Jump to content

Advertisements




Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》


413 replies to this topic

#91 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 02/07/2024 - 00:29

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tứ

Hợi Nguyệt

- Ngày giáp ất gặp tháng hợi là ấn, thích lộ quan, thấu ấn là phúc lành, kỵ tài. Vận cũng vậy.

- Ngày bính gặp tháng hợi là thiên quan, có hợp không nên chế phục, có chế phục không nên hợp. Thích thân vượng, kỵ thân nhược và chánh quan. Tuế vận giống vậy. Ngày đinh gặp tháng hợi là chánh quan, thích thấu tài, lộ quan, và thân vượng, kỵ thất sát, thương quan, hợp nhiều. Vận cũng như vậy.

- Ngày mậu kỷ (không có).

- Ngày canh tân gặp tháng hợi là trường sanh tài, như trong trụ hoàn toàn không có tài lộ ra, chỉ là thương quan bối lộc. Lệnh tháng có phần thích hợp trụ giờ có thiên quan, những cách quý của ngày giờ. Thích tài vượng lộ ra, kỵ không có tài và thân nhược. Vận cũng như vậy.

- Ngày nhâm quý: nhâm gặp tháng hợi là kiến lộc, quý gặp tháng hợi thì vượng tướng, phúc lành không thể chọn, chỉ là thân thể khoẻ mạnh, tuổi thọ lâu dài, có phần thích hợp trụ giờ có thiên quan cùng với những cách quý của ngày giờ. Như gặp trụ giờ thiên quan, thích đi vận hợp thiên quan, kỵ chánh quan.

亥月

甲乙日得亥月为印,喜露官透印为福,忌财。运亦然。

丙日为偏官,有合莫制,有制莫合。喜身旺,忌身弱正官。岁运同。丁日为正官,喜透财、露官、身旺,忌七煞伤官,多合。运亦然。

庚辛日为长生之财,如柱中全无财露,只是伤官背禄。月令颇宜时带偏官、日时诸贵格。喜财露自旺,忌无财身弱。运亦然。

壬癸日,壬为建禄,癸为旺相,福无可取,只是身旺年久,颇宜时带偏官及日时诸贵格。如得时偏官,运喜行合偏官,忌正官。



.

Thanked by 1 Member:

#92 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 02/07/2024 - 00:56

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tứ

Luận Ngũ Hành Thời Địa Phân Dã Cát Hung

Theo Vương thị cái gọi là hai khí là âm và dương; ngũ hành là: kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ; mùa là: xuân, hạ, thu và đông; địa phương là: châu Ký, châu Thanh, châu Duyện, châu Từ, châu Dương, châu Kinh, châu Lương, châu Ung và châu Dự [*]. Bởi trời có âm và dương đi qua bốn mùa; đất có ngũ hành đều ở chín châu, Chu Tử nói bản chất ngũ hành ở trong đất, khí lưu thông trên trời, cho nên trời có xuân hạ thu động, đất có kim mộc thuỷ hoả thổ, tất cả đều dựa vào thời gian và không gian mà tương thích với nhau. Người đời nay bàn về mệnh, chỉ biết luận âm dương và ngũ hành mà không biết rằng phải luận cả phương ngung (nơi chốn, khu vực), ngày đêm, tối sáng, vì vậy có năm tháng ngày giờ giống nhau mà sang hèn thọ yểu lại khác nhau, nghĩa là ngũ hành không có căn cứ, làm cho người đời do dự không tin vào số mệnh, cũng là cáo buộc xằng bậy. Ôi! người sống trong trời đất, chẳng tránh được ngũ hành; khu vực chín châu phong tục khác nhau, tối sáng lạnh ấm, quy luật khó mà giống nhau. Người nhận linh khí của trời đất mà sanh ra cùng lúc vốn đạt được khí không giống nhau, vì vậy sang hèn, thọ yểu khó hạn định trong bát tự vậy. Hơn nữa như giáp ất dần mão thuộc mộc mà sanh ở châu Duyện, châu Thanh là đắc địa, mùa xuân là đắc thời; bính đinh tỵ ngọ thuộc hoả, sanh ở châu Từ, châu Dương là đắc địa, mùa hạ là đắc thời. Mậu kỷ thìn tuất sửu mùi thuộc thổ, sanh ở châu Dự là đắc địa, bốn tháng cuối mùa là đắc thời. Canh tân thân dậu thuộc kim sanh ở châu Kinh, châu Lương là đắc địa, mùa thu mùa đông là đắc thời. Nhâm quý hợi tý thuộc thuỷ sanh ở châu Ký, châu Ung là đắc địa, mùa đông là đắc thời. Huống chi thời gian ngày đêm, âm tình (trời tối sáng) có lạnh có ấm, trong âm dương của tạo hoá có hỷ có kỵ, sanh khắc chế hoá, đè nén, nâng lên nặng nhẹ, cái hay là nhận biết sự thay đổi linh hoạt mà không chấp vào một lý thuyết nào.

*Chú thích địa danh về chín châu:
- 冀 Kí: Châu Kí 冀, một trong chín châu ngày xưa của Trung Quốc, thuộc tỉnh Hà Nam 河南 bây giờ. (Cát Châu)
- 青 Thanh: Châu Thanh, thuộc vùng Sơn Đông Giác đông đạo và Phụng Thiên, Liêu Dương bây giờ. (Thanh Châu)
- 兗 Duyện: Châu Duyện 兗, thuộc tỉnh Sơn Đông và Trực Lệ. (Yên Châu)
- 徐 Từ: Từ Châu 徐州 tên đất, gọi tắt là Từ. Tên nước thời Chu, nay ở vào khoảng tỉnh An Huy 安徽. (Từ Châu)
- 揚 Dương: Không tìm được chú thích. (Dương Châu)
- 荊 Kinh: Kinh Châu 荊州, nay thuộc vào vùng Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây, Quý Châu. (Kinh Châu)
- 梁 Lương: Châu Lương, một châu trong chín châu của nước Tàu ngày xưa. (Lương Châu)
- 雍 Ung: Ung châu 雍州 một châu trong chín châu nước Tàu ngày xưa, tức là vùng Thiểm Tây, Cam Túc, Thanh Hải bây giờ. (Vĩnh Châu)
- 豫 Dự: Châu Dự, nay thuộc đất phía tây Hà Nam, Sơn Đông và phía bắc Hồ Bắc. (Ngọc Châu)


论五行时地分野吉凶

按王氏所谓二气者,阴阳也;五行者,金、木、水、火、土也,时者,春、夏、秋、冬也;地者,冀、青、兖、徐、扬、荆、梁、雍、豫也。盖天有阴阳,行于四时;地有五行,具于九州,正朱子所谓五行质具于地、气行于天,故天有春夏秋冬,地有金木水火,皆以时地相为用也。今之谈命者,但知论阴阳五行而不知兼论方隅与昼夜阴晴,所以有年日月时同而贵贱寿夭迥异,便谓五行无据,启世人不信命之疑,亦诬点。嗟夫,人生天地,莫逃五行;九州分疆,风气异宜,阴晴寒暖,理难一律。人禀天地灵气以生一时,得气各自不同,所以贵贱寿夭难以八字拘也。且以甲乙寅卯属木,生于兖、青为得地,春令为得时。丙丁巳午属火,生于徐、扬为得地,夏令为得时。戊己辰戌丑未属土,生于豫州为得地,四季月为得时。庚辛申酉属金,生于荆梁为得地,秋冬为得时。壬癸亥子属水,生于冀、雍为得地,冬令为得时。况昼夜阴晴之间有寒有暖,阴阳造化之内有喜有忌,生克制化,抑扬轻重,妙在识其通变,不可执一论也。



.

Thanked by 1 Member:

#93 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 02/07/2024 - 01:49

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tứ

Luận Mộc

Mộc tháng giêng mùa xuân, lệnh mộc, trời tạnh ráo thì hoa lá nở ra tươi tốt, trời mưa thì lạnh nên mọc mầm. Người sanh tháng giêng, tuy là ba hào dương giao thái, hơi lạnh vẫn còn, gặp hoả thì cuộc sống tốt đẹp, phú quý vô địch. Hoả nhiều tiết nguyên khí, người châu Từ, châu Dương, sanh ban ngày mắc bệnh tật. Khi nói đền hoả thổ thì giàu mà lại sang; có thổ không có hoả: gần như có đủ y phục cung cấp cho chính mình. Gặp kim lo lắng thương tổn, gặp hoả chế phục là phúc lành. Gặp thuỷ không phải là mẹ và con sanh cho nhau, bởi mộc của đầu mùa xuân, vừa mới có sức sống, gặp thuỷ thì lạnh, trái ngược lại không phải la tốt. Người sanh ở châu Ký, châu Ung nghèo hèn, đàn ông thì tuỳ tiện, bừa bãi, phụ nữ thì dâm dục.

Mộc của tháng hai, cuộc sống tươi tốt, gặp thổ chăm bón thì tốt đẹp. Hoả thổ đi cùng nhau: phú quý mà lại thọ. Hoả mạnh cũng tiết khí, bởi hoa và cây mới bắt đầu chứa tinh hoa nên dương thật sự phát tán. Người châu Duyện, châu Thanh phú quý không nghi ngờ; người châu Từ, châu Dương có khuyết điểm. Người mà can chi có nhâm, quý, hợi, tý thì có tai hoạ, thuỷ sanh cho quá nhiều thì tánh tình phóng túng, chơi bời vô độ, xa rời quê cha đất tổ. Thổ kim thuỷ hội họp, chết non không nghi ngờ, nghèo hèn thì sống lâu. Gặp kim chặt, đốn nơi vượng xứ và sức sống của nó bị tổn thương, làm sao sanh vật trong trời đất có thể nhân từ đến vậy? Tiên Chánh có nói rằng mộc mùa xuân tuy vượng, nhưng không nên gặp kim đó là lý do vậy.

Mộc của tháng ba, đúng lúc các cành nhỏ lớn lên tươi tốt, ánh nắng mùa xuân ấm áp, rực rỡ sắc màu. Ngâm tẩm trong nước mưa, gốc rễ rung chuyển. Gặp thổ thì thâm căn đế cố (gốc cây sâu cuống hoa vững ý chỉ rất bền vững), phúc thọ kéo dài. Gặp hoả thì mộc thông hoả sáng, văn chương phát triễn ưu tú. Gặp kim chặt mộc, người châu Kinh, châu Lương thì xấu; còn người châu Từ, châu Dương thì phú quý. Thích hoả và thổ, kỵ kim và thuỷ, vận thích đông nam; tây bắc thì không lợi. Mộc mùa hạ: bệnh ở tỵ, tử ở ngọ và mộ ở mùi, bởi vì phương nam hoả thịnh vượng, thoát chân khí của mộc. Mưa ẩm thì tốt, nắng hạn thì kỵ.

Mộc tháng tư mộc chưa thật suy, hoả chưa thật sự vượng, gặp hoả yếu thì cành là tươi tốt, um tùm, mang lại bóng mát và vượng khí. Gặp thuỷ thịnh vượng thì thuỷ thần trôi nỗi bềnh bồng theo sóng, trai gái ăn nằm lén lút với nhau. Gặp thổ thì tiền bạc tụ về nổi danh. Hoả thổ cùng vận hành theo quỹ đạo, thiên can, địa chi có nhâm, quý, hợi, tỳ thì phú quý. Gặp kim thì bị khắc: tai nạn, kiện tụng khó tránh khỏi, trái lại người châu Từ, châu Dương thì tốt.

Mộc của tháng năm, tháng sáu thích nước mưa, ban đêm sanh ra nhiều điều kỳ lạ, người gặp như vậy được phú quý mà lại thọ. Hoả thịnh vượng mà không có thuỷ thì nghèo nàn mà yểu mạng. Lệnh mùa hạ hoả thịnh vượng nên rất nóng nực, tan đá chảy vàng, mộc bị khô héo, người châu Từ, châu Dương thiên can hoả nhiều, có bệnh điên cuồng, bệnh lao, hoa mắt, hoặc có thuỷ chế phục, hoặc sanh ban đêm, hoặc trời mưa ẩm sẽ hoá xấu thành tốt. Được thổ để bồi dưỡng gốc rễ, được thuỷ để vươn tới cành, nếu thuỷ thổ đồng hành chẳng những chỉ phú quý mà được tuổi thọ, thân thể khoẻ mạnh, bình an. Gặp kim không thể khắc mộc, vì hoả vượng thì kim yếu, như có con phục cừu vậy. Nếu tiết tiểu thử trở về sau thổ nhiều, cũng kỵ, bởi mộc suy không thể khắc thổ vượng. Người sanh châu Duyện, châu Thanh làm ra tiền của. Nói chung mộc mùa hạ thì thích thuỷ, không giống lúc khác.

Mộc của ba tháng mùa thu, chỉ muốn nắng mưa được thích hợp, nắng hạn thì vạn vật khô héo, mưa quá mức thì mùa màng không thể thu hoạch. Lúc đầu mùa thu, sức nóng còn chưa giảm bớt, không thích hợp đồng hành với hoả, tốt nhứt là được mưa ẩm. Gặp kim thuỷ tuy có nghi ngờ bác khắc (bóc lột, chạm khắc), nhưng hoả khí còn quá nóng, kim khí chưa thịnh nên không là hại vậy, tiết xử thử trở về sau người sanh ở châu Kinh, châu Lương thì kiêng cử. Kim thuỷ đồng hành thì hoá hung thành tốt, gặp thổ vun trồng chăm sóc cây thì vận may sẽ thành. Thuỷ thịnh vượng mà không có thổ người châu Ký, châu Ung trôi nổi không nơi cư trú, người châu Từ, châu Dương lại phản hung thành tốt.

Mộc của tháng tám, tháng chín, đúng lúc cây cối tàn tạ, người sanh ban ngày với hoả cùng một quỹ đạo: nghèo nàn và yểu mạng, bởi nắng thu khô hanh cây cối đều khô héo. Hoặc sanh ban đêm, hoặc lúc có mưa ẩm, hoặc có thuỷ giải thì mới được tốt.Người châu Duyện, châu Thanh thì có học thức và giàu sang, gặp thuỷ có nguy cơ trôi giạt, bởi nước mùa thu chẳng phải lúc nuôi dưỡng cây cối; người châu Ký, châu Ung càng kỵ. Được thổ vun trồng, nền tảng ổn định và dày đặc. Gặp kim trái lại tốt, bởi kim đang nắm lệnh thì vạn vật huỷ hoại, đã không nuôi lớn mà thành tựu mạng sống của nó, lại không thể trở về gốc để phục hồi mạng sống, cái mà có thể dựa vào ở nơi toàn là kim đây, ví thực không có kim để chế thành khí cụ thì trong trời đất chỉ có toàn là cây mục, đó nhờ lực của binh khí, búa, rìu đẽo gọt mà thành khí cụ nên thành trụ cột mà dùng, đều nói là lúc mang búa rìu vào rừng núi, mộc không thể thắng được. Vận khí nên đi hướng đông, hướng nam.

Mộc mùa đông đúng lúc tàn tạ, tiêu điều, trở về cội nguồn, ẩn tàng sức sống đầu mùa xuân, vì nguyên lý vô cùng tận của tạo hoá, "Kinh Dịch" nói: "thạc quả bất thực (trái cây to đẹp không ăn)", đó là lý do. Người sanh vào lúc trời quang đãng, trong sáng rất tốt đẹp; gặp lúc mưa ẩm thì đọng lại thành băng tuyết.

Mộc tháng mười: gặp hoả thì quý mà lại thọ, bởi đất đóng băng lạnh, nhờ hoả để ấm áp gốc rễ của nó. Hoả thổ giúp vận thì phú quý đủ cả hai. Gặp kim tuy không hại cho gốc rễ nhưng không tránh khỏi cốt nhục không hoà thuận.Được thuỷ thì có ý trợ giúp vun bồi, người châu Từ, châu Dương lợi tựu thành danh, còn người châu ký, châu Ung nghèo nàn cô khắc.

Đến như mộc của tháng tý, tháng sửu, thích hơi hoả bốc lên, cùng quỹ đạo với thổ, vị trí leo lên đến thai đỉnh (chức vị ngày xưa như tam công, tể tướng, trọng thần).Gặp thuỷ hung khắc bởi mùa đông thuỷ nắm lệnh, mộc lạnh nên trơ ra, tê dại, mùa đông mộc gặp thuỷ thì lạnh không có hoả để ấm áp sẽ đọng lại thành băng, nên sức sống bị bẻ gãy, người nghèo hèn nhưng có tuổi thọ; người giàu sang thì chết yểu. Gặp kim tuy tổn hại nhưng không bị lạnh, bởi mộc chịu lệnh mùa đông nên quay về gốc rễ, búa rìu không có chỗ để thực hành, cây khô héo thì đẽo gọt thành vật dụng, cho nên gặp kim mà không có tai hoạ, người sanh ờ châu Từ, châu Dương, châu Duyện, châu Thanh chết từ lúc còn nhỏ, còn người châu Kinh, châu Lương, châu Dự tuy cũng kỵ chẳng qua là tổn hại cành lá mà thôi, còn gốc rễ của nó vẫn như thường. Người có thiên can địa chi được bính đinh tương chế tức là có khả năng phú quý, tránh được tai hoạ. Vận khí nên đi về hướng nam, mộc mùa đông thích chạy về hướng nam, kế đến là hướng đông.

论木

正春木,令木也,晴则花叶敷荣,雨则寒其萌蘖。正月生者,虽三阳交泰,寒气未除,见火则生意蔼然,富贵无敌。火多泄其元气,徐、扬人昼生者疾。火土问躔,富而且贵;有土无火,仅足衣资而己。逢金折伤之患,得火制之为福。见水不为子母相生,盖初春之木,才有生意,见水则寒,反不为吉。冀,雍生者,贫寒,男滥而女淫也。

二月之木,生意畅茂,遇土培植为佳。火土同行,富贵而寿。火盛亦泄其气,盖花木始含英而真阳发散故。兖、青人富贵无虞,徐、扬人美中不足。干支有壬、癸、亥、子者,咎也,水生之,太过,性情流荡,离祖迁居。土金水会,夭折无疑,贱贫而寿。逢金伐之,旺处遭伤,┥其生意,岂天地生物之至仁耶?先正有云,春木虽旺,不宜逢金者,此也。

三月之木,正条达长茂之时,春阳和煦,万紫千红。雨水浸淫,根株摇动。见土则根深蒂固,福寿绵延。见火则木通火明,文章秀发。逢金伐木,荆、梁生者凶,徐、扬之人富贵。喜火土,忌金水,运喜东南,西北不利。夏木病巳死午墓未者,盖南方火盛,泄其真气故也。阴雨则吉,亢晴则忌。

四月木未甚衰,火未甚旺,见微火则枝叶茂繁,荫庇发福。值盛水则水神飘荡,男女淫奔。见土利就名成。火土同躔,干支有壬、癸、亥、子者、富贵。逢金克之,灾讼不免,徐、扬人反吉。

五、六月之木,喜雨水、夜生九奇,值此者富贵而寿。火盛无水者贫夭。夏令炎威火盛,烁石流金,木有枯槁之患,徐、扬人干火多者,有疯痨荧燎之凶,或水制,或夜生,或阴雨天,化凶为吉矣。得土以培其根,得水以达其枝,若水土同行,非惟富贵,且寿考康宁矣。见金不能克木,火旺金柔,有子复仇故也。若小暑以后土多,亦忌,盖衰木不能克旺土也。兖、青生者,为财。大抵夏木喜水,与他时不类。

秋三月之木,惟欲晴雨得宜,亢旱则物皆枯槁,淫雨则物不收成。初秋之时,炎威未退,不宜与火同行,阴雨生者最妙。见金虽有剥刻之嫌,然火气尚炎,金气未盛,不为害也,处暑以后荆、梁生者忌之。金水同行,化凶为吉;逢土培植,利就名成。水盛无土,冀、雍飘荡无居,徐、扬人反凶成吉。

八、九月之木,正凋零之时,昼火同躔者,贫夭,盖秋阳燥烈,木皆枯落故也。或夜生,或阴雨,或水解之,方吉。兖、青人文章富贵,见水有漂流之患,盖秋水非滋木之时也,冀、雍人尤忌。得土栽培,根基稳厚。见金反吉,盖金司令,则万物摧落,既无长养以遂其生,又未归根以复其命,所可借者,在一金耳,苟无金制以成其器,则为天地间一朽木,此所以仗斧斤之力斫削成器而为栋梁之用,正所谓斧斤以时入山林,木不可胜用也。气运宜往东方、南方。

冬木正肃杀之时,复命归根,微有小春生意,以见造化无终穷之理,《易》曰:"硕果不食"者,此也。生于晴明者最佳,值阴雨则凝冰积雪也。
十月之木,遇火贵而有寿,盖冰寒土冻,仗火以温暖其根故也。火土辅运,富贵双全。见金虽无害其根本,未免骨肉参商。得水则有滋助之意,徐、扬人利就名成,冀、雍人贫寒孤克。

若子丑月之木,喜火融之,与土同躔,位登台鼎。见水凶克,盖冬水,令也,木寒,木也,冬木遇水而寒,无火温之,则冰凝冻合,而生意摧折矣,贫贱者寿,富贵者夭。见金虽伤不寒,盖木任冬令归根者,斧斤无所施,凋零者,斫削可成器,所以见金而无咎也,徐、扬、兖、青生者有陨自夭,荆、梁、豫人虽忌,亦不过枝叶之伤耳,其本根则自若也。干支得丙丁相制者,却能富贵,岂独免祸而巳。气运宜往南方,冬木喜南奔也,东方次之。



.

Thanked by 1 Member:

#94 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 02/07/2024 - 05:11

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tứ

Luận Hoả

Hoả của ba tháng mùa xuân, khí ấm áp bắt đầu hiển lộ; trời quang đãng ánh sáng sẽ xuyên qua cây cối, trời mưa cây cối sẽ ẩm ướt và tối tăm.Tháng giêng thì dương hoả ẩn tàng trong mộc, tuy có vẻ hiền hoà đáng yêu, nhưng băng sương chưa tan hết, gặp mộc sanh cho thì dương khí sẽ phát huy tác dụng. Gặp kim là tài, người châu Từ, châu Dương giàu có nên yêu thích lễ nghĩa. Kim mộc đồng hành quan có công lớn được khắc tên vào đỉnh lớn. Gặp kim trị thuỷ chết trẻ không sai, người châu Kinh, châu Lương, châu Ký, châu Úng càng nặng.Gặp thổ rút trộm mốt ít dương khí, hời hợt thấp hèn.

Tháng hai gặp mộc, bại xứ phùng sanh (ở nơi bại được sanh), cây tươi tốt nên hoả sáng, người có học thức và giàu sang, chỉ không nên có thuỷ, bởi cây ướt thì không sanh hoả. Người sanh ở tiết cốc vũ trở về sau thì thuỷ không hung xấu, bởi lúc đó thổ chưởng quản, mộc chủ lệnh nên hoá hung thành tốt vậy. Không nghi ngờ gì nữa người sanh ở các châu Duyện, Thanh, Từ, Dương thì phú quý. Thổ với kim, tháng giêng cùng luận giống nhau, chỉ tháng thìn mới khác biệt vì thổ vượng.

Hoả mùa hạ, dương khí đến chỗ cao nhất, cỏ cây thì khô héo, sông hồ thì khô cạn. Trời nắng sẽ tan đá chảy vàng, chân dương khí thoát ra hết, khi trời mưa nước sẽ giúp tăng uy thế, mới được trung hoà, trái lại được ân đức che chở mà phát phúc.Tháng tư: thế lực của hoả ngày càng mạnh, tranh sáng với mặt trời, chưa đủ khả năng dốc lòng, tuy rằng được phú quý nhưng cũng chủ là chết yểu, còn người nghèo nàn thì lại thọ mà nhiều con cháu, cô độc gian khó khổ nhọc. Gặp kim danh thành lợi tựu; gặp thổ có quyền lực vả tháo vát; gặp mộc giàu có mà lại thích lễ nghĩa; một chút thuỷ ẩn tàng giúp đỡ mộc cũng quý không thể nói.

Người sanh tháng năm, tháng sáu hoả nóng cực điểm, được thuỷ chế phục, đều sẽ là tướng, chỉ người sanh ở châu Ký, châu Ung thuỷ không nên quá thịnh, bởi vì vượng hoả nương nhờ thuỷ thịnh, không thể không bị thương tổn, được thổ chế hay mộc giải, thì phú quý vượt hơn mọi người. Gặp thổ làm thoát bớt cái thịnh của thuỷ thì có quyền hành mà lại quý, lại thích thi ân huệ với người, nhưng mà thi ơn trái lại bị oán hận. Bởi hoả có khả năng sanh thổ, cũng có thể làm khô thổ. Gặp mộc sanh, thái quá trái lại thành tổn hại đến nền móng của người các châu Thanh, Duyện, Từ, Dương, tuy rằng phú quý nhưng khó mà tránh khỏi chết yểu; còn người các châu Ký, Ung, Kinh, Lương giàu mà trở thành giàu hơn. Gặp kim là tài, hoả nung nấu kim chảy, trái ngược lại thành tai hoạ phá gia bại sản. Thuỷ thổ đồng hành thì danh thành lợi tựu. Nhật chiến, nguyệt hình, lòng trung hiếu bị suy giảm, tai hoạ hung xấu một mình gánh vác, sanh vào ban đêm thì giảm nhẹ. Vận khí nên đi về tây bắc và nam, hướng đông thì đại kỵ.

Hoả đầu mùa thu sức nóng chưa giảm bớt, thổ truyền sanh khí, nên nước không thể khắc, trái lại báo trước được địa vị cao trọng, vinh hiển. Gặp mộc giúp đỡ, những người ở các châu Từ, Dương, Duyện, Thanh có can chi hoả nhiều, tuy phú quý nhưng thọ không lâu dài. Gặp kim là tài, giàu sang nên hoang phí không biết tiết kiệm. Gặp thổ là con cái, hiển quý phi thường.
Tháng tám, tháng chín lúc hoả sai thời, gặp mộc sanh: cuộc sống không cùng tận, giàu sang không có lý do. Kim mộc cùng quỹ đạo, chức quan đứng đầu, hay là quan phụ giúp vua. Có kim không có mộc chủ mình yếu chống đối kẻ mạnh, không tránh khỏi sự tranh chấp. Người ở các châu Ký, Ung, Kinh, Lương cùng chung của cải dẫn đến tai hoạ. Cùng với thổ chung quỹ đạo, rút chân nguyên của mình, cô hình lãnh thối (cô độc rụt rè) được mộc trợ giúp là điều thật đẹp. Gặp thuỷ thì hung xấu và chết yểu. Vận thích đông nam, kỵ tây bắc.

Hoả của các tháng mùa đông: người người thường yêu thích, trời tạnh ráo thì trong sáng, trời mưa sẽ dập tắt. Cho nên gặp thuỷ thì hung, gặp mộc sanh thì quý. Có thuỷ mà không có mộc: nhẹ thì bệnh tật, nặng thì chết non, tuy sanh ra trong nhà giàu có, không tránh khỏi hiu quạnh, nhún nhường, người ở các châu Từ, Dương, Duyện, Thanh được thuỷ chế phục không có lỗi gì. Gặp thổ tiết khí, đã nhược lại càng nhược, cả đời gian khổ, trì trệ, sau tiết tiểu hàn thổ vượng, làm lu mờ ánh sáng của hoả, nhất định là tối tăm ngu muội như kẻ mù. Gặp kim là tài người ở các châuThanh, Duyện, Từ, Dương chủ giàu có, còn người ở các châu Kinh, Lương, Ký, Ung vì giúp đỡ người khó khăn mà gây hoạ vì con của kim là thuỷ vậy, khắc chế mẹ của nó nên con báo thù, không có mộc giải vây có tai ách của binh đao hay kiện tụng, tù tội, hoặc bệnh nhọt độc, bệnh lỵ hay chết đuối. Người có can chi mộc thịnh giảm bớt. Nói chung hoả mùa đông thích mộc mà kỵ thuỷ. Vận nên đi đông nam, còn tây bắc thì rất kỵ.

论火

三春之火,其气温然而始著也;晴则借木而明,雨则湿木而晦。正月微阳之火,隐于木中,虽有可亲可爱之意,但冰霜之气未消,遇木生之,则阳气发挥矣。逢金为财,徐、扬人富而好礼。金木同行,官居鼎鼐。逢金值水,夭折无疑,荆、梁、冀、雍之人尤甚。见土盗泄微阳,浮薄卑贱。

二月见木,败处逢生,木秀火明,文章富贵人也,但不宜有水,盖湿木不生无陷火也。谷雨以后生者,微水无凶,盖土司时、木主令,化凶为吉也。兖、青、徐、扬生者富贵何疑。土与金,正月同论,但辰月土差旺耳。

夏令之火,阳气之极,草木为之焦枯,江河为之枯涸。晴则流金烁石,真阳尽泄;雨则水济其威,方得中和,反应荫庇发福。四月火势渐盛,逢日争光,未能全其忠爱,虽富贵亦主夭亡,贫寒者寿而多子,孤独艰辛。见金名成利就,逢土有权有谋,遇木富而好礼;微水济木,其贵不可言也。

五、六月生者,火炎之极,得水制之,则都将相,惟冀、雍生人水不宜盛,盖旺火投于盛水,不能不伤故也,得土制木解,则富贵过人矣。见土略泄其盛而有权衡之贵,又好施惠及人,但施恩反怨耳。盖火能生土,亦能燥土故也。见木生,过反伤青、兖、徐、扬人根基,虽富贵难免夭亡,冀、雍、荆、梁人富而益富。遇金为财,火烁金流,反有破财荡家之患。水土同行,名成利就。日战月刑,忠孝有亏,凶祸孤克,夜生减轻。气运宜往西北南,东大忌。

秋初之火,炎威未退,土传生气,水不能克,反主贵荣。见木助之,徐、扬、兖、青人干支火多者,虽富贵而寿不永。见金为财,富贵豪侈。逢土则息,显达非常。
八、九月失时之火,见木生,生之意无穷,富贵无故。金木同躔,官居宰辅。有金无木,主弱敌强,不免有争攘之事。冀、雍、荆、梁人同财致祸。与土同躔,泄其真元,孤刑冷退得木助之,斯为美矣。见水凶夭。运喜东南,西北忌之。

冬月之火,人多亲之,晴霁则明,阴雨则灭。故见水为凶木生为贵。有水无木,轻者疾,重者夭,虽生富厚之家,不免冷退,徐、扬、兖、青人得水制之,无咎。逢土泄之,弱中又弱,蹇滞终身,小寒之后旺土,晦其光明,定主昏愚瞽目。见金为财,青、兖、徐、扬人主富,荆、梁、冀、雍人助难为凶谓金之子,水也,克其母,子则乘势报仇,无木解之,有刀兵狱讼之厄,肿痢没溺之凶,干支木盛者,减轻。大抵冬火喜木忌水。运宜东南,西北大忌。



.

Thanked by 1 Member:

#95 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 02/07/2024 - 05:40

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tứ

Luận Thổ

Thổ gặp mùa xuân, mạch đất mầu mỡ lên, vạn vật bày ra sức sống, mộc khí bắt đầu lộ ra, người xưa nói rằng bệnh ở dần, tử ở mão và mộ ở thìn, quả nhiên có lý do vậy. Trời mưa thì mây âm u hình thành đất ẩm ướt, bóng râm không dễ chịu, trời tạnh băng đóng sẽ phóng thích hơi ấm nên sức sống càng phát triễn. Cho nên thổ của lệnh mùa xuân đều thu nhận dương khí, tức khắc có thể nuôi dưỡng vạn vật phát triễn.

Thổ của tháng giêng có sương lạnh ở trên, gặp mưa sẽ đóng băng, gặp thuỷ sẽ sạt lỡ, gặp mộc sẽ bệnh, chỉ được hoả để sưởi ấm thì vẻ vang, hiển quý không gì bằng. Gặp kim chế phục mộc cũng được thành công cả danh lẫn lợi.

Thổ của tháng hai: đúng là lúc mộc hưng vượng, thổ sạt lở, gặp mộc cùng quỹ đạo, có tai vạ của các bệnh trĩ lậu, dạ dày, lá lách, ruột, nhẹ thì bệnh tật, nặng thì chết yểu. Người châu Từ, châu Dương can chi có hoả hay sanh ban ngày, trời nắng thì không có tai hoạ, gặp hoả cùng quỹ đạo, chức quan lên cao đến thai đỉnh (tam công, tể tướng, trọng thần). Gặp thuỷ thì hung, người các châu Ký, Ung, Thanh, Duyện thổ hồn thuỷ trọc (đất bùn nước đục), cuối cùng có nguy cơ nước phun tràn ngập mặt đất, bởi thuỷ sanh vượng mộc mà tổn hại thổ, người gặp điều này thì nghèo nàn, bệnh tật, chết yểu; người các châu Từ, Dương, Dự can chi có hoả trái lại thành tốt. Gặp kim thì tiết khí của thổ, khó tránh khỏi tai hoạ hung xấu.

Thổ của tháng ba: dần dần có sức sống, bởi thổ vượng ở các tháng cuối mùa, có hoả ấm áp thì dương khí sẽ thư thả mà nuôi sống vạn vật tươi tốt. Gặp mộc chẳng phải bệnh tật thì chết yểu, người các châu Từ, Dương, Dự thì không có hại gì. Thuỷ mộc cùng đi chung thì nghèo nàn cùng khốn, buồn bã, sầu muộn, người các châu Ký, Ung, Duyện, Thanh càng nặng. Gặp kim chế phục mộc, phản hung thanh tốt. Vận thích phương nam, kế đến là phương tây.

Thổ vượng suốt mùa hạ, hoả thịnh vượng nên sanh thổ, mưa ẩm nên đất ẩm ướt nuôi dưỡng vạn vật, cho nên gặp thuỷ thì tốt; còn gặp nắng lâu không mưa thì ruộng đất nứt nẻ, cho nên gặp hoả thì hung xấu.

Thổ của tháng đầu mùa hạ: khí nóng chưa thịnh vượng, cuối cùng thích hoả để trợ giúp. Gặp mộc thì bệnh tật, chết yểu không thích hợp. Gặp thuỷ là tài, người châu Từ,châu Dương giàu có dồi dào; thấy kim mà gặp mộc thì quý, gặp thuỷ sẽ nghèo nàn.

Thổ của tháng năm, tháng sáu: gặp hoả sẽ khô khan nên vạn vật khô héo, người châu Từ, châu Dương mà can chi là hoả thịnh sẽ có tai nạn về lửa, bệnh về máu, nhẹ thì bệnh , nặng thì chết, hoặc mưa ẩm, hoặc sanh ban đêm tuy là có tai hoạ nhưng không nặng lắm. Người châu Ký, châu Ung mà can chi có nhâm, quý, hợi, tý giàu sang phi thường, gặp thuỷ nuôi dưỡng vạn vật, chủ về giàu sang, học thức, gặp mộc khai thông bản tính, thường thông minh khác hẳn người thường. Gặp kim thì không lợi ích gì, bởi hoả thịnh thì kim suy không khả nắng chế phục mộc, vì thế mà kim không có lợi ích gì. Vận khí nên đi hường tây, bắc rất kỵ hướng nam, bởi mùa hạ thổ gặp hoả đã quá khô khan rồi.

Thổ gặp mùa thu: kim khí thịnh vượng tiết khí thổ nên khí mỏng manh. Trời nắng hay mưa đều cần phải thích hợp.

Thổ của tháng bảy: hoả khí còn chưa diệt, tính chất của thổ còn khô khan, nên thích thuỷ để thấm nhuần thì vạn vật mới sung mãn. Nếu như hoả quá thịnh vượng, cũng là nổi lo thổ bị khô khan, được thuỷ trợ giúp thì tuyệt diệu. Gặp mộc là tai hoạ người các châu Từ, Dương, Kinh, Lương thì không kỵ.

Thổ của tháng tám, tháng chín: gặp mộc thì không thể khắc, vì lúc đó vạn vật héo tàn, rơi rụng, kim khí sanh vượng con phục thù cho mẹ, người các châu Kinh, Lương, Từ, Dương giàu sang mà lại có tuổi thọ. Gặp kim thì tiết khí rất nặng, người ở tây bắc không tránh khỏi mắc phải tật thờ ơ, lạnh nhạt và yếu đuối. Gặp hoả được trợ giúp, văn võ đều nổi tiếng, quân tử hay tiểu nhân đều tốt đẹp. Gặp thuỷ là tài, người châu Từ, Dương, Dự giàu có không ai bằng, còn người các châu Ký, Ung, Duyện, Lương thuỷ thịnh quá trái lại nghèo nàn, tháng tuất thì chỉ vừa đủ. Vận thích nơi hoả, thổ, còn nơi thuỷ, mộc, kim đều kỵ.

Thổ ở mùa đông: đúng lúc của trời đất nghiêm khốc, mùa lạnh đã ập đến, chỉ một dương mới sanh ra, dòng nước chảy dưới mặt đất còn chưa ấm, gặp thuỷ, tuyết thì đất lạnh giá mà đóng băng.Gặp hoả, mặt trời thì hàn cốc hồi xuân (lũng suối lạnh có sức sống trở lại).

Thổ của tháng mười: chỉ thích hoả để sưởi ấm, thì dòng nước chảy dưới mặt đất ấm áp nên vạn vật trở về với nguồn cội. Gặp mộc thì hung xấu, gặp kim thì trì trệ, gặp thuỷ chủ nghèo khó không nơi nương tựa, người châu Từ, châu Dương có can chi hoả nhiều có thể giàu có.

Tháng tý, tháng sửu: khí lạnh đến cực điểm, có hoả, mặt trời điều hoà sẽ được công danh thành tựu. Gặp mộc rất là kỵ, được hoả giải trừ thì tốt lành. Gặp thuỷ thì âm khí càng nặng, nước lạnh đất đóng băng, nhẹ thì bệnh tật, nặng thì chết yểu. Gặp kim cũng chủ nghèo khó, thiếu thốn. Tuế vận hướng nam rất tốt đẹp, hướng bắc thì rất kỵ.

论土

土值春时,土膏脉起,万物含生,木气发泄,前哲所谓病寅死卯墓辰者,良有以也。雨则阴凝土湿而荫甲不舒,晴则冻释阳和而生意发越。故春令之土一接阳气,就能发育万物。

正月之土尚有霜寒,遇雨则冻,遇水则冰,值木则病,惟得火以温之,则荣华莫比。逢金制木,亦名利两成。

二月之土,正木盛土崩之时,遇木同躔,有脾胃肠风痔漏之灾,轻者疾,重者夭,徐、扬人干支有火而值昼晴者,无咎见火同躔,位登台鼎。见水则凶,冀、雍、青、兖人土浑水浊,终有水涌土溃之危,盖水生旺木而伤土也,值此者贫寒疾夭,徐、扬、豫人干支火者反吉。见金以泄土气,难免灾凶。

三月之土,渐有生意,盖土旺季月故也,有火温燠则阳气发舒而生物茂矣。见木非疾则夭,徐、扬、豫人无害。水木同度,贫薄无聊,冀、雍、兖、青人尤甚。见金制木,反凶成吉。运喜南方,西方次之。

土旺长夏,火盛土生之故也,阴雨则湿养万物,故见水为吉;亢旱则田畴龟拆,故遇火为凶。

孟夏之土,炎气未盛,终喜火以助之。逢木则疾夭无疑。见水为财,徐、扬人富足,见金遇木则贵,逢水则贫。

五、六月之土,见火则燥,而万物焦枯,徐、扬人干支火盛者,有火焚风血之灾,轻者危,重者死,或阴雨,或夜生,虽灾不甚。冀,雍人干支有壬、癸、亥、子者,富贵非凡,见水滋养万物,主富贵文章。见木疏通其性,多聪明特达。遇金无用,盖火盛金衰不能制木,所以金无用也。气运宜行西北,最忌南方,盖夏土逢火,太燥故也。土逢秋令,金气盛旺,泄土而气薄矣。晴雨须要得宜。

七月之土,火气未除,土性尚燥,喜水滋之,则万物实矣。若火太盛,亦有燥土之嫌,得水济之为妙。逢木为灾,徐、扬、荆、梁人无忌。

八、九月之土,见木则不能克,此万物凋零之时,金气生旺,子复母仇,荆、梁、徐、扬人富贵而寿。见金泄气太甚,西北人不免有冷退怯弱之患。见火助之,文武名高,君子小人皆吉。见水为财,徐、扬、豫人富而无敌,冀、雍、兖、梁人,水过盛者,反主贫薄,戌月仅可。运喜火土之乡,水木金方有忌。

土于冬也,正天地肃杀之时,寒亦至矣,虽一阳下生,土脉未温,值水雪,则冰寒土冻。见火日则寒谷回春。

十月之土,惟喜火以温之,则土脉阳和而万物归根矣。见木则凶,逢金则滞,遇水则主孤寒,徐、扬人干支火多者可富。

子丑之月,寒气之极,火日融和,功名成就。见木最忌。见火解之为吉。见水则阴气愈甚,水寒地冻,轻者疾,重者夭。见金亦主贫薄。岁运南方最佳,北方大忌。



.

Thanked by 1 Member:

#96 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 02/07/2024 - 10:46

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tứ

Luận Kim

Kim của ngày xuân: mộc vượng hoả tướng. Chẳng phải lúc kim đắc khí, tuyệt ở dần, thai dưỡng ở mão và thìn, bởi nguyên lý của tạo hoá không tận cùng. Vì thế kim ở lệnh mùa xuân, trời trong sáng thì tốt, trời mưa ẩm thì trì trệ. Đúng lúc thích hợp nên gặp thổ đề nuôi dưỡng, gọi là sắp tuyệt nhưng mà có sức sống vậy.

Kim của tháng giêng: gặp mộc là tài, lúc này mộc quá vượng, chỉ đủ quần áo thôi. Thổ khí còn lạnh giá chưa thể nuôi dưỡng trợ giúp, nhưng nghệ thuật đã trở nên nổi tiếng. Hoả nếu cùng quỹ đạo, trai gái gã cưới nhiều lần. Thấy hoả mà gặp thổ thì giàu sang phi thường; gặp thuỷ tiết khí chủ nghèo khó, không nơi nương tựa và yếu đuối.

Kim của tháng hai và tháng ba: gặp thổ sẽ được nuôi dưỡng, tạo ra sức sống không cùng tận, chủ người giàu sang mà có tuổi thọ. Gặp thuỷ thì nguyên khí của kim sẽ bị rò rĩ, cũng chủ nghèo khó và tàn nhẫn. Gặp hoả thì bị tù, kim gặp quỷ, nghèo khó và chết yểu không thích hợp, được thổ sanh chế phục thuỷ thì tốt lành. Gặp mộc nên khốn khó, trì trệ, bởi mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mà lấy kim suy yếu để chế phục chẳng khác nào dùng trẻ con để ngăn chống cường địch, rõ ràng không đủ tư cách, người phạm điều này muốn cầu vinh hoa phú quý trái lại có thể bị sỉ nhục, các việc liên quan đến kiện tụng, tranh chấp, tức là lòng nhân nghĩa hình hại nhau, người các châu Kinh, Lương, Dự gặp được thì chủ giàu sang; còn người ở châu Từ, châu Dương mà can chi có nhiều thổ thì quý hiển. Khí vận đến nơi thổ rất là tốt, kế đến là đất của kim.

Các tháng mùa hạ hoả thịnh vượng, kim trở nên mềm yếu, trời trong sáng không mây nên mặt trời nung chảy vàng, trời mưa nên có thuỷ chăm sóc nên vàng mịn bóng, cho nên kim ở lệnh mùa hạ, đều nên thấy thổ, chủ người nắm quyền chỉ huy của bậc tướng, cái sang trọng của ngựa vàng trong cung điện. Thấy hoả thì hoả nóng kim tan chảy, thường là nghèo khó và chết yểu, cho dù giàu có cũng chết yểu và dâm dục thấp hèn. Gặp mộc là tài người ở các châu Kinh, Lương, Dự thường là được giàu sang. Gặp thuỷ thì nghèo khó không nơi nương tựa, bởi kim yếu không thể nuôi dưỡng thuỷ, nếu với hoả thổ đồng hành thì giàu sang yên ổn. Vận thích thổ kim mộc hoả, rất kỵ mùa thu kim tàn phá, vạn vật rơi rụng, tan tác, nếu cẩu thả không kiềm chế thì sức sống sẽ tuyệt, trời trong sáng không mây thì hoả rèn luyện kim, còn trời mưa thì thuỷ làm ẩm nên kim sáng.

Kim của tháng bảy, tháng tám thì đuợc lệnh, bản chất cứng cỏi, mạnh mẽ, nhờ cậy hoả để chế phục uy thế của kim, nên quý như cá vàng đai ngọc, bởi vàng cứng mà không có hoả thì không thể thành vật dụng. Thấy thuỷ thì vượng khí bị rò rĩ, kim bạch thuỷ thanh, thường chủ thể lâm thanh quý. Thuỷ hoả đều không có chủ là chết non. Gặp mộc là tài, người châu Từ, châu Dương thì giàu có mà lại quý. Gặp thổ thì màu sắc bị chôn vùi, tuy có tài nhưng không phát được, người cô độc nhiều, kinh nói: mùa thu vàng chôn trong đất trở nên thịnh vượng. Gặp mộc thì quý người các châu Từ, Dương, Duyện, Thanh gặp được thì càng tốt đẹp.

Người sanh tháng chín: kim khí có một ít suy giảm, gặp hoả mà sanh ban đêm thì đặc biệt tốt đẹp, sanh ban ngày ít có lợi. Gặp mộc sẽ khắc, người thân thường không hoà thuận. Gặp thuỷ trợ giúp người châu Ký, châu Ung không tránh khỏi thờ ơ, nhút nhát; còn người châu Từ, châu Dương lại phải sợ hãi? Gặp thổ cũng tối tăm người châu Duyện, châu Thanh chủ yếu là giàu sang; còn người châu Dự thì khốn khổ và trì trệ. Vận thích hướng đông nam, kỵ hướng tây bắc.

Các tháng mùa đông khí trời khắc nghiệt, lúc kim cần phục tàng, là kim sanh ra vậy: thai ở mùa xuân, sanh ở mùa hạ, vượng ở mùa thu và đến mùa đông thì chết, nghĩa là sợ cái lạnh không có sức sống. Trời trong sáng thì kim thanh thuỷ tú; còn trời mưa tuyết thì thuỷ lãnh kim hàn, vì vậy kim ở các tháng mùa đông được hoả điều hậu, sau đó mới có thể tước trừ khí lạnh trong nó, sẽ giàu sang phi thường.

Kim của đầu mùa đông: gặp hoả thì tổn hại, tàn tật người châu Từ, châu Dương mà can chi của ngày sanh không có thổ thì nghèo nàn, chết yểu. Người sanh ban đêm thì nghèo nàn không nơi nương tựa. Gặp thổ thì cơm ăn áo mặc đầy đủ. Gặp thuỷ và mộc đều là không có lợi.

Người sanh tháng tý, tháng sửu: cũng thích có hoả để sưởi ấm, người châu Từ, châu Dương mà không có hoả cũng thích gặp thổ được hoả thì quý; còn người châu Ký, châu Ung có thổ mà không có hoả thì nghèo nàn không nơi nương tựa, bởi vì thổ lạnh không thể nuôi dưỡng kim. Gặp thuỷ sẽ lạnh giá, người tây bắc thì nghèo hèn, bệnh tật và chết yểu. Người châu Từ, châu Dương mà can chi có hoả, thổ thì phúc thọ khang ninh vậy. Gặp mộc là tài, chủ giàu có, hưởng phúc an nhàn, người châu Duyện, châu Thanh sẽ có vấn đề ly thân với vợ con, bởi vì kim suy yếu không thể chế phục mộc, người các châu Kinh, Lương, Dự thì tốt. Vận thích hướng đông nam, rất kỵ hướng tây bắc.

论金

春日之金,木旺火相。非金得气时也,绝寅胎养于卯辰者,盖造化无终极之理也。是以春令之金,晴明吉。阴雨则滞。正宜遇土以生之,谓其将绝而有生意耳。

正月之金,见木为财,木神太旺,仅足衣资。土气尚寒,未能生助,艺术显名而巳。火若问躔,男女重婚重嫁。见火遇土,富贵非常,逢水泄之,孤寒懦弱。

二、三月之金,见土则生,生之意无穷,主人富贵而寿。逢水泄其元气,亦主贫薄无情。见火则囚,金遇鬼,贫夭无疑。土生水制为吉。见木而有困滞之灾,盖春木盛旺,以微弱之金而欲制之,是犹以婴儿而御强敌,其不格也明矣,犯此者必有求荣反辱之虞,官讼争攘之事,谓其仁义相刑故也,荆、梁、豫人逢之主富。徐、扬人干支土多者,贵显,气运土乡最吉,金乡次之。

夏月火盛,金至柔也,晴则日烁金流,雨则水滋金润,故夏令之金,俱宜见土,主人有出将入相之权,金马玉堂之贵。见火则火炎金烁,贫夭居多,虽富而夭淫贱。见木为财,荆、梁、豫人多主富贵。遇水孤寒,盖弱金不能生水故也,若与火土同行,则富贵康宁。运喜土金木火,最忌秋金肃杀、万物凋零,苟纵而不抑,则生生之意绝矣,晴则火煅金坚,雨则水润金明故也。

七、八月之金得令,其性刚强,仗火以制其威,则有玉带金鱼之贵,盖顽金无火不能成器故也。见水泄其旺气,金白水清,多主词林清贵。水火俱无,则主夭折。见木为财,徐、扬人富而且贵。遇土则隐彩埋光,虽有财而不发,孤者多,经云:秋金埋土而反旺也。逢木而贵,徐、扬、兖、青人见之尤佳。

九月生者,金气稍退,遇火夜生为奇,昼生少利。逢木则克,反应骨肉参商。见水济之,冀、雍人不免冷退,徐、扬人又何忌焉?逢土亦晦,兖、青人富贵居多,豫人困滞。运喜东南,西北忌之。

冬月天气严肃,金伏藏之时也,盖金之生也,胎于春生于夏旺于秋至冬而死者,谓其畏寒无生意也。晴明则金清水秀,雨雪则水冷金寒,所以冬月之金,得火融之,然后可以夺其寒气,则富贵非常矣。

初冬之金,见火则为伤残、徐、扬人干支无土日生者贫夭。夜生者孤寒。遇土则衣禄丰足。见水木,俱不利矣。子、丑月生者,亦喜火以温之,徐、扬人无火亦喜遇土得火为贵,冀、雍人有土无火者,孤贫,盖寒土非生金之资也。见水则寒,西北人贱贫疾夭。徐、扬人干支有火土者,福寿康宁也。遇木为财,主富,享闲中之福,兖、青人则有妻孥犯分之事,盖衰金不能制木故也,荆、梁、豫人则吉。运喜东南,西北最忌。



.

Thanked by 1 Member:

#97 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 02/07/2024 - 11:18

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tứ

Luận Thuỷ

Thuỷ của các tháng mùa xuân: ai bảo thuỷ bệnh ở dần, tử ở mão và mộ ở thìn là đến chỗ yếu nhược, mà còn không biết thuỷ là âm khí: sanh ở thân, vượng ở tý. Lúc mùa thu, mùa đông khí của nó tích trữ chưa tan, cho nên thuỷ thường khô cạn; đến mùa xuân, dương khí bốc lên, âm khi giáng xuống, cho nên khi mưa, sương làm thấm ướt thì thuỷ bắt đầu sanh ra, sức mạnh của thuỷ không thay đổi. Tinh gia lấy hoạt thuỷ sanh ở mão, đó là điều tốt. Trời nắng thì nước suối dần tan, trời mưa thì nước tràn lan mênh mông như biển.

Người sanh tháng giêng: thuỷ còn khí lạnh, gặp hoả thì băng sẽ tan chảy, giàu sang trang trọng uy nghi. Được kim trợ giúp, người sanh ở châu Tứ, châu Dương rất là tốt đẹp. Gặp được mộc mà không có hoả, thì thuỷ lãnh mộc hàn chưa có sức sống. Gặp thổ khắc thuỷ cũng chủ là nghèo khó. Thổ có chế phục hay sanh kim nên cơm ăn áo mặc đầy đủ.

Thuỷ của tháng hai, tháng ba: mênh mông vô tận, thấy thổ sẽ có bờ đê, sanh ban ngày thì giàu sang, còn ban đêm sẽ chảy rộng rãi, sanh vào sau tiết Cốc Vũ có thể chủ tham dục gây ra bệnh tê liệt, mệt mỏi, bởi vì thổ hồn thuỷ trọc (đất nước vẩn đục). Gặp hoả thì thuỷ hoả trừng phạt lẫn nhau, tai hoạ kiện tụng khó tránh khỏi. Gặp kim sanh thuỷ, nước tràn ngập tàn nhẫn, người ở châu Từ, châu Dương mà can chi có thổ, sẽ không có lỗi gì. Thấy mộc tiết khí, có thể mang lại lợi ích cho người khác, người ở châu Duyện, châu Thanh sanh ở giữa tháng hai, đúng lúc mộc khí vượng, trộm khí của nguyên thần sẽ sanh ra bệnh tật phong hàn, yếu nhược. Được kim trợ giúp thì không phải lo lắng.

Thuỷ mùa hạ bị thất lệnh, gặp hoả sẽ khô cạn, vì vậy kỵ trời trong sáng mà thích trời mưa. Lúc đầu mùa hạ, thuỷ còn tràn ngập, được thổ ngăn lại nên không còn chảy, thì phúc khí sẽ sâu dày, chỉ không thích hợp có hoả đồng hành. Bởi vì hoả thịnh vượng thì thổ khô khan mà nước thì cạn ráo, người châu Từ, châu Dương mà can chi không có kim thuỷ thì bệnh tật, chết yểu, gặp được thuỷ sẽ lợi tựu danh thành. Kim mà sanh trái lại chủ cô khắc, bởi lệnh mùa hạ kim suy yếu, mẹ yếu đuối không thể sanh con mà trái lại còn thương tổn mẹ, người ở các châu Kinh, Lương, Dự gặp được thì tốt.

Thuỷ của tháng năm, tháng sáu: đúng lúc có khả năng trợ giúp nuôi dưỡng vạn cật, thích có thổ đồng hành, lúc sanh gặp trời mua ẩm, chủ là trí thức giàu sang; gặp hoả thì gần như thuỷ bị khô cạn, nhẹ thì bệnh tật, nặng thì chết yểu, được thuỷ trợ giúp, trong xấu trở thành tốt. Gặp mộc cũng chủ được giàu sang, hào hùng, chân khí của người châu Duyện, châu Thanh bị rò rĩ, chẳng tốt đẹp, gặp được kim khí yếu không thể sanh cho thuỷ, không thể so sánh với gương sáng của mẹ để bàn luận, trái lại chủ cô khắc; người can chi có kim thuỷ thì tốt. Vận thích kim, thuỷ rất kỵ nơi có hoả.

Thuỷ sanh mùa thu: đúng lúc nước trong xanh, trời nắng thì trong vắt không có khuyết điểm, trời mưa thì nước đọng nên đục ngầu.

Thuỷ của tháng bảy: đúng lúc có thể nuôi dưỡng vạn vật sung mãn, không nên có hoả đồng hành, người châu Từ, châu Dương có nhiều hoả, nghèo nàn chết yểu không nơi nương dựa. Kim là mẹ tuyệt diệu, đến đúng thời điểm, mẹ và con tương sanh, văn chương trong sáng, cao quý. Thổ đến cùng chỗ, biến tai hoạ thành tốt lành, mộc cùng đi chủ hiển lộ cao quý.

Thuỷ của tháng tám, tháng chín: gặp được sao tốt lành thì phúc thọ khó mà lường. Kim hoả cùng nhau thì công danh chói lọi. Gặp mộc kết cuộc bị rò rĩ, khó tránh khỏi trước thì thành công sau lại thất bại. Hoả nếu cùng chung chỗ, ân đức của kim bị mất lực, dù có đức hạnh trị dân phục chúng, không tránh khỏi bệnh đờm, hình thương. Gặp thổ tuy hung nhưng không xấu, bởi vì mùa thu thì kim rất có khả năng hoá khó khăn thành phúc lành, người các châu Từ, Dương, Dự can chi có nhiều thổ, cũng khốn khó trì trệ cả đời. Vận lợi ở hướng tây bắc, không thuận lợi ở hướng đông nam.

Ba tháng mùa đông thuỷ nắm quyền: lúc khí lạnh ngưng tụ nghiêm khắc, trời mưa thì đóng băng, trời trong thì băng tan chảy, cho nên ba tháng mùa đông đều thích có hoả để ấm áp, thì giàu sang không nghi ngờ gì cả. Gặp kim thì mẹ và con cùng tăng trưởng, người châu Từ, châu Dương được cái quý của kim tử ngọc đường; còn người ở châu Ký, châu Ung thì thuỷ lãnh kim hàn, tuy là cùng tăng trưởng nhưng trái ngược lại nghèo sơ xác, được hoả đồng hành thì tốt. Gâp thổ, kim người thân không hoà hợp; người châu Ký, châu Ung nhờ đó mà đắp đê ngăn ngừa nên không lo việc tràn ngập. Gặp mộc: thuỷ hàn mộc đống, đều là không có sức sống, nghèo nàn, chết yểu không nghi ngờ, người châu Từ, châu Dương mà can chi có nhiều hoả thì giàu mà lại thọ. Mộc thổ cùng chỗ, chế phục sát thành tốt. Người sanh tháng sửu, quý hiển. Vận thích hướng nam, kế là hướng đông.

论水

春月之水,孰不谓其病寅死卯墓辰为至弱矣,殊不知水为阴气,生申旺子。秋冬之时,其气翕聚未散,故水常涸,春至,阳气上蒸,阴气下降,故雨露既濡而水生发,此水势之常耳。星家以活水生于卯者,良有以也。晴则春水溶溶,雨则汪洋泛滥。

正月生者,水有寒气,见火则冰融冻释,富贵雍容。得金相助,徐、扬生者最佳。逢木无火,则水冷木寒,未有生意。遇土克水,亦主贫寒。土制金生,衣资丰赡。

二、三月之水,浩无边际,见土则有堤防,昼则富贵,夜则流移,生于谷雨后者,或主淫邪痹惫之疾,盖土浑水浊故也。见火则水火相刑,灾讼不免。遇金生水,泛滥无情,徐、扬人干支得土者,无咎。见木泄之,能施惠及人。兖、青人生于二月中旬者,木气正旺,盗其元神,则生风怯之疾。得金助之,无患。

夏水失令,逢火则干涸矣,所以忌晴而喜雨也。初夏之时,水犹泛滥,得土止而不流,则福气深厚,但不宜与火同行,盖火盛则土燥而水涸,徐、扬人干支无金水者疾夭也,逢水利就名成。金若生之,反主孤克,盖夏令金衰,母弱不能生子而反伤于母也,荆、梁、豫人值之则吉。

五、六月之水,正能滋助万物,喜土同行,生时更值阴雨者,主富贵文章,见火则有涸水之嫌,轻者疾,重者夭,得水济之,凶中反吉。见木亦主富贵豪雄,兖、青人泄其真气,非佳。逢金气弱,无力生水,不可例以母曜论之,反主孤克;干支有金水者,吉。运喜金水,火乡最忌。水生秋令,正水清秀之时也,晴则清澈无瑕,雨则潦水浑浊。

七月之水,正能滋实万物,不宜与火同行,徐、扬火多者,贫夭无依。金为母曜,适当其时,子母相生,文章清贵。土来同处,化祸为祥,木若联行,亦行贵显。

八、九月之水,遇令星则福寿难量。金火同,则功名炬赫。见木终被疏泄,不免先成后败。火若同垣,恩金失力,虽有治民服众之德,未免痰疾刑伤。见土虽凶不凶,盖秋令金最能化难为福,徐、扬、豫人干支土多者,亦困滞终身。运利西北,东南失宜。

冬月司令之水,寒气严凝之时也,雨则冰凝,晴则冻释,故冬三月俱喜火以温之,则富贵无虞矣。见金子母相生,徐、扬人金紫玉堂之贵,冀、雍人水冷金寒,虽相生而反贫薄,得火同行为吉。逢土金,骨肉参商,冀、雍人赖以堤防而无泛滥之患也。遇木,水寒木冻,俱无生意,贫夭无疑,徐、扬人干支火多者,富寿。木土同垣,制煞反吉。丑月生者,贵显,运喜南方,东方次之。



.

Thanked by 1 Member:

#98 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 02/07/2024 - 12:02

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Ngũ

Luận Cổ Nhân Lập Ấn Thực Quan Tài Danh Nghĩa

Từ Tử Bình luận cách cục chỉ dùng bốn yếu tố ẤN, THỰC, QUAN, TÀI làm chủ yếu. ý nghĩa của nó được giải thích như thế nào? Bởi vì vạn vật lưu hành trong trời đất chẳng qua chỉ là âm dương và ngũ hành mà thôi. Âm dương và ngũ hành tương tác nhau để mà sử dụng, chẳng qua là sanh khắc, chế hoá mà thôi. Bây giờ lấy giáp ất làm thí dụ: trong ngũ hành thuộc về mộc, giáp là dương mà ất là âm. Ví như mệnh một người được giáp hoặc ất, sanh nghĩa là nhật chủ chính là mình, cái mà sanh mình là nhâm quý thuỷ, cái mà mính sanh là bính đinh hoả, cái mà khắc mình là canh tân kim, cái mà mình khắc là mậu kỷ thổ, như thế mười thiên can đã hết.

Cái mà sanh mình có nghĩa là phụ mẫu, vì thế đặt tên là ấn thụ. Ấn: ân đức che chở. Thụ: nhận lấy. Thí dụ cha mẹ có ân đức che chở con cháu, con cháu nhận được phúc lành của cha mẹ. Triều đình thành lập các quan chức và phân chia nhiệm vụ, ban cho ấn thụ (印瑤" ấn thụ: dây thao buộc ấn tín), để quản lý. Quan mà không có ấn lấy gì để chứng minh? Người mà không có cha mẹ, thì nương tựa vào đâu? Nguyên lý này có một không hai, vì thế gọi là ấn thụ. Cái mà mình sanh có nghĩa là tử tôn, nên gọi là thực thần. Thực như đồ ăn của động vật, che đậy vết thương (nguyên chữ 蓋傷之也: cái thương chi dã). Động vật được thức ăn thì no đủ, người được ăn thì lợi ích, thực thì tổn giảm tạo hoá (被食則損造化: bị thực tắc tổn tạo hoá). Để con lớn khôn nên tận tâm nuôi dưỡng, tức đạo làm người của cha mẹ nuôi dưỡng con cái vậy, cho nên gọi là thực thần.
Cái mà khắc mình nghĩa là mình bị người chế phục, cho nên đặt tên gọi là quan sát. Quan là người giữ một chức vị cho nhà nước. Sát là hại (có nhiều nghĩa trong đó có nghĩa là ghen ghét, đố kỵ). Triều đình dùng quan tiếp cận người, cấp công gia cho thân thuộc, chức vị để lèo lái, vượt qua nước sôi lửa bỏng, không dám trái nghịch, cho đến cả việc đậy nắp quan tài rồi sau đó là quan hại vậy. Người thường mơ thấy quan tài thì được chức quan cũng là do nghĩa này mà ra, cho nên gọi là quan sát. Cái mà mình khắc nghĩa là người bị mình chế phục, nên tên gọi là thê tài, ví như người kết hôn và xây dựng gia đình, đều được vợ giúp đỡ bên trong, nên gọi là thê tài. Đó là bốn ý nghĩa mà nhà toán thuật đặt tên gọi.
Tuy nhiên sanh thì ở gần thân, còn khắc thì ở nơi cách xa, tạo hoá thích sanh mà ghét sát, là cái lý tự nhiên. Trong âm dương theo loại, âm dương phối hợp, mỗi thứ có đạo lý riêng. Sanh mình, mình sanh: ví như nhâm sanh giáp, quý sanh ất; giáp thực bính, ất thực đinh, là âm sanh âm, dương sanh dương, âm thực âm, dương thực dương, là âm dương theo loại riêng của mình, cho nên giáp thích sự sống chết với nhâm, gỗ ngâm trong nước tù đọng nhiều năm mà không mục nát; không thích sự sống chết với quý, gỗ gặp phải nước mưa ướt đẫm mà không dời khỏi nơi đó sẽ bị mục nát. Giáp thích thực bính, vì bính có thể chế phục canh là sát, nên giáp bắt đầu yên ổn được thân mình; không thích thực đinh, vì đinh có thể thương tổn quan , nên giáp khó trở thành gỗ. Dùng theo ý nghĩa của nó vậy.
Khắc mình, mình khắc: như tân khắc giáp, canh khắc ất, giáp khắc kỷ, ất khắc mậu, là âm khắc dương, dương khắc âm phối hợp dương, dương phối hợp âm, chính là cái lý âm dương phồi hợp. Cho nên giáp thấy tân là chánh quan, thấy canh là thiên quan. Quan thích là chánh, không thích là thiên, giữ ấn tín và phụ tá chức vị không giống nhau. Giáp thấy kỷ là chánh thê, thấy mậu là thiên thê. Vợ quý trọng chánh, không quý trọng thiên, đứng hầu ngang nhau, phân chia thì có khác, đó là lý do vậy. Đến như quan sợ thương, gặp phải thương thì có tai hoạ, tài sợ kiếp, gặp phải kiếp thì chia cắt; ấn sợ tài, tham tài thì huỷ hoại; thực sợ kiêu, gặp phải kiêu liền bị cướp lấy. Cái lý của nó cùng việc đời không khác nhau, người cầu học hiểu rõ việc đời thì có thể luận bàn vận mệnh.
Ngũ hành chuyển dời sanh khắc, đều là ý nghĩa con vì cha mẹ mà phục thù. Cho nên giáp ất sanh bính đinh làm con, giáp ất sợ canh tân, nhờ bính đinh khắc chế. Bính đinh sanh mậu kỷ làm con, bính đinh sợ nhâm quý nhờ mậu kỷ khắc chế. Mậu kỷ sanh canh tân làm con, mậu kỷ sợ giáp ất, nhờ canh tân khắc chế. Canh tân sanh nhâm quý làm con, canh tân sợ bính đinh, nhờ nhâm quý khắc chế. Nhâm quý sanh giáp ất làm con, nhâm quý sợ mậu kỷ, nhờ giáp ất khắc chế.
Mười hai địa chi cái lý của nó cũng giống nhau, tuy động tĩnh không giống nhau như hình vuông hình tròn khác biệt, nhưng mà sanh khắc thì tương đồng, Thí dụ nói phương bắc hợi tý thuỷ, sanh đông phương dần mão mộc; phương đông dần mão mộc sanh phương nam tỵ ngọ hoả; thổ nhờ vượng hoả sanh, phương tây thân dậu kim; phương tây thân dậu kim sanh phương bắc hợi tý thuỷ. Tuy nhiên hợi tý cách một vị trí là sửu mới nối theo sau là dần mão; dần mão cách một vị trí là thìn mới nối theo sau là tỵ ngọ; tỵ ngọ cách một vị trí là mùi mới nối theo sau là thân dậu; thân dậu cách một vị trí là tuất mới nối theo sau là hợi tý.
Thổ lập ở tứ duy, ngũ hành nương nhờ bằng nhau. Nên tỵ dậu hợp với sửu thành kim cục, thân tý hợp với thìn thành thuỷ cục, hợi mão hợp với mùi thành mộc cục, dần ngọ hợp với tuất thành hoả cục. Kim sanh thuỷ, thuỷ sanh mộc, mộc sanh hoả, hoả sanh thổ, thổ sanh kim, kim sanh thuỷ, cùng nhau phát triển vô tận. Sửu là kim khố: sanh hợi tý mà khắc dần mão; thìn là thuỷ khố sanh dần mão mà khắc tỵ ngọ; mùi là mộc khố sanh tỵ ngọ mà bị kim khắc; tuất là hoả khố khắc thân dậu mà bị thuỷ chế phục.
Đông nam chủ sanh, tấy bắc chủ sát, đó là động cơ lớn lao của trời đất. Hơn nữa thìn, tuất, sửu, mùi đặt để ở tứ duy, kim, mộc, thuỷ, hoả đều nhờ đó mà sanh tồn và tích trữ. "Dịch" nói: " thành ở cấn mà kết ở khôn". Đó là công dụng của thổ trong ngũ hành rất là lớn vậy.

Bỏ can chi mà nói tóm tắt: giáp sanh ở hợi mà chết ở ngọ, ất sanh ở ngọ mà chết ở hợi, lộc tụ về ở dần mão, do đó giáp ất, dần mão giống nhau. Bính sanh ở dần mà chết ở dậu, đinh sanh ở dậu mà chết ở dần, lộc tụ về ở tỵ ngọ, do đó bính đinh, tỵ ngọ giống nhau. Canh sanh ở tỵ mà chết ở tý, tân sanh ở tý mà chết ở tỵ, lộc tụ về ở thân dậu, do đó canh tân, thân dậu giống nhau. Nhâm sanh ở thân mà chết ở mão, quý sanh ở mão mà chết ở thân, lộc tụ về ở hợi tý, do đó nhâm quý, hợi tý giống nhau. Mậu sanh ở dần mà chết ở dậu, kỷ sanh ở dậu mà chết ở dần, lộc tụ về ở tỵ ngọ, cùng một vị trí với hoả, ý nghĩa con theo mẹ thịnh vượng, nhưng mà thìn tuất sửu mùi mới là đúng vị trí. Bởi vì thiên can và địa chi hợp với nhau thành vợ chồng, sanh khắc chế hoá, vượng tướng hưu tù, tên là ấn, là kiêu, là thực, là thương, là quan, là sát, là tài, là kiếp, hình xung phá hại, hư yêu ám hợp, nên biến hoá vô cùng. Từ Tử Bình nhìn thấu đạo lý này, cho nên chỉ luận tài, quan, ấn, thực chia ra làm sáu cách, nên mệnh người giàu sang, nghèo hèn, thọ yểu, cùng khốn và hiển đạt được nêu ra không ngoài cách cục khác, chẳng qua vốn là suy từ những điều này mà thôi.

论古人立印食官财名义

徐子平论格局,独以印、食、官、财四者为纲。其立名之义云何?盖造化流行天地间,不过阴阳五行而已。阴阳五行,交相为用,不过生克制化而已。今指甲乙为例,以日干论甲乙,在五行属木,甲阳而乙阴也。如人命得甲乙,生谓之日主属我,生我者壬癸水,我生者丙丁火,克我者庚辛金,我克者戊己土,
而十干尽之矣。生我者,有父母之义,故立名印绶。印,荫也。

绶,受也。譬父母有恩德荫庇子孙,子孙得受其福。朝廷设官分职,畀以印绶,使之掌管。官而无印,何所凭据?人无父母,何所怙恃?其理通一无二,故曰印绶。我生者,有子孙之义,故立名食神。食者,如虫之食物,盖伤之也。虫得食物则饱,人得食则益,被食则损造化。以子成而致养,即人子致养父母之道也。故曰食神。克我者,我受制于人之义,故立名官煞。

官者,官也。煞者,害也。朝廷以官与人,以身属之公家,任其驱使,赴汤蹈火,不敢有违,至于盖棺而后已,是官害之也。凡人梦棺而得官,亦是此义,故曰官煞。我克者,是人受制于我之义,故立名妻财,如人成家立产,须得妻室内助,故曰妻财。是四者,术家立名之大义。然生近乎身,克隔乎位,造化喜生恶煞,乃自然之理也。中间阴阳从类,阴阳配合,各有至理存焉。生我,我生,如壬生甲、癸生乙,甲食丙、乙食丁,是阴生阴,阳生阳,阴食阴,阳食阳,为阴阳各从其类,故甲喜壬生死,木滋死水中则多年不坏;不喜癸生死,木被雨水淋漓不逾所则朽。甲喜食丙,以丙能制庚煞,而甲始得安其身;不喜食丁,以丁能伤官,而甲不得成其材。以其义也。克我、我克,如辛克甲,庚克乙,甲克己,乙克戊,是阴克阳,阳克阴,阴匹阳,阳匹阴,乃阴阳配合之理。故甲见辛为正官,见庚为偏官。官喜正,不喜偏,掌印佐贰,职有不同。甲见己为正妻,见戊为偏妻。妻贵正,不贵偏,敌体侍立,分则有别,此其理也。至若官怕伤,被伤则祸,财怕劫,被劫则分;印怕财,贪财则坏;食怕枭,逢枭则夺。其理与人事无二,学者明于人事,斯可以言造化矣。夫五行展转生克,皆子为父母复仇之义。故甲乙生丙丁为子,甲乙畏庚辛,赖丙丁克制之。丙丁生戊己为子,丙定畏壬癸,赖戊己克制之。戊己生庚辛为子,戊己畏甲乙,赖庚辛克制之。庚辛生壬癸为子,庚辛畏丙丁,赖壬癸克制之。壬癸生甲乙为子,壬癸畏戊己,赖甲乙克制之。地支十二,其理亦同,虽动静不同,方圆有异,而生克一也。试言之:北方亥子水,生东方寅卯木,东方寅卯木,生南方巳午火,土寄旺于火,生西方申酉金,西方申酉金,生北方亥子水。然亥子间丑一位而后接寅卯,寅卯间辰一位而后接巳午,巳午间未一位而后接申酉,申酉间戌一位而后接亥子。土立四维,五行均赖。故巳酉合丑为金局,申子合辰为水局,亥卯合未为木局,寅午合戌为火局。金生水,水生木,木生火,火生土,土生金,相生而无间也。丑为金库,生亥子而克寅卯;辰为水库,生寅卯而克巳午;未为木库,生巳午而受金克;戌为火库,克申酉而受水制。东南主生,西北主杀,此天地之大机也。且辰戌丑未,奠安四维,金木水火,咸赖之以生藏。《易》曰:"成言乎艮,终言乎坤。"此土之功用在五行为尤大也。

舍干支而总言之,甲生亥死午,乙生午死亥,就禄于寅卯,是甲乙、寅卯同也。丙生寅死酉,丁生酉死寅,就禄于巳午,是丙丁、巳午同也。庚生巳死子,辛生子死巳,就禄于申酉,是庚辛、申酉同也。壬生申死卯,癸生卯死申,就禄于亥子,是壬癸、亥子同也。戊生寅死酉,己生酉死寅,就禄于巳午,与火同位,子随母旺之义,而辰戌丑未,乃其正位也。由是天干地支,相合配偶,生克制化,旺相休囚,其名为印、为枭、为食、为伤、为官、为煞、为财、为劫,刑冲破害,虚邀暗合,而变化无穷矣。徐子平识破此理,故只论财、官、印、食,分为六格,而人命之富贵、贫贱、寿夭,穷通举不外是其余格局,不过自此而推之耳。



.

Thanked by 1 Member:

#99 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 03/07/2024 - 01:54

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Ngũ

Luận Chánh Quan

Chánh quan là trường hợp giáp thấy tân, ất thấy canh. Âm dương phối hợp, chế phục nhau mà hữu dụng, đạt được đạo lý. Vì thế chánh quan là thủ lãnh của sáu cách, chỉ cho phép có một quan mà thôi, nhiều hơn thì không thích hợp. Chánh quan trước tiên phải xem ở lệnh tháng, sau đó mới xem các trụ còn lại. Vì khí của ngũ hành chỉ có ở lệnh tháng đang lúc nắm quyền là quan trọng, phương chi tứ trụ mỗi trụ quản hạn năm, trụ năm quản mười lăm năm đầu, quá sớm để sai lầm, trụ giờ quản sau năm mươi tuổi, quá trễ để sai lầm. Cho nên chỉ lệnh tháng là đúng đắn, các cách còn lại rập theo đó.
Ngày giáp sanh tháng dậu, ất sanh tháng thân và tỵ, bính sanh tháng tý, đinh sanh tháng hợi, mậu sanh tháng mão, kỷ sanh tháng dần, canh sanh tháng ngọ, tân sanh tháng dần và tỵ, nhâm sanh tháng ngọ, mùi và sửu, quý sanh tháng thìn, tỵ và tuất, đều là chánh khí.
Thêm quan tinh thấu xuất ra ở thiên can, như trường hợp giáp thấy tân dậu, ất thấy canh thân, gọi là chi tàng can thấu, các trụ còn lại không nên gặp lại, phải thêm nhật chủ cường vượng, được cả hai tài và ấn trợ giúp, trong trụ không nên thấy thương quan và sát, vận đi đến nơi của quan thì mệnh rất giàu sang.
Rất kỵ hình, xung, phá, hại, thương quan, thất sát, tham hợp mất quan, kiếp tài chia cắt phúc, như giáp sanh tháng dậu, thấy mão là xung, thấy dậu là hình, thấy ngọ là phá, thấy tuất là hại, thấy bính là hợp, thấy ất là kiếp, thấy đinh là thương quan, là khắc, thấy canh là hỗn tạp, phải là quan tinh thuần nhất, ngũ hành êm thuận chuyên nhất thì mới luận chánh quan.
Nếu thấy kỵ thần trước trong trụ, tuy là có vật khử đi, cũng không gọi là thuần tuý; nếu quan tinh hợp cục, lại có tài giúp đỡ, không đi nơi vượng của thân thì không phát triển. Quan chỉ nên có một hai, không có tài mà có ấn, thân nhược vẫn vô hại. Nếu tứ trụ đều thuộc về bối lộc, nên xem xét tuế vận hơn là hướng đến nơi tài quan vượng. Như thế nào?
Nếu tài quan đầy mắt mà nhật chủ suy yếu thì không thể gánh vác, nỗ lực cũng vô ích, vận đến đất vượng của tài, sát, thường mắc phải bệnh lao phổi, chỉ có thất sát đi vận lại gặp phải chính là mệnh trôi nổi vô ích.
Lại nói giáp sanh tháng dậu: lộc của tân kim, nếu gặp đinh thương quan, địa chi không có cách cục nào, trụ giờ dẫn về nơi suy, bại, tử, tuyệt hoặc có hợp khứ hoả suy, tuyệt, làm sao có thể tổn hại vượng lộc của nó? Nếu trụ giờ dẫn quan tinh đến nơi suy, bại, tử, tuyệt, trái lại dẫn đinh hoả về nơi sanh vượng, hoặc đến đất sát sẽ bị cách chức, tai hoạ xãy đến không ngờ. Trụ giờ là nơi quy tức, tốt xấu hoàn toàn biến hoá ở trụ gờ. Nhật chủ hay dụng thần vượng quá hợp với trụ giờ tiết chế; nhật chủ hay dụng thần dần dần suy yếu, nên có trụ giờ phụ giúp, khuông trợ. Trong trụ tuy có hung thần, trụ giờ có thể tiết chế, cũng không thể thành hoạ. Đây là bí quyết xem mệnh vậy.
Lại nói giáp sanh tháng sửu: trong có tân kim, lại gặp giờ dậu, là mình trùng phạm, nếu thiên can thấu lộ chữ tân nhiều, lại thêm đi về phương tây nên không đủ năng lực sẽ biến quan thành quỷ, nơi thịnh vượng chắc chắn sụp đổ, thường gặp tai hoạ, chết yểu, cần phải có hợp hay chế phục mới được tốt lành. Nếu nhật chủ tự vượng, như các ngày giáp dần, ất mão, có thêm ấn sanh trợ thì quan tinh dù có nhiều cũng chẳng làm hại gì.
Giáp sanh tháng tuất: tuy ngồi ở hoả khố, nhưng nếu không thành cục, không có bè đảng thì không thể thành hoạ.
Lại nói chọn quan tinh không cần thiết phải chấp vào địa chi của tháng, hoặc can tháng, hoặc can chi của năm ngày giờ, chỉ một trụ có mà không từng bị tổn thương, đều có thể chọn để dùng. Cho nên kinh mới nói: can lộ hữu khí thì dùng can lộ, can lộ vô khí thì chọn nơi ngầm. Nếu như thiên can lộ ra mà không có khí, dẫn về địa chi, hoặc có hỗ trợ, vận đi nơi đắc địa, cũng không giảm bớt phúc của quan tinh trong tháng.
Lại nói: hễ luận quan tinh, chỉ thấy một thực thần hiện diện, liền có thể tổn cục, chỉ lộc ẩn ở lệnh tháng, thấy thực thần tức là quý của tam kỳ. Đại yếu xem quan tinh hay thực thần hư hay thật như thế nào? Nếu quan tinh mạnh, mà hợp thần yếu thì thuận theo quan mà trợ quý; còn hợp thần mạnh thì quan tinh dần dần yếu, bởi quan tinh theo hợp thần, gọi là tham hợp vong quan (tham hợp mất quan).
Lại nói: chánh quan cách cần đi nơi ấn, tức là gặp quan thì xem ấn, trong trụ vốn có ấn lập tức xem quan nặng hay nhẹ, can của ngày mạnh hay yếu, để quan sát nguyên nhân của vận: thân nhược mà ấn khinh cần thiết bổ ích cho ấn; thân vượng mà quan khinh cần thiết bổ ích cho quan, đi vận thương quan tức là bối lộc, đi vận thân vượng tức là trục mã (đuổi theo mã).
"Tam Mệnh Linh" nói rằng: nói chung lộc mệnh thân của quan chức bậc ba, mỗi thứ đều nhận ngũ hành, dựa theo bản chất của nó mà suy xét, như kim là quan: địa vị cao quý, trách nhiệm thường quản lý về hình ngục, tiền bạc và lúa gạo, quyết đoán nhanh nhẹn, sáng suốt, gặp năm thái tuế ờ sửu là khố của quan. Nếu quan là mộc, cấp bậc quan lại thanh cao, hoà hợp tập quán, giữ gìn cẩn thận, gặp năm thái tuế ở mùi là khố của quan. Quan là hoả: tước quan lẫy lừng, bản chất dũng mãnh, sử dụng hình phạt tàn ác, cũng tỉnh ngũ bất thường, gặp thái tuế ở tuất là khố của quan. Quan là thuỷ: chức vị thấp kém, thăng tiến theo thứ tự tăng dần, khiêm tốn thuận hợp được số đông, xót thương cô nhi quả phụ, cũng có bản chất đạo đức, gặp thài tuế ở thìn là khố của quan. Quan là thổ: tước quan thoả đáng, khó xâm phạm, đãi ngộ trọng vọng chánh trực, pháp lệnh rõ ràng, gặp thái tuế ở thìn là khố của quan. Nói chung ngũ hành của quan sẽ tốt tuỳ theo bản chất của mỗi hành, nếu lạc mất bản chất thì quan sẽ không được lâu dài.
Một thầy bói ở Tây Thục nói: năm tháng ngày giờ của người thường, bốn can lần lượt nhau có đủ quan và ấn chủ vế quý. Đã từng xem qua mệnh tôn quý, có phần hơi nhiều gặp người có hai ấn như Lữ Cát phụ học sĩ: nhâm thân, kỷ dậu, đinh tỵ, canh tý có nhâm với kỷ và canh với đinh là quan; nhâm với canh và kỷ với đinh là ấn.
Lại nói về xem quan tinh:
- Có thiên quan hương: chọn can tháng chế phục can năm như sáu năm giáp có tháng giêng là bính dần, tháng năm là canh ngọ, tháng sáu là tân mùi thì canh tân có khả năng chế giáp mộc, có mậu quý cùng đi chung, người giáp quý ở ngọ mùi, người ất bính ở thìn tỵ, người đinh mậu ở dần mão, người kỷ canh ở tuất hợi, người tân nhâm ở thân dậu, nếu người nào gặp được thích hợp ăn thiên lộc - (tên một giống thú, ngày xưa hay chạm khắc hình nó như loài rồng phượng), chỗ cao quý cở triều đình.
- Có địa quan hương: chọn tháng chế phục can năm, như can năm là giáp ất thuộc mộc, tháng bảy, tháng tám là thân dậu thuộc kim, kim có thể chế mộc, người giáp ất ở thân dậu, người bính đinh ở hợi tý, người mậu kỷ ở dần mão, người canh tân ở tỵ ngọ, người nhâm quý ở thìn tuất sửu mùi, nếu người nào gặp như vậy chủ sớm được thừa hưởng hưu ấm - (thời xưa, con cháu nhờ tổ tiên có công huân mà được bổ chức quan), quan tước phẩm vị dễ dàng thăng tiến.
- Có chân quan hương: chọn ba can thần trước tháng của mệnh hợp với can của mệnh, như người bính tý sanh tháng hai thì trước mệnh ba thần là tân mão, bính với tân hợp, cho nên người bính tý sanh tháng hai là chân quan, sanh đúng như vậy: quân tử sẽ là người hầu thân cận (của vua); còn tiểu nhân cũng được giàu có. Như ngự sử Lưu Hành Tố: "bính tý, tân mão, bính tý, tân mão" phù hợp với luận thuyết này.
Lại nói rằng: nhà toán mệnh học lấy giáp thấy tân là quan, mà không biết rằng chân ngũ hành khắc nạp âm là chân quan, đây là phúc của nữ giới rất quan trọng. Can đầu vốn thấy quan mà được hợp là tốt nhất, có các thần tới chầu thì rất đẹp. Như sanh giáp dần, nạp âm là thuỷ, được kỷ hợi, giáp kỷ là chân thổ, là nạp âm thấy chân ngũ hành khắc vậy. Nếu không thấy thái tuế, bổn can khắc, nhưng trên trụ ngày tháng và giờ thấy ất canh cũng được. Nếu chỉ thấy can canh gọi là thiên quan, coi như bị giảm bớt sức mạnh. Lại không thấy ất canh mà chỉ thấy ất tỵ, ất sửu, ất dậu, trong các vị trí còn lại chỉ thấy thân, không thấy thân chỉ được ba đến năm phần sức mạnh. Còn lại phỏng theo đó. Lại như kỷ dậu hay kỷ mão thấy đinh nhâm; nhâm tý hay nhâm ngọ thấy ất canh: tuy là nạp âm thấy chân ngũ hành khắc là quan, nhưng khổ nỗi can gốc cũng bị khắc, cho nên không thành chân quan, mà phải đoán là chân quỷ, đại tiểu vận hay lưu niên gặp phải tai hoạ càng nặng. Đây cũng là cách xem quan tinh mà người đời nên hiểu biết.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói: "ngũ hành chánh quan, phải kỵ hình xung khắc phá quan".
"Ngũ Ngôn" nói: " có quan phải có ấn, không bị hình đủ để khoe khoang, không phải khách của điện vàng, cũng là người giàu có".
"Bí Quyết" nói: "quan tinh thấy nhiều lân, chỉ xét theo nghĩa thất sát, lại đi đến đất của quan, tai hoạ khó mà tránh, nếu mà quá nhiều hãy chế phục để thành phúc".
Bài ca xưa hát rằng: "khí của địa chi tháng là chánh quan, thích gặp tài, ấn đến trụ năm, giờ, phá, hại, xung, không vong đều không phạm, báo cho bạn biết cả hai giàu và sang đều có".
Lại thêm: "quan tinh không nên bị hình, xung; quan sát cùng đến tốt biến thành xấu; hoá sát thành quan mới là tốt; hoá quan thành sát hoạ liên miên".
Lại thêm: "đại để quan tinh cần phải thân cường; thân nhược phải tìm nơi vượng khí; ấn thụ thêm đi đất tài vượng, không bị xung thương tổn, phá thì vẻ vang, thịnh vượng".
Lại thêm: "tháng sanh quan tinh ngồi nơi lộc; nhật chủ sanh vượng phúc vô biên; có tài có ấn không bị thương tổn phá; tuổi trẻ thành danh ngồi ngọc điện".
Lại thêm: "tháng gặp chánh lộc hiệu là chân quan, không phạm hình thương lộc rất sung túc; nhật chủ thịnh vượng thì danh lợi vẻ vang, vận gặp tài ấn bước chuông vàng".
Lại thêm: "ấn nhiều quan nhiều là mệnh quý; quan vượng thân suy ngược lại là bệnh; quan nhiều thân vượng hoá thành tài; tài vượng thân suy nghèo và bệnh tụ lại".
Lại thêm: "đại để chánh quan phải thuần (không lẫn lộn) và hoà hợp; tứ trụ không bị thương tổn, cướp đoạt thì thi đậu vẻ vang; trên trụ giờ thích gặp được tài vượng; rất thích trong trụ có ấn sanh nhiều. Chỉ gặp đề cương là chân quý, trụ năm cũng gặp lại là quá nhiều, nơi khác có sát tới thành hỗn tạp; trái lại là nhọc nhằn, lao khổ phải chạy vạy khổ sở". Hợp các luận thuyết lại thành chánh quan hỷ kỵ kiến vậy.

论正官

正官者,乃甲见辛、乙见庚之例。阴阳配合,相制有用,成其道也。故正官为六格之首,止许一位,多则不宜。正官先看月令,然后方看其余。以五行之气,惟月令当时为最,况四柱各管年限,年管十五,失之太早,时管五十后,失之太迟。故只此月令为正,余格例此。甲日生酉月,乙生申巳,丙生子,丁生亥,戊生卯,己生寅,庚生午,辛生寅巳,壬生午未丑,癸生辰巳戌月,皆为正气。官星更天干透出,如甲见辛酉,乙见庚申之例,谓之支藏干透,余位不宜再见,又须日主健旺,得财印两扶,柱中不见伤煞,行运引至官乡,大富大贵命也。大忌刑冲破害、伤官七煞、贪合忘官、劫财分福,为破格。如甲生酉月,见卯为冲、酉为刑、午为破、戌为害、丙为合、乙为劫、丁为伤克、庚为混杂、须是官星纯一,五行和粹,方以正官论。若见前忌柱中,虽有物去之,亦不纯粹,若官星结局,又有财资扶,非行身旺地不发。官止一二,无财有印,身弱无妨,若四柱皆归背禄,宜推岁运向背财官旺地。何如?若财官满目,日主衰弱,不能负荷,徒劳无用,运至财煞旺乡,多染痨瘵,但有七煞行运复遇,便是徒流之命。又曰甲生酉月,辛金正禄,若见丁伤,支中无局,时引归衰败死绝之地,或有制合去之衰绝之火,岂能伤其旺禄。若时引官星临衰败死绝之位,反引丁火归生旺之乡或临煞地,降官失职,祸生无疑。时为归息之地,吉凶全在时消息。日主用神太盛,宜时以节制之;日主用神渐衰,宜时以补助之。柱中虽有凶神,时能节制,亦不能为祸。此看命之要法也。又曰甲生丑月,内有辛金,又值酉时,己是重犯,若天干复透辛多,更行西方,力不胜任,变官为鬼,旺处必倾,多致灾夭,须有合制方吉。若自身乘旺,如甲寅、乙卯等日,更有印生助,官星虽多亦不为害。甲生戌月,虽坐火库,若不成局,无党不能为害。又曰取官星不必专泥月令支辰,或月干,或年日时支干,只一处有,不曾损伤,皆可取用。故经云:明干有气明干取,明干无气暗中取。若明干无气,引归地支,或有助托,运行得地,亦不减月内官星之福。又曰凡论官星,略见一位食神坐实,便能损局,惟月令隐禄,见食却为三奇之贵。大要看官食虚实何如,若官星坐实,合神略虚,随官助贵;合神坐实,官星渐弱,官随合神,谓之贪合忘官。又曰正官格,要行印乡,即是逢官看印,柱中原有印随,官因轻重,日干强弱,以观所以之运,身弱印轻,要补其印,身旺官轻,要补其官,行伤官运即是背禄,行身旺运即是逐马。《三命铃》云:凡禄命身三等官,各禀五行,率以其性推之,如以金为官,职位清峻,多掌刑狱钱谷之任,决断明敏,遇行年太岁在丑为官库。若以木为官主,品秩清高,和俗守慎,遇行年太岁在未为官库。以火为官主,官序炎赫,为性猛烈,用刑惨酷,亦主发歇不常,遇行年太岁在戌为官库。以水为官主,职卑位下,级升序进,谦和得众,矜恤孤寡,亦有道性,遇行
年太岁在辰为官库。以土为官主,官序稳当,难侵犯,厚重质直,法令分明,遇行年太岁在辰为官库。凡五行之官,各随其性则吉,若失其性,则主为官不久。西蜀知命者云:凡人年月日时,四干迭相,官印足者,主贵。历观大命,遇两印者颇多,如吕吉甫学士,壬申、己酉、丁巳、庚子,壬与己,庚与丁为官,壬与庚、己与丁为印。又云:看官星,有天官乡,取月干制岁干,如六甲年正月建丙寅,五月庚午,六月辛未,庚辛金能制甲木,戊癸即相带而行,甲癸人在午未,乙丙人在辰巳,丁戊人在寅卯,己庚人在戌亥,辛壬人在申酉,若人遇之,当食天禄,贵处朝伦。有地官乡,取月建制岁干,如岁干是甲乙,属木,七八月见申,属金,金能制木,甲乙人在申酉,丙丁人亥子,戊己人在寅卯,庚辛人在巳午,壬癸人在辰戌丑未,若人遇之,主早承休荫,官序易升。有真官乡,取命前三辰月干与命干合,如丙子人二月生,为命前三辰是辛卯,丙与辛合,故丙子二月生人为真官,中生之类,君子遇之,职居近侍,小人遇之,亦主富豪。如刘行素御史,丙子、辛卯、丙子、辛卯,正合此说。又云:术者以甲见辛为官,不知真五行克纳音为真官,此最紧福坤。干头自见官而得合者为上,有诸神来朝者最佳。如甲寅生,纳音水,得己亥,甲己为真土,是纳音见真五行克也。若不见太岁本干克,但于日月时上见乙庚亦是。若止见庚,谓之偏官,比之全者减力,又不见乙庚,止见乙巳、乙丑、乙酉,余位中多见申,不见申止得三五分力,余仿此。又如己酉、己卯见丁壬,壬子、壬午见乙庚,虽纳音见真五行克为官,奈本干同受克,故不作真官,而作真鬼断之,大小运流年逢之,灾尤重。此亦看官星者所当知。《喜忌篇》云:"五行正官,忌冲刑克破之官。"《五言》云:"有官要有印,无刑足可夸,不为金殿客,也作富豪家。"《秘诀》云:"官星重见,只作煞推,再至官乡,灾非难免,若是太多,制之为福。"古歌云:"正气官星用月支,喜逢财印到年时,破害冲空俱不犯,富贵双全报尔知。"又:"官星不可被刑冲,官煞同来吉变凶,化煞为官方是吉,化官为煞祸重重。"又"官星大抵 要身强,身弱须求气旺方,印绶兼行财旺地,无冲伤破是荣昌。"又:"生月官星坐禄乡,日辰生旺福无疆,有财有印无伤破,年少成名坐玉堂。"又:"月逢正禄号真官,不犯刑伤禄最宽,日主兴隆名利显,运逢财印步金銮。"又:"印多官多为贵命,官旺身衰反为病,官多身旺化为财,财旺身衰贫病并。"又:"正官大抵要纯和,四柱无伤掇显科,时上喜逢财健旺,柱中欣见印生多。提纲独遇为真贵,年位重逄乃太多,别处若有煞来混,反为辛苦受奔波。"合诸说,观正官喜忌见矣。



.

Thanked by 1 Member:

#100 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 03/07/2024 - 06:00

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Ngũ

Thiên Phúc Quý Nhân

Gọi là chỗ ngồi của quan tinh, thấy lộc như thấy người, có quan thì có lộc, chớ chẳng phải phải là phúc trời. Người giáp lấy tân làm quan, tân thì lộc ở dậu, vì thế trường hợp người giáp gặp dậu, người ất gặp thân. Giáp dùng tân quan, trụ có tân dậu, thêm được phúc thần trợ giúp, sanh vương, hữu khí thì tốt đẹp. Còn có một tên là lộc can phúc thần, người gặp được chủ có địa vị danh tiếng cao lớn đồ sộ, chức quan đáng kính trọng, phần nhiều quản lý việc văn chương bút mực tốt đẹp.

天福贵人

谓官星坐处,见禄如人,有官有禄,莫非天福。甲生人以辛为官,辛禄在酉,是以甲人见酉,乙人见申之例。甲用辛官,柱有辛酉,更得福神助之,生旺有气为佳。一名禄干福神,遇者主科名巍峨,官职尊崇,多掌丝纶文翰之美。


.

Thanked by 1 Member:

#101 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 03/07/2024 - 06:20

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Ngũ

Thiên Nguyên Tác Lộc

Kinh sách nói rằng: kim nếu mà gặp hoả, thì có sức mạnh to lớn, quan sử thần phòng ngự (như các ngày canh ngọ, canh dần, canh tuất, tân tỵ, tân mùi). Thuỷ nếu gặp thổ, tham dự vào quan cục, có thể đạt được bỗng lộc của quan thị lang (như các ngày nhâm ngọ, nhâm tuất, quý tỵ, quý sửu, quý mùi). Mộc nếu gặp kim, chủ thương tổn, suy tàn và hoá thành sát, là sức mạnh như sấm sét (như các ngày giáp thân, giáp tuất, ất tỵ, ất dậu, ất sửu). Hoả nếu gặp thuỷ, chủ sức mạnh quân sự, là tướng trấn giử biên cương (như các ngày bính thân, bính tý, bính thìn, đinh hợi, đinh sửu). Thổ nếu gặp mộc là phúc lành của chánh lộc, bát toạtam thai (như các ngày mậu dần, mậu thìn, kỷ mão, kỷ mùi, kỷ hợi). Đó là cách cách cần thiết của bạch hổ trì thế, nhật chủ với quan quý ở trong chòi canh gác, chẳng may khô héo thì không thành phúc lành, rất kỵ hình, xung, phá, hại, tổn hại quý khí thì không thành cách. Như ngày canh ngọ, ngồi chỗ đinh quan, thích thấy giáp ất tài sanh quan, mậu kỷ ấn sanh thân; kỵ bính sát làm hỗn loạn quan, quý thuỷ là thương quan, tý xung phá ngọ. Các can còn lại xét theo tiêu chuẩn đó. Lại nói: nhật chủ vốn là tự tạo ra quan tinh, không sợ xung, ví như vật cầm trong tay không có lý gì để bị lấy đi, chủ là người lanh lợi, háo sắc. có kế hoạch quyền biến, nếu chỉ một vị ở dưới trụ ngày phải đi vận tài, quan mới phát triễn, nếu tháng sanh đới lộc địa chi là tài, quan, giờ sanh đắc địa, mới thật sự là quý. Ngày nhâm ngọ là lộc mã cùng một nơi, gặp thêm giờ canh tuất thì tuyệt diệu. Nhâm vốn ngồi ở lộc, có canh tân chế phục giáp ất, khiến nhâm được kỷ thổ là quan quý. Như ngày mậu thìn, ất mộc trong thìn là quan của mậu, sanh mùa xuân rất quý, còn sanh mùa thu chỉ là danh dự ảo, không có lộc. Bài ca xưa hát rằng: ngồi trên quan tinh rất là đặc biệt, thường do phúc trạch của tổ tiên để lại mà được căn cơ, nếu lại đi đến nơi ấn xưa cũ, cởi bỏ áo đen (chỉ thường dân) đổi thành áo tím (chỉ quan).

天元作禄
经云:金若遇火,有重权,防御刺史臣(如庚午、庚寅、庚戌、辛巳、辛未等日)。水若遇土,入官局,可沾侍郎禄(如壬午、壬戌、癸巳、癸丑、癸未等日)。木若遇金,主伤衰化煞,为权势若雷(如甲申、甲戌、乙巳、乙酉、乙丑等日)。火若遇水,主兵权,为将镇三边(如丙申、丙子、丙辰、丁亥、丁丑等日)。土若遇木,为正禄八座三台福(如戊寅、戊辰、己卯、己未、己亥等日)。此即白虎持世等格要,日主与官贵相亭,偏枯则不成造化,大忌刑冲破害,伤损贵气,不成格矣。如庚午日,坐丁官,喜见甲乙财生官,戊己印生身;忌丙煞杂官,癸水伤官,子冲破午。余干例推。又曰:日主自作官星,不大忌冲,譬执物在手,无可夺之理,主为人伶俐好色,机变有谋,若只日下一位,行财官运方发,若生月带禄,支坐财官,生时得地,方为真贵。壬午日是禄、马同乡,更逢庚戌时为妙。壬自坐禄,有庚辛制甲乙,使壬得己土,为官贵。如戊辰日,辰中乙木为戊之官,春生贵重,秋生虚誉,无禄。古歌曰:座下官星最是奇,多因祖荫见根基,若还行往印乡去,脱去青衣换紫衣。


.

Thanked by 1 Member:

#102 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 03/07/2024 - 09:13

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Ngũ

Tuế Đức Chánh Quan

Chọn can chi là quan trên trụ năm là tuế đức, luận hỷ kỵ giống với chánh quan của lệnh tháng. Gặp điều này chắc là sanh ra từ dòng dõi quan chức, hoặc là kế thừa việc quan của tố phụ, nếu tháng ở nơi tài quan, vận đi theo nơi tài quan vượng, nhật chủ cường vượng, thì quý không nghi ngờ. Nói chung can trụ năm gặp quan thì phúc khí thật lớn, sớm phát đạt. Như quý dậu, canh thân, bính tý, bính thân quan tinh trên trụ năm, trong trụ hội quan cục, quy lộc ở chi ngày, bính khắc thân dậu thành tài quan song mỹ, có hai can bính nên thân vượng, mười bảy tám vận đi mậu ngọ, tuy là ngọ xung tý, do thân tý đã hội cục nên xung cũng không chuyển động được, nhật chủ vượng, thi đậu sớm khai mở. Bài ca xưa hát rằng: chánh lộc trong trụ năm là gốc nẩy mầm, chắc rằng được sanh ra trong nhà giàu sang, vận khí thích gặp nơi thân vượng, tài sanh ấn phù trợ phúc vô tận. Lại nói thêm: quan tinh trên trụ năm là tuế đức, thích gặp được tài ấn vượng cung thân, không gặp thất sát, thiên quan thì phú quý vinh hoa bao la.

岁德正官

取年上干支官为岁德,喜忌与月令正官同论。遇此必生宦族,或荫袭祖父之职,若月居财官分野,运向财官旺地,日主健旺,贵无疑矣。凡年干遇官,福气最重,发达必早。如癸酉、庚申、丙子、丙申,年上官星,柱中会官局,归禄日下,丙克申酉金为财官双美,二丙身旺,十七八运行戊午,虽午冲子,申子会局,冲不能动,日主并旺,及第早发。古歌云:年中正禄是根芽,必主生身富贵家,运气喜逢身旺地,财生印助福无涯。又:年上官星为岁德,喜逢财印旺身宫,不逢七煞偏官位,富贵荣华莫与京。


.

Thanked by 1 Member:

#103 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 03/07/2024 - 09:21

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Ngũ

Thời Thượng Chánh Quan

Như trường hợp ngày giáp giờ dậu, tân, ngày ất giờ thân, canh. Quan tinh trên trụ giờ với trụ tháng giống nhau, chỉ sức lực nhẹ hơn, thường phát phúc ở tuổi già, có thể sanh con có đức hạnh, cần phải có ấn phù trợ. Bài ca xưa hát rằng: chánh quan dùng được không cần nhiều, nhiều sẽ tổn thân ít thì hoà hợp, ngày vượng lại được ấn thụ sanh, nhất định bước đi bằng phẳng được đề bạt thứ bậc cao.

时上正官

如甲日酉辛时,乙日申庚时例。时上官星与月亦同,但力轻微,发福多在晚年,或生贤子,要有印助。古歌云:正官有用不须多,多则伤身少则和,日旺再逢生印绶,定须平步擢高科。


.

Thanked by 1 Member:

#104 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 03/07/2024 - 09:29

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Ngũ

Quan Ấn Lộc Khố

Kinh sách nói rằng: quan thấy kho lộc gặp tài, vàng ngọc từ trời đến. Như là giáp ất gặp ất sửu, bính đinh gặp canh ngọ, mậu kỷ gặp nhâm thìn, canh tân gặp ất mùi, nhâm quý gặp bính tuất. Có một mệnh đinh sửu tân hợi quý dậu nhâm tuất quý lấy bính làm tài, tuất là kho tài, lấy mậu làm quan, trong tuất có mậu thổ vượng, kho tài sanh trợ, dậu là ấn của quý, sửu là khố của ấn, tài quan ấn đều gặp khố vượng, không bị xung phá nên cao quý.

官印禄库

经云:官中见禄库逢财,金玉自天来。如甲乙逢乙丑,丙丁逢庚午,戊己逢壬辰,庚辛见乙未,壬癸逢丙戌是也。一命丁丑、辛亥、癸酉、壬戌,癸用丙为财,戌为财库,用戊为官,戌中戊土正旺,财库生助,酉为癸印,丑为印库,财官印俱逢库旺,无冲破,为贵。


.

Thanked by 1 Member:

#105 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8365 Bài viết:
  • 6128 thanks

Gửi vào 03/07/2024 - 09:39

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Ngũ

Tương Hình Ngộ Quý

Kinh sách nói rằng: ngày giờ hình nhau được gặp quý nhân, chấp hành luật pháp có quyền thế. Lại nói rằng: dần hình tỵ, tỵ hình thân, canh tân gặp dần là quý nhân; mão hình tý, tý hình mão, cả hai quý ất đươc phong phú và liêm khiết; mùi hình tuất, tuất hình mùi, giáp mậu gặp dê quý tự vinh hoa, không lợi cho quan văn mà chủ về vũ quyền. Như thượng thư Lưu Ứng Tiết: quý mùi ất mão bính tuất mậu tý tý mão hình nhau mà được ất quý, mùi tuất hình nhau mà được mậu, cho nên quan binh hình rõ ràng, cho dù tiếng là quan văn mà không ở bên văn chương bút mực.

相刑遇贵

经云:日时相刑得遇贵,执法有权势。又云:寅刑巳,巳刑申,庚辛逢寅是贵人;卯刑子,子刑卯,癸乙双双富又清;未刑戌,戌刑未,甲戊逢羊贵自荣,不利文官主武权。如刘应节尚书:癸未、乙卯、丙戌、戊子,子卯刑而得乙癸,未戌刑而得戊,所以官历兵、刑,纵有文名,不居学翰。


.

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

14 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 14 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |