng Một Lúc Với Tiếng Rú Kinh Hồn... Cái Chết Của Vị Linh Mục Luis Ponce Chẳng Những Làm Xôn Xao Dư Luận Thế Giới Mà Còn Khiến Cho Cả Tòa Thánh Vatican Vô Cùng Sửng Sốt!

- Chúng tôi nghĩ rằng nhất định có một cuộc chiến khốc liệt giữa Linh Mục Luis Ponce với con quỉ Satan ấy và phần thắng chắc chắn sẽ về Linh Mục một cách dễ dàng...

Đó là lời tuyên bố của một viên chức có thẩm quyền tại Tòa Thánh Vatican yêu cầu được giấu tên trước các hãng thông tấn quốc tế. Viên chức này còn nói tiếp:

- Chúng tôi cũng chẳng hiểu việc gì đã xảy đến cho vị Linh Mục đầy tài ba và phép tắc cao cường ấy? Chỉ có Chúa mới biết mà thôi.

Đó là câu chuyện ma quái mà nạn nhân là một cô bé mới lên chín tuổi đã bị quỉ Satan nhập xác. Cha mẹ của cô bé này liền đến nhờ cha Ponce làm phép giải trừ ma quỉ ra khỏi thân xác của đứa con mình. Cha mẹ của bé gái này quê ở Bercelona thuộc Tây Ban Nha, theo nguồn tin loan báo như vậy. Cũng theo viên chức của Tòa Thánh Vatican, đứa bé được xác nhận là bình thường và sức khỏe của nó vẫn tốt đẹp... Nhưng bỗng dưng ngày 21-3 vừa rồi, thì có sự khác thường xảy đến cho nó. Đôi mắt nó đỏ rực lên như hai cục than hồng, mũi nhíu lại và hếch lên. Miệng há hốc ra để lộ hai hàm răng trắng chạch trông như có vẻ nhọn như răng của chó sói.. Thế rồi sau đó bất thần cô bé này rú lên một tiếng dài nghe đến kinh hồn, và nó bỏ chạy ngay vào nhà bếp lấy con dao nhọn bén lẹm, đến ngay phòng cha mẹ nó đang có mặt tại đây và nhảy sổ lại tấn công...

Người cha hốt hoảng vùng dậy ôm ghì chặt nó và lấy được con dao từ tay nó. Sau đó cha nó nhảy bổ đến định ôm chặt con vì sợ nó phá phách hay xâm phạm đến mẹ nó đang ngồi cạnh đó. Nhưng vô ích, con bé chỉ xô nhẹ ra cũng đủ làm cho ông ngã lăn ngay dưới nền nhà. Có điều làm cho vợ chồng ông sửng sốt là con bé mới chín tuổi đầu, này khi lên cơn nó một sức mạnh phi thường. Con bé có thể có thể lật đổ nhào một cái tủ cao được đóng bằng loại gỗ quí, cũng như có thể xê dịch một cách dễ dàng chiếc giường ngủ bằng gỗ quí như chú mèo con nhỏ kéo tờ giấy lê dưới mặt nền nhà. Một hiện tượng khác nữa mặt mày con bé mỗi lần lên cơn trông như thể thâm tím lại, mặc dù chẳng có ai động đến.

Các sự kiện xảy ra đều được cha mẹ con bé thuật lại rõ ràng cho cha Ponce nghe, khi đến nhờ vị Linh Mục này làm phép giải tà cho nó. Cha Ponce liền chọn ba vị linh mục phụ tá cho mình, cùng đến giúp cho gia đình nạn nhân. Đó là này 26 tháng 3 lúc 10 giờ sáng. Khi đứa bé gái nhìn thấy Linh Mục Ponce, bất thần nó nhảy đựng lên đoạn hú lên một tiếng dài, lảo đảo tiến sát đến chiếc bàn lớn, rồi dùng hai tay bé nhỏ của nó nâng cao lên quay một vòng tròn một cách nhẹ nhàng, đoạn phóng đến ngay vào người vị Linh Mục này. Linh Mục Ponce vội nhảy sang nơi khác né tránh kịp thời, thì cũng ngay khi đó con bé bị quỉ ám này lại nhấc bổng cái tủ kiếng khá lớn đang chưng bày ở ngay phòng ăn tung về phía Linh Mục Ponce đang đứng tránh.

Cha Ponce lại thêm một lần hốt hoảng, tuy nhiên vị Linh Mục này cũng được bình an vô sự. Vị Linh Mục này vô cùng ngạc nhiên trước sức mạnh phi thường của con bé mới chín tuổi đầu mỗi lúc mỗi tăng lên... Nó lại lao đến chiếc tủ lạnh to lớn bưng lên một cách dễ dàng, khiến mọi người bỏ chạy tán loạn ra bên ngoài, ngoại trừ cha Ponce đang đứng dùng mắt nhìn chòng chọc nó. Biết gặp một địch thủ có sức mạnh phi thường, Linh Mục Ponce đã vội lấy ngay nước thánh (Holy Water) đọc kinh và rảy vào người đứa bé. Vừa rảy nước thánh xong con bé bỗng rú lên rồi lảo đảo ngã xuống. Mọi người đều chạy đến vây lại ôm vực lên giường để tiếp tục làm phép trục xuất quỉ Satan ra khỏi người nó.

Nhưng lạ lùng thay mọi người đang đứng vây quanh đó, bỗng cảm thấy có mùi khét từ thân thể con bé thoát ra y hệt như mùi cháy của da thịt, càng lúc càng nồng nặc khiến mọi ngưởi phải lợm giọng đến nôn nữa. Vẫn theo lời của một viên chức ở tòa thánh tiết lộ: Khi con bé bị nước thánh rảy vào vào thân thể nó, ngoài mùi khét xông lên, mặt mũi nó trở nên méo mó, miệng há hốc nhe ra hai hàm răng tua tủa. (Đây là một diễn biến kỳ quái, khó tin nhưng lại là sự thật). Những người đứng chúng quanh lúc bấy giờ chứng kiến cảnh tượng kỳ quái đó đều xác nhận là chính họ nghe cha Ponce thét lên:

- Hỡi quỉ Satan! mày phải ra ngay khỏi xác thân đứa bé... mày không được chần chờ dù chỉ trong giây phút... Hỡi quỉ Satan hãy nghe phán lệnh này... Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

Lạ thay! mọi người sửng sốt thấy có một luồng khói đen ngòm cuồn cuộn thoát ra từ cửa miệng con bé. Đồng thời máu từ hai khóe mắt ròng ròng chảy ra, hai tay nó đưa lên ngực miệng há hốc ra... mắt trừng trừng nhìn về hướng cha Ponce đang đứng. Một điều khác khiến cho tất cả những người đang chứng kiến này phải đứng tựa người vào nhau vì... luồng khói đen vừa thoát ra đó lại quay ngược trở lại chui cả lại vào miệng nó. Đôi mắt nó lại càng hực lên như hai cục than hồng. Mặt nó bầm đen hơn trước. Cuối cùng nó thốt ra những lời nguyền rũa toàn những câu tục tỉu... Con bé lại vùng ngồi dậy và cười lên the thé! Giọng cười của nó biến dần thành tiếng khóc lên the thé. Quả là giọng của ma hờn quỉ khốc. Hai hàm răng nó nghiến nhau nghe kêu lên kìn kịt nghe đến lạnh người. Cha Ponce đưa cây Thánh Giá lên cao ngay trước mặt con bé, Ngài đọc kinh và hét lên như ra lệnh:

- Satan, ra ngay khỏi xác đứa bé này!

Trong lúc đó con bé cũng đưa tay ra về phía trước, những người đang chứng kiến nhận thấy ngay là cha Ponce và con quỉ Satan đang mượn xác bé gái này, cả hai đều đang tận dụng cả nội lực mình để chiến đấu quyết một mất một còn. Mồ hôi chảy ra nhễ nhại trên mặt mày của Linh Mục Ponce... và con bé bị quỉ ám kia cũng chẳng khác gì, toàn thân nó bị ướt đẩm cả mồ hôi. Cuộc đấu sức này kéo dài hơn một tiếng đồng hồ, con bé bị quỉ ám vẫn không hề suy suyển. Ba vị phụ tá cùng cha Ponce dốc toàn sức lực để cố triệt hạ quỉ Satan đang nhập trong người con bé, song nó vẫn không hề nao núng! Bất thình lình nó nhảy thót lên đánh đu trên chiếc đèn cánh quạt quát tháo lên ầm ĩ:

- Hãy xem đây bọn vô dụng kia...

Tức thì sau đó một tiếng nổ kinh hồn làm rung chuyển cả căn phòng mọi người đang đứng. Hai quả bóng lửa từ lòng bàn tay nó phóng ra trúng ngay vào ngực cha Ponce! Ngọn lửa phụt lên biến toàn thể châu thân vị Linh Mục này trở thành cây đuốc sống! Có lẽ cha Ponce biết mình không thể nào còn sống được nên Ngài lao thẳng đến đứa bé ôm choàng lấy nó, quát lên như ra lệnh:

- Hỡi quỉ Satan! Mày phải ra ngay thân xác của đứa bé thơ vô tội...

- Được!

Tiếng của đứa bé đáp lại:

- Tao sẽ cùng mày đi, và tao sẽ cùng mày tiếp tục quần thảo cho đến khi nào... trong hai ta ai sẽ là người chiến thắng mới thôi!

Dứt lời con bé ngã ngay xuống. Hồn của quỉ Satan thoát khỏi người nó... Con bé tỉnh dậy trong an lành, song cha Ponce thì không còn nữa... Người đã ra đi vào miền vĩnh cửu... Một buổi lễ cầu hồn được tổ chức tại ngôi nhà thờ Bercelona thuộc Tây Ban Nha để tiễn đưa linh hồn Linh Mục Luis Ponce về Thiên Đàng hưởng phước đời đời bên dung nhan Chúa Cả...


Trần Liêm Khảo

#295 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/09/2011 - 03:35

CON NGƯỜI CÓ TIỀN KIẾP

Danh tướng Mỹ patton người hùng của thế chiến thứ hai "đã có mặt" trên chiến địa La Mã cách đây 1900 năm! Đạo Phật cho rằng người ta có kiếp luân hồi. Khi con người chết đi sẽ lại đầu thai lên dương thế sống kiếp khác. Trước nay, ở địa hạt khoa học không nhìn nhận như vậy. Các khoa học gia chỉ coi đó là một giả thuyết của siêu hình học. Bây giờ, mối "hoài nghi" đó đang là mục tiêu thực sự ám ảnh nhiều bộ óc bác học. Từ không tin hoàn toàn nay đột nhiên được chuyển sang việc bắt tay nghiên cứu sâu rộng. Tại các quốc gia Hoa Kỳ, Anh quốc và Pháp quốc đã có nhiều viện thí nghiệm được thiết lập, quy tụ nhiều nhà khoa học tên tuổi để theo đuổi công trình khám phá đến nơi đến chốn.

Ở nước Anh, người được biết đến tên nhiều nhất là nhà phân tâm học Dennis Kelsey và bà John Grant cùng giáo sư bác sĩ Loe Scranton chuyên về thần kinh học. Trên đất Mỹ thì với các bác sĩ Morris Netherton, Edith Fiore, Ernie Pecci. Bác sĩ Ernie Pecci ở California thành lập một viện nghiên cứu về "Những kiếp trước nối tiếp những kiếp sau" đã đưa nhiều luận giải có hệ thống khoa học tinh vi. Hoặc như giáo sư Gregory Paxson ở Chicago, một nhà kế hoạch hóa phân tâm học đã mật thiết cộng tác với nhóm khoa học đồng nghiệp của ông trong liền nhiều năm trời, vùi đầu vào các công trình giải thích về sự kiện gọi là "những trạng thái biến hóa của tâm thức". Có nghĩa là, đi sâu vào tiềm thức con người hiện sống giờ đây để gợi cho họ nhớ lại quá khứ xa xưa về tiền kiếp của họ.

Người được đặt vào công cuộc thí nghiệm cứ phải ở trong tư thế nằm hay ngồi thoải mái, thanh thản, và trong một khung cảnh hết sức yên tĩnh. Tuyệt đối tránh ngoại cảnh chi phối. Họ thản nhiên như chuẩn bị đi vào một giấc ngủ êm đềm. Có thể nói, họ cứ như em bé nằm trong nôi, và nhà khoa học thì như bà vú ru em ngủ. Cả hai đều áp tai vào một máy nghe và trước ngực đeo một máy truyền âm, trao đổi câu chuyện với nhau. Khi hồn được buông thả về dĩ vãng, lời đối thoại cùng những lời tự động nói lên những bí ẩn tiền kiếp của đương sự đều được ghi âm. Vấn đề chứng minh "con người có tiền kiếp" khởi thủy được giới khoa học thực hiện vào năm 1960, bởi các nhà thần kinh học Abraham Maslow, Stanislas Grof, Roberto Assagioli và Charles Tart. Họ được thế giới y khoa, khoa học dành tất cả sự nể trọng.

Hơn 30 năm sau, từng lớp chuyên gia kể trên được kế tục, tiếp tay bởi rất nhiều khoa học gia trên khắp hoàn vũ cùng những phát minh máy móc tinh vi, khiến cho càng ngày càng chứng tỏ một cách hùng hồn về những luận giải có nguồn có gốc. Gần đây nhất, một nhà nghiên cứu có tiếng nói thẩm quyền về bộ môn này là nhà vật lý người Pháp Patrick Drouot. Ông vốn là nhà khoa học không gian, song ông từ bỏ vị trí chuyên môn của mình để dấn bước vào địa hạt tâm linh. Không những ông đã hướng dẫn hàng ngàn người đi tìm đời sống tiền thân của họ mà chính ngay ông, ông cũng lại tự đem mình trao vào tay giáo sư người Mỹ Gregory Paxson ở viện khảo cứu Chicago. Hãy xem nhà vật lý Patrick Drouot kể gì về trường hợp của ông:

- Buổi thí nghiệm đầu tiên đến với tôi hôm ấy dẫn tôi trở về cốt hình hài của một tu sĩ vào thế kỷ XI, tức là Anh quốc bị đạo quân của danh tướng "Guillaume Le Conquérant", nguyên công tước thành Normandie kéo sang xâm lược. Qua không biết bao tình tiết do hồn tôi thuật lại, thì không cứ chỉ liên quan đến giáo xứ nơi tôi tu hành mà còn gồm vô số các tình tiết tỉ mỉ về cách điều quân khiển tướng của "Guillaume nhà chinh phục" từ bên kia bờ biển Manche nước Pháp. Khi tôi hồi tỉnh lại, nghe bài tường thuật ghi âm của chính mình, tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Quả thật, tôi đã đọc như đọc một tài liệu lịch sử. Mà nào trước nay tôi có biết gì đâu! Tôi dành liền một tuần lễ vùi đầu vào thư viện, tìm đọc hầu hết các cuốn sách nói về Guillaume Le Conquérant. Thực là một điều không thể giải thích nổi, tất cả các điều tôi thuật ra trong buổi thí nghiệm (qua giấc mơ) đều hoàn toàn chính xác như lịch sử đã ghi chép.

Một câu hỏi được đặt ra trong tôi:

"Thế thì, phải chăng tôi đã đọc ở một tác phẩm nào đấy hay đã xem một bộ phim ảnh nói về vấn đề kia, tạo cho tôi có sẵn sự hiểu biết như vậy? Bằng không, những điều tôi thấy được đã do từ đâu mà có?" Một thời gian dài sau, tôi đi vào những thí nghiệm khác. Năm 1984 nhân một chuyến đi chớp nhoáng sang Chicago, giáo sư Gregory Paxson lại giúp tôi tìm về tiền thân khác nữa của tôi. Lần này trong cốt của một nữ tu sĩ từng sống 4 ngàn năm về trước. Tôi thuật lại bằng hết đời bà. Tên bà là Govenka, thuộc dân tộc cổ xưa Celte và bà đã sống như thế nào về thời đại ấy. Có điều lần này thật không biết dựa vào đâu để kiểm chứng! Tôi đi gặp nhà tâm linh học PierreWeil thì ông bảo thẳng tôi:

- Bạn không cần đào sâu thắc mắc. Những người biết về tiền kiếp của họ, trong nhiều trường hợp, không cần viện dẫn đến chứng tích. Vì có một sự thực rõ ràng hơn cả là, cá nhân họ biết chắc rằng tiền thân của họ quả là điều hiển nhiên có thực, không gì lay chuyển nổi.

Rồi giáo sư Pierre Weil dẫn chứng thêm:

- Như trường hợp của danh tướng Mỹ Patton. Ông là một chiến thuật gia lỗi lạc hàng đầu, và là người anh hùng trong cuộc hành quân đổ bộ vào đất địch. Thời gian trận đệ nhị thế chiến buớc vào giai đoạn kết thúc, những ngày tàn của nhà độc tài quốc xã Hitler đã được đếm trên đầu ngón tay, vì ở khắp mọi mặt trận, quân đội đồng minh phản công như vũ bão. Tướng Patton được mời đến thăm một di tích "trận địa chiến ngày xửa ngày xưa" trên đất Ý, giữa quân La Mã và quân Carthage, bên bờ sông Metaure. Tháp tùng tướng Patton là cảm bộ tham mưu cao cấp, trong đó có một sĩ quan đại tá vốn là nhà sử gia ngoài đời, được cử đứng thuyết trình về trận đánh khốc liệt nhất của thời cổ xưa.

Viên đại tá, chuyên viên lịch sử chiến tranh cổ kim, quả có một trí nhớ phi thường về tài liệu binh pháp. Ông tường thuật mạch lạc, thật tỉ mỉ về cuộc bày binh bố trận đôi bên:

- Này đây là địa hình địa vật thuộc đạo quân La Mã trú đóng. Và nơi kia là đàn voi dữ của tướng Hannibal. Gần đấy là đội kỵ mã Carthage thuộc quyền chỉ huy của Hasdrubal, người em ruột ông, vừa thần tốc kéo đến tăng cường cho đại quân của anh mình... Bỗng nhiên, toàn thể Bộ Tham Mưu có mặt thấy tướng Patton nhíu đôi chân mày lại, như có điều không bằng lòng chút nào cả về lời dẫn giải của viên đại tá sử gia. Nãy giờ ông bình tĩnh theo dõi cuộc thuyết trình bao nhiêu thì bây giờ ông bất bình bấy nhiêu. Trong khoảnh khắc, tướng Patton nóng nẩy cắt ngang:

- Không phải thế đâu! Đoàn kỵ mã Hasdrubal đâu có dàn ở nơi đó. Họ tập trung ở phía đằng kia kìa.

Vừa nói, ông vừa chỉ thẳng tay về hướng đối nghịch, cũng nằm trong trận địa.

Bằng một thái độ khiêm nhường và lễ độ, nhà sử gia chiến lược cố nhấn mạnh thêm một lần nữa về điều đã trình bày. Nó không phải đến từ một tài liệu mà là cả rừng tài liệu, và tất cả đều cùng ghi rõ vị trí trấn đóng của đoàn kỵ binh Carthage.

Thế nhưng lần này tướng Patton giận dữ gằn giọng:

- Tôi bất chấp các tài liệu ông đưa ra. Tôi chỉ muốn nói để các ông biết rằng kỵ binh không ở chỗ này đâu. Họ dàn trận ở tận phía kia. Tôi đoan chắc như thế. Tôi quả quyết như thế. Vì chính tôi, tôi đã có mặt tại chỗ lúc bấy giờ!

Toàn bộ sĩ quan tham mưu cao cấp sững sờ, kinh ngạc. Vì lời tướng Patton vừa thốt ra không có vẻ gì là nói theo ý thích cá nhân ông! Cho mãi về sau này khi tiếng súng đại chiến ngừng bặt, người ta mới được nghe tướng Patton tiết lộ trong cuốn hồi ký về cuộc đời binh nghiệp của ông. Thì ra ông đã có lúc sống lại với tiến kiếp của mình. Một tiền thân cách nay 19 thế kỷ! Câu chuyện về tướng Patton vừa được kể, đã được nhà phân tâm học Aldous Huxley dùng làm tài liệu chính yếu đem thuyết trình trước đại hội quốc tế kỳ thứ 14 của các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về thần kinh học. Nhà vật lý Patrick Drouot đã giã từ địa hạt khoa học để bước hẳn vào bộ môn tâm linh. Ông đã dùng phương pháp "đưa hồn về quá khứ" để chữa bệnh cho hàng ngàn con bệnh tìm đến với ông. Đúng ra căn bệnh của họ thuộc về cơ thể nhưng các bác sĩ y khoa đã không tìm ra được nguyên nhân để chữa trị. Trong tủ hồ sơ bệnh lý của giáo sư Patrick Druot số bệnh nhân có ngoài 1500 người. Giáo sư đưa ra một vài trường hợp dẫn chứng:

- Có một phụ nữ trẻ than phiền rằng suốt nhiều năm nay bà ăn uống thật khó khăn, luôn bị nghẹn, và nhất là mỗi lần đụng tới bánh trái có chất phó mát hay sữa tươi.

Giáo sư Druot đề nghị với bà ta thực hiện một buổi thí nghiệm dẫn hồn về dĩ vãng. Tiền kiếp của bà là "một em bé trai" bị tai nạn chết trên núi sau lúc em vừa ăn ních bụng món phó mát và uống nhiều sữa! Lại như trường hợp của nhà doanh nghiệp Georges, người Pháp ở tuổi 45, đứng điều khiển một công ty thương mại lớn. Một hôm ông tâm sự với giáo sư Druot là ông ăn uống không hề biết ngon miệng, nếu không muốn nói rằng từ thuở nhỏ đến giờ ông ăn rất ít đôi khi không cần ăn. Và mỗi lần ăn chút gì qua quít xong, ông đều cảm thấy buồn nôn. Sau một buổi "thực nghiệm", ông Georges sống thật với hồn mình, thổ lộ:

- Thuở xưa kia vào thế kỷ 18, tiền kiếp là một tay cướp biển. Một hôm chiếc thuyền buồm của bọn hải tặc lênh đênh trên biển Sargasses như cứ đứng dừng một chỗ vì gió ngừng bặt. Nhiều đêm ngày trôi qua lặng lẽ lương thực cạn dần. Bọn cướp phải hạn chế tối đa khẩu phần thực phẩm. Kho lương thực được khóa kỹ lưỡng và tên tướng cướp trao cho Georges nhiệm vụ canh giữ. Có một buổi cơn đói nổi lên chịu đựng không nổi, anh ta lẻn vào kho ăn một bụng căng phình. Tên tướng cướp bắt gặp giận dữ, đem ra xử, tuyên án ném Georges xuống biển làm mồi cho bầy cá mập lượn quanh thuyền.

Sau cuộc tìm lại hồn của tiền thân, ông Georges khỏi hẳn căn bệnh quái ác kia từng đeo đẳng ông vài chục năm liền. Ông bắt đầu "biết ăn", thèm ăn luôn miệng... Giáo sư Druot kể tiếp mẩu chuyện về một kỹ sư tên tuổi hiện giờ ở Paris đang làm việc cho một hãng kỹ nghệ nổi tiếng, và tạm dấu tên ông ta. Chỉ biết đây là một mẫu người trí thức, xuất thân từ các đại học Pháp lẫn Hoa Kỳ. Ông được coi là có khả năng xuất sắc, kiến thức rộng. Nhưng thường có một thời gian dài, ông luôn tìm cách tránh né những chức vụ quan trọng được trao phó. Và mỗi lần như vậy viên kỹ sư ấy cảm thấy khổ tâm, cứ như một kẻ phạm tội mồ hôi đổ ra như tắm thất thần...

Một duyên may đã đưa đến cho ông gặp giáo sư Druot. Sau ba lần liên tiếp, nhà vật lý tâm linh Druot đã giúp viên kỹ sư tìm về kiếp trước. Thì ra hơn hai trăm năm trước, ông ra đời ở Anh quốc làm giám đốc một cơ xưởng. Một hôm nhà máy bị bốc cháy, thần lửa lan tràn mau chóng, ông ta hoảng hốt, mất hẳn sự bình tĩnh cần thiết để ra lệnh kịp thời di tản người và tải sản. Để đến nỗi, chính bản thân ông ta không thoát ra khỏi biển lửa phải bỏ mạng. Từ lúc nguyên nhân kiếp trước được truy ra gốc, viên kỹ sư cảm thấy mình khỏi bệnh, giải tỏa được cái mặc cảm dày vò ông nhiều năm qua... Thế gian này có tùy thuộc vào bàn tay Thượng Đế hay không, là cả một vấn đề đang làm bận tâm các nhà khoa học tây phương. Trong thành phần này, một số người không tin vào quyền năng tạo hóa nhưng đa số lắc đầu bó tay nhìn nhận đã có một đấng toàn năng ngự trị vô hình trên mặt địa cầu.

Giới người "chưa tin" bắt đầu từ những nhà bác học khởi thủy như Nicholas Copernic, Galileé, Laplace hay như nhà dị giáo người Ý Giordano Bruno, kế đến là Newton, Einstein... Trong bọn họ nhà tu sĩ khoa học Giordano Bruno được coi như không đến nỗi quá khích, từng có lúc hồi tâm giaỉ thích hiện tượng vũ trụ rằng, trong khoảng bao la vô cùng tận đã có hằng hà sa số những hành tinh quy tụ nhiều sinh vật "sống" tuy không cùng một hình thể "người" như con người chúng ta trên mặt đất song tất cả đều...tôn thờ Thượng Đế. Ở vào thế kỷ 16 quan niệm "tiến bộ" ấy, đủ để Giáo hội không mấy vừa ý, và kết án là... tà giáo, đưa Giordano Bruno lên giàn hỏa thiêu! Sinh sau đẻ muộn nhà bác học Laplace ngang ngược hơn nhưng nhờ chậm chân ra đời, ông vẫn sống. Lịch sử ghi chép lại rằng sau khi đọc tác phẩm "Bộ Máy Vũ Trụ", Hoàng đế Nã Phá Luân gợi ý hỏi tác giả Laplace sau không thấy nhắc đến bàn tay vạn năng của Thượng Đế.

Nhà bác học kiêu hãnh trả lời:

- Thần không quan tâm đến giả thuyết này!

Thái độ của Laplace ngày xưa nay đang được các giới khoa học tìm cách chứng minh sâu xa về nguyên thủy: Bắt đầu từ đâu sinh ra vũ trụ? Đa số bác học tây phương ở cuối thế kỷ 20 vừa qua đang tìm lời giải thích câu hỏi kỳ bí ấy. Vì như nhà bác học vật lý người Mỹ Weinberg đã vẫn thốt lên:

- Càng hiểu vũ trụ bao nhiêu chúng ta càng không biết gì về vũ trụ bấy nhiêu!

Và giả thiết vũ trụ nảy sinh từ một "trạng thái tình cờ" đã không còn lý do tồn tại, dù hiện có một số bác học từng khăng khăng cho là như vậy đấy. Có lúc người ta phải tạm mượn lời nhà đại văn hào Voltaire để hình dung ra thiên thể vũ trụ:

- Một chiếc đồng hồ cứ chạy mà không cần có người thợ đồng hồ.

Tuy nhiên khác Voltaire nhẹ phần "hữu thần", ở địa bàn khoa học, các nhà bác học lại không mấy dễ dàng hiểu theo thế đâu. vì tất cả đã nắm chắc bằng chứng và quy luật thực tế là:

- Chiếc đồng hồ máy đang chạy, tuy không thấy người thợ, song rõ ràng đã có người thợ tạo ra nó!

Vậy thì vũ trụ xoay vần nhất thiết có Thượng đế sắp đặt. Trên mặt báo này trong một số trước, chúng tôi vừa đưa tin về nhà bác học Stephen Hawking người Anh, chuẩn bị cống hiến một công trình khám phá vĩ đại về "Vũ trụ" đang làm rung động thế giới khoa học. Ông được đánh giá sánh ngang Einstein, cha đẻ của "Thuyết Tương Đối" mở đường cho loài người sử dụng nguyên tử đặt chân lên không gian. Nhà vật lý ký diệu Hawking còn tiến xa hôn Einstein một bước khác, là ông đã kết hợp "Thuyết Tương Đối" kia với "Lượng Tử Thuyết" (Théorie des Quanta) của chính ông để tạo thành một kiệt tác định lý: Đại Tổng Hợp Không Gian. Cái điều phi phàm mà ngày trước Einstein đã phải bó tay thất bại. Chúng tôi đang đặc biệt theo dõi hy vọng sẽ có một ngày không bao xa được có dịp đem thuật lại. Bài báo hôm nay xin đề cập đến một nguồn tin khoa học khá đặc biệt, chứng tỏ nhân tài đất Việt hải ngoại không hề thiếu vắng, chẳng hề thiếu bóng bên cạnh giới khoa học gia Âu Mỹ.

Trong số bác học người Việt chúng ta, cũng đã có ngay nhà vật lý thượng thặng Trịnh Thuần. Đã từ nhiều năm trước, ông là giáo sư vật lý vũ trụ đại học Hoa Kỳ. Nhà xuất bản uy tín Fayard đã đảm nhận in và phổ biến tác phẩm đặc sắc của ông mang tựa đề La Mélodie Secrète (Bản Hòa Tấu Bí Mật) bàn về sự xuất hiện của "Giải Ngân Hà" và nhiều tạp chí tên tuổi ở cộng đồng Âu Châu đã tìm đến phỏng vấn ông ở địa hạt khoa học hiểm hóc nhất Bản hòa khúc kỳ bí trên theo lời tác giả Trịnh Thuần, chính là "Lời Truyền Đạt" đến từ chốn vũ trụ vô cùng tận, cách hành tinh loài người hàng tỉ tỉ năm ánh sáng, theo toán học, tốc độ của ánh sáng là 300.000 cây số một giờ. Vậy cứ đặt vào bàn tính siêu điện tử,người ta mới thật sự cảm nhận được thế nào là sự rùng mình. Nhà khoa học Việt Nam có vinh dự góp mặt vào công trình khám phá vũ trụ lại nhìn nhận: Đã đến lúc loài người phải nghiêng mình kết luận rằng, thế gian này, vạn vật này, vũ trụ này phải do bàn tay tạo lập bởi Thượng Đế toàn năng, toàn mỹ.


Người Luân Đôn

#296 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/09/2011 - 08:51

MA MẬU THÂN TẠI HUẾ

Những ai sống tại Huế mà không biết chuyện Ma tại trường Trung Học Gia Hội thì không phải là dân Huế. Trong cuốn Luyện Văn trang chín mươi chín, ông Nguyễn Hiến Lê đã nói:

- Tôi chưa gặp ma lần nào mong lắm mà không được...

Có lẽ ông ta muốn thấy ma là để xem cách tả ma của vài tác giả có đúng hay không. Tôi nghĩ là tôi may mắn hơn ông ta vì tôi không những đã thấy ma một lần, mà thấy nhiều lần. Sau đây tôi chỉ xin tường trình lại đúng 100% những hiện tượng, những điều tai nghe mắt thấy để tùy quý vị thẩm định.

Ma Tại Trường Trung Học Gia Hội Huế

Trước khi nói đến ma Mậu Thân, tức ma tại trường Gia Hội, tôi xin sơ lược vài nét về biến cố Tết Mậu Thân, vì tôi nghĩ rằng những hồn ma tại trường Gia Hội là do biến cố đó mà ra. Khi VC tấn công vào thành phố Huế thì tôi đang ở tại Gia Hội, cạnh xóm nhà vài người bà con ở đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tôi xin về phép để chung vui Tết với gia đình; nhưng trước khi lên làng để thăm thầy mẹ, tôi ghé lại nhà người anh thì bị kẹt tại đây. Tôi phải cải trang và trốn nhui trốn nhủi từ nhà nọ sang nhà kia. Nghe những người hàng xóm kể lại thì từng nhóm VC nhiều lần vào nhà tôi lục soát, nhưng may là tôi không có trong nhà.

Sau một thời gian chừng bảy hay tám ngày, khi được tin đồn Mang Cá đang còn được quân đội VNCH bảo vệ thì tôi cùng gia đình người bạn và một nhóm người khác tìm cách trốn về Bãi Dâu rồi vượt sông sang Bao Vinh. Tôi mặc áo quần rách rưới, đội cái nón rách gảy vành và ôm một cháu bé của một gia đình trong đoàn vừa run vừa đi. Khi gần đến Bãi Dâu, rất may là chúng tôi gặp những tên VC địa phương chừng mười ba, mười bốn tuổi. Chúng rất dễ dãi nên chúng tôi đi lọt và đến Bao Vinh an toàn.

Chừng một giờ trưa hôm ấy, hướng về Gia Hội, chúng tôi nghe rất nhiều tiếng súng nổ của VC xử tử nhân dân. Thật là hú vía! Nếu chậm một vài giây thì chúng tôi cũng tiêu tùng rồi! Chúng tôi ở đây chừng một tuần hay mười ngày, luôn ngóng về Gia Hội. Trong thời gian này, một anh bạn thân của tôi là viên Đại Úy làm ở đại đội Quân Nhu, thường xuyên thăm viếng và giúp đỡ chúng tôi về tinh thần cũng như vật chất, và nhất là cho biết những tin sốt dẻo về cuộc chiến. Khi nghe tin Gia Hội đã được giải phóng, gia đình bạn tôi và tôi bèn trở về ngay. Anh ta nôn nóng muốn biết ngôi nhà mới xây của anh có bị bom đạn gì không. Còn tôi thì muốn biết chiếc xe Vespa Sprint của tôi mới mua vứt sau hè nhà của người bà con còn hay mất. Tôi nghĩ xe có mất cũng chả sao, chỉ tiếc những thứ quan trọng cất trong xe. Nhưng rất may, nhà cũng như xe còn nguyên vẹn.

Khi chúng tôi chưa tới trường trung học Gia Hội, cách chừng một km, thì đã ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc. Đến nơi thì một cảnh rất thương tâm bày ra trước mắt. Hơn bônd trăm tử thi ửng hồng hay đỏ được sắp sít nhau từ cổng trường vào tận sau hàng tre. Theo lời mấy người đi giúp đào xác kể lại thì một, hai ngày trước đó, thân nhân đã đến nhận chừng một trăm năm mươi xác đem về mai táng rồi. Tôi không hiểu chỗ ở đâu mà chôn nhiều như vậy? Tại Gia Hội, ngoài trường Gia Hội còn có những mồ chôn tập thể khác: Ba Viên gần chùa Diệu Đế, bãi đất sau chùa áo vàng Tăng Quang Tự, Bãi Dâu, nhưng tôi không rõ số lượng tử thi là bao nhiêu. Mấy đứa em và bà con của tôi thì tôi biết chắc là bị chôn sống ở Kim Long nhưng tôi cũng cố gắng đi quanh một vòng để họa may nhận ra xác người quen nhưng thối quá nên phải dội lui!

Những ai đến nhận ra xác thân nhân thì kỉnh cho các cụ đã đào xác một ít tiền để uống rượu mà thôi. Đêm đến, những xác chưa có người nhận thì bị heo hay chó ăn bớt tay chân! Trong cuốn hồi ký, tướng Westmoreland nói số người bị giết trong vụ Mậu Thân tại Huế là hai ngàn tám trăm người. Thật ra, cả Huế và các vùng phụ cận, tổng số người chết là gần tám ngàn người người. Tôi muốn viết thư phân bua với ông ta nhưng chưa có dịp. Tám, chín tháng sau ngày Tết, hay gần suốt cả năm Mậu Thân, Huế là một thành phố chết… Hầu như mỗi ngày hay mỗi tuần, ở một góc phố, trên một con đường, trên một cánh đồng, trong sân đình, chùa, hay trong sân của trụ sở xã, người ta thấy một nhóm năm, sáu người mặc đồ tang ngồi quanh một, hai cái tiểu (hòm nhỏ) bọc giấy điều khóc lóc một cách rất ai oán; tiếng khóc vọng ra cả một vùng! Họ là những người vừa tìm ra xác thân nhân ở một nơi nào đó. Những người qua đường thường là đồng cảnh ngộ nên dừng lại thăm hỏi.

Mỗi khi thấy những cái quan tài màu đỏ là tôi rùng mình! Màu đỏ thường tượng trưng cho sự tươi vui, hạnh phúc như màu đỏ của hoa hồng, của thiệp cưới, của bao lì xfi… nhưng màu đỏ của quan tài trông rất là dễ sợ! Không riêng gì thành phố Huế, tại các quận trong tỉnh Thừa Thiên như Phú Thứ, Phú Vang, Phú Lộc, Hương Trà, Hương Thủy, Phong Điền… cảnh những đoàn người đi tìm xác thân nhân xôn xao diễn ra hàng ngày. Những tiếng khóc ai oán, những quan tài đỏ rùng rợn… cảnh sắc tang tóc đó không bao giờ phai mờ trong óc tôi được! Còn nóng hổi như mới xảy ra ngày hôm qua!

Sau khi VC chiếm miền Nam, tôi còn được tiếp tục đi dạy một vài năm tại trường trung học Gia Hội. Và tôi thấy dư âm của Mậu-Thân vẫn còn lẫn quất đâu đây. Đôi khi làm bồn hoa, trồng cây hay cuốc cỏ, học sinh tìm thấy một vài ống xương, một mái tóc, hay một đầu lâu trong bụi tre là chuyện bình thường. Hồi đó, đêm đêm các giáo sư được phân công trực. Một bữa nọ, tôi được phân công trực cùng với anh bạn. Đến một giờ sáng, anh ta bảo tôi:

- Tôi cần về nhà để rửa mấy cuốn phim, anh trực một mình có sợ không?

Tôi bèn đáp:

- Không sao, anh có việc cần thì cứ về đi.

Anh ta đi rồi tôi mới thấy lạnh người! Tôi vừa nằm xuống được vài phút thì nghe tiếng guốc lóc cóc và tiếng cười trên lầu, ngay trên phòng giáo sư. Chừng năm phút sau tôi nghe tiếng guốc đi dọc theo hành lang, tôi liền chạy vụt ra sân ngước nhìn lên thì thấy một vệt trắng, tựa như một cái khăn, loáng lên nơi cửa sổ hai, ba lần rồi biến mất. Tôi nằm xuống lại và cố ngủ nhưng lại nghe tiếng cười nổi lên, lần nầy rất là ghê rợn! Tôi chạy ra sân và nói vọng lên lầu:

- Cô nương nào đó, có buồn thì xuống đây nói chuyện cho vui!

Không nghe trả lời, tôi vội bước vào. Tôi lại nghe tiếng cười rùng rợn và tiếng rầm-rầm của bàn ghế bị xô đẩy. Tôi bèn ngồi dậy, chắp tay nói:

- Tôi biết các Bạn bị giết một cách oan uổng! Nhưng các Bạn chưa chết! Các Bạn còn sống trong khuôn viên nầy! Tôi cầu mong vong linh các Bạn sớm tiêu diêu nơi Miền Cực Lạc!

Sau đó tôi đọc mấy câu chú thì tiếng cười im bặt, và tôi ngủ đi khi nào không biết. Sáng hôm sau, đến trường tôi kể chuyện bị ma khuấy phá cho mọi người nghe thì mọi người đều bảo:

- Có lạ gì đâu! Ai trực đêm cũng gặp hoàn cảnh như vậy!

Hai hôm sau, độ lúc mười giờ sáng, trong khi tôi đang ngồi trong phòng giáo sư thì nghe những tiếng thét rùng rợn của các nữ sinh từ dãy lầu phía tây. Tiếng thét khủng khiếp, tựa như tiếng thét của người khi bị lưỡi lê đâm vào cạnh sườn. Những tiếng thét đó, tựa như một luồng điện, lan từ phòng nọ sang phòng kia, rồi sang dảy lầu phía đông, kéo dài từ ba mươi đến bốn mươi phút, có khi lâu hơn, mới chấm dứt.

Chuyện học sinh la hét như vậy mỗi tuần xảy ra vài lần và kéo dài trong ba năm liền; và mỗi lần học sinh la hét như vậy thì vang động cả thành phố. Các nam sinh thì không la hét, nhưng chúng bảo:

- Trong khi la hét, mặt các nữ-sinh ngồi bên cạnh trông rất dễ sợ.

Mỗi khi nghe học sinh la hét vang dội thì những người đang đi trên đường Võ Tánh trước mặt trường đều dừng lại xem. Những ai sống tại Huế trong thời gian từ 1976 về sau mà không biết chuyện ma tại trường Gia Hội là điều đáng ngạc nhiên. Một nữ giáo sư, dạy Vật Lý, đã nói với tôi:

- Tôi cố gắng trấn tĩnh hết sức, không thì đã ném viên phấn và cùng hét với tụi học trò rồi!

Có lẽ ma chỉ trêu các nữ sinh chứ không chọc cô giáo? Tôi thì không bao giờ được chứng kiến các nữ sinh trong lớp tôi đang dạy la hét cả, mặc dù nữ sinh các lớp bên cạnh đang la hét rất dữ dội. Các học sinh của tôi nói rằng:

- Có lẽ vì thấy thầy đang dạy các em nên ma không dám vào trêu chọc tụi em!

Đến năm thứ ba, vì chuyện kéo dài quá lâu nên một lần nọ, ông hiệu trưởng mời một chuyên viên y tế từ trạm xá Gia Hội đến để thẩm định tình hình. Anh ta bảo đó là do sự động kinh nhất thời mà thôi, không do ma quái gì cả. Một vài nữ giáo sư chi viện từ miền Bắc vào thì không đồng ý; họ quả quyết đó là do bị ma trêu, vì họ biết một vài trường hợp tương tự như vậy đã xảy ra ở Hà Nội. Tôi hỏi một vài nữ sinh vì sao mà la hét như vậy, thì các em đó luân phiên cho biết rằng:

- Em cảm thấy một bàn tay lạnh ngắt đang bóp cổ em.

- Em thấy ai đang rị tóc em xuống và không thể ngẩng đầu lên được.

- Em cảm thấy một bàn tay chụp vào sau ót em và một bàn tay bịt mũi và miệng em lại.

- Em thấy hai bàn tay lạnh ngắt đang bóp vào hông em.

- Em cảm thấy hai bàn tay lạnh ngắt đang kéo chân em.

- Em cảm thấy những móng tay sắc đang bấm vào hông em.

- Em cảm thấy một bàn tay lạnh sờ vào má em và nghe như ai hỏi bên tai...

Khoảng năm 1980 hay 1981, tôi gặp lại vài phụ huynh ở quanh trường và hỏi họ về chuyện la hét của học trò thì họ cho biết như sau:

- Thầy không biết à? Sau góc trường có một cái giếng sâu, bọn VC đã ném mười bảy hay mười tám thanh niên xuống đó và lấp đất lại. Oan hồn các thanh niên đó đã trêu chọc các nữ sinh mà thôi. Chúng tôi và một nhóm phụ huynh đã luân phiên nhau đến cái giếng cầu đảo bốn, năm đêm liền nên các cậu mới thôi trêu chọc con cái chúng tôi. Hơn cả tháng nay, đêm nào cũng có phụ huynh đến đó cầu nguyện.

Khi viết đến đây tôi sực nghĩ rằng: Tại sao trong những năm từ sau 1968 cho đến 1975, các hồn ma vẫn ở quanh quẩn trong khuôn viên trường Gia Hội nhưng không khuấy phá học sinh mà mãi đến 1976 trở đi mới bắt đầu sách động? Hay là ma thương học sinh Cọng Hòa hơn học sinh XHCN chăng? Những cựu học sinh trường Gia Hội, hiện sống tại San José và ở Nam Cali, mỗi khi nghe lại chuyện Ma Mậu Thân tại trường thì đều rùng mình. Chuyện ma tại trường trung học Gia Hội hiện nay vẫn còn ăn sâu trong óc tôi, không bao giờ quên được. Tôi tin rằng vong linh các oan hồn tại trường Gia Hội vẫn còn “sống” tại đó. Chết đâu phải là hết?

Minh Trí

#297 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/09/2011 - 08:30

CẬU BÉ CÓ TIỀN KIẾP LÀ PHI CÔNG

Phần lớn người Á đông đều tin vào thuyết luân hồi. Làm lành tránh dữ để sớm được đầu thai kiếp khác, hay siêng năng làm việc thiện để kiếp sau còn được làm người, đó là những điều tin tưởng của nhiều người qua những lời giảng tôn giáo. Bên Tây Tạng người ta tôn suy những vị Lạt Ma, vì tin tưởng rằng đây là những người đã được những vị Lạt Ma tạ thế báo mộng, điềm chỉ cho biết ai là hậu thân của mình. Những chuyện này tưởng chỉ xẩy ra ở những nước Á đông huyền bí. Không ai ngờ rằng câu chuyện tiền kiếp cũng xẩy ra ở những nước tây phương chuộng nền khoa học thực nghiệm hơn là những điều bí ấn.

Sau đây là câu chuyện của một cậu bé ở Hoa Kỳ, với quá khứ oai hùng trong kiếp trước mà cậu còn nhớ rành mạch từng chi tiết khiến ai nghe thấy cũng phải bàng hoàng. Cậu bé tên là James sáu tuổi rất say mê máy bay. Nhưng khi cậu bắt đầu nói về chiếc hàng không mẫu hạm, mà cậu đã phục vụ trên đó trong trận chiến với Nhật Bản, và những người bạn cùng trong thủy thủ đoàn, hiện đã là những ông già gần đất xa trời thì cha mẹ cậu cũng phải hoảng hồn. Gần sáu thập niên trước một phi công chiến đấu Hải quân hai mươi mốt tuổ,i đã bị pháo binh Nhật bắn rơi khi đang thi hành nhiệm vụ ngang qua Thái Bình Dương. Có lẽ cái tên của anh đã rơi vào quên lãng nếu không vì cậu bé James Leininger sáu tuổi này. Một số khá nhiều người, kể cả những người từng quen biết viên phi công chiến đấu, nghĩ rằng James chính là viên phi công kia đã được đầu thai.

Cha mẹ của James là Andrea và Bruce, một cặp vợ chồng tân tiến có học vấn cao cho rằng, họ có lẽ là những người ít mong đợi một tình hình như vậy nhất có thể xảy ra trong cuộc sống của mình. Nhưng cùng với thời gian, họ ngày càng tin rằng cậu con trai nhỏ bé của mình đã từng có một kiếp trước nào đó. Ngay từ khi còn rất nhỏ cậu bé James đã không chơi với thứ gì khác ngoại trừ máy bay, cha mẹ cậu kể lại. Nhưng khi cậu bé lên hai tuổi, họ cho biết những chiếc máy bay mà cậu bé yêu thích lại đem đến cho cậu những cơn ác mộng liên tục.

- Tôi đánh thức nó dậy và nó kêu thét lên.

Andrea nói với phóng viên báo chí. Khi hỏi con trai xem cậu bé mơ thấy gì cậu đáp:

- Máy bay phát nổ, cậu bé không thoát ra được.

Andrea kể mẹ cô là người đầu tiên nghĩ rằng có thể James đang nhớ lại kiếp trước của mình. Ban đầu Andrea nói cô rất nghi ngờ. Hai bậc phụ huynh này cho biết James chỉ xem các chương trình truyền hình thiếu nhi mà thôi, còn họ thì không hề xem các phim tài liệu thời Thế chiến thứ II hay bàn luận gì về chiến tranh cả. Nhưng khi thời gian trôi qua, Andrea bắt đầu tự hỏi sự thật là thế nào. Trong một cuốn băng video thu vào năm James ba tuổi, người ta thấy cậu bé xem xét kỹ lưỡng một chiếc máy bay như thể viên phi công đang kiểm tra trước khi bay vậy. Một lần khác Andrea kể, cô mua cho cậu bé một chiếc máy bay đồ chơi và chỉ cho cậu xem một thứ có vẻ như một trái bom bên dưới. Cô nói James đã chỉnh cô bảo rằng:

- Đó là một drop tank (thùng chứa xăng phụ phía dưới thân máy bay có thể thả rơi xuống khi chiến đấu).

- Tôi chưa từng nghe nói về drop tank. Cô nói:

- Tôi còn không biết nó là cái gì nữa.

Rồi những cơn ác mộng bạo lực của cậu bé ngày càng tệ hơn. Mẹ Andrea đề nghị cô nên đến gặp nhà tư vấn trị liệu Carol Bowman, một người vẫn tin rằng đôi khi người chết có thể tái sinh. Với sự hướng dẫn của Bowman, họ bắt đầu khuyến khích James chia sẻ những ký ức của mình và ngay lập tức, Andrea cho biết,những cơn ác mộng trở nên ít hơn.

- James cũng diễn đạt rõ ràng hơn về quá khứ hiển nhiên của mình.

Cô kể lại. Bowman cho biết James đang ở một lứa tuổi mà có thể dễ dàng gợi nhớ lại về kiếp trước nhất. Bà nói:

- Chúng chưa gặp những tác động văn hóa, chưa bị những kinh nghiệm sống của kiếp này lấn át, vì vậy nên ký ức có thể trào dâng dễ dàng hơn.

Cùng với thời gian, cha mẹ James cho biết cậu bé bộc lộ những chi tiết khác thường về cuộc sống của một cựu phi công chiến đấu, hầu hết vào giờ lên giường khi cậu đang buồn ngủ. Họ kể lại James bảo họ rằng chiếc máy bay đã bị Nhật bắn trúng và bị rơi. Andrea nói James kể với cha là cậu lái một chiếc Corsair, và sau đó cậu bé bảo cô:

- Trước đây lúc nào họ cũng dùng những cái lốp bẹp.

Trên thực tế các sử gia và phi công đều đồng ý rằng, vỏ bánh xe máy bay thường chịu áp lực rất lớn khi hạ cánh. Nhưng điều đó có thể dễ dàng đọc thấy trong sách vở hay trên truyền hình. Andrea nói James cũng kể với cha mình tên chiếc hàng không mẫu hạm mà cậu đã cất cánh "Natoma" và tên người bạn phi công cùng bay với cậu "Jack Larson". Sau một số nghiên cứu Bruce phát giác ra rằng cả Natoma lẫn Jack Larson đều có thật. Natoma Bay là một chiếc hàng không mẫu hạm nhỏ ở Thái Bình Dương. Còn Larson hiện đang sống tại Arkansas.

- Thánh thần ơi. Bruce nói:

- Thật có mà đi đầu xuống đất. Không thể tin được. James 2 = James M. Huston Jr.?

Bruce trở nên bị ám ảnh anh sục sạo Internet, rà soát các hồ sơ quân sự và hỏi thăm những người đã từng phục vụ trên hàng không mẫu hạm Natoma Bay. Anh nói James kể với anh là cậu đã bị bắn tại Iwo Jima. James cũng bắt đầu đánh dấu cây viết chì của mình bằng chữ ký "James 3". Bruce nhanh chóng tìm hiểu được rằng chỉ có một viên phi công duy nhất trong nhóm đã bị tử trận ở Iwo Jima tên là James M. Huston Jr. Bruce nói James cũng kể với anh là chiếc máy bay của cậu đã bị bắn một phát trực tiếp ngay trúng động cơ. Ralph Clarbour, xạ thủ hậu pháo trên một chiếc máy bay Mỹ cất cánh từ Natoma Bay, cho biết chiếc máy bay của ông đã bay ngay sau chiếc máy bay của James M. Huston Jr. trong cuộc đột kích gần Iwo Jima vào ngày 3-3-1945. Clarbour kể ông đã chứng kiến chiếc máy bay của Huston bị pháo phòng không bắn trúng.

- Tôi có thể nói anh ấy đã bị bắn ngay vào chính giữa động cơ. Ông nói.

Bruce cho biết giờ thì anh tin rằng kiếp trước của con trai mình chính là James M. Huston Jr.

- Anh ấy đã quay lại vì anh ấy chưa hoàn thành một việc gì đó.

Gia đình Leininger đã viết thư cho chị của Huston là bà Anne Barron về cậu con trai bé nhỏ của họ. Và giờ thì bà ấy cũng tin điều đó.

- Cậu bé đầy sức thuyết phục với mọi thứ mà lẽ ra cậu chẳng có cách nào biết được. Bà nói.

Nhưng Giáo sư Paul Kurtz thuộc Đại học New York tại Buffalo, người đứng đầu một tổ chức điều tra những vấn đề siêu linh, cho biết ông nghĩ rằng hai bậc cha mẹ này đang tự lừa dối mình.

- Họ mê mẩn với những điều huyền bí và tự đặt ra một câu chuyện cổ tích. Ông nói.

Những hồi tưởng sống động bắt đầu mờ nhạt khi cậu bé lớn lên, nhưng trong số những vật sở hữu của cậu có hai món quà tuyệt vời được Barron gởi tặng: một bức tượng bán thân của George Washington và một mô hình máy bay Corsair.

Đó là hai món tài sản cá nhân của James Huston được gởi về nhà sau chiến tranh.

- Có lẽ con tôi có một điều gì đó mà tôi không nghĩ là độc nhất vô nhị, nhưng cách bộc lộ điều đó thì thật đáng ngạc nhiên. Bruce nói.

Khi được hỏi liệu ý nghĩ về việc James có thể là một người nào khác, có thay đổi gì những cảm nhận của vợ chồng anh về con trai mình hay không?

Bruce nói:

- Không có gì thay đổi cả. Tôi không hề nhìn con mình mà tự nhủ: Con tôi hay không phải con tôi.

Và như vậy thì James là James Leininger hay là James M. Huston Jr, thì điều đó cũng không làm thay đổi tình cảm của Andrea và Bruce đối với con mình.

Hoàng Quý

#298 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/09/2011 - 08:51

KHI XÁC CHẾT ĐÒI NỢ

Nằm tại bệnh viện Jefferson Memorial hai đêm, tôi không tài nào chợp mắt. Cứ vừa nhắm thì ông Nguyễn Phấn hiện ra đứng lù lù ngay giường của tôi. Trong túi áo sơ mi nhàu nát của ông, lòi ra bao bì chai super-glue. Tay trái ông Nguyễn Phấn cầm con dao loại giải phẫu của bệnh viện đưa lên trước mặt ông ấy. Hai mắt khép kín, hình như ông Nguyễn Phấn cố gắng mở ra làm cho mồm ông cứ há hốc cực nhọc. Hai bên má hằn lên những đường rãnh cong ôm lấy cái miệng hô làm cho gương mặt khó coi của ông càng khó coi hơn. Ông Phấn lấy ngón trỏ tay phải sờ nhẹ lên cán dao rồi men lần lên để định vị trí lưỡi dao, ông dùng ngón cái kéo vuông góc qua lưỡi dao ấy xem nó có còn đủ bén hay không.

Những động tác vừa qua làm cho người tôi lạnh toát. Ông Nguyễn Phấn định làm gì tôi chăng? Tôi mở mắt ra, hình ông Nguyễn Phấn tan dần theo ánh sáng nhè nhẹ của đèn tube gắn trên tường. Ban đêm tôi không muốn tắt đèn trong phòng vì ngại hồn ông Phấn sẽ xuất hiện và như thế tôi thức cho đến sáng. Lạ quá, bất cứ lúc nào, hễ tôi chợp mắt là ông Nguyễn Phấn cứ hiện về, làm những động tác như vừa kể, nhưng lần nầy ông không mặc áo. Dường như ông Nguyễn Phấn cố ý cho người ta trông thấy đường mổ hình chữ U đỏ như màu miếng thịt bò hở ra sâu cả đốt tay. Gương mặt ông Phấn đanh lại trông có vẻ giận dữ. Và cũng như lần trước ông gắng sức mở đôi mắt, nhưng mở không được. Đầu ông nghiêng qua, nghiêng lại, cặp môi nhọn lên cực kỳ tức tối.

Mồ hôi tôi vã ra, nỗi sợ hãi bắt đầu xoắn lấy tôi, hai hàm răng cụng vào nhau nghe lộp cộp, May mắn, tiếng ho sù sụ của ông lão giường bên cạnh như một tha lực làm cho nỗi sợ hãi trong tôi giảm chút đỉnh. Tôi ngồi dậy khệnh khạng bước vào nhà vệ sinh, vừa mở cửa, bật đèn, một luồng khí lạnh buốt tuôn ra làm cho tôi rùng mình. Đưa tay mở vòi, hai tay bụm nước ấm tạt úp lên mặt, người tôi thấy dễ chịu đôi chút. Nhìn vào trong gương, tôi tá hỏa, đó là mặt của ông Phấn. Tôi tiếp tục lấy nước úp lên mặt, nhưng hai tay tôi bụm toàn máu, tôi hét lên phóng ra ngoài. Tôi quyết định ra phòng y tá yêu cầu được xuất viện. Vừa ra khỏi cửa bệnh viện, tôi dự trù kêu xe taxi để đi về thì gặp Tước, con trai thứ ông Thoảng, ông Thoảng là xếp của tôi. Tôi và ông Thoảng vừa bị một tai nạn xe hơi. Xe cấp cứu đưa về đây, nhưng mỗi người một phòng. Mắt Tước sưng vù, ôm lấy tôi khóc nức:

– Anh Khả ơi! Ba tôi đã chết rồi.

Tôi thảng thốt kêu lên:

– Trời ơi! Lúc hai bác cháu gặp tai nạn, bác Thoảng chỉ bị thương dưới chân thôi tại sao lại chết?

Mắt Tước đầm đìa, nói trong tiếng nấc:

– Tôi và má tôi đã cùng ông già trò chuyện ngày hôm qua. Ông tỉnh queo, chân bị nứt xương nên phải băng bột, chỉ có thế thôi.

– Như vậy thì làm sao có thể chết, nhiễm trùng à?

– Tôi cũng không biết, nhưng sáng nay trước khi đi làm tôi vào thăm ba tôi thật sớm. Toàn thân ông phủ tấm ra trắng, dở tấm ra thì thấy máu từ hai mắt chảy xuống gối đã khô. Ngay bụng máu me đầm đìa và chảy luôn xuống sàn. Tôi gọi ngay cho y tá, y tá gọi cho bác sĩ trực chạy đến. Họ vội vã đưa ông già xuống phòng cấp cứu. Nhưng có cứu gì được đâu. Nơi đây bác sĩ cho biết hai mắt và thận của cha tôi đã bị mất.

– Thế nghĩa là sao, bệnh viện mổ người còn sống để lấy cơ phận à?

– Ba tôi đã chết đâu!

– Bây giờ mình phải làm sao?

Tước lắc đầu ú ớ:

– Chuyện đột ngột quá, tôi chỉ biết đợi bệnh viện trả lời.

– Hiện bác Thoảng nằm ở đâu?

– Họ đang để ông trong phòng lạnh và điều tra xem bác sĩ nào ra lệnh mổ.

Tôi ôm lấy Tước chia xẻ nỗi đau, Tước thấy tôi bơ phờ nên nói:

– Thôi anh về đi nghỉ đi, có gì tôi gọi cho anh, thấy người anh xanh xao tôi ái ngại quá.

– Nhớ gọi nhé, tôi mệt quá, về nghỉ tí đã.

Dù sao ông Thoảng là xếp của tôi. Ông sống sờ sờ mà người ta cắc cớ mổ ông để lấy cơ phận. Đáng lý tôi phải ở lại với Tước cho trọn tình “chủ tớ”, nhưng những chuyện kỳ lạ liên tục xảy ra, tôi sợ cái lưỡi dao ông Nguyễn Phấn vô cùng. Tôi đang muốn chạy trốn cái bệnh viện Jefferson nầy càng sớm càng tốt, nên chỉ bịn rịn với Tước cho tròn thủ tục chứ thực tình, trong thâm tâm tôi không muốn quay lại nhìn cái bệnh viện đầy hiện tượng ma quái đó. Xe taxi chạy qua khu rừng, đây đó những cây phong đỏ rực như máu báo hiệu mùa thu đã về. Tôi khẽ rùng mình, đầu óc miên man nghĩ đến lúc ông Thoảng đổ chai keo vào mắt tử thi. Nhớ tới lúc hí hửng vô tình của ông Thoảng nói ra khi tôi mới vào nhận việc:

- Thế giới hiện đang thiếu thận một cách trầm trọng, cho nên chính phủ Mỹ đã cho phép người ta bán thận và di chuyển qua biên giới một cách công khai...

Và cú điện đàm như ra lệnh của ông Thoảng với ai đó trước ngày đem cái xác ông Nguyễn Phấn về nhà quàn mà tôi nghe tiếng được tiếng mất:

- Ừ thận ông ấy còn tốt lắm... liệm xong để trong quan tài, không có ma nào đi vạch bụng mà xem đâu...cứ xúc tiến công việc như mấy lần trước...

Ông cúp máy. Chuyện đau lòng bất cập của gia đình ông Thoảng đẩy trí nhớ tôi lùi lại hôm thứ sáu tuần trước khi theo ông Thoảng, người quản lý nhà quàn Hoàng Gia Funeral Home, đi đón cái xác ông Nguyễn Phấn tại bệnh viện St. Joseph về để chuẩn bị tẩn liệm trước khi làm lễ phát tang. Tôi đã giật bắn người bởi vì khi đẩy cửa bước vào phòng tôi thấy một cánh tay của ông Nguyễn Phấn thòng xuống mép giường, năm ngón tay đang duỗi thẳng bỗng nắm lại thành quả đấm, rồi duỗi lại ra, hai ba lần như thế. Tôi không nghĩ là ông Nguyễn Phấn còn sống, mà ngây thơ cho rằng chắc cánh tay bị thòng ra ngoài mép giường, có vài cơ co giật bất thường, tôi đỡ lên để xuôi đàng hoàng. Nhưng bây giờ tôi hồ nghi đó là một tín hiệu trả thù của xác chết.

Ông Thoảng có thói quen phải hút xong một điếu thuốc Virginia Slims đầu lọc ở bên ngoài cửa trước khi vào làm công việc nhận xác. Còn tôi một phụ tá mới nhận việc nên cũng muốn chứng tỏ bản lãnh “va chạm” với tử thi, nên cả mấy tháng nay tôi hăng say công việc không ngại ngùng gì cả. Từ công tác thay quần áo, nhúng cồn lau mình mẩy, tô son đánh phấn, kể cả việc sắp xếp lại da thịt nếu là tử thi bị một tai nạn sức càng gãy gọng mà qua đời. Ông Nguyễn Phấn nằm đấy không chịu nhắm mắt, tôi vuốt bao nhiêu lần mà cặp mắt vẫn cứ mở trừng trừng. Xưa nghe bà tôi nói hễ ai chết không nhắm mắt là họ cố đợi người thân đến vuốt mặt. Nhưng đi nhận xác ở bệnh viện là công việc của nhà quàn, làm gì có thân nhân.

Tôi hỏi ông xếp của tôi thì ông bảo không cần người thân, người sơ gì cả, mình phải đè bàn tay cho mạnh và không được mang găng tay. Ông bảo cần có hơi ấm của người sống thì tử thi mới chịu nhắm mắt. Thế nhưng dù đã cởi găng tay, dù đè thật mạnh, đôi mắt ông Nguyễn Phấn vẫn mở thao láo như chọc tức chúng tôi. Tôi lấy ngón tay kéo mí trên xuống nhưng mí mắt cứ bật lại lên một cách bất trị. Tôi định quay lại cầu cứu với ông Thoảng thì ông biến đâu mất làm tôi cũng hoảng bỏ đó phóng ra ngoài. Ra tới cửa thì bắt gặp ông Thoảng hí hửng tay cầm chai super glue đưa cao trước mặt tôi, đầu gật gù hài lòng với sáng kiến độc đáo, miệng lảm nhảm:

- Tao có cách làm cho mầy nhắm.

Hai chúng tôi trở lại chỗ để xác ông Nguyễn Phấn. Ông Thoảng móc con dao xếp nhỏ xíu đang dính trong đùm chìa khóa, cắt sâu xuống cổ chai glue, nặn hết glue vào hai lổ mắt ông Phấn, đoạn ông Thoảng dùng hai ngón trỏ vuốt hai mí mắt trên của ông Phấn lại và giữ vài phút. Bấy giờ thì hai mắt tử thi đã nhắm, nói một cách rộng lượng: “trông dễ thương” hơn nhiều. Sau khi xác ông Nguyễn Phấn được đưa lên xe. Chúng tôi rời bệnh viện St. Joseph để về Hoàng Gia Funeral Home. Thay vì ra xa lộ mười bốn ngay giờ cao điểm, chúng tôi lấy Fullerton. Đến ngã tư Edgebrook đèn bật đỏ chúng tôi ngừng. Phía sau các xe khác bóp còi inh ỏi. Ông Thoảng cầm lái tỏ vẻ khinh khi, không đếm xỉa, ông quay qua tôi phân bua:

– Đèn đang đỏ mà tụi nó muốn mình chạy à, điên hết cả lũ.

Người tài xế xe màu trắng sát phía sau xe chúng tôi thò đầu ra chửi:

– Tụi bay có biết lái xe không, đèn xanh đứng lại làm gì?

Tôi nhìn qua ông Thoảng mỉm cười lắc đầu. Ai chạy mặc kệ, xe chúng tôi vẫn đứng chờ đèn xanh. Các xe sau tưởng xe chúng tôi hỏng máy nên tránh qua một bên và vượt đèn đỏ chạy thẳng. Ba bốn cái ngã tư như vậy, chúng tôi bị người ta chửi như hắt nước vào mặt. Tôi nhìn qua ông Thoảng cười mai mỉa:

– Luật mới của Mỹ, đèn đỏ được chạy!

Chúng tôi chạy đến ngã tư lớn Fullerton và Main, đèn đang xanh nên không cần rà thắng, bỗng “Rầm”... một chiếc Ford pickup chở đầy cỏ cuộn với sức nặng mấy ngàn cân đâm ngay vào hông, đẩy xe chúng tôi vào một góc có trụ ống nước chữa lửa. Cửa sau xe bị bung ra, xác chết ông Nguyễn Phấn rớt xuống đường. Thấy xác người rớt xuống, ai đó rộng rãi gọi 911, mấy xe chữa lửa, mấy xe cứu thương ùn ùn chạy đến. Họ đưa ngay cái xác chết ông Phấn lên chiếc Ambulance, hụ còi chạy mất. Hai chúng tôi kẹt cứng trong xe, nhân viên chữa lửa phải khó khăn lắm mới lôi hai chúng tôi ra ngoài. Sau đó hai chiếc xe cứu thương hối hả hú còi chở chúng tôi vào bệnh viện. Trên xe cứu thương, một cán sự y tá cho biết là chúng tôi vượt đèn đỏ nên mới gây tại nạn.

Ông Thoảng nằm ở phòng nào không biết. Còn tôi thì vừa xong phần xét nghiệm ở phòng cấp cứu, họ đưa về phòng mười ba, trúng hôm nay là thứ sáu, người Mỹ thì rất kỵ, nhưng tôi chúa ghét dị đoan nên “who care”. Bác sĩ Martin (tên thấy trên áo) cho hay tôi chỉ bị thương nhẹ ở bả vai, tịnh dưỡng vài ngày là khỏe ngay. Tai nạn xảy ra làm cho tôi cực kỳ phân vân. Tại sao cả hai chúng tôi loạn thị một cách kỳ lạ: trông thấy đèn đỏ trong lúc nó đang xanh, và chúng tôi thấy xanh thì thật ra đèn đang đỏ. Điều nầy giờ đây tôi mới nghiệm ra bởi vì khi chúng tôi ngừng ở ngã tư Edgebrook thì những xe trên đường Edgebrook cũng ngừng. Nghĩa là lúc ấy họ ngừng đèn đỏ thì trên nguyên tắc hướng chúng tôi phải là đèn xanh.

Tôi không biết người ta chở ông Nguyễn Phấn người chết hai lần ấy đi về đâu. Trong một thoáng rất nhanh, tôi cười một mình, vì nghĩ đến việc khi các nhân viên cấp cứu từ mấy chiếc Ambulance vội vã đem đồ nghề đến để cấp cứu tại nơi xảy ra tai nạn, thế nào họ cũng phát giác ông Nguyễn Phấn là một tử thi. Đặc biệt nhất có lẽ là khi ai đó đưa tay phành con mắt để kiểm nghiệm thì họ sẽ gãi đầu vì hai mí mắt ông dính chết không chịu mở ra, bởi ông Thoảng chơi nguyên chai super glue vào đó. Nhưng mắt trả mắt thì thế gian nầy sẽ phải mù lòa. Người tôi bắt đầu choáng váng, nghĩ đến việc có thể ông Thoảng thông đồng với ai đó trong bệnh viện chuyên mổ lấy thận của nạn nhân đem bán ra thị trường.

Cũng có thể linh hồn ông Nguyễn Phấn chưa ra khỏi cái xác phàm, thấy thân thể mình bị xúc phạm nên nhất định trả thù chăng? Dù bệnh viện Jefferson Memorial phải trực tiếp chịu trách nhiệm một mạng người. Tôi cũng cam đoan rằng không có bác sĩ nào ra lệnh mổ, mà thủ phạm làm chết ông Thoảng, xếp của tôi, chính là do sự đòi nợ của một xác chết.


Thủy Lâm Synh

#299 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/09/2011 - 09:14

CÂY ĐA LỐI CŨ GỌI HỒN NGƯỜI XƯA

PHẦN MỘT

Tôi rất do dự trước khi viết bài này vì tính cách riêng tư không những cho tôi mà còn liên quan tới nhiều người thân khác trong gia đình. Một số thân hữu sau khi đã được nghe tôi kể chuyện về vụ Gọi Hồn tại Việt Nam đã khuyến khích tôi "tới đi, bác tài!" Tôi vẫn đợi một thời gian nữa để xem sao! Cuối cùng thì một động lực nội tâm đã bật đèn xanh và cho tôi cái hứng thú để viết bài này. Có vài phần trong bài viết: Phần Một là "Cây đa lối cũ", Phần Hai là "Gọi hồn người xưa", Phần Ba là "Cảm xúc và những tín hiệu kỳ lạ", Phần Bốn là "Xuôi Nam".

Những phần này liên quan tới nhau và trong Phần Ba, tôi đối chiếu những sự việc mà những nhân vật bên Cõi Âm trả lời những câu hỏi của người bên Cõi Dương qua lời nói của cô đồng. Trong Phần Ba, tôi cũng ghi lại những cảm xúc riêng tư và nhất là những giấc mơ, những tín hiệu lạ lùng mà tôi từng nhận được trong những lúc nửa đêm về sáng. Phải chăng, chúng ta không thể nào phủ nhận được sự hiện hữu của thế giới bên kia. Xin mời quý vị đọc. Hồi tôi còn nhỏ, sau khi mẹ tôi qua đời, tôi thường có những giấc mơ lạ kỳ: tôi thường thấy mẹ tôi ngồi trên giường ngay bên cạnh tôi vừa vui, vừa buồn vì tôi đã cầu được, ước thấy. Trong nhiều năm sau đó, tôi vẫn thường được gặp mẹ tôi trong những giấc mơ và những câu chuyện trao đổi giữa mẹ con chúng tôi cũng thay đổi theo thời gian. Sau tuổi năm mươi thì tôi không còn mơ thấy mẹ tôi nữa nhưng trong thời gian này thì lâu lâu tôi gặp được thân phụ tôi trong những giấc mơ đầy thương yêu.

Anh lớn tôi khi phải đi cải tạo cũng đã từng được gặp mẹ trong những giấc mơ và mẹ thường báo mộng cho anh ấy biết những diễn biến sắp xảy ra. Nhờ những lần báo mộng này mà đã có lần anh ấy thoát chết vì đạn nổ khi những người tù cải tạo phải đi làm rẫy. Chính thân mẫu của chúng tôi cũng đã báo mộng cho anh ấy biết khi nào anh ấy được thả tù cải tạo và khi nào anh ấy được xuất ngoại. Sau khi anh ấy đã định cư tại Hoa Kỳ thì mẹ chúng tôi không còn báo mộng cho anh ấy nữa. Cũng vì những giấc mơ này mà vợ chồng chúng tôi muốn tìm hiểu về thế giới bên kia. Chúng tôi may mắn có cái duyên được người bà con cho xem cuốn phim DVD thâu lại buổi gọi hồn tại Hà Nội khi họ về thăm quê hương. Tôi chăm chú ngồi xem những cuộc đối thoại giữa người bên Cõi Âm và người bên Cõi Dương nhất là những gì đã xảy ra.

Chỉ những người trong cuộc mới biết tường tận các chi tiết mà thôi và tôi đã được người bà con giải thích những chi tiết riêng tư này. Người bà con của chúng tôi rất tin về vụ gọi hồn này vì những chi tiết rất là xác thực liên quan giữa người Cõi Âm và người Cõi Dương. Điều đặc biệt là cả hai anh chị đều là hai chuyên gia và đã đi làm nhiều năm tại ngoại quốc trước khi về hưu nên khó có thể mà họ mê tín dị đoan một cách mù quáng được. Xem xong, bà xã tôi cũng rất háo hức muốn gọi hồn để được gặp bố mẹ và những người đã khuất khi chúng tôi về thăm Việt Nam. Đầu thập niên chín mươi, một người coi tử vi và tướng số đã cho tôi biết là, tôi được vong linh của một bà tổ cô đang phù hộ cho tôi rất nhiều. Ông ta khuyên tôi nên lập bàn thờ để tưởng nhớ đến bà. Tôi rất cảm động nhưng vẫn bán tín bán nghi, chả là vì rằng tôi được đào tạo trong lãnh vực khoa học và kỹ thuật tại Tây Phương; tôi phải cần có được những chứng minh cụ thể là linh hồn bà tổ cô có luôn luôn theo dõi và phù hộ cho tôi hay không.

Tuy nhiên tôi cũng không phủ nhận vì rằng tôi cũng có những giấc mơ kỳ lạ, nhẹ nhàng và thật tĩnh lặng trong những năm tôi sống một mình hay hai mình. Cũng nhờ những giấc mơ này mà tôi đỡ thấy lẻ loi trong những lần bất chợt tôi tỉnh giấc trong đêm khuya. Tôi không biết là có phải do mẹ tôi, bố tôi hay bà tổ cô đã về thăm hỏi và an ủi tôi? Tôi chỉ mơ hồ cảm nhận được một sự êm đềm, nhẹ nhàng trong tâm hồn mà thôi sau mỗi lần gặp gõ này. Anh chị P. (anh ruột tôi) và vợ chồng chúng tôi hẹn gặp nhau tại Hà Nội vào ngày 12-12-2005. Vợ chồng chúng tôi tới Hà Nội trước đó một ngày. Tôi đã sống tại hải ngoại từ hơn bốn mươi năm trước đó, cho nên tôi lại càng náo nức muốn đi kiếm lại những hình ảnh của Hà Nội và đất Bắc sau khi gia đình chúng tôi di cư vào Nam năm 1954

Người ra đón chúng tôi tại phi trường Nội Bài là chú H. em con chú con bác với BN. Đây là lần đầu tiên tôi gặp chú H. nhưng anh em chúng tôi rất hợp tính nhau nên tôi không cần phải rào trước đón sau và chú H. bắt đầu chạy việc giúp chúng tôi ngay. Sau khi chúng tôi đã vào khách sạn là BN gọi điện thoại ngay cho cô đồng M. để hẹn ngày mời cô ấy từ Hải Phòng lên Hà Nội để tổ chức vụ gọi hồn cho các gia đình nội ngoại của BN, tôi, chú H. thím L.(vợ chú H.) vài ngày sau đó. Tôi bắt đầu đi kiếm căn nhà của bố mẹ tôi tại phố Kim Liên ngày xưa nhưng chẳng thấy nó đâu. Tôi vẫn thấy cái đường rầy xe lửa chạy trước nhà ngày xưa, nhưng hỏi thăm thì chẳng ai biết tông tích được cái nhà đó.

Tôi đi thăm Hồ Bẩy Mẫu, Hồ Ba Mẫu gần nhà bố mẹ tôi hồi đó. Cảnh vật đã đều thay đổi rất nhiều. Tôi thấy lâng lâng buồn, nhưng chắc là buồn hơn Bà Huyện Thanh Quan khi bà "bước xuống Đèo Ngang bóng xế tà"...Ngày 14-12-2005 "phái đoàn" chúng tôi trèo lên xe bus về thăm làng quê chúng tôi tại Bắc Ninh. Chuyến về thăm làng quê này chúng tôi đã tổ chức qua email từ cả hơn một, hai tháng trước đó. Chú H. là người lo thuê xe và vụ ăn trưa cho "phái đoàn". Cháu G. (gọi tôi bằng cậu), cháu Q. (gọi tôi bằng chú) bay từ Sài Gòn ra Hà Nội để làm hướng dẩn viên cho chúng tôi từ Hà Nội về thăm quê cũ tại làng Me tại Phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Xe bus đi qua Gia Lâm, đi qua làng Đồng Kỵ (nổi tiếng về đồ gổ) trước khi tới làng Me. Đường đi rất chật hẹp với những con phố nhỏ bụi bậm, ồn ào và cây cối khẳng khiu vì bị mạt cưa bám đầy và khô ráo.

Xe đậu trước đình làng Me. Cái đình trông rất khang trang và mới mẻ. Tôi không nhận ra được phương hướng nữa. Cháu G. là hướng dẫn viên của chúng tôi đi từ đầu đình tới cái ngõ mà hơn năm mươi năm về trước, anh em tôi thường bị chó rượt trước căn nhà ở đầu ngõ. Làng tôi bây giờ khác hẳn với cái làng trong trí nhớ của tôi với những ao bèo, cây bàng nhiều lá và vườn rau tươi mát. Bây giờ chỗ nào cũng có nhà, ồn ào và cây cối bị mạt cưa bám đầy vì phần lớn dân làng đều làm nghề thợ mộc. Những cái ao trông bây giờ thật nhỏ và chứa nước ao tù đen ngòm. Tôi thấy thất vọng nhưng đồng thời tôi cũng thấy rất vui, vì đây là những hình ảnh mà tôi hằng đi lùng kiếm trong nửa thế kỷ vừa qua. Tới đầu ngõ, chúng tôi ghé thăm nhà cụ đồ D. mà ngày xưa anh P.và tôi rất sợ con chó dữ hay rượt anh em chúng tôi mỗi khi đi qua. Anh Q. cháu gọi cụ đồ D. bằng ông, trở thành người hướng dẫn cho chúng tôi đi thăm những nơi khác trong làng.

Anh P. và tôi đứng sững sờ trước cái cổng của gia trang mà ngày xưa chính cha mẹ chúng tôi thuê người xây cất trước khi anh em chúng tôi sinh ra đời. Cái cổng gỗ chắc nịch ngày xưa nay đã bị thay bằng cái cửa trông chẳng ra cái cửa! Căn nhà này ngày nay đã bị chia làm ba hộ cho ba gia đình cư ngụ. Họ đã lấp đất mất cái ao sau vườn để có thêm đất đai. Bụi tre sau vườn bây giờ nhỏ xíu, trông rất tội nghiệp so với cái bụi tre trong tâm thức của tôi cao vót với các tổ cò và các con cò trắng, đậu trên đỉnh ngọn tre ngày xưa khi gia đình chúng tôi còn sống rất là hạnh phúc trong gia trang đó! Hai anh em tôi đứng chụp hình trước cái cây hương đầy rêu xanh và rêu đen, mà ngày xưa mẹ chúng tôi thường ra cúng vào những ngày mùng một, ngày rằm và Tết Nguyên Ðán. Tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Tôi đã nối lại được cái "mạch điện" của hiện tại và dĩ vãng. "Mạch điện" này đã từng làm tôi khắc khoải. Cây hương, căn nhà còn đó nhưng chủ nhân của nó đã bỏ nhà cửa, bỏ ruộng đất, bỏ cuộc đời mà vĩnh viễn ra đi mất rồi! Tôi nghẹn ngào trong nước mắt: "Mẹ ơi, con đang về thăm nhà, thăm Bố, Mẹ đây!"

Chúng tôi đi thăm đền thờ cụ Quốc Sư Ðàm Công Hiệu, ngày xưa đã từng dạy chúa Trịnh Cương học, và đền thờ cụ Tiết Nghĩa Ðàm Thận Huy, ngày xưa đã từng là một thành viên của Tao Ðàn Nhị Thập Bát Tú đời vua Lê Thánh Tôn. Tôi cảm thấy rất gần gũi, rộn rã một niềm vui được trở về thăm quê cha đất tổ; vừa kính trọng vừa hãnh diện về tổ tiên. Chúng tôi vào thăm từ đường khói hương nghi ngút. Tôi thấy hình thờ của các bác họ và nhiều người thân khác. Từ đường này là một căn nhà đã được di chuyển từ cái ngõ của đại gia đình chúng tôi. Căn nhà này nay được dùng dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của chi họ Ðàm Duy, Ðàm Trung. Anh P. và tôi thay mặt các anh chị em và con cháu tại Bắc Mỹ tặng cho từ đường một số tiền, để lo cho việc cúng giỗ và tu bổ. Ngay bên cạnh từ đường là nghĩa trang của họ nội chúng tôi. Bước vào nghĩa trang tôi thấy lòng thanh thản lạ thường, và tôi tự nhủ: "Bôn ba chi lắm rồi cũng nằm xuống. Nhưng khi nằm xuống, hồn mình phải cảm thấy được thảnh thơi. Cái thảnh thơi này, tôi đang cảm nhận đuợc ngay tại nơi này!"

Tôi đang mải chụp hình lia lịa thì nhận ngay ra được ngôi mộ lớn của Bà Tổ Cô ĐTK của tôi. Tôi gọi BN và hai vợ chồng chúng tôi thắp hương, khấn vái bà. Tôi thấy thật vui, thật nhẹ nhàng và mừng rỡ trong nội tâm. Tôi thực sự được thấy mộ bà tổ cô trong cái nghĩa địa yên tĩnh này, một điều rất bất ngờ, bất ngờ đến ngỡ ngàng! Bây giờ tôi đang có BN luôn luôn bên cạnh tôi để bù lại những ngày trống vắng của nhiều năm tháng ngày xưa. Các con của chúng tôi và của anh chị P. đã khôn lớn và bây giờ chúng đã có gia đình. Chúng tôi không còn phải quá bận tâm về con cái nữa. Hai anh em tôi được sống lại trong cái cảnh ngày xưa thân thương ấy, mà chỉ mình hai anh em tôi mới cảm nhận được mà thôi! Chúng tôi đã thực sự về thăm được quê cha đất tổ và viếng thăm mồ mả tổ tiên, một điều mà hai anh em chúng tôi đều mong mỏi trong rất nhiều năm, thật là vui mừng biết chừng nào!

Tôi đã từng đi vào nhiều nghĩa trang tại Bắc Mỹ và những lần này tôi thấy rất yên tĩnh, yên tĩnh đến độ dửng dưng. Khi tôi vào thăm nghĩa địa gia đình bên nội của chúng tôi tại Bắc Ninh, tôi thấy rộn lên một niềm vui, những xúc cảm của một "ngày về" và của một cuộc hội ngộ đột ngột với những người thân thương nay đã quá vãng. Tôi cũng cảm thấy gần gủi với tổ tiên, với chính tôi và tôi thấy thanh thản vô cùng. Khi tôi vào thăm nghĩa địa Yên Kỳ tại Sơn Tây, tôi cảm thấy rất xa lạ, ma quái, trống vắng và có một cảm giác trong tôi thôi thúc tôi phải ra khỏi vùng đất bất ổn đó càng sớm càng tốt. Tôi cảm thấy đây không phải là "vùng đất của tôi" và tôi không hề có một ràng buộc gì với vùng đất này. Trên đường về Nam Định thăm từ đường của giòng họ Phạm Ngọc, "phái đoàn" của chúng tôi đã viếng thăm nghĩa trang của họ Phạm. Giữa mùi hương tại một cánh đồng hoang và làn khói của nhang cắm trên các mộ thờ, tôi cảm thấy nhẹ nhàng và bình an vô cùng.

Tôi cảm thấy như tôi đang được trở về thăm lại những người thân, họ hàng sau khi tôi đã sống lưu vong trong rất nhiều năm. Trong vòng một tuần về thăm lại quê hương tại xứ Bắc trước vụ Gọi Hồn, tôi cảm nhận thấy tôi được trở về với quê cha, đất tổ và với chính bản thân tôi. Tôi thấy tôi bị thu hút, lôi cuốn rất nhẹ nhàng, rất thân thương bởi nhiều địa danh. Tuy nhiên, tôi thấy ngẩn ngơ thương nhớ cha mẹ tôi đã phải bỏ quê hương mà vào Nam để rồi thân mẫu của tôi đã mất tại Sài Gòn vào năm 1955 và thân phụ của tôi đã mất tại Montreal, Canada vào năm 1988. Tôi ao ước có được một cuộc du lịch tâm linh để hy vọng chúng tôi có thể đối thoại được với cha mẹ, họ hàng đang sống ở "thế giới bên kia" và nhất là để tôi tự thuyết phục chính tôi rằng linh hồn con người vẫn còn tồn tại sau khi chết ...

#300 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/09/2011 - 09:25

CÂY ĐA LỐI CŨ GỌI HỒN NGƯỜI XƯA

PHẦN HAI

Theo lời chỉ dẫn của cô đồng, ba hôm truớc đó, chúng tôi đã xin phép thổ thần tại nhà chú H để cho họ nội, họ ngoại của mỗi người trong đám chúng tôi (chú H, thím L, BN và tôi) được phép "vào nhà" và nói chuyện với chúng tôi. Như đã thoả thuận trên điện thoại từ tuần trước, khoảng chín giờ sáng ngày 21-12 cô đồng đến gặp chúng tôi tại nhà của vợ chồng chú H. Ngoài bốn người chúng tôi dự buổi lễ Gọi Hồn này còn có cô H. và cô T. (hai cô em gái ruột của thím L.). Trên bàn thờ chúng tôi bày cháo, xôi, rượu, hoa quả, vàng mã. Ngay trước mặt bàn thờ, chúng tôi đặt một cái bàn thấp trên đó chúng tôi cũng đặt đồ cúng, ba ly nước trà, thuốc lá. Chúng tôi trải chiếu và ngồi trên chiếu trước bàn thờ. Chú H. thắp nến và cô đồng thắp hương rồi ngồi xếp vòng tròn trong tư thế tọa thiền. Cô đồng ngồi khấn vái, đọc họ và tên của bốn người chúng tôi để chúng tôi được đón tiếp cha mẹ, họ hàng của chúng tôi bên cõi Âm.

Sau khi khấn họ nội, họ ngoại bên phía BN, tôi, chú H, thím L, cô đồng đổ hai đồng xu trên đĩa để "xin âm dương" nghĩa là đã được người khuất mặt chấp nhận. Cô đồng "xin âm dương" ba lần cả thẩy. Tôi ngồi phía bên trái của cô, bên cạnh bàn thờ và dùng cái Handy camcorder để ghi lại hình ảnh và tiếng nói. Tôi đã được người nhà cho biết trước là phần gọi hồn này sẽ kéo dài khoảng ba tiếng đồng hồ, cho nên tôi đã để sẵn ba cuộn băng thu hình, cộng thêm một cái battery phòng hờ nữa, miễn làm sao là tôi thâu hình được tất cả các diễn biến vì đây là "cơ hội ngàn vàng" cho tất cả mọi người hiện diện ngày hôm đó. Có tất cả mười chín nhân vật hiện về trong ba cuốn băng, thâu trong vòng khoảng ba tiếng đồng hồ, không kể hai nhân vật mà chúng tôi không nhận ra "lý lịch" và một nhân vật mà tôi quay không kịp trong lúc đổi battery.

Mỗi nhân vật bên cõi Âm về đối thoại với chúng tôi khoảng từ ba phút tới chín phút, nhưng cha mẹ chúng tôi thì nói lâu hơn. Tôi xin mạn phép trình bầy ngắn gọn phần đối thoại của nhiều nhân vật. Cô đồng ngồi theo lối tọa thiền, nhắm mắt, tay để ngửa trên đầu gối và các ngón tay gấp lại. Bổng thấy cô ngáp rồi nói:

- Ph về đây!

Ðây là nhân vật đầu tiên xuất hiện và là cụ tổ năm đời của BN và chú H. Cụ mất khoảng gần trăm năm rồi. Nhân vật thứ hai là cụ tổ bốn đời của BN và H, sau khi chúng tôi và người bên Cõi Âm đã đối thoại và xác nhận được vai vế của mình. Chú H rót trà mời cụ, cô đồng uống trà và nói truyện. Cụ cho biết mộ của cụ đã bị thất lạc và vì Cụ thương con cháu nên mới về thăm. Cô đồng lại vuốt mặt, ngồi một lúc và nhân vật thứ ba xuất hiện. Đây là ông nội của BN và H. Cụ cho BN biết nên mang tro cốt của thân phụ BN từ Canada về lại VN nếu không vong linh của thân phụ của BN sẽ không được yên ổn. Tro cốt để ở trong chùa không tồt bằng đem ra nghĩa địa mà chôn cất. Cụ rất thương chú H và vẫn thường về thăm chú H. (Mộ của cụ ở nghĩa trang Yên Kỳ, tuần trước đó chúng tôi đã lên thăm, thắp hương và cúng các cụ).

Nhân vật thứ tư là cụ bà NTN, vợ của cụ tổ bốn đời của BN và H. (BN và tôi đã thắp hương khấn cụ khi chúng tôi viếng mộ của cụ tại nghĩa trang Yên Kỳ tại Sơn Tây tuần trước đó). Mọi người và tôi rất đỗi ngạc nhiên khi nghe cụ nói:

- Phán đâu?

Cụ mất đã lâu năm và trên thực tế Cụ chưa hề gặp mặt tôi. Cụ cho biết ngày giỗ của cụ là vào ngày mùng hai tháng Giêng âm lịch. Nhân vật thứ năm là cháu D. Cháu là con trai đầu lòng của chú H, thím L. và qua đời khi mới mười bốn tuồi. Hồn chào hai dì và cô đồng rồi quay qua BN mà hỏi:

- Thế quà của cháu đâu, bác Nga?

Thím L. đứng lên lấy gói kẹo của bác BN đưa cho cô đồng. Cô đồng xem gói kẹo rồi nói thím L. đặt gói kẹo lên bàn thờ cho cháu D.

Nhân vật thứ sáu xuất hiện rất đột ngột. Chỉ nghe cô đồng nói rất khẽ:

- Nh. về!

- Nga đâu?

- Phán đâu?

- Thế chú B. không về hả?

Cả Nga và tôi đều bồi hồi xúc động vì "Nh." chính là quý danh của thân phụ của BN. Cách xưng hô và gọi tên những người trong cõi Dương rất là đúng. Cụ cho biết là ông nội của BN. và H. muốn tro cốt của cụ được mang từ Canada về chôn cất tại nghĩa địa Yên Kỳ. Cụ hỏi thăm anh chị em của BN. Cụ cũng cho tôi biết là bố mẹ tôi "cũng về đấy"! Theo lời cụ thì năm 2005, chú H. không sang Mỹ thăm gia đình được nhưng năm 2006, chú ấy mới qua Mỹ được. Nhân vật thứ bảy là bác X. (bác của BN. và H. Tuần trước đó, chúng tôi đã thắp hương khấn Bác khi chúng tôi viếng mộ của Bác tại nghĩa trang Yên Kỳ ở Sơn Tây). Bác hỏi vì lý do gì mà mời Bác về? Bác còn cho biết nhiều chi tiết liên quan tới gia đình chú H.(Các chi tiết này rất đúng sự thật). Nhân vật thứ tám là Ng. (em họ của BN và H. Ng. là con trai; chết trẻ trong chuyến vượt biên). Cuộc đối thoại không lâu và chú chào từ biệt.

Nhân vật thứ chín "đến" rất bất ngờ. Cô đồng nói rất sẽ:

- Thu đây!

Chúng tôi không biết cụ là ai nên lên tiếng:

- Thưa cụ, cụ bên họ Đàm, họ Dương hay họ Nguyễn ạ?

- Họ Đàm!

Tôi lắp bắp:

- Thưa có phải là bà tổ cô của Ðàm Trung Phán không ạ?

- Thế không nhận ra được hả?

Tôi phải xin lỗi Bà vì tôi chỉ biết tên bên cõi Dương của bà là ĐTK trong khi bà xưng tên bên cõi Âm là Thu nên tôi không nhận ra ngay được! Ðây là lần đầu tiên tôi mới được thực sự "gặp" Bà sau gần hai mươi năm, khi tôi đã đặt bàn thờ để tưởng nhớ đến Bà tại nhà tôi ở Canada. Cô đồng quay qua phía BN và nói:

- Các con đã vào nhà thờ và thăm mộ Bà, hôm nay bà về thăm các con!

Bà cho biết bà vẫn thường về thăm căn nhà của bố mẹ tôi tại Bắc Ninh và thăm viếng những người "ở thuê" trong căn nhà đó. Cô đồng quay qua tôi và nói:

- Bà luôn luôn theo và che chở cho con! Thế con đã tìm ra mộ ông nội của con chưa?

Bà là em gái của ông nội tôi và Bà mất khi còn khá trẻ. Bà cho biết mộ ông nội tôi vẫn còn nhưng nay đã bị thất lạc và bà sẽ giúp tôi trong việc tìm kiếm mộ của ông nội tôi.

- Ngang vai con có một người đã mất. Sao con không cúng anh ấy?

Tôi nghĩ ngay đến anh Hán của tôi, mất năm 1945 khi anh ấy còn rất trẻ. Vì Bà trách tôi sao tôi không cúng nên tôi lắp bắp xin lỗi và xin bà cho biết ngày giỗ của anh ấy.

- Lát nữa anh ấy sẽ về. Cả hai bố mẹ con nữa đấy! Bà luôn luôn về thăm con! Có việc gì bà sẽ về báo mộng cho con biết. Thôi bà đi nhé!

Tôi hỏi vội:

- Có phải sau khi thăm mộ Bà ở làng Me về, tối hôm đó, Bà đã "tặng" cho con một giấc mộng với rất nhiều hình ảnh hoa Lan đẹp rực rỡ trong một cái nhà kính, phải không ạ?

Bà không trả lời, tôi chỉ thấy cô đồng gật đầu, rồi bà thăng. Nhân vật thứ mười là mẹ của H. và H. nhận ra ngay được thân mẫu (thím của BN). Quay qua BN, hồn nói:

- Mẹ cháu cũng về đó.

Nhân vật thứ mười một là anh P. Anh là con trai của bác X. và là con chú con bác ruột với BN và H. Nhân vật thứ mười hai xuất hiện với tên Ng. và sau một hồi hỏi tên họ, chúng tôi mới biết là họ Nguyễn và là em gái của L. (vợ chú Hùng). Cô Ng. chết trẻ nên mãi một lúc sau cả thím L. và hai cô em gái của thím L. (có mặt trong buổi gọi hồn này) mới nhận ra được cô. Nhân vật thứ mười ba xuất hiện, nói tên rất nhẹ như trong làn gíó vậy. Tôi ngồi quay phim ở phía xa nên nghe không rõ nhưng BN đã trả lời ngay:

- Mợ về!

Ðây là thân mẫu của BN. Cụ hỏi thăm BN tất cả các anh chị em của BN và nói tên rành rọt từng người một, ngay cả tên cô con gái nuôi (tên H.) của cụ nữa. Cụ muốn BN mang tro cốt của cụ từ Saigon ra chôn cất tại nghĩa địa Yên Kỳ (Bất Bạt tại Sơn Tây) để cụ được "đoàn tụ" với thân phụ của BN!

Cô đồng quay qua tôi và nói:

- Ông bà suôi cũng về nữa đấy!

Cụ nói truyện với BN một hồi rồi thăng. Cô đồng lắc lư đầu, ngáp một cái và nhân vật thứ mười bốn khai tên:

- Tr. về!

Tôi đoán đó là người anh họ nội của tôi nên tôi chào hỏi ngay:

- Em là Ðàm trung Phán đây, có phải là anh Ðàm Trung Tr. không?

Hồn trả lời:

- Anh về thăm chú đấy!

Rồi quay qua BN, hồn hỏi:

- Con Cún nó đâu?

BN và tôi ngẩn ngơ, chưa biết trả lời ra sao thì chú H. đã lên tiếng:

- Cún là con gái của chị đấy!

Hồn hỏi:

- Nó không về à?

Tôi hỏi anh có nhắn gì con cháu của anh không, anh lắc đầu:

- Anh chỉ về thăm chú thôi! Anh đi nhé!

Nhân vật thứ mười lăm nói tên rất nhanh:

- Hán đây!

Tôi trào nước mắt vì đây là anh ruột của tôi, anh mất năm lụt Ất Dậu 1945, lúc đó anh mới năm, sáu tuổi gì đó. Tôi chỉ kịp nói:

- Anh!

Hồn nói:

- Chú ra ngồi đây với anh!

Tôi trao máy quay phim cho BN để quay dùm tôi.

Hồn hỏi:

- Hôm nay có việc gì mà chú mời anh về?

- Em mời họ hàng về để em hỏi thăm xem có cần gì không?

- Chú thăm mộ anh chưa?

- Em không biết mộ anh ở đâu!

- Sao chú chẳng cúng giỗ anh gì cả?

Tôi lắp bắp:

- Lúc anh mất, em còn bé quá rồi em lại đi xa nhà quá lâu nên em không biết ngày giỗ của anh!

- Nhớ giỗ anh vào ngày 27 tháng 4 âm lịch. Chú phải cúng giỗ anh, anh vẫn về thăm chú đấy!

Anh còn hỏi thêm:

- Hai con trai của chú đâu? Chú có trách nhiệm phải mang chúng nó về với giòng họ nội nhà mình đấy! Mà tại sao chú và BN lại không có một đứa con trai với nhau để nó mang máu mủ họ nhà mình?

Mặt mũi cô đồng lúc đó cười nói rất hóm hỉnh. Tôi lại phảỉ ấp úng giải thích. Anh còn cho biết:

- Khi chú về làng thắp hương cúng các cụ, anh cũng theo về đấy! Bố mẹ nhà mình không muốn mang mộ phần về Việt Nam đâu, phần mộ của bố ở Canada đẹp lắm.

Anh còn cho biết lát nữa mẹ tôi cũng về nữa. Tôi hỏi anh cuộc đời về sau của tôi ra sao, anh chỉ trả lời:

- Anh luôn luôn che chở cho chú!

Sau đó anh nói:

- Anh đi đây!

Cô đồng ngồi vuốt mặt và ngồi im một lúc. Xin mời quý vị nghe cuộc đối thoại với nhân vật thứ mưới sáu dưới đây. Tôi đang quay phim bỗng nghe tiếng cô đồng:

- Phán đâu? Bố đây!

Hồn hỏi ngay:

- Pháp có về không?

Tôi thật xúc động vì đây là lần đầu tiên tôi được "nói chuyện" với thân phụ tôi sau khi cụ qua đời vào năm 1988 tại Montreal, Canada. Cụ cho biết là cụ thường ở bên cạnh các anh chị em chúng tôi. Cụ hỏi:

- Thế con đã về thăm đất làng Me chưa? Có biếu tiền cho người ta trông nom phần mồ mả cho các cụ nhà mình không?

Cụ hỏi thăm hai thằng cháu nội M. và S. (con trai tôi) và cả thằng chắt nội của Cụ (con trai đầu lòng của M. và là cháu nội đích tôn của tôi). Cụ cho biết Cụ vẫn thường "về thăm" các cháu, chắt này.

Cụ nói tiếp:

- Phần mộ của Bố ở Montreal đẹp lắm, không phảỉ chuyển đi đâu hết. Bố muốn các con sống hạnh phúc và các cháu thành đạt. Người vợ cũ của con đối xử với bố, với con như thế nào, con là người trong cuộc, con biết rõ; Bố càng thương con bấy nhiêu. Mà mẹ con cũng về cùng về đấy!

Vẻ mặt cô đồng rất đăm chiêu. Cụ còn kể cho tôi biết nhiều chuyện riêng tư trong gia đình và cuộc đời mà chỉ hai bố con chúng tôi biết mà thôi. Tôi nghẹn ngào vì thương Bố. Tôi chỉ biết cầu mong để cụ quên đi những chuyện không vui ngày xưa. Những chuyện này đều đúng sự thật mà cô đồng, ngay cả BN cũng chẳng hề biết được.

- Thôi Bố đi đây!

Rồi cụ thăng. Cô đồng ngồi xoa tay lên mặt và ngồi im lặng khá lâu, bỗng tôi nghe thấy tiếng nói rất khẽ của nhân vật thứ mười bảy:

- Th đâu? (Th đúng là tên của chú em trai út của tôi).

Tôi vội gọi:

- Mẹ!

Tiếng cô đồng hỏi rất nhẹ:

- Cháu Steve đâu?

(Steve là tên con trai út của tôi, nghe như cụ gọi nó là "Ti" vậy).

- Sao nó không về gặp bà?

Tôi trả lời:

- Cháu sẽ về Saigon tháng sau, đi cùng với mẹ của nó ạ.

Tiếng mẹ tôi qua cô đồng:

- Việc vợ con của con ngày trước, con vất vả lắm. Con phải cố gắng mà mang thằng "Ti" về lại với giòng họ nội nhà mình nhé!

Mẹ tôi hỏi thăm tất cả các anh chị em tôi, không gọi sai một tên nào hết!

Cụ nói:

- Mẹ thương các con lắm, mẹ luôn luôn theo và che chở cho các con.

Rồi quay qua BN, mẹ tôi nói tiếp:

- Mẹ cám ơn BN đã mang lại hạnh phúc cuối đời cho Phán. Các con sống hạnh phúc thì mẹ mới vui. Khi nào "Ti" nó lấy vợ thì nhớ cho Bà biết với nhé!

Tôi hỏi:

- Ở bên đó đời sống của mẹ ra sao, mẹ có cần gì không?

Mẹ tôi trả lời:

- Mẹ ngày nào cũng vào chùa, cuộc sống của Mẹ bây giờ an nhàn lắm. Con không cần phảỉ cúng gì thêm cho mẹ cả. Mẹ ở với anh T, mẹ hài lòng lắm.

(tro cốt của mẹ tôi đang để ở nhà anh T của tôi tại Texas; chị dâu tôi đã mang tro cốt của Cụ từ VN sang Mỹ khi chị sang đoàn tụ với anh tôi).

Cụ tiếp lời:

- Các con thương yêu và đùm bọc lẫn nhau, con cháu thành đạt là mẹ mãn nguyện lắm rồi.

Trước khi từ giã, mẹ tôi nói:

- Con có hiếu lắm, nghe tin con về, âm phần ai cũng vui. Sang năm con về nhớ đi tìm mộ ông nội để báo hiếu. Anh Hán cũng đã về ở với mẹ rồi. Thôi Mẹ đi nhé!

Cô đồng lại xoa mặt và nhân vật thứ mười tám nói rất khẽ:

- Bé về!

Chúng tôi hỏi cô là ai. Sau đó mới biết đây là cô em gái chót út của BN và mất khi còn rất nhỏ tuổi. Cô cho biết là phần mộ của cô đã bị san bằng, và muốn BN cúng cô vào ngày 16-4 âm lịch.

Cô nói:

- Em luôn luôn ở cạnh chị và phù hộ cho chị.

Bỗng cô đồng cuời to:

- Sao chị không cúng ông "Trưởng giả" à? Mà chị có biết ông Trưởng giả là ai không?

Vẻ mặt cô đồng rất là tinh nghịch. Chúng tôi ngồi im vì chưa biết ông "Trưởng giả" là ai thì cô lại cười và nói tiếp:

- Lát nữa, ông "Trưởng giả" về thì chị sẽ biết là ai!

Cô đồng cười tinh nghịch. Sau đó hồn thăng. Nhân vật thứ mười chín kế tiếp là anh Ph (anh ruột của BN). Anh quay qua hỏi thăm BN tất cả các anh em của BN, nói đúng tên từng người một. Anh hỏi thăm cháu H (con gái của BN) vì ngày xưa anh ấy hay đưa cháu đi học. Anh cho biết cháu H sẽ sinh con vào tháng 8 Âm lịch năm tới (năm 2006). Anh cho biết là anh vẫn gặp bố mẹ BN. Trước khi thăng, anh cho biết là không còn ai về nữa đâu. Hóa ra anh Ph chỉ "đóng vai" con trai "Trưởng giả" của bố mẹ BN ở bên cõi Âm, vì thực ra anh là con trai thứ chứ không phải là con trai "Trưởng thật"!

Cô đồng ngồi một lúc, sau đó vuốt mặt vài cái rồi đứng lên lễ tạ. Trong khi mọi người lo đốt vàng và chia phần trái cây, BN và tôi tiếp chuyện cô đồng. Cô chừng ba mươi sáu tuổi và đang có bầu được ba tháng, vẻ mặt hiền từ của một thôn nữ trông khác hẳn vẻ mặt khi cô tiếp xúc với các nhân vật bên cõi Âm. Cô đồng cho biết khi cô khoảng mười ba tuổi cô bị ốm nặng đến độ hôn mê tưởng chết, sau đó thỉnh thoảng cô nghe được tiếng người bên cõi Âm nói chuyện và nhìn thấy được một nửa người của họ. Chúng tôi đang nói chuyện thì có một bà đến nhà chú H. Bà khẩn khoản mời cô đồng đến nhà bà để nhờ cô gọi hồn chồng bà về nhưng cô đồng khước từ. Sau khi bà kia đã ra về, cô đồng nói:

- Cháu phải về lại Hải Phòng để làm lễ tạ ơn. Cô chú hôm nay may mắn lắm nên các cụ mới về nhiều như thế.

Tiễn cô đồng ra về, tôi cảm thấy thật là vui vì tôi đã được "nói chuyện" với những người rất thân thương của tôi nhất là các chi tiết của gia đình tôi không có chỗ nào là "trái cựa" cả. Tôi đã tưởng rằng tôi đã "mất bố mẹ tôi" nhưng thật ra hồn của hai cụ vẫn còn quan tâm và về thăm chúng tôi nữa. Thật là huyền bí nhưng tôi đang cảm nhận được niềm an vui và thấy thanh thản y như là hai cụ "vẫn còn sống" vậy! Mai này, khi tôi chết, tôi sẽ không cảm thấy sợ hãi vì tôi đã có những người thương yêu tôi đang chờ đón tôi tại "một cõi khác" và chính hồn tôi cũng sẽ về thăm và giúp các con cháu của tôi. Hai chữ "linh hồn" trong tôi, tôi cảm nhận thấy được rõ ràng hơn trước khi chúng tôi Gọi Hồn. Hóa ra "sống" và "chết" là như vậy sao?






Similar Topics Collapse

10 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 10 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |