3
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》
Viết bởi FM_daubac, 25/06/24 05:20
413 replies to this topic
#61
Gửi vào 28/06/2024 - 12:03
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Kiếp Sát vong Thần
Kiếp là: cướp, cưỡng lấy, từ bên ngoài cướp gọi là đoạt; vong là: mất, từ bên trong mất gọi là vong. Kiếp ở tại ngũ hành tuyệt xứ, vong ở tại ngũ hành lâm quan, đều thuộc dần, thân, tỵ, hợi. Thuỷ tuyệt ở tỵ, thân tý thìn lấy tỵ làm kiếp sát, trong tỵ có mậu thổ, bức bách thuỷ. Hoả tuyệt ở hợi, dần ngọ tuất lấy hợi làm kiếp sát, trong hợi có nhâm thuỷ bức bách hoả. Kim tuyệt ở dần, tỵ dậu sửu lấy dần làm kiếp sát, trong dần có bính hoả, bức bách kim. Mộc tuyệt ở thân, hợi mão mùi lấy thân làm kiếp sát, trong thân có canh kim bức bách mộc. Bài hát xưa hát rằng: " kiếp sát là tai hoạ không đương nổi, chạy theo danh lợi chỉ uổng công; phải phòng tài sản tiêu mất hết, vợ con làm sao được lâu bền?" Lại thêm: "bốn nơi gặp sanh kiếp lại đến, đang hăng say nghề làm ra vẻ học giả đổ đầu; nếu gồm cả quan quý ở trên trụ giờ, cương trực nổi tiếng có tài là quan ngự sử. Lại thêm: "kiếp thần bao bọc gặp quan tinh, chủ nắm binh quyền giúp vua ; không giận mà oai khiến người ngưỡng mộ, cần làm cho Hoa Hạ được yên ổn, thịnh vượng". Lại thêm: "kiếp sát vốn là đứng đầu sát, cung thân mệnh chớ nên có nó; nếu là khôi cục coi như chết, sao sát đến rồi chẳng thể sai. Nếu như không có sao ở đây, trái lại sẽ xếp đặt tỉ mỉ theo tam hợp; thiên bàn thêm nhiều hung tinh đến, mệnh như chiếc đèn gió sớm bị huỷ hoại". Thuỷ sanh mộc: thân tý thìn lấy hợi làm vong thần, trong hợi có giáp mộc, tiết khí thuỷ. Hoả sanh thổ: dần ngọ tuất lấy tỵ làm vong thần, trong tỵ có mậu thổ tiết khí hoả. Kim sanh thuỷ: tỵ dậu sửu lấy thân làm vong thần, trong thân có nhâm thuỷ, tiết khí kim. Mộc sanh hoả: hợi mão mùi lấy dần làm vong thần, trong dần có bính hoả, tiết khí mộc. Bài hát xưa hát rằng: "vong thần là thất sát hoạ chẳng nhẹ, dùng hết mọi cách vẫn không thành; khắc con hình vợ không tài sản, làm quan giống như ngại hư danh". Lại thêm: "cung mệnh nếu mà gặp vong thần, cần phải trường sanh gặp quý nhân; ngày giờ gồm cả thiên địa hợp, giặc cướp cúi mình làm tôi vua". Lại thêm: "tất cả đều nói thất sát là vong thần, chớ nói rằng vong thần hoạ chẳng nhẹ; thân mệnh nếu mà đóng nơi đây, nghèo khổ khó khăn suốt cả đời. Sao xấu, sao ác ghé vào đây, đại hạn như bước trên băng mỏng; tam hợp phài xét thêm rõ ràng, sát tới, kế bên, thật khó khăn.
论劫煞亡神
劫者,夺也,自外夺之之谓夺;亡者,失也,自内失之之谓亡。劫在五行绝处,亡在五行临官,俱属寅申巳亥。水绝在巳,申子辰以巳为劫煞,巳中戊土,劫水也。火绝在亥,寅午戌以亥为劫煞,亥中壬水,劫火也。金绝在寅,巳酉丑以寅为劫煞,寅中丙火,劫金也。木绝在申,亥卯未以申为劫煞,申中庚金,劫木也。古歌云:"劫煞为灾不可当,徒然奔走名利场;须防祖业消亡尽,妻子如何得久长。"又云:"四位逢生劫又来,当朝振业逞儒魁;若兼官贵在时上,鲠直名标御史台。"又云:"劫神包裹遇官星,主执兵权助圣明;不怒而威人仰慕,须令华夏悉安荣。"又云:"劫煞原来是煞魁,身宫命主不须来;若为魁局应当死,煞曜临之不必猜。若是无星居此位,更于三合细推排;天盘加得凶星到,命似风灯不久摧。"水生木,申子辰以亥为亡神,亥中甲木、泄水也。火生土,寅午戌以巳为亡神,巳中戊土,泄火也。金生水,巳酉丑以申为亡神,申中壬水,泄金也。木生火,亥卯未以寅为亡神,寅中丙火,泄木也。古歌云:"亡神七煞祸非轻,用尽机关一不成;克子刑妻无祖业,仕人犹恐有虚名。"又云:"命宫若也值亡神,须是长生遇贵人;时日更兼天地合,匪躬蹇蹇作王臣。"又云:"皆言七煞是亡神,莫道亡神祸非轻;身命若还居此地,贫 穷蹇滞过平生。凶星恶曜如临到,大限浑如履薄冰;三合更须明审察,煞来夹拱必难行。"
.
Luận Kiếp Sát vong Thần
Kiếp là: cướp, cưỡng lấy, từ bên ngoài cướp gọi là đoạt; vong là: mất, từ bên trong mất gọi là vong. Kiếp ở tại ngũ hành tuyệt xứ, vong ở tại ngũ hành lâm quan, đều thuộc dần, thân, tỵ, hợi. Thuỷ tuyệt ở tỵ, thân tý thìn lấy tỵ làm kiếp sát, trong tỵ có mậu thổ, bức bách thuỷ. Hoả tuyệt ở hợi, dần ngọ tuất lấy hợi làm kiếp sát, trong hợi có nhâm thuỷ bức bách hoả. Kim tuyệt ở dần, tỵ dậu sửu lấy dần làm kiếp sát, trong dần có bính hoả, bức bách kim. Mộc tuyệt ở thân, hợi mão mùi lấy thân làm kiếp sát, trong thân có canh kim bức bách mộc. Bài hát xưa hát rằng: " kiếp sát là tai hoạ không đương nổi, chạy theo danh lợi chỉ uổng công; phải phòng tài sản tiêu mất hết, vợ con làm sao được lâu bền?" Lại thêm: "bốn nơi gặp sanh kiếp lại đến, đang hăng say nghề làm ra vẻ học giả đổ đầu; nếu gồm cả quan quý ở trên trụ giờ, cương trực nổi tiếng có tài là quan ngự sử. Lại thêm: "kiếp thần bao bọc gặp quan tinh, chủ nắm binh quyền giúp vua ; không giận mà oai khiến người ngưỡng mộ, cần làm cho Hoa Hạ được yên ổn, thịnh vượng". Lại thêm: "kiếp sát vốn là đứng đầu sát, cung thân mệnh chớ nên có nó; nếu là khôi cục coi như chết, sao sát đến rồi chẳng thể sai. Nếu như không có sao ở đây, trái lại sẽ xếp đặt tỉ mỉ theo tam hợp; thiên bàn thêm nhiều hung tinh đến, mệnh như chiếc đèn gió sớm bị huỷ hoại". Thuỷ sanh mộc: thân tý thìn lấy hợi làm vong thần, trong hợi có giáp mộc, tiết khí thuỷ. Hoả sanh thổ: dần ngọ tuất lấy tỵ làm vong thần, trong tỵ có mậu thổ tiết khí hoả. Kim sanh thuỷ: tỵ dậu sửu lấy thân làm vong thần, trong thân có nhâm thuỷ, tiết khí kim. Mộc sanh hoả: hợi mão mùi lấy dần làm vong thần, trong dần có bính hoả, tiết khí mộc. Bài hát xưa hát rằng: "vong thần là thất sát hoạ chẳng nhẹ, dùng hết mọi cách vẫn không thành; khắc con hình vợ không tài sản, làm quan giống như ngại hư danh". Lại thêm: "cung mệnh nếu mà gặp vong thần, cần phải trường sanh gặp quý nhân; ngày giờ gồm cả thiên địa hợp, giặc cướp cúi mình làm tôi vua". Lại thêm: "tất cả đều nói thất sát là vong thần, chớ nói rằng vong thần hoạ chẳng nhẹ; thân mệnh nếu mà đóng nơi đây, nghèo khổ khó khăn suốt cả đời. Sao xấu, sao ác ghé vào đây, đại hạn như bước trên băng mỏng; tam hợp phài xét thêm rõ ràng, sát tới, kế bên, thật khó khăn.
论劫煞亡神
劫者,夺也,自外夺之之谓夺;亡者,失也,自内失之之谓亡。劫在五行绝处,亡在五行临官,俱属寅申巳亥。水绝在巳,申子辰以巳为劫煞,巳中戊土,劫水也。火绝在亥,寅午戌以亥为劫煞,亥中壬水,劫火也。金绝在寅,巳酉丑以寅为劫煞,寅中丙火,劫金也。木绝在申,亥卯未以申为劫煞,申中庚金,劫木也。古歌云:"劫煞为灾不可当,徒然奔走名利场;须防祖业消亡尽,妻子如何得久长。"又云:"四位逢生劫又来,当朝振业逞儒魁;若兼官贵在时上,鲠直名标御史台。"又云:"劫神包裹遇官星,主执兵权助圣明;不怒而威人仰慕,须令华夏悉安荣。"又云:"劫煞原来是煞魁,身宫命主不须来;若为魁局应当死,煞曜临之不必猜。若是无星居此位,更于三合细推排;天盘加得凶星到,命似风灯不久摧。"水生木,申子辰以亥为亡神,亥中甲木、泄水也。火生土,寅午戌以巳为亡神,巳中戊土,泄火也。金生水,巳酉丑以申为亡神,申中壬水,泄金也。木生火,亥卯未以寅为亡神,寅中丙火,泄木也。古歌云:"亡神七煞祸非轻,用尽机关一不成;克子刑妻无祖业,仕人犹恐有虚名。"又云:"命宫若也值亡神,须是长生遇贵人;时日更兼天地合,匪躬蹇蹇作王臣。"又云:"皆言七煞是亡神,莫道亡神祸非轻;身命若还居此地,贫 穷蹇滞过平生。凶星恶曜如临到,大限浑如履薄冰;三合更须明审察,煞来夹拱必难行。"
.
#62
Gửi vào 28/06/2024 - 12:21
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Dương Nhận
"Tam Xa" cho rằng: "dương là nói về cứng cỏi, mạnh mẽ, nhận nghĩa là giết, mổ". Vượt qua lộc thì nhận sanh ; công việc thành tựu nên rút lui không rút lui sẽ quá (lỗi), vượt qua nó đến chỗ dương nhận, báo cho biết có sự thương tổn. Cho nên dương nhận thường ở trước lộc một thần. Hy Duẫn nói: "cái lý của âm dương vạn vật, tất cả đều ghét uy thế lớn lao". Khi đến cực điểm: nơi hoả sẽ cháy, nước ngập sẽ trào dâng, kim cạn kiệt sẽ gãy, thổ thiếu sót sẽ sạt lở, mộc chia cắt sẽ bẻ gãy, cho nên đã thành mà chưa đến cực điểm sẽ là phúc lành, còn đã đến cực điểm sẽ ngược lại thành hung xấu. Nơi cực điểm là chỗ chánh vị của mười thiên can. Mão là chánh vị của giáp, là cực điểm của dương mộc; thìn là chánh vị của ất, là cực điểm của âm mộc; ngọ là chánh vị của bính, là cực điểm của dương hoả; mùi là chánh vị của đinh, là cực điểm của âm hoả; dậu là chánh vị của canh là cực điểm của dương kim; tuất là chánh vị của tân, là cực điểm của âm kim; tý là chánh vị của nhâm, là cực điểm của dương thuỷ; sửu là (có lẽ thiếu một đoạn: chánh vị của quý cực điểm của âm thuỷ). Ngọ thì mã ở thân, canh lộc ở thân, ất tỵ thì quý ở thân, canh dương nhận ở dậu, tức là ất tỵ quý nhân chọn giáp thân làm dịch mã mà dương nhận biểu hiện ở phía trước, cho nên nói lãm bí trừng thanh (nắm cương ngựa để yên định). Cách này thường là quan liêm khiết và nghiêm khắc. Nếu như có thêm tốt lành, thường là quan lại độc ác, có khả năng kiểm soát người gian dối, quỷ quyệt. Tử bình lấy năm can dương là: giáp bính mậu canh nhâm có nhận; còn năm can âm ất đinh kỷ tân quý thì không có nhận, chỉ gặp thương quan; cùng với dương nhận hoạ giống nhau, là chỉ chữ dương của âm dương, chẳng phải chữ dương của ngưu dương. Ý nghĩa của nó sẽ gặp sau trong cách luận dương nhận.
论羊刃
《三车》云:"羊言刚也,刃者取宰割之义。"禄过则刃生;功成当退不退则过,越其分如羊之在刃,言有伤也。故羊刃常居禄前一辰。希尹曰:"阴阳万物之理,皆恶权盛。"当
其极,处火则焦,灭水则涌,竭金则折,缺土则崩,裂木则摧折,故既成而未极,则为福,已极则将反而为凶。极盛之地,十干中正处是也。卯者,甲之正位,为阳木之极;辰者,乙之正位,为阴木之极;午者,丙之正位,为阳火之极;未者,丁之正位,为阴火之极;酉者,庚之正位,为阳金之极;戌者,辛之正位,为阴金之极;子者,壬之正位,为阳水之极;丑者,午马在申,庚禄在申,乙巳贵在申,庚羊刃在酉,却乙巳贵人取甲申为驿马而前视羊刃,故曰揽辔澄清。此格多为清严之官。若更有吉类,多为酷吏,能制奸宄。子平以甲丙戊庚壬五阳干有刃,乙丁巳辛癸五阴干无刃,惟见伤官;与羊刃同祸,是指阴阳之阳,非牛羊之羊。其义见后论阳刃格中。
.
Luận Dương Nhận
"Tam Xa" cho rằng: "dương là nói về cứng cỏi, mạnh mẽ, nhận nghĩa là giết, mổ". Vượt qua lộc thì nhận sanh ; công việc thành tựu nên rút lui không rút lui sẽ quá (lỗi), vượt qua nó đến chỗ dương nhận, báo cho biết có sự thương tổn. Cho nên dương nhận thường ở trước lộc một thần. Hy Duẫn nói: "cái lý của âm dương vạn vật, tất cả đều ghét uy thế lớn lao". Khi đến cực điểm: nơi hoả sẽ cháy, nước ngập sẽ trào dâng, kim cạn kiệt sẽ gãy, thổ thiếu sót sẽ sạt lở, mộc chia cắt sẽ bẻ gãy, cho nên đã thành mà chưa đến cực điểm sẽ là phúc lành, còn đã đến cực điểm sẽ ngược lại thành hung xấu. Nơi cực điểm là chỗ chánh vị của mười thiên can. Mão là chánh vị của giáp, là cực điểm của dương mộc; thìn là chánh vị của ất, là cực điểm của âm mộc; ngọ là chánh vị của bính, là cực điểm của dương hoả; mùi là chánh vị của đinh, là cực điểm của âm hoả; dậu là chánh vị của canh là cực điểm của dương kim; tuất là chánh vị của tân, là cực điểm của âm kim; tý là chánh vị của nhâm, là cực điểm của dương thuỷ; sửu là (có lẽ thiếu một đoạn: chánh vị của quý cực điểm của âm thuỷ). Ngọ thì mã ở thân, canh lộc ở thân, ất tỵ thì quý ở thân, canh dương nhận ở dậu, tức là ất tỵ quý nhân chọn giáp thân làm dịch mã mà dương nhận biểu hiện ở phía trước, cho nên nói lãm bí trừng thanh (nắm cương ngựa để yên định). Cách này thường là quan liêm khiết và nghiêm khắc. Nếu như có thêm tốt lành, thường là quan lại độc ác, có khả năng kiểm soát người gian dối, quỷ quyệt. Tử bình lấy năm can dương là: giáp bính mậu canh nhâm có nhận; còn năm can âm ất đinh kỷ tân quý thì không có nhận, chỉ gặp thương quan; cùng với dương nhận hoạ giống nhau, là chỉ chữ dương của âm dương, chẳng phải chữ dương của ngưu dương. Ý nghĩa của nó sẽ gặp sau trong cách luận dương nhận.
论羊刃
《三车》云:"羊言刚也,刃者取宰割之义。"禄过则刃生;功成当退不退则过,越其分如羊之在刃,言有伤也。故羊刃常居禄前一辰。希尹曰:"阴阳万物之理,皆恶权盛。"当
其极,处火则焦,灭水则涌,竭金则折,缺土则崩,裂木则摧折,故既成而未极,则为福,已极则将反而为凶。极盛之地,十干中正处是也。卯者,甲之正位,为阳木之极;辰者,乙之正位,为阴木之极;午者,丙之正位,为阳火之极;未者,丁之正位,为阴火之极;酉者,庚之正位,为阳金之极;戌者,辛之正位,为阴金之极;子者,壬之正位,为阳水之极;丑者,午马在申,庚禄在申,乙巳贵在申,庚羊刃在酉,却乙巳贵人取甲申为驿马而前视羊刃,故曰揽辔澄清。此格多为清严之官。若更有吉类,多为酷吏,能制奸宄。子平以甲丙戊庚壬五阳干有刃,乙丁巳辛癸五阴干无刃,惟见伤官;与羊刃同祸,是指阴阳之阳,非牛羊之羊。其义见后论阳刃格中。
.
#63
Gửi vào 29/06/2024 - 06:08
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Không Vong
Không (trống rỗng) đối với thật, "vong" (mất) đối với có. "Thần Bạch Kinh" cho rằng: "không vong không vong có nhiều loại, mười thiên can không đến xem là không". "Đỗng Huyền Kinh" cho rằng: "ẩn đến tận cùng nên vong sanh". Cho nên lấy tuần giáp đến cuối cùng gọi là không vong, bởi là nơi đây thì không có lộc, gọi là không; có địa chi mà không có thiên can, gọi là vong. Như giáp tý di chuyển đến dậu có đủ mười thiên can, cho nên không có tuất hợi, năm can giáp còn lại theo quy định là không vong. Nhưng không mà có thật, vong mà còn tồn tại, cho nên không thể lập tức bàn luận hung xấu. "Lạc Lục Tử" luận không vong cho rằng: năm dương lệnh dùng tất cả dương, năm âm lệnh dùng tất cả âm. Như giáp tý, bính dần, mậu thìn, canh ngọ, nhâm thân thì dùng tuất không dùng hợi; ất sửu, đinh mão, kỷ tỵ, tân mùi, quý dậu thì dùng hợi không dùng tuất. Dương phân ra năm dương, âm phân ra năm âm. Lại giải thích thêm; giáp tý đến mậu thìn, lấy tuất làm không vong, kỷ tỵ đến quý dậu lấy hợi làm không vong, phân chia trên dưới năm năm. Trong đó lại phân chia giáp tý đến mậu thìn gặp nhâm tuất là nặng, còn gặp mậu tuất thì nhẹ hơn; kỷ tỵ đến quý dậu gặp quý hợi thì nặng, còn gặp kỷ hợi thì nhẹ hơn. Như người giáp tý sanh vào giờ giáp tuất, gặp đúng giờ này thì khá nhẹ; như kỷ tỵ sanh vào giờ quý hợi cũng là lọt vào trong giờ rất nặng. "Chỉ Mê Phú" cho rằng: "lộc nhập không vong, thì phải phân chia thần ở trước hay sau, bởi vì phân chia theo bảng âm dương, các bậc nặng nhẹ rõ ràng". "Bát Tự Kim Thư" cho rằng: "tuần giáp dần, nhâm quý rơi vào không vong; tuần giáp thìn: giáp ất; tuần giáp thân: bính đinh; tuần giáp tuất: canh tân". Lấy hai vị trí mà luận thiên can, hoặc gọi thập ác đại bại. Người sanh vào ngày này chủ nghèo hèn.
Nói chung khi có sát này: sanh vượng thì khí độ rộng lớn, thường luôn dẫn tới hư danh, thân hình đẫy đà, thường được phúc lành ngoài ý muốn, còn như tử tuyệt thì một đời thất bại, trôi nổi, nhưng bản thân ở nơi có khí thì không thể là tai hoạ. Rất kỵ thiên can, địa chi với thiên trung hợp với nhau, thì gọi là tiểu nhân đắc vị thì gian trá quỷ quyệt, dám làm bất cứ điều gì. Nếu bị ta khắc phục được, gọi là thiên trung phì ương, trái lại là phúc lành đặc biệt đạt được (chú thích: kiểu như người mậu ngọ hoả gặp giáp tý kim). Bản tính vô thường, cùng với quan phù hội tụ thì nhiều lời nịnh hót, cùng với kiếp sát hội tụ thì giảo hoạt mà gan dạ; cùng với vong thần hội tụ thì trôi nổi; cùng với đại hao hội tụ thì bất ngờ điên đảo; cùng với kiến lộc hội tụ cả đời phá tán; cùng với hàm trì, lục hại hội tụ, thường hung ác tàn bạo bất ngờ; chỉ kề bên quý, hoa cái, tam kỳ, học đường hội tụ rất thông minh, người thoát tục.
Không vong: chẳng nói đến thái tuế gặp bốn tuần trung không vong của ngày sanh, rất quan trọng. Nếu thái tuế cùng với nhật hoán đổi không vong của nhau. càng tệ hơn. Nếu thật là không vong sẽ là thật có thể phản ánh không; nếu không là không thì không có gì phản ánh thật, cho nên người hoán đổi không vong, tai hoạ càng nặng. Thí dụ lệnh năm giáp tý, tháng nhâm tuất: không vong của giáp tý đúng ở nhâm tuất, vì nhâm tuất thuộc tuần giáp dần, mà giáp dần thì không vong lại ở tý, chủ về một đời sống hao tổn tài vật, phá tan nhà cửa, còn lại phỏng theo đó. Nếu nhật thời hoán đổi nhau: giờ thì nghiêm trọng còn ngày thì nhẹ hơn. Nếu ngày phạm nên giờ tránh bị hình xung phá hại; còn giờ phạm nên ngày tránh bị hình xung phá hại, cũng chủ có phúc, nhưng không tránh khỏi trắc trở.
Lại nói thêm: thiên trung toàn là sát, không nên hoàn toàn nói là xấu, ví như trong trụ có ác thần, ác sát ở nơi hội tụ của tai hoạ, cần phải có không vong để giải quyết; có không vong thì không nên gặp hợp, vì hợp thì không còn là không vong nữa. Nếu khí của lộc mã tài quan phúc hội tụ, đều sợ không vong làm tạp loạn; có khi không vong thì mừng gặp hợp, hợp thì không còn không vong vậy. Nếu không bị xung, không hợp, không bị hình, nghĩa là thật sự không vong. Bốn tháng đầu mùa (tứ mạnh nguyệt) rất độc hại, chỉ làm những tiểu kỹ xảo để tìm người giúp đỡ. Lại thêm: tuần giáp tý thuỷ thổ, tuần giáp tuất kim, tuần giáp thân hoả thổ, tuần giáp ngọ hoả thổ, tuần giáp thìn mộc, tuần giáp dần thuỷ thổ là thật sự không vong. Lại cho rằng: có tiếng vang trong âm thanh, chớ chẳng phải trong hư không. Vì thế mệnh của người tôn quý cần phải có đức hạnh của hư trung. Không vong tự vượng thì có hữu dụng, chính là tài năng ứng phó vang dội. Cả ba trụ tháng, ngày, giờ đều không vong, không hại gì đến người đại quý. Nếu chì gặp ở hai trụ, tuy rằng có chức quan, nhưng không lớn.
Lại cho rằng: thường mệnh gặp không vong, gặp trên trụ giờ thường có bản tính cố chấp, đặt ra việc cao cả nhưng hư ảo, gặp thêm hoa cái, định chắc là ít con cái. Gặp trên trụ ngày, thường là con vợ lẽ, hoặc thê thiếp xa lánh bất chợt gặp nhau thường dâm đãng.
Bài hát xưa hát rằng: "nơi thai sanh sợ gặp không, gặp lúc không vốn là tối tăm; vua Nhiêu mười bước có chín kế, không tránh được trôi nổi tây sang đông".
Lại cho rằng: "kiến lộc lâm không chỉ có hư danh, cả đời học đến già cũng không thành công; nếu gặp quý nhân, mã đến cứu giúp, dù cho gặp lúc làm quan cũng ngừng lại".
Lại cho rằng: "giáp dần, mậu ngọ với canh thân, thiên trung trên sửu rất bất nhân; vốn phần số sanh ra được nhận lộc, nhưng gặp ngũ quỷ nên nghèo kém". Vì giáp dần thuỷ gặp tân sửu thổ, là quỷ tới khắc mệnh. Mậu ngọ gặp đinh sửu canh thân gặp ất sửu, cũng là không vong kỵ khắc mệnh vậy.
Lại cho rằng: "hai cung sau sáu tuần hiệu thiên trung, gặp hợp, trường sanh, vượng thì không xấu; thêm đến xung khắc và hình lộc, quan chức lên cao vị trí càng to lớn". Ví như người tỵ dậu sửu tháng đinh sửu, ngày quý mùi, giờ mậu ngọ, ngọ mùi không vong nên hoả của mậu quý vượng ở ngọ, ngược lại thành cách quý, là hoả trong không gian có uy thế.
Lại cho rằng: "trong sao ấn thụ gặp không, thuận tới mộ khố phước trùng trùng; nếu lại kề bên vị trí cũ của quý, đới sát đều là vì mục đích làm việc". Ví như giáp ngọ, quý dậu, bính tý giờ nhâm thìn, tuy rằng không vong, tức là lục hợp với quý dậu, lại là mộ khố kế bên quý, cho nên được nhập cách, vì thuỷ gặp chỗ trống sẽ chảy.
Kinh cho rằng: "kim không thì kêu, hoả không thì sáng, thuỷ không thì trong, mộc không sẽ gãy, thổ không thì lỡ". Đấy là ý nghĩa vậy.
Lại nói: mệnh người không vong vốn là không tốt, nhưng nếu vận hình xung, trái lại là hư sát; người làm quan gặp phải, tiếng tăm danh dự bay xa. Ví như giáp thân đinh sửu ất hợi giáp thân, đi vận nhâm ngọ, làm đương lộ; ất mùi ất dậu ất sửu đinh hợi đi vận tân tỵ, làm quan giám sát, tiếng tăm vang dội. Nếu nhâm dần là không vong, nhâm thân đồng loại xung thì không động, đây là điều rất xấu. Có tiệt lộ không vong: giống như người đang đi trên đường gặp sông hồ, không thể đi tới trước , không thể vượt qua, cho nên nói là tiệt lộ, chỉ lấy ngày gặp giờ. Ví như ngày giáp kỷ độn trong mười hai giờ, thân dậu gặp nhâm quý, cho nên giáp kỷ gặp thân dậu, ất canh gặp ngọ mùi, bính tân gặp thìn tỵ, đinh nhâm gặp dần mão, mậu quý gặp tuất hợi (đúng ra tý sửu mới kể tiệt lộ không vong, không kể ở tuất hợi), đây là hai giờ đều gặp nhâm quý là thuỷ. Không vong này không chỉ mệnh gặp thì không tốt mà nói chung các sự việc như xuất nhập, cầu tài, giao dịch, thượng quan, giá thú đều kỵ. Có tứ đại không vong: trong lục giáp hai tuần giáp thìn, giáp tuất thì có đủ kim mộc thuỷ hoả thổ; người sanh trong tuần giáp tý, giáp ngọ chỉ không gặp thuỷ; người sanh tuần giáp dần, giáp thân không có kim, bốn tuần này là không có đủ ngũ hành. Ví như tuần giáp tý, giáp ngọ độc nhất không gặp thuỷ, người sanh tuần giáp dần, giáp thân gặp kim nghĩa là chánh phạm. Như trong năm sanh không phạm, hành vận đến nơi thuỷ kim cũng có nghĩa là phạm. Nếu gặp phải, chủ cả đời trì trệ, không can dự đến nghèo hèn giàu sang, tất cả đều chết yểu. Ba nơi gặp chồng chất, hạn kỳ trong chớp mắt. Hồ Trung Tử cho rằng: "Nhan Hồi chết yểu, chỉ bởi vì tứ đại không vong". Chính là ý nghĩa này vậy.
"Đỗng Vi Kinh" có ngũ quỷ không vong: người giáp kỷ gặp tỵ ngọ, ất canh gặp dần mão, bính tân gặp tý sửu, đinh nhâm gặp tuất hợi, mậu quý gặp thân dậu, hạn đến nơi đây, chủ nghèo. Có khắc hại không vong: người giáp ất gặp ngọ, bính đinh gặp thân, mậu kỷ gặp tỵ, canh tân gặp dần, nhâm quý gặp dậu sửu, chủ khắc hại vợ con. Có phá tổ không vong: giáp ất, bính đinh giống ở trên, người mậu kỷ gặp tuất, canh tân gặp tý, nhâm quý gặp dần, gặp phải chủ phá tan tổ nghiệp, phải để ý tới.
论空亡
空对实、亡对有言。《神白经》云:"空亡空亡几多般,十干不到作空看。"《洞玄经》云:"遁穷而亡生。"故以甲旬尽处曰空亡,盖有是位而无禄,曰空;有支而无干,曰亡。如甲子的遁至酉而十干足,所以无戌亥,余五干例见,是为空亡。然空而有实,亡而有存,所以未可便为凶论。《珞琭录子》论空亡云:五阳令用一阳,五阴令用一阴。假如甲子、丙寅、戊辰、庚午、壬申则用戌不用亥;乙丑、丁卯、己巳、辛未、癸酉则用亥不用戌。阳分阳年,阴分阴年。又说:甲子至戊辰,以戌为空亡;己巳至癸酉,以亥为空亡,分上下五年。中间又分甲子至戊辰,见壬戌为重,见戊戌之类为轻;己巳至癸酉,见癸亥为重,见乙亥之类为轻。如甲子生甲戌时,此时上正见,差轻;如己巳生癸亥时,亦时上内犯,最重。《指迷赋》云:"禄入空亡,必分前后之辰,所以表阴阳之分,明轻重之等也。"《八字金书》云:"甲寅旬、壬癸落空亡;甲辰旬,甲乙;甲申旬,丙丁;甲戌旬,庚辛。"以地支二位而论天干,或谓十恶大败。犯此日生者,主贫贱。
凡带此煞,生旺则气度宽大,动招虚名,长大肥满,多意外无心之福,死绝则一生成败飘泊,但在我有气之地,则不能为祸。大忌支干与天中相合,是谓小人得位,则奸诈谲诡,靡所不为。若为我所克,是谓天中肥殃,反为特达之福(原注:如戊午火人见甲子金之类)。其神性无常,与官符并、则佞媚多文,与劫煞并,则狡勇;与亡神并,则飘蓬;与大耗并,颠倒突;与建禄并,一生破散;与咸池、六害并,多凶暴卒;惟夹贵、华盖、三奇、学堂并者,大聪明,脱俗之士。
夫空亡不言太岁四见生日旬中空亡,极紧。若太岁与日互换空亡,更不佳。以实为空,则实可映空;以空为空,无所映实,故带互换空亡者,灾深。假令甲子年、壬戌月、甲子之正空亡在壬戌,其壬戌乃甲寅旬,甲寅旬中空复在子,主一生财物耗散,大破家宅。余仿此。若日时互换,时紧日慢。若日犯而时却刑冲破害;时犯而日却刑冲破害,亦主有福,未免坎坷。
又云:天中一煞,不可全以凶言,如柱中有恶神,恶煞祸聚之地,全要空亡解之;有空亡不宜见合,合则不能空矣。若禄马财官福聚之气,全怕空亡散之;有空亡却喜见合,合则不能空矣。若无冲无合无刑,谓真空亡。四孟太毒,只作小伎巧求人。又,甲子旬水土,甲戌旬金,甲申旬火土,甲午旬火土,甲辰旬木,甲寅旬水土,为真空亡。又云:响之有声,莫非虚中也。是以大人之命,要有虚中之德。空亡自旺有用,乃大声大应之器。月、日、月时三位俱空亡者,不害为大贵人。若值两位,虽有官,不大。
又云:凡命值空亡,时上见,多拗性,为事高而虚,更遇华盖,决主少子。日上见,多庶出,或妻妾间离遇偶合则多淫荡。
古歌云:"胎里生逢怕遇空,遇空时节自昏蒙;饶君十步有九计,不免飘飘西复东。"
又云:"建禄临空虚有名,平生向学老无成;若逢马贵来相救,纵得官时又复停。"
又云:"甲寅戊午及庚申,丑上天中最不仁;本分生来当受禄,因逢五鬼遂衰贫。"以甲寅水见辛丑土,为鬼来克命。戊午见丁丑,庚申见乙丑,同是空亡,忌克命也。
又云:"六旬后两号天中,见合长生旺不凶;加临冲克兼 刑禄,官职升腾位更隆。"如巳酉丑人丁丑月、癸未日、戊午时,午未空亡而戊癸之火旺在午,反为贵格,是火虚有焰也。
又云:"印绶之星中见空,顺临墓库福重重;若还夹贵归元位,带煞须为给事中"如甲午、癸酉、丙子、壬辰时,虽空,却与癸酉作六合,又墓库夹贵,所以入格,是水空则流也。
经云:"金空则响,火空则明,水空则清,木空则折,土空则崩。"此之谓也。
又曰:人命空亡本不好,若运刑冲,反为虚煞;士人遇之,飞声走誉。如甲申、丁丑、乙亥、甲申,行壬午运,作当路;乙未、乙酉、乙丑、丁亥,行辛巳运,作监司,大振声望。若壬寅为空亡,壬申同类冲之,则不动,此为最毒。有截路空亡,正如人在途中遇水,不能前进,不可以济,故曰截路,只以日取时见之。如甲己日遁十二时中,申酉上见壬癸,故甲己见申酉,乙庚见午未,丙辛见辰巳,丁壬见寅卯,戊癸见戌亥,此二时上俱遇壬癸为水故也。此空亡非但命见不吉,凡出入、求财、交易、上官、嫁娶,百事皆忌。有四大空亡,六甲中,甲辰、甲戌二旬,金木水火土全,内甲子、甲午旬生人见水,甲寅、甲申旬独无金,此四旬者五行不全。如甲子、甲午旬独无水,甲寅、甲申旬生人见金,谓之正犯。如当生年中不犯,行运至水金处亦谓之犯。若带得,主一生蹇滞,不问贫贱富贵,皆夭折。三处重遇,瞬息为期。壶中子云:"颜回夭折,只因四大空亡。"正谓此也。
《洞微经》有五鬼空亡,甲己人见巳午,乙庚寅卯,丙辛子丑,丁壬戌亥,戊癸申酉,限至斯乡,主贫。有克害空亡,甲乙人见午,丙丁申,戊己巳,庚辛寅,壬癸酉丑,主克害妻子。有破祖空亡,甲乙丙丁同上,戊巳人见戌,庚辛子,壬癸寅,遇者主破祖业,须并论之。
.
Luận Không Vong
Không (trống rỗng) đối với thật, "vong" (mất) đối với có. "Thần Bạch Kinh" cho rằng: "không vong không vong có nhiều loại, mười thiên can không đến xem là không". "Đỗng Huyền Kinh" cho rằng: "ẩn đến tận cùng nên vong sanh". Cho nên lấy tuần giáp đến cuối cùng gọi là không vong, bởi là nơi đây thì không có lộc, gọi là không; có địa chi mà không có thiên can, gọi là vong. Như giáp tý di chuyển đến dậu có đủ mười thiên can, cho nên không có tuất hợi, năm can giáp còn lại theo quy định là không vong. Nhưng không mà có thật, vong mà còn tồn tại, cho nên không thể lập tức bàn luận hung xấu. "Lạc Lục Tử" luận không vong cho rằng: năm dương lệnh dùng tất cả dương, năm âm lệnh dùng tất cả âm. Như giáp tý, bính dần, mậu thìn, canh ngọ, nhâm thân thì dùng tuất không dùng hợi; ất sửu, đinh mão, kỷ tỵ, tân mùi, quý dậu thì dùng hợi không dùng tuất. Dương phân ra năm dương, âm phân ra năm âm. Lại giải thích thêm; giáp tý đến mậu thìn, lấy tuất làm không vong, kỷ tỵ đến quý dậu lấy hợi làm không vong, phân chia trên dưới năm năm. Trong đó lại phân chia giáp tý đến mậu thìn gặp nhâm tuất là nặng, còn gặp mậu tuất thì nhẹ hơn; kỷ tỵ đến quý dậu gặp quý hợi thì nặng, còn gặp kỷ hợi thì nhẹ hơn. Như người giáp tý sanh vào giờ giáp tuất, gặp đúng giờ này thì khá nhẹ; như kỷ tỵ sanh vào giờ quý hợi cũng là lọt vào trong giờ rất nặng. "Chỉ Mê Phú" cho rằng: "lộc nhập không vong, thì phải phân chia thần ở trước hay sau, bởi vì phân chia theo bảng âm dương, các bậc nặng nhẹ rõ ràng". "Bát Tự Kim Thư" cho rằng: "tuần giáp dần, nhâm quý rơi vào không vong; tuần giáp thìn: giáp ất; tuần giáp thân: bính đinh; tuần giáp tuất: canh tân". Lấy hai vị trí mà luận thiên can, hoặc gọi thập ác đại bại. Người sanh vào ngày này chủ nghèo hèn.
Nói chung khi có sát này: sanh vượng thì khí độ rộng lớn, thường luôn dẫn tới hư danh, thân hình đẫy đà, thường được phúc lành ngoài ý muốn, còn như tử tuyệt thì một đời thất bại, trôi nổi, nhưng bản thân ở nơi có khí thì không thể là tai hoạ. Rất kỵ thiên can, địa chi với thiên trung hợp với nhau, thì gọi là tiểu nhân đắc vị thì gian trá quỷ quyệt, dám làm bất cứ điều gì. Nếu bị ta khắc phục được, gọi là thiên trung phì ương, trái lại là phúc lành đặc biệt đạt được (chú thích: kiểu như người mậu ngọ hoả gặp giáp tý kim). Bản tính vô thường, cùng với quan phù hội tụ thì nhiều lời nịnh hót, cùng với kiếp sát hội tụ thì giảo hoạt mà gan dạ; cùng với vong thần hội tụ thì trôi nổi; cùng với đại hao hội tụ thì bất ngờ điên đảo; cùng với kiến lộc hội tụ cả đời phá tán; cùng với hàm trì, lục hại hội tụ, thường hung ác tàn bạo bất ngờ; chỉ kề bên quý, hoa cái, tam kỳ, học đường hội tụ rất thông minh, người thoát tục.
Không vong: chẳng nói đến thái tuế gặp bốn tuần trung không vong của ngày sanh, rất quan trọng. Nếu thái tuế cùng với nhật hoán đổi không vong của nhau. càng tệ hơn. Nếu thật là không vong sẽ là thật có thể phản ánh không; nếu không là không thì không có gì phản ánh thật, cho nên người hoán đổi không vong, tai hoạ càng nặng. Thí dụ lệnh năm giáp tý, tháng nhâm tuất: không vong của giáp tý đúng ở nhâm tuất, vì nhâm tuất thuộc tuần giáp dần, mà giáp dần thì không vong lại ở tý, chủ về một đời sống hao tổn tài vật, phá tan nhà cửa, còn lại phỏng theo đó. Nếu nhật thời hoán đổi nhau: giờ thì nghiêm trọng còn ngày thì nhẹ hơn. Nếu ngày phạm nên giờ tránh bị hình xung phá hại; còn giờ phạm nên ngày tránh bị hình xung phá hại, cũng chủ có phúc, nhưng không tránh khỏi trắc trở.
Lại nói thêm: thiên trung toàn là sát, không nên hoàn toàn nói là xấu, ví như trong trụ có ác thần, ác sát ở nơi hội tụ của tai hoạ, cần phải có không vong để giải quyết; có không vong thì không nên gặp hợp, vì hợp thì không còn là không vong nữa. Nếu khí của lộc mã tài quan phúc hội tụ, đều sợ không vong làm tạp loạn; có khi không vong thì mừng gặp hợp, hợp thì không còn không vong vậy. Nếu không bị xung, không hợp, không bị hình, nghĩa là thật sự không vong. Bốn tháng đầu mùa (tứ mạnh nguyệt) rất độc hại, chỉ làm những tiểu kỹ xảo để tìm người giúp đỡ. Lại thêm: tuần giáp tý thuỷ thổ, tuần giáp tuất kim, tuần giáp thân hoả thổ, tuần giáp ngọ hoả thổ, tuần giáp thìn mộc, tuần giáp dần thuỷ thổ là thật sự không vong. Lại cho rằng: có tiếng vang trong âm thanh, chớ chẳng phải trong hư không. Vì thế mệnh của người tôn quý cần phải có đức hạnh của hư trung. Không vong tự vượng thì có hữu dụng, chính là tài năng ứng phó vang dội. Cả ba trụ tháng, ngày, giờ đều không vong, không hại gì đến người đại quý. Nếu chì gặp ở hai trụ, tuy rằng có chức quan, nhưng không lớn.
Lại cho rằng: thường mệnh gặp không vong, gặp trên trụ giờ thường có bản tính cố chấp, đặt ra việc cao cả nhưng hư ảo, gặp thêm hoa cái, định chắc là ít con cái. Gặp trên trụ ngày, thường là con vợ lẽ, hoặc thê thiếp xa lánh bất chợt gặp nhau thường dâm đãng.
Bài hát xưa hát rằng: "nơi thai sanh sợ gặp không, gặp lúc không vốn là tối tăm; vua Nhiêu mười bước có chín kế, không tránh được trôi nổi tây sang đông".
Lại cho rằng: "kiến lộc lâm không chỉ có hư danh, cả đời học đến già cũng không thành công; nếu gặp quý nhân, mã đến cứu giúp, dù cho gặp lúc làm quan cũng ngừng lại".
Lại cho rằng: "giáp dần, mậu ngọ với canh thân, thiên trung trên sửu rất bất nhân; vốn phần số sanh ra được nhận lộc, nhưng gặp ngũ quỷ nên nghèo kém". Vì giáp dần thuỷ gặp tân sửu thổ, là quỷ tới khắc mệnh. Mậu ngọ gặp đinh sửu canh thân gặp ất sửu, cũng là không vong kỵ khắc mệnh vậy.
Lại cho rằng: "hai cung sau sáu tuần hiệu thiên trung, gặp hợp, trường sanh, vượng thì không xấu; thêm đến xung khắc và hình lộc, quan chức lên cao vị trí càng to lớn". Ví như người tỵ dậu sửu tháng đinh sửu, ngày quý mùi, giờ mậu ngọ, ngọ mùi không vong nên hoả của mậu quý vượng ở ngọ, ngược lại thành cách quý, là hoả trong không gian có uy thế.
Lại cho rằng: "trong sao ấn thụ gặp không, thuận tới mộ khố phước trùng trùng; nếu lại kề bên vị trí cũ của quý, đới sát đều là vì mục đích làm việc". Ví như giáp ngọ, quý dậu, bính tý giờ nhâm thìn, tuy rằng không vong, tức là lục hợp với quý dậu, lại là mộ khố kế bên quý, cho nên được nhập cách, vì thuỷ gặp chỗ trống sẽ chảy.
Kinh cho rằng: "kim không thì kêu, hoả không thì sáng, thuỷ không thì trong, mộc không sẽ gãy, thổ không thì lỡ". Đấy là ý nghĩa vậy.
Lại nói: mệnh người không vong vốn là không tốt, nhưng nếu vận hình xung, trái lại là hư sát; người làm quan gặp phải, tiếng tăm danh dự bay xa. Ví như giáp thân đinh sửu ất hợi giáp thân, đi vận nhâm ngọ, làm đương lộ; ất mùi ất dậu ất sửu đinh hợi đi vận tân tỵ, làm quan giám sát, tiếng tăm vang dội. Nếu nhâm dần là không vong, nhâm thân đồng loại xung thì không động, đây là điều rất xấu. Có tiệt lộ không vong: giống như người đang đi trên đường gặp sông hồ, không thể đi tới trước , không thể vượt qua, cho nên nói là tiệt lộ, chỉ lấy ngày gặp giờ. Ví như ngày giáp kỷ độn trong mười hai giờ, thân dậu gặp nhâm quý, cho nên giáp kỷ gặp thân dậu, ất canh gặp ngọ mùi, bính tân gặp thìn tỵ, đinh nhâm gặp dần mão, mậu quý gặp tuất hợi (đúng ra tý sửu mới kể tiệt lộ không vong, không kể ở tuất hợi), đây là hai giờ đều gặp nhâm quý là thuỷ. Không vong này không chỉ mệnh gặp thì không tốt mà nói chung các sự việc như xuất nhập, cầu tài, giao dịch, thượng quan, giá thú đều kỵ. Có tứ đại không vong: trong lục giáp hai tuần giáp thìn, giáp tuất thì có đủ kim mộc thuỷ hoả thổ; người sanh trong tuần giáp tý, giáp ngọ chỉ không gặp thuỷ; người sanh tuần giáp dần, giáp thân không có kim, bốn tuần này là không có đủ ngũ hành. Ví như tuần giáp tý, giáp ngọ độc nhất không gặp thuỷ, người sanh tuần giáp dần, giáp thân gặp kim nghĩa là chánh phạm. Như trong năm sanh không phạm, hành vận đến nơi thuỷ kim cũng có nghĩa là phạm. Nếu gặp phải, chủ cả đời trì trệ, không can dự đến nghèo hèn giàu sang, tất cả đều chết yểu. Ba nơi gặp chồng chất, hạn kỳ trong chớp mắt. Hồ Trung Tử cho rằng: "Nhan Hồi chết yểu, chỉ bởi vì tứ đại không vong". Chính là ý nghĩa này vậy.
"Đỗng Vi Kinh" có ngũ quỷ không vong: người giáp kỷ gặp tỵ ngọ, ất canh gặp dần mão, bính tân gặp tý sửu, đinh nhâm gặp tuất hợi, mậu quý gặp thân dậu, hạn đến nơi đây, chủ nghèo. Có khắc hại không vong: người giáp ất gặp ngọ, bính đinh gặp thân, mậu kỷ gặp tỵ, canh tân gặp dần, nhâm quý gặp dậu sửu, chủ khắc hại vợ con. Có phá tổ không vong: giáp ất, bính đinh giống ở trên, người mậu kỷ gặp tuất, canh tân gặp tý, nhâm quý gặp dần, gặp phải chủ phá tan tổ nghiệp, phải để ý tới.
论空亡
空对实、亡对有言。《神白经》云:"空亡空亡几多般,十干不到作空看。"《洞玄经》云:"遁穷而亡生。"故以甲旬尽处曰空亡,盖有是位而无禄,曰空;有支而无干,曰亡。如甲子的遁至酉而十干足,所以无戌亥,余五干例见,是为空亡。然空而有实,亡而有存,所以未可便为凶论。《珞琭录子》论空亡云:五阳令用一阳,五阴令用一阴。假如甲子、丙寅、戊辰、庚午、壬申则用戌不用亥;乙丑、丁卯、己巳、辛未、癸酉则用亥不用戌。阳分阳年,阴分阴年。又说:甲子至戊辰,以戌为空亡;己巳至癸酉,以亥为空亡,分上下五年。中间又分甲子至戊辰,见壬戌为重,见戊戌之类为轻;己巳至癸酉,见癸亥为重,见乙亥之类为轻。如甲子生甲戌时,此时上正见,差轻;如己巳生癸亥时,亦时上内犯,最重。《指迷赋》云:"禄入空亡,必分前后之辰,所以表阴阳之分,明轻重之等也。"《八字金书》云:"甲寅旬、壬癸落空亡;甲辰旬,甲乙;甲申旬,丙丁;甲戌旬,庚辛。"以地支二位而论天干,或谓十恶大败。犯此日生者,主贫贱。
凡带此煞,生旺则气度宽大,动招虚名,长大肥满,多意外无心之福,死绝则一生成败飘泊,但在我有气之地,则不能为祸。大忌支干与天中相合,是谓小人得位,则奸诈谲诡,靡所不为。若为我所克,是谓天中肥殃,反为特达之福(原注:如戊午火人见甲子金之类)。其神性无常,与官符并、则佞媚多文,与劫煞并,则狡勇;与亡神并,则飘蓬;与大耗并,颠倒突;与建禄并,一生破散;与咸池、六害并,多凶暴卒;惟夹贵、华盖、三奇、学堂并者,大聪明,脱俗之士。
夫空亡不言太岁四见生日旬中空亡,极紧。若太岁与日互换空亡,更不佳。以实为空,则实可映空;以空为空,无所映实,故带互换空亡者,灾深。假令甲子年、壬戌月、甲子之正空亡在壬戌,其壬戌乃甲寅旬,甲寅旬中空复在子,主一生财物耗散,大破家宅。余仿此。若日时互换,时紧日慢。若日犯而时却刑冲破害;时犯而日却刑冲破害,亦主有福,未免坎坷。
又云:天中一煞,不可全以凶言,如柱中有恶神,恶煞祸聚之地,全要空亡解之;有空亡不宜见合,合则不能空矣。若禄马财官福聚之气,全怕空亡散之;有空亡却喜见合,合则不能空矣。若无冲无合无刑,谓真空亡。四孟太毒,只作小伎巧求人。又,甲子旬水土,甲戌旬金,甲申旬火土,甲午旬火土,甲辰旬木,甲寅旬水土,为真空亡。又云:响之有声,莫非虚中也。是以大人之命,要有虚中之德。空亡自旺有用,乃大声大应之器。月、日、月时三位俱空亡者,不害为大贵人。若值两位,虽有官,不大。
又云:凡命值空亡,时上见,多拗性,为事高而虚,更遇华盖,决主少子。日上见,多庶出,或妻妾间离遇偶合则多淫荡。
古歌云:"胎里生逢怕遇空,遇空时节自昏蒙;饶君十步有九计,不免飘飘西复东。"
又云:"建禄临空虚有名,平生向学老无成;若逢马贵来相救,纵得官时又复停。"
又云:"甲寅戊午及庚申,丑上天中最不仁;本分生来当受禄,因逢五鬼遂衰贫。"以甲寅水见辛丑土,为鬼来克命。戊午见丁丑,庚申见乙丑,同是空亡,忌克命也。
又云:"六旬后两号天中,见合长生旺不凶;加临冲克兼 刑禄,官职升腾位更隆。"如巳酉丑人丁丑月、癸未日、戊午时,午未空亡而戊癸之火旺在午,反为贵格,是火虚有焰也。
又云:"印绶之星中见空,顺临墓库福重重;若还夹贵归元位,带煞须为给事中"如甲午、癸酉、丙子、壬辰时,虽空,却与癸酉作六合,又墓库夹贵,所以入格,是水空则流也。
经云:"金空则响,火空则明,水空则清,木空则折,土空则崩。"此之谓也。
又曰:人命空亡本不好,若运刑冲,反为虚煞;士人遇之,飞声走誉。如甲申、丁丑、乙亥、甲申,行壬午运,作当路;乙未、乙酉、乙丑、丁亥,行辛巳运,作监司,大振声望。若壬寅为空亡,壬申同类冲之,则不动,此为最毒。有截路空亡,正如人在途中遇水,不能前进,不可以济,故曰截路,只以日取时见之。如甲己日遁十二时中,申酉上见壬癸,故甲己见申酉,乙庚见午未,丙辛见辰巳,丁壬见寅卯,戊癸见戌亥,此二时上俱遇壬癸为水故也。此空亡非但命见不吉,凡出入、求财、交易、上官、嫁娶,百事皆忌。有四大空亡,六甲中,甲辰、甲戌二旬,金木水火土全,内甲子、甲午旬生人见水,甲寅、甲申旬独无金,此四旬者五行不全。如甲子、甲午旬独无水,甲寅、甲申旬生人见金,谓之正犯。如当生年中不犯,行运至水金处亦谓之犯。若带得,主一生蹇滞,不问贫贱富贵,皆夭折。三处重遇,瞬息为期。壶中子云:"颜回夭折,只因四大空亡。"正谓此也。
《洞微经》有五鬼空亡,甲己人见巳午,乙庚寅卯,丙辛子丑,丁壬戌亥,戊癸申酉,限至斯乡,主贫。有克害空亡,甲乙人见午,丙丁申,戊己巳,庚辛寅,壬癸酉丑,主克害妻子。有破祖空亡,甲乙丙丁同上,戊巳人见戌,庚辛子,壬癸寅,遇者主破祖业,须并论之。
.
#64
Gửi vào 29/06/2024 - 09:59
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Nguyên Thần
Nguyên thần là: một tên khác mà không đúng cách. Dương ở phía trước, âm ở phía sau, sẽ có sự uốn cong, nếu uốn cong thì cũng vô ích; còn âm ở phía trước dương ở phía sau sẽ thẳng nhưng không vừa lòng, đối với sự hung ác mà không trừng trị, khó khăn với đồng nghiệp, cho nên nghĩa là nguyên thần. Vì thế dương nam âm nữ: ở phía trước chỗ xung một chi thần; còn âm nam dương nữ: ở phía sau chỗ xung một chi thần. Giả dụ như nam sanh giáp tý, đối xung với giáp ngọ, tức ất mùi là thích đàng; nam sanh ất sửu đối xung với ất mùi tức giáp ngọ là thích đáng. Dư can ngọ mùi bán chi. Vì thế đối với người hung xấu, coi như là một nơi giận dữ, trống ở bên trái thì phong sát ở bên phải, trống ở bên phải thì phong sát ở bên trái, cho nên âm dương nam nữ chọn xung phía trước hay xung phía sau không giống nhau. Nếu tuế vận đến đó, như vật trong gió, lay động điên đảo, không được yên nghĩ. Không có bệnh tật bên trong sẽ gặp nạn bên ngoài. Dù cho giàu sang cao quý, uy thế thịnh vượng, đại vận gặp được, mười năm đáng sợ. Khi lập triều đại nhất định phải chạy trốn, ở nhà ắt gặp tai hoạ hung xấu, dù cho có cát thần giúp đỡ phù trợ, không tránh khỏi hoạ phúc dựa vào, càng kỵ trước tốt sau xấu, sau khi vượng sắp bước qua vận xấu sẽ ập đến. Mệnh gặp vậy chủ hình dáng mộc mạc, sơ sài, gò má cao, mũi thấp miệng rộng, đôi mắt đầy sức mạnh, đầu vồ mông cao, thay chân cứng rắn, tiếng nói trầm đục, sanh vượng thì hào phóng, độ lượng rộng lớn, không phân biệt thị phi, tốt xấu, đảo lộn bất ngờ; còn tử tuyệt là người tằn tiện bủn xỉn, hình dáng hèn hạ, lời nói hồ đồ, ngớ ngẩn, không biết nhục nhã, phá bại gập ghềnh, tham uống rượu thích chuyện nam nữ, bằng lòng với thói quen đê tiện. Với quan phù hội tụ: thường bị quấy nhiễu dù không tội lỗi; có kiếp sát thì không tuân theo quy tắc, rước lấy nguy hiểm và sỉ nhục, hèn hạ không xấu hổ; đàn bà gặp phải giọng nói khàn đục như tiếng đàn ông, gian dâm với đày tớ thấp hèn, dựa vào ma quỷ, không tuân theo phép tắc, cả đời nhiều tai hoạ, dù có sanh con, thì bướng bỉnh và bất hiếu. Những nghiên cứu xưa nay "Thử Kỵ Dương Đầu Ca" không phân chia nam nữ, không đủ bằng chứng. "Lạc Lục Tử" vì hiểu người lớn tuổi sợ nguyên thần của mình, còn Lâm Khai lấy nguyên thần làm ác sát là tai hoạ rất nặng, người có gặp hỗ hoán thì càng không tốt lành, bỗng nhiên gặp hợp, lại luận theo tốt lành. "Đỗng Huyền Kinh" cho rằng: "nguyên thần gặp hợp thì rất thuận lợi". "Quảng Tín Tập" Thủ Vu Kỹ tham chánh: kỷ mão giáp thân kỷ tỵ giáp tuất, hội đồng cơ mật Đằng Canh: ất sửu nhâm ngọ ất sửu nhâm ngọ, hỏi hai mệnh này có phạm nguyên thần không? Lý Cát Phủ nói: "thông thường mệnh quý phải gặp sát tức là sẽ được vua chúa bất ngờ đề bạt lên cao, Lâm Khai có cái nhìn thiên vị vậy". Từ Tử Bình cho rằng: "nguyên thần là: thần hại mình vốn sẵn có trong mệnh, kiểu như giáp gặp thân canh, ất gặp dậu tân, người sanh vào năm tháng ngày giờ vốn là có thất sát, lấy làm thần hại mình, tuế vận lại gặp, gọi là phạm nguyên thần, cái hại càng nặng, vốn là không có thì nhẹ hơn. Tuy nhiên mỗi nguyên thần sát có cùng cách xem xét với vong kiếp, dương nhận, không vong. "Lạc Lục Tử" -"Tiêu Tức Phú" - Tự Kiến Tuyết Tâm Phú" cho rằng: "nguyên thần thuỷ khứ cũng là tên của thần sát". Là chủ trương của người xưa vậy.
论元辰
元辰者,别而不合之名。阳前阴后,则有所屈,屈则于事无所申;阴前阳后,则直而不遂,于事暴而不治,难与同事,故谓之元辰。是以阳男阴女,在冲前一位支辰;阴男阳女,在冲后一位支辰。假如甲子生男,与甲午对冲,即乙未为正;乙丑生男,与乙未对冲,即甲午为正。余干午未半之。所以为凶者,当气冲之地,左鼓则风煞在右,右鼓则风煞在左,故阴阳男女,取冲前冲后不同。若岁运临之,如物当风,动摇颠倒,不得宁息。不有内疾,必有外难。虽富贵崇高,势位炎盛,大运逢之,十年可畏。立朝定当窜逐,居家必罹凶咎,纵有吉神扶持,不免祸福倚伏,尤忌先吉后凶,临旺之后、欲出未出之际,凶祸尤的。生命逢之,主形骸陋朴,面有颧骨,鼻低口大,眼生威角,脑凸臀高,手脚强硬,声音沉浊。生旺则落魄大度,不别是非,不分良善,颠倒鹘突;死绝则寒酸薄劣,形貌猥下,语言浑浊,不识羞辱,破败坎坷,贪饮好情,甘习下流。与官符并,多招无辜之挠;带劫煞,则不循细行,动招危辱,空贱无耻;妇人得之,声雄性浊,奸淫私通奴贱,鬼魅为凭,不遵礼法,一生多灾,虽生子,拗而不孝。常术《鼠忌羊头歌》未分男女,不足凭也。《珞录子》以宣父畏其元辰,林开以元辰恶煞为灾甚重,有互换遇者,尤为不吉,忽然遇合,又以吉论。《洞玄经》云:"元辰遇合,而大亨是也。"《广信集》取巫□伎参政己卯、甲申、己巳、甲戌,滕庚枢密乙丑、壬午、乙丑、壬午,二命岂不犯元辰。李吉甫曰:"大凡贵命,须逢煞即得君主横升拔,林开一偏之见也。"徐子平云:"元辰者,命中元有所害之辰,如甲见申庚,乙见酉辛之类,人生岁月日时原有七煞,已为所害之辰,岁运复遇,谓之犯元辰,为害尤重,元无则轻。然元辰一煞,与亡劫、羊刃、空亡同类观。"《珞录子·消息赋·自见雪心赋》云:"元辰水去,亦指神煞之名。"是古人之说是也。
.
Luận Nguyên Thần
Nguyên thần là: một tên khác mà không đúng cách. Dương ở phía trước, âm ở phía sau, sẽ có sự uốn cong, nếu uốn cong thì cũng vô ích; còn âm ở phía trước dương ở phía sau sẽ thẳng nhưng không vừa lòng, đối với sự hung ác mà không trừng trị, khó khăn với đồng nghiệp, cho nên nghĩa là nguyên thần. Vì thế dương nam âm nữ: ở phía trước chỗ xung một chi thần; còn âm nam dương nữ: ở phía sau chỗ xung một chi thần. Giả dụ như nam sanh giáp tý, đối xung với giáp ngọ, tức ất mùi là thích đàng; nam sanh ất sửu đối xung với ất mùi tức giáp ngọ là thích đáng. Dư can ngọ mùi bán chi. Vì thế đối với người hung xấu, coi như là một nơi giận dữ, trống ở bên trái thì phong sát ở bên phải, trống ở bên phải thì phong sát ở bên trái, cho nên âm dương nam nữ chọn xung phía trước hay xung phía sau không giống nhau. Nếu tuế vận đến đó, như vật trong gió, lay động điên đảo, không được yên nghĩ. Không có bệnh tật bên trong sẽ gặp nạn bên ngoài. Dù cho giàu sang cao quý, uy thế thịnh vượng, đại vận gặp được, mười năm đáng sợ. Khi lập triều đại nhất định phải chạy trốn, ở nhà ắt gặp tai hoạ hung xấu, dù cho có cát thần giúp đỡ phù trợ, không tránh khỏi hoạ phúc dựa vào, càng kỵ trước tốt sau xấu, sau khi vượng sắp bước qua vận xấu sẽ ập đến. Mệnh gặp vậy chủ hình dáng mộc mạc, sơ sài, gò má cao, mũi thấp miệng rộng, đôi mắt đầy sức mạnh, đầu vồ mông cao, thay chân cứng rắn, tiếng nói trầm đục, sanh vượng thì hào phóng, độ lượng rộng lớn, không phân biệt thị phi, tốt xấu, đảo lộn bất ngờ; còn tử tuyệt là người tằn tiện bủn xỉn, hình dáng hèn hạ, lời nói hồ đồ, ngớ ngẩn, không biết nhục nhã, phá bại gập ghềnh, tham uống rượu thích chuyện nam nữ, bằng lòng với thói quen đê tiện. Với quan phù hội tụ: thường bị quấy nhiễu dù không tội lỗi; có kiếp sát thì không tuân theo quy tắc, rước lấy nguy hiểm và sỉ nhục, hèn hạ không xấu hổ; đàn bà gặp phải giọng nói khàn đục như tiếng đàn ông, gian dâm với đày tớ thấp hèn, dựa vào ma quỷ, không tuân theo phép tắc, cả đời nhiều tai hoạ, dù có sanh con, thì bướng bỉnh và bất hiếu. Những nghiên cứu xưa nay "Thử Kỵ Dương Đầu Ca" không phân chia nam nữ, không đủ bằng chứng. "Lạc Lục Tử" vì hiểu người lớn tuổi sợ nguyên thần của mình, còn Lâm Khai lấy nguyên thần làm ác sát là tai hoạ rất nặng, người có gặp hỗ hoán thì càng không tốt lành, bỗng nhiên gặp hợp, lại luận theo tốt lành. "Đỗng Huyền Kinh" cho rằng: "nguyên thần gặp hợp thì rất thuận lợi". "Quảng Tín Tập" Thủ Vu Kỹ tham chánh: kỷ mão giáp thân kỷ tỵ giáp tuất, hội đồng cơ mật Đằng Canh: ất sửu nhâm ngọ ất sửu nhâm ngọ, hỏi hai mệnh này có phạm nguyên thần không? Lý Cát Phủ nói: "thông thường mệnh quý phải gặp sát tức là sẽ được vua chúa bất ngờ đề bạt lên cao, Lâm Khai có cái nhìn thiên vị vậy". Từ Tử Bình cho rằng: "nguyên thần là: thần hại mình vốn sẵn có trong mệnh, kiểu như giáp gặp thân canh, ất gặp dậu tân, người sanh vào năm tháng ngày giờ vốn là có thất sát, lấy làm thần hại mình, tuế vận lại gặp, gọi là phạm nguyên thần, cái hại càng nặng, vốn là không có thì nhẹ hơn. Tuy nhiên mỗi nguyên thần sát có cùng cách xem xét với vong kiếp, dương nhận, không vong. "Lạc Lục Tử" -"Tiêu Tức Phú" - Tự Kiến Tuyết Tâm Phú" cho rằng: "nguyên thần thuỷ khứ cũng là tên của thần sát". Là chủ trương của người xưa vậy.
论元辰
元辰者,别而不合之名。阳前阴后,则有所屈,屈则于事无所申;阴前阳后,则直而不遂,于事暴而不治,难与同事,故谓之元辰。是以阳男阴女,在冲前一位支辰;阴男阳女,在冲后一位支辰。假如甲子生男,与甲午对冲,即乙未为正;乙丑生男,与乙未对冲,即甲午为正。余干午未半之。所以为凶者,当气冲之地,左鼓则风煞在右,右鼓则风煞在左,故阴阳男女,取冲前冲后不同。若岁运临之,如物当风,动摇颠倒,不得宁息。不有内疾,必有外难。虽富贵崇高,势位炎盛,大运逢之,十年可畏。立朝定当窜逐,居家必罹凶咎,纵有吉神扶持,不免祸福倚伏,尤忌先吉后凶,临旺之后、欲出未出之际,凶祸尤的。生命逢之,主形骸陋朴,面有颧骨,鼻低口大,眼生威角,脑凸臀高,手脚强硬,声音沉浊。生旺则落魄大度,不别是非,不分良善,颠倒鹘突;死绝则寒酸薄劣,形貌猥下,语言浑浊,不识羞辱,破败坎坷,贪饮好情,甘习下流。与官符并,多招无辜之挠;带劫煞,则不循细行,动招危辱,空贱无耻;妇人得之,声雄性浊,奸淫私通奴贱,鬼魅为凭,不遵礼法,一生多灾,虽生子,拗而不孝。常术《鼠忌羊头歌》未分男女,不足凭也。《珞录子》以宣父畏其元辰,林开以元辰恶煞为灾甚重,有互换遇者,尤为不吉,忽然遇合,又以吉论。《洞玄经》云:"元辰遇合,而大亨是也。"《广信集》取巫□伎参政己卯、甲申、己巳、甲戌,滕庚枢密乙丑、壬午、乙丑、壬午,二命岂不犯元辰。李吉甫曰:"大凡贵命,须逢煞即得君主横升拔,林开一偏之见也。"徐子平云:"元辰者,命中元有所害之辰,如甲见申庚,乙见酉辛之类,人生岁月日时原有七煞,已为所害之辰,岁运复遇,谓之犯元辰,为害尤重,元无则轻。然元辰一煞,与亡劫、羊刃、空亡同类观。"《珞录子·消息赋·自见雪心赋》云:"元辰水去,亦指神煞之名。"是古人之说是也。
.
#65
Gửi vào 29/06/2024 - 10:29
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Ám Kim Đích Sát
Ba sát này là tứ xung của số tiên thiên. Số của tý, ngọ mỗi chi đều là "chín", còn mão, dậu mỗi thứ là "sáu", cộng chung lại là "ba mươi". Từ tý đi thuận hành tận ba mươi số thì gặp tỵ, nghĩa là chánh sát của tứ trọng. Dần thân mỗi thứ là bảy, tỵ hợi mỗi thứ là bốn, cộng chung là hai mươi hai. Từ tý đi thuận hành đến tận hai mươi hai số thì gặp dậu, nghĩa là chánh sát của tứ mạnh. Thìn tuất mỗi thứ là năm, sửu mùi mỗi thứ là tám, cộng chung lại hai mươi sáu, từ tý đi thuận hành đến hai mươi sáu số thì gặp sửu, nghĩa là chánh sát của tứ quý. Đúng là khởi từ số vậy. Nói chung thần sát đều khởi từ số, kiểu giống với lộc mã. Đây là một loại sát có ba tên gọi, một gọi là ngâm thân, hai gọi là phá toái, ba gọi là bạch y. Tý ngọ, mão dậu ở tỵ, dần thân tỵ hợi ở dậu, thìn tuất sửu mùi ở sửu. Tỵ là nơi kim sanh ra, trong tỵ có hoả lâm quan, kim khí bị khắc, chủ về rên rỉ của đòn gậy trong hình ngục, cho nên gọi là ngâm thân. Dậu là nơi kim vượng, đúng lúc sát vạn vật, lại có tân kim giúp đỡ, vạn vật đối mặt làm sao không bị vỡ vụn, chủ về tai hoạ tay chân đứt lìa, đổ máu, cho nên gọi là phá toái. Sửu là mộ khố của kim, ở bốn mùa mà đến cửa quỷ, chủ các sự việc tổn hại, tang phục, khóc lóc, cho nên gọi là bạch y. Trong ngũ hành chỉ có kim có khả năng giết vạn vật, cho nên tên gọi chung là ám kim đích sát. Thần sanh vượng, chủ là người có tài năng, có hạn độ bao dung rộng lớn, quyết đoán đầy hứa hẹn, diện mạo thanh tuấn, nếu không chết non hay bị hình thương đều là có bệnh hủi, hay bệnh do thần kinh bế tắc làm tê liệt tay chân. Còn như tử, tuyệt thì thảm hại khắc độc, diện mạo trắng hồng, nói năng khéo léo, nét mặt nịnh nọt, trong nụ cười có chứa dao. Hội tụ với quan phù, sẽ gặp tai hoạ về pháp luật đến bất ngờ; hội tụ với kiếp sát sẽ có tang ma, chết chóc đến bất ngờ; với bạch hổ, dương nhận hội tụ, thì coi chừng thương tổn tàn tật; hội tụ với quý nhân, kiến lộc thì có chút tốt hơn. Ngũ hành vượng tướng có cát thần cứu giúp , hợp với cách quý thì không có hại gì; hợp với cách hạ tiện, gặp lại toàn bộ hung thần, thì càng hung xấu. Lại nói thêm: nơi kim sanh: chủ bệnh phong, thần kinh bế tắc gây tê liệt; nơi kim vượng: bệnh tật của độc dược, trùng độc; nơi kim mộ: chủ buồn rầu con chết ác độc. Nếu có tam hình, đức quý, chủ có chức quan cao nắm binh quyền. Đại khái sát này không tốt lành, mệnh người gặp phải vốn là điều không thích hợp; vận năm gặp phải cũng chủ tang ma khóc lóc, giặc giả xâm lược, khẩu thiệt hao tổn. Trẻ con phạm phải tai ách nước sôi và lửa; không thì trên thân thể cũng có thẹo hoặc khuyết điểm. Kinh sách cho rằng: không có gì có hại hơn là sự trừng phạt. Có khi là tốt, không vâng lời chẳng khác gì xung phá, không hẳn đều là hung xấu". Đó là ý nghĩa vậy.
论暗金的煞
此三煞乃先天数之四冲也。夫子、午之数各九,卯、酉各六,总为三十。自子顺行,极三十而见巳,是为四仲之正煞。寅申各七,巳亥,各四、总二十有二,自子顺行,极二十二而见酉,是为四孟之正煞辰戌各五,丑、未各八总二十有六,自子顺行,极二十六数而见丑,是为四季之正煞。是起于数者然也,凡神煞,皆起于数,与禄马同类。此一煞而有三名;一曰吟呻,二曰破碎,三曰白衣。子午卯酉在巳,寅申巳亥在酉,辰戌丑未在丑。巳者,金生之地,巳中,临官之火,金气临克,主杖楚刑狱呻吟之灾,故曰吟呻。酉者,金旺之地,煞物当时,又有辛金相助,万物当之,无不破碎,主支离流血之灾,故曰破碎。丑乃金之库墓,居四季而临鬼门,主妨害丧服哭泣之事,故曰白衣。五行中惟金能煞物,故总名曰暗金的煞也。其神生旺,主人宽量大器,决断有为,形容清峻,若不夭丧刑伤,须有癞病瘫痪。死绝则惨害克毒,形容红白,巧言令色,笑里藏刀。与官符并,则横来官灾;与劫煞并,则横来死丧;与白虎、羊刃并,则流心伤残;与贵人、建禄并,则稍慢。五行旺相,吉神相救,入贵格则无害;入贱格,再值一切凶神,则愈凶。又曰;金生处,主大风瘫痪之疾;金旺处,主水蛊毒药之病;金墓处,主克子恶死之忧。若带三刑德贵,主有高官持兵权。大抵此煞不吉,人命逢之,固所不宜;岁逢之,亦主孝服哭声,盗贼侵扰,口舌破耗。小儿犯此,汤火之厄;不然,身有痕疤破绽之象。经云:"谬戾无过于刑害。有时而吉;乖违莫甚于冲破,未必皆凶。"此之谓也。
.
Luận Ám Kim Đích Sát
Ba sát này là tứ xung của số tiên thiên. Số của tý, ngọ mỗi chi đều là "chín", còn mão, dậu mỗi thứ là "sáu", cộng chung lại là "ba mươi". Từ tý đi thuận hành tận ba mươi số thì gặp tỵ, nghĩa là chánh sát của tứ trọng. Dần thân mỗi thứ là bảy, tỵ hợi mỗi thứ là bốn, cộng chung là hai mươi hai. Từ tý đi thuận hành đến tận hai mươi hai số thì gặp dậu, nghĩa là chánh sát của tứ mạnh. Thìn tuất mỗi thứ là năm, sửu mùi mỗi thứ là tám, cộng chung lại hai mươi sáu, từ tý đi thuận hành đến hai mươi sáu số thì gặp sửu, nghĩa là chánh sát của tứ quý. Đúng là khởi từ số vậy. Nói chung thần sát đều khởi từ số, kiểu giống với lộc mã. Đây là một loại sát có ba tên gọi, một gọi là ngâm thân, hai gọi là phá toái, ba gọi là bạch y. Tý ngọ, mão dậu ở tỵ, dần thân tỵ hợi ở dậu, thìn tuất sửu mùi ở sửu. Tỵ là nơi kim sanh ra, trong tỵ có hoả lâm quan, kim khí bị khắc, chủ về rên rỉ của đòn gậy trong hình ngục, cho nên gọi là ngâm thân. Dậu là nơi kim vượng, đúng lúc sát vạn vật, lại có tân kim giúp đỡ, vạn vật đối mặt làm sao không bị vỡ vụn, chủ về tai hoạ tay chân đứt lìa, đổ máu, cho nên gọi là phá toái. Sửu là mộ khố của kim, ở bốn mùa mà đến cửa quỷ, chủ các sự việc tổn hại, tang phục, khóc lóc, cho nên gọi là bạch y. Trong ngũ hành chỉ có kim có khả năng giết vạn vật, cho nên tên gọi chung là ám kim đích sát. Thần sanh vượng, chủ là người có tài năng, có hạn độ bao dung rộng lớn, quyết đoán đầy hứa hẹn, diện mạo thanh tuấn, nếu không chết non hay bị hình thương đều là có bệnh hủi, hay bệnh do thần kinh bế tắc làm tê liệt tay chân. Còn như tử, tuyệt thì thảm hại khắc độc, diện mạo trắng hồng, nói năng khéo léo, nét mặt nịnh nọt, trong nụ cười có chứa dao. Hội tụ với quan phù, sẽ gặp tai hoạ về pháp luật đến bất ngờ; hội tụ với kiếp sát sẽ có tang ma, chết chóc đến bất ngờ; với bạch hổ, dương nhận hội tụ, thì coi chừng thương tổn tàn tật; hội tụ với quý nhân, kiến lộc thì có chút tốt hơn. Ngũ hành vượng tướng có cát thần cứu giúp , hợp với cách quý thì không có hại gì; hợp với cách hạ tiện, gặp lại toàn bộ hung thần, thì càng hung xấu. Lại nói thêm: nơi kim sanh: chủ bệnh phong, thần kinh bế tắc gây tê liệt; nơi kim vượng: bệnh tật của độc dược, trùng độc; nơi kim mộ: chủ buồn rầu con chết ác độc. Nếu có tam hình, đức quý, chủ có chức quan cao nắm binh quyền. Đại khái sát này không tốt lành, mệnh người gặp phải vốn là điều không thích hợp; vận năm gặp phải cũng chủ tang ma khóc lóc, giặc giả xâm lược, khẩu thiệt hao tổn. Trẻ con phạm phải tai ách nước sôi và lửa; không thì trên thân thể cũng có thẹo hoặc khuyết điểm. Kinh sách cho rằng: không có gì có hại hơn là sự trừng phạt. Có khi là tốt, không vâng lời chẳng khác gì xung phá, không hẳn đều là hung xấu". Đó là ý nghĩa vậy.
论暗金的煞
此三煞乃先天数之四冲也。夫子、午之数各九,卯、酉各六,总为三十。自子顺行,极三十而见巳,是为四仲之正煞。寅申各七,巳亥,各四、总二十有二,自子顺行,极二十二而见酉,是为四孟之正煞辰戌各五,丑、未各八总二十有六,自子顺行,极二十六数而见丑,是为四季之正煞。是起于数者然也,凡神煞,皆起于数,与禄马同类。此一煞而有三名;一曰吟呻,二曰破碎,三曰白衣。子午卯酉在巳,寅申巳亥在酉,辰戌丑未在丑。巳者,金生之地,巳中,临官之火,金气临克,主杖楚刑狱呻吟之灾,故曰吟呻。酉者,金旺之地,煞物当时,又有辛金相助,万物当之,无不破碎,主支离流血之灾,故曰破碎。丑乃金之库墓,居四季而临鬼门,主妨害丧服哭泣之事,故曰白衣。五行中惟金能煞物,故总名曰暗金的煞也。其神生旺,主人宽量大器,决断有为,形容清峻,若不夭丧刑伤,须有癞病瘫痪。死绝则惨害克毒,形容红白,巧言令色,笑里藏刀。与官符并,则横来官灾;与劫煞并,则横来死丧;与白虎、羊刃并,则流心伤残;与贵人、建禄并,则稍慢。五行旺相,吉神相救,入贵格则无害;入贱格,再值一切凶神,则愈凶。又曰;金生处,主大风瘫痪之疾;金旺处,主水蛊毒药之病;金墓处,主克子恶死之忧。若带三刑德贵,主有高官持兵权。大抵此煞不吉,人命逢之,固所不宜;岁逢之,亦主孝服哭声,盗贼侵扰,口舌破耗。小儿犯此,汤火之厄;不然,身有痕疤破绽之象。经云:"谬戾无过于刑害。有时而吉;乖违莫甚于冲破,未必皆凶。"此之谓也。
.
#66
Gửi vào 29/06/2024 - 10:47
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Tai Sát
Tai sát là: bản tính nó mạnh bạo, luôn ở phía trước kiếp sát, xung phá tướng tinh, gọi là tai sát. Ví như thân tý thìn tướng tinh ở tý, ngọ liền tới xung bỏ tý; dần ngọ tuất ở ngọ, tý liền tới xung bỏ; tỵ dậu sửu ở dậu, mão liền tới xung bỏ; hợi mão mùi ở mão dậu liền tới xung bỏ, đó là tai sát vậy. Sát này chủ về bất ngờ chết thảm. Nơi chốn thuỷ, hoả đề phòng cháy và chết đuối; kim mộc là gậy và đao, thổ ngã dổ, bệnh dịch khắc thân thì rất hung xấu. Nếu có phúc thần trợ giúp, phần lớn là sức mạnh, cũng giống như kiếp sát, cần phải gặp nơi quan tinh, ấn thụ sanh vượng mới tốt đẹp. "Thần Bạch Kinh" cho rằng: "tai sát sợ ở nơi khắc sanh, tức là điềm lành". Đó là ý nghĩa chánh của nó vậy.
论灾煞
灾煞者,其性勇猛,常居劫煞之前,冲破将星,谓之灾煞。如申子辰将星在子,午却去冲子;寅午戌在午,子却去冲;巳酉丑在酉,卯却去冲;亥卯未在卯,酉却去冲。是灾煞也。此煞主血光横死。在水火,防焚溺,金木杖刃,土坠落,瘟疫克身,大凶。若有福神相助,多是武权。亦如劫煞之类,要见官星、印绶生旺处为佳。《神白经》云:"灾煞畏乎克生处,却为祥。"正谓此也。
.
Luận Tai Sát
Tai sát là: bản tính nó mạnh bạo, luôn ở phía trước kiếp sát, xung phá tướng tinh, gọi là tai sát. Ví như thân tý thìn tướng tinh ở tý, ngọ liền tới xung bỏ tý; dần ngọ tuất ở ngọ, tý liền tới xung bỏ; tỵ dậu sửu ở dậu, mão liền tới xung bỏ; hợi mão mùi ở mão dậu liền tới xung bỏ, đó là tai sát vậy. Sát này chủ về bất ngờ chết thảm. Nơi chốn thuỷ, hoả đề phòng cháy và chết đuối; kim mộc là gậy và đao, thổ ngã dổ, bệnh dịch khắc thân thì rất hung xấu. Nếu có phúc thần trợ giúp, phần lớn là sức mạnh, cũng giống như kiếp sát, cần phải gặp nơi quan tinh, ấn thụ sanh vượng mới tốt đẹp. "Thần Bạch Kinh" cho rằng: "tai sát sợ ở nơi khắc sanh, tức là điềm lành". Đó là ý nghĩa chánh của nó vậy.
论灾煞
灾煞者,其性勇猛,常居劫煞之前,冲破将星,谓之灾煞。如申子辰将星在子,午却去冲子;寅午戌在午,子却去冲;巳酉丑在酉,卯却去冲;亥卯未在卯,酉却去冲。是灾煞也。此煞主血光横死。在水火,防焚溺,金木杖刃,土坠落,瘟疫克身,大凶。若有福神相助,多是武权。亦如劫煞之类,要见官星、印绶生旺处为佳。《神白经》云:"灾煞畏乎克生处,却为祥。"正谓此也。
.
#67
Gửi vào 29/06/2024 - 10:56
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Lục Ách
Ách là gặp khó khăn, tai hoạ, luôn ở trước mã một thần, sau kiếp hai thần, tử mà không gặp sanh nghĩa là ách. Thân tý thìn thuỷ cục: thuỷ tử ở mão; dần ngọ tuất hoả cục: hoả tử ở dậu, hợi mão mùi mộc cục: mộc tử ở ngọ; tỵ dậu sửu kim cục: kim tử ở tý, vì thế đó là ách. Nếu có cứu giúp, có sự nâng đỡ, phù trợ, gặp sanh vượng và cả quý khí tương trợ, sẽ tốt lành, cuối cùng cả đời vẫn trì trệ. "Hồ Trung Tử" cho rằng: "lục ách là sát của quan bóc lột, Lý Quảng không được ban tước hầu là vậy".
论六厄
厄者,遭乎难者也,常居马前一辰,劫后二辰,死而不生谓之厄。申子辰水局,水死在卯;寅午戌火局,火死在酉;亥卯未木局,木死在午;巳酉丑金局,金死在子,所以为厄。若有救护,有扶持,逢生旺兼贵气相助,则吉,究竟一生蹇滞。《壶中子》云:"六厄为剥官之煞,李广不封侯是也。"
.
Luận Lục Ách
Ách là gặp khó khăn, tai hoạ, luôn ở trước mã một thần, sau kiếp hai thần, tử mà không gặp sanh nghĩa là ách. Thân tý thìn thuỷ cục: thuỷ tử ở mão; dần ngọ tuất hoả cục: hoả tử ở dậu, hợi mão mùi mộc cục: mộc tử ở ngọ; tỵ dậu sửu kim cục: kim tử ở tý, vì thế đó là ách. Nếu có cứu giúp, có sự nâng đỡ, phù trợ, gặp sanh vượng và cả quý khí tương trợ, sẽ tốt lành, cuối cùng cả đời vẫn trì trệ. "Hồ Trung Tử" cho rằng: "lục ách là sát của quan bóc lột, Lý Quảng không được ban tước hầu là vậy".
论六厄
厄者,遭乎难者也,常居马前一辰,劫后二辰,死而不生谓之厄。申子辰水局,水死在卯;寅午戌火局,火死在酉;亥卯未木局,木死在午;巳酉丑金局,金死在子,所以为厄。若有救护,有扶持,逢生旺兼贵气相助,则吉,究竟一生蹇滞。《壶中子》云:"六厄为剥官之煞,李广不封侯是也。"
.
#68
Gửi vào 29/06/2024 - 11:10
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Câu Giảo
Câu nghĩa là liên luỵ; giảo tên của ràng buộc, gò bó, hai sát này luôn đối xung , cũng giống vong kiếp. Dương nam âm nữ: trước mệnh ba thần là câu; sau mệnh ba thần là giảo; âm nam dương nữ: trước mệnh ba thần là giảo, sau mệnh ba thần là câu. Ví dụ lệnh người dương giáp tý, mão là câu, dậu là giảo; ất sửu người âm mệnh thìn là giảo, tuất là câu. Bài bát xưa hát rằng: "trảo nha sát khử bỏ mệnh ở ba thần, rất kỵ kim thần, dương nhận đến; kế bên sát khắc bản thân mà không có phúc thần cứu, ắt sẽ gặp rắn, cọp thương tổn thân người đó". Loại sát này đại kỵ kim thần, bạch hổ hội tụ, sẽ hung xấu. Điều tương tự cũng áp dụng cho các loại gia súc, trâu, ngựa, chó chớ không chỉ cọp, chó sói. Người không bị khắc bản thân cùng với phúc thần đồng cung thì không ảnh hưởng. Đại khái loại sát này, mệnh người gặp phải: có thân khắc sát phần nhiều có mưu kế xảo quyệt, chủ phụ trách luật hình sự; hoặc là tướng soái, chuyên tâm giết chóc. Nếu sát khắc thân: chủ mệnh bị lầm lỗi mà chết; trẻ con gặp phải lầm lỗi mà tai hoạ bất ngờ; vận năm đến đây cũng chủ các việc: khẩu thiệt, hình ngục. Lại cho rằng: gặp đủ cả hai nơi: tai hoạ nặng, gặp một nơi thì nhẹ hơn. Lại cho rằng: có quỷ thì tai hoạ nặng, không có quỷ thì tai hoạ nhẹ.
论勾绞
勾者,牵连之义;绞者,羁绊之名,二煞尝相对冲,亦犹亡劫。阳男阴女,命前三辰为勾;命后一三辰为绞;阴男阳女,命前三辰为绞,命后三辰为勾。假令甲子阳命人,卯为勾,酉为绞;乙丑阴命人,辰为绞,戌为勾之例。古歌云:"爪牙煞去命三辰,大忌金神羊刃临;夹煞克身无福救,必遭蛇虎伤其身。"此煞大忌金神白虎并,则凶。牛马犬畜等伤亦是,不独虎狼也。不克身与福同宫者不用。大抵此煞,凡命遇之,身若克煞,多心路计巧,主掌刑法之任;或为将帅,专地诛戮。煞若克身,主非命而终;小人逢之,非横灾祸;行年至此,亦主口舌刑狱等事。又云:值两位全者,灾重,一位者轻。又云:有鬼则灾重,无鬼则灾轻。
.
Luận Câu Giảo
Câu nghĩa là liên luỵ; giảo tên của ràng buộc, gò bó, hai sát này luôn đối xung , cũng giống vong kiếp. Dương nam âm nữ: trước mệnh ba thần là câu; sau mệnh ba thần là giảo; âm nam dương nữ: trước mệnh ba thần là giảo, sau mệnh ba thần là câu. Ví dụ lệnh người dương giáp tý, mão là câu, dậu là giảo; ất sửu người âm mệnh thìn là giảo, tuất là câu. Bài bát xưa hát rằng: "trảo nha sát khử bỏ mệnh ở ba thần, rất kỵ kim thần, dương nhận đến; kế bên sát khắc bản thân mà không có phúc thần cứu, ắt sẽ gặp rắn, cọp thương tổn thân người đó". Loại sát này đại kỵ kim thần, bạch hổ hội tụ, sẽ hung xấu. Điều tương tự cũng áp dụng cho các loại gia súc, trâu, ngựa, chó chớ không chỉ cọp, chó sói. Người không bị khắc bản thân cùng với phúc thần đồng cung thì không ảnh hưởng. Đại khái loại sát này, mệnh người gặp phải: có thân khắc sát phần nhiều có mưu kế xảo quyệt, chủ phụ trách luật hình sự; hoặc là tướng soái, chuyên tâm giết chóc. Nếu sát khắc thân: chủ mệnh bị lầm lỗi mà chết; trẻ con gặp phải lầm lỗi mà tai hoạ bất ngờ; vận năm đến đây cũng chủ các việc: khẩu thiệt, hình ngục. Lại cho rằng: gặp đủ cả hai nơi: tai hoạ nặng, gặp một nơi thì nhẹ hơn. Lại cho rằng: có quỷ thì tai hoạ nặng, không có quỷ thì tai hoạ nhẹ.
论勾绞
勾者,牵连之义;绞者,羁绊之名,二煞尝相对冲,亦犹亡劫。阳男阴女,命前三辰为勾;命后一三辰为绞;阴男阳女,命前三辰为绞,命后三辰为勾。假令甲子阳命人,卯为勾,酉为绞;乙丑阴命人,辰为绞,戌为勾之例。古歌云:"爪牙煞去命三辰,大忌金神羊刃临;夹煞克身无福救,必遭蛇虎伤其身。"此煞大忌金神白虎并,则凶。牛马犬畜等伤亦是,不独虎狼也。不克身与福同宫者不用。大抵此煞,凡命遇之,身若克煞,多心路计巧,主掌刑法之任;或为将帅,专地诛戮。煞若克身,主非命而终;小人逢之,非横灾祸;行年至此,亦主口舌刑狱等事。又云:值两位全者,灾重,一位者轻。又云:有鬼则灾重,无鬼则灾轻。
.
#69
Gửi vào 29/06/2024 - 11:35
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Cô Thần Quả Tú
Thánh hiền xưa có nói rằng: già mà không có chồng gọi là quả, trẻ con mà không có cha gọi là cô, đó là ý nghĩa của nó vậy.
Thần nghĩa là tinh thần (ngôi sao), "tú" nghĩa là tinh tú (ngôi sao), ý chỉ thần của chúng. Mệnh người phạm sao này sẽ là cô quả. Ví như hợi tý sửu ba vị trí cùng một hướng, tiến tới một chi gặp dần là cô, lui sau một chi gặp tuất là quả. Lại thêm: qua góc là cô, góc lùi là quả. Còn lại các phương khác đều y theo như đó mà xét. Đó là nghĩa buồn rầu của âm dương. Vả lại dần là bắt đầu mùa xuân, thìn là cuối xuân, tỵ là đầu mùa hạ, mùi là cuối hạ, thân là đầu mùa thu, tuất là cuối thu, hợi là đầu mùa đông, sửu là cuối đông, đều là thần của âm dương tách biệt, lúc thay đổi nhau của bốn mùa.
"Tam Xa" cho rằng: trong tạo hoá lấy cái sanh mình làm mẹ, khắc mình là chồng, mình khắc là vợ. Hợi tý sửu thuộc phương bắc vị trí của thuỷ: thuỷ lấy kim làm mẹ, mà kim tuyệt ở dần tức là mẫu tuyệt vậy; lấy hoả làm vợ, hoả mộ ở tuất, tức là thê mộ vậy. Tỵ ngọ mùi thuộc phương nam vị trí của hoả: hoả lấy mộc làm mẹ, mộc tuyệt ở thân; lấy thuỷ làm chồng, thuỷ mộ ở thìn. Dần mão thìn thuộc phương đông vị trí của mộc: mộc lấy thuỷ làm mẹ, thuỷ tuyệt ở tỵ; lấy kim làm chồng, kim mộ ở sửu. Nghĩa là lấy chỗ mẫu tuyệt làm "cô thần", chỗ phu mộ hay thê mộ làm quả tú, nghĩa lý của nó thật chắc chắn.
"Lạc Lục Tử" cho rằng: "nói về phân ly trong cốt nhục, cô quả gần như do cách - biệt ly và giác - góc, xó".
"Ngọc Môn Tập" cho rằng: "dần thân tỵ hợi là giác, thìn tuất sửu mùi là cách. Cái mà tiến lên là dương thì bất lợi cho cha; cái mà thối lui là âm thì bất lợi cho mẹ".
Lại cho rằng: "ở cung dương tổn hại cha, ở cung âm thì tổn hại mẹ. Như người dần mão thìn: tỵ là cô, sửu là quả, dần thìn là vị trí của dương, sửu tỵ là vị trí của âm. Mệnh người nam nữ gặp phải, cho dù con ruột của mình cũng thường không hoà thuận".
Vương Thị cho rằng: "mệnh nam sanh ở chỗ thê tuyệt mà gặp cô thần, cả đời khó khăn việc hôn nhân; mệnh nữ sanh ở chỗ phu tuyệt mà gặp quả tú, kết hôn nhiều lần cũng không thành giai lão".
Như người tân sửu gặp canh dần: dần là cô thần của sửu, sửu là quả tú của dần, dần sửu là quả tú lẫn nhau. Nói theo cách giác trong sửu dần có quẻ cấn, bốn quẻ càn khôn cấn tốn giống như giác vậy.
"Chúc Thần Kinh" cho rằng: " Mệnh người thường phạm cô quả chủ hình mạo hèn kém, lộ xương, mặt không thiện cảm, không lọi cho lục thân. Được sanh vượng thì có một chút khá hơn, còn tử tuyệt thì càng nặng hơn. Có dịch mã hội tụ thì buông tuồng nơi xứ khác; không vong hội tụ thì trẻ nhỏ không nơi nương tựa; tang điếu hội tụ thì cha mẹ liên tiếp nhau mà mất. Cả đời thường gặp nhiều tang thương và bất hạnh, cốt nhục linh đinh, một mình cùng quẫn không thuận lợi. Hợp quý cách: ở rễ nhà vợ; hợp tiện cách không tránh khỏi trôi giạt".
"Quỷ Cốc Di Văn" cho rằng: " liền mạch thì không nói đến cô quả: như hợi gặp dần tuất, hay dần gặp sửu tỵ; hoặc can chi hướng về chỗ quý nhân ẩn tàng, tuy là phạm cô quả mà không lấy cô quả để luận".
"Quảng Lục" cho rằng: "tỉnh lan nghiêng lệch, là cô thần quả tú". Thêm thiên can đới đảo thực gọi là tỉnh lan đảo thực. Như người tỵ ngọ mùi lại sanh vào ba tháng mùa hạ tức là dính cô quả nặng gấp đôi, chủ về khắc vợ hại con, có ít người thân thuộc, tiền tài không tụ, thường sanh con gái, có thêm các hung sát chủ không được chết tốt đẹp.
"Lạc Lục Tử" cho rằng: "nương vào âm mà hiểu biết dương hoạ, tuế tinh chớ nên phạm vào cô thần; dựa vào dương mà xem xét âm tai, thiên niên kỵ gặp quả tú. Đại khái nói rằng tiểu vận, thái tuế không thể phạm vào, dương thì lấy cô thần làm trọng, còn âm thì lấy quả tú làm trọng".
论孤辰寡宿
先贤有云:老而无夫曰寡,幼而无父曰孤,此其义也。
辰谓星辰,宿谓星宿,指其神也。人命犯此星辰,则孤寡如是。如亥子丑逐方三位,进前一辰见寅为孤,退后一辰见戌为寡。又过角为孤,退角为寡。其余三方皆依此推。乃阴阳惆怅之义。且夫寅为春始,辰为春末,巳为夏始,未为夏末,申为秋始,戌为秋末,亥为冬始,丑为冬末,皆阴阳支离之神,四时代谢之方。
《三车》云:造物中以生我者为母,克我者为夫,我克者为妻。亥子丑属北方水位,水用金为母,金绝于寅,是母绝也;用火为妻,火墓为戌,是妻墓也。巳午未,南方火位,火用木为母,木绝在申;用水为夫,水墓在辰。寅卯辰属东方木位,木用水为母,水绝在巳;用金为夫,金墓在丑。是取母绝为孤辰,夫墓、妻墓为寡宿,其义尤切。
《珞录子》云:“骨肉中道分离,孤寡犹嫌于隔角。”
《玉门集》云:“寅申巳亥为角,辰戌丑未为隔。进者为阳,不利父;退者为阴,不利母。”
又云:“在阳宫妨父,在阴宫妨母。如寅卯辰人,巳为孤,丑为寡,寅辰为阳之位,丑巳为阴之位。男女生命见之,虽亲生儿女,多不和顺。”
王氏云:“男命生于妻绝之中而逢孤辰,平生难于婚偶;女命生于夫绝之中而遇寡宿,屡嫁不能偕老。”
如辛丑人得庚寅,寅为丑孤辰,丑为寅寡宿,寅丑互为寡宿。隔角言丑寅中有艮卦隔,乾坤艮巽四犹之角也。
《烛神经》云:“凡人命犯孤寡,主形孤骨露,面无和气,不利六亲。生旺稍可,死绝尤甚。驿马并,放荡他乡;空亡并幼小无倚;丧吊并,父母相继而亡。一生多逢重丧叠祸,骨肉伶仃,单寒不利。入贵格,赘婿妇家;入贱格,移流未免。”
《鬼谷遗文》云:“连属不言孤寡,如亥得寅戌,寅得丑巳;或支干朝会包裹贵人,虽犯孤寡,不以孤寡论。”
《广录》云:“井栏斜冲,是孤辰寡宿。”更天干带倒食,谓之井栏倒食。若巳午未人再生夏三月,是带两重孤寡,主克妻害子,少六亲,不聚财,多生女;更带诸凶煞,主不令终。
《珞录子》云:“凭阴察其阳祸,岁星莫犯于孤辰;恃阳鉴以阴灾,天年忌逢于寡宿。”盖言小运、太岁不可犯之,阳以孤辰为重,阴以寡宿为重。
.
Luận Cô Thần Quả Tú
Thánh hiền xưa có nói rằng: già mà không có chồng gọi là quả, trẻ con mà không có cha gọi là cô, đó là ý nghĩa của nó vậy.
Thần nghĩa là tinh thần (ngôi sao), "tú" nghĩa là tinh tú (ngôi sao), ý chỉ thần của chúng. Mệnh người phạm sao này sẽ là cô quả. Ví như hợi tý sửu ba vị trí cùng một hướng, tiến tới một chi gặp dần là cô, lui sau một chi gặp tuất là quả. Lại thêm: qua góc là cô, góc lùi là quả. Còn lại các phương khác đều y theo như đó mà xét. Đó là nghĩa buồn rầu của âm dương. Vả lại dần là bắt đầu mùa xuân, thìn là cuối xuân, tỵ là đầu mùa hạ, mùi là cuối hạ, thân là đầu mùa thu, tuất là cuối thu, hợi là đầu mùa đông, sửu là cuối đông, đều là thần của âm dương tách biệt, lúc thay đổi nhau của bốn mùa.
"Tam Xa" cho rằng: trong tạo hoá lấy cái sanh mình làm mẹ, khắc mình là chồng, mình khắc là vợ. Hợi tý sửu thuộc phương bắc vị trí của thuỷ: thuỷ lấy kim làm mẹ, mà kim tuyệt ở dần tức là mẫu tuyệt vậy; lấy hoả làm vợ, hoả mộ ở tuất, tức là thê mộ vậy. Tỵ ngọ mùi thuộc phương nam vị trí của hoả: hoả lấy mộc làm mẹ, mộc tuyệt ở thân; lấy thuỷ làm chồng, thuỷ mộ ở thìn. Dần mão thìn thuộc phương đông vị trí của mộc: mộc lấy thuỷ làm mẹ, thuỷ tuyệt ở tỵ; lấy kim làm chồng, kim mộ ở sửu. Nghĩa là lấy chỗ mẫu tuyệt làm "cô thần", chỗ phu mộ hay thê mộ làm quả tú, nghĩa lý của nó thật chắc chắn.
"Lạc Lục Tử" cho rằng: "nói về phân ly trong cốt nhục, cô quả gần như do cách - biệt ly và giác - góc, xó".
"Ngọc Môn Tập" cho rằng: "dần thân tỵ hợi là giác, thìn tuất sửu mùi là cách. Cái mà tiến lên là dương thì bất lợi cho cha; cái mà thối lui là âm thì bất lợi cho mẹ".
Lại cho rằng: "ở cung dương tổn hại cha, ở cung âm thì tổn hại mẹ. Như người dần mão thìn: tỵ là cô, sửu là quả, dần thìn là vị trí của dương, sửu tỵ là vị trí của âm. Mệnh người nam nữ gặp phải, cho dù con ruột của mình cũng thường không hoà thuận".
Vương Thị cho rằng: "mệnh nam sanh ở chỗ thê tuyệt mà gặp cô thần, cả đời khó khăn việc hôn nhân; mệnh nữ sanh ở chỗ phu tuyệt mà gặp quả tú, kết hôn nhiều lần cũng không thành giai lão".
Như người tân sửu gặp canh dần: dần là cô thần của sửu, sửu là quả tú của dần, dần sửu là quả tú lẫn nhau. Nói theo cách giác trong sửu dần có quẻ cấn, bốn quẻ càn khôn cấn tốn giống như giác vậy.
"Chúc Thần Kinh" cho rằng: " Mệnh người thường phạm cô quả chủ hình mạo hèn kém, lộ xương, mặt không thiện cảm, không lọi cho lục thân. Được sanh vượng thì có một chút khá hơn, còn tử tuyệt thì càng nặng hơn. Có dịch mã hội tụ thì buông tuồng nơi xứ khác; không vong hội tụ thì trẻ nhỏ không nơi nương tựa; tang điếu hội tụ thì cha mẹ liên tiếp nhau mà mất. Cả đời thường gặp nhiều tang thương và bất hạnh, cốt nhục linh đinh, một mình cùng quẫn không thuận lợi. Hợp quý cách: ở rễ nhà vợ; hợp tiện cách không tránh khỏi trôi giạt".
"Quỷ Cốc Di Văn" cho rằng: " liền mạch thì không nói đến cô quả: như hợi gặp dần tuất, hay dần gặp sửu tỵ; hoặc can chi hướng về chỗ quý nhân ẩn tàng, tuy là phạm cô quả mà không lấy cô quả để luận".
"Quảng Lục" cho rằng: "tỉnh lan nghiêng lệch, là cô thần quả tú". Thêm thiên can đới đảo thực gọi là tỉnh lan đảo thực. Như người tỵ ngọ mùi lại sanh vào ba tháng mùa hạ tức là dính cô quả nặng gấp đôi, chủ về khắc vợ hại con, có ít người thân thuộc, tiền tài không tụ, thường sanh con gái, có thêm các hung sát chủ không được chết tốt đẹp.
"Lạc Lục Tử" cho rằng: "nương vào âm mà hiểu biết dương hoạ, tuế tinh chớ nên phạm vào cô thần; dựa vào dương mà xem xét âm tai, thiên niên kỵ gặp quả tú. Đại khái nói rằng tiểu vận, thái tuế không thể phạm vào, dương thì lấy cô thần làm trọng, còn âm thì lấy quả tú làm trọng".
论孤辰寡宿
先贤有云:老而无夫曰寡,幼而无父曰孤,此其义也。
辰谓星辰,宿谓星宿,指其神也。人命犯此星辰,则孤寡如是。如亥子丑逐方三位,进前一辰见寅为孤,退后一辰见戌为寡。又过角为孤,退角为寡。其余三方皆依此推。乃阴阳惆怅之义。且夫寅为春始,辰为春末,巳为夏始,未为夏末,申为秋始,戌为秋末,亥为冬始,丑为冬末,皆阴阳支离之神,四时代谢之方。
《三车》云:造物中以生我者为母,克我者为夫,我克者为妻。亥子丑属北方水位,水用金为母,金绝于寅,是母绝也;用火为妻,火墓为戌,是妻墓也。巳午未,南方火位,火用木为母,木绝在申;用水为夫,水墓在辰。寅卯辰属东方木位,木用水为母,水绝在巳;用金为夫,金墓在丑。是取母绝为孤辰,夫墓、妻墓为寡宿,其义尤切。
《珞录子》云:“骨肉中道分离,孤寡犹嫌于隔角。”
《玉门集》云:“寅申巳亥为角,辰戌丑未为隔。进者为阳,不利父;退者为阴,不利母。”
又云:“在阳宫妨父,在阴宫妨母。如寅卯辰人,巳为孤,丑为寡,寅辰为阳之位,丑巳为阴之位。男女生命见之,虽亲生儿女,多不和顺。”
王氏云:“男命生于妻绝之中而逢孤辰,平生难于婚偶;女命生于夫绝之中而遇寡宿,屡嫁不能偕老。”
如辛丑人得庚寅,寅为丑孤辰,丑为寅寡宿,寅丑互为寡宿。隔角言丑寅中有艮卦隔,乾坤艮巽四犹之角也。
《烛神经》云:“凡人命犯孤寡,主形孤骨露,面无和气,不利六亲。生旺稍可,死绝尤甚。驿马并,放荡他乡;空亡并幼小无倚;丧吊并,父母相继而亡。一生多逢重丧叠祸,骨肉伶仃,单寒不利。入贵格,赘婿妇家;入贱格,移流未免。”
《鬼谷遗文》云:“连属不言孤寡,如亥得寅戌,寅得丑巳;或支干朝会包裹贵人,虽犯孤寡,不以孤寡论。”
《广录》云:“井栏斜冲,是孤辰寡宿。”更天干带倒食,谓之井栏倒食。若巳午未人再生夏三月,是带两重孤寡,主克妻害子,少六亲,不聚财,多生女;更带诸凶煞,主不令终。
《珞录子》云:“凭阴察其阳祸,岁星莫犯于孤辰;恃阳鉴以阴灾,天年忌逢于寡宿。”盖言小运、太岁不可犯之,阳以孤辰为重,阴以寡宿为重。
.
#70
Gửi vào 29/06/2024 - 11:52
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Thiên La Địa Võng
Ý nghĩa của thuyết về la võng rất rõ ràng. Nhưng vì sao lấy tuất hợi làm thiên la, và thìn tỵ làm địa võng, bởi trời nghiêng ở tây bắc, nơi của tuất hợi là chỗ tận cùng của lục âm; đất trũng thấp ở đông nam, nơi của thìn tỵ là chỗ tận cùng của lục dương. Chỗ tận cùng của âm dương thì u ám không rõ ràng, giống như người ở tại la võng, đó là ý nghĩa vậy.
"Hồ Trung Tử" cho rằng: "rồng rắn lẫn lộn, chỉ riêng mạng thìn bất lợi; heo chó xâm lăng chỉ oán ghét chữ hợi".
Rồng là thìn, rắn là tỵ; người thìn gặp tỵ, người tỵ gặp thìn: đều nói là rồng rắn lẫn lộn. Nam mệnh thì không tổn hại, chỉ nữ mệnh thì tan vỡ hôn nhân, hại con, ôm nhiều bệnh tật mà bạc mệnh. Người thìn gặp tỵ thì nặng; người tỵ gặp thìn thì nhẹ. Nói rằng rồng sanh ở hang rắn là thối lui; rắn sanh ở hang rồng là tiến tới. Heo là hợi, chó là tuất; người tuất gặp hợi, người hợi gặp tuất đều nói heo chó xâm lăng. Nữ mệnh thì không tổn hại, chỉ nam mệnh thì trở trệ, không thuận lợi, tổn hại tổ nghiệp, khắc vợ. Người tuất gặp hợi thì nhẹ; người hợi gặp tuất thì nặng. Nói rằng chó vào bầy heo thì tiến tới; hao vào bầy chó thì thương tổn.
"Chư Thư" cũng cho rằng: " rồng rắn lẫn lộn, luôn giúp phụ nữ phòng ngừa lo lắng nguy hiểm; heo chó xâm lăng, chỉ lo lắng đàn ông con trai gặp ách nạn". Nghĩa là nam thì sợ thiên la, còn nữ thì sợ địa võng. Khoảng giữa lại phân ra người mệnh hoả có thiên la, người mệnh thuỷ, thổ có địa võng, còn lại hai mệnh kim, mộc thì không có. Mệnh người có nó thường bị trì trệ, có thêm ác sát hội tụ, ngũ hành vô khí chắc rằng sẽ bị chết ác độc. Vận trình đến đây cũng giống như vậy. Thí dụ như năm tuất tháng tuất người sanh ngày mùng một, phạm một năm thiên la; người sanh ngày mười lăm thì phạm mười lăm năm thiên la; nếu thêm giờ sanh cũng là tuất, thì tăng thành ba mươi năm thiên la. Hoặc là năm tuất tháng hợi, hoặc giờ hợi ngày tuất luân phiên gặp được, gọi là trọng phạm. thì tai hoạ không thể ngưng. Địa võng cũng giống như lý thuyết trên. Nếu như thiên la địa võng hội tụ nhiều lần thì tai hại càng nặng.
"Lý Ngu Ca" cho rằng: "lúc sanh ra ở địa kết với thiên bàn, cố gắng để người thân được yên ổn lâu dài". Ví như mệnh giáp thìn gặp giáp tuất, mệnh giáp tuất gặp giáp thìn, chỉ có người sanh hai thần này là đúng nói về la võng vậy.
论天罗地网
罗网之说,其义甚明。然何以戌亥为天罗,辰巳为地网,盖天倾西北,戌亥者,六阴之终也;地陷东南,辰巳者,六阳之终也。阴阳终极,则暗昧不明,如人之在罗网,此春义也。
《壶中子》云:“龙蛇混杂,偏不利于辰生;猪犬侵凌,但独嫌于亥字。”
龙为辰,蛇为巳;辰人得巳,巳人得辰,皆曰龙蛇混杂。男命则不妨,惟女命破婚害子,薄命抱疾。辰人得巳,重;巳人得辰,轻。谓龙生蛇穴者,退;蛇生龙穴者,进。猪为亥,犬为戌;戌人得亥,亥人得戌,皆曰猪犬侵凌。女命则不妨,惟男命则滞龃龉龆,妨祖克妻。戌人得亥,轻;亥人得戌,重。谓犬入猪群,则进;猪入犬群,则伤。
《诸书》亦云:“龙蛇混杂,常防妇女忧危;猪犬侵凌,每虑丈夫厄难。”是男怕天罗,女怕地网。中间又分火命人有天罗,水、土命人有地网,余金木二命无之。人命带此,多主蹇滞,更加恶煞相并,五行无气,必主恶死。行运至此,亦如之。假如戌年戎月初一日生者,犯一年天罗;十五日生者,犯十五年天罗;若更生时是戌,增成三十年天罗。或戌年亥月,或亥时戌日,交互见之,谓之重犯。则灾不能歇。地网如上说。若天罗地网重并,为害尤重。
《理愚歌》云:“生时地结与天盘,争使亲闱得久安。”如甲辰命见甲戌,申戌命见甲辰,只此二辰生人,是就罗网中言之也。
.
Luận Thiên La Địa Võng
Ý nghĩa của thuyết về la võng rất rõ ràng. Nhưng vì sao lấy tuất hợi làm thiên la, và thìn tỵ làm địa võng, bởi trời nghiêng ở tây bắc, nơi của tuất hợi là chỗ tận cùng của lục âm; đất trũng thấp ở đông nam, nơi của thìn tỵ là chỗ tận cùng của lục dương. Chỗ tận cùng của âm dương thì u ám không rõ ràng, giống như người ở tại la võng, đó là ý nghĩa vậy.
"Hồ Trung Tử" cho rằng: "rồng rắn lẫn lộn, chỉ riêng mạng thìn bất lợi; heo chó xâm lăng chỉ oán ghét chữ hợi".
Rồng là thìn, rắn là tỵ; người thìn gặp tỵ, người tỵ gặp thìn: đều nói là rồng rắn lẫn lộn. Nam mệnh thì không tổn hại, chỉ nữ mệnh thì tan vỡ hôn nhân, hại con, ôm nhiều bệnh tật mà bạc mệnh. Người thìn gặp tỵ thì nặng; người tỵ gặp thìn thì nhẹ. Nói rằng rồng sanh ở hang rắn là thối lui; rắn sanh ở hang rồng là tiến tới. Heo là hợi, chó là tuất; người tuất gặp hợi, người hợi gặp tuất đều nói heo chó xâm lăng. Nữ mệnh thì không tổn hại, chỉ nam mệnh thì trở trệ, không thuận lợi, tổn hại tổ nghiệp, khắc vợ. Người tuất gặp hợi thì nhẹ; người hợi gặp tuất thì nặng. Nói rằng chó vào bầy heo thì tiến tới; hao vào bầy chó thì thương tổn.
"Chư Thư" cũng cho rằng: " rồng rắn lẫn lộn, luôn giúp phụ nữ phòng ngừa lo lắng nguy hiểm; heo chó xâm lăng, chỉ lo lắng đàn ông con trai gặp ách nạn". Nghĩa là nam thì sợ thiên la, còn nữ thì sợ địa võng. Khoảng giữa lại phân ra người mệnh hoả có thiên la, người mệnh thuỷ, thổ có địa võng, còn lại hai mệnh kim, mộc thì không có. Mệnh người có nó thường bị trì trệ, có thêm ác sát hội tụ, ngũ hành vô khí chắc rằng sẽ bị chết ác độc. Vận trình đến đây cũng giống như vậy. Thí dụ như năm tuất tháng tuất người sanh ngày mùng một, phạm một năm thiên la; người sanh ngày mười lăm thì phạm mười lăm năm thiên la; nếu thêm giờ sanh cũng là tuất, thì tăng thành ba mươi năm thiên la. Hoặc là năm tuất tháng hợi, hoặc giờ hợi ngày tuất luân phiên gặp được, gọi là trọng phạm. thì tai hoạ không thể ngưng. Địa võng cũng giống như lý thuyết trên. Nếu như thiên la địa võng hội tụ nhiều lần thì tai hại càng nặng.
"Lý Ngu Ca" cho rằng: "lúc sanh ra ở địa kết với thiên bàn, cố gắng để người thân được yên ổn lâu dài". Ví như mệnh giáp thìn gặp giáp tuất, mệnh giáp tuất gặp giáp thìn, chỉ có người sanh hai thần này là đúng nói về la võng vậy.
论天罗地网
罗网之说,其义甚明。然何以戌亥为天罗,辰巳为地网,盖天倾西北,戌亥者,六阴之终也;地陷东南,辰巳者,六阳之终也。阴阳终极,则暗昧不明,如人之在罗网,此春义也。
《壶中子》云:“龙蛇混杂,偏不利于辰生;猪犬侵凌,但独嫌于亥字。”
龙为辰,蛇为巳;辰人得巳,巳人得辰,皆曰龙蛇混杂。男命则不妨,惟女命破婚害子,薄命抱疾。辰人得巳,重;巳人得辰,轻。谓龙生蛇穴者,退;蛇生龙穴者,进。猪为亥,犬为戌;戌人得亥,亥人得戌,皆曰猪犬侵凌。女命则不妨,惟男命则滞龃龉龆,妨祖克妻。戌人得亥,轻;亥人得戌,重。谓犬入猪群,则进;猪入犬群,则伤。
《诸书》亦云:“龙蛇混杂,常防妇女忧危;猪犬侵凌,每虑丈夫厄难。”是男怕天罗,女怕地网。中间又分火命人有天罗,水、土命人有地网,余金木二命无之。人命带此,多主蹇滞,更加恶煞相并,五行无气,必主恶死。行运至此,亦如之。假如戌年戎月初一日生者,犯一年天罗;十五日生者,犯十五年天罗;若更生时是戌,增成三十年天罗。或戌年亥月,或亥时戌日,交互见之,谓之重犯。则灾不能歇。地网如上说。若天罗地网重并,为害尤重。
《理愚歌》云:“生时地结与天盘,争使亲闱得久安。”如甲辰命见甲戌,申戌命见甲辰,只此二辰生人,是就罗网中言之也。
.
#71
Gửi vào 29/06/2024 - 12:00
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Thập Ác Đại Bại
Thập ác ví như người phạm mười trọng tội trong luật pháp , không thể tha thứ; đại bại giống như với địch giao chiến trong binh pháp, khi thua trận không một ai sống sót trở về, rất là xấu vậy. Trong sáu tuần lục giáp có mười ngày gặp lộc không vong, ví như giáp thìn, ất tỵ: giáp lấy dần làm lộc, ất lấy mão làm lộc, tuần giáp thìn thì dần mão không vong. Nhâm thân: nhâm lấy hợi làm lộc, tuần giáp tý thì hợi không vong. Còn lại như các ngày bính thân, đinh hợi, canh thìn, mậu tuất, quý hợi, tân tỵ, kỷ sửu đều phỏng theo đó. Mệnh phạm phải, nên lấy trên trụ ngày gặp là đúng, còn lại không kể đến. Huống chi người phạm phải chưa chắc đều là xấu, nếu trong mệnh có cát thần nâng đỡ, quý khí trợ giúp, nên luận theo hướng tốt.
"Nguyên Bạch Kinh" nói: "thập ác đều xãy ra trong mười thần, phân biệt theo từng năm rất hữu ích". Như năm canh tuất gặp ngày giáp thìn, năm tân hợi gặp ngày ất tỵ, năm nhâm dần gặp ngày bính thân, năm quý tỵ gặp ngày đinh hợi, năm giáp thìn gặp ngày mậu tuất, năm ất mùi gặp ngày kỷ sửu, năm giáp tuất gặp ngày canh thìn, năm ất hợi gặp ngày tân tỵ, năm bính dần gặp ngày nhâm thân, năm đinh tỵ gặp ngày quý hợi. Bởi vì can chi của năm xung can chi của ngày, vô lộc thì kỵ còn lại tất cả đều không hại gì.
论十恶大败
十恶者,譬律法中人,犯十恶重罪,在所不赦,大败者,譬兵法中与敌交战,大败无一生还,喻极凶也。六甲旬中十个日值禄人空亡,如甲辰、乙巳,甲以寅为禄,乙以卯为禄,甲辰旬以寅卯为空亡。壬申者,壬以亥为禄,甲子旬以亥为空亡。余如丙申、丁亥、庚辰、戊戌、癸亥、辛巳、乙丑等日皆仿此。命中犯者,当以日上见之为是,其余不论。况犯者未必皆凶,若内有吉神相扶,贵气相辅,当为吉论。
《元白经》曰:“十恶都来十个辰,逐年有煞用区分。”如庚戌年见甲辰日,辛亥年见乙巳日,壬寅年见丙申日,癸巳年见丁亥日,甲辰年见戊戌日,乙未年见乙丑日,甲戌年见庚辰日,乙亥年见辛巳日,丙寅年见壬申日,丁巳年见癸亥日,盖以年支干冲日支干,无禄为忌,余悉无妨。
.
Luận Thập Ác Đại Bại
Thập ác ví như người phạm mười trọng tội trong luật pháp , không thể tha thứ; đại bại giống như với địch giao chiến trong binh pháp, khi thua trận không một ai sống sót trở về, rất là xấu vậy. Trong sáu tuần lục giáp có mười ngày gặp lộc không vong, ví như giáp thìn, ất tỵ: giáp lấy dần làm lộc, ất lấy mão làm lộc, tuần giáp thìn thì dần mão không vong. Nhâm thân: nhâm lấy hợi làm lộc, tuần giáp tý thì hợi không vong. Còn lại như các ngày bính thân, đinh hợi, canh thìn, mậu tuất, quý hợi, tân tỵ, kỷ sửu đều phỏng theo đó. Mệnh phạm phải, nên lấy trên trụ ngày gặp là đúng, còn lại không kể đến. Huống chi người phạm phải chưa chắc đều là xấu, nếu trong mệnh có cát thần nâng đỡ, quý khí trợ giúp, nên luận theo hướng tốt.
"Nguyên Bạch Kinh" nói: "thập ác đều xãy ra trong mười thần, phân biệt theo từng năm rất hữu ích". Như năm canh tuất gặp ngày giáp thìn, năm tân hợi gặp ngày ất tỵ, năm nhâm dần gặp ngày bính thân, năm quý tỵ gặp ngày đinh hợi, năm giáp thìn gặp ngày mậu tuất, năm ất mùi gặp ngày kỷ sửu, năm giáp tuất gặp ngày canh thìn, năm ất hợi gặp ngày tân tỵ, năm bính dần gặp ngày nhâm thân, năm đinh tỵ gặp ngày quý hợi. Bởi vì can chi của năm xung can chi của ngày, vô lộc thì kỵ còn lại tất cả đều không hại gì.
论十恶大败
十恶者,譬律法中人,犯十恶重罪,在所不赦,大败者,譬兵法中与敌交战,大败无一生还,喻极凶也。六甲旬中十个日值禄人空亡,如甲辰、乙巳,甲以寅为禄,乙以卯为禄,甲辰旬以寅卯为空亡。壬申者,壬以亥为禄,甲子旬以亥为空亡。余如丙申、丁亥、庚辰、戊戌、癸亥、辛巳、乙丑等日皆仿此。命中犯者,当以日上见之为是,其余不论。况犯者未必皆凶,若内有吉神相扶,贵气相辅,当为吉论。
《元白经》曰:“十恶都来十个辰,逐年有煞用区分。”如庚戌年见甲辰日,辛亥年见乙巳日,壬寅年见丙申日,癸巳年见丁亥日,甲辰年见戊戌日,乙未年见乙丑日,甲戌年见庚辰日,乙亥年见辛巳日,丙寅年见壬申日,丁巳年见癸亥日,盖以年支干冲日支干,无禄为忌,余悉无妨。
.
#72
Gửi vào 30/06/2024 - 06:08
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Tổng Luận Chư Thần Sát
"Thần sát": thời xưa có đến một trăm hai mươi tên gọi, lý thuyết được mổ xẻ chi ly, tạo hoá e rằng không được như vậy. Trừ các loại sát trong mệnh (dương nhận, không vong, kiếp sát, tai sát, đại sát, nguyên thần, câu giảo, hàm trì, phá toái, la võng, xung kích, thiên không, huyền châm, bình đầu, đảo qua) là thiết yếu, đã bàn bạc đầy đủ ở phần trước, nay các tinh gia khảo nghiệm có lý, lại trình bày đầy đủ ở bên trái.
Tự ải sát: sát này dùng ngũ hành nghịch với nơi liên hệ, như là người tuất với tỵ, người tỵ với tuất, người thìn với hợi, người hợi với thìn, người dần với mùi, người mùi với dần, người mão với thân, người thân với mão, người ngọ với sửu, người sửu với ngọ, người tý với dậu, người dậu với tý. Rất kỵ khắc nhau, thiên nguyên là mộ, có thêm thiên trung, quan phù, đại hao nhất định là hung xấu.
Thuỷ nịch sát: sát này chọn hàm trì, kim nhận, dương nhận trên bính tý, quý mùi, quý sửu. Bởi bính tý nạp âm là thuỷ, lại thêm tý là nơi thuỷ vượng, mùi là chỗ ở của sao Tỉnh, sửu là nơi phân chia của ba con sông, thêm nạp âm mà khắc thân, chắc chắn không thể tránh khỏi. Bài hát xưa hát rằng: "sát động khắc thân tên là điên truỵ (đỉnh đầu chìm xuống), đề phòng kim thần, dương nhận ở cùng một nơi, cần biết tự ải là thần rất hung, tuất tỵ thìn hợi hội với dần mùi, tý dậu là các trường hợp hung sát, mão thân sửu mùi y như trước. Rất kỵ không vong và mộ quỷ, cần tránh xa quan phù, đại hao. Bính tý, quý mùi hội họp quý sửu, hàm trì, kim sát, dương nhận sợ. Nếu như ngũ hành đến khắc thân: một là thắt cổ chết, một là chết đuối".
Quải kiếm sát: sát này toàn là tỵ dậu sửu thân trong tứ trụ, hoặc trùng phạm tỵ dậu sửu cũng đúng, phạm thêm các loại quan phù, nguyên thần, bạch hổ, kim thần, ngũ hành hình khắc mệnh mình chủ là sát nhân hung bạo, hoặc ngược lại bị người giết. Bài thơ nói: tỵ dậu sửu thân toàn là kim khí, cách cục xưa nay luôn gọi là quải kiếm. Nguyên vong, kim hổ hội họp khắc thân, dù không giết người, thân mình sao tránh khỏi".
Thiên hoả sát: sát này chính là đầy đủ dần ngọ tuất mà thiên can có bính đinh, trong năm vị trí đầy đủ mà không gặp thuỷ, có thuỷ thì chẳng phải. Nếu vận năm đến nơi sanh vượng của hoả, nên đề phòng tai nạn về lửa. Bài thơ nói: "đầy đủ dần ngọ tuất hiệu là thiên hoả, không gặp bính đinh vẫn an toàn; cả năm nơi đều không có một chữ thuỷ, đến năm sanh vượng gặp tai nạn về lửa". Mệnh của ta có đầy đủ dần ngọ tuất, can tháng là quý đi vận mậu ngọ, mậu quý hoá hoả, năm giáp tuất, tháng giáp tuất cuồi cùng gặp hoả tai.
Thiên đồ sát: sát này trừ ngày tý giờ ngọ, ngày ngọ giờ tý ra, còn lại từng cặp ngày sửu giờ hợi, ngày hợi giờ sửu, ngày dần giờ tuất, ngày tuất giờ dần, ngày mão giờ dậu, ngày dậu giờ mão, ngày thìn giờ thân, ngày thân giờ thìn, ngày tỵ giờ mùi, ngày mùi giờ tỵ. Người quân tử phạm phải chủ có dị tật, bệnh về đường ruột, bệnh phù thủng ở chân (do thiếu sinh tố B1); trẻ con bị gãy tay chân. Người trùng phạm chủ bị lưu đày.
Thiên hình sát: sát này chọn lấy người tý sửu giờ ất, người dần giờ canh, người mão thìn giờ tân, người tỵ giờ nhâm, người ngọ mùi giờ quý, người thân (thay vì giáp) giờ bính, người dậu tuất giờ đinh, người hợi giờ mậu, lấy giờ hình khắc mệnh mình. Người phạm phải gặp hình phạt có bệnh tật.
Lôi đình sát: tháng giêng tháng bảy tháng hai tháng tám phương tý, dần; tháng ba, tháng chín, tháng tư tháng mười thìn, ngọ đương; tháng năm tháng mười một thân, tháng sáu tháng mười hai tuất nhất định chết vì sấm sét, hổ ngoạm. Lại cho rằng: "tháng giêng, tháng bảy tý ở dưới; tháng hai, tháng tám ở phương dần; tháng ba, tháng chín ở trên thìn; tháng tư, tháng mười vị trí ngọ thương tổn; tháng năm, tháng mười một vị trí thân; tháng sáu, tháng mười hai phương tuất". Tháng giêng khởi đầu ở tý đi thuận sáu cung dương. Mệnh người gặp sát này: như gặp lộc, quý; sao tốt đang đến gần thì tốt lành, ưa đến nơi có phúc đức không ai biết, chỉ quỷ thần biết (陰隲: âm chất), là pháp quan nắm giữ lôi đình làm bằng chứng ra lệnh cho nước, hoặc thành phật, tổ tiên. Như gặp dương nhận, đích sát, phi liêm vân vân mệnh hay hạn đều sẽ hung xấu, chủ rơi vào sấm sét tự nhiên , cọp ăn, trời phạt, bệnh ôn dịch, hoặc chết đuối hay chết trong tù ngục.
Thôn hãm sát: heo chó dê gặp cọp sẽ thương tổn; khỉ rắn gặp nhau trên ngọn cây sẽ chết. Chó gặp gà con trai bị đồ phối (tội nhân bị đày đi xa), thỏ rượt đuổi rắn hát bài trốn đi nơi xa. Chuột thấy chó đến đều chán ghét nhau, ngựa trâu gặp cọp nhất định bị giết. Thỏ khỉ gặp chó khó tránh ra chỗ khác, rồng đến rồng thì tai hoạ từ nước ập đến. Người thường nếu gặp ngày giờ, tam hợp thì cẩn thận tai hoạ kỹ càng. "Chú thích gốc: lấy địa chi của năm làm chủ".
Quan phù sát: chọn lấy năm thần phía trước thái tuế, ngày giờ gặp phải. Cả đời thường gặp tai vạ về luật pháp, hội thêm dương nhận chính là mệnh của hình đồ (hình phạt lao dịch). Nếu quan phù lạc thiên trung thường viễn vông không thực, tên là vọng ngữ sát.
Bệnh phù sát: dùng một thần sau thái tuế, người nào phạm phải luôn bệnh tật. Vận năm gặp phải cũng vậy.
Tử phù sát: chọn lấy đối xung với bệnh phù, tháng ngày giờ phạm phải, không có quý thần cứu giúp, sẽ hung ác và chết non.
Tang điếu sát: còn một tên là hoạnh quan sát. Dùng hai thần trước mệnh là tang môn, hai thần sau mệnh là điếu khách, nó có thể là hung sát của năm cùng đến hội tụ ở đại vận hay tiểu hạn, nhất định sẽ có tai hoạ. Thơ xưa cho rằng: "ngũ quan (tai, mắt, mũi, lưởi và da) lục tử thập nhị bệnh, tam tang thập nhất điếu lai lâm" (tạm dịch: năm giác quan bị sáu cái chét, mười hai cái bệnh tật, tam tang, mười một điếu xuất hiện). Có thể thấy bài hát mười hai cung một thái tuế, không chỉ mệnh phạm không tốt, mà lưu niên càng xấu. Nếu tháng có dương nhận đến giúp, hay hung sát tạm thời, tức là hoạnh quan vậy.
Bài ca xưa hát rằng: "hoạnh quan là ác sát ít người biết, nguyệt lộc với hung thần đến đúng lúc, cho dù có sao tốt đến thật nhiều, không gặp trừng phạt cũng nguy hiểm bất ngờ".
Trạch mộ sát: trước mệnh năm thần là tai vạ, sau mệnh năm thần là mộ, sợ trạch mộ bị các loại sát trong năm đến phá là tai vạ của mệnh mình, chủ bản thân rên rỉ.
Nhật hình sát: lấy ngày sanh của mình đếm lên giáp tý, ngừng lại ở gốc can ngày. Dương can đếm thuận, âm can đếm nghịch. Nếu ở cung mệnh chủ hình phạt nghiêm khốc; ở trong tam hợp chủ hình phạt lưu đày; ở đối cung chủ chết ở bên ngoài.
Lưu huyết sát: lấy tháng sanh của mình khởi đầu tý thuận đến năm nay thì ngưng. Nếu ở cung mệnh, trong tam hợp, hay cung đối. chủ ung thư, người dân thường bị hình phạt lưu đày, đàn bà bị tai ách về sanh đẻ.
Kiếm phong sát: tuần giáp tý kiếm ở thìn, phong ở tuất, tuần giáp ngọ kiếm ở tuất phong ở thìn, tuần giáp dần kiếm ở ngọ, phong ở thân, tuần giáp thân kiếm ở tý phong ở dần, tuần giáp thìn kiếm ở thân phong ở ngọ, tuần giáp tuất kiếm ở dần phong ở tý. Tuỳ theo ở các cung mà đoán, như bày ra ở cung thứ năm tổn con cái; lộ ở cung thứ tư hao tổn ruộng vườn nhà cửa.
Kích phong sát: tháng giêng khởi giáp, tháng hai ất, tháng ba mậu, tháng tư bính, tháng năm đinh, tháng sáu kỷ, tháng bảy canh, tháng tám tân, tháng chín mậu, tháng mười nhâm, tháng mười một quý, tháng mười hai kỷ. Can vượng lâm vào từng tháng, người mang gấp đôi ở ngày giờ hung xấu; gặp thêm huyền châm chủ nhất định bị lưu đày, tàn tật.
Phù trầm sát: khởi tý trên cung tuất đi nghịch đến năm sanh của mình, tức là cung của năm sanh rơi vào cung nào. Chỉ ở cung tài bạch tên là xuyến tiền (xâu tiền) chủ giàu có. Còn lại đều xấu. Người giáp ất kỷ canh nhâm phạm phải thì nhẹ hơn một chút; người bính đinh mậu tân quý phạm phải thì nặng.Ở trong năm dần ngọ thân mùi, sát này thường chủ về tai nạn sông nước. Luôn luôn đều tuỳ theo cung mà phân biệt tai vạ để luận, như ở cung điền trạch sẽ là phá tổ nghiệp. Còn lại cac cung suy xét kiểu như vậy.
Phá sát: sát này mão với ngọ, sửu với thìn, tý với dậu, mùi với tuất đều là phá nhau. Chỉ dần thân tỵ hợi vốn là phá, tức tam hợp cho nên không chọn, người phạm chủ tuổi trẻ bị trì trệ, tài sản thì hao tán, gồm cả tai nạn thương tật, chết yểu.
Phản bổn sát: ngũ hành không có quý khí, dưới khắc trên là phản. Bài hát viết: "ngũ hành tử tuyệt cùng lúc đến, có cách như nhàn phúc không theo, trái lại kỵ ngày giờ khắc năm chủ, nhất định không có quan quý cần nên biết". Như mệnh giáp tý kim gặp ngày mậu ngọ, lại có thai tháng ngày giờ có nhiều dần tỵ, người phạm nhất định chủ cô lập, có thể phú, có thể quý, hễ vượng liền khắc, thương tổn phụ mẫu, và người lớn tuổi.
Âm dương sát: nữ thuộc âm nên thích dương, mệnh gặp mậu ngọ hoả vượng là chánh dương. Nam thuộc dương nên thích âm, mệnh gặp bính tý thuỷ vượng là chánh âm. Do âm dương hài hoà, cho nên nam gặp bính tý, cả đời gặp phụ nữ xinh đẹp; nữ gặp mậu ngọ, cả đời thường gặp trai đẹp. Trên trụ ngày gặp được, trai được vợ đẹp, gái được chồng đẹp. Rất kỵ nguyên thần, hàm trì đồng cung, không kể là nam hay nữ tất cả đều buông thả, tham sắc dục. Như nam được mậu ngọ, nhiều phụ nữ yêu thích; nữ được bính tý nhiều trai trêu ghẹo. Nên xem thêm có tin tức gì về địa vị cao quý hay thấp hèn không.
Dâm dục phương hại sát: "Hồ Trung Tử" cho rằng: "lão già say đắm Tần Lâu Thập Nhị, do đó phạm tội bát chuyên nặng; người trẻ trốn Sở Điện Bát Thiên, đúng là đã gặp cửu xú nhiều lần". Bởi nói rằng bát chuyên là sát của dâm dục, còn cửu xú là thần của phương hại. Bát chuyên chính là: giáp dần, ất mão, kỷ mùi, đinh mùi, canh thân, tân dậu, mậu tuất và quý sửu. Ở trên trụ ngày là có vợ không chánh thức, ở trụ giờ là có con không chính thức. Nữ nhân phạm phải không phân biệt người thân kẻ lạ; người phạm nhiều thì càng nghiêm trọng. Cửu xú chính là: nhâm tý, nhâm ngọ, mậu tý, mậu ngọ, kỷ dậu, kỷ mão, ất mão, tân dậu, tân mão. Phụ nữ phạm phải chủ bị sản ách; phái nam phạm phải thường nhơ nhuốc, ô uế, chết trẻ.
Cô loan quả thước sát: Bài hát xưa viết: "mộc hoả gặp rắn điềm xấu rất lớn, heo vàng cần gì quá ngang ngược; khỉ đất cọp gỗ ở nơi đâu? Đúng lúc cô loan múa một màn". Chính là các ngày ất tỵ, đinh tỵ, tân hợi, mậu thân, giáp dần, thêm bính ngọ, mậu ngọ nhâm tý. Đàn ông thì khắc vợ, phụ nữ thì khắc chồng.
Âm dương sai thác sát: chính là mười hai ngày: bính tý, đinh sửu, mậu dần, tân mão, nhâm thìn, quý tỵ, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, tân dậu, nhâm tuất, quý hợi. Phụ nữ gặp phải cha mẹ chồng ít hoà hợp, chị em bạn dâu không đủ (khó hiểu chữ này 不足: bất túc), nhà chồng lạnh nhạt rút lui; phái nam gặp phải chủ rút lui khỏi gia đình bên vợ, cũng với nhà vợ thị phi, ít hoà hợp. Sát này không kể nam hay nữ, tháng ngày giờ phạm hai hay ba rất nặng; chỉ phạm phải ngày thôi đã nặng rồi, chủ là không được nhà vợ giúp sức, cho dù có của cải cũng trở thành hư ảo, lâu về sau tạo thành mối thù hận với nhà vợ, không tới lui qua lại với nhau. Lâm quan gặp kiếp tên gọi đào hoa sát chủ thích rượu chè và gái đẹp.
Phản ngâm gặp kiêu tên gọi đoản thọ sát. Chủ làm thương tổn vợ con.
Đào hoa hồng diễm sát: hợi mão mùi ở tý, tỵ dậu sửu ở ngọ, dần ngọ tuất ở mão,thân tý thìn ở dậu là đào hoa sát. Giáp ất gặp ngọ, bính dần, đinh mùi, mậu tý, kỷ thìn (?), canh tuất, tân dậu, nhâm tỵ (?), quý thân (?) là hồng diểm sát, mệnh phụ nữ rất kỵ.
Các loại sát trên đây thường nói khắc thân nghĩa là hung sát, dùng nạp âm khắc năm sanh. Nạp âm thái tuế lâm thân nghĩa là hung sát của một khu vực nạp âm thái tuế ở vị trí gốc. Nạp âm thài tuế là thân, nếu thân bị khắc, bị tử, tuyệt, bại lập tức gặp tai hoạ khó lường; nếu ở thân có khí bị khắc tai hoạ nặng; bị lâm thì nhẹ. Chỉ nạp âm thái tuế khắc sát thì tốt. Như mệnh người đã hợp cách quý, có sát ở nơi quan trọng, có phúc thần trợ giúp thì tên là quyền bính; không có phúc thần trợ giúp, lại thêm sát khí đang vượng, lần lượt đi qua rồi trở lại, hoặc hình khắc bản chủ thì thấp kém, hèn mọn, chết độc ác.
Lại cho rằng: thông thường nơi ở của phúc thần thì muốn được sanh vượng bởi sanh vượng sẽ vinh hoa phú quý; còn nơi ở của sát thần thì muốn nó tử tuyệt, vì tử tuyệt sẽ có kết cuộc thiện lành. Lại cho rằng: hễ là phúc thần thì muốn được lúc vượng khí, kỵ bị làm hư bại; hễ là hung thần thì muốn thời gian bị suy khí, tránh gặp được trợ giúp.
Lại cho rằng: trong mệnh có: tương xung, tương phá, tam hợp, lục hợp thì hỏi ngũ hành phải làm như thế nào để được tương đắc? Có thể là trong hoạ sanh phúc, hay trong phúc sanh hoạ. Như tử tuyệt lại sanh, không vong gặp phá, khắc nhau trở thành sanh nhau chính là trong hoạ sanh phúc, ngược lại điều này chính là trong phúc sanh hoạ.
"Mệnh Thư" cho rằng: "quan hèn mọn trên đường mong sao có dịch mã, phàn an (để trèo lên yên); bọn cờ bạc ở trong phố cũng có tam kỳ kề bên quý ".
Tử Bình cho rằng: trong cách quân tử cũng phạm thất sát, dương nhận; trong mệnh tiểu nhân cũng có chánh ấn, quan tinh. Theo quan điểm này thì cát hung thần sát không thể cố định cứng nhắc; đo lường so sánh nặng nhẹ cần thiết ở chỗ thông biến. Nói chung chỗ của hung sát không thích hợp để gặp quỷ thật sự; khắc thương thân mình cho dù gặp được quan tinh vẫn biến thành quỷ, huống chi là quỷ thật sự. Rõ ràng đó là tai hoạ vậy!
总论诸神煞
神煞,古有百二十名,其说穿凿支离,造化恐不如是。除羊刃、空亡、劫煞、灾煞、大煞、元辰、勾绞、咸池、破碎、罗网、冲击、天空悬针、平头倒戈等煞命中切要者,已备论于前矣,兹以诸星家考验有理,复备叙于左。
自缢煞。此煞取五行反系处,如戌人巳,巳人戌,辰人亥,亥人辰,寅人未,未人寅,卯人申,申人卯,午人丑,丑人午,子人酉,酉人子是也。大忌相克,天元是墓,更有天中、官符、大耗者,定凶。
水溺煞。此煞取丙子、癸未、癸丑上带咸池、金刃、羊刃。盖丙子纳音水,又子为水旺之地,未为井宿之居,丑为三河之分,更纳音克身,决不可免。古歌云:“动煞克身名颠坠,金神羊刃防同位。要知自缢最凶神,戌巳辰亥并寅未。子酉一例为凶煞,卯申丑未依前是。大忌空亡兼墓鬼,官符大耗仍须避。丙子癸未并癸丑,咸池金煞羊刃畏。五行若更来克身,一死悬梁一溺水。”
挂剑煞。此煞取巳酉丑申四柱纯全者是,或重带巳酉丑亦是,更犯官符、元辰、白虎、金神等类,五行刑克本命者,主凶暴杀人,或反为人所杀。诗曰:“巳酉丑申金气全,从革局多名挂剑。元亡金虎并克身,纵不杀人身岂免。”
天火煞。此煞取寅午戌全而天干有丙丁五位中全不见水者是,有水则非。若年运至火气生旺处,当防火灾。诗曰:“寅午戌全号天火,不见丙丁犹自可;五位都无一水神,生旺临年灾厄火。”余命寅午戌全,月干有癸行戊午运,戊癸化火,甲戌年、甲戌月遂遭火灾。
天屠煞。此煞除子日午时,午日子时外,自余丑曰日亥时,亥日丑时,寅日戌时,戌日寅时,卯日酉时,酉日卯时,辰日申时,申日辰时,巳日未时,未日巳时,依次逐两位数之。君子犯者,主异疾,肠风脚气;小人折损肢体。重犯者,主徒配。
天刑煞。此煞取子丑人乙时,寅人庚时,卯辰人辛时,巳人壬时,午未人癸时,甲人丙时,酉戌人丁时,亥人戊时,取时刑克本命。犯者遭刑有疾。
雷霆煞。正七二八子寅方,三九四十辰午当;五十一申六二戌,必主雷轰虎咬亡。又云:"正七下加子,二八在寅方,三九居辰上,四十午位伤,五十一申位,六十二戌方。“正月起,子顺行六阳位。此煞人命遇之,如逢禄,贵;吉星临压,则吉,好行阴骘,为法官掌雷霆行符敕水之人,或成佛作祖之辈。如遇羊刃、的煞、飞廉等会,命限必凶,主堕于天真雷伤、虎啖、天谴、瘟疾或溺水、囹圄死。
吞陷煞。猪犬羊逢虎必伤,猴蛇相会树头亡。犬逢鸡子遭徒配,兔赶蛇歌走远乡。鼠见犬来须恶互,马牛遇虎定相戕。兔猴逢犬难回避,龙来龙上水中殃。凡人若值临时日,三合为灾仔细详。《原注:以年支为主》
官符煞。取太岁前五辰,是日时遇之。平生多官灾,更并羊刃,乃刑徒之命。若官符落天中,多邪诞不实,名妄语煞。
病符煞。取太岁后一辰,是犯者多疾病。行年遇之,亦然。
死符煞。取病符对冲,是月时日犯之,无贵神解救,凶恶短折。
丧吊煞。一名横关煞。取命前二辰为丧门,命后二辰为吊客,其或太岁凶煞并临大小运限,必主祸。古诗云:“五官六死十二病,三丧十一吊来临。”可见此十二宫一太岁歌,不惟命犯不吉,流年尤凶。若月有羊刃来佐,凶煞临时,则横关也。
古歌云:“横关恶煞少人知,月禄凶神又及时;纵有吉星重叠至,不遭刑戮也顷危。”
宅墓煞。命前五辰为灾,命后五辰为墓,怕宅墓受岁劫等煞来破本命之灾。主呻吟。
日刑煞。以本生日上数甲子,本日干住。阳干顺数,阴干逆数。若在命宫,主极刑;三合,主徒配;对宫,主外死。
流血煞。以本生月起,子顺数至本年住。若在命宫、三合、对宫、主痈疽,庶人徒配,妇人产厄。
剑锋煞。甲子旬剑辰锋戌,甲午旬剑戌锋辰,甲寅旬剑午锋申,甲申旬剑子锋寅,甲辰旬剑申锋午,甲戌旬剑寅锋子。随在各宫断,如第五宫露,损子;第四宫露,损田宅。
戟锋煞。正月起甲,二月乙,三月戊,四月丙,五月丁,六月己,七月庚,八月辛,九月戊,十月壬,十一月癸,十二月巳,逐月旺干加临,日时带两重者,凶;更与悬针相见,主决配伤残。
浮沉煞。从戌上起,子逆行至本生年位,却从年宫数,看在何宫。只在财帛宫,名串钱,主富蓄。余皆凶。甲乙己庚壬人犯之,稍轻;丙丁戊辛癸人犯之,重。在寅午申未年中,此煞多主水厄。仍各随宫分论灾,如在田宅,则主破祖。余宫类推。
破煞。此煞,卯与午,丑与辰,子与酉,未与戌,皆相破。惟寅申巳亥原破,却三合,故不取,犯者主少年灾滞,财产耗散,兼有折伤之灾。
返本煞。五行无贵气,下克上为返。歌曰:“五行死绝并来时,有格如闲福不随;更忌日时克年主,定无官贵切须知。”如甲子金命得戊午日,又胎月日时多带寅巳,犯者定主孤立,或富或贵,一旺便克,伤父母尊长。
阴阳煞。女属阴而喜阳,命得戊午旺火为正阳。男属阳而喜阴,命得丙子旺水为正阴。是阴阳和畅,故男得丙子,平生多得美妇人;女得戊午,平生多逢美男子。日上遇之,男得美妻,女得美夫。大忌元辰、咸池同宫,不论男女,皆淫。如男得戊午,多妇人相爱;女得丙子,多男子挑诱。更看有无贵贱消息。
淫欲妨害煞。《壶中子》云“老醉秦楼十二,直缘重犯八专;少亡楚甸八千,应是叠逢九丑。”盖言八专为淫欲之煞,九丑为妨害之辰。八专乃甲寅、乙卯、己未、丁未、庚申、辛酉、戊戌、癸丑是也。日上有不正之妻,时上有不正之子。女人犯者,不择亲疏;犯多者尤紧。九丑乃壬子、壬午、戊子、戊午、己酉、己卯、乙卯、辛酉、辛卯是也。妇人犯者,主产厄;男犯,多丑不令终。
孤鸾寡鹊煞。古歌曰:"木火逢蛇大不祥,金猪何必强猖狂;土猴木虎夫何在,时对孤鸾舞一场。"乃乙巳、丁巳、辛亥、戊申、甲寅,又丙午、戊午、壬子等日。男克妻,女克夫。
阴阳差错煞。乃丙子、丁丑、戊寅、辛卯、壬辰、癸巳、丙午、丁未、戊申、辛酉、壬戌、癸亥十二日也。女子逢之,公姑寡合,妯娌不足,夫家冷退;男子逢之,主退外家,亦与妻家是非寡合。其煞不论男女,月日时两重或三重犯之,极重;只日家犯之,尤重,主不得外家力,纵有妻财,亦成虚花,久后仍与妻家为仇,不相往来。临官遇劫名桃花煞。主好酒色。
返吟遇枭名短寿煞。主伤妻子。
桃花红艳煞。亥卯未在子,巳酉丑在午,寅午戌在卯,申子辰在酉,为桃花煞。甲乙逢午、丙寅、丁未、戊子、己辰、庚戌、辛酉、壬巳、癸申,为红艳煞,女命最忌之。
以上诸煞,凡言克身,谓凶煞,下纳音,克生年。太岁纳音临身,谓凶煞一带太岁纳音于本位也。太岁纳音为身,若身被克被临于死、败、绝位,便遭不测之灾;若但在身有气处被克,灾重,被临则轻。惟太岁纳音克煞则吉。如人命已入贵格,紧要处带煞,有福神助之,则名为权柄;无福神助之,又煞气乘旺,递互往还,或刑克本主,下贱恶死。
又云,一切福神所居之位,则欲生旺,生旺则荣贵;一切煞神所居之位,则欲死绝,死绝则善终。又云,凡福神欲令得旺气,忌有败之者;凡凶神欲令得衰气,忌有助之者。
又云,相冲相破,三合六合,命中有之,即求五行相得何如。或祸中生福,福中生祸。如死绝复生,空亡受破,相克相成,则祸中生福,反此,则福中生祸。
《命书》云:“道途贱吏,岂无驿马攀鞍;市井博徒,亦有三奇夹贵。”
子平云:君子格中,也犯七煞阳刃;小人命内,亦有正印官星。"由是观之,吉凶神煞,不可拘定;轻重较量,要在通变。大抵凶煞所居,于神不宜带真鬼;克伤本身,虽见官星,尚变为鬼,况是真鬼。其为灾祸,明矣!
.
Tổng Luận Chư Thần Sát
"Thần sát": thời xưa có đến một trăm hai mươi tên gọi, lý thuyết được mổ xẻ chi ly, tạo hoá e rằng không được như vậy. Trừ các loại sát trong mệnh (dương nhận, không vong, kiếp sát, tai sát, đại sát, nguyên thần, câu giảo, hàm trì, phá toái, la võng, xung kích, thiên không, huyền châm, bình đầu, đảo qua) là thiết yếu, đã bàn bạc đầy đủ ở phần trước, nay các tinh gia khảo nghiệm có lý, lại trình bày đầy đủ ở bên trái.
Tự ải sát: sát này dùng ngũ hành nghịch với nơi liên hệ, như là người tuất với tỵ, người tỵ với tuất, người thìn với hợi, người hợi với thìn, người dần với mùi, người mùi với dần, người mão với thân, người thân với mão, người ngọ với sửu, người sửu với ngọ, người tý với dậu, người dậu với tý. Rất kỵ khắc nhau, thiên nguyên là mộ, có thêm thiên trung, quan phù, đại hao nhất định là hung xấu.
Thuỷ nịch sát: sát này chọn hàm trì, kim nhận, dương nhận trên bính tý, quý mùi, quý sửu. Bởi bính tý nạp âm là thuỷ, lại thêm tý là nơi thuỷ vượng, mùi là chỗ ở của sao Tỉnh, sửu là nơi phân chia của ba con sông, thêm nạp âm mà khắc thân, chắc chắn không thể tránh khỏi. Bài hát xưa hát rằng: "sát động khắc thân tên là điên truỵ (đỉnh đầu chìm xuống), đề phòng kim thần, dương nhận ở cùng một nơi, cần biết tự ải là thần rất hung, tuất tỵ thìn hợi hội với dần mùi, tý dậu là các trường hợp hung sát, mão thân sửu mùi y như trước. Rất kỵ không vong và mộ quỷ, cần tránh xa quan phù, đại hao. Bính tý, quý mùi hội họp quý sửu, hàm trì, kim sát, dương nhận sợ. Nếu như ngũ hành đến khắc thân: một là thắt cổ chết, một là chết đuối".
Quải kiếm sát: sát này toàn là tỵ dậu sửu thân trong tứ trụ, hoặc trùng phạm tỵ dậu sửu cũng đúng, phạm thêm các loại quan phù, nguyên thần, bạch hổ, kim thần, ngũ hành hình khắc mệnh mình chủ là sát nhân hung bạo, hoặc ngược lại bị người giết. Bài thơ nói: tỵ dậu sửu thân toàn là kim khí, cách cục xưa nay luôn gọi là quải kiếm. Nguyên vong, kim hổ hội họp khắc thân, dù không giết người, thân mình sao tránh khỏi".
Thiên hoả sát: sát này chính là đầy đủ dần ngọ tuất mà thiên can có bính đinh, trong năm vị trí đầy đủ mà không gặp thuỷ, có thuỷ thì chẳng phải. Nếu vận năm đến nơi sanh vượng của hoả, nên đề phòng tai nạn về lửa. Bài thơ nói: "đầy đủ dần ngọ tuất hiệu là thiên hoả, không gặp bính đinh vẫn an toàn; cả năm nơi đều không có một chữ thuỷ, đến năm sanh vượng gặp tai nạn về lửa". Mệnh của ta có đầy đủ dần ngọ tuất, can tháng là quý đi vận mậu ngọ, mậu quý hoá hoả, năm giáp tuất, tháng giáp tuất cuồi cùng gặp hoả tai.
Thiên đồ sát: sát này trừ ngày tý giờ ngọ, ngày ngọ giờ tý ra, còn lại từng cặp ngày sửu giờ hợi, ngày hợi giờ sửu, ngày dần giờ tuất, ngày tuất giờ dần, ngày mão giờ dậu, ngày dậu giờ mão, ngày thìn giờ thân, ngày thân giờ thìn, ngày tỵ giờ mùi, ngày mùi giờ tỵ. Người quân tử phạm phải chủ có dị tật, bệnh về đường ruột, bệnh phù thủng ở chân (do thiếu sinh tố B1); trẻ con bị gãy tay chân. Người trùng phạm chủ bị lưu đày.
Thiên hình sát: sát này chọn lấy người tý sửu giờ ất, người dần giờ canh, người mão thìn giờ tân, người tỵ giờ nhâm, người ngọ mùi giờ quý, người thân (thay vì giáp) giờ bính, người dậu tuất giờ đinh, người hợi giờ mậu, lấy giờ hình khắc mệnh mình. Người phạm phải gặp hình phạt có bệnh tật.
Lôi đình sát: tháng giêng tháng bảy tháng hai tháng tám phương tý, dần; tháng ba, tháng chín, tháng tư tháng mười thìn, ngọ đương; tháng năm tháng mười một thân, tháng sáu tháng mười hai tuất nhất định chết vì sấm sét, hổ ngoạm. Lại cho rằng: "tháng giêng, tháng bảy tý ở dưới; tháng hai, tháng tám ở phương dần; tháng ba, tháng chín ở trên thìn; tháng tư, tháng mười vị trí ngọ thương tổn; tháng năm, tháng mười một vị trí thân; tháng sáu, tháng mười hai phương tuất". Tháng giêng khởi đầu ở tý đi thuận sáu cung dương. Mệnh người gặp sát này: như gặp lộc, quý; sao tốt đang đến gần thì tốt lành, ưa đến nơi có phúc đức không ai biết, chỉ quỷ thần biết (陰隲: âm chất), là pháp quan nắm giữ lôi đình làm bằng chứng ra lệnh cho nước, hoặc thành phật, tổ tiên. Như gặp dương nhận, đích sát, phi liêm vân vân mệnh hay hạn đều sẽ hung xấu, chủ rơi vào sấm sét tự nhiên , cọp ăn, trời phạt, bệnh ôn dịch, hoặc chết đuối hay chết trong tù ngục.
Thôn hãm sát: heo chó dê gặp cọp sẽ thương tổn; khỉ rắn gặp nhau trên ngọn cây sẽ chết. Chó gặp gà con trai bị đồ phối (tội nhân bị đày đi xa), thỏ rượt đuổi rắn hát bài trốn đi nơi xa. Chuột thấy chó đến đều chán ghét nhau, ngựa trâu gặp cọp nhất định bị giết. Thỏ khỉ gặp chó khó tránh ra chỗ khác, rồng đến rồng thì tai hoạ từ nước ập đến. Người thường nếu gặp ngày giờ, tam hợp thì cẩn thận tai hoạ kỹ càng. "Chú thích gốc: lấy địa chi của năm làm chủ".
Quan phù sát: chọn lấy năm thần phía trước thái tuế, ngày giờ gặp phải. Cả đời thường gặp tai vạ về luật pháp, hội thêm dương nhận chính là mệnh của hình đồ (hình phạt lao dịch). Nếu quan phù lạc thiên trung thường viễn vông không thực, tên là vọng ngữ sát.
Bệnh phù sát: dùng một thần sau thái tuế, người nào phạm phải luôn bệnh tật. Vận năm gặp phải cũng vậy.
Tử phù sát: chọn lấy đối xung với bệnh phù, tháng ngày giờ phạm phải, không có quý thần cứu giúp, sẽ hung ác và chết non.
Tang điếu sát: còn một tên là hoạnh quan sát. Dùng hai thần trước mệnh là tang môn, hai thần sau mệnh là điếu khách, nó có thể là hung sát của năm cùng đến hội tụ ở đại vận hay tiểu hạn, nhất định sẽ có tai hoạ. Thơ xưa cho rằng: "ngũ quan (tai, mắt, mũi, lưởi và da) lục tử thập nhị bệnh, tam tang thập nhất điếu lai lâm" (tạm dịch: năm giác quan bị sáu cái chét, mười hai cái bệnh tật, tam tang, mười một điếu xuất hiện). Có thể thấy bài hát mười hai cung một thái tuế, không chỉ mệnh phạm không tốt, mà lưu niên càng xấu. Nếu tháng có dương nhận đến giúp, hay hung sát tạm thời, tức là hoạnh quan vậy.
Bài ca xưa hát rằng: "hoạnh quan là ác sát ít người biết, nguyệt lộc với hung thần đến đúng lúc, cho dù có sao tốt đến thật nhiều, không gặp trừng phạt cũng nguy hiểm bất ngờ".
Trạch mộ sát: trước mệnh năm thần là tai vạ, sau mệnh năm thần là mộ, sợ trạch mộ bị các loại sát trong năm đến phá là tai vạ của mệnh mình, chủ bản thân rên rỉ.
Nhật hình sát: lấy ngày sanh của mình đếm lên giáp tý, ngừng lại ở gốc can ngày. Dương can đếm thuận, âm can đếm nghịch. Nếu ở cung mệnh chủ hình phạt nghiêm khốc; ở trong tam hợp chủ hình phạt lưu đày; ở đối cung chủ chết ở bên ngoài.
Lưu huyết sát: lấy tháng sanh của mình khởi đầu tý thuận đến năm nay thì ngưng. Nếu ở cung mệnh, trong tam hợp, hay cung đối. chủ ung thư, người dân thường bị hình phạt lưu đày, đàn bà bị tai ách về sanh đẻ.
Kiếm phong sát: tuần giáp tý kiếm ở thìn, phong ở tuất, tuần giáp ngọ kiếm ở tuất phong ở thìn, tuần giáp dần kiếm ở ngọ, phong ở thân, tuần giáp thân kiếm ở tý phong ở dần, tuần giáp thìn kiếm ở thân phong ở ngọ, tuần giáp tuất kiếm ở dần phong ở tý. Tuỳ theo ở các cung mà đoán, như bày ra ở cung thứ năm tổn con cái; lộ ở cung thứ tư hao tổn ruộng vườn nhà cửa.
Kích phong sát: tháng giêng khởi giáp, tháng hai ất, tháng ba mậu, tháng tư bính, tháng năm đinh, tháng sáu kỷ, tháng bảy canh, tháng tám tân, tháng chín mậu, tháng mười nhâm, tháng mười một quý, tháng mười hai kỷ. Can vượng lâm vào từng tháng, người mang gấp đôi ở ngày giờ hung xấu; gặp thêm huyền châm chủ nhất định bị lưu đày, tàn tật.
Phù trầm sát: khởi tý trên cung tuất đi nghịch đến năm sanh của mình, tức là cung của năm sanh rơi vào cung nào. Chỉ ở cung tài bạch tên là xuyến tiền (xâu tiền) chủ giàu có. Còn lại đều xấu. Người giáp ất kỷ canh nhâm phạm phải thì nhẹ hơn một chút; người bính đinh mậu tân quý phạm phải thì nặng.Ở trong năm dần ngọ thân mùi, sát này thường chủ về tai nạn sông nước. Luôn luôn đều tuỳ theo cung mà phân biệt tai vạ để luận, như ở cung điền trạch sẽ là phá tổ nghiệp. Còn lại cac cung suy xét kiểu như vậy.
Phá sát: sát này mão với ngọ, sửu với thìn, tý với dậu, mùi với tuất đều là phá nhau. Chỉ dần thân tỵ hợi vốn là phá, tức tam hợp cho nên không chọn, người phạm chủ tuổi trẻ bị trì trệ, tài sản thì hao tán, gồm cả tai nạn thương tật, chết yểu.
Phản bổn sát: ngũ hành không có quý khí, dưới khắc trên là phản. Bài hát viết: "ngũ hành tử tuyệt cùng lúc đến, có cách như nhàn phúc không theo, trái lại kỵ ngày giờ khắc năm chủ, nhất định không có quan quý cần nên biết". Như mệnh giáp tý kim gặp ngày mậu ngọ, lại có thai tháng ngày giờ có nhiều dần tỵ, người phạm nhất định chủ cô lập, có thể phú, có thể quý, hễ vượng liền khắc, thương tổn phụ mẫu, và người lớn tuổi.
Âm dương sát: nữ thuộc âm nên thích dương, mệnh gặp mậu ngọ hoả vượng là chánh dương. Nam thuộc dương nên thích âm, mệnh gặp bính tý thuỷ vượng là chánh âm. Do âm dương hài hoà, cho nên nam gặp bính tý, cả đời gặp phụ nữ xinh đẹp; nữ gặp mậu ngọ, cả đời thường gặp trai đẹp. Trên trụ ngày gặp được, trai được vợ đẹp, gái được chồng đẹp. Rất kỵ nguyên thần, hàm trì đồng cung, không kể là nam hay nữ tất cả đều buông thả, tham sắc dục. Như nam được mậu ngọ, nhiều phụ nữ yêu thích; nữ được bính tý nhiều trai trêu ghẹo. Nên xem thêm có tin tức gì về địa vị cao quý hay thấp hèn không.
Dâm dục phương hại sát: "Hồ Trung Tử" cho rằng: "lão già say đắm Tần Lâu Thập Nhị, do đó phạm tội bát chuyên nặng; người trẻ trốn Sở Điện Bát Thiên, đúng là đã gặp cửu xú nhiều lần". Bởi nói rằng bát chuyên là sát của dâm dục, còn cửu xú là thần của phương hại. Bát chuyên chính là: giáp dần, ất mão, kỷ mùi, đinh mùi, canh thân, tân dậu, mậu tuất và quý sửu. Ở trên trụ ngày là có vợ không chánh thức, ở trụ giờ là có con không chính thức. Nữ nhân phạm phải không phân biệt người thân kẻ lạ; người phạm nhiều thì càng nghiêm trọng. Cửu xú chính là: nhâm tý, nhâm ngọ, mậu tý, mậu ngọ, kỷ dậu, kỷ mão, ất mão, tân dậu, tân mão. Phụ nữ phạm phải chủ bị sản ách; phái nam phạm phải thường nhơ nhuốc, ô uế, chết trẻ.
Cô loan quả thước sát: Bài hát xưa viết: "mộc hoả gặp rắn điềm xấu rất lớn, heo vàng cần gì quá ngang ngược; khỉ đất cọp gỗ ở nơi đâu? Đúng lúc cô loan múa một màn". Chính là các ngày ất tỵ, đinh tỵ, tân hợi, mậu thân, giáp dần, thêm bính ngọ, mậu ngọ nhâm tý. Đàn ông thì khắc vợ, phụ nữ thì khắc chồng.
Âm dương sai thác sát: chính là mười hai ngày: bính tý, đinh sửu, mậu dần, tân mão, nhâm thìn, quý tỵ, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, tân dậu, nhâm tuất, quý hợi. Phụ nữ gặp phải cha mẹ chồng ít hoà hợp, chị em bạn dâu không đủ (khó hiểu chữ này 不足: bất túc), nhà chồng lạnh nhạt rút lui; phái nam gặp phải chủ rút lui khỏi gia đình bên vợ, cũng với nhà vợ thị phi, ít hoà hợp. Sát này không kể nam hay nữ, tháng ngày giờ phạm hai hay ba rất nặng; chỉ phạm phải ngày thôi đã nặng rồi, chủ là không được nhà vợ giúp sức, cho dù có của cải cũng trở thành hư ảo, lâu về sau tạo thành mối thù hận với nhà vợ, không tới lui qua lại với nhau. Lâm quan gặp kiếp tên gọi đào hoa sát chủ thích rượu chè và gái đẹp.
Phản ngâm gặp kiêu tên gọi đoản thọ sát. Chủ làm thương tổn vợ con.
Đào hoa hồng diễm sát: hợi mão mùi ở tý, tỵ dậu sửu ở ngọ, dần ngọ tuất ở mão,thân tý thìn ở dậu là đào hoa sát. Giáp ất gặp ngọ, bính dần, đinh mùi, mậu tý, kỷ thìn (?), canh tuất, tân dậu, nhâm tỵ (?), quý thân (?) là hồng diểm sát, mệnh phụ nữ rất kỵ.
Các loại sát trên đây thường nói khắc thân nghĩa là hung sát, dùng nạp âm khắc năm sanh. Nạp âm thái tuế lâm thân nghĩa là hung sát của một khu vực nạp âm thái tuế ở vị trí gốc. Nạp âm thài tuế là thân, nếu thân bị khắc, bị tử, tuyệt, bại lập tức gặp tai hoạ khó lường; nếu ở thân có khí bị khắc tai hoạ nặng; bị lâm thì nhẹ. Chỉ nạp âm thái tuế khắc sát thì tốt. Như mệnh người đã hợp cách quý, có sát ở nơi quan trọng, có phúc thần trợ giúp thì tên là quyền bính; không có phúc thần trợ giúp, lại thêm sát khí đang vượng, lần lượt đi qua rồi trở lại, hoặc hình khắc bản chủ thì thấp kém, hèn mọn, chết độc ác.
Lại cho rằng: thông thường nơi ở của phúc thần thì muốn được sanh vượng bởi sanh vượng sẽ vinh hoa phú quý; còn nơi ở của sát thần thì muốn nó tử tuyệt, vì tử tuyệt sẽ có kết cuộc thiện lành. Lại cho rằng: hễ là phúc thần thì muốn được lúc vượng khí, kỵ bị làm hư bại; hễ là hung thần thì muốn thời gian bị suy khí, tránh gặp được trợ giúp.
Lại cho rằng: trong mệnh có: tương xung, tương phá, tam hợp, lục hợp thì hỏi ngũ hành phải làm như thế nào để được tương đắc? Có thể là trong hoạ sanh phúc, hay trong phúc sanh hoạ. Như tử tuyệt lại sanh, không vong gặp phá, khắc nhau trở thành sanh nhau chính là trong hoạ sanh phúc, ngược lại điều này chính là trong phúc sanh hoạ.
"Mệnh Thư" cho rằng: "quan hèn mọn trên đường mong sao có dịch mã, phàn an (để trèo lên yên); bọn cờ bạc ở trong phố cũng có tam kỳ kề bên quý ".
Tử Bình cho rằng: trong cách quân tử cũng phạm thất sát, dương nhận; trong mệnh tiểu nhân cũng có chánh ấn, quan tinh. Theo quan điểm này thì cát hung thần sát không thể cố định cứng nhắc; đo lường so sánh nặng nhẹ cần thiết ở chỗ thông biến. Nói chung chỗ của hung sát không thích hợp để gặp quỷ thật sự; khắc thương thân mình cho dù gặp được quan tinh vẫn biến thành quỷ, huống chi là quỷ thật sự. Rõ ràng đó là tai hoạ vậy!
总论诸神煞
神煞,古有百二十名,其说穿凿支离,造化恐不如是。除羊刃、空亡、劫煞、灾煞、大煞、元辰、勾绞、咸池、破碎、罗网、冲击、天空悬针、平头倒戈等煞命中切要者,已备论于前矣,兹以诸星家考验有理,复备叙于左。
自缢煞。此煞取五行反系处,如戌人巳,巳人戌,辰人亥,亥人辰,寅人未,未人寅,卯人申,申人卯,午人丑,丑人午,子人酉,酉人子是也。大忌相克,天元是墓,更有天中、官符、大耗者,定凶。
水溺煞。此煞取丙子、癸未、癸丑上带咸池、金刃、羊刃。盖丙子纳音水,又子为水旺之地,未为井宿之居,丑为三河之分,更纳音克身,决不可免。古歌云:“动煞克身名颠坠,金神羊刃防同位。要知自缢最凶神,戌巳辰亥并寅未。子酉一例为凶煞,卯申丑未依前是。大忌空亡兼墓鬼,官符大耗仍须避。丙子癸未并癸丑,咸池金煞羊刃畏。五行若更来克身,一死悬梁一溺水。”
挂剑煞。此煞取巳酉丑申四柱纯全者是,或重带巳酉丑亦是,更犯官符、元辰、白虎、金神等类,五行刑克本命者,主凶暴杀人,或反为人所杀。诗曰:“巳酉丑申金气全,从革局多名挂剑。元亡金虎并克身,纵不杀人身岂免。”
天火煞。此煞取寅午戌全而天干有丙丁五位中全不见水者是,有水则非。若年运至火气生旺处,当防火灾。诗曰:“寅午戌全号天火,不见丙丁犹自可;五位都无一水神,生旺临年灾厄火。”余命寅午戌全,月干有癸行戊午运,戊癸化火,甲戌年、甲戌月遂遭火灾。
天屠煞。此煞除子日午时,午日子时外,自余丑曰日亥时,亥日丑时,寅日戌时,戌日寅时,卯日酉时,酉日卯时,辰日申时,申日辰时,巳日未时,未日巳时,依次逐两位数之。君子犯者,主异疾,肠风脚气;小人折损肢体。重犯者,主徒配。
天刑煞。此煞取子丑人乙时,寅人庚时,卯辰人辛时,巳人壬时,午未人癸时,甲人丙时,酉戌人丁时,亥人戊时,取时刑克本命。犯者遭刑有疾。
雷霆煞。正七二八子寅方,三九四十辰午当;五十一申六二戌,必主雷轰虎咬亡。又云:"正七下加子,二八在寅方,三九居辰上,四十午位伤,五十一申位,六十二戌方。“正月起,子顺行六阳位。此煞人命遇之,如逢禄,贵;吉星临压,则吉,好行阴骘,为法官掌雷霆行符敕水之人,或成佛作祖之辈。如遇羊刃、的煞、飞廉等会,命限必凶,主堕于天真雷伤、虎啖、天谴、瘟疾或溺水、囹圄死。
吞陷煞。猪犬羊逢虎必伤,猴蛇相会树头亡。犬逢鸡子遭徒配,兔赶蛇歌走远乡。鼠见犬来须恶互,马牛遇虎定相戕。兔猴逢犬难回避,龙来龙上水中殃。凡人若值临时日,三合为灾仔细详。《原注:以年支为主》
官符煞。取太岁前五辰,是日时遇之。平生多官灾,更并羊刃,乃刑徒之命。若官符落天中,多邪诞不实,名妄语煞。
病符煞。取太岁后一辰,是犯者多疾病。行年遇之,亦然。
死符煞。取病符对冲,是月时日犯之,无贵神解救,凶恶短折。
丧吊煞。一名横关煞。取命前二辰为丧门,命后二辰为吊客,其或太岁凶煞并临大小运限,必主祸。古诗云:“五官六死十二病,三丧十一吊来临。”可见此十二宫一太岁歌,不惟命犯不吉,流年尤凶。若月有羊刃来佐,凶煞临时,则横关也。
古歌云:“横关恶煞少人知,月禄凶神又及时;纵有吉星重叠至,不遭刑戮也顷危。”
宅墓煞。命前五辰为灾,命后五辰为墓,怕宅墓受岁劫等煞来破本命之灾。主呻吟。
日刑煞。以本生日上数甲子,本日干住。阳干顺数,阴干逆数。若在命宫,主极刑;三合,主徒配;对宫,主外死。
流血煞。以本生月起,子顺数至本年住。若在命宫、三合、对宫、主痈疽,庶人徒配,妇人产厄。
剑锋煞。甲子旬剑辰锋戌,甲午旬剑戌锋辰,甲寅旬剑午锋申,甲申旬剑子锋寅,甲辰旬剑申锋午,甲戌旬剑寅锋子。随在各宫断,如第五宫露,损子;第四宫露,损田宅。
戟锋煞。正月起甲,二月乙,三月戊,四月丙,五月丁,六月己,七月庚,八月辛,九月戊,十月壬,十一月癸,十二月巳,逐月旺干加临,日时带两重者,凶;更与悬针相见,主决配伤残。
浮沉煞。从戌上起,子逆行至本生年位,却从年宫数,看在何宫。只在财帛宫,名串钱,主富蓄。余皆凶。甲乙己庚壬人犯之,稍轻;丙丁戊辛癸人犯之,重。在寅午申未年中,此煞多主水厄。仍各随宫分论灾,如在田宅,则主破祖。余宫类推。
破煞。此煞,卯与午,丑与辰,子与酉,未与戌,皆相破。惟寅申巳亥原破,却三合,故不取,犯者主少年灾滞,财产耗散,兼有折伤之灾。
返本煞。五行无贵气,下克上为返。歌曰:“五行死绝并来时,有格如闲福不随;更忌日时克年主,定无官贵切须知。”如甲子金命得戊午日,又胎月日时多带寅巳,犯者定主孤立,或富或贵,一旺便克,伤父母尊长。
阴阳煞。女属阴而喜阳,命得戊午旺火为正阳。男属阳而喜阴,命得丙子旺水为正阴。是阴阳和畅,故男得丙子,平生多得美妇人;女得戊午,平生多逢美男子。日上遇之,男得美妻,女得美夫。大忌元辰、咸池同宫,不论男女,皆淫。如男得戊午,多妇人相爱;女得丙子,多男子挑诱。更看有无贵贱消息。
淫欲妨害煞。《壶中子》云“老醉秦楼十二,直缘重犯八专;少亡楚甸八千,应是叠逢九丑。”盖言八专为淫欲之煞,九丑为妨害之辰。八专乃甲寅、乙卯、己未、丁未、庚申、辛酉、戊戌、癸丑是也。日上有不正之妻,时上有不正之子。女人犯者,不择亲疏;犯多者尤紧。九丑乃壬子、壬午、戊子、戊午、己酉、己卯、乙卯、辛酉、辛卯是也。妇人犯者,主产厄;男犯,多丑不令终。
孤鸾寡鹊煞。古歌曰:"木火逢蛇大不祥,金猪何必强猖狂;土猴木虎夫何在,时对孤鸾舞一场。"乃乙巳、丁巳、辛亥、戊申、甲寅,又丙午、戊午、壬子等日。男克妻,女克夫。
阴阳差错煞。乃丙子、丁丑、戊寅、辛卯、壬辰、癸巳、丙午、丁未、戊申、辛酉、壬戌、癸亥十二日也。女子逢之,公姑寡合,妯娌不足,夫家冷退;男子逢之,主退外家,亦与妻家是非寡合。其煞不论男女,月日时两重或三重犯之,极重;只日家犯之,尤重,主不得外家力,纵有妻财,亦成虚花,久后仍与妻家为仇,不相往来。临官遇劫名桃花煞。主好酒色。
返吟遇枭名短寿煞。主伤妻子。
桃花红艳煞。亥卯未在子,巳酉丑在午,寅午戌在卯,申子辰在酉,为桃花煞。甲乙逢午、丙寅、丁未、戊子、己辰、庚戌、辛酉、壬巳、癸申,为红艳煞,女命最忌之。
以上诸煞,凡言克身,谓凶煞,下纳音,克生年。太岁纳音临身,谓凶煞一带太岁纳音于本位也。太岁纳音为身,若身被克被临于死、败、绝位,便遭不测之灾;若但在身有气处被克,灾重,被临则轻。惟太岁纳音克煞则吉。如人命已入贵格,紧要处带煞,有福神助之,则名为权柄;无福神助之,又煞气乘旺,递互往还,或刑克本主,下贱恶死。
又云,一切福神所居之位,则欲生旺,生旺则荣贵;一切煞神所居之位,则欲死绝,死绝则善终。又云,凡福神欲令得旺气,忌有败之者;凡凶神欲令得衰气,忌有助之者。
又云,相冲相破,三合六合,命中有之,即求五行相得何如。或祸中生福,福中生祸。如死绝复生,空亡受破,相克相成,则祸中生福,反此,则福中生祸。
《命书》云:“道途贱吏,岂无驿马攀鞍;市井博徒,亦有三奇夹贵。”
子平云:君子格中,也犯七煞阳刃;小人命内,亦有正印官星。"由是观之,吉凶神煞,不可拘定;轻重较量,要在通变。大抵凶煞所居,于神不宜带真鬼;克伤本身,虽见官星,尚变为鬼,况是真鬼。其为灾祸,明矣!
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#73
Gửi vào 30/06/2024 - 06:16
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tứ
Luận thập can toạ chi kiêm đắc nguyệt thời cập hành vận cát hung
(Chú thích: luận về mười thiên can ngồi trên địa chi gồm cả được tháng, giờ cùng với đi vận tốt xấu)
论十干坐支兼得月时及行运吉凶
(注:论十干坐支兼得月时及行运吉凶)
.
Luận thập can toạ chi kiêm đắc nguyệt thời cập hành vận cát hung
(Chú thích: luận về mười thiên can ngồi trên địa chi gồm cả được tháng, giờ cùng với đi vận tốt xấu)
论十干坐支兼得月时及行运吉凶
(注:论十干坐支兼得月时及行运吉凶)
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#74
Gửi vào 30/06/2024 - 11:15
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tứ
Giáp Ất
Giáp: là dương mộc, chính là gỗ của cột trụ và xà nhà. Thích sanh mùa thu và đông, gặp tháng thân tý thì tốt. Trụ gặp canh tân: giống như nói về búa và đục, chủ về danh lợi. Vận đi đến đất thân, dậu, thìn, tuất, sửu, mùi: tài năng phát triễn vượt bậc, gặp tân là quan thì càng tuyệt diệu. Kỵ dần ngọ tuất hợp cục cùng với đinh hoả "thương quan", chính là làm cho mệnh nhọc nhằn khổ cực, làm việc gì cũng không thành, vận gặp cũng không thuận lợi. Nếu hợp cục thấu chữ đinh, có thìn tuất sửu mùi có mậu kỷ lộ trên thiên can, lại đi tài vận, thương quan sẽ sanh tài, tức là phát phúc lớn.
Ất: là âm mộc, là mộc sanh trưởng, hợp sanh vào mùa xuân nên hoa lá tươi tốt, cũng thích sanh vào lúc đầu mùa xuân. Gặp hai cục hợi mão mùi và thân tý thìn lại đi vận hướng bắc, cho dù bính đinh canh tân thấu ra cũng không trở ngại gì. Điều kỵ là dần ngọ tuất, tỵ dậu sửu nhiều, thường thương tổn, tàn tật, lại đi vận hướng nam chủ về chết non thì không nên.
Giáp ất quý ở mộc được thích hợp, nên biết kim thuỷ vượng rất diệu kỳ.
Mùa xuân đi theo hướng nam, mùa thu về hướng bắc, mùa đông mùa hạ đi hướng tây được phát phúc.
Người sanh ngày giáp ất, mệnh ở tỵ dậu sửu là đất của kim, nên đi vận ở khu vực thổ hay kim. Nếu sanh dần, mão, thìn mà không kết thành mộc cục, nên được trụ giờ dẫn dắt về khu vực kim thổ, thì rất quý. Đi vận cũng như vậy, thì đường quan lộ được lâu dài. Nếu sanh vào tháng tỵ dậu sửu hay thân, giờ dắt về hợi mão mùi hay dần, chẳng phải thời được cao quý, là do quá nhiều hay không đủ, tức là cần đi vận thuỷ hay mộc cục, nếu không chỉ là học giả nghèo. Trong trụ vốn có tài tinh sợ tỷ kiếp tranh đoạt; còn vốn là không có tài tinh thì không sợ. Ví như mộc gặp kim sẽ thành vật dụng, người nhân từ mà dũng cảm; kim gặp mộc nên thành năng lực, người dũng cảm mà nhân từ, đó chính là cương nhu trợ giúp nhau, âm dương ổn thoả nhau. Đi vận dĩ nhiến thích tài, quan, nếu có mộc mà không có kim tức là thiếu canh tân nên đạo nghĩa kém; có kim mà không có hoả tức là dũng cảm mà vô lễ, là vì kim quá thịnh. Nhưng không có thuỷ thì quá nhiều là gỗ khô, mà không có kim thì quá phồn thịnh là vì kim và mộc không giống nhau. Một phần âm một phần dương, mệnh của khó khăn, cho dù gặp tài, quan cũng khó mà phát đạt.
Sáu ngày giáp lấy tân làm chánh quan, canh là thiên quan, mậu kỷ là tài. Như trong trụ năm tháng giờ thấu ra các chữ: mậu kỷ tân, sanh vào ba tháng mùa thu, hay bốn tháng cuối mùa cùng với kim cục, thổ cục thì tài quan có ích lợi. Còn như không thấu xuất ra ba chữ này, chỉ là sanh ba tháng mùa thu, bốn tháng cuối mùa cùng với kim cục, thổ cục mà thôi, cũng coi là tài quan để bàn luận. Gặp giáp ất tranh doạt tài, bính đinh là thương quan: danh vị và lợi lộc đều khó khăn. Nếu sanh mùa xuân và mùa hạ cùng với hoả cục, mộc cục, tài quan vô khí, cho dù được trợ giúp, danh vị và lợi lộc cũng thấp kém. Thích vận đi hướng tây, bốn tháng cuối mùa, khu vực của kim thổ hướng về vận quan, tài, không thích đông nam mộc hoả là đất của thương quan, bại tài. Nếu canh tân đều gặp trong tứ trụ: gọi là quan sát hỗn tạp, không có khứ lưu chế phục, trái lại chủ nghèo hèn. Như nghèo hèn. Như chỉ có chữ canh không gặp chế phục, nên lấy quỷ để luận, phân biệt thân và quỷ cường nhược mà định tốt xấu hay thọ yểu. Nếu có chế phục thì lấy thiên quan để luận; nhiều quá trái lại không phải là phúc. Phải xem thêm can ngày ở tháng sanh có lực hay không, có trợ hay không có trợ, phân biệt tiết khí nông sâu, nặng nhẹ mà bàn bạc. Thích vận đi thân vượng, quỷ suy; kỵ vận thân suy quỷ vượng.
Sáu ngày ất lấy mậu làm chánh tài, kỷ là thiên tài, canh là chánh quan, tân là thiên quan, nếu trên trụ năm tháng giờ thấu ra các chữ: mậu kỷ canh, sanh ba tháng mùa thu, bốn tháng cuối mùa cùng với kim cục và thổ cục thì tài quan có ích lợi. Như ba chữ này không thấu ra mà sanh ba tháng mùa thu, bốn tháng cuối mùa cùng với kim cục hay thổ cục, cũng lấy tài quan để luận bàn. Gặp giáp ất tranh đoạt tài, bính thương quan, danh vị và lợi lộc khó khăn. Nếu sanh mùa xuân, mùa hạ cùng với hoả cục, mộc cục, cho dù có tài quan mà vô khí; cho dù được trợ giúp, cũng thấp kém. Thích đi về hướng tây, bốn tháng cuối mùa, khu vực kim thổ hướng về quan và tài, kỵ đi về nơi của hoả và mộc, thương quan, bại tài.Chỉ sợ quan sát hỗn tạp, có sát mà không có chế phục, thì lấy quỷ để luận; nhưng chế thái quá hay không đủ đều không phải là phúc lành. Phải hiểu rõ can ngày với tàng trong tháng sanh có lực hay trợ giúp không, phân biệt nặng nhẹ mà bàn luận. Vận hỷ kỵ giống phần trên.
甲乙
甲木属阳,乃栋梁之材。喜生秋冬,遇申子月为吉。柱见庚辛,譬斧凿之论,主名利。运行申酉辰戌丑未乡,大能发越,见辛官尤妙。忌寅午戌合局及透丁火伤官,乃辛苦劳力、作事无成之命,运逢亦不顺。若合局丁透,有辰戌丑未,干上露戊己,再行财运,伤官生财,却发大福。乙木属阴,为生气之木,遇春生而花叶茂盛,亦喜生于小
春之令。逢亥卯未甲子辰二局更行北运,虽透丙丁庚辛,亦不妨。所忌寅午戌火,巳酉丑多,多伤残,再行南运,主夭无疑。
甲乙贵乎木得宜,要知金水旺为奇。
春从南往秋归北,冬夏西行发福基。
甲乙日生人,身坐已酉丑申戌金乡,运行宜土金分野。若生寅卯辰不结木局,宜时引归土金分野,大贵。行运亦然。则官长远。若生巳酉丑申月,时引归亥卯未寅,取贵非此时者,乃过与不及,却要运行水木局分野,否则贫儒。柱中原有财星,怕比劫分夺;原无财星,不畏。如木得金而成器,仁者有勇;金得木而成材,勇者必仁,是乃刚柔相济,阴阳相停。运行却喜财官,若有木无金,则庚辛亏而义寡;有金无火,即勇而无礼,则乱金太盛。而无水则枯木太多,而无金则繁,是金木各不一也。偏阴偏阳,难名之命,纵遇财官,亦不发达。
六甲日用辛为正官,庚为偏官,戊巳为财。如年月时中透出戊巳辛字,生三秋四季及金土局,财官有用。如不透出三字,只生三秋四季及金土局,亦作财官论。见甲乙夺财,丙丁伤官,名利艰难。若生春夏及火木局,财官无气,虽得滋助,名利亦轻。喜行西方四季金土分野向官临财之运,不喜东南木火伤官败财之地。若四柱庚辛俱见,谓之官煞混杂,无去留制伏,反主贫贱。如主贫贱。如只有庚,不见制伏,当作鬼论,分身鬼强弱定其吉凶寿夭。若制伏得中,作偏官论;太过反不为福。 更看日干于所生月内有力无力有助无助,分节气浅深轻重言之。喜行身旺鬼衰运,忌身衰鬼旺运。
六乙日用戊为正财,巳偏财,庚为正官,辛偏官,若年月时上透出戊巳庚字,生三秋;四季及金土局,财官有用。如不透此三字,生三秋四季及金土局,亦作财官论。见甲乙夺财,丙伤官,名利艰难,若生春夏及火木局,纵有财官,无气;虽得滋助,亦轻。喜行西方四季金土分野向官临财,忌行火木之地,伤官败财。怕官煞混杂,有煞无制,鬼论;制太过不及也,皆不为福。更详日干于所生月内有无力助,分轻重言之。运喜忌同上。
.
Giáp Ất
Giáp: là dương mộc, chính là gỗ của cột trụ và xà nhà. Thích sanh mùa thu và đông, gặp tháng thân tý thì tốt. Trụ gặp canh tân: giống như nói về búa và đục, chủ về danh lợi. Vận đi đến đất thân, dậu, thìn, tuất, sửu, mùi: tài năng phát triễn vượt bậc, gặp tân là quan thì càng tuyệt diệu. Kỵ dần ngọ tuất hợp cục cùng với đinh hoả "thương quan", chính là làm cho mệnh nhọc nhằn khổ cực, làm việc gì cũng không thành, vận gặp cũng không thuận lợi. Nếu hợp cục thấu chữ đinh, có thìn tuất sửu mùi có mậu kỷ lộ trên thiên can, lại đi tài vận, thương quan sẽ sanh tài, tức là phát phúc lớn.
Ất: là âm mộc, là mộc sanh trưởng, hợp sanh vào mùa xuân nên hoa lá tươi tốt, cũng thích sanh vào lúc đầu mùa xuân. Gặp hai cục hợi mão mùi và thân tý thìn lại đi vận hướng bắc, cho dù bính đinh canh tân thấu ra cũng không trở ngại gì. Điều kỵ là dần ngọ tuất, tỵ dậu sửu nhiều, thường thương tổn, tàn tật, lại đi vận hướng nam chủ về chết non thì không nên.
Giáp ất quý ở mộc được thích hợp, nên biết kim thuỷ vượng rất diệu kỳ.
Mùa xuân đi theo hướng nam, mùa thu về hướng bắc, mùa đông mùa hạ đi hướng tây được phát phúc.
Người sanh ngày giáp ất, mệnh ở tỵ dậu sửu là đất của kim, nên đi vận ở khu vực thổ hay kim. Nếu sanh dần, mão, thìn mà không kết thành mộc cục, nên được trụ giờ dẫn dắt về khu vực kim thổ, thì rất quý. Đi vận cũng như vậy, thì đường quan lộ được lâu dài. Nếu sanh vào tháng tỵ dậu sửu hay thân, giờ dắt về hợi mão mùi hay dần, chẳng phải thời được cao quý, là do quá nhiều hay không đủ, tức là cần đi vận thuỷ hay mộc cục, nếu không chỉ là học giả nghèo. Trong trụ vốn có tài tinh sợ tỷ kiếp tranh đoạt; còn vốn là không có tài tinh thì không sợ. Ví như mộc gặp kim sẽ thành vật dụng, người nhân từ mà dũng cảm; kim gặp mộc nên thành năng lực, người dũng cảm mà nhân từ, đó chính là cương nhu trợ giúp nhau, âm dương ổn thoả nhau. Đi vận dĩ nhiến thích tài, quan, nếu có mộc mà không có kim tức là thiếu canh tân nên đạo nghĩa kém; có kim mà không có hoả tức là dũng cảm mà vô lễ, là vì kim quá thịnh. Nhưng không có thuỷ thì quá nhiều là gỗ khô, mà không có kim thì quá phồn thịnh là vì kim và mộc không giống nhau. Một phần âm một phần dương, mệnh của khó khăn, cho dù gặp tài, quan cũng khó mà phát đạt.
Sáu ngày giáp lấy tân làm chánh quan, canh là thiên quan, mậu kỷ là tài. Như trong trụ năm tháng giờ thấu ra các chữ: mậu kỷ tân, sanh vào ba tháng mùa thu, hay bốn tháng cuối mùa cùng với kim cục, thổ cục thì tài quan có ích lợi. Còn như không thấu xuất ra ba chữ này, chỉ là sanh ba tháng mùa thu, bốn tháng cuối mùa cùng với kim cục, thổ cục mà thôi, cũng coi là tài quan để bàn luận. Gặp giáp ất tranh doạt tài, bính đinh là thương quan: danh vị và lợi lộc đều khó khăn. Nếu sanh mùa xuân và mùa hạ cùng với hoả cục, mộc cục, tài quan vô khí, cho dù được trợ giúp, danh vị và lợi lộc cũng thấp kém. Thích vận đi hướng tây, bốn tháng cuối mùa, khu vực của kim thổ hướng về vận quan, tài, không thích đông nam mộc hoả là đất của thương quan, bại tài. Nếu canh tân đều gặp trong tứ trụ: gọi là quan sát hỗn tạp, không có khứ lưu chế phục, trái lại chủ nghèo hèn. Như nghèo hèn. Như chỉ có chữ canh không gặp chế phục, nên lấy quỷ để luận, phân biệt thân và quỷ cường nhược mà định tốt xấu hay thọ yểu. Nếu có chế phục thì lấy thiên quan để luận; nhiều quá trái lại không phải là phúc. Phải xem thêm can ngày ở tháng sanh có lực hay không, có trợ hay không có trợ, phân biệt tiết khí nông sâu, nặng nhẹ mà bàn bạc. Thích vận đi thân vượng, quỷ suy; kỵ vận thân suy quỷ vượng.
Sáu ngày ất lấy mậu làm chánh tài, kỷ là thiên tài, canh là chánh quan, tân là thiên quan, nếu trên trụ năm tháng giờ thấu ra các chữ: mậu kỷ canh, sanh ba tháng mùa thu, bốn tháng cuối mùa cùng với kim cục và thổ cục thì tài quan có ích lợi. Như ba chữ này không thấu ra mà sanh ba tháng mùa thu, bốn tháng cuối mùa cùng với kim cục hay thổ cục, cũng lấy tài quan để luận bàn. Gặp giáp ất tranh đoạt tài, bính thương quan, danh vị và lợi lộc khó khăn. Nếu sanh mùa xuân, mùa hạ cùng với hoả cục, mộc cục, cho dù có tài quan mà vô khí; cho dù được trợ giúp, cũng thấp kém. Thích đi về hướng tây, bốn tháng cuối mùa, khu vực kim thổ hướng về quan và tài, kỵ đi về nơi của hoả và mộc, thương quan, bại tài.Chỉ sợ quan sát hỗn tạp, có sát mà không có chế phục, thì lấy quỷ để luận; nhưng chế thái quá hay không đủ đều không phải là phúc lành. Phải hiểu rõ can ngày với tàng trong tháng sanh có lực hay trợ giúp không, phân biệt nặng nhẹ mà bàn luận. Vận hỷ kỵ giống phần trên.
甲乙
甲木属阳,乃栋梁之材。喜生秋冬,遇申子月为吉。柱见庚辛,譬斧凿之论,主名利。运行申酉辰戌丑未乡,大能发越,见辛官尤妙。忌寅午戌合局及透丁火伤官,乃辛苦劳力、作事无成之命,运逢亦不顺。若合局丁透,有辰戌丑未,干上露戊己,再行财运,伤官生财,却发大福。乙木属阴,为生气之木,遇春生而花叶茂盛,亦喜生于小
春之令。逢亥卯未甲子辰二局更行北运,虽透丙丁庚辛,亦不妨。所忌寅午戌火,巳酉丑多,多伤残,再行南运,主夭无疑。
甲乙贵乎木得宜,要知金水旺为奇。
春从南往秋归北,冬夏西行发福基。
甲乙日生人,身坐已酉丑申戌金乡,运行宜土金分野。若生寅卯辰不结木局,宜时引归土金分野,大贵。行运亦然。则官长远。若生巳酉丑申月,时引归亥卯未寅,取贵非此时者,乃过与不及,却要运行水木局分野,否则贫儒。柱中原有财星,怕比劫分夺;原无财星,不畏。如木得金而成器,仁者有勇;金得木而成材,勇者必仁,是乃刚柔相济,阴阳相停。运行却喜财官,若有木无金,则庚辛亏而义寡;有金无火,即勇而无礼,则乱金太盛。而无水则枯木太多,而无金则繁,是金木各不一也。偏阴偏阳,难名之命,纵遇财官,亦不发达。
六甲日用辛为正官,庚为偏官,戊巳为财。如年月时中透出戊巳辛字,生三秋四季及金土局,财官有用。如不透出三字,只生三秋四季及金土局,亦作财官论。见甲乙夺财,丙丁伤官,名利艰难。若生春夏及火木局,财官无气,虽得滋助,名利亦轻。喜行西方四季金土分野向官临财之运,不喜东南木火伤官败财之地。若四柱庚辛俱见,谓之官煞混杂,无去留制伏,反主贫贱。如主贫贱。如只有庚,不见制伏,当作鬼论,分身鬼强弱定其吉凶寿夭。若制伏得中,作偏官论;太过反不为福。 更看日干于所生月内有力无力有助无助,分节气浅深轻重言之。喜行身旺鬼衰运,忌身衰鬼旺运。
六乙日用戊为正财,巳偏财,庚为正官,辛偏官,若年月时上透出戊巳庚字,生三秋;四季及金土局,财官有用。如不透此三字,生三秋四季及金土局,亦作财官论。见甲乙夺财,丙伤官,名利艰难,若生春夏及火木局,纵有财官,无气;虽得滋助,亦轻。喜行西方四季金土分野向官临财,忌行火木之地,伤官败财。怕官煞混杂,有煞无制,鬼论;制太过不及也,皆不为福。更详日干于所生月内有无力助,分轻重言之。运喜忌同上。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#75
Gửi vào 30/06/2024 - 11:51
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tứ
Bính Đinh
Bính là dương hoả, là chánh khí của mặt trời, có khả năng nuôi sống vạn vật. Thích sanh vào mùa xuân, mùa hạ, tự nhiên hoàn thành linh khí gấp trăm lần, gặp thêm thiên đức và nguyệt đức, vận đi về hướng đông, rất là tuyệt vời. Tuy gặp nhâm và quý thuỷ, không có hại gì. Chỉ kỵ có chữ mậu, kỷ thổ thấu lộ, giảm bớt phần số. Đại vận với tuế quân mạo phạm lẫn nhau gặp hình phạt với quan phủ, phá tán tài sản, có tang phục. Sanh vào mùa thu, mùa đông, gặp thêm thời gian là ban đêm, địa chi lại hợp thành thuỷ cục, chẳng phải nô bộc cũng là người theo hầu, cả đời hẳn là cô độc, nghèo hèn, yểu mạng, tàn tật.
Đinh là âm hoả, là lửa bình thường, có khả năng điều chế vạn vật. Vàng bạc đồng sắt không được đinh chế thì không thể thành đồ dùng, thích sanh vào ban đêm, tháng tỵ dậu sửu thì tuyệt vời. Tháng giêng gặp dần chính vốn là phong ấn của thiên đức, gặp thêm chữ mão rất là đẹp. Kỵ nhâm và quý thuỷ. Như sanh ngày này thường khắc vợ con. Gặp vận hướng nam bị lột bỏ chức quan hoặc thôi chức; vận đi về hướng tây bắc thì quý.
Ngày bính đinh là gốc của hoả, hai sao kim thuỷ là nguồn phúc,
Vận đi hay tới tây với bắc, dù cho phú quý chẳng trọn vẹn.
Ngày bính đinh, nều ngồi ở vị trí thân tý thìn hay hợi, lại dẫn đến giờ kim. Nếu như sanh tháng dần, ngọ, tỵ là thuỷ hoả ký tế, rất là quý. Tháng năm mùa hè, kỵ có tam hợp hoả cục, lửa nóng quá nước khô cạn. Tháng tý mùa đông, nên quên tam hợp thuỷ cục, vì nước thịnh quá thì lửa tắt. Thuỷ hoả ổn thoả mới thành ký tế. Đại vận thích hợp nơi kim thuỷ, nhưng kỵ thái quá hay bất cập, thiên về âm hoặc thiên về dương, lúa non không tăng trưởng. Nếu sanh tháng thân tý thìn và hợi, cần có giờ dần ngọ tuất hay tỵ được tôn quý. Chẳng phải giờ đó, thì đi vận mộc mới tốt đẹp, không chỉ là hư danh mà không quý.
Sáu ngày bính: canh tân là tài, quý là chánh quan, nhâm là thiên quan. Nếu trong trụ năm tháng giờ thấu ra chử canh tân hay quý, mà sanh vào mùa thu, mùa đông hợp kim cục, thuỷ cục thì tài quan có ích lợi. Nếu như không thấu ra ba chữ đó, mà sanh vào mùa thu, mùa đông hợp kim cục, thuỷ cục cũng lấy tài quan để luận. Gặp bính đinh cướp doạt tài, kỷ là thương quan, nên danh lợi khó khăn. Nếu sanh vào mùa hạ, bốn tháng cuối mùa hợp thành hoả cục, thổ cục, cho dù có tài quan mà vô khí; tuy được trợ giúp cũng giảm bớt. Thích vận đi về tây, bắc nơi kim thuỷ là tài và quan. Nếu trong trụ gặp cả nhâm với quý là quan sát hỗn tạp, không có chế phục trái lại thành hèn mọn. Nếu như có nhâm mà không có quý, không gặp chế, nên coi như quỷ để luận. Cần phải phân biệt thân với quỷ cường nhược, mới định được tốt xấu và thọ yểu. Chế phục thích hợp thì coi như là thiên quan mà dùng; chế thái quá trái lại không phải là phúc. Phải hiểu rõ thêm can ngày tàng trong tháng sanh: có lực hay không có lực; có cứu hay không có cứu, phân biệt tiết khí nặng nhẹ mà bàn luận. Thích đi vận thân vượng, quỷ suy. Kỵ đi về nơi thân suy, quỷ vượng.
Sáu ngày đinh lấy canh tân làm tài, nhâm là chánh quan, quý là thiên quan. Nếu trong trụ năm, tháng và giờ thấu ra các chữ canh tân và nhâm, sanh vào mùa thu, mùa đông hợp kim cục, thuỷ cục thì tài quan được lợi ích. Nếu như ba chữ này không lộ ra mà sanh mùa thu, mùa đông kim cục, thuỷ cục, cũng coi như tài quan để luận. Gặp bính đinh cướp đoạt tài, mậu là thương quan danh lợi khó khăn, gian khổ. Nếu sanh mùa hạ, bốn tháng cuối mùa hợp hoả cục, thổ cục, cho dù có tài quan, cũng là vô khí; tuy được nuôi dưỡng cũng giảm nhẹ, thích đi về hướng tây, bắc cùng với nơi kim thuỷ, kỵ vận thương quan, bại tài. Sợ quan sát hỗn tạp, có sát mà không có chế phục: luận là quỷ; chế phục thái quá: nghèo. Phải hiểu thêm can ngày với tàng ẩn trong tháng sanh có lực hay không có lực, phân biệt nặng nhẹ mà bàn luận. Vận hỷ kỵ giống ở trên.
丙丁
丙火属阴,乃太阳之正气,能生万物。喜生春夏月间,自然成就精神百倍。更遇天月二德,行东方运,大妙。虽见壬癸水,不妨。惟忌戊土透露,减其分数。大运,岁君相犯,官府刑狱,破财丧服。生于秋冬,更遇夜时,地支,再合水局,非仆即从,一生离别孤独,贫夭残疾。
丁火属阴,为凡火,可制万物。金银铜铁,不得丁制,不能成器,喜生夜間,巳酉丑月令为妙。正月逢寅,乃天德印元,更得卯字最好。忌壬癸水。如日生,多克妻子。遇南方运,剥官退职;行西北方运,贵。
丙丁日主火为根,金水二星是福源,
行运若临西与北,纵然富贵不周全。
丙丁日,自坐申子辰亥水位,又引归金时。如生寅午巳月,为水火既济,大贵。夏五月,忌三合火局,火炎水干。冬子月, 忘三合水局,水盛火灭。水火相停,斯成既济。大运宜金水分野,却忌过与不及,偏阴偏阳,苗而不秀。若生申子辰亥月,须要寅午戌巳时取贵。非此时者,行木运方好,否则虚名不贵。六丙日用庚辛为财,癸正官,壬偏官。若年月时中透出庚辛癸字,生秋冬金水局中,财官有用。如不透此三字,生秋冬金水局中,亦作财官论。见丙丁夺财,已为伤官,名利艰难。若生九夏四季火土局中,纵有财官,无气;虽得滋助,亦轻。喜行西北金水分野,向官临财之运。若柱中壬癸俱见,官煞混杂,无制反贱。如有壬无癸,不见制,当作鬼论。要分身鬼强 弱,定其吉凶寿夭。制伏得中,作偏官用;太过,反不为福。更详日干于所生月内,有力无力,有救无救,分节气轻重言之。喜行身旺鬼衰之运,忌行身衰鬼旺之乡。
六丁日用庚辛为财,壬为正官,癸为偏官。若年月时中透出庚辛壬字,生秋冬金水局中,财官有用。如不透此三字,生秋冬金水局,亦作财官论。见丙丁夺财,戊伤官,名利艰辛。若生九夏四季火土局中,纵有财官,无气;虽得滋助,亦轻,喜行西北及金水分野,忌伤官败财运。怕官煞混杂,有煞无制,鬼论;制太过,贫。更详日干于所生月内有无力助,分轻重言 之。运喜忌同上。
.
Bính Đinh
Bính là dương hoả, là chánh khí của mặt trời, có khả năng nuôi sống vạn vật. Thích sanh vào mùa xuân, mùa hạ, tự nhiên hoàn thành linh khí gấp trăm lần, gặp thêm thiên đức và nguyệt đức, vận đi về hướng đông, rất là tuyệt vời. Tuy gặp nhâm và quý thuỷ, không có hại gì. Chỉ kỵ có chữ mậu, kỷ thổ thấu lộ, giảm bớt phần số. Đại vận với tuế quân mạo phạm lẫn nhau gặp hình phạt với quan phủ, phá tán tài sản, có tang phục. Sanh vào mùa thu, mùa đông, gặp thêm thời gian là ban đêm, địa chi lại hợp thành thuỷ cục, chẳng phải nô bộc cũng là người theo hầu, cả đời hẳn là cô độc, nghèo hèn, yểu mạng, tàn tật.
Đinh là âm hoả, là lửa bình thường, có khả năng điều chế vạn vật. Vàng bạc đồng sắt không được đinh chế thì không thể thành đồ dùng, thích sanh vào ban đêm, tháng tỵ dậu sửu thì tuyệt vời. Tháng giêng gặp dần chính vốn là phong ấn của thiên đức, gặp thêm chữ mão rất là đẹp. Kỵ nhâm và quý thuỷ. Như sanh ngày này thường khắc vợ con. Gặp vận hướng nam bị lột bỏ chức quan hoặc thôi chức; vận đi về hướng tây bắc thì quý.
Ngày bính đinh là gốc của hoả, hai sao kim thuỷ là nguồn phúc,
Vận đi hay tới tây với bắc, dù cho phú quý chẳng trọn vẹn.
Ngày bính đinh, nều ngồi ở vị trí thân tý thìn hay hợi, lại dẫn đến giờ kim. Nếu như sanh tháng dần, ngọ, tỵ là thuỷ hoả ký tế, rất là quý. Tháng năm mùa hè, kỵ có tam hợp hoả cục, lửa nóng quá nước khô cạn. Tháng tý mùa đông, nên quên tam hợp thuỷ cục, vì nước thịnh quá thì lửa tắt. Thuỷ hoả ổn thoả mới thành ký tế. Đại vận thích hợp nơi kim thuỷ, nhưng kỵ thái quá hay bất cập, thiên về âm hoặc thiên về dương, lúa non không tăng trưởng. Nếu sanh tháng thân tý thìn và hợi, cần có giờ dần ngọ tuất hay tỵ được tôn quý. Chẳng phải giờ đó, thì đi vận mộc mới tốt đẹp, không chỉ là hư danh mà không quý.
Sáu ngày bính: canh tân là tài, quý là chánh quan, nhâm là thiên quan. Nếu trong trụ năm tháng giờ thấu ra chử canh tân hay quý, mà sanh vào mùa thu, mùa đông hợp kim cục, thuỷ cục thì tài quan có ích lợi. Nếu như không thấu ra ba chữ đó, mà sanh vào mùa thu, mùa đông hợp kim cục, thuỷ cục cũng lấy tài quan để luận. Gặp bính đinh cướp doạt tài, kỷ là thương quan, nên danh lợi khó khăn. Nếu sanh vào mùa hạ, bốn tháng cuối mùa hợp thành hoả cục, thổ cục, cho dù có tài quan mà vô khí; tuy được trợ giúp cũng giảm bớt. Thích vận đi về tây, bắc nơi kim thuỷ là tài và quan. Nếu trong trụ gặp cả nhâm với quý là quan sát hỗn tạp, không có chế phục trái lại thành hèn mọn. Nếu như có nhâm mà không có quý, không gặp chế, nên coi như quỷ để luận. Cần phải phân biệt thân với quỷ cường nhược, mới định được tốt xấu và thọ yểu. Chế phục thích hợp thì coi như là thiên quan mà dùng; chế thái quá trái lại không phải là phúc. Phải hiểu rõ thêm can ngày tàng trong tháng sanh: có lực hay không có lực; có cứu hay không có cứu, phân biệt tiết khí nặng nhẹ mà bàn luận. Thích đi vận thân vượng, quỷ suy. Kỵ đi về nơi thân suy, quỷ vượng.
Sáu ngày đinh lấy canh tân làm tài, nhâm là chánh quan, quý là thiên quan. Nếu trong trụ năm, tháng và giờ thấu ra các chữ canh tân và nhâm, sanh vào mùa thu, mùa đông hợp kim cục, thuỷ cục thì tài quan được lợi ích. Nếu như ba chữ này không lộ ra mà sanh mùa thu, mùa đông kim cục, thuỷ cục, cũng coi như tài quan để luận. Gặp bính đinh cướp đoạt tài, mậu là thương quan danh lợi khó khăn, gian khổ. Nếu sanh mùa hạ, bốn tháng cuối mùa hợp hoả cục, thổ cục, cho dù có tài quan, cũng là vô khí; tuy được nuôi dưỡng cũng giảm nhẹ, thích đi về hướng tây, bắc cùng với nơi kim thuỷ, kỵ vận thương quan, bại tài. Sợ quan sát hỗn tạp, có sát mà không có chế phục: luận là quỷ; chế phục thái quá: nghèo. Phải hiểu thêm can ngày với tàng ẩn trong tháng sanh có lực hay không có lực, phân biệt nặng nhẹ mà bàn luận. Vận hỷ kỵ giống ở trên.
丙丁
丙火属阴,乃太阳之正气,能生万物。喜生春夏月间,自然成就精神百倍。更遇天月二德,行东方运,大妙。虽见壬癸水,不妨。惟忌戊土透露,减其分数。大运,岁君相犯,官府刑狱,破财丧服。生于秋冬,更遇夜时,地支,再合水局,非仆即从,一生离别孤独,贫夭残疾。
丁火属阴,为凡火,可制万物。金银铜铁,不得丁制,不能成器,喜生夜間,巳酉丑月令为妙。正月逢寅,乃天德印元,更得卯字最好。忌壬癸水。如日生,多克妻子。遇南方运,剥官退职;行西北方运,贵。
丙丁日主火为根,金水二星是福源,
行运若临西与北,纵然富贵不周全。
丙丁日,自坐申子辰亥水位,又引归金时。如生寅午巳月,为水火既济,大贵。夏五月,忌三合火局,火炎水干。冬子月, 忘三合水局,水盛火灭。水火相停,斯成既济。大运宜金水分野,却忌过与不及,偏阴偏阳,苗而不秀。若生申子辰亥月,须要寅午戌巳时取贵。非此时者,行木运方好,否则虚名不贵。六丙日用庚辛为财,癸正官,壬偏官。若年月时中透出庚辛癸字,生秋冬金水局中,财官有用。如不透此三字,生秋冬金水局中,亦作财官论。见丙丁夺财,已为伤官,名利艰难。若生九夏四季火土局中,纵有财官,无气;虽得滋助,亦轻。喜行西北金水分野,向官临财之运。若柱中壬癸俱见,官煞混杂,无制反贱。如有壬无癸,不见制,当作鬼论。要分身鬼强 弱,定其吉凶寿夭。制伏得中,作偏官用;太过,反不为福。更详日干于所生月内,有力无力,有救无救,分节气轻重言之。喜行身旺鬼衰之运,忌行身衰鬼旺之乡。
六丁日用庚辛为财,壬为正官,癸为偏官。若年月时中透出庚辛壬字,生秋冬金水局中,财官有用。如不透此三字,生秋冬金水局,亦作财官论。见丙丁夺财,戊伤官,名利艰辛。若生九夏四季火土局中,纵有财官,无气;虽得滋助,亦轻,喜行西北及金水分野,忌伤官败财运。怕官煞混杂,有煞无制,鬼论;制太过,贫。更详日干于所生月内有无力助,分轻重言 之。运喜忌同上。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Lịch thông thắng |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | trongtri |
|
||
JD VANCE - Tân Phó Tổng Thống Hoa Kỳ |
Tử Vi | tutruongdado |
|
||
lá số tổng thống Ukraine ô. Zelensky |
Tử Vi | Ngu Yên |
|
||
Xem khoảnh khắc công bố kết quả đầu tiên trong cuộc đua giành chức tổng thống năm 2024 |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
|
|
Bài Diễn Văn Của Tổng Thống Joe Biden |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Truy "long mạch" phát tích gia tộc tổng thống họ Dương |
Địa Lý Phong Thủy | 55555 |
|
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |