Jump to content

Advertisements




Truyện ngắn huyền bí - hiendde


1072 replies to this topic

#256 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 30/08/2011 - 23:48

TRÒ CHƠI KHIÊNG MA

Không biết hồi nhỏ có ai đã chơi trò khiêng ma này chưa? Đây là trò của trẻ chăn trâu. Hiện tượng kỳ quặc chưa thấy ai giải thích được. Cụ thể là thế này: Trò chơi cần đến tám người. Một người nằm ngửa khép thẳng chân, tay chắp lên bụng mặt đắp một chiếc khăn. Nhiệm vụ từng người như sau: Một người đứng phía đầu, đặt một ngón tay trỏ sau ót người nằm. Có hai người đứng hai bên đặt ngón trỏ dưới hai bả vai người nằm. Hai người đứng hai bên ngang hông, đặt ngón trỏ dưới vùng hai bên thắt lưng người nằm. Hai người đứng cuối chân, đặt ngón trỏ dưới hai kheo mắt cá chân người nằm.

Trò chơi bắt đầu:

Người đứng phía trên đầu hỏi người thứ hai bên tay phải:

- Bác đi đâu đấy?

Người thứ hai trả lời:

- Tôi đi khiêng ma.

Và lại hỏi tiếp người bên cạnh bên tay phải:

- Bác đi đâu đấy?

Người tiếp theo trả lời:

- Tôi đi khiêng ma.

Và tiếp tục cứ hỏi người bên cạnh tay phải như vậy cho đến khi kết thúc vòng ở người thứ bảy (bên tay trái người đứng đầu).

Người đứng đầu nói:

- Nào chúng ta cùng khiêng.

Ở thời điểm kết thúc câu nói, cả bảy người cùng thọc ngón tay trỏ vào vị trí đã được phân công và cùng nâng lên. Khi đó người nằm sẽ được nâng lên cao khỏi chỗ nằm. Nếu chơi tốt cả đoàn có thể khiêng được người nằm, đi một vòng khá xa và quay về đặt lại đúng vị trí cũ. Yêu cầu không khí phải trang nghiêm, ánh sáng có thể hơi tối mờ một chút cho thêm phần âm u. Đặc biệt, cả tám người cùng chơi phải thành tâm, không được cười cợt dù là cười thầm trong bụng.

Tôi phải nhấn mạnh điều này vì không đạt được như thế thì không thể làm được trò chơi. Trong thực tế, bảy người cùng khiêng nhưng có một hoặc hai người cười thầm trong bụng, thì lập tức tại khu vực người đó phụ trách, tự nhiên trở nên nặng kinh khủng, oằn cả ngón tay mà không thế khiêng nổi. Đã có bạn nào chơi trò này chưa? Tôi đã chơi trò này rồi và quả đúng thế thật. Còn một kiểu chơi tương tự là khiêng ngồi cần năm người chơi. Nếu các bạn có hứng thú tôi sẽ kể tiếp.

Nghe nói khoảng năm 1972 lưu học sinh Việt Nam ở Hungari, đã chơi trò khiêng ma trong mấy ngày được nghỉ Tết âm lịch. Một số sinh viên nước ngoài đã rất ngạc nhiên khi chứng kiến, và viết thư về nhà hỏi các thầy, thậm chí còn yêu cầu sinh viên Việt Nam làm lại để chụp ảnh gửi về, nhưng không ai giải thích được. Còn trò khiêng ma ở tư thế ngồi thì như thế này: Một người ngồi trên ghế đẩu, lưng thẳng, hai tay buông thõng, nhắm mắt. Có bốn người đứng xung quanh. Mỗi người dùng một ngón trỏ để khiêng. Vị trí đặt ngón trỏ là hai bên nách và hai bên kheo đầu gối.

Cách chơi:

Một người cầm cái đặt úp bàn tay phải của mình lên đính đầu người ngồi. Những người còn lại cũng lần lượt đặt úp bàn tay phải chồng lên nhau theo thứ tự ngược chiều kim đồng hồ. Sau đó người cầm cái lại đặt úp tiếp bàn tay trái của mình, và cứ như vậy cả ba người tiếp theo lần lượt úp hết bàn tay trái lên đầu người ngồi theo chiều ngược kim đồng hồ. Sau khi bàn tay thứ tám úp xong người cầm cái khẽ hô:

- Một...hai...ba.

Và cả bốn người cùng ấn nhẹ xuống. Sau khi ấn xong, cả bốn người cùng đưa ngón trỏ vào vị trí mình phụ trách và cùng nâng lên mà không cần hô một hai ba nữa. Người ngồi sẽ được nâng cao khỏi mặt ghế lên đến cao hết tầm tay nâng. Nếu chơi tốt, có thể khiêng đi một vòng và đặt lại chỗ ngồi cũ. Chú ý ấn nhẹ thôi. Nếu ấn mạnh quá người ngồi sẽ sụm cổ đấy. Không khí khi chơi cũng giống như trò khiêng ma: Nghiêm trang, không cười đùa.

Năm 1973 tôi đã chơi trò này bên Ba Lan. Lúc đầu khiêng một sinh viên Việt Nam rất dễ vì trọng lượng còn nhỏ, khoảng năm mươi lăm kg, nâng cao hết tầm tay với. Lần sau có một sinh viên Ba Lan vào, thấy ngạc nhiên nên cũng đòi chơi đứng nâng và yêu cầu ngồi để mọi người nâng. Đến lượt ông bạn này thì quá nặng nên chỉ nâng đến độ cao phân nửa trường hợp đầu, thì do quá nặng và một người chơi phì cười, thế là anh ta rơi phịch xuống ghế. May mà không việc gì. Anh ta nặng khoảng tám chục kg.

ST

#257 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 30/08/2011 - 23:58

LINH SỐ MƯỜI HAI

Trong lãnh vực tôn giáo thì con số mười hai được coi là linh số của Thượng Đế. Theo chơn truyền Cao Đài giáo thì tầm quan trọng của con số mười hai như sau: Trong Thánh giáo dạy về Lễ bái Đức Chí Tôn đã nói về con số mười hai như sau: Lạy Thầy mười hai lạy là tại làm sao? Các con không biết đâu. Thập nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn thế giới, nắm trọn Thời Thần vào tay. Số mười hai là số riêng của Thầy. (Thánh giáo ngày 25-2-1926-TNHT-Q1-Tr.9-10).

Trong Thánh giáo dạy về phổ độ Đức Chí Tôn đã dạy mỗi môn đệ phải độ được mười hai người: Chư môn đệ đã lập minh thệ rồi ngày sau tùy âm chất mỗi đứa mà thăng, hay tội lỗi mà giáng, song mỗi đứa phải độ cho đặng ít nữa là mười hai người. (Thánh giáo ngày 27-08-1926/20 tháng 07 Bính dần-TNHT-Q1-Tr.39).

Trong Phương pháp Luyện tập thân thể, Đức Hộ Pháp đã dạy tập mười hai thế vận động, mỗi thế làm mười hai lần, cũng như luyện thở có chỉ huy chỉ mười hai hơi mà thôi. Đức Ngài đã dạy rằng: Nên nhớ con số mười hai là con số đặc biệt của Đức Chí Tôn. Trong đó mười hai con Giáp linh diệu cũng là Thập nhị thời thần. (mười hai bài luyện tập thân thể). Thầy nắm trọn Thập nhị Thời thần vào tay, rồi mới khai thiên lập địa”(Diễn văn của Đức Hộ Pháp đọc tại Tòa Thánh Tây ninh ngày 14-2 Mậu thìn 5-3-1928).

Theo kinh nghiệm những người đã ứng dụng theo Phương pháp luyện tập nầy, thì chi cần làm đúng con số mười hai thì không bao giờ gặp sự phản ứng nào bất lợi cả. Trong buổi đầu khai Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn đã thâu nhận mười hai người làm môn đệ đầu tiên để truyền bá mối đạo. Cũng như về sau Đức Chí Tôn đã tấn phong mười hai vị Thời quân Hiệp Thiên Đài làm tướng soái của Thầy để làm đồng tử (cầu cơ chấp bút). Khi khai Thánh Giáo Chúa Jesus cũng đã chọn mười hai môn đệ để truyền đạo. Ngày nay chúng ta còn nhận thấy con số mười hai còn hiện diện trong cả các lãnh vực khoa học tự nhiên, khoa hoc nhân văn và cả trong khoa học thực nghiệm nữa:

- Mười hai giờ là nửa vòng của quả đất quay trên trục của nó tạo ra ngày đêm, sáng tối, âm dương.

- Mười hai tháng là một vòng quay của quả đất theo quỷ đạo của nó quanh mặt trời tạo ra bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông.

- Mười hai địa chi là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Người xưa cho rằng: Thiên sanh ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần. Nên về mặt huyền vi nó kết hợp với mười Thiên can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý biểu tượng cho cơ sanh hóa: Thập Thiên can bao hàm vạn tượng. Tùng Địa chi hóa trưởng Càn khôn”. (Phật mẫu chơn kinh). Về mặt ứng dụng con số mười hai. Đông phương đã dùng mười hai Địa chi kết hợp với mười Thiên can để làm cơ sở cho các khoa nhân văn sau đây:

1. Chế ra lịch (âm lịch) để tính giờ, ngày, tháng, năm và tiên lượng sự biến chuyển thời tiết khí hậu trong năm, như ngày nào đó là tiết Đại hàn (lạnh nhiều), Đại thử (nắng gay gắt), Tiểu tuyết (tuyết rơi ít), Đại tuyết (tuyết rơi nhiều)...

2. Âm lịch còn kết hợp với Dịch lý làm cơ sở cho các khoa: Dự đoán học (bói toán), Thái ất, Độn giáp, Tử vi đẩu số (chiêm tinh Đông phương).

- Phương Tây cũng chia Hoàng đạo làm mười hai cung, và gọi các chòm sao ở mỗi cung bằng các tên:

1. Aries (Bạch dương).

2. Cancer (Cự giải).

3. Libra (Thiên bình).

4. Capricornus (Ma kết).

5. Taurus (Kim ngưu).

6. Leo (Sư tử).

7. Scorpius (Thiên hát)

8. Aquarius (Bảo bình).

9. Gemini (Song tử).

10. Virgo (Thất nữ).

11. Sagitarius (Nhân mã).

12. Pices (Song ngư).

- Mười hai cung còn có mặt trên địa bàn của khoa Tử vi Đông phương (Trung hoa cổ). Còn hiện diện trong mười hai cung của khoa Chiêm tinh Tây phương (Hy lạp cổ), tiên đoán vận mạng con người, sinh gặp cung nào thì vận mạng sẽ ra sao, khá chính xác.

- Trong cơ thể con người có mười hai đường kinh lạc, xuất phát từ mười hai tạng phủ, phân bố khắp cơ thể, lại có nhịp độ sinh học thịnh suy tương ứng với mười hai giờ phương Đông như Phế (phổi) thịnh vào giờ Dần (3 đến 5 giờ sáng), Vị (dạ dày) thịnh vào giờ Thìn (7 đến 9 giờ sáng)...

- Theo khoa giải phẩu sinh lý học hiện đại, thì con người có mười hai đôi thần kinh xuất phát từ sọ não, phân bố lang thang khắp cơ thể, chi phối sự linh thông sáng suốt của con người.

- Trong hóa học hữu cơ hiện đại, con số mười hai có mặt trong phân tử hình thành hợp chất sống, đó là phân tử hữu cơ vòng của đường Glucose có công thức C6 O6 H12.

- Trong sự cấu tạo vật chất, khoa vật lý học hiện đại đã tìm ra mười hai thành phần cấu tạo cơ bản của vật chất trong đó có sáu lepton, sáu quart (Theo The Tao of Physic).

Như vậy đối chiếu giữa huyền linh và khoa học về tầm quan trọng của con số mười hai, cho ta một nhận định rằng “Thượng Đế có mặt ở khắp mọi nơi và chi phối mọi hiện tượng” từ sự cấu tạo nên hạt tiềm nguyên tử cho đến vòng quay của địa cầu.

Dã Trung Tử

#258 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 31/08/2011 - 00:03

BỆNH MA CÀ RỒNG

Bé gái năm tuổi Kasey Knauff chỉ có thể ra ngoài khi màn đêm buông xuống, bởi tia cực tím, hoặc thậm chí bóng đèn điện cũng có thể gây nguy hiểm cho cô. Nhiều người đã từng biết ma cà rồng là sản phẩm tưởng tượng của con người được gắn với một ông vua ở Romania, tên là Vlad Tepes. Nhưng nhiều học giả cũng cho rằng, có thể ma cà rồng bắt đầu “nguyên mẫu” từ những người có căn bệnh lạ. Răng họ dài ra, lợi bị tổn thương, rỉ máu, họ sợ ánh sáng mặt trời và luôn lẩn trốn trong bóng tối. Giống các đặc điểm nổi bật của những con ma cà rồng thường thấy trên màn ảnh.

CĂN BỆNH BÍ ẨN

Cô bé Kasey Knauff năm tuổi bị phỏng rộp toàn thân, vì sinh ra cùng với căn bệnh porphyria, một căn bệnh nhiều bí ẩn mà chỉ khoảng 500 người trên toàn thế giới mắc phải. Cô bé chỉ có thể ra ngoài khi màn đêm buông xuống, bởi tia cực tím, hoặc thậm chí bóng đèn điện cũng có thể gây nguy hiểm cho cô. Nỗi kinh hoàng ấy bắt đầu ngay từ ngày cô ra đời, 10-4-2001. Howard Pride, bác sĩ ở Trung tâm Y học Geisinger, Danville, California, Mỹ đã kiểm tra miếng băng ở máy trợ tim cho Kasey và giật mình bởi những gì ông nhìn thấy, phần da ngay dưới miếng băng trắng bệch, còn phần da ở xung quanh đã chuyển sang màu đỏ. Mặc dù các bác sĩ biết rằng, da của Kasey rất nhạy cảm với ánh sáng, nhưng cùng với các triệu chứng khác thì nước tiểu của Kasey cũng sẽ có màu đỏ. Kasey đang phải chịu những phiền phức do porphyria, một căn bệnh do rối loạn chuyển hóa heme, một chất cần thiết để tạo hemoglobin trong máu gây ra.

Căn bệnh này gây ra một loạt triệu chứng như nhạy cảm với ánh sáng, xương bị cong vẹo, nước tiểu có màu đỏ, răng chuyển sang màu nâu đậm hoặc đỏ quạch. Một số nhà khoa học đã tìm cách lý giải hiện tượng ma cà rồng. Theo bác sĩ người Anh, Lee Illis, hiện tượng ma cà rồng có nhiều liên quan tới căn bệnh di truyền là porphyria và một số rối loạn chuyển hóa khác. Các nhà khoa học cho biết, thèm máu cũng là một biểu hiện của chứng rối loạn chuyển hóa porphyria. Bệnh này là hình thức phổ biến nhất của một nhóm các rối loạn di truyền, nguyên nhân gây ra những dị thường trong tế bào sắc tố thành phần quan trọng của protein như hemoglobin, chất vận chuyển oxy trong tế bào hồng cầu.

Heme một sắc tố trong máu là chất quan trọng giúp hình thành các phần cơ thể người. Heme được tìm thấy nhiều nhất trong máu và trong tủy xương, nó cũng được tìm thấy trong gan và tế bào hồng cầu. Cơ thể cần nhiều các enzymes để cấu thành các thành phần hóa học (gọi là porphyrin) trong heme. Nếu một trong những enzymes này bị thiếu hụt hoặc thừa thãi, quá trình cấu tạo bị thay đổi. Điều này khiến cho bệnh nhân mắc chứng porphyria dẫn đến có sự phát triển cơ thể dị thường. Trong trường hợp một người bị mắc bệnh, thì con trai ông ta có nguy cơ bị di truyền căn bệnh này với tỷ lệ là 25%. Giống như hầu hết những căn bệnh liên quan tới gene khác, những đứa trẻ được sinh ra bởi những cặp vợ chồng có huyết thống gần nhau sẽ có nguy cơ mắc phải dạng bệnh này khá cao, nhất là các gia đình mang dòng máu hoàng tộc.

MA CÀ RỒNG HIỆN ĐẠI

Theo Hiệp hội Porphyria Mỹ, rối loạn chuyển hóa porphyria là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến các vấn đề về da, như bị bỏng rộp da. Bỏng rộp da càng trở nên nặng nề hơn ở những vùng dễ bị phơi dưới nắng như tay và mặt. Thậm chí sau khi bị tổn thương cục bộ như bị loét, xước, chảy máu, các mảng da này sẽ bị lột rách. Thêm vào đó, bệnh nhân bị rối loạn chuyển hóa porphyria có những mảng tối dày đặc trên da và có dấu hiệu phát triển tế bào thượng bì quá mức, giống như sự tăng cường phát triển tóc. Thêm vào đó, xuất hiện vết ố bẩn màu nâu hoặc màu đỏ như máu trên răng, do sự thay đổi sắc tố. Lợi của bệnh nhân mắc chứng này mỏng, dễ tổn thương, da co lên khiến răng dài ra, trông như nanh sói. Cũng vì da mỏng, nên lợi bệnh nhân dễ tổn thương, thường bị chảy máu và dễ lở loét.

Không chỉ gây biến dạng cơ thể và khuôn mặt, rối loạn chuyển hóa porphyria có thể dẫn tới liệt giường. Đôi khi, chúng còn là thủ phạm làm tê liệt hệ tiêu hóa, bệnh nhân không thể nói, không thở hoặc nuốt được. Tất nhiên, đó là những trường hợp đã mắc bệnh quá nặng. Bệnh nhân bị chứng này sẽ phải chịu những đau đớn về thể xác do hemoglobin trong máu sẽ bị phân hủy dưới tác động của tia tử ngoại. Triệu chứng rối loạn chuyển hóa porphyria có thể dịu nhẹ đi khi tránh ánh sáng mặt trời (ánh sáng mặt trời trực tiếp có thể giết chết ma cà rồng). Nguyên nhân đích xác của căn bệnh này liên quan tới sự thiếu hụt tế bào hồng cầu, nên có thể chữa trị bằng cách truyền máu.

Tháng 11-2006, một công dân ở Anh tên là Mathew Hardman 17 tuổi, dùng dao cứa cổ người hàng xóm, rồi lấy bát hứng máu để uống. Một tháng sau đó, tờ Pravda của Nga đưa tin một thanh niên ở Kliningrad dùng dao giết chết một cụ già, rồi ngửa cổ hứng lấy từng giọt máu. Ma cà rồng là ai? Ma cà rồng không có thật nhưng nhiều người đã bị ám ảnh bởi ma cà rồng, giết người uống máu. Người ta gọi chung đó là những người mắc hội chứng ma cà rồng“Bá tước Dracula” của nhà văn Ireland, Bram Stoker đã chinh phục thế giới bởi hình tượng ma cà rồng. Nguyên mẫu của hình tượng văn học này là hoàng tử Vlad Tepes. Tepes sống ở thế kỷ mười lăm, ở xứ Romania. Cha Vlad đã cho con cái tên Dracul (con của rồng) với mong muốn con trai sẽ làm nên nhiều kỳ tích. Nhưng, những tháng ngày tuổi trẻ bị bắt làm con tin ở Thổ Nhĩ Kỳ đã khiến Dracul có cái nhìn bi quan và hằn học.

Sau khi được trả tự do, Dracul tìm cách trả thù những người đã giết cha và anh. Ông ta tìm bắt tất cả những người đã tham gia vụ ám sát cha và anh trai ông ta. Nhưng Dracul không chỉ dừng lại ở đó. Ông ta còn truy sát cả gia đình những người đó. Dracul ra lệnh xây dựng lâu đài cho ông ta bên cạnh bờ đá cheo leo của dòng sông Arges chảy xiết. Nhiều người đã chết trong khi xây lâu đài, nhưng Dracul không thay đổi ý định. Dracula dùng lâu đài làm pháo đài phòng vệ và nơi hành hạ những người khác. Người vợ Dracula, vì không chịu được cuộc sống bên cạnh người chồng quái dị đã gieo mình xuống sông tự vẫn. Ngày nay, những gì còn lại của lâu đài này được gọi là lâu đài Dracula một điểm du lịch nổi tiếng của Romania.

Hãy xem một đoạn Bram Stoker miêu tả Dracula: “Lông mày hắn rậm rạp, đan xoắn vào nhau ở đầu mũi, với mái tóc rối bù, lòa xòa che hết nửa khuôn mặt. Cái miệng... bất động và nom thật dữ tợn, cùng với hàm răng trắng, nhọn hoắt khác thường. Tất cả những thứ này phô ra bên trên đôi môi đỏ máu, thể hiện sự thèm khát sức sống trong máu người của ác quỷ. Vẻ nhợt nhạt bên trên gương mặt không thể che giấu”. Rõ ràng, những miêu tả của Bram về ma cà rồng rất gần với biểu hiện bên ngoài của bệnh nhân mắc chứng porphyria. Những triệu chứng bệnh, phác đồ điều trị cho bệnh nhân mắc chứng porphyria làm người ta bị ám ảnh về ma cà rồng và ma sói. Cũng chính vì thế, những câu chuyện dân gian đã thêu dệt thêm để làm nên hình tượng ma cà rồng. Trên thực tế, đó là những trường hợp đơn lẻ của những bệnh nhân không may mắn mắc phải căn bệnh rối loạn chuyển hóa porphyria.

Nguyên do thứ hai làm phát sinh “bệnh lý ma cà rồng” là chứng giữ nguyên thể (catalepsy) một sự kết hợp giữa chứng động kinh, tâm thần phân liệt và các bệnh khác tác động đến hệ thần kinh trung ương. Khi bệnh nhân lên cơn, toàn bộ cơ thể sẽ cứng đơ, nhịp tim và hơi thở suy yếu. Người xưa chưa đủ khả năng và trang thiết bị y tế nên dễ nhầm lẫn giữa một bệnh nhân lên cơn catalepsy và một tử thi và đem người vẫn còn sống đi chôn. Rất nhiều bệnh nhân mắc chứng này bị chôn khi đang lên cơn, điều nguy hiểm là thời gian lên cơn của bệnh nhân mắc chứng này khá dài, nên càng dễ bị nhầm lẫn với xác chết. Đến khi tỉnh lại, bệnh nhân biết mình đang ở trong quan tài với ngôi mộ sâu ba thước đất và chẳng thể nào thoát ra được. Vì thế, nhiều bệnh nhân catalepsy từ chết giả chuyển sang chết thật.

Cái chết của Dracula cùng với những nạn nhân bị ông ta đóng cọc thiêu sống, đã không kết thúc những truyền thuyết về ma cà rồng. Nó vẫn sống trong những bộ phim, vở kịch, những câu chuyện kể đầy ám ảnh của hàng tỷ người trên khắp thế giới. Nghiên cứu khoa học đầu tiên về ma cà rồng chính thức được tiến hành từ những năm đầu thế kỷ 18. Bắt đầu từ một câu chuyện có thật xảy ra với một nông dân Serbia là Peter Plogojewitz vào năm 1725. Theo những tài liệu được ghi chép lại từ 1725, người đàn ông này đã qua đời ở tuổi sáu mươi hai và đã được an táng theo phong tục truyền thống của người dân địa phương là chôn dưới đất. Tuy nhiên, hai tháng sau đó, rất nhiều người dân sống trong làng bị chết bởi một căn bệnh lạ.

Hiện tượng này diễn ra liên tục trong chín ngày. Những người bị chết đều là những người mà Peter đã đến thăm một vài ngày trước khi ông qua đời. vợ góa của Peter không tin vào câu chuyện này cho đến một đêm, bà kể rằng: bà nằm mơ thấy người chồng quá cố của bà trở về nhà gõ cửa và yêu cầu bà mang cho ông ta một đôi giày. Người phụ nữ quá hoảng sợ. Ngay sáng hôm sau, bà đã chạy trốn khỏi ngôi làng. Sau sự việc, dân làng đã quyết định đào mở nắp quan tài của Peter. Chính những người lính trong quân đội Serbia đã làm điều đó và thật đáng kinh ngạc bởi xác chết của Peter vẫn còn nguyên vẹn, chưa hề bị thối rữa hay phân hủy. Thậm chí, móng tay, chân và tóc của ông ta dường như đã mọc dài thêm ra, da trắng bệch và trên mép có vương một dấu màu đỏ như máu hơi khô. Quá kinh hãi, dân làng đã đem hỏa thiêu xác chết và những lời đồn đại lần lượt được họ truyền nhau kể lại, thậm chí thổi phồng thành những câu chuyện kinh dị.


ST

#259 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 31/08/2011 - 06:30

BÀN THỜ TRONG NHÀ BẾP

Từ China dọn qua Việt Nam, ông ngoại tôi thuê được một căn nhà ở Quận năm. Nhà đó cũng là nơi tôi sinh ra và lớn lên. Mỗi đêm ông ngoại thường hay ngũ trong nhà bếp vì nơi đó là nơi mát nhất trong căn nhà. Và từ khi ông ngoại ngủ trong nhà bếp, thì mỗi sáng nào thức dậy ông ngoại cũng thấy mình nằm ngoài cửa nhà. Ông ngoại mới hỏi ba tôi và bác tôi là sao họ di chuyển ông đi nơi khác. Nhưng mọi người trong nhà liền nói là không có. Ông ngoại cũng tin, vì lúc đó ba and bác tôi còn nhỏ, nên đâu có đủ sức mà khiêng ông ngoại được.

Còn bà ngoại thì yếu đuối, nên ông ngoại tin rằng không phải họ làm chuyện này. Ðêm hôm đó ông ngoại giã vờ nằm ngũ, khoảng chừng nữa đêm thì ông ngoại thấy một người đàn ông bước đến gần ông ngoại và khiêng ông đi nơi khác. Ông ngoại sợ hãi vô cùng không dám lên tiếng và giã vờ ngũ tiếp. Ðến sáng ông ngoại kể lại cho cả nhà nghe. Mọi người nữa tin nữa ngờ. Ðêm hôm sau, ông ngoại như mỗi ngày bình thường vẫn nằm ngủ lại chổ cũ. Chờ đến đêm khuya người đàn ông đó lại đến. Lần này ông ngoại ngồi dậy và hỏi người đàn ông đó sao mà không cho ông ngoại ngủ nơi này. Người đàn ông đó mới lên tiếng nói rằng:

- Ông đã dành chổ của tui và ông thường nằm trên mình tui. Nên làm cho tui khó chịu.

Ông ngoại nghe thấy lạ nên hỏi người đàn ông đó tại sao ông ngoại nằm trên mình ông ta được? Người đàn ông kể cho ông ngoại nghe là vì xác ông ta còn ở dưới đất chưa được chôn cất, không có ai cúng nên hồn của ông ta chưa được siêu thoát. Ông ngoại liền xin lỗi và hứa là sẽ chôn cất ông ta đàng hoàng. Hôm sau ông ngoại liền kêu người đến để đào đất. Quả thật không sai họ tìm ra được thi hài. Ông ngoại làm một bàn thờ trong bếp để cúng liền người đàn ông đó.

Sau này tôi lớn lên, mỗi lần ở nhà mà có cúng kiếng thì phải đốt nhang cho bàn thờ đó. Tại vì trên bàn thờ không có tên họ hay hình tượng Phật, nên tôi mới tò mò hỏi bà ngoại. Do đó mới biết câu chuyện này. Tháng trước tôi về Việt Nam chơi, trước khi đi airport về Mỹ tôi vẫn còn đốt nhang để trên bàn thờ đó.

NPN

#260 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 31/08/2011 - 06:45

BÙA MÊ HAY CHỈ LÀ THUỐC PHIỆN

Biết tôi là người Tày, rất nhiều người đã hỏi tôi những câu hỏi đại loại là: Có thật người miền núi có bùa yêu không? Anh có biết làm bùa yêu không? Rồi họ nhìn ngó tôi như thể tôi có thêm một cái đuôi. Đặc biệt là các cô gái trẻ, chuyện bùa yêu với họ thật sự hấp dẫn. Họ hỏi tôi rất nhiều như thể họ đang muốn thả bùa ai đó. Và bao giờ câu chuyện của bùa yêu cũng làm cho họ say sưa. Những lúc như thế tôi chỉ muốn bật cườ...Vậy bùa yêu có thật hay không? Và nó như thế nào? Liệu những cô gái trẻ Hà Thành kia có thể sử dụng nó trong thành phố ồn ã đầy toan tính này?

Vào năm tôi mười tuổi ở cái làng Pác Tháy bé nhỏ của tôi xảy ra một chuyện có thể gọi là kỳ lạ. Cô Nhình con bà Lành ở đầu bản, một sơn nữ có ngoại hình rất xấu: da đen, chân tay ngắn, mắt lé, mũi to...Nói chung không thể xấu hơn được nữa. Vậy mà cô ta sắp lấy chồng, anh Thành người dưới xuôi, đẹp trai nhất nhì đồn biên phòng gần đó. Ban đầu người trong đều nghi hoặc về tin này. Người ta chỉ thấy đêm đêm anh Thành đi lại vật vờ như một bóng ma. Và bao giờ anh cũng đến nhà cô Nhình ngồi rất lâu. Quá tò mò với chuyện này bọn trẻ chúng tôi thường bò vào nhìn trộm. Chỉ thấy bên bếp lửa bập bùng, thấy anh và cô gái Tày tay nắm tay, trò chuyện thân mật bóng họ nhảy nhót trên tường gỗ và lâu lâu cô Nhình lại khúc khích cười.

Việc anh Thành mê cái Nhình làm không ít các cô gái trong bản ghen tức, trong đó có cả chị họ tôi. Bà chị tôi quả quyết rằng con Nhình đã đến nhà bà Sẳn lấy “bua”, tức là bùa yêu để chài anh Thành, nếu không có mà trời sập cũng chẳng yêu được anh đẹp trai như thế. Nhắc đến bà Sẳn, bọn trẻ con trong bản chúng tôi đều biết. Đó là người đàn bà cô độc bí ẩn già đến nỗi không ai biết bà bao nhiêu tuổi. Ngôi nhà cũ kỹ của bà nằm ở cuối bản hàng ngày bọn tôi vẫn thấy bà ngồi một mình đan lồng gà. Hình như bà sống bằng nghề đó. Trong vườn bà lúc nào cũng đầy hoa quả: cam, quýt, ổi, chuối... chín thơm lừng nhưng chẳng đứa nào dám vào hái trộm vì người ta đồn bà đã yểm bùa những cây đó, nếu ai lấy trộm sẽ bị điên trừ khi bà ta cho hoặc bán.

Có lần quá thèm mấy quả ổi chín tôi rủ thằng bạn trèo lên hái trộm. Đó là một hành động thật liều lĩnh, nhưng mùi thơm quyến rũ của ổi chín đã làm tôi quên sợ và tôi cũng không tin lắm vào chuyện yểm bùa của mấy người già nên làm liều. Khi trèo lên tít ngọn cây để hái quả tôi nhìn thấy bà Sẳn đang ngồi đan lồng gà trên sàn gỗ. Trong ánh nắng rực rỡ của mùa hè bà ngồi lặng lẽ làm việc, xung quanh những con chim sẻ thản nhiên nhảy nhót không hề sợ hãi. Thỉnh thoảng bà đưa tay lên vuốt tóc, những sợi tóc bạc lấp lánh trong ánh nắng cùng khuôn mặt già nua nhăn nhúm làm tôi rất sợ.

Cuối cùng tôi cũng hái đầy hai túi ổi nín thở leo xuống. Khi tôi đang rón rén định chui qua hàng rào, bỗng nhiên bà lên tiếng:

- Cẩn thận gai đâm vào chân đấy...

Tôi sợ đến đứng tim rồi ù té chạy hai túi ổi rơi đâu hết. Thằng bạn tôi cũng sợ không kém, nó quả quyết đã thấy những quả ổi rơi ra từ túi quần của tôi và lăn vào sân nhà bà Sẳn. Nó kết luận:

- Bà Sẳn yểm bùa nên ổi tìm về với chủ, mày cẩn thận, điên đấy...

Đêm đó tôi không tài nào ngủ được và gặp ác mộng. Tôi thấy bụng mình chướng lên đau đớn rồi vỡ tung, từ đó những quả ổi thi nhau bay ra, mỗi quả ổi là một khuôn mặt của bà Sẳn nhìn tôi cười chế giễu. Từ bữa đó cứ nhắc đến bà Sẳn tôi sợ không còn hồn vía. Cái việc cô Nhình lấy bùa với bà Sẳn có lẽ là thật rồi. Và đám cưới của cô Nhình cùng anh Thành cũng diễn ra. Đêm đó thật vui bạn bè đại diện nhà trai đến rất đông, ăn uống cười nói và diễn cả văn nghệ. Bọn trẻ chúng tôi cũng được dịp xôi thịt no nê.

Trong đám cưới chúng tôi nghe loáng thoáng mấy anh nói, gia đình dưới xuôi của anh Thành không đồng ý nên chẳng ai lên dự đám cưới cả. Và họ cũng hỏi chúng tôi chuyện bùa ngải, một anh còn rỉ tai tôi hỏi:

- Này nhóc, có loại bùa nào dùng cho con trai chài con gái không?

Sau đám cưới tôi thấy anh Thành chuyển về sống với mẹ con cô Nhình. Anh ta vui vẻ lên nương, lên rừng như bất cứ gã trai bản nào. Trông anh ta rất hạnh phúc. Bây giờ sau hơn hai mươi năm tôi đã trở thành gã đàn ông, cuộc tình của anh Thành và chị Nhình thỉnh thoảng vẫn hiện về. Bây giờ họ vẫn sống ở đó hạnh phúc, rất hạnh phúc. Vừa rồi về quê tôi có ghé qua cái đại lý bán hàng tổng hợp của anh chị. Có thể nói họ là người giàu có nhất vùng. Anh Thành đã ra quân ở nhà phụ chị Nhình bán hàng. Họ có ba cô con gái, hai cô đầu đã lấy chồng, còn cô út làm giáo viên.

Khi tôi đến họ vẫn nhận ra tôi. Anh Thành dứt khoát mời tôi ở lại uống rượu. Trông anh rất vui chẳng có vẻ gì bị bùa ngải cả. Còn chị Nhình bây giờ đỡ xấu hơn nếu không muốn nói là đẹp ra. Chị béo tốt trắng trẻo, cái vẻ đen đúa nhỏ thó ngày nào biến đâu mất. Chị cười nói liên tục, thêm tí rượu hai má ửng hồng, trông chị như một thiếu phụ đang hồi xuân đầy sức sống, cũng chẳng thấy có hương vị của bùa ngải. Khi rượu đã ngà ngà tôi hỏi về việc ngày xưa người trong bản đồn chị dùng bùa của bà Sẳn để quyến rũ anh Thành. Chị cười tít mắt, anh cũng cười tít mắt, chẳng ai trả lời, rồi chị Nhình nói to:

- Đúng đấy, tôi bùa ông ấy đấy...

Rồi chị lại cười tít mắt. Cái hình ảnh anh chị ngồi với nhau bên bếp lửa ngày nào lại hiện về. Bây giờ tôi mới hiểu thời khắc đó họ đang say với tình yêu. Chỉ có anh và chị mới biết hương vị ngọt ngào của nó, chúng tôi những người ở ngoài làm sao nhìn thấy. Còn việc bùa ngải như người bản tôi vẫn đồn thì sao, có thật không? Tôi không dám trả lời, nhưng nếu bỏ bùa mà hạnh phúc như thế, tôi đây... gã người Tày chính hiệu...cũng xin một liều để thử. Sợ gì!

***

Ngày ấy việc cô Nhình lấy được một anh chồng đẹp trai làm nhiều cô gái khó chịu lắm. Vẫn là bà chị họ tôi, cứ mỗi lần nhắc đến chuyện này lại trề môi nói đến bùa ngải. Chị tôi khẳng định đã nhiều lần trông thấy cô Nhình đến nhà bà Sẳn lấy bùa. Nếu không tin cứ đến ngày rằm mà xem. Đúng là có lần trên đường dong trâu về chuồng tôi có thấy cô Nhình đi vào nhà bà Sẳn, họ nói gì đó với nhau rồi đi vào phía chân núi. Sự tò mò lại làm tôi quên sợ và rất muốn theo dõi họ. Một buổi chiều khi đang chăn trâu dưới bãi sông, chúng tôi thấy bà Sẳn một mình lặng lẽ đi vào chân núi. Sự tò mò một lần nữa làm chúng tôi quên sợ, theo sát bà. Bà Sẳn đi sâu vào khe núi một lát rồi đi ra vẻ rất bí mật. Khi bà ta đi khỏi, tôi và hai thằng bạn cũng mò mẫm vào khe núi đó. Đây là khe núi có một mỏ nước, nhưng người trong bản không dùng vì nó quá xa, hơn nữa chỗ này dây leo chằng chịt, ẩm thấp khó đi.

Chúng tôi cứ men theo dòng nước nhỏ đến cái mỏ thì thấy một cái hốc trông như cái miếu con. Ở đó có một bình hương đang cháy nghi ngút. Phía trong hốc đá là một khóm cây rất lạ, một loại cây trông như cây lúa có những hạt màu đỏ. Chúng mọc thành khóm thân cong vút vì trĩu hạt. Khói hương nghi ngút, cùng khóm cây lạ và cái hốc âm u làm chúng tôi rất sợ nên chỉ đứng nhìn chẳng đứa nào dám đụng vào. Lúc này khuôn mặt nhăn nheo và cơn ác mộng ngày nào lại ập đến, tôi sợ quá quay lưng chuồn thẳng. Từ bữa đó tôi lại càng tin vào chuyện bà Sẳn có bùa. Ngoài việc bí ẩn về bùa ngải bà Sẳn lại biết rất nhiều bài thuốc, người trong bản mỗi khi bị ốm đều đến xin thuốc của bà. Tôi cũng đã từng là bệnh nhân của bà ấy. Một lần phi ngựa cùng đám bạn, tôi bị ngã. Con ngựa đực bướng bỉnh của tôi không dừng lại mà còn kéo lê tôi một đoạn.

Đêm đó tôi rên rỉ vì đau đớn, pa tôi sờ nắn và phát hiện tôi gãy mất hai chiếc xương sườn. Ngày đó đến bệnh viện rất xa mà phải đi bộ, nên pa tôi quyết định không đưa tôi ra bệnh viện huyện mà đến nhờ bà Sẳn. Tôi chỉ nhớ bà ta sờ nắn một lúc rồi bảo pa tôi vót vài cái nẹp tre. Bà tay lấy rất nhiều rau ngải cứu, sao lên rải xuống dưới chiếu bắt tôi nằm im trên đó. Khi tôi đã nằm im, bà bóp rất mạnh vào mạng sườn tôi đau khủng khiếp, rồi bà ta bảo pa buộc những cái nẹp tre kia vào người tôi. Thật kỳ lạ, tôi chỉ nằm có một đêm mà sáng hôm sau có thể ngồi dậy đi lại bình thường. Cũng chỉ nằm trên cái giường lót rau ngải cứu ấy có ba hôm là tôi hết đau và hai ngày sau là pa tôi đã tháo nẹp, xương tôi liền hoàn toàn. Từ hôm đó tôi đỡ sợ, thỉnh thoảng dong trâu qua trước cửa nhà bà ta, tôi chào và bà nhoẻn cười. Cười đấy nhưng khuôn mặt nhăn nhúm, bỏm bẻm nhai trầu vẫn toát lên sự bí ẩn đáng sợ.

Có lần bà Sẳn nhờ mấy người trong bản đến sửa nhà. Pa tôi cũng được bà ấy nhờ tới, tất nhiên ai cũng sẵn lòng giúp, tôi cũng phải theo vì pa muốn tôi đi cùng. Cả buổi làm việc tôi thấy bà im lặng chỉ lúi húi nấu nướng trong nhà. Vì sợ nên tôi chỉ dám đứng ở sân, thỉnh thoảng đưa cái cưa, cái đục cho những người ở trên mái. Đến bữa trưa mọi người ngồi ăn ngay cái sàn gỗ trước cửa. Bà Sẳn vẫn im lặng đi lại rót rượu cho mọi người. Đang ăn uống bỗng pa bảo tôi vào nhà lấy nước. Dù rất sợ cái nhà tối om om ấy nhưng miễn cưỡng tôi phải vào. Mò mẫm mãi tôi cũng vào được bếp vớ lấy cái siêu nước đang sôi. Toan quay ra ngoài thì tôi nhìn thấy trên giá bếp có rất nhiều cái vòng được tết bằng những hạt gạo đỏ, thứ hạt mà tôi đã nhìn thấy trong khe núi. Lại vì tò mò, tôi đứng nhìn và nảy ra ý định lấy trộm một cái, ngay lúc đó tôi nghe tiếng động đằng sau. Bà Sẳn đứng đó từ bao giờ, nhìn tôi bằng con mắt lạnh lùng. Sợ quá tôi lủi luôn.

Vài ngày sau, tôi đem chuyện những hạt gạo đỏ và cái miếu trong khe núi hỏi ông bác ruột. Chẳng cần suy nghĩ, bác tôi nói luôn:

- Bùa thật đấy.

Rồi bác tôi nói thêm đó là cây “Khẩu phia” (gạo núi) mọc đầy trên núi chúng rất độc ăn vào chết luôn. Nhưng phải là người như bà Sẳn mới biết chế nó thành bùa. Loại bùa này rất công hiệu, cũng chỉ bà Sẳn mới biết cách giải bùa... Rồi bác tôi kết luận: Đại loại nó giống như thuốc phiện ấy, mới hút thì nhớ, hút nhiều thì nghiện, mà nghiện rồi làm sao dứt ra được. Còn thằng Thành có bị bùa hay không làm sao tao biết được. Giờ đây ngẫm lại, tôi thấy ông bác tôi đúng. Cái hạt gạo đỏ ấy có thể là chất liệu cho việc làm bùa bí ẩn của bà Sẳn, cũng có thể bà ta biết làm một loại thuốc dạng hướng thần theo kiểu thuốc phiện như bác tôi giải thích. Nhưng tôi khẳng định bà là lang y rất cừ vì mấy cái xương sườn gãy của tôi chỉ trong sáu ngày bà ta đã chữa khỏi.

Bây giờ thì bà Sẳn đã về trời, ngôi nhà cũ kỹ của bà chỉ vương lại mấy viên đá. Còn cái khe núi đầy dây leo ngày nào giờ cũng không còn vì người bản tôi chặt phá. Cái miếu cũng vậy, mỏ nước cũng kiệt khô. Người bản tôi cũng chẳng nhớ đến bùa ngải. Họ đi xe máy ầm ầm, uống bia. Các cô gái chẳng còn mấy ai mặc áo chàm, má ửng hồng, quẩy nước vào buổi sớm như xưa kia. Bây giờ họ cũng quần bò, áo phông, cũng son phấn, cũng nhuộm tóc, chẳng cô nào cần bùa ngải mà thanh niên dưới xuôi vẫn cứ xúm vào. Câu chuyện về bùa yêu đã mất hẳn trong những cái đầu bị nhiễm nền văn hóa khác. Nếu bà Sẳn có sống lại thì cái bùa bằng hạt gạo đỏ ấy cũng chẳng có tác dụng với những con người như thế. Tôi dám chắc như vậy.

***

Gần đây tôi mắc vào một chuyện có thể nói là rất phiền toái. Cũng chỉ vì thích đùa khi người ta cứ hỏi mãi về chuyện bùa ngải. Có lần tôi nói khoác là biết làm bùa yêu. Rồi tôi kể một cách ly kỳ về những hạt gạo đỏ, về bà Sẳn bí ẩn, tôi bịa thêm việc bà ấy truyền cho tôi bí kíp làm bùa yêu. Thế là một cô bạn đã năn nỉ tôi làm giúp. Ban đầu cô ta không nói là muốn thả bùa ai, nhưng tôi bảo phải biết là ai tôi mới có cách làm. Hoá ra cô ta định bùa chính ông chồng mình, buồn cười quá! Cái cô bạn tội nghiệp của tôi, tốt nghiệp Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, làm thêm thạc sỹ về Tâm lý lại đi xin tôi bùa để quyến rũ chính chồng của mình. Cô thật tội nghiệp! Và tôi có quyền nghi ngờ về cái gọi là kiến thức trong đầu cô. Cô muốn cứu vãn cuộc hôn nhân sắp đổ vỡ của mình.

Chồng cô là một đại gia, không hiểu lý do gì gần đây anh ta muốn chia tay cô. Họ đã sống ly thân, anh ta cho vợ mỗi tháng chục triệu, để chi tiêu miễn là đừng làm phiền anh. Rồi hứa thêm nếu chấp nhận ly hôn sẽ chia cho cô nhiều tài sản. Cô bạn tôi đã suy sụp và không muốn mất đi cái danh phận vợ đại gia nên đã tin vào câu chuyện bịa của tôi.

Mỗi lần gặp tôi, cô ta đều nhắc lại chuyện bùa yêu, có lần còn ngỏ ý xin trả một số tiền lớn. Tôi đã thú thật rằng, tôi không biết làm bùa yêu, đó chỉ là bịa đặt. Nhưng cô ta lại càng tin. Mỗi lần nói chuyện cô ấy mếu máo nói về tiền bạc, về tài sản, về danh phận… Và tôi thấy việc ông chồng muốn bỏ cũng rất có lý. Tôi tự hỏi, một người đàn bà xinh đẹp có học thức tại sao lại có lối nghĩ thô thiển như vậy? Có bao giờ cô ấy tự hỏi, người chồng kia tại sao muốn ly hôn với mình? Cái gì đã làm cho anh ấy muốn thế? Cũng có thể cô ta có bằng cấp nhưng văn hóa thì không. Ở thành phố tôi thấy rất nhiều người như vậy. Tất nhiên, chẳng có bùa ngải nào giúp được cô ta cả. Ở thành phố bùa yêu mất thiêng, tôi giải thích với cô như thế!

Đến đây tôi xin khẳng định: chẳng có bùa yêu huyền bí nào hết, chẳng ai làm được bùa yêu! Trừ khi chính trái tim chúng ta tạo ra nó và quyến rũ người khác. Tôi nghĩ cái cô Nhình xấu xí ở bản tôi là thế. Cô ấy đã tự làm ra một thứ bùa yêu kỳ lạ, thứ bùa yêu lung linh và lộng lẫy. Cô ấy đã thành công. Nhưng đó là câu chuyện của ngày xưa, của những ngày người bản tôi còn trong sáng thuần khiết. Còn bây giờ cái bùa bằng hạt gạo đỏ đã theo bà Sẳn về trời rồi nó đã vĩnh viễn mất đi. Chính chúng ta đã xua đuổi nó, chỉ còn lại vợ chồng anh Thành là kết quả minh chứng cho tình yêu đẹp, cho thứ bùa yêu được dệt bằng sự thổn thức của trái tim tinh khiết sơn nữ ngày nào.


A Sáng

#261 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 31/08/2011 - 07:12

BẮT MA

Từ cổ chí kim chúng ta luôn băn khoăn thắc mắc, bởi liệu có sự tồn tại của một thế giới cõi âm, ẩn chứa biết bao điều huyền bí hay không? Có người tự đi tìm lời giải cho sự nghi hoặc ấy, họ tìm được lời giải nhưng cũng có người mãi mãi không tìm được lời giải, và ma cùng với đia ngục luôn nằm trong góc khuất của Sự phủ định, tiềm ẩn sâu trong tiềm thức của họ. Sự thật thì hoàn toàn có thể hiểu được tại sao có người lại khẳng định là có ma thực sự. Còn có người lại huỵch toẹt phủ nhận sự tồn tại của ma quỷ thần linh, và với họ chỉ có sự hiện hữu hiện tại mới là cái rõ mồn một. Điều này hoàn toàn có thể giải thích được một cách rõ ràng.

Trước tiên chúng ta cần hiểu rõ hơn một chút về lý luận của đạo Phật "Thuyết luân hồi" và nguyên lý đạo Giáo "Sinh tử tuần hoàn". Như vậy thì đạo Phật nói rằng cái thể xác mà con người đang sống chỉ là sự vay mượn, tại sao vậy? Vì cái thể xác chúng ta đang sống là tích hợp của nhiều sự ô uế và chính là cái thân thể phải chịu sự báo ứng nhân quả, nghiệp chướng của các tiền kiếp mang lại. Nếu như xét kết hợp giữa nguyên lý giáo đạo sinh tử tuần hoàn với thuyết năng lượng vật lý (Năng lượng không tự nhiên sinh ra và mất đi, nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác) thì con người sau khi chết đi thân xác để lại, còn tư duy ý thức (hồn phách) sẽ đi đâu?

Thêm một điều nữa là có những người trong cuộc đời họ luôn gặp phải những trắc trở về tâm linh, chính là do hệ quả kiếp trước, những nghiệp báo các kiếp kéo về đòi nợ. Có những người hay gặp phải các vong hồn trêu quở (Động nhà thần) hoặc gặp ma, lại có những người cả đời chưa bao giờ gặp ma. Những điều đó đều do Ngũ Hành Bát Quái, căn mệnh Tử Vi mà những người đó có dân gian hay gọi là cao số. Câu chuyện ma nhập hồn thì đã có rất nhiều, không chỉ từ ngàn xưa mà nay cũng có. Có những vụ ma bắt hồn người bị nhập để trả thù tiền kiếp, để đòi nợ và đáng sợ nhất vẫn cứ là bắt hồn về làm vợ. Chúng ta sẽ không khỏi thắc mắc, nếu như đã có Địa Ngục và Giám Sát tuần quan, Quỷ sai thì làm sao các vong hồn lại có thể nhập vào người thường, để tác oai tác quái được.

Vì những vong hồn đó khi thoát dương thì ngay lập tức, sẽ bị bắt về Địa Phủ dưới cây gậy Chiêu Hồn của hai ông Quỷ Chiêu Hồn rồi. Có thể giải thích như sau: Có những vong hồn họ chết nhưng họ vẫn còn những hận thù, hoặc lòng họ chưa thanh thản, những vong hồn đó họ trốn lại ở trần gian, lẩn quất sự truy đuổi của Quỷ Chiêu Hồn Sứ, để thực hiện nốt hận thù và ước nguyện chưa thành. Lâu dần họ mất đi hẳn ý niệm đi đầu thai và vô hình chung trở thành Quỷ. Câu chuyện về bắt ma thật là đáng sợ và cũng thật không tưởng tượng nổi. Ai đã học thuật bắt ma của đạo giáo thì đều biết là làm cái nghề đó cực bạc. Chẳng vậy mà trong đạo bắt ma đã có câu: Nhất Bần Nhị Yểu Tam Vô Tự.

Bởi vì người thầy bắt ma nhiều quá sẽ bị các ma cô hồn đó oán. Các vong hồn đó không thể trả thù người thầy bắt ma đó, nên họ tìm đến những người thân và gia đình người thầy đó để báo oán. Vậy nên trước khi bà ngoại tôi được ông bố nuôi nhận làm đệ tử truyền môn duy nhất, thì cụ đã được truyền dạy như vậy. Đạo bắt ma có nhiều trường phái nhưng trong đó chỉ có bốn trường phái là hiệu quả và kén chọn người lưu truyền: Bắc Đẩu Thất Tinh. Ngọc Hoàng Cốt Tỷ. Trần Triều Vương. Thái Thượng Lão Quân. Bà tôi theo đạo Trần Triều phục ma bằng ấn quyết và dấu sống (bùa yểm). Những người được chọn làm truyền nhân của bốn đạo bắt ma đó, thường phải có Địa Chi là Giáp Tý, Nhâm Thân... Và tử vi của họ phải có các bộ sau: Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Tham...

Khi bà tôi theo thầy Hương bắt ma, đã có lần cụ bắt hồn ma nhập hồn một cô gái. Đây là vụ nhập hồn vì tình vậy nên vong hồn đó cứng đầu và rất khó khuyên giải. Vong hồn đó là người Trung Quốc sống tại Việt Nam, hắn ta chết đã lâu nhưng do chưa lấy được vợ khi còn sống nên chưa mãn nguyện ra đi. Trong một lần thấy cô gái trẻ gánh nước ở đầu xóm nên đã theo bắt hồn về làm vợ. Hắn đã theo cô gái được hơn ba năm và cũng sắp đến lúc cô gái bị thu hết phần hồn để về làm vợ hắn ta, thì gia đình cô gái dẫn cô đến gặp cụ Hương. Trước khi vào căn phòng nơi cụ thường xem bói giải hạn cho mọi người, thì cô gái đưa tay vặt lá trúc trước sân nhà cụ rồi dúi vào túi áo. Cô gái mặt lạnh lùng dường như lúc này cô không còn là người điên loạn nữa, mà trở thành một người rất khôn ngoan, dáng vẻ vô cùng thận trọng.

Cô gái ngồi xuống ánh mắt không ngừng len lén nhìn về thanh kiếm thật màu đỏ, đặt trên bàn thờ Đức Thánh Trần. Cụ Hương vừa mới ngủ dậy, cụ nhẹ nhàng lau rửa tay và mặt xong nhâm nhi tách trà, mà bà ngoại tôi vừa pha lúc thầy đang rửa mặt. Thầy nhẹ nhàng bảo bà tôi cầm ba nén hương trầm, một cốc rượu trên bàn thờ Đức Thánh Trần và một cái hộp màu đỏ. Người cô gái bắt đầu run run và ánh mắt nhìn xuống sàn nhà như tìm chỗ trốn chạy. Thầy nhẹ nhàng hỏi cô gái là:

- Con đến đây nhờ ta việc gì?

Bà tôi nhìn thấy giọt nước mắt như thể cầu cứu của cô gái rơi không ngừng, nhưng nét mặt thì vẫn lạnh lùng và ánh mắt len lén nhìn lên trên bàn thờ. Sau một hồi lâu không thấy cô gái động tĩnh gì, cụ Hương đưa tay bấm gảy quyết, bỗng dưng người cô gái co rúm lại run run lên từng đợt như người bị quật những nhát roi đau rát. Cụ gảy quyết và thi hương lên trên cốc rượu mà bà tôi vừa mới lấy xuống trên bàn thờ đức Trần Triều và đưa cho cô gái uống. Cô gái há mồm ngập ngừng nhưng tay chân không thể cử động được mà uống cốc rượu mà cụ Hương vừa đưa. Người Mẹ cô gái vội vàng đỡ lấy cốc rượu và ghé vào miệng cô gái. Ánh mắt cô gái rưng rưng như muốn nói là con rất muốn uống, nhưng cái mồm cứ phun phè phè ra chiều là không uống. Nhưng khi cốc rượu vừa kề môi, thì tự dưng cô gái không còn phun phè phè được nữa. Khi cốc rượu vừa trôi một ngụm qua cổ họng cô gái, thì tiếng nói của cô gái cất lên thảm thiết:

- Cụ ơi! Cụ cứu con đi cụ. Con sợ lắm rồi, con sợ cái con người này lắm rồi, đừng để họ giam cầm con nữa, con không thể sống nổi đâu, con cắn rơm cắn cỏ con lạy cụ...

Nhưng chỉ sau đó vài giây, ngay lập tức cô gái mặt lại ráo hoảnh lại cười ầm ĩ lên:

- Tao đã chấm mày thì mày thoát sao khỏi tay tao. Đấy là phúc phận của mày rồi, đời này thì mày chỉ có thể làm vợ tao thôi, để xem ai cứu được mày. Ha ha ha...

Cụ Hương vẫn bấm quyết liên tục, và bảo bà tôi đốt lá bùa vừa mới lấy ra trong cái hộp đỏ. Thế nhưng vẫn thấy tiếng cười của vong hồn kia phát ra không ngớt:

- Tao đã vặn cổ bảy thằng tất cả, giờ còn một lão già này lại muốn đòi bắt ta hả, ta vặn cổ luôn. Tao đã tu hơn chín chục năm rồi, nên không có thể thu bắt ta rời xác nó. Ha ha ha...

Cụ Hương vẫn thi hương bắt quyết, bà tôi nhìn rõ từng giọt mồ hôi chảy trên trán cụ, có lẽ tên quỷ cô hồn này quả thực có tài phép thật sự. Cụ vội vã quỳ xin đức Trần Triều và lấy thanh kiếm đỏ trên bàn thờ xuống, quả thật tiếng cười dừng hẳn. Cụ đưa thanh kiếm lên và thi triển Bát Quái, cô gái vội vã quỳ lạy cụ tha cho mà hoàn toàn không còn dám cười ngạo nghễ nữa. Cụ gằn giọng:

- Ngươi muốn đi đầu thai, hay muốn mãi mãi chỉ là làn sương đọng trên cây cỏ.

Nói xong cụ dậm chân trái một cái.

- Tôi muốn lấy con người này làm vợ.

Tên quỷ cô hồn nói.

- Nếu vậy ta đánh cho ngươi tan hồn vía

- Nếu hồn vía tôi tan thì cô ta cũng chỉ còn lại cái xác.

Cụ Hương ngập ngừng bàn tay cụ đẫm mồ hôi. Người Mẹ cô gái khổ sở khóc rưng rức ở góc bàn đối diện. Cô gái vẫn dáng vẻ chân tay co quắp, nhưng sắc mặt thì vẫn ngang nhiên lắm. Một bầu không khí ảm đạm bao trùm cả căn buồng hương án. Cụ Hương dường như hết cách, giờ nếu đả tan hồn vía của con quỷ cô hồn kia, thì cô gái cũng sống giở chết giở. Giờ biết làm sao đây? Lúc đó bà ngoại tôi vốn theo dõi từ đầu đến cuối vội chạy lại bên cô gái, bà cầm lấy bàn tay cứng ngắt và giá lạnh của cô gái. Ánh mắt bà nhìn thẳng vào ánh mắt đang ngang nhiên ngạo nghễ của cô gái mà nói rằng:

- Ông ơi sao ông lại cố chấp đến vậy. Ông có hiểu được thế nào là tình cảm lứa đôi, tình cảm gia đình không. Tôi là người phụ nữ trong vòng hai tháng đã bị mất cả chồng lẫn con, tôi đau khổ đến mức nào, chồng con tôi cũng bị ma bắt, tôi cũng đau lắm chứ, giận lắm chứ. Tôi đã thề là sẽ bắt con ma đó trả thù. Thế nhưng khi theo cụ học nghề tôi đã nghĩ khác, tôi mong chồng con tôi được thảnh thơi và mau chóng được đầu thai kiếp khác, vậy nên tôi không ngừng hành thiện tích đức. Khi quan tâm đến một người là mong người đó được hạnh phúc, chứ đừng vì ích kỷ cá nhân mà để người đó khổ sở, sống trong nô lệ. Hơn nữa ông cũng có gia đình người thân, gia đình người thân ông cũng đau khổ khi ông mất đi, thì giờ ông nhìn người Mẹ kia đi, chẳng lẽ ông vẫn ích kỷ cho riêng mình, để đau khổ cho bao nhiêu con người. Gieo mầm thiện tích đức dày mới là đạo lý làm người. Sẽ chẳng nhận được gì khi Nhân Ác cứ theo để Báo Ác.

Bàn tay của cô gái dần nóng lên và ánh mắt đã có hồn hơn. Nước mắt cô rơi nhưng không còn là giọt nước mắt ngây dại nữa:

- Tôi đâu có muốn thế này, nhưng tôi không nhắm mắt được. Tại sao tôi lại chết trẻ như vậy, mà không có được một người vợ, một gia đình như bao người. Khó khăn lắm giờ tôi mới có được người mình thương, tôi không cam lòng...

Tên quỷ cô hồn khóc nhiều, giot nước mắt đầy nhân tính đã bắt đầu rơi. Hắn đã trả lại cho cô gái hơi ấm đầu tiên, phải chăng do lòng trắc ẩn của hắn đã bị đánh thức. Hắn chỉ yêu cầu cho hắn một mâm cỗ, tiền vàng và một chiếc thuyền, để hắn lên đường về quê hương. Hắn nắm tay bà ngoại tôi và nói trong nghẹn ngào:

- Tôi đã làm ác nhiều, tôi chưa sợ ai cả nhưng chính cô đã làm tôi nghĩ lại. Cô đã làm cho đám lá trúc tôi vặt ở cổng héo tàn. Hy vọng sau này cô là người thầy tốt.

Hắn thoát khỏi hồn cô gái nhẹ nhàng, trả lại sự ngây thơ cho cô gái tuổi hai mươi, trên khuôn mặt cô vẫn còn sự hoảng loạn. Thầy Hương đưa cho bà Mẹ cô gái năm lá bùa và dặn đốt hai lá pha vào nước cho cô uống, một lá cho cô đeo vào người, một lá treo ở cửa ra vào, một lá để ở gối. Hai Mẹ con cảm tạ ra về. Mãi sau này khi cụ Hương sắp lâm chung, cụ mới nói cho bà ngoại biết lý do tại sao cụ chọn bà làm đệ tử chân truyền. Bà ngoại tôi tuổi Nhâm Thân (Kiếm Phong Kim) tử vi có Sát Phá Tham (Bộ sao ngành Võ Học). Chính cái Sát Phá Tham đầy uy lực cộng với chân mệnh Kiếm Phong Kim của Tôn Ngộ Không, nên không những bà có thể cảm thấu được lòng vong hồn mà còn được thần linh trợ giúp.

Việc lá trúc mà hồn người Trung Quốc vặt ở đầu cổng cụ Hương, chính là để gắn kết chặt chẽ âm dương, không cho cụ Hương có thể tróc hồn người Trung Quốc ra khỏi thể xác cô gái. Cây trúc là Dương được nối với đất, nên trở thành Âm Dương. Chỉ khi gặp vật Dương hơn thì mới phá hủy được. Sát Phá Tham tích tụ khí Dương cực mạnh, cộng với mệnh Kiếm Phong Kim trở thành dương truyền qua bàn tay của bà ngoại tôi, tới tay cô gái đã làm thay đổi toàn bộ tính cách quỷ cô hồn. Vậy: Bắt ma không phải lúc nào cũng bắt bằng vũ lực, bắt bằng tình người mới là thể hiện lòng vị tha. Đao Phật. Đạo Giáo cũng luôn dạy con người ta như vậy. Hơn thế nữa đừng nói rằng ma không có tình nghĩa: Nhân Gian Luôn Hữu Tình, Vạn Vật Luôn Biến Đổi.


HuyKoKuyo

#262 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 31/08/2011 - 07:15

TRUYỆN MA NỮ SINH

Đây là câu chuyện do một bà bán bún ở chợ Rẫy kể lại, có cả nhân chứng là người hàng xóm. Bảy năm trước bà ta hành nghề bán bún ở chợ Rẫy, thời gian đầu làm ăn khá suôn sẻ cho đến một ngày bà ta kiểm tra tiền sau một ngày buôn bán để tính lời lỗ bao nhiêu, thì phát hiện có một tờ tiền giấy âm loại tiền chuyên dùng để cúng cho người chết. Bà ta nghĩ thầm:

- Đứa nào ăn của bà lại đưa tiền âm phủ.

Rồi sau đó bà ta chú ý hơn trong mua bán để khỏi bị lừa. Hôm sau bà ta lại kiểm tiền và giật mình khi trong đó lại có một tờ âm phủ, rõ ràng đã rất cẩn thận khi mua bán...? Sau vài một hồi lạnh sống lưng, bà ta cũng đã đỡ sợ:

- Dù sao con ma này cũng không hại ta gì cả...

Nghĩ vậy bà ta quyết tìm cho ra sự việc, bà ta chú ý những người đến ăn mỗi ngày và sau một thời gian đã thấy một người rất khả nghi. Một nữ sinh mặc áo dài trắng đến ăn bún thường xuyên và ngày nào cũng ngồi một chỗ cố định. Bà ta đến bắt chuyện cô nữ sinh và cô này cũng nói rất tự nhiên về tên tuổi, nhà ở, ba mẹ của mình. Bà ta lấy tờ tiền mà cô nữ sinh kia trả đem cất riêng, đến tối khi kiểm tiền quả nó đã biến thành tiền cõi âm. Lúc này bà ta mới tin vào mắt mình không chối cãi đâu được, ngay hôm đó bà ta đem câu chuyện này kể cho người hàng xóm và xin ngủ nhờ luôn chứ không dám ngủ một mình trong nhà.

Sau nhiều ngày tìm hỏi, bà ta cũng tìm ra nhà ba mẹ cô nữ sinh. Người nhà cho hay con gái họ đã chết cách đây năm năm, một lần vào quán ăn bún xong, vừa bước chân ra đường thì bị xe cán chết ngay...từ đó nhiều người vẫn bất ngờ gặp một cô nữ sinh rất kỳ bí hay đi qua đi lại ở khu vực xảy ra tai nạn. Sau khi được bà ta kể lại sự tình, người nhà đã thỉnh các vị cao tăng đến làm lễ siêu thoát cho hồn ma và từ đó không còn bóng dáng cô nữ sinh đó nữa.


Trường Quang

#263 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 31/08/2011 - 08:16

MƯỜI HAI HỦ CỐT

Câu chuyện này đối với tôi là một bài học cho thời học sinh của mình. Nếu như bạn nào là dân Quận bảy ắt hẳn cũng biết đôi chút về chuyện: Cánh Đồng Hoang và mười hai Hủ Cốt nhĩ? Vì tính tò mò và hiếu thắng nên mọi chuyện mới như thế... Vào tháng sáu năm 2006. Hết giờ học mấy đứa bạn rủ nhau dạo tà tà trên đường Nguyễn Trãi, tình cờ gặp một tốp bạn quen biết và xì xầm cho nhau nghe về ngôi nhà ma....mười hai hũ cốt...(vì nhà tụi nó ở Quận bảy). Kể rất hưng phấn nên mọi người đều đòi đi xem, cã bọn tò mò nên đều đi hết. Nhưng đâu suy nghĩ việc gì sẽ xãy ra. Đi xa hơn là mình suy nghĩ...

khi gần đến nơi bọn nam trong nhóm đều tắt hết đèn, (nghịch phá mờ). Xa xa tôi thấy có những bóng đèn màu đỏ, mờ mờ ảo ảo nhìn rất âm u. Tiến đến gần hơn tôi thấy đó là một cái miếu, trong đó có rất nhiều những cái hủ nho nhỏ. Có một bạn nam muốn phá nên bật đèn xe lên (sinon màu xanh) làm mọi người thót cả tim. Mọi người la hét ầm ỷ cả một góc phố. Thế là các đèn xe đều bật lên đễ chuẩn bị chạy về. Nhưng đâu ai ngờ đèn xe của mọi người đều không cháy. Không khí chung quanh bắt đầu lạnh dần. Bỗng có tiếng ai đó la lên..á...a...a.. Rồi tiếng xe máy chạy đi rất nhanh (Không nhớ cả là đang không có đèn xe). Rồi tất cả mọi người đều rời khõi nơi ấy. Quên cả sự tối tăm sau lưng mình.

Khi về tới Nguyễn Trãi ghé vào quán cafe tụ tập bàn tán, mọi người ai cũng tò mò. Có hai bạn trong nhóm mặt tái nhợt, hỏi gì cũng ấp a ấp úng. Một lúc sau lấy lại bình tĩnh, người bạn nam lúc nảy la lên mới nói rằng: Thấy có một người con trai níu chân bạn ấy và ai đó ngồi trên đầu xe. Còn ban gái lại nói khác. Nói lúc mọi người chạy đi bạn gái quay lại nhìn, thì thấy có rất nhiều người đứng đó, nhưng tại sao lúc mới đến lại không có ai? cã nhóm cười ào lên nói: Tui bây bị hoa mắt... không tin. Rồi chia tay ai về nhà nấy.

Thời gian sau mọi người xung quanh liên tục thay nhau có tai nạn. những chuyện kỳ hoặc cứ xãy ra. Nào là bạn bị xe đụng nhập viện... còn bạn bị người ta chém (chém nhầm người). Còn cặp nam nữ quen nhau lâu nhất trong nhóm chuẩn bị đám cưới, bỗng nhiên bên gái đòi gã con cho nước ngoài (tan vở), mọi thứ cứ như được sắp đặt sẵn, ai cũng đều có và tôi cũng không tránh khỏi. Bữa đó tôi có hẹn với nhỏ bạn đi uống cafe, vì không biết nhà nên đứng trước hẽm chờ tôi. Khi tôi băng qua đường thì không còn nhớ được gì nữa, tĩnh dậy đã thấy mình trong bệnh viện.

Lúc hỏi Ba Mẹ thì được biết, nhờ có người trong xóm cho hay tin nên Ba Mẹ mới biết, còn bắt được người đã đụng tôi nữa. Vừa dứt câu nói của mẹ, thì có một người tiến lại và nói xin lỗi, anh ta sẽ chịu hoàn toàn tiền viện phí. Anh ta có thắc mắc là khi qua đường, thấy tôi đang đi chung với hai người nam nữ hai bên nữa, khi đụng thì chĩ còn có mình tôi, tôi nghe anh ta nói mà ngạc nhiên. Nhưng không cho là thật, tôi nghĩ anh ta hoa mắt mà thôi! Về đến nhà bạn bè lại thăm tôi vì hay tin tôi gãy chân trái, nên qua rất đông đủ có cả bạn gái lần trước hẹn gặp. Tôi liền kể mọi người nghe về câu chuyện anh tài xế đã hỏi tôi.

Tôi chưa dứt câu chuyện thì bạn gái ấy nói:

- Đúng rồi bữa đó tôi thấy bạn có đi với ai ra nữa mà!

Khi nghe xong câu nói tôi tái cả mặt, vì tôi biết hôm đó tôi đi ra chỉ có một mình, mọi người cũng có vẻ sợ nên bàn nhau đi cúng để xin lỗi.


ST

#264 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 31/08/2011 - 08:56

BỨC TRANH IN KHẮC

Cách đây ít lâu, tôi có niềm vui được kể các bạn nghe cuộc phiêu lưu của một người bạn tôi tên là Dennistoun, trong khi đi sưu tầm các công trình nghệ thuật cho bảo tàng Cambridge. Dennistoun không cho in rộng rãi những chuyện mình đã trải qua sau khi chàng trở về Anh quốc, nhưng những chuyện này được rất nhiều bạn bè biết tới, trong đó có một vị quý phái cũng đang chủ trì một bảo tàng nghệ thuật ở một trường đại học khác. Câu chuyện gây ấn tượng khá mạnh cho ông ta, vì thiên hướng của ông ta cũng giống của Dennistoun, ông hăm hở lắng nghe từng lời giải thích sự việc, mà xem ra bản thân ông khó lòng gặp phải, để được ứng xử một cách cấp bách và náo động như thế.

Ông chỉ được an ủi vì rằng việc tìm kiếm các bản viết tay, không phải việc của viện ông mà của thư viện Shelburnian. Các quan chức của thư viện này, nếu thích, tha hồ lùng sục các góc tăm tối nhất bên lục địa để mà tìm kiếm. Ông cũng mừng lúc này đang phải tập trung chú ý vào việc mở rộng bộ sưu tập, vốn đã được coi là lớn nhất Anh quốc, gồm các bản vẽ, bản in khắc về địa hình mà bảo tàng ông sở hữu. Ấy thế nhưng, sự việc lại xoay ra là, ngay cả ở một bộ phận chủ yếu chỉ ngồi nhà, cũng có những góc tối của nó, và một ông Williams nào đó đã bất ngờ được biết tới một trong những cái góc đó.

Những người cho dù ít quan tâm nhất đến việc thu thập các bức vẽ địa hình, cũng biết rằng ở London có một người chuyên bán loại tranh này, và giúp ích không ít cho việc tìm kiếm của họ. Đó là ông J.W.Britnell, ông này cứ sau một thời gian ngắn lại in ra một cuốn catalog, gồm một khối lượng lớn và luôn luôn thay đổi các tranh khắc, các bản đồ, phác thảo các toà nhà lớn, nhà thờ, thị trấn ở England và xứ Wales. Dĩ nhiên, những bản này chỉ là a, b, c đối với ông Williams, tuy nhiên vì bảo tàng ông đã thu thập được không biết cơ man nào là bản vẽ địa hình, ông là người mua hàng đều đặn và mua nhiều của ông Britnell. Ông còn trông mong vào ông Britnell để lấp đầy các lỗ hổng về số liệu, và mức độ bộ sưu tập của mình. Việc này nhiều hơn là cung cấp cho ông của hiếm.

Tháng hai năm ngoái, trên bàn ông xuất hiện một cuốn catalog ở của hàng ông Britnell, kèm theo một thư đánh máy của đích thân ông này, nội dung như sau:

Thưa ông kính mến,

Xin ông lưu ý số 978 trong cuốn catalog gửi kèm theo đây, chúng tôi sẽ vui lòng gửi tới ông để xem ông có thuận mua hay không.

Kính chào

J.W.Britnell

Giở tới số 978 của cuốn catalog đối với ông Williams chỉ là việc phút chốc, chỗ ấy bắt đầu như sau. 978: Không rõ là ở đâu. Bức tranh khắc thú vị, cảnh một thái ấp hồi nửa đầu thế kỷ, 15X10 inches. Khung đen, giá 2.25 bảng. Xem ra chẳng có gì đặc biệt, giá lại cao, nhưng ông Britnell vốn biết người biết của mà lại không coi thường. vậy cho nên ông Williams bèn viết một tấm thiếp, đề nghị gửi bức tranh ấy đến tận tay ông, thêm vài bức trong catalog nữa. Sau đó ông đi làm công việc thường ngày mà chẳng cảm thấy gì phấn khích. Một gói hàng như vậy thường bao giờ cũng tới tay ta chậm hơn ta chờ đợi một ngày, gói hàng của ông Britnell cũng nằm trong quy luật ấy. Bưu điện chuyển tới bảo tàng chiều thứ bảy sau giờ tan tầm.

Người phục vụ đem tới tận phòng ở cho ông Williams ở trong trường, để ông không phải đợi qua ngày chủ nhật mới có thể xem món hàng, và trả lại món hàng ấy trong trường hợp ông không thích. Ông Williams thấy món hàng khi trở về nhà dùng trà cùng một ông bạn. Điều tôi quan tâm ở bức tranh là cái khung đen của nó khá to, trong catalog mô tả chỉ ngắn gọn. Có thể có vài chi tiết nữa, nhưng trước hết tôi muốn các bạn hãy nhìn rõ bức tranh, như nó đang ở trước mặt tôi lúc này. Bản sao của nó hệt các bản sao thường thấy trong hành lang một số quán trọ, hoặc lối đi của một số toà nhà ở thôn quê thời ấy. Một bản khắc chỉ đem lại cảm giác thờ ơ, lãnh đạm và một bản in khắc như thế thì không gì chán bằng. Ta nhìn thấy toàn bộ mặt tiền của một ngôi thái ấp ở thế kỷ trước, với ba hàng cửa sổ lấp khung kính trượt, phần nề xây thô kệch quê mùa, có một bức tường chắn mái mà góc nào cũng có quả cầu hoặc lọ hoa chính giữa là cổng xây.

Hai bên toàn cây cao, trước mặt là thảm cỏ khá rộng. Bên lề hẹp của bức tranh có chữ "Người khắc: A.W.F." không có gì khác. Toàn bộ tác phẩm nói lên tác giả là nghiệp dư. Không hiểu nổi vì sao ông Britnell định giá 2.25 bảng, ông Williams cứ lật đi lật lại bức tranh một cách khinh thường. Đàng sau nó có dán một cái nhãn đã bị xé rách, chỉ còn lại vết tích của hai dòng chữ, dòng đầu ngley Hall, dòng sau sse. Có lẽ cũng đáng để xác định đây là nơi nào, muốn vậy cũng dễ thôi, chỉ cần tra từ điển địa lý, sau đó gửi trả lại ông Britnell, kèm thêm vài nhận xét về đánh giá của ông ta. Ông thắp nến lên vì trời đã tối, pha trà cho người bạn đã cùng chơi gôn với mình (lãnh đạo trường đại học thường thư giãn bằng cách đánh gôn) vừa uống trà, hai người vừa đàm luận những vấn đề mà chỉ những người chơi gôn mới hiểu được. Người viết có lương tâm không tiện nói ra đây, sợ ảnh hưởng đến những người không chơi gôn. Kết luận đi đến cho rằng, một vài cú đánh gôn như thế nào đó là hay hơn, và rằng trong một số trường hợp khẩn cấp, khó lòng có người chơi gôn nào gặp nhiều may mắn như mình mong đợi.

Đến đấy thì ông bạn, ta hãy gọi ông là giáo sư Binks, cầm tấm khung ảnh in khắc lên và hỏi:

- Chỗ này là ở đâu vậy, Williams?

- Chính là tôi đang định tìm cho ra đây.

ông Williams nói, vừa đi đến chỗ giá sách để tìm quyển từ điển địa lý.

- Anh nhìn đàng sau bức tranh xem, cái gì đó như ley Hall, hoặc ở Susse, hoặc ở Esse. Mất nửa tên. Anh liệu có biết không nhỉ?

- Tranh này là từ tay Britnell chứ gì?

Binks nói.

- Mua cho bảo tàng à?

- Phải, giá như năm sillings thì tôi cũng mua đấy.

Williams đáp

- Nhưng chẳng hiểu vì lý do gì hắn đòi hai bảng. Tôi chịu không hiểu được. Một bức tranh khắc chẳng ra gì, lại không có lấy một hình người cho thêm sinh động.

- Tôi cũng nghĩ không đến hai bảng, nhưng tôi cho là khắc không đến nỗi tồi. Theo tôi, ánh trăng được vẽ khá đấy và tôi thấy có hình người đấy chứ, ít nhất là một hình người ở phía trước ấy, bên rìa ấy.

- Để xem nào

ông Williams nói

- Phải, ánh sáng khắc khá là khéo. Hình người của anh đâu? Ồ đây rồi. Mỗi cái đầu, ngay phía dưới bức tranh.

Quả thật có một vết đen sát rìa bức tranh, khắc đầu một người đàn ông hoặc đàn bà, lờ mờ thôi, lưng quay về phía người xem, mặt hướng về toà nhà.

Trước đây Williams không thấy. Ông bảo

- Khéo hơn là tôi nghĩ đấy, thế nhưng dù sao tôi cũng không thể chi hai bảng của bảo tàng, cho bức tranh vẽ một nơi tôi không biết là ở đâu.

Giáo sư Binks có việc phải đi ông ta về ngay, còn Williams, cho tới tận giờ ăn cơm vẫn không sao xác định được bức tranh của mình. "Giả sử một nguyên âm trước chữ bị mất thì còn dễ" ông nghĩ "Nhưng tuởng Guestinley đến Langley, lại còn bao tên tận cùng giống như thế nữa, mà quyển sách khỉ gió này lại chẳng có chỉ dẫn nào về chữ tận cùng".

Giờ ăn ở trường của ông Williams là bảy giờ. Không cần kéo dài bữa ăn quá, cũng đủ gặp được bạn bè cùng chơi gôn lúc chiều, để trao đổi với nhau qua bàn ăn (toàn các ngôn từ về gôn cả, tôi phải nói ngay như vậy). Mất độ một giờ hoặc hơn ở gian phòng chung sau cơm tối. Sau đó một số rút về buồng của Williams chơi bài whist hoặc hút thuốc lá. Trong một lúc tạm nghỉ, Williams nhặt bức tranh từ bàn lên, không nhìn vào nó, đưa cho một người bạn quan tâm vừa phải đến nghệ thuật bảo ông ta nó từ đâu tới, cùng một số đặc điểm như ta đã biết ở trên. Vị quý khách này thận trọng cầm lấy bức tranh, nhìn vào đó rồi nói với giọng khá quan tâm:

- Wiiliams, một công trình khá đấy chứ, gây cho người ta cảm giác của thời kỳ lãng mạn. Ánh sáng theo tôi xử lý rất tuyệt, hình người tuy thô nhưng gây ấn tượng.

- Thật ư?

Williams đang mang whisky sô đa cho các bạn không tới gần để nhìn vào bức tranh được. Lúc này đã khá muộn khách khứa lục tục ra về. Sau đó, Williams ra thành phố viết mấy bức thư giải quyết công việc. Quá nửa đêm ông định đi ngủ, tắt đèn thắp nến trong phòng ngủ. Bức tranh được người xem cuối cùng đặt lật ngửa trên bàn khiến lúc tắt đèn ông chợt để mắt tới. Cái mà ông nhìn thấy làm ông suýt đánh rơi cây nến xuống đất. Ông cho biết giá lúc ấy hoàn toàn ở trong bóng tối hẳn ông phải lên một cơn thần kinh. Nhưng vì không phải vậy, ông đặt cây nến trên bàn ngắm kỹ bức tranh. Không nghi ngờ gì nữa mà hoàn toàn chắc chắn. Giữa thảm cỏ trước ngôi nhà không quen biết là một dáng hình người, mà lúc năm giờ chưa có, hình người đó bò bằng cả tay, chân về phia ngôi nhà, trùm kín bằng áo đen kỳ quặc, lưng có chữ thập trắng.

Tôi cũng không hiểu trong hoàn cảnh này làm gì là đúng nhất. Tôi đành chỉ nói với các bạn Wiliams đã làm gì. Ông cầm vào một góc bức tranh, mang nó qua hành lang sang dãy phòng trước mặt mà ông sở hữu, khóa nó trong một chiếc ngăn kéo, đóng cửa không tiếp khách cả hai dãy phòng, rồi vào giường ngủ, nhưng trước hết ông ghi chép lại sự thay đổi của bức tranh, ký vào ô dưới, sự thay đổi mà bức tranh trải qua kể từ lúc nằm trong tay ông. Mãi ông mới ngủ được, nhưng được an ủi với ý nghĩ diễn biến của bức tranh, không phải chỉ có mình ông chứng kiến mà đều có người làm chứng cả. Rõ ràng người bạn lúc tối nhìn thấy một cái gì đó cũng giống như ông, nếu không hẳn ông phải nghĩ mắt mình có vấn đề hoặc trí não ông bất thường.

May mắn không có khả năng này. Đến mai ông phải thực hiện hai việc. Một là giữ bức tranh thật cẩn thận và gọi thêm người đến làm chứng, hai là phải xác định ngôi nhà ở đâu. Vậy là phải gọi cho ông Nisbet ở bên cạnh sang ăn sáng, sau đó tìm thêm trong từ điển địa lý. Nisbet không bận gì đến lúc chín giờ ba mươi phút. Muộn vậy rồi mà chủ nhân còn chưa mặc quần áo xong. Trong bữa sáng Wiliams không nói gì về bức in khác cả cứ để yên chờ ý kiến Nisbet thế nào. Những ai đã quen với cuộc sống trong trường đại học, hẳn biết có nhiều đề tài hay ho và rộng lớn, để hai người bạn đồng học ở trường đại học Canterbury, trao đổi trong bữa sáng ngày chủ nhật, từ chơi gôn đến tennis trên sân cỏ. Nhưng Williams tỏ ra khá đãng trí bởi tâm trạng ông tập trung cả ở bức tranh đang nằm úp sấp trong ngăn kéo căn phòng đối diện.

Cuối cùng tẩu thuốc buổi sáng được châm giờ phút trông đợi đã đến. với một niềm kích động đáng kể hầu như phát run lên, ông chạy sang mở khóa ngăn kéo lấy bức tranh ra lúc này vẫn nằm úp sấp, chạy về đưa nó vào tay Nisbet.

- Nào, Nisbet, tôi muốn anh nói tôi biết anh trông thấy chính xác trong bức tranh này là cái gì. Xin mô tả tỉ mỉ cho. Tôi sẽ nói lý do sau.

- Được.

Nisbet nói:

- Tôi nhìn thấy một ngôi nhà Anh, tôi cho là vậy, ở miền quê dưới ánh trăng.

- Ánh trăng? Anh chắc không?

- Chắc chứ. Trăng có vẻ sắp tàn, nếu anh muốn biết chi tiết, nhiều mây trên bầu trời.

- Thôi được rồi, anh nói tiếp đi. Tôi xin thề lần đầu nhìn vào tôi không thấy trăng và người.

Câu này Williams nói một mình.

- Chẳng còn gì hơn.

Nisbet nói tiếp.

- Nhà có một, hai, ba dãy cửa sổ, mỗi dãy năm cửa, trừ dãy dưới cùng ở giữa có một cái cổng đúng vào chỗ cửa sổ giữa, và...

- Còn hình người thì sao?

Williams sốt ruột hỏi.

- Chẳng có người nào.

Nisbet bảo

- Nhưng...

- Sao lại không có người ở thảm cỏ phía trước?

- Làm gì có!

- Anh thề chứ?

- Chắc chắn, tôi thề. Nhưng có một thứ...

- Cái gì?

- Một trong cửa sổ tầng trệt, bên trái cửa ra vào mở.

- Thật ư? Lạy Chúa, Hẳn là hắn vào nhà rồi.

Wiliams nói kích động mạnh và vội vã lại sau ghế sô pha nơi Nisbet ngồi, giật lấy bức tranh tự mình xác định. Đúng thật. Không người. Một cửa sổ mở. Sau ít phút ngạc nhiên không nói nên lời, Williams ra bàn giấy nguệch ngoạc mấy chữ không lâu, rồi đem cho Nisbet hai tờ giấy, bảo ông ta ký vào một tờ, là tờ ông mô tả giống những gì các bạn vừa nghe, rồi đọc cho Nisbet nghe tờ ông ghi chép tối hôm qua.

- Thế là thế nào nhỉ?

Nisbet nói.

- Chính thế đấy

Williams nói.

- Có một việc tôi phải làm, hoặc là ba việc. Tôi phải hỏi lại Garwood, tức là vị khách tối hôm qua, xem ông ta nhìn thấy gì, rồi tôi phải chụp lại hình ảnh lúc này trước khi nó diễn biến thêm nữa, sau đó tìm ra nơi này ở đâu.

- Tôi chụp cho.

Nisbet nói.

- Nhưng này anh, cứ như thể ta đang chứng kiến sự diễn lại một bi kịch. Vấn đề là, nó đã xảy ra hay sắp xảy ra? Anh phải tìm ra địa điểm ngôi nhà ngay đi.

- Phải

ông ta ngắm lại bức tranh.

- Tôi nghĩ anh đoán đúng. Hắn đã vào trong nhà và nếu tôi không nhầm, sẽ có sự trả thù của con quỷ ở trên gác.

Williams nói.

- Để tôi bảo anh tôi sẽ làm gì nhé. Tôi sẽ mang bức tranh đến già Green (Uỷ viên ban giám đốc của trường mà trước kia đã từng làm ở phòng tài vụ trường trong nhiều năm) có thể ông ta biết, vì trường ta có cơ sở ở Esse và Susse cơ mà, hai vùng này nhất định ông ta đã từng ở khá lâu.

- Đúng vậy đấy.

Nisbet nói.

- Nhưng để tôi chụp ảnh đã. Này nhưng hôm nay Green không có nhà, tối qua không thấy ở nhà ăn. Chủ nhật nghe nói ông ta mới xuống.

- Ừ phải.

Williams nói.

- Ông ta đi Brighton. Thôi được anh chụp đi, tôi đến chỗ Garwook để nghe anh ta khai đã, anh trông bức tranh nhé bây giờ tôi đã nghĩ hai bảng không phải là quá đáng rồi.

Một lúc sau Williams trở về cùng Garwood. Theo ông này thì khi nhìn vào bức tranh, ông thấy hình người rõ ràng là ở bên kia bức tranh, không xa thảm cỏ bao nhiêu. Đúng là có chấm trắng ở sau lưng nhưng ông không cho là hình chữ thập. Họ soạn thảo ra một tài liệu, ký vào, Nisbet chụp ảnh bức tranh.

- Bây giờ anh làm gì? Chẳng lẽ cả ngày ngồi nhìn nó?

Nisbet hỏi.

- Không.

Wiliams nói.

- Tôi đang hình dung toàn bộ vấn đề. Đây nhé, từ tối qua đến nay có thể xảy ra bao nhiêu chuyện mà hắn mới chỉ vào đến trong nhà. Hắn có thể làm xong việc rồi trở về, nhưng nếu cửa sổ mở thì hắn vẫn còn ở trong.

Tôi yên tâm để đó đã. Hơn nữa tôi cho là ban ngày không có gì thay đổi đâu. Ta đi chơi chiều về dùng trà hoặc tối về cũng được. Tôi đặt bức tranh trên bàn, đóng cửa. Ông người làm của tôi có thể vào nhà nhưng không sao. Cả ba thấy kế hoạch rất hay, mà nếu cả ba cùng đi chơi với nhau, thì sẽ không ai có dịp nói câu chuyện ra với người khác. Lộ ra, hội Ma học sẽ nghe được mất. Có lẽ chúng ta cứ để họ vui chơi đến năm giờ chiều. Đến khoảng giờ đó, cả ba lần lên cầu thang nhà Williams. Williams hơi nản thấy cửa buồng mở nhưng sực nhớ ra chủ nhật người làm đến dọn dẹp sớm hơn ngày thường. Tuy nhiên ba người ngạc nhiên quá. Bức tranh vẫn dựng ở trước một chồng sách như lúc họ đi, ông giúp việc ngồi đàng trước nó cứ nhìn chăm chăm vào nó vẻ hãi hùng.

Sao thế nhỉ? Ông Filcher (tên thật chứ không phải tôi bịa ra) tuy là đầy tớ cao cấp, mẫu mực theo tiêu chuẩn quy ước, chẳng làm gì khác ngoài việc ngồi vào chỗ của chủ, không để ý gì đến chung quanh. Ông ta giật bắn mình khi thấy mọi người vào, cố lắm mới đứng dậy được.

- Xin lỗi đã ngồi vào đây.

ông ta nói.

- Không sao, Robert.

Williams bảo.

- Tôi đang định hỏi ông nghĩ như thế nào về bức tranh.

- Thưa ông dĩ nhiên tôi không dám có ý chống lại ý kiến ông, nhưng loại tranh như thế này tôi không thể treo ở chỗ mà con gái tôi xem được.

- Sao vậy?

- Vì con bé con tội nghiệp, một lần nó nhìn thấy một quyển Kinh thánh trong có loại tranh chỉ bằng nửa như thế này, mà chúng tôi phải thức với cháu mấy đêm liền, nó mà lại trông thấy hình ảnh một bộ xương, hay là cái gì đây không biết, mang đứa bé đi như thế này thì nó hết hồn. Ông biết bọn trẻ đấy, một chuyện nhỏ xíu cũng bồn chồn hốt hoảng. Thưa ông, chỉ xin nói một bức tranh như thế này mà cứ nằm vạ, vậy để ai vào cũng trông thấy thì không nên. Thưa, tối nay ông có cần gì không ạ?

- Không ạ? Xin cám ơn ông.

Ông ta về xong, cả ba lao vào nhìn bức tranh. Ngôi nhà vẫn như cũ, dưới ánh trăng tàn và những đám mây. Cửa sổ lúc nãy mở nay đã đóng lại, hình người lại một lần nữa xuất hiện trên thảm cỏ, lần này không thận trọng bò bằng tay chân nữa, mà đứng thẳng lên, bước những bước dài ra phía trước bức tranh. Trăng ở phía sau hắn, mặt hắn bị tấm vải đen che không nhìn rõ, chỉ thấy một cái trán dồ với vài sợi tóc thò ra. Đầu cúi xuống, hai cánh tay ôm một vật chỉ nhìn thấy mờ mờ, như là một đứa bé không rõ đã chết hay còn sống, chỉ thấy hai chân và hai cái chân đó gầy đến độ kinh khủng.

Từ năm giờ đến bảy giờ ba người bạn cứ ngồi nhìn bức tranh. Không thấy thay đổi gì nữa. Cuối cùng họ yên tâm bỏ nó đấy định ăn cơm xong sẽ quay lại xem diễn biến ra sao. Khi họ tập hợp lại vào thời gian nhanh nhất có thể thì bức tranh vẫn ở đó, nhưng hình người không còn ngôi nhà hoàn toàn yên tĩnh dưới ánh trăng. Họ chỉ còn việc tra cứu từ điển địa lý và các sách hướng dẫn du lịch. Cuối cùng Williams gặp may. Ông cũng xứng đáng với may mắn ấy. Vào mười một giờ ba mươi phút khuya, từ sách Hướng dẫn du lịch Essex của Mujjay, ông đọc được những dòng sau đây:

"16.5 dặm Anningley. Nhà thờ là toà nhà khá thú vị xây từ thời Norman, đã được xếp hạng trong thế kỷ trước. Có các ngôi mộ gia đình Francis mà toà thái ấp của họ, Anningley Hall là một ngôi nhà chắc chắn xây từ thời nữ hoàng Anne, đứng ngay bên kia nhà thờ trên diện tích tám mươi mẫu tây. Gia đình này đã tuyệt tự, người nối dõi cuối cùng đã mất tích một cách bí ẩn lúc còn bé vào năm 1802. Cha em bé ông Arthur Francis là người có tài vẽ tranh khắc bằng bản in khắc nào. Sau khi mất tích đứa con ông sống ẩn dật trong ngôi nhà, ba năm sau đúng vào ngày con ông mất tích, ông chết trong phòng học, sau khi hoàn thành bản in khắc ngôi nhà mà người ta cho là của khá hiếm".

Xem ra đúng là phù hợp, ông Green từ Brighton về cũng xác định ngôi nhà trong tranh là Anningley Hall. Dĩ nhiên ông Williams hỏi:

- Có thể giải thích được hình người hiện ra trong tranh là ai không hả Green?

- Tôi không chắc lắm. Nghe người ta nói hồi tôi mới biết ngôi nhà thì trước kia ông Francis rất ghét các kẻ săn trộm, nghi ai ông đuổi khỏi lãnh địa ngay, cuối cùng ông loại hết chỉ còn lại một. Ngày xưa thì quý tộc nông thôn làm đủ chuyện giờ không ai dám làm. Người này bản thân cũng là người cuối cùng của một dòng họ cổ, tôi cho là có thời từng là chúa công của thái ấp. Trong địa hạt tôi, tôi nhớ có một người như vậy.

- Như là người đàn ông trong cuốn Tess of the D Urbervilles (Thomas Hardy) ấy à?

Williams hỏi.

- Chắc thế nhưng quyển ấy tôi chưa đọc. Nhưng anh chàng này có thể chỉ ra hàng dãy mộ của tổ tiên ở nhà thờ với chút niềm cay đắng, tuy nhiên Francis không sao tóm được anh ta, anh ta lúc nào cũng đúng luật, nhưng một ngày kia những người coi rừng bắt được anh ta trong khu rừng phía sau lãnh địa, tôi có thể chỉ cho anh nơi này được, vì nó gần khu đất trước kia thuộc của chú tôi. Họ cãi nhau, anh chàng Gawdy (tên anh ta đúng như vậy, tôi nhớ ra rồi) anh ta không may bắn chết một người gác rừng, tội nghiệp anh ta! Đúng là điều Francis muốn.

Hồi ấy có đại bồi thẩm đoàn, mà đại bồi thẩm đoàn thì các anh đã hiểu họ như thế nào. Anh ta bị treo cổ rất nhanh, tôi được xem cả chỗ người ta chôn anh ta, phía tây bắc nhà thờ là nơi chôn những người bị treo cổ hoặc tự tử. Có người nghe rằng một người bạn của Gawdy, anh ta không có họ hàng, con quỷ tội nghiệp ấy cũng là người cuối cùng của dòng họ anh ta mà, một loại spes ultima gentis (người cuối cùng của dòng họ), hắn đã bắt cóc con trai Francis để làm ông này cũng tuyệt tự luôn. Tôi cũng không biết nữa, đây là cách nghĩ khá khác thường của dân săn trộm vùng Esse, nhưng các anh biết đấy, đến bây giờ thì xem ra có vẻ như chính tay Gawdy làm việc này. Tôi thật ghét nghĩ đến chuyện đó! Thêm whisky vào, Williams!

Sự việc được Williams kể lại cho Dennistoun, anh này kể lại cho cả đám gồm nhiều thành phần, trong đó có tôi và một giáo sư chuyên về rắn. Ông này nhận xét:

- Dân Brifgeford ấy thì họ chẳng bao giờ nói gì đâu.

Tình cảm này nhiều người cho là đúng. Xin nói thêm bức tranh này hiện ở bảo tàng Ashleian, đòi được xử lý nhằm mục đích tìm xem loại mực dùng có phải mực hoá học hay không nhưng không kết quả, ông Britnell không biết gì ngoài việc cho rằng bức tranh không thuộc loại thông thường và sau đó có xem kỹ đến mấy cũng không thấy nó biến đổi nữa.


Montague Rhodes James

#265 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 02/09/2011 - 00:41

QUỶ SỨ LUẬN ĐẠO

Trường hợp xảy ra câu chuyện: Tòa Thánh Định Tường thuộc Hội Thánh Minh Chơn Lý, Mỹ Tho, nay gọi là Hội Thánh Cao Đài Chơn Lý, được xây cất đồ sộ giữa một cánh đồng ruộng xa chợ Cầu Vĩ vài cây số và cận tỉnh lộ từ Cầu Vĩ đến Tầm Vu, trước thuộc tỉnh Tân An, nay thuộc tỉnh Tiền Giang.

Vào khoảng 1933-1935, một bữa kia, vào buổi sáng rằm trong tháng độ tám giờ hơn, đạo hữu nam nữ khắp các vùng lân cận đều lần lượt đổ về để chầu lễ giờ Ngọ như mọi khi. Cùng đến với chư tín hữu có một người đàn ông độ trên ba mươi tuổi, mặc áo cụt đen và quần vải đen ướt dầm và đầy bùn đất. Đầu cổ người ấy chơm bơm như quạ đánh, mặt mũi thì lem lấm bùn đất, hai con mắt thì đỏ và láo liên dường như sợ hãi điều chi. Người ấy trong hai tay cầm hai cành cây tươi mới bẻ theo dọc đường và tự đập vào mình nghe xành xạch. Theo sau người ấy có một đám con nít hiếu kỳ và một người lính khố xanh (lính mã tà thời ấy) đi theo, là vì đám trẻ làm ồn cả một vùng và chính sự ồn ào đã xảy ra là do con người nói trên. Vì lẽ đó mà đã nhiều lần người lính mã tà định bắt con người kỳ dị này mà y cho là bị bịnh điên để đưa về quận lỵ rồi sẻ đưa lên nhà thương điên Biên Hòa. Đồng thời người lính ấy định giải tán đám trẻ nói trên để chấm dứt cuộc ồn ào. Nhưng mỗi khi người lính định bắt đi thì người ấy nói lớn lên rằng:

- Các người có lạ gì tôi! tôi là quỷ sứ mà!

Nghe nói vậy người lính mã tà chưa biết thực hư nên còn ngại chưa hạ thủ để xem sao. Xác quỷ sứ ấy đã từ hướng Tầm Vu mà đến. Khi đến trước Tòa Thánh Định Tường cách đường lộ độ trăm thuớc, thì xác quỷ sứ bèn rẻ vào đường đấp đất đưa đến trước sân Tòa Thánh. Đến nơi xác quỷ sứ đứng ngay trước cửa điện chớ không vào và nói lẩm bẩm trong miệng. Thấy thế chư đạo hữu đều bu lại xem và thay phiên nhau đưa ra nhiều câu hỏi hóc búa, dù cho người thông đạo đến đâu cũng khó giải đáp được. Nhưng lạ thay, các câu hỏi ấy xác quỷ sứ đều trả lời được hết và nghe rất hữu lý. Vì các câu trả lời của xác quỷ sứ có một giá trị đạo lý, cho nên chúng tôi nêu lên đây để chư đạo tâm bốn phương rộng đường nghiên cứu.

Câu hỏi thứ nhứt:

- Chú ở đâu đến đây và vì sao mà thân hình dơ bẩn tiều tụy như thế?

Quỷ Sứ đáp:

- Xác của tôi ở vùng bên cạnh kia. Nó là một đứa con ngỗ nghịch phải tội bất hiếu nặng. cho nên tôi là quỷ sứ được lệnh nhập vào xác nó, hành hạ xác nó cho đến cùng cực độ và khi đến ngày giờ tôi sẻ xô xác nó vào xe hơi cán hoặc cho xe lửa nghiền nó. (Lúc đó đường xe lửa Sài Gòn, Mỹ Tho vẫn còn chạy).

Câu hỏi thứ hai:

- Ông xưng là quỷ sứ, mà quỷ sứ ở chốn Diêm Cung, chuyên việc bắt hồn người thế gian tận số. Như vậy ông rất rành về lẽ sống chết, số mạng. Xin hỏi: Trước kia chiếc tàu Đồng Sanh, ngày gần Tết (độ 28, 29 Tết chi đó), chạy từ Sài Gòn về Trà Vinh có chở gần trăm hành khách. Về đến khúc sông Vàm Tượng, Bãi Khang, tàu bị sóng đánh chìm và tổng số hành khách đều chết đuối, không một ai thóat nạn. Năm sau, cũng ngày gần Tết, chiếc tàu Oai Lợi chở một số đông hành khách khi về đến khúc sông nói trên cũng bị sóng đánh chìm và tất cả hành khách đều chết. Như vậy hai lần chìm tàu, trong số hành khách tử nạn tập thể, phải chăng có nhiều người bị chết oan lắm chớ?

Quỷ sứ đáp:

- Không có ai chết oan cả. Bởi chúng nó sanh đồng số kiếp cho nên đến ngày tháng ấy, ngày ấy, khiến chúng nó cùng đi một chuyến tàu để rồi tử nạn tập thể như vậy. Chư quý huynh, quý tỷ ơi! Chư quý huynh, quý tỷ may mắn được sanh làm người thì chỉ còn có tu hành mà bước lên địa vị Tiên Phật được. Như vậy quỷ sứ tôi còn thua chư quý huynh, quý tỷ, vì lẽ phải chuyển kiếp hai lần mới mong đến địa vị Tiên Phật được.

Nói đến đó xác quỷ sứ buồn rười rượi. Thấy quỷ sứ có vẻ hiểu đạo cho nên nhiều vị đạo hữu thay phiên nhau mà hỏi quỷ sứ nhiều vấn đề từ sáng mơi đến mười một giờ trưa.

Câu hỏi thứ ba:

- Xin quỷ sứ cho biết tại sao chúng tôi theo Đạo Tam Kỳ phải mặc áo trắng?

Quỷ Sứ đáp:

- Mặc áo trắng là lúc nào cũng phải giữ tâm hồn của mình luôn luôn trong trắng như sắc áo của mình mặc vậy.

Câu hỏi thứ tư:

- Tại sao người tu phải ăn chay?

Quỷ Sứ đáp:

Người tu phải ăn chay để tránh giết hại sanh mạng thú vật. Một con thú sanh ra thì đời sống của nó đã được định kỳ. Nếu trước thời gian ấy mà nó bị giết thì nó uất ức, và sau khi chết xuống âm cung chúng nó sẽ chờ người giết chúng mà đòi thường mạng. Trái lại người ăn chay dùng trái cây chín và rau cỏ thì tránh được tội giết thú. Rau cỏ tuy bị cắt đứt có đau đớn một phần nào, nhưng rồi nó lại mọc trở lại chớ không chết vĩnh viễn như các con thú bị giết.

Câu hỏi thứ năm:

- Ăn chay kỳ và ăn chay trường khác nhau như thế nào?

Quỷ Sứ đáp:

- Người ăn chay kỳ chẳng khác nào người bị nhiều mối dây buộc trói mình (dây oan nghiệt). Và ngày qua tháng lại phải lần hồi tháo gở mở từ gút một và như vậy sẽ quá lâu! Trái lại, người ăn chay trường chẳng khác nào tự mình lấy con dao bén xả các mối dây ấy cùng một lượt. Như vậy chẳng phải mau hơn sao?

Câu hỏi thứ sáu:

- Tu là cứu Cửu Huyền Thất Tổ, ý nầy ra làm sao?

Quỷ Sứ đáp:

- Cửu Huyền Thất Tổ của người tu đâu phải sau khi chết rồi thì luôn luôn bị giam cầm ở chốn A Tỳ. Phần nhiều các vị ấy đã đầu thai trở lại làm người trên thế gian rồi. Trong số người này, biết đâu đã có hàng thất tổ của người tu. Bởi vậy, người tu hành hạnh đức cao siêu khi đi cứu độ người đời quanh mình, đã không để ý mà vẫn độ được thất tổ của mình là vậy đó. (Có nhiều nhà tu hành đến khuyến tu mà không chịu nghe, phải chờ một nhà tu hành khác đến nói thì mới ngoan ngoản nghe theo. Đó chẳng phải là vấn đề tiền duyên là gì?)

Đến đây đã mười một giờ trưa, chư tín hữu nam nữ lần lượt nhập điện chầu lễ. Có người đến mời xác quỷ sứ nhập điện chầu lễ. Xác quỷ sứ không chịu và cứ đứng phơi nắng giữa trời trên mấy tiếng đồng hồ, đến nỗi bùn đất dính trên áo quần đều khô. Thấy thế một vị Đại Thiên Phong động lòng trắc ẩn bèn cho một tín hữu đem một cây dù ra che cho người ấy. Xác quỷ sứ bèn xô ra và nói:

- Để nói chịu hành phạt cho đáng tội của nó.

Khi lễ khởi hành tại chánh điện thì xác quỷ sứ đứng im lìm không nói năng gì nữa. Có lẽ chơn linh quỷ sứ tạm thời xuất ra để chầu lễ chăng? Sau cuộc lễ, xác quỷ sứ nói chuyện trở lại cho đến bốn giờ chiều thì lúc ấy cặp mắt của xác quỷ sứ láo liên, giọng nói yếu ớt, không còn hoạt bát sáng suốt như lúc đầu và từ từ bước ra lộ đi mất dạng.


Cao Đài Giáo Lý

#266 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 02/09/2011 - 20:09

VIẾNG THĂM THẾ GIỚI NGẦM BÍ ẨN CỦA CÕI ÂM

Đêm ngày 27-8, lần đầu tiên tại Malaysia, một cuộc du lịch có một không hai khám phá cõi âm, được tổ chức đã thu hút đông đảo người dân quan tâm. Chuyến đi được tổ chức bởi thạc sĩ Kek Eng Seng, thuộc Trung tâm Phật giáo Tze Bei Guan Yin. Ông này đã tuyên bố, ông có khả năng... đi du lịch xuyên qua khắp các cõi của Trái đất, trong đó có cả thiên đường và địa ngục.

Đầu tiên, vị thạc sĩ này đã mời người dân viếng thăm một thế giới ngầm bí ẩn của cõi âm (afterworld). Tưởng chừng đề nghị này có phần lập dị và những ý tưởng vẻ như thái quá, nhưng có tới hai trăm người từ trên khắp mọi miền đất nước Malaysia đã đăng ký chương trình du lịch bất thường này. Danh sách được chọn lọc kỹ càng, dựa trên sự phù hợp của ngày sinh tháng đẻ với thời gian của tour. Những phụ nữ đang mang thai và không sạch sẽ cũng bị ban tổ chức từ chối. Cuối cùng, đoàn người tham gia chuyến du lịch đặc biệt này chỉ còn năm mươi người, trong đó có tới một chục phóng viên của các tờ nhật báo Trung Quốc.

Trời mưa cả ngày ngày thứ năm và thứ sáu, nhưng thứ bảy đã nắng. Thạc sĩ Kek cho biết, ông đã kêu gọi vị thần Quan Âm ngừng mưa để chuyến đi của họ tới thế giới bên kia thuận lợi. Đoàn hành khách tập trung tại bang Penang, thành phố Georgetown để cầu nguyện và làm nghi lễ lên đường vào khoảng 10h15. Tất cả mọi người phải mặc áo sơ mi màu trắng tượng trưng cho sự tinh khiết và sự chân thành. Một người trong đoàn kể lại:

- Mắt của tôi bị một mảnh vải màu vàng bọc lá bùa bằng giấy. Sau đó, ánh đèn vụt tắt. Khi tôi nghe tiếng hô của ông Kek, đầu tôi trở nên rất nóng, như có một luồng không khí ấm áp đang cố gắng thoát ra khỏi cơ thể của tôi.

Người này cho biết, sau đó ông Kek giải thích, đó là vì linh hồn của anh đang tìm cách tách ra khỏi thể xác của anh.

- Cảm giác đó đến ba, bốn lần nhưng chỉ trong vòng vài phút là biến mất. Tôi đã cố gắng khó tập trung nhưng tâm trí của tôi đã bị phân tâm bởi những âm thanh từ một chương trình opera gần đó và tiếng ồn từ đám đông đứng xem.

Chỉ khoảng bốn mươi lăm phút sau khi tour khởi hành, anh này nhìn thấy ánh sáng, rồi lại nhanh chóng rơi vào bóng tối một lần nữa và thấy các vòng tròn bay về phía mình.

- Nó giống như xem một bộ phim khoa học viễn tưởng với một tàu vũ trụ du lịch xuyên qua một dòng suối thiên thạch. Thạc sĩ Kek sau đó giải thích rằng, tôi đã đi qua một xoáy nước khi trên đường đi đến "địa ngục". Tôi nhìn thấy một cầu vồng được treo trên bầu trời đẹp, và một vị thần khuyên tôi nên trở thành một người ăn chay, ông Chiang Kee Chuan (người Trung Quốc) chia sẻ.

Một phụ nữ cho biết, bà đã nhìn thấy nhiều người dân tại một khu chợ đêm. Một người tham gia nữa cũng nói rằng, cô đã nhìn thấy người mẹ qua cố của cô, nhưng cô không thể đến gần và nói chuyện với bà. Sau hơn một giờ hành trình, sư phụ Kek kêu gọi mọi người trở về. Tuy nhiên, chỉ có khoảng chục người tuyên bố đã phá vỡ những rào cản để tới được âm phủ thành công.


Thuỷ Anh (theo Dailychilli)

#267 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 05/09/2011 - 06:15

BÍ ẨN VỀ CHIẾC XE BUS MA QUÁI Ở KENSINGTON ANH QUỐC

Vào những năm ba mươi của thế kỷ trước, những tài xế hay lái xe ban đêm quanh khu vực Kensington, London Anh, thường trông thấy chiếc xe bus màu đỏ hai tầng, mang số hiệu bảy, lượn lờ quanh một khúc cua vắng người qua lại. Nhiều người trông thấy chiếc xe mở đèn sáng choang nhưng lại không có một bóng người, dù là tài xế ở trên xe. Các nhân chứng nói chiếc xe bus đang chạy lững thửng từ lề bên kia đột nhiên tăng tốc và cố tình lao thẳng vào xe mình để hòng gây tai nạn.

Vào tháng sáu năm 1934, cảnh sát Bắc Kensington xử lý hồ sơ tai nạn giao thông thảm khốc của một tài xế trẻ. Anh ta chết khi chiếc xe lao vào cột đèn và bốc cháy, điều kỳ lạ là hiện trường không để lại dấu vết của chiếc xe thứ hai và người thanh niên trẻ cũng không hề sử dụng bia rượu. Trong một thời gian dài sau đó, tại ngã ba đường St. Mark và Cambridge Gardens, nơi người tài xế trẻ thiệt mạng lại thường xuyên xảy ra những vụ tai nạn giao thông khác gây chết người khác. Cảnh sát Kensington bắt đầu chú ý đến khúc cua này khi nhận được báo cáo từ những tài xế taxi, có chiếc xe bus màu đỏ mang số hiệu bảy hay xuất hiện vào ban đêm để quấy rối họ.

Lai lịch chiếc xe bus số bảy nhanh chóng được nhà chức trách làm rõ, nó thuộc sở hữu của Công ty Vận tải London nhưng các nhà quản lý công ty thề thốt rằng họ không có chuyến xe nào hoạt động vào lúc một giờ sáng, cũng không có tài xế nào đưa xe ra khỏi bến đổ trong đêm khua thanh vắng. Mọi việc chưa được làm sáng tỏ thì một người đàn ông trình báo với cảnh sát: Vào khoảng một giờ sáng, khi đang lái xe trên đường St. Mark thì bị một chiếc xe bus màu đỏ mở đèn sáng trưng lao thẳng vào xe ông. Trên xe không có một bóng người và nó nhanh chóng biến mất ngay sau khúc cua khi ông may mắn đưa được xe vào lề để tránh né, dù suýt bị đâm vào bức tường lớn.

Hàng chục cư dân địa phương liên tiếp khiếu nại với cách sát và vài tờ báo địa phương về hiện tượng chiếc xe bus ma quái kỳ lạ, nhưng các nhà chức trách Kensington lại ngó lơ vì không tin vào chuyện ma cỏ. Cho đến hôm nọ, trong lúc tuần tra ban đêm, một nhân viên cảnh sát nhìn thấy chiếc xe bus màu đỏ sáng choang tại cung đường đen và trên xe tuyệt nhiên không có một bóng người trên đó... Biết có chuyện chẳng lành, người cảnh sát lập tức cho xe đuổi theo, nhưng chiếc xe bus màu đỏ đã biến đi trong nháy mắt sau khúc cua nguy hiểm.

Mọi chuyện được báo cáo lên cấp trên, chính quyền Bắc Kensington ra quyết định xóa sổ khúc cua và từ đó chiếc xe bus số bảy không còn xuất hiện ở London nữa.


dobatnhi

#268 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 07/09/2011 - 08:23

CHUYỆN MA ĐỜI LÍNH

Phần Một

Nhắc đến Ma hay nhắc đến những chuyện huyền bí thuộc thế giới siêu hình thì có lẽ không ai đã không một lần nghe nói tới hoặc đã được nghe kể lại. Nhưng nói đến việc trực tiếp gặp ma, đối diện với ma, chuyện trò hay giao hữu với ma, xa hơn chút nữa là sự cảm thông hoặc bị ma nhập hẳn vào một người nào đó để chế ngự thân xác và tâm thức của họ thì không phải ai ai cũng đều có cơ duyên để chứng nghiệm và đó chính là nguyên nhân càng khiến cho những định kiến của thế gian nghĩ về quỷ ma, nghĩ về thế giới siêu hình, đôi khi trở nên rẫy đầy những điều kỳ bí và thường bị thêu dệt quá đáng theo một thiên kiến ghê gớm kinh dị để cho những người chưa bao giờ gặp ma trở nên hãi hùng khiếp sợ.

Thật ra, chúng ta đều nhận biết một cách rất rõ ràng rằng, những điều gớm ghê kinh dị không phải chỉ xảy đến từ những hoạt động của âm giới mà ngay cả trong đời sống hiện thực của chúng ta hằng ngày, cũng đâu có thiếu gì những sự kiện còn kinh dị hơn gấp bội, những sự kiện đó còn đưa đến những hậu quả đầy kinh hoàng khác hơn thế nữa. Nhưng đối với điều đó, tác giả không có chủ đích để bàn luận trong câu chuyện huyền bí này, chúng tôi chỉ đề cập đến một cách phiến diện trước khi kính mời quý vị cùng tham dự vào câu chuyện một người lính chiến thuộc QLVNCH có đời sống rất bình thường và anh đã chẳng bao giờ muốn mà vẫn cứ có nhiều cơ duyên phải gặp gỡ những vong hồn đã khuất mày khuất mặt ở bên kia thế giới trong suốt quãng đời binh nghiệp...

Người lính chiến có duyên cơ với ma, với những sinh hoạt thuộc âm giới đó tên của anh là Long, là một quân nhân vạm vỡ khỏe mạnh. Tánh tình Long hồn nhiên yêu đời và rất vui tính. Lúc nào Long cũng có trên môi nụ cười cởi mở hiểu theo đúng nghĩa đen, tức là miệng cười của Long lúc anh hoan hỉ thì ngoài tiếng cười dòn như sấm nổ, hai vành môi của anh còn cởi và mở hẳn ra để lộ diện thật rõ ràng hai hàm răng vừa to quá khổ vừa trắng hếu, trông anh rất đỗi vô tư và không ai có thể nhìn anh mà nín được cười. Ðã vậy, khi nói chuyện, Long còn có giọng nói sang sảng, đứng ở xa anh đến cả trăm thước, chúng tôi vẫn có thể nghe rõ mồn một tiếng Long nói, cười.

Anh cũng là người có bản chất mộc mạc, thích hòa đồng và vui tính. Vui tính và vô tâm đến nỗi có những lúc bạn bè gặp phải chuyện không vui, rất không cần đến sự vui tính của anh, Long cũng cứ tự nhiên xen vào làm cho bầu tâm sự hoặc câu chuyện tâm tình của bạn bè bị anh phá đám một cách lãng nhách. Thỉnh thoảng có người trực tính, cự nự lại cái bản chất vô tư lự của Long thì anh toét hẳn miệng ra cười đáp lại:

- Tao đâu có biết chúng mày đang có những chuyện quá nghiêm trọng đến như vậy. Sao không chịu nói trước...

Nói là nói cho có lệ như vậy, chứ chẳng ai lấy thế làm phiền lòng. Vã lại tánh tình của Long trẻ trung như vậy thì bạn hữu, ai cũng đã biết, chẳng ai nỡ để tâm giận anh mà làm gì. Ngay từ đêm đầu tiên mấy trăm quân nhân tập sự chúng tôi vừa từ Sài Gòn được chiến hạn Hải Quân chuyển vận ra Nha Trang thụ huấn quân sự ở quận trường thuộc vùng cát trắng này, cả khóa lính mới của chúng tôi đã có dịp biết đến tên tuổi của Long vào một dịp tình cờ.

Số là chiến hạm chuyên chở chúng tôi vừa mới cập bến trong lúc đêm đã về khuya, nhưng tất cả khóa sinh đều phải hoàn tất mọi thủ tục nhập trại cho nên mọi người được cán bộ huấn luyện quân trường ra lệnh phải tề tựu tập họp trước sân cờ để lãnh quân trang quân dụng, để rồi sau đó, mọi người được phân chia theo từng đại đội, trung đội rồi tiểu đội để tạm thời tìm chỗ ngủ qua đêm. Và bởi vì đêm đã quá khuya, tất cả hóa sinh tân binh chúng tôi được lênh phải phân tán theo từng đơn vị vừa mới được gấp rút phân chia để tự tìm lấy chỗ ngủ tạm qua đêm trong một dãy building (tòa nhà) bị trống trơn dường như đã xây khá lâu năm nằm ngay sát hàng rào doanh trại, ngoài kia không xa lắm là bờ biển với tiếng sóng vỗ rì rào suốt đêm ngày. Người khóa sinh tiểu đội trưởng tiểu đội của tôi chấp hành lệnh điểm danh quân số báo cáo lên cán bộ huấn luyện trước khi đến chỗ nằm đã được chỉ định. Vì là lính mới, chúng tôi chưa thuộc hết tên tuổi và mặt mũi của nhau.

Vì vậy, người khóa sinh vừa được chỉ định làm tiểu đội trưởng loay hoay điểm danh tới điểm danh lui, mãi một lúc sau mà vẫn còn thấy vắng mất một người. Anh ta vội báo cáo lên vị sĩ quan cán bộ huấn luyện về sự vắng mặt của anh tân binh kỳ lạ này. Cán bộ huấn luyện gào rát cả cổ trong đêm thâu vừa vắng vẻ vừa bị lạnh cóng bởi những cơn gió tạt mạnh từ bờ biển thổi vào để réo gọi cái tên Nguyễn Trần Long, đến một hồi lâu mới có người lên tiếng từ một góc thật xa trong quân trường, khiến mọi người dồn tất cả mọi cặp mắt về hướng phát ra tiếng nói, mọi người tỏ ra có vẻ rất nhốn nháo:

- Có mặt!

Không một ai biết được anh tân binh này vì cớ gì mà bỗng nhiên biến về phía xa đó. Lúc bấy giờ Nguyễn Trần Long mới từ hướng phát ra tiếng nói, vừa thắt lưng quần. Té ra, anh ta bị trở dạ thình lình tìm chỗ giải quyết cấp thời. Kết quả là toàn bộ tiểu đoàn khóa sinh chúng tôi đã phải vác túi ba lô nặng trĩu vừa mới được nhận lãnh nối gót nhau chạy thục mạng để thanh toán cho đủ mười vòng sân cờ. Nguyễn Trần Long đã được mọi người biết đến tên anh từ lúc đó với tất cả sự hậm hực oán trách của mọi người vừa đói vừa lạnh vừa mệt đến bở hơi tai vì hình phạt quân sự đầu tiên, mở màn cho cuộc đời binh nghiệp.

Về đến chỗ nằm, chúng tôi chia nhau ra tản mạn mỗi người một góc cố gắng thu vén chuẩn bị thật nhanh cho giấc ngủ sắp tới. Nguyễn Trần Long cũng đang tháo vát dọn lấy một chỗ nằm. Vì tất cả mọi người, không ai có giường để nằm, đành phải trải tại khăn trên nền xi măng lạnh ngắt. Riêng Nguyễn Trần Long thì quý phái hơn người, anh tìm được một góc chỗ nằm vắng khuất với một tấm gỗ phong dày được anh tự động gỡ ra từ một cánh cửa, làm cho khung cửa biến thành một lỗ hổng lớn, không thể dấu được mắt nhìn của mọi người. Nhìn qua lỗ hổng của khung cửa, dường như thấy có điều gì bất thường, một sĩ quan cán bộ huấn luyện lớn tiếng cảnh cáo:

- Anh nào vừa mới tháo cánh cửa đó ra, hãy mau mau gắn trở lại. Tất cả mọi người, ai cũng phải nằm trên mặt xi măng mà thôi.

Long nghe cán bộ quân trường ra lệnh, anh lại phải lục đục gắn lại tấm cánh cửa vào chỗ cũ, nhưng trong thâm tâm, đợi cho viên cán bộ đã ra khỏi, anh lại vẫn nhất định lấy tấm gỗ đó để lót xuống chỗ nằm cho đêm đỡ lạnh. Chẳng bao lâu đó, cả tiểu đoàn khóa sinh chúng tôi, ai cũng đã quá mệt mỏi sau chuyến hành trình bằng đường biển, lại chịu thêm hình phạt chạy đủ mười vòng sân cờ nên ai nấy đều đi vào giấc ngủ nhanh chóng, cho đến tảng sáng hôm sau, mọi người lại một phen nhốn nháo cả lên vì có tinh khóa sinh Nguyễn Trần Long cùng với tấm ván cửa đã bị ai bí mật khiêng anh ra nằm ngủ ở trên bãi cát ngoài bờ biển trong đêm cho đến khi người lính gác phát hiện và hô hoán lên. Người ta phải đổ ra đánh thức anh dậy để đưa anh về bệnh xá của quân trường và phải mất cả một buổi sáng tịnh dưỡng, Nguyễn Trần Long mới trở lại được trạng thái bình thường sau một đêm anh nằm phơi mình trong đêm sương gió lạnh ngoài bờ biển.

Về sau này, vì cùng chung một tiểu đội khóa sinh với nhau, chúng tôi có nhiều thời giờ để cật vấn Long về chuyện lạ lùng đã xảy ra, Long chỉ toét miệng cười:

- Tao cũng như chúng mày, đâu có biết chuyện gì, cứ ngủ say như chết. Ðến khi nghe tiếng người gọi, tao mới biết rằng mình đang nằm ngủ ngay trên bãi cát.

Ðó mới chỉ là giai thoại lạ lùng đầu tiên xảy ra với Long. Cho mãi đến lúc sau này, Long còn là người chạm mặt với ma trong nhiều trường hợp khác nữa, kể cả thời gian chúng tôi đã tốt nghiệp, ra trường, được điều động chung với Long về đơn vị, chúng tôi cũng nhờ vậy mà chứng kiến thêm rất nhiều sự huyển hoặc vô hình khác.

#269 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 07/09/2011 - 08:29

CHUYỆN MA ĐỜI LÍNH

Phần Hai

Trở lại những tháng ngày chúng tôi phải tập tành gian khổ cùng những kỷ luật sắt thép ở quân trường, đối với Nguyễn Trần Long, anh còn có nhiều dịp để và chạm với cõi vô hình khác nữa. Những sự kiện này, đối với bọn khóa sinh chúng tôi, lúc đầu còn kinh ngạc và khiếp hãi, nhưng sau khi đã chứng kiến thường xuyên hơn, lại thỉnh thoảng được cán bộ tòng sự lâu năm ở quân trường cho biết một cách xa xôi bóng gió rằng ở chốn đìu hiu hút gió này có rất nhiều hình thức ma quỷ hiện hình quấy phá các khóa sinh thụ huấn, lâu dần chúng tôi cũng đỡ được phần nào sợ hãi. Nhưng đối với những đứa nhát gan, thì ma quái hiện ra phá phách trong đêm vẫn là điều làm cho mọi người phải khiếp sợ. Nguyễn Trần Long thì có lẽ bởi anh được lũ ma thiêng tinh nghịch ở quân trường này nhắm vào để phá phách thường xuyên trong suốt khóa học cho nên anh tỏ ra tức bực nhiều hơn là sợ sệt. Long thường nói đùa với chúng tôi:

- Thằng nào muốn gặp hay muốn trông thấy ma, chúng mày cứ đi theo tao, sẽ gặp liền.

Có người trong bọn khóa sinh hỏi lại Long:

- Gặp ma hoài, mày có ngán không Long?

Long hồn nhiên trả lời:

- Không phải vào quân trường này tao mới có duyên bị ma hiện về phá rối, tao đã gặp ma nhiều rồi, ngay cả dạo trước còn ở ngoài dân sự, vào những đêm thức khuya gạo bài thi, ma cũng đến với tao hoài. Lúc mới đầu thì tao sợ thật. Nhưng gặp ma mãi cũng nhàm. Bây giờ tao khỏi có sợ nữa. Chúng mày không tin, tao làm thử cho coi. Cả bọn chúng tôi ngồi yên lặng nghe Long nói chuyện, cũng chẳng biết Long bảo chúng tôi không tin chuyện gì. Có người nhanh nhẩu đáp:

- Tin! Tụi tao tin mày chứ! Nhưng như mày vừa nói, mày sẽ làm gì với lũ ma vậy Long?

Long cười hềnh hệch:

- Tao chẳng làm gì cả, chỉ sẽ dẫn chúng mày đi gặp ma ngay trong quân trường này để đừng có đứa nào nói rằng tao bịa chuyện. Ðứa nào sợ thì đừng tham dự kẻo lại trách tao.

Long cho mọi người biết rằng, địa thế heo hút của quân trường này hiện có rất nhiều ma. Chúng nó thường xuất hiện nhiều nhất ở các phía nhà bếp, cầu tiêu và ngay cả trong khu bệnh xá của quân trường và ở cả khu bỏ hoang ở sát hàng rào, chỗ bọn mình phải ngủ tạm trong đêm đầu tiên đó, chúng mày còn nhớ không. Con ma đã khiêng tao ra ngoài mép biển mà mấy người lính gác đêm đâu có thấy gì. Chúng tôi sẵn đà hỏi tới:

- Sao mày biết có ma ở những chỗ này. Mày đã gặp chúng ở những nơi đó hay sao mà rành quá vậy?

Long gật gù:

- Có chỗ tao đã gặp, có chỗ chưa. Nhưng tự nhiên tao linh cảm thấy những chỗ đó thường là chỗ có ma và cũng tự nhiên, tao biết cảm giác của tao khôgn có sai lầm. Thằng nào không tin tao cũng mặc kệ. Nhưng tao dặn trước, hễ nhát gan thì đừng bao giờ đêm hôm khuya khoắt bén mảng đến những nơi này, không nghe tao bị ma nhát ráng chịu.

Mãi về sau. Khi khóa thụ huấn đã gần xong, chúng tôi chuẩn bị cho ngày lễ mãn khóa ra trường. Mối quan hệ giữa tiểu đoàn khóa sinh với các thành phần cán bộ huấn luyện của quân trường không còn nhiều kỷ luật ngăn cách nữa, các cán bộ ở đây đã xác nhận là có rất nhiều ma trong quân trường này cùng với những hiện tượng khác thường mà chính Nguyễn Trần Long đã gặp và kể lại.

Khu vệ sinh của quân trường nằm về phía tây, là nơi tương đối rất vắng vẻ cả đêm cũng như ngày, chung quanh hai dãy nhà dài đó dạo trước có những chòm cây rừng lâu năm cao lớn và um tùm nhưng đã được cưa đốn tận gốc rất quang đãng. Về ban đêm đèn điện được thắp sáng trưng cả trong lẫn ngoài. Tuy nhiên, đối với bọn khóa sinh tuy có ngang ngược nhưng lại cũng rất nhát ma như chúng tôi mỗi khi phải bắt buộc xử dụng chỗ này về đêm thì cũng thấy ớn lạnh vô cùng. Cực chẳng đã, chúng tôi mới phải rủ rê đôi ba đứa mới dám đến đó về đêm. Vậy mà, trong khoảng thời gian thụ huấn lâu dài, chuyện ma quái lộng hành phải đến đã đến.

Có lần, sau một cuối tuần, khóa sinh được cho giấy phép đi ra ngoài khu dân cư để giải trí hoặc mua những thứ cần thiết cá nhân. Những lần đi phép cuối tuần này là những lần các khóa sinh quân sự chúng tôi được tạm thời tụ do muốn làm gì tùy ý trọn một ngày cho nên người nào trong chúng tôi cũng đều sung sướng ra mặt, người nào cũng có chút ít tiền để mua sắm hoặc ăn uống phủ phê để bù đắp lại những ngày tù túng và kham khổ trong quân trường. Ðược ra ngoài ăn uống lung tung mọi thứ như một lũ đói khát đã lâu, lúc ban chiều trở về trại liền bị cái bao tử nó hành.

Và đó chính là dịp để những đứa tham ăn ban ngày cho dù bây giờ rất sợ, cho dù không muốn đến khu vệ sinh, cũng phải vác xác tới, có khi phải trở tới trở lui dến mấy lần vẫn chưa thể chấm dứt nổi những cơn đau bụng quặn thắt, nếu chỉ là một lần thì may ra còn có bạn bè thương tình cùng đi, nhưng bị tháo dạ thì đành phải ôm bụng đi một mình chẳng có người nào cùng đi để bớt sợ. Một khóa sinh đã lâm vào trường hợp này và bị ma nhát đến nỗi phải nằm bệnh viện vì anh ta sợ quá đến trở thành kinh hoàng mất hồn.

Vào một đêm khuya khoắt, tất cả các doanh trại đang im lìm bỗng nghe có triếng rú thất thanh của ai đó phát ra từ khu nhà vệ sinh rồi tắt ngắm. Toán khóa sinh trực tuần phòng doanh trại ban đêm được lệnh ngay lập tức phải đến chỗ phát ra nơi có tiếng rú để tìm hiểu vấn đề, mới biết rằng có một người khóa sinh đã bị ngất xỉu ngay khung cửa nhà vệ sinh. Anh ta được khiêng ngay về khu bệnh xá để y sĩ trực săn sóc. Vị y sĩ trực cho biết khóa sinh này vì sợ hãi quá cho nên đã bị ngất xỉu.

Phải mất đến gần một tuần lễ tịnh dưỡng, anh ta mới hoàn hồn thuật lại câu chuyện gặp ma như sau:

- Tôi bị bệnh tiêu chảy hoành hành liên tục, nên cực chẳng đã phải lui tới khu vệ sinh đã mấy bận. Lần cuối cùng trong cầu tiêu khi tôi còn đang ngồi, vừa ngẩng mặt lên sửa soạn bước ra thì tôi thấy rất rõ một bóng người đã đứng án ngay giữa khung cửa từ lúc nào. Tuy vậy, tôi không thể nào nhìn thấy rõ mặt của người đang đứng đối diện, bèn lên tiếng:

- Làm ơn tránh chỗ để tôi đi ra.

Bóng đen không trả lời, nó vẫn thản nhiên đứng lù lù ngay ở trước mặt và tôi bỗng ngửi thấy một mùi xú uế xông ra đến lợm người. Tôi cho rằng đây là một khóa sinh nào đó cũng bị tiêu chảy còn nặng hơn cả tôi đến nỗi anh ta không nhịn nổi và đã bĩnh cả ra quần. Tôi nói với anh:

- Còn thiếu gì phòng sao không chịu đến chỗ khác mà cứ phải dành chỗ này.

Bóng người vẫn không lên tiếng. Nó vẫn đứng lững thững không hề nhúc nhích khiến tôi vừa chịu hết nổi mùi quá hôi hám vừa bực mình nên nổi nóng đứng bật lên định đẩy hắn sang một bên để thoát ra ngoài. Nhưng khi tôi vừa đứng được thẳng người lên thì bóng đen bỗng chiếu thẳng hai tròng mắt đỏ lòm nhìn tôi thật kinh dị. Tôi cảm thấy sự việc khác thường trước hai con mắt đỏ au trên khuôn mặt đen thui trong bóng tối nhạt nhòa mà tôi không thể nhìn ra được đường nét. Tôi dùng toàn năng lực vào hai cánh ta định đẩy mạng bóng người qua một bên, bỗng nhiên hai cánh tay và cả thân thể tôi bị chúi mạnh vào khoảng không phía trước mặt, xuyên hẳn qua bóng người để rồi tôi bị ngã nằm sóng soài trên mặt đất, bên tai tôi còn nghe rõ tiếng con ma thở hồng hộc và nó còn rít lên những tiếng cười gằn. Tôi sợ quá ngất đi vào lúc đó.

Khóa sinh chúng tôi thường thường đứa nào cũng nghịch ngợm phá phách hay làm cho các sĩ quan huấn luyện không ngớt ban hành các lệnh phạt hoặc răn đe gay gắt. Mặc dù đã có lệnh về đêm, sau giờ tắt đèn không ai được thức hoặc đi ra khỏi phòng ngủ, nhưng lúc ban chiều, trong giờ cơm, chúng tôi được đề cử thấy trong nhà bếp, chúng tôi đã nhìn thấy những chảo cơm cháy ngon lành còn để lại và chúng tôi đã có với nhau một quyết định là đêm nay, sau giờ tắt đèn sẽ kéo nhau xuống nhà bếp để cạo cơm cháy ăn chung với đường tán đã có sẵn sẽ ngon tuyệt vời. Những ai đã từng có mặt ở quân trường vào những ngày cuối năm có đầy gió mùa lồng lộng với cái lạnh cắt da mà được ăn cơm cháy với đường thì tưởng không có gì thú vị cho bằng. Chính vì vậy mà chúng tôi bất chấp nghiêm lệnh của quân trường, trong đêm khuya rủ nhau lén lút bò về khu nhà bếp để ăn vụng cơm cháy.

Khu nhà bếp cũng có leo lét ánh đèn vàng và lũ tham thực như chúng tôi ai cũng nhìn rất rõ từng mảng cơm cháy thom tho ngon lành, thay phiên nhau cạy lên ăn lấy ăn để và quả thật, hương vị cơm cháy quân trường ngon đáo để. Chúng tôi, gồm sáu bảy người cứ vậy mà tọng cơm cháy vào miệng nhai ngấu nghiến ra chiều thích thú vô cùng, ăn cho đến khi miệng nhai đã mỏi với cái bụng no chướng lên mới lục đục kéo nhau trở về phòng ngủ cho đến sáng ngày hôm sau, tất cả bị nằm liệt giường không một ai dậy nổi theo lệnh kèn tập thể dục và sự bê trễ này bị phát giác ngay lập tức cho đến khi cả sáu người chúng tôi được khiêng hết lên bệnh xá để được súc ruột, tẩy uế bao tử.

Vì cả sáu đứa chúng tôi, mồm miệng ai cũng còn dính đầy đất bùn, trong bao tử của mỗi người, các y tá trực cũng cho biết đang chứa toàn bùn đất, nếu không súc ruột kịp thời, hệ thống tiêu hóa của chúng tôi sẽ bị nghẽn và có thể đi đoong (đi đời). Ðến lúc này, chúng tôi mới xanh xám cả mặt mày vì biết rằng đã bị lũ ma đánh lừa cho ăn toàn bùn đất thay vì ăn đám cơm cháy dư thừa của nhà bếp. Sự kiện lạ lùng này, không ai có thể giải thích được khi mà chúng tôi rõ ràng đã nhìn, đã ăn, và đã thưởng thức tường tận mùi vị thơm dòn đích thực của cơm cháy.

#270 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 07/09/2011 - 08:37

CHUYỆN MA ĐỜI LÍNH

Phần Ba

Sau ngày lễ mãn khóa, chúng tôi lưu lại quân trường trong một vài ngày để chờ chiến hạm ra đóng đưa về Sài Gòn, đi phép mãn khóa trước khi mỗi người chúng tôi chia tay đáo nhậm đơn vị mới, chúng tôi mới được một vài sĩ quan cán bộ tiết lộ cho biết rõ hơn về tình trạng ma cỏ hiện ra lộng hành thường xuyên, không phải chỉ diễn ra trong phạm vi trung tâm huấn luyện Hải Quân Cam Ranh này, mà ngay cả khu rừng góc núi lân cận, những hiện tượng vô hình này cũng không phải là họa hiếm. Giống như có một lần tiểu đoàn khóa sinh chúng tôi vào những ngày phải tản ra các khu rừng để thao dượt hành quân trên bộ.

Vào một buổi chiều nhá nhem tối, chúng tôi ai cũng nhìn thấy giữa sườn núi chênh vênh trước mặt có một con cọp mẹ cùng với một con cọp con. Cả hai đều có bộ lông màu vàng óng điểm những vằn đen chung quanh. Cọp mẹ và cọp con thản nhiên ngồi trước một hốc núi không có chiều sâu nhìn xuống chúng tôi bằng một thái độ bình thản vô cùng. Qua ngày hôm sau, chúng tôi được lệnh trở lại thực tập tại nơi này. Nhưng để đảm bảo cho sự an toàn trước những con thú rừng, nhất là trước hình ảnh hai mẹ con cọp mà tất cả chúng tôi đã đều nhìn thấy rõ hôm qua, bây giờ phải đi lùng sục để xua chúng đi chỗ khác đề phòng con cọp mẹ có thể rình rập hãm hại khóa sinh.

Ðịa điểm hai con cọp xuất hiện chiều hôm qua được đánh dấu cẩn thận và chúng tôi cảnh giác, tỉ mỉ tiến dần về phía hốc núi đó. Vất vả hồi lâu chúng tôi mới đến được vị trí hai con cọp ngồi hôm qua, nhưng hốc núi thì không thể nào tìm ra được, chỉ có những phiến đá lạnh ngắt với bề mặt xù xì, nhưng nhìn thật kỹ lại thấy có hiện lên những đường nét hài hòa ẩn hiện mơ hồ như những nét chữ Hán mà tất cả chúng tôi không ai có khả năng hán tự để hiểu được những nét chữ cổ kính kỳ lạ này. Mấy ngày sau, chúng tôi cũng nhìn lại nơi này thì hình dạng hốc núi đã đổi khác với những khóm cây xanh mọc phủ đầy, cũng không còn thấy dấu vết của hai mẹ con chú cọp xuất hiện như trước nữa.

Khi nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển về phục vụ ở đơn vị mới, một sự ngẫu nhiên đã xảy ra là tôi và Nguyễn Trần Long cùng một người bạn có nghành chuyên nghiệp trọng pháo, anh phải kề cận thường xuyên với những dàn súng lớn nhỏ. Long vào sanh ra tử nhưng tính chất của anh rất can trường và lúc nào cũng giữ nguyên tánh nết cũ là đùa phá tinh nghịch.

Ðơn vị là một giang đoàn biệt lập, tọa lạc tại một tiền giang đèo heo hút gió, ở giữa cánh đồng, xa hẳn làng mạc và những nơi có đông cư dân trú ngụ, do vậy mà cuộc đời lính chiến của chúng tôi không mấy khi tránh được những ngày đêm đơn điệu, buồn tẻ. Tôi thì có cây đàn, những người khác với thú vui đánh cờ, đọc sách. Riêng Long, anh đem đến đây được một con mèo để làm bầu bạn. Con mèo với Long là đôi bạn chí thân, lúc nào cũng ở cạnh nhau, kể cả những lúc chiến đấu ở ổ trọng pháo dưới giao thông hào...

Có một lần Long thoát chết trong đường tơ kẻ tóc cũng nhờ có con mèo, nếu không, chắc chắn mạng sống của Long đã tan tành như một chiếc pháp nổ. Lần đó diễm ra vàp lúc chiều tàn. Trời chưa tối hẳn, bỗng nhiên những đạn pháo kích từ đâu bay tới ào ào vào đơn vị. Tiếng còi báo động rít lên như muốn xé tan không gian ruộng đồng đang yên lành tĩnh mịch. Nghe tiếng còi báo động hụ lên inh ỏi vào lúc Long đang ngủ mơ mơ màng màng. Anh choàng tỉnh giấc, vơ vội lấy mảnh áo giáp khoác vội lên người định phóng ra thẳng lỗ giao thông hào chiến đấu, nhưng con mèo của Long đột nhiên gào rú lên rất lạ lùng, nó chạy tới chạy lui dưới chân Long làm cho những bước chân của Long bị vướng vít đâm ra chệnh choạng suýt ngã. Anh bực bội la toáng lên với con mèo như nói với một người bạn:

- Kêu ca cái gì không biết nữa! Mày không nghe thấy tiếng pháo kích um sùm đó hay sao? Tránh chỗ mau để tao ra giao thông hào không thôi bị nhốt bây giờ.

Con mèo dường như không nghe Long nói gì cả, nó tiếp tục quẩn bước dưới chân anh, khiến cho Long loạng choạng suýt đạp lên lưng nó, con mèo vội vã nhảy tránh rồi phóng một cái ào lên cái kệ gỗ đóng ở trên cao, nơi Long để đủ hết mọi thứ lung tung xà bần nào chén đũa gà mên, sách vở khiến cho tất cả những vật dụng đang để trên cái kệ bị hất tung cả xuống đất trong khi Long chợt nhớ ra rằng trên đầu của anh chưa có cái nón sắt dùng để bảo vệ an toàn trong lúc tác chiến. Long quày gót xoay người trở vào góc chiếc gường vải vơ lấy cái nón chụp vội lên đầu rồi bất chấp con mèo đang làm bước chân anh trở nên vướng vít, Long phóng như bay ra cửa về phía ổ đại pháo ở dưới giao thông hào.

Bất thình lình, một tiếng rít xé gió từ xa tiến tới, theo sau là một tiếng nổ long trời. Viên đạn pháo kích vô tình rớt trúng ngay cỗ trọng pháo của Long ở dưới giao thông hào bứng hổng cả bộ chân của ổ súng nặng nề tung thẳng lên cao. Nếu không nhờ có con mèo làm chướng ngại, chỉ cần sớm hơn chưa đầy vài chục giây đồng hồ, chắc chắn Long đã cùng chung số mạng với ổ trọng pháo vô tri. Trận pháo kích chấm dứt, nhìn hình ảnh cỗ súng bị bứng nổ tung tận gốc rồi liên tưởng đến mạng sống còn lại của mình chỉ trong vòng gang tấc, nhưng nhờ có linh cảm của con mèo, nó tạo ra những trở ngại để cho Long được thoát chết. Long bùi ngùi ôm chặt con mèo vào trong lòng ngực của mình như đang ôm một đứa con yêu quý với tất cả lòng trìu mến biết ơn con vật linh thiêng...

Chuyện ma đời lính chiến cứ lần hồi xảy đến với Long như một thói quen rất lạ lùng. Vào một lần hành quân tảo thanh phối hợp với các đơn vị khác, Long đã chứng kiến thêm những hiện tượng huyền bí đến không thể nào giải thích được. Một người thuộc hàng ngũ bên kia, sau khi bị quân ta truy quét đến đường cùng thất trận, anh ta bị trọng thương nặng nề, hơi thở chỉ còn thoi thóp trong lúc toán hành quân chúng tôi cấp báo gọi trực thăng vận để đưa anh ta về điều trị tại Tổng Y Viện. Nhưng khi trực thăng đến nơi thì người lính bên kia đã trút hơi thở cuối cùng.

Trước khi bàn giao xác chết của anh ta cho đội mai táng, chúng tôi và Long có lục soát tư trang của anh ta để may ra có thể tìm thêm được tài liệu gì khác nữa, chúng tôi không tìm thấy gì khác ngoài chút ít lương khô ăn dở dang với một cuốn sổ nhỏ và dày, anh ta đã viết đầy những trang chi chít chữ. Long cất cuốn sổ nhỏ đó trong bao công văn cá nhân để về nộp lại cho ban an ninh khai thác. Ngay sau đó, trực thăng đã bốc cái xác cứng lạnh của anh ta đem về trung ương mai táng.

Buổi chiều đến, đơn vị của chúng tôi có tổ chức một tiệc liên hoan nhỏ để cho các chiến hữu có dịp trò chuyện hợp mặt. Chúng tôi đang quây quần bên nhau với chút men rượu đang ngà ngà say thì cả bọn đều nhìn thấy rõ ràng người lính bên kia đã bị chết ban chiều. Anh ta hiện ra ngay trong bữa nhậu và sừng sộ chỉ thẳng vào mặt Long để đòi lại cuốn sổ nhật ký theo lời tiết lộ của anh ta. Anh ta nhình chòng chọc vào mắt Long và nói:

- Mấy người bắn chết con người ta rồi ngồi đó mà nhậu nhẹt bình thản như chẳng có chuyện gì thì thật là vô tâm quá sức. Nhưng điều đó cũng chẳng hệ trọng gì vì số phần của ta bắt buộc phải chết như vậy. Nhưng ta xin các người hãy bỏ qua ranh giới ý thức hệ, giúp đỡ cho ta một điều, đó là hãy gởi trả lại cho người con gái mà ta từng yêu thương trong suốt những năm trường, nhưng ta chưa được trở về cưới nàng làm vợ thì số phần ta đã mãn. Các người hãy cố gắng giúp ta. Cuốn sổ đó đang được cất giữ bởi người này.

Hồn tên du kích đưa tay chỉ đúng vào mặt Long khiến cho anh bủn rủn cả tay chân trong khi nhiều người khác vẫn không hề hay biết rằng Long đang cất giữ cuốn sổ nhật ký tình yêu này. Hồn ma lơ lửng một lúc thì từ từ nhạt nhòa tan biến vào màn đêm mất hút với những lời nói văng vẳng sau cùng:

- Chỉ một điều nhỏ nhặt đó mà thôi. Ta cám ơn các người....

Chúng tôi hết đưa mắt nhìn nhau đến nhìn về phía Long như đợi chờ ở anh một điều xác định. Cuối cùng, Long nói:

- Ðiều tất cả chúng ta vừa nghe là sự thật đó. Lúc chiều, tôi có nhận lệnh lục soát tư trang của người lính này và đã tìm thấy một cuốn sổ nhỏ, chưa kịp nộp lại cho ban an ninh thì hồn kẻ chết đã tức khắc trở về nhắc nhở và xin được giúp đỡ.

- Vừa nói Long vừa thò tay vào ba lô cá nhân lấy ra cuốn sổ nhỏ nhàu nát giơ lên cho mọi người cùng thấy. Long hỏi ý kiến mọi người:

- Ý của hồn ma muốn mình gửi về cho người yêu của hắn. Nhưng chúng ta biết gửi về đâu bây giờ?

Long vô tình để cuốn sổ lên mặt bàn và chưa nói hết câu thì một cơn gió từ bên ngoài thổi vào lật tung từng trang giấy đến chỗ gần cuối thì gió ngưng, cuốn sổ mở ra như cố tình để cho mọi người có thể nhìn thấy tên họ và ngay cả địa chỉ của người con gái mà hồn thiêng anh ta muốn chúng tôi gửi đến:

"Lưu Thị Sang - số nhà 198/11 đường Xóm Chùa - Ấp Ba – Xã An Phước - Huyện Cai Lậy”.

Ngày hôm sau, mọi chuyện xảy ra đã được Long trình lên ông đơn vị trưởng và ban an ninh của đơn vị. Nhân viên hữu trách cũng không quên xem xét thật kỹ càng từng trang giấy với những hàng chữ viết tay nguyệch ngoạc với những lời lẽ, tâm sự yêu thương rất chân thật và chí tình. Cũng có những đoạn anh ta tự trách mình không đủ can đảm rời xa hàng ngũ chiến đấu để trở về làng xưa xóm cũ sống đời bình thường bên cạnh mối tình mà anh ta ấp ủ tôn thờ. Anh ta chỉ hứa hẹn một ngày nao hòa bình sẽ trở về hạnh ngộ bên người yêu. Nhưng mộng ước cuồng ngông đó đã chẳng kịp thành, người lính này đã hóa ra người thiên cổ.

Thời gian sau đó, chúng tôi có dịp nhắc lại chuyện này với một nhân viên an ninh phụ trách để gởi cuốn sổ, được người này cho biết như sau:

- Tên tuổi và địa chỉ của người con gái tên Lưu Thị Sang đều chính xác. Cô ta đã nhận được cuốn sổ của người chết và có vẻ rất đau khổ trước một mối tình bị đứt gánh giữa đàng.

Có một lần Nguyễn Trần Long bị đau bịnh trầm trọng. Anh ta được chuyển về bệnh xá quân y để chữa trị. Vào một đêm, anh ta lần mò xuống phòng y tá trực để gọi điện thoại về nói với chúng tôi:

- Tao vừa nhìn thấy thằng Ðắc hiện về với hai cánh tay của nó cụt hẳn vì bị đạn cắt mất.

Lúc đó đơn vị của chúng tôi đang trong những ngày diễn tiến hành quân. Người lính tẻ tên Ðắc vẫn còn đang chiến đấu bên các đồng đội và chưa trở về vì cuộc hành quân chưa chấm dứt. Nghe Long báo tin dữ, chúng tôi vội nạt nộ anh ta:

- Ðừng nói tầm bậy Long à! Ông xếp nghe được là mày lãnh mười ngày trọng cấm đó nghe em.

Nó gân cổ nói to trong máy:

- Tao thấy sao nói vậy, chứ nào biết được thực hư nên mới gọi về cho chúng mày để xem sự thể ra sao. Tao đâu có ý xấu gì mà đòi nhốt với chả nhốt.

Chúng tôi trấn an Long:

- Chắc mày mê cô em gái thằng Ðắc nên lo lắng cho nó rồi thành tưởng tượng đó thôi! Hãy an tâm dưỡng bệnh, thằng Ðắc trở về, chúng tao sẽ bảo nó gọi điện thoại thăm mày ngay!

Long miễn cưỡng cúp máy nhưng anh có vẻ còn hậm hực, không hoàn toàn bằng lòng với sự trấn an của chúng tôi. Ngay trong đêm đó, phòng hành quân đơn vị nhận được công điện báo cáo tổn thất, trong đó có tên Huỳnh Tất Ðắc đã bị trúng đạn tử thương, cụt mất cả hai cánh tay. Xác anh đã được trực thăng chuyển thẳng về Tổng Y Viện để chờ đợi thân nhân đến nhận xác.






Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |