Jump to content

Advertisements




Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》


74 replies to this topic

#31 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 01:09

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Ngũ Hành Vượng Tướng Hưu Tù Tử Tịnh Ký Sanh Thập Nhị Cung

Nhân lúc thời gian thịnh đức gọi là "vượng". Như mùa xuân mộc vượng, vượng sẽ sanh hoả, hoả chính là con của mộc, con lợi dụng nghiệp của cha, cho nên hoả "tướng"; mộc nhờ thuỷ sanh, sanh mình là cha mẹ, bây giờ con nối nghiệp được thời, trèo lên nơi cao và sáng hiển hách, người sanh ra ta đang biết thối lui, cho nên thuỷ "hưu". "Hưu": vẽ đẹp vô hạn, ý nghĩa của "hưu" không là gì cả. Hoả có khả năng khắc kim, kim chính là quan quỷ của mộc, bị hoả khắc chế, không thể nào thi triễn tài năng, cho nên kim "tù"; hoả có khả năng sanh thổ, thổ là tài của mộc, tài là vật ẩn tàng, cây cỏ mọc ra, đất phát tán không khí và bụi bặm, nên mùa xuân mộc khắc thổ sẽ chết. Mùa hạ hoả vượng, sanh thổ nên thổ "tướng", mộc sanh hoả thì mộc "hưu", thuỷ khắc hoả thì thuỷ "tù", hoả khắc kim thì kim "tử". Tháng sáu thổ vượng, thổ sanh kim nên kim "tướng", hoả sanh thổ nên hoả "hưu", mộc khắc thổ nên mộc "tù", thổ khắc thuỷ nên thuỷ "tử". Mùa thu kim vượng, kim sanh thuỷ nên thuỷ "tướng", thổ sanh kim nên thổ "hưu", hoả khắc kim nên hoả "tù", kim khắc mộc nên mộc "tử". Mùa đông thuỷ vượng, thuỷ sanh mộc nên mộc "tướng", kim sanh thuỷ nên kim "hưu", thổ khắc thuỷ nên thổ "tù", thuỷ khắc hoả nên hoả "tử".

Xem xét các tháng mùa hạ hạn hán nghiêm trọng, vàng đá cũng chảy, thuỷ thổ bị cháy xém. Tháng sáu khí nóng tăng thêm, khí lạnh bị tiêu diệt; các tháng mùa thu kim vượt trội, cây cỏ vàng úa, rơi rụng; các tháng mùa động lạnh giá, rét mướt, nước đóng băng, hoả khí bỗng tắt, cái nó vượng cái nó từ đại khái có thể nhìn thấy được. Bởi bốn mùa lần lượt đầy rồi lui đi, tính chất ngũ hành thành công rồi sẽ ẩn phục, cho nên dương khí lên tới cùng sẽ giáng xuống, âm khí tới tận cùng sẽ thăng lên, mặt trời ở giữa sẽ xế, mặt trăng đầy sẽ khuyết. Đây là đạo thường của trời. Người sống trong trời đất, cơ hội tích tụ sẽ tổn giảm, tài tụ sẽ tán, tuổi trẻ rồi sẽ suy yếu, vui vẻ đến cực điểm lại buồn. Đây là thường tình của con người. Cho nên một thịnh một suy, hoặc được hoặc mất, giàu nghèo tiến thối, khó tránh được nguyên lý này, kinh sách nói: con người tuy là thông minh nhất trong vạn vật, mệnh chẳng tránh được ở ngũ hành. Đó là tất cả.

Ngũ hành nương tựa ở mười hai cung: trường sanh, mộc dục, quan đái, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng, tuần hoàn bất tận, lặp đi lặp lại, muôn vật tạo ra nói chung giống với con người, mười hai cung tuần hoàn cũng giống như luân hồi của người ở thế gian. "Tam Mệnh Đề Yếu" nói rằng"ngũ hành nương tựa ở mươi hai cung, một gọi là "thụ khí", lại gọi là "tuyệt", gọi là "thuý", vì vạn vật ở trong đất chưa có hình tượng, trồng rỗng như trong bụng mẹ, chưa có vật gì vậy; hai gọi là"thụ thai", khí trời và đất giao nhau, khí trời đất hoà hợp tạo thành vạn vật, vật ở trong đất nẩy mầm, bắt đầu có khí của nó, như người nhận lấy khí của cha mẹ vậy; ba gọi là thành hình, vạn vật ở trong đất thành hình, như người thành hình ở trong bụng mẹ; bốn gọi là "trường sanh", vạn vật sanh ra và tươi tốt, như con người được sanh ra và lớn lên; năm gọi là "mộc dục", lại gọi là "bại", vì vạn vật mới sanh ra, hình thể mềm mại và yếu đuối, dễ bị tổn thương, như con người sanh sau ba ngày mà tắm gần như kiệt sức; sáu gọi là "quan đái", vạn vật dần sinh trưởng tươi tốt, như người có đủ y phục và đội mủ; bảy gọi là "lâm quan", vạn vật đã lớn lên và sung mãn, như người được cấp cho chức vị vậy; tám gọi là "đế vượng", vạn vật hoàn thiện, như hưng vượng của con người; chín gọi là "suy", hình thức vạn vật suy tàn, như người bị suy giảm năng lượng; mười gọi là "bệnh", vạn vật bệnh như con người bị bệnh vậy; mười một gọi là "tử", vạn vật chết như con người chết vậy; mười hai gọi là "mộ", cũng gọi là "khố" - kho, vì vạn vật thành công rồi thì cất vào kho, như con người cuối đời thì về với mộ. Trở về mộ sẽ lại "thụ khí", tạo thành bào thai". Nói chung nghiên cứu tạo hoá: người thấy sanh vượng không hẳn luận là tốt lành, thấy hưu, tù, tử, tuyệt không hẳn là hung xấu. Như sanh vượng quá nhiều, nên được chế phục, tử tuyệt bất cập, nên được sanh phù, kỳ diệu ở chỗ biết thông biến, Xưa lấy thai sanh vượng khố làm bốn điều quý, tử tuyệt bệnh bại làm bốn điều kỵ, còn lại bốn thì bình thường, chẳng qua là nói một cách đại khái thôi.

论五行旺相休囚死并寄生十二宫

盛德乘时曰旺。如春木旺,旺则生火,火乃木之子,子乘父业,故火相;木用水生,生我者父母,今子嗣得时,登高明显赫之地,而生我者当知退矣,故水休。休者,美之无极,休然无事之义。火能克金,金乃木之鬼,被火克制,不能施设,故金囚;火能生土,土为木之财,财为隐藏之物,草木发生,土散气尘,所以春木克土则死。夏火旺火,生土则土相,木生火则木休,水克火则水囚,火克金则金死。六月土旺,土生金则金相,火生土则火休,木克土则木囚,土克水则水死。秋金旺,金生水则水相,土生金则土休,火克金则火囚,金克木则木死。冬水旺,水生木则木相,金生水则金休,土克水则土囚,水克火则火死。


观夏月大旱,金石流,水土焦。六月暑气增,寒气灭;秋月金胜,草木黄落;冬月大寒太冷,水结冰,火气顿减,其旺其死,概可见矣。盖四时之序,节满即谢,五行之性,功成必复,故阳极而降,阴极而升,日中则昃,月盈则亏。此天之常道也。人生天地,势积必损,财聚必散,年少反衰,乐极反悲。此人之常情也。故一盛一衰,或得或失,荣枯进退,难逃此理,经云:人虽灵于万物,命莫逃乎五行。斯言尽矣。

五行寄生十二宫:长生、沐浴、冠带、临官、帝旺、衰、病、死、墓、绝、胎、养,循环无端,周而复始,造物大体与人相似,循环十二宫亦若人世轮回也。《三命提要》云:"五行寄生十二宫,一曰受气,又曰绝,曰脆,以万物在地中未有其象,如母腹空,未有物也;二曰受胎,天地气交,氤氲造物,其物在地中萌芽,始有其气,如人受父母之气也;三曰成形,万物在地中成形,如人在母腹成形也;四曰长生,万物发生向荣,如人始生而向长也;五曰沐浴,又曰败,以万物始生,形体柔脆,易为所损,如人生后三日以沐浴之,几至困绝也;六曰冠带,万物渐荣秀,如人具衣冠也;七曰临官,万物既秀实,如人之临官也;八曰帝旺,万物成熟,如人之兴旺也;九曰衰,万物形衰,如人之气衰也;十曰病,万物病,如人之病也;十一曰死,万物死,如人之死也;十二曰墓,又曰库,以万物成功而藏之库,如人之终而归墓也。归墓则又受气,胞胎而生。"凡推造化,见生旺者未必便作吉论,见休囚死绝未必便作凶言。如生旺太过,宜乎制伏,死绝不及,宜乎生扶,妙在识其通变。古以胎生旺库为四贵,死绝病败为四忌,余为四平,亦大概言之。


.

#32 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 01:17

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Độn Nguyệt Thời

Mệnh lấy năm làm gốc, làm cha, tháng làm anh em, người cùng làm việc, ngày làm chủ, làm vợ, làm tự thân mình, giờ là con cháu, là đế sản, là phần chủ yếu của vinh nhục trong đời sống. Lại nói năm là "căn" - gốc rễ, tháng là "miêu" - mầm, ngày là 'hoa", giờ là "thật" - quả, cho nên mầm không có gốc rễ thì không sanh trưởng, quả không có hoa thì không thể kết trái. Vì thế độn tháng thì theo năm, độn giờ thì theo ngày. Độn tháng tức là năm giáp kỷ, tháng giêng khởi bính dần, tháng hai đinh mão, đi thuận mười hai tháng.

Bài ca xưa viết: năm giáp kỷ bính đầu tiên, năm ất canh mậu đứng đầu, năm bính tân tìm canh trước, đinh nhâm tại nhâm đi thuận hành, còn mậu quý khởi ở đâu? Dễ tìm tòi ở giáp dần trước.

Độn giờ như ngày giáp tý người sanh giờ tý tức là giáp kỷ trở lại giáp, biết ngay giờ tý là giáp tý, giờ sửu là ất sửu, đi thuận mười hai giờ. Bài ca xưa viết: giáp kỷ trở lại giáp, ất canh bính đứng đầu, bính tân theo mậu khởi, đinh nhâm ở canh tý, mậu quý phát phương nào? Thẳng đường tới nhâm tý.

Nguyên tắc của tháng và giờ là chọn thiên can số tổng hợp phối với âm dương. Đã chọn số tổng hợp, và hoá số khởi đầu, tháng sẽ chọn sanh, giờ sẽ chọn khắc. Thí dụ như giáp kỷ hoá thổ, mà hoả sanh thổ nên tháng khởi bính dần; mà mộc khắc thổ nên giờ khởi giáp tý. "Nguyệt độn" bắt đầu ở dần, ý nghĩa của con người sanh ra ở dần, đó là lúc phương đông thịnh vượng; "thời độn" bắt đầu ở tý, ý nghĩa của trời mở ra ở tý, đó là lúc nhất dương mới vừa sanh. Nói một cách đơn giản, thì tất cả đều sinh ra và luân chuyển nhau, tuần hoàn vô tận. Bởi lịch đời thượng cổ vốn bắt đầu năm giáp tý, tháng giáp tý, ngày giáp tý, giờ giáp tý, giáp tý khởi, giáp tý tổ ở đây vậy. Có giáp tý sẽ có ất sửu, bính dần xếp đặt tuận theo mười hai cung, dương sanh dương, âm sanh âm, cách nhau một vị trí, cùng loại thành vợ chồng. Đây là nguyên tắc khởi đầu tháng, không vượt ra phạm vi khởi giờ vậy.

论遁月时

夫命以年为本为父,月为兄弟僚友,日为主为妻为己身,时为子孙为帝产为平生荣辱之首。又曰年为根,月为苗,日为花,时为实,故苗无根不生,实无花不结。所以遁月从年,遁时从日。遁月即甲己之年,正月起丙寅,二月丁卯,顺行十二月。

古歌曰:甲已之年丙作首,乙庚之岁戊为头,丙辛之岁寻庚上,丁壬壬位顺行流,更有戊癸何处起?甲寅之上好追求。

遁时如甲子日子时生人即甲己,还加甲,便知子时乃甲子,丑时乃乙丑,顺行十二时。古歌曰:甲己还加甲,乙庚丙作初,丙辛从戊起,丁壬庚子居,戊癸何方发?壬子是直途。

月时之法,取天干合数,阴阳之配也。既取合数,自生化数,月则取生,时则取克。假如甲己化土,火生土故,月起丙寅;水克土故,时起甲子。月遁起寅,人生于寅之义,东作方兴之时也;时遁起子,天开于子之义,一阳方生之候也。究而言之,则皆相生而转,循环无端焉。盖上古历元年甲子,月甲子,日甲子,时甲子,甲己起,甲子祖于此也。有甲子则乙丑、丙寅顺布十二宫,阳生阳,阴生阴,相间一位,同类为夫妇。是起月之法,不外起时之中矣。


.

#33 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 01:30

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Niên Nguyệt Nhật Thời

Đại khái khi luận về mệnh người, năm tháng ngày giờ được xếp thành bốn trụ, độn tháng thì thuận theo năm, nên lấy năm làm gốc, độn giờ thuận theo ngày, nên lấy ngày làm chủ. Phương pháp xưa lấy năm để xét đoán, tử bình thì lấy ngày để xem xét, đấy là cơ sở. Ví như người sinh ra là mộc thì lấy tháng mão để tận dụng lợi thế, ngày là kim thì được giờ dậu để lợi dụng con cháu, gọi là "bổn" - gốc là năm, "chủ" - ngày lợi dụng vượng khí; ví như năm là thuỷ nên được các tháng giáp thân, bính tý, nhâm tuất, quý hợi; ngày hoả nên được các giờ bính dần, mậu ngọ, giáp thìn, ất tỵ; năm mộc nên được các tháng kỷ hợi, tân mão, giáp dần, canh dần; ngày kim nên được các giờ tân tỵ, quý dậu, canh thân, nhâm thân, gọi là "bổn", "chủ" trở về nhà; năm mộc nên được tháng quý mùi, ngày kim nên được giờ ất sửu; năm thuỷ nên được tháng nhâm thìn, ngày hoả nên được giờ giáp tuất, gọi là "bổn", "chủ" giữ ấn tín. Bốn chuẩn tắc như thế có thêm cát thần mà hung thần xa lánh, gọi là "bổn", "chủ" đắc vị, người mà năm thắng ngày thường được tổ tiên che chở, người mà ngày thắng năm sẽ thành tựu xuất chúng, năm với ngày cả hai đều mạnh thì phú quý có đủ cả hai. Trong bốn trụ được cân bằng không thái quá hay bất cập sẽ được mệnh tốt, có một vị bất cập, sẽ chủ chậm chạp, trì độn, tuy nhiên các trường phái bói toán đều cho rằng năm tôt không như tháng tốt, tháng tốt không như ngày tốt, ngày tốt không như giờ tốt, đại khái lấy năm để thống lĩnh một năm, tháng thì cai quản ba mươi ngày nên ngày giờ có được nó. Chỉ không biết rằng được ngày giờ tốt mà tháng không thích hợp, trái lại cũng vô dụng, huống chi dụng thần thường được chọn ở các tháng, làm sao lại xem nhẹ tháng được? Lý Hư Trung đời Đường chỉ lấy can ngày làm chủ, tức là lấy năm tháng và giờ để cùng xem sanh khắc, chế hoá, vượng tướng, hưu tù, để chọn lập thành cách cục, Phương pháp này chưa được các bậc hiền triết trước đây phát triễn, và ngày nay các nhà bói toán đều theo nó.

Lại nói năm là "thái tuế", chủ hoạ phúc cả một đời người, ví như lúc sanh thái tuế là kim hay là mộc, cần được ngày tháng tương sanh, tương ứng, thì hạnh vận được hoà thuận, nền tảng vững chắc, một đời thành quả xuất chúng. Các can chi ngũ hành không thích hợp trái lại khắc chế, xung phá làm tổn thương, vốn chủ không thọ, bị hình đới sát. Bằng như sanh cho tháng, ngày, giờ chủ hao tổn mộc khí, làm thương tổn tổ nghiệp, mệnh của lục thân lãnh đạm, chậm chạp. Tháng là "vận nguyên", vận đi theo tháng, nếu như ngày giờ vốn là phúc của năm sanh, thích hợp "vận nguyên" trở về xứ sanh vượng để phù trợ, cho nên quan, ấn, quý nhân, lộc, mã, tài tinh thích hợp ở "vận nguyên" sanh vượng là tốt đẹp; nếu như ngày giờ vốn là hoạ của năm sanh, nên theo về "vận nguyên" bị "bác khắc" để âm thầm cứu giúp. Do thổ hay che lấp, nên "vận nguyên" theo về nơi xứ sở khai thông; thuỷ thường hay trôi nổi, "vận nguyên" nên theo về nơi ngừng nghĩ; hoả thường hiện rõ ra ngoài, "vận nguyên" nên theo về nơi tối tăm; kim mộc quá cứng rắn, "vận nguyên" nên theo về nơi tiềm tàng, ở ẩn không lộ ra ngoài. Có thể "vận nguyên" tụ họp phúc của đời sống, có thể "vận nguyên" phát phúc ở đời sống, mà ngày lại là tam dương hội tụ, tượng của hoàng đế, giờ sẽ là cận thần, vì gần chỗ vua ngồi, nên ngày giờ có cách "quan thần khánh hội", "thiên địa đức hợp". Có thể bốn chỗ năm tháng ngày giờ có khí nạp âm sanh vượng, có thể là bốn chỗ mà lộc với phúc, quý khí tụ hợp ở trên trụ giờ, gọi là "tứ vị tập phúc vu đế toạ" - bốn chỗ tụ phúc nơi ngôi vua; có thể trụ giờ "đảo yết", vượng khí, tú khí phân bố ra ở các trụ, nhân cơ hội mà các trụ nhận được khí tốt lành, gọi là ngôi vua ban phát phúc lành cho bốn trụ. Để thu thập phúc lành từ ngôi vua thì cần có lòng trung tín, thành thật, ban phát phúc lành cho bốn trụ sẽ là thông minh, chính trực và tự chủ. Nếu như cận thần phải kiêng thổ, hoả, kim khí quá vượng, không thể ở lại lâu; thuỷ, mộc thanh kỳ thường là "hàn lâm" - tên một chức quan. Năm tháng là nơi ban phát phúc lành, không muốn bị "sanh thời làm hư hoại, là nơi hư bại thì lại cần "sanh thời" giải cứu. Lập luận từ điều này, năm tháng ngày giờ đều quan trọng, nhưng giờ đặc biệt quan trọng hơn. Mệnh người sang hèn, thọ yểu, giàu nghèo, được mất chỉ phân biệt ở giờ sanh. Giờ có tám khắc - một khắc bằng mười lăm phút ngày nay, có bắt đầu, chánh và cuối không giống nhau, phải quan sát cẩn thận. "Định Chân Luận" nói: thương tổn trụ năm không lợi cha, thương tổn trụ tháng không lợi cho anh em, cũng chủ những năm đầu khó khăn, thương tổn trụ ngày không lợi cho bản thân, tên gọi là "chiết yêu sát" - thần sát làm chết non, thương tổn trụ giờ không lợi cho con cháu, cũng là không có kết quả - cây không có trái. Nếu như trụ năm sanh cho ba trụ tháng, ngày, giờ gọi là trên sanh cho dưới, chủ hao tổn bổn khí, gồm cả phá hại tổ nghiệp; trụ giờ sanh cho các trụ năm, tháng, ngày giờ là dưới sanh cho trên, chủ gia tăng phước đức. Nếu như trên sanh cho dưới mà hành vận gặp xấu xa, như gặp phúc khí cũng lấy mệnh tốt lành mà xem, còn như gặp hoạ khí, thì không tốt đẹp. Bốn trụ thuần tuý, tốt đẹp, không bị hình, xung, phá, hại hay không vong, tử, tuyệt, có thêm phúc thần hỗ trợ mới là mệnh tốt, trái lại sẽ là hung xấu.

论年月日时

凡论人命,年月日时排成四柱,遁月从年,则以年为本,遁时从日,则以日为主。古法以年看,子平以日看,本此。如人本木而得卯月以乘之,主金而得酉时以乘子,谓之本,主乘旺气;如本水而得甲申、丙子、壬戌、癸亥月;主火而得丙寅、戊午、甲辰、乙巳时;本木而得己亥、辛卯、甲寅、庚寅月;主金而得辛巳、癸酉、庚申、壬申时,谓之本,主还家;本木而得癸未月,主金而得乙丑时;木水而得壬辰月,主火而得甲戌时,谓之本,主持印。四位如此,更吉神往来,凶煞回避,谓之本主得位,本胜于主者多得祖荫,主胜于本者当自卓立,本主两强,富贵双全。四柱中更抑扬归中,无太过不及,方作好命,有一位不及,必主蹇滞,然诸家命术皆云好年不如好月,好月不如好日,好日不如好时,大率以年则统乎一岁,月则该乎三十,而时日为得之。独不知得日时之吉而月不应,反为无用,况用神多取诸月,是月又可轻乎?唐李虚中独以日干为主,却以年月时合看生克制化,旺相休囚,取立格局。此发前贤所未发,故今术家宗之。


又曰年为太岁,主人一生祸福,如当生太岁,是金是木,要日月相生相应,造化和顺,则根基牢固,一生卓立成就。众支干五行不顺反克,冲破为伤,本主无寿,被形带煞。及生,月日时者主损木气,破伤祖业,六亲冷淡蹇滞之命也。月为运元,行运从月逮起,若日时是本生年之福,宜归运元生旺处以扶助之,故官印贵人,禄马财星宜在运元生旺处为佳;若日时是本生年之祸,宜归运元剥克处以潜济之。故土多窒塞,宜归运元疏通处;水多泛滥,宜归运元归宿处;火多暴露,宜归运元晦息处;金木太强,宜归运元沉潜处。或运元集生时之福,或运元发福于生时,日者三阳之会,帝皇之象,时者近侍之臣,以亲帝座,而时日有君臣庆会,天地德合。或年月日时四位纳音生旺之气,或四位禄与福贵气聚于时上,谓之四位集福于帝座;或时倒揭,旺气秀气散在诸位,而诸位乘吉会之气者,谓之帝座发福于四位。夫集福于帝座则以纯厚忠信为心,发福于四位则以聪明端直自进。若近侍之臣切忌土火金气太旺,不能久住,水木清奇多是翰林。年月发福处,不要生时破坏,败坏处仍要生时解释。由是论之,年月日时均重,而时为尤重。人命贵贱、寿夭、穷通、得丧只在生时之辨。时有八刻,有初正末气不同,须细察之。《定真论》曰:伤年不利父,伤月不利兄弟,亦主初年艰辛,伤日不利己身,名折腰煞,伤时不利子孙,亦无结果。若年生日月时三位谓之上生下,主损本气,兼破祖业;时上生日月年谓之下生上,主增福德。若上生下得丑行相逢,乘生福气,亦作好命看,若相乘生祸,则不佳。四柱纯粹,无刑冲破害,空亡死绝,更有福神互为之助方为吉命,反此则凶。


.

#34 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 01:39

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Thai Nguyên

Thai là khi bắt đầu tiếp nhận hình tướng, cho nên dễ biết lúc mới bắt đầu, nói theo hình vậy; "nguyệt" là lúc thành khí, do truyền thuyết nói tích luỹ ngày để làm tháng, nói theo khí vậy. Đời nay bàn về mệnh có thể không lấy "thai nguyệt" - tháng thụ thai - làm quan trọng, mà còn không nghĩ rằng "thai nguyệt" là gốc rễ của tứ trụ, ngày giờ tuy là quan trọng, nếu như không phạm phá "thai nguyệt", có thể nhân lúc lộc mã vượng khí thì phúc lành càng nhiều, có thể ngày giờ tốt lành mà "thai nguyệt" bị mạo phạm, thì cái tốt lành cũng trở thành vô dụng. Vì thế "thai nguyệt" rất là quan trọng.

Chỉ có một cách để tìm lấy "thai nguyên" là lấy khí trước khi sanh ba trăm ngày tức là mười tháng, chính là đúng lúc thụ thai, thí dụ sanh ngày giáp tý thì lấy ngay ngày thụ thai là giáp tý, ước chừng có năm, sáu lần trong ba trăm ngày, xem ngày sanh đó ở trong tháng nào, là "nhuận" tại đó. Lại như người sanh mậu tý tháng giáp dần ngày ất sửu, cần phải lấy trước nửa tháng của tháng mười hoặc trong tháng mười một, tìm ngày sanh ất sửu, chính là chánh thai của ba trăm ngày.

论胎元
夫胎者,受形之始,故易乾知太始,以形言也;月者,成气之时,故传曰积日以为月,以气言也。今谈命或不以胎月为重,殊不思胎月是四柱之根苗,日时虽为紧,若不犯破胎月,或乘旺气禄马之处则为福尤多,或日时之吉而为胎月所犯,则吉亦归无用。是胎月最为枢要。

胎元之取,唯有一法,以当生前三百日为十月之气,乃是受胎之正,譬甲子日生便以甲子为受胎之日,盖五六计三百日,看其生日在何月中有,则闰在其中矣。且如戊子生人甲寅月乙丑日,须于半月前十月或十一月内,寻当生乙丑日,乃是三百日之正胎。


.

#35 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 01:57

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Toạ Mệnh Cung

Thần mà không có miếu thì không có chỗ trở về, người mà không có nhà thì không có nơi nghĩ ngơi, mệnh mà không có cung thì không có chủ, cho nên mới có học thuyết "mệnh cung", nếu không thế thì các sao lưu niên, là xấu là tốt, lấy gì làm bằng cớ?

Phương pháp này xem là người sanh tháng nào ngồi ở giờ nào, sau đó mới định mệnh ngồi ở cung nào. Đầu tiên lấy tháng sanh thuận theo cung tý khởi tháng giêng, cung hợi là tháng hai, cung tuất là tháng ba, cung dậu tháng tư, cung thân tháng năm, cung mùi tháng sáu, cung ngọ tháng bảy, cung tỵ tháng tám, cung thìn tháng chín, cung mão tháng mười, cung dần tháng mười một, cung sửu tháng chạp, đi nghịch mười hai cung, kế đến mới gia thêm giờ sanh ở tháng sanh, đi thuận mười hai cung, gặp cung mão thì an mệnh cung, giả thử người sanh năm giáp tý, tháng ba, giờ tuất, tức là lấy tháng giêng ở cung tý, tháng hai ở cung hợi, tháng ba ở cung tuất thì ngưng lại, lại lấy giờ tuất đặt lên cung tuất kể là hợi, đến cung hợi kể là tý, cung tý kể là sửu, cung sửu kế là dần, cung dần kể là mão, mão gặp mão đúng là nó tức là mệnh an ở mão. Chiếu theo năm giáp tý khởi cũng giống như phương pháp khởi tháng, năm giáp kỷ thì bính đứng đầu, chính là cung đinh mão vậy. Kế đến tìm xem tam phương hội họp với bổn mệnh có các sao xấu hay tốt nào phạm đến bổn mệnh.

论坐命宫
神无庙无所归,人无室无所栖,命无宫无所主,故有命宫之说,不然流年星辰,为凶为吉,以何凭据?

此法看是何月生人坐于何时,然后方定命坐何宫。先将所生之月从子上起正月,亥上二月,戌三,酉四,申五,未六、午七,已八,辰九,卯十,寅十一,丑十二,逆行十二位,次将所生之时加于所生之月,顺行十二位,逢卯即安命宫,假令甲子年三月生人得戌时,却将正月加子,二月在亥,三月在戌为止,又将戌时加在戌上、亥上、亥子上、子丑上、丑寅上、寅卯上、卯逢卯便是,即命坐卯宫是也。仍随甲子年起,亦如起月之法。甲已之年丙作首,乃丁卯宫也。次看三方并本命流干犯何星凶吉推之。

Không hiểu bài này lắm

#36 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 05:49

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Đại Vận

Vận là nhà trạm có phòng để nghĩ ngơi của đời người. Thuyết khám phá số mệnh trước tiên dùng tam nguyên, tứ trụ, ngũ hành, sanh tử, họp thành cách cục để xác định nền tảng, sau đó mới xem xét vận khí, từ đó xác định tốt xấu của đời sống. Người xưa dùng "đại vận" sẽ là một thần là mười năm, ý nghĩa của ba ngày là một năm là thế nào? Bởi trọn một tháng có ba mươi ngày, trọn một ngày sáng tối có mười hai giờ; tổng cộng vận khí của mười năm, hễ ba ngày thì có ba mươi sáu giờ, lại thấy ba trăm sáu mươi là số ngày của một năm; quan sát trong một tháng có ba trăm sáu mươi giờ, loại bỏ thuật ngữ tiết khí, tính ra ba ngàn sáu trăm ngày là một thời gian mười năm vậy. Phương pháp loại bỏ phải sử dụng dương lịch của người sống, số ngày trôi qua chính là số tiết khí của nó. Dương nam, âm nữ lấy số ngày giờ sau ngày sanh chưa đến tiết khí, đi theo chiều thuận; còn âm nam, dương nữ thì đại vận lấy số ngày giờ của ngày sanh trước khi đến tiết khí, đi theo chiều nghịch. Giả dụ như dương nam sanh giáp tý, tháng mười hai, ngày hai mươi bốn giờ tỵ, là tháng mà lập xuân vào ngày hai mươi chín giờ thân, dương nam lấy số ngày trước tiết khí, từ hai mươi bốn giờ tỵ đến ngày hai mươi lăm giờ tỵ mới là một ngày, đến ngày hai mươi chín giờ thân đúng là năm ngày ba giờ của tiết khí, thật sự đã vượt qua sáu mươi ba ngày chiết trừ, quá sáu mươi ba giờ đếm là sáu trăm ba mươi ngày, chính là đại vận của một năm lẽ chín tháng; bắt đầu ở đinh sửu, phải từ sau ngày sinh nhật tháng mười hai, lịch thật sự vượt quá ngày hai mươi mốt, nguyệt vận mới đổi cung, là ba tuổi chín tháng, mới là sanh giáp tý tháng mười hai, làm đại vận từ một tuổi chín tháng vậy.

Nói chung hành vận thì dựa vào can và bao gồm cả địa chi, dựa vào địa chi thì bỏ thiên can. Bởi đại vận quan trọng ở địa chi, cho nên mới có phân biệt tổn thất của "hành đông phương", "nam phương", "tây phương", "bắc phương". Dụng thần thì muốn vận có lợi ích, dụng thần muốn vận mà tự mình được sanh phù: yếu đuối muốn vận đến đất thịnh vượng; vận quan muốn vận được sanh, không muốn vận thương tổn; còn sát thì muốn vận được chế phục, không muốn vận phù trợ. Tài muốn vận phù trợ, không muốn vận cướp đoạt; ấn muốn vận thịnh vượng, không muốn vận suy bại; thực thần muốn vận sanh, không muốn vận kiêu tuyệt. Còn tuỳ tứ trụ cường nhược như thế nào, cái nào có cái nào không, cái nào nhẹ cái nào nặng. Ví như người mộc lấy kim làm quan, dương nam vận ra khỏi mùi thì vào thân, âm nam vận ra khỏi hợi liền vào tuất; người kim lấy mộc làm tài, dương nam vận ra khỏi sửu liền vào dần, âm nam ra khỏi tỵ liền vào thìn, đều là hướng về lộc, mã. Vốn có quan đi quan vận sẽ phát quan; vốn có tài đi tài vận sẽ phát tài; vốn có tai hoạ, đi vận tai hoạ sẽ gặp tai hoạ. Còn tuỳ vào năm sanh có được khí hỗn tạp và nông cạn, tứ trụ được khí thâm sâu, đón vận sẽ phát ngay, được khí nông cạn, phải qua khỏi giao vận mới phát, được trung khí đến giữa vận thì phát. Nói chung hành vận, "trường sanh" chủ có sự sáng tạo đổi mới; tới "lâm quan", "đế vượng" chủ hưng thịnh, vui vẻ, gặp may mắn và phú quý, có việc mừng của sanh đẻ con cái hay của thân nhân; đến đất "suy", "bệnh" thường là các sự việc thối bại, phá tài, tật bệnh; đến "đất "tử", "tuyệt" chủ người thân mất mát, tự mình lụn bại, gặp tai hoạ, chậm chạp, buồn phiền, trăm sự gian khó, bế tắc; đến bại vận chủ khốn đốn, ươn lười, đam mê tửu sắc; tới đất "thai", "dưỡng", "quan đới" trăm sự hợp cách, đời sống an khang, bình dị. Nói chung hành vận đến kề bên "quý', "hoa cái", "quý nhân", "lục hợp" cũng như được khí sanh vượng, đều chủ về tốt lành, phúc lành, Vẫn nên xem xét kỹ càng nền tảng, đang sanh mười phần sẽ ứng được năm phần, sanh thời sẽ ứng mười phần, phúc với hoạ giống nhau; hễ hành vận đến "lâm quan", "đế vượng" hay ""thái tuế" cai quản, quan viên chủ có việc vui được thăng quan tiến chức.

论大运

夫运者,人生之传舍。探命之说先以三元、四柱、五行、生死、格局致合以定根基,然后考究运气,协而从之以定平生之吉凶也。古人以大运则一辰十岁,折除以三日为年者何?盖一月之终,晦朔周而有三十日,一日之终,昼夜周而有十二时;总十年之运气,凡三日有三十六时,乃见三百六十日为一岁之数;在一月之中有三百六十时,折除节气,算计三千六百日为一辰之十岁也。天论折除之法必用生者日历。过日时数,其节气之数。阳男阴女,大运以生日后未来节气日时为数,顺而行之;阴男阳女,大运以生日前过去节气日时为数,逆而行之。假如甲子阳男十二月二十四日已时生,是月也二十九日申时立春,阳男数以未来之日,自二十四日已时至二十五日已时方是一日之实数,至二十九日申时正得五日三时之节气,实历过六十三日折除,过六十三时折除,计六百三十日,乃一岁奇九月之大运;起于丁丑,必自十二月生日后,实经历过二十有一之日,月运方移宫,是越三岁九月之内,方是甲子十二月生,行一岁奇九月之大运也。


凡行运,在干兼用地支之神,在支则弃天干之物。盖大运重地支,故有行东方、南方、西方、北方之辨损。用神者欲运制之益,用神者欲运生之身。弱欲运引进旺乡;官欲运生,不欲运伤;煞欲运制,不欲运助。财欲运扶,不欲运劫;印欲运旺,不欲运衰;食欲运生,不欲运枭绝。更看四柱强弱何如,原有原无,原轻原重。如木人用金为官,阳男运出未入申,阴男运出亥人戌;金人用木为财,阳男出丑入寅,阴男出已入辰,俱向禄临马。原有官,行官运发官;原有财,行财运发财;原有灾,行灾运发灾。更看当生年时得气浑浅,四柱得气深,迎运便发,得气浅,须交过运始发,得其中气,运至中则发。凡行运,长生主有创建作新之事;到临官、帝旺,主兴盛快乐,发福进财,生子骨肉之庆;到衰病之乡,多退败、破财、疾病等事;到死绝乡,主骨肉死丧,自身衰祸钝闷,百事蹇塞;到败运,主落魄懒惰,酒色昏迷;到胎库成形、冠带之乡,百事得中,安康平易。凡行运至夹贵、华盖、贵人,六合上,及乘生旺气者,皆主善庆,仍须察当生根基,十分则应五分,生时则应十分,福与灾同;凡行运至临官、帝旺上,太岁持之,官员主荐事改秩之喜中。


.

#37 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 05:59

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Tiểu Vận

"Đại vận" quản tốt lành hay tai hoạ mười năm, "tiểu vận" quản tốt xấu trong một năm, "tiểu vận" là để bổ khuyết chỗ thiếu sót của "đại vận" nên đạt tên. Người xưa lấy nam giới khởi ở bính dần và đi thuận, còn nữ giới thì khởi nhâm thân và đi nghịch, đã quyết chắc mà không thể thay đổi. Giải thích là dương hoả của nam giới, nguyên khí khởi ở mậu tý, ba mươi ở đinh tỵ, mười tháng tới bính dần, mộc này sanh hoả, còn âm thuỷ của nữ giới, nguyên khí khởi ở canh tý, hai mươi hai mươi tân tỵ, mười tháng đến nhâm thân, vì kim sanh thuỷ, đây là số của nó vậy. Tuý Tỉnh Tử tin rằng "tiểu vận" của nam nữ đều được quyết định bởi thời gian trong năm, thuận nghịch cũng do năm quyết định. Ví như dương mệnh, năm dương giờ giáp tý sanh ra và rơi xuống đất (生墮地: sanh đoạ địa) tức là hành ất sửu, hai tuổi bính dần, mỗi vị một năm, đi giáp vòng trở lại chỗ ban đầu, dĩ nhiên âm mệnh năm dương thì đi nghịch. Đã từng thử sử dụng, thường ứng nghiệm, cũng cần phải với "đại vận" và dụng thần hay nhật chủ trong tứ trụ để đo lường tốt xấu. Hạn của trẻ con chưa đến "đại vận" chuyên dùng phương pháp này; đi đến cung tử, tuyệt hay sát vượng sẽ có hiểm nguy. Trước tiên cần biết rõ bát tự suy vượng và hỷ kỵ, sau đó tham khảo theo cách này, không gì mà không đúng.

Những người thảo luận mệnh ngày nay chỉ dùng "đại vận", mà không biết rằng "tiểu vận" cũng có quan hệ mật thiết với nhau. "Đại vận" tuy là tốt lành mà "tiểu vận" không thuận lợi, làm sao có thể nói rằng cát lợi; "đại vận" tuy là hung xấu, "tiểu vận" thì tốt lành, không thể ngay lập tức nghiên cứu theo điều xấu, "tiểu vận" này còn có tên là "hành niên", không thể không xem xét cho quán triệt.

论小运

夫大运司十年之休咎,小运掌一岁之灾祥,是小运者补大运之不足而立名也。古人以男起丙寅顺行,女起壬申逆行,一定而不可易也。解者谓男之阳火,元气起戊子,三十丁已,十月至丙寅,此木生火;女之阴水,元气起庚子,二十辛已,十月至壬申,为金生水,此其数也。醉醒子以为男女小运皆由时生而行之,逆顺亦以年定。如阳命阳年甲子时生堕地,即行乙丑,二岁丙寅,一位一年,周而复始,阴命阳年逆行亦然。尝试用之,屡验,亦要与大运及柱中用神日主较量吉凶。童限未交大运,专用此法;行死绝煞旺之宫,必有危难。先详八字衰旺喜忌,然后以此参之,无不中矣。

今之谈命者只以大运为用,殊不知小运亦有紧关。大运虽吉,其小运不通,未可便言吉利;大运虽凶,其小运却吉,未可便作凶推。此小运又名行年,不可不究。


.

#38 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 09:32

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Thái Tuế

Thái tuế là chúa tể của một năm, là lãnh tụ của các thần. Có hai luận thuyết về nó: nếu năm sanh trong tứ trụ gọi là đương sanh thái tuế, nếu luân chuyển theo từng năm gọi là du hành thái tuế. Đương sanh thái tuế thì cai quản cả cuộc đời, quy luật của nó đã được bàn luận ở trên; còn thái tuế theo từng năm di chuyển mười hai cung, để xác định hoạ phúc trong một năm, là tốt xấu của bốn mùa. Bởi thái tuế như vua còn đại vận như bầy tôi. Nếu như vua và bầy tôi thuận hoà, vui vẻ thì năm đó sẽ tốt lành; còn nếu như gặp tranh đua nhau, thì năm đó sẽ hung xấu. Vận trải qua: thái tuế thương tổn nhật can, có hoạ nhưng nhẹ; nhật can mạo phạm thái tuế thì tai ương sẽ nặng. Điều này còn được giải thích thêm: tuế quân thương tổn nhật, như năm canh khắc ngày giáp là "thiên quan", ví như vua trị tội bầy tôi, cha trị tội con, tuy rằng có tai hoạ, nhưng không là lớn lao, tại sao? Kẻ trên cai trị kẻ dưới thì thuận theo nhân tình lý sự, tình trạng vẫn không đến nổi tận tuyệt; ngày mạo phạm tuế quân như ngày giáp khắc năm mậu là "thiên tài", ví như bầy tôi là vua, con là cha, rất là bất lợi, tại sao? Kẻ dưới khinh thường người trên là kẻ phản loạn vậy, và cái hung xấu quyết không thể tránh khỏi. Nếu như ngũ hành có cứu trợ, hay tứ trụ hữu tình, ví như ngày giáp khắc năm mậu, tứ trụ vốn có canh thân kim, hoặc trong đại vận, cũng có giúp đỡ chế phục giáp mộc thuần tuý. Không thể khắc mậu thổ là "hữu cứu" - có cứu trợ; như đại vận họp với tứ trụ có một chữ "quý" hợp nhau với "mậu" tức là "hữu tình". Kinh nói rằng: nhâm lấy em gái là "quý" gả cho "mậu", hung xấu thành điềm tốt lành.

Lại có giả thuyết về "chân thái tuế", "trưng thái tuế". Kinh sách nói rằng: gặp lúc sanh thời là "chân thái tuế". Giả như người sanh giáp tý lại thấy năm giáp tý, gọi là "chân thái tuế", lại có danh là "chuyển chỉ sát", cần thiết đại vận, nhật chủ với thái tuế hoà hợp với nhau, năm đó sẽ tốt lành; nếu như gặp hình, xung, phá, hại, cùng với thái tuế khắc nhau, ví như ngày quý tỵ gặp lưu niên đinh hợi; can chi ngày xung khắc thái tuế gọi là "trưng", hay là can chi vận thương tổn, xung thái tuế cũng gọi là "trưng", can chi thái tuế xung can chi ngày cũng gọi là "trưng", năm đó sẽ hung xấu, tai hoạ khó tránh. Lại như lưu niên giáp tý lại là vận giáp tý, gọi là vận tuế cùng hội họp, chỉ dương nhận, thất sát thì hung xấu, còn tài, quan, ấn thụ thì tốt lành. Lại như ngày giáp tý thấy thái tuế giáp tý, gọi là ngày và năm hợp nhau, nếu như quân tử gặp phải, gọi là "quân thần xứ hội" - vua tôi gặp mặt, năm đó lợi "tấu đối", có miềm vui, nếu như người làm quan ở tỉnh gặp được, có tượng được thăng quan, tiến chức, lại cần phải với tuế quân hoà hợp, mới là đặc biệt; nếu là người thường tục, tiểu nhân gặp phải, rất là không tốt lành, nếu sanh thời hoà nhau thì tai hoạ nhẹ hơn một chút. Cho nên kinh sách có nói rằng: khi thái tuế thành lập, các thần không dám chống lại, nếu như không có việc quan phiền nhiễu, nhất định gặp phải trùng tang. Đây gọi là phe đảng. Thêm các hung sát: "câu lâm", "nguyên vong", "hàm trì", "cô khổ", "trạch mộ", "bệnh tử", "quan phù", "tang điếu", "bạch hổ", "dương nhận", "bạo bại", "thiên ách" thì trăm loại tai hoạ, hoạn nạn sinh ra, nặng thì chết.

Giả dụ như ngày giáp thấy năm mậu thái tuế, giáp lại sanh ờ dần mão hợi mùi, năm tháng ngày giờ gặp nhiều chữ giáp, ất hợp khắc, trong trụ năm mậu không có canh, tân, tỵ dậu sửu kim cục để kiềm chế mộc, hay bính đinh hoả cục để đốt cháy mộc, rất là hung xấu. Ví như một mệnh "mậu thìn, mậu ngọ, mậu tuất, giáp dần" dương nhận làm phản, gặp tháng tư năm nhâm thân, phía sau cổ sanh nhọt độc, sắp chết rơi đầu; lại thêm một mệnh "ất sửu, ất hợi, nhâm thân, ất tỵ" vận hành tân mùi, bính dần, can nhâm của ngày khắc bính của thái tuế, chi ngày của thân khắc dần giáp của thái tuế, lại thêm dần hình tỵ, tỵ hình thân, hình dần, đi vận tân mùi hợp mộc cục thương quan của thái tuế, đều không phải là tốt lành, năm đó giáp ngọ hoả vượng khắc, vì thế chết không tránh khỏi. Nói chung trụ ngày phạm tuế quân, ở năm can dương thì nặng, còn ở năm can âm thì nhẹ hơn, nếu như can ngày là "thiên nguyệt đức". Thái tuế là "dụng thần" sẽ không có tai hoạ, trái lại còn giành được lợi ích; thiên xung địa kích, trong trụ vốn đã có, lưu niên gặp lại lần nữa, cũng không là hoạ lớn; nếu như thái tuế khắc giờ sanh, hoặc giờ khắc thái tuế, cũng chủ có tai hoạ, tức là dùng trụ con cái để đoán.

论太岁

夫太岁者,乃一岁之主宰,诸神之领袖。其说有二:如四柱中生年曰当生太岁,如逐年轮转曰游行太岁。当生太岁乃终身之主,其理已论于前;其逐年太岁游行十二宫,定一年之祸福,为四时之吉凶。盖太岁如君也,大运如臣也。如君臣和悦,其年则吉;若值刑战,其年则凶。经运:岁伤日干,有祸必轻;日犯岁君,灾殃必重。此又分言:岁君伤日者,如庚年克甲日为偏官,譬君治臣,父治子,虽有灾晦,不为大害,何则?上治其下,顺也,其情尚未尽绝;日犯岁君,如甲日克戊年为偏财,譬臣其君,子其父,深为不利,何则?下凌上,逆也,其凶决不能免。若五行有救,四柱有情,如甲日克戊年,四柱原有庚申金,或大运中,亦有将甲木制伏纯粹。不能克戊土为有救;如大运并四柱有一癸字与戊相合为有情。经云:壬以癸妹配戊,凶为吉兆。

又有真太岁、征太岁之说。经云:生时相逢真太岁。假如甲子生人又见甲子年,谓之真太岁,又名转趾煞,要大运日主与太岁相和相顺,其年则吉;若值刑冲破害,与太岁互相战克则凶。如癸已日逢丁亥流年;日干支冲克太岁曰征,运干支伤冲太岁亦曰征,太岁干支冲日干支亦曰征,其年则凶,灾祸未免。又如甲子流年又是甲子运,谓之岁运并临,独羊刃、七煞为凶,财、官、印绶亦吉。又如甲子日见甲子太岁,谓之日年相并,如君子得之,谓之君臣处会,其年利奏对,有面君之喜,若当省士人得之,有登荐仕进之象,又要与岁君帝座和协,方为奇特;若是常俗小人遇之,最为不善,若生时相和,为灾稍轻。故经云:太岁当头立,诸神不敢当,若无官事扰,定主见重丧。此之谓与!更加以勾林、元亡、咸池、孤苦、宅墓、病死、官符、丧吊、白虎、羊刃、暴败、天厄诸凶煞并临,祸患百出,甚者死。

假如甲日见戊年太岁,甲又生寅卯亥未,年月日时又重见甲乙字并克,戊年柱中无庚辛已酉丑金局制木,丙丁火局焚木者,太凶。如一命戊辰、戊午、戊戌、甲寅,羊刃倒戈,遇壬申年四月,项生恶疮,头将堕死;又一命乙丑、乙亥、壬申、乙已,运行辛未、丙寅,日干之壬克太岁之丙,日支之庚申克太岁之寅甲,又寅刑已,已刑申,刑寅,行辛未运,合太岁之木局伤官,皆不为吉,其年甲午火旺战克,故死非命。大抵日犯岁君,在五阳干则重,在五阴干则轻,若日干是天月德。太岁是用神则无咎,而反有获;天冲地击,柱中原有,流年再遇,亦无大咎;若太岁克当生时,或时克太岁,亦主有灾,却以子位断之。


.

#39 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 09:45

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Tổng Luận Tuế Vận

Thái tuế là vua trong một năm, là chúa tể của thần sát trong một năm; thống lãnh đúng phương vị, tứ tống lục khí (四送六氣), vận chuyển bốn mùa để thành một năm, rất cao quý không có ai hơn, nếu như người gặp khắc, xung, chế, phục đều là điềm báo không tốt lành. Vận hoà hợp hai mươi bốn khí, chở đi phúc lành và tai hoạ một đời, trợ giúp tứ trụ, phụ trợ tam nguyên, vận cùng với lưu niên là hai bản chất trong ngoài, chính là liên hệ đến hoạ phúc, sống chết của mệnh người, tuế dùng thiên nguyên, vận dùng địa chi, thường đi vận tốt mà can của ngày thương tổn thiên nguyên của lưu niên thì phúc có nhưng nhẹ; nếu như đi vận không tốt cùng với thoát khỏi vận tài, quan mà can ngày thương tổn can của năm thì hoạ nặng nề, nếu là mệnh đã manh nha thì hoạ hoạn lập tức đến liền, nói chung đi vận không tốt, không thể nói ngay suy, hay tuyệt, cần thiết phải biết đã phát hay chưa phát, chính là nói đến khí số của nó đã qua hay chưa qua. Hành vận lấy tháng sanh làm "vận nguyên", rất sợ hành vận với thái tuế xung, khắc, nếu tuế vận xung trụ tháng tất có hoạ; nếu tuế vận với trụ ngày 'đối" nhau, gọi là "phản ngâm", tuế vận áp phục trụ ngày, gọi là "phục ngâm", cả hai đều không lợi cho lục thân, không phải hao tán tiền bạc cũng không phải là điềm tốt. Nói chung tốt xấu của tuế vận, nên sanh thiên nguyên, hoặc trong địa chi không có quan tinh, thiên nguyên có chánh quan hoặc là có thiên quan mà chế phục thái quá, vận gặp thiên nguyên quan tinh cũng có thể phát phúc; địa chi không có tài mà can của vận là tài, cũng có thể phát tài; địa chi không có sát mà can của vận là sát, cũng đủ gây hoạ.

"Hối khí" - vận khí không tốt, chính là tượng không giải thích được, con đường của sự thiếu hiểu biết, tức là thường lệ của giáp kỷ, ất canh, vì hợp mà tối tăm, can ngày cùng với can giờ không nên hợp với thái tuế thiên nguyên, hợp sẽ là "hối khí", lại cần thiết phân chia can ngày hợp thái tuế, ví như trường hợp của ngày giáp năm kỷ, hay thái tuế hợp can ngày như trường hợp ngày kỷ năm giáp. Giáp hợp kỷ tai hoạ nặng, kỷ hợp giáp tai hoạ nhẹ hơn, trụ gần thái tuế tai hoạ nặng, xa thì tai hoạ nhẹ, như tuế ở trước ngày năm giờ mà gặp hợp gọi là "thái tuế nhập trạch", "hối khí lâm môn", chủ về tai ách. Đại vận không nên cùng với thái tuế khắc xung nhau, càng kỵ khi vận khắc thái tuế, ngày phạm cũng giống vậy, chủ về phá tán, hao tổn và tang sự, có quý nhân, lộc, mã giải cứu thì tốt hơn một chút, bát tự có cứu trợ thì không lo lắng.

总论岁运

夫太岁者,年中天子,一岁诸神煞之尊;统正方位,四送六气,迁运四时以成岁功,至尊无上,若人遇克冲压伏,皆为不详之兆。运者协和二十四气,般运一生休咎,扶持四柱,辅弼三元,运与流年二者相为表里,乃人命祸福死生所系,岁用天元,运用地支,凡行好运而日干伤流年天元,为福轻;若行不好运及脱财官运而日干伤岁干,为祸重,若是已发之命,祸患立至,凡行不好运,未可便言衰绝,大要知已发未发,其气数已过未过言之。行运以生月为运元,最怕行运与太岁冲克,若岁运冲月必祸;若岁运与日相对,谓之返吟,岁运压日,谓之伏吟,二者不利六亲,非横破财,不为吉兆。凡岁运吉凶,当生天元,或支中原无官星,天元有正官或原有偏官制伏太过,运遇天元官星,亦可发福;支无财而运干是财,亦可发财;支无煞而运干是煞,亦足为祸。

晦气者,乃不明之象,昏昧之道也,即甲已乙庚之例,以合则晦也,日干与时干不宜与太岁元天元合,合则名为晦气。又要分日干合太岁,如甲日已年之例,太岁合日干,如已日甲年之例。甲合已灾重,已合甲灾轻,岁位近者灾重,远者灾轻,如岁在日前五辰而遇合,谓之太岁入宅,晦气临门,主灾厄。大运不宜与太岁相克相冲,尤忌运克岁,与日犯同,主破耗丧事,有贵人禄马解之稍吉,八字有救无虞。


.

#40 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 09:57

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Thập Can Hợp

"Hợp" - tụ hội, chính là nghĩa của phối hợp lẫn nhau, như dương thấy dương thì hai dương cạnh tranh với nhau sẽ kiềm chế, ước thúc, âm thấy âm thì hai âm thì bất túc sẽ kiềm chế, ước thúc, chỉ âm thấy dương, dương thấy âm thì hợp, cũng như trai gái hợp với nhau mà thành đạo vợ chồng.

Đông phương giáp ất mộc sợ tây phương canh tân kim kiềm chế. Giáp thuộc dương là anh, ất thuộc âm là em gái, anh giáp bèn gã em gái là ất cho nhà kim, làm vợ của canh, vì thế ất với canh hợp. Nam phương bính đinh hoả sợ bắc phương nhâm quý thuỷ kiềm chế, bính thuộc dương là anh, đinh thuộc âm là em gái, anh bính bèn gã em gái là đinh cho nhà thuỷ, làm vợ của nhâm, vì thế đinh với nhâm hợp. Trung ương mậu kỷ thổ sợ đông phương giáp ất mộc kiềm chế, mậu thuộc dương là anh, kỷ thuộc âm là em gái, anh mậu bèn gã em gái là kỷ cho nhà mộc, làm vợi của gáip, vì thế giáp với kỷ hợp. Tây phương canh tân sợ nam phương bính đinh hoả kiềm chế, canh thuộc dương là anh, tân thuộc âm là em gái, anh canh bèn gã em gái là đinh cho nhà hoả, làm vợ của bính, vì thế bính với tân hợp. Bắc phương nhâm quý thuỷ sợ trung ương mậu kỷ thổ kiềm chế, nhâm thuộc dương là anh, quý thuộc âm là em gái, anh nhâm bèn gã em gái là quý cho nhà thổ, làm vợ của mậu, vì thế mậu với quý hợp.

Vì sao giáp với kỷ gọi là "hợp trung chánh"? Giáp: dương mộc, bản chất của nó là "nhân" - khoan hậu, có đức hạnh, vị trí đứng đầu mười can; kỷ: âm thổ, điềm đạm và chất phác, có đức tính của sanh vật, cho nên giáp kỷ là "hợp trung chánh". Hợp này chủ là người được tôn sùng rất lớn, rộng lượng, công bình, thẳng thắn. Như có thêm sát mà ngũ hành vô khí sẽ thường giận dữ, cáu tức, bản chất ngang ngạnh không thể khuất phục.

Vì sao ất với canh gọi là "hợp nhân nghĩa"? Ất: âm mộc, bản tính của nó "nhân" mà quá mềm mỏng; canh: dương kim, cứng rắn, kiên cường nên kết hợp giữa cứng và mềm, vừa có nhân vừa có nghĩa. Vì thế chủ là người kiên quyết và đề phòng, chớ nhầm lẩn giữa mềm yếu và nịnh bợ, chỉ cư xử nhân từ, tiến thoái chỉ trong lẽ phải. Ngũ hành sanh vượng thì khí chất đẹp, thanh khiết, nếu tử, tuyệt có thêm sát thì tính cách thích mạnh dạn, ngoại hình không phô bày, luôn cho mình là đúng và vô nhân đạo. Giáp kỷ hợp, ất canh hợp, phụ nữ không kỵ.

Vì sao bính với tân có tên "uy chế hợp"? Bính: dương hoả, chiếu sáng rực rỡ vốn là phong phú; tân: âm kim, khắc nhận mà ưa thích sát. Cho nên bính tân là 'uy chế hợp". Chủ là người có dung mạo oai nghiêm, khiến người e sợ, rất gay gắt, thích hối lộ và lăng nhăng, nếu như có thêm sát hoặc là ngũ hành tử, tuyệt thì không có ân nghĩa, người tàn nhẫn. Phụ nữ gặp phải có "thiên trung", "đại hao", "hàm trì" cùng hội tụ, thì dung mạo đẹp mà danh tiếng thấp kém, là người đẹp mà không đoan chánh.

Vì sao đinh với nhâm có tên là hợp "dâm đãng"? Nhâm: thuỷ của thuần âm, ánh sáng của trời, trăng và sao không chiếu sáng; đinh: hoả ẩn âm, vốn là ẩn tàng không sáng sủa. Cho nên đinh nhâm là hợp của "dâm đãng". Chủ là người phụ nữ mềm mại đáng yêu có đôi mắt sáng, giàu tình cảm dễ cảm động, không có gì cao khiết, quen rồi không bỏ đi, đắm chìm trong sắc dục, với mình thì keo kiệt, với người thì tham lam, nếu như ngũ hành tử, tuyệt hay có đeo thêm sát: "hàm trì", "đại hao", "thiên trung tự bại", sẽ ô uế gia phong vì dâm ô; thân cận và hậu đãi tiểu nhân, mà khinh thường quân tử, vì tham lam mà làm điều xằng bậy, phải thắng bằng mọi giá. Phụ nữ thì lăng nhăng, ngoại tình, dễ trêu chọc, dễ cám dỗ, thường rước lấy lời điếm nhục, hoặc là lớn tuổi mà lấy trai trẻ, hoặc là nhỏ tuổi mà lấy chồng già, hoặc là trước thì hèn mọn mà sau tốt lành, hoặc là trước thì tốt lành mà sau thì hèn mọn.

Vì sao mậu với quý có tên là hợp "vô tình"? Mậu: dương thổ, là lão chồng xấu xí; quý: âm thuỷ là đàn bà nhún nhảy, uốn lượn, "lão dương" mà "thiếu âm" tuy rằng hợp nhưng mà "vô tình", chủ là người có thể là tốt, có thể là xấu, như mậu lấy được quý thì xinh đẹp tự nhiên, đàn ông cưới cô gái trẻ, phụ nữ lấy được chồng xinh đẹp; nếu như quý lấy được mậu thì dung mạo mộc mạc, chất phát, vợ già tầm thường, đàn ông cưới vợ già, phụ nữ lấy chồng già.

论十干合

夫合者,乃和谐之义,如阳见阳,二阳相竞则为克,阴见阴,二阴不足则为克,唯阴见阳,阳见阴为合,亦如男女相合而成夫妇之道。

东方甲乙木畏西方庚辛金克。甲属阳为兄,乙属阴为妹,甲兄遂将乙妹嫁金家,与庚为妻,所以乙与庚合。南方丙丁火畏北方壬癸水克。丙属阳为兄,丁属阴为妹,丙兄遂将丁妹嫁水家,与壬为妻,所以丁与壬合。中央戊己土畏东方甲乙木克。戊属阳为兄,己属阴为妹,戊兄遂将己妹嫁木家,与甲为妻,所以甲与己合。西方庚辛金畏南方丙丁火克。庚属阳为兄,辛属阴为妹,庚兄乃将辛妹嫁火家,与丙为妻,所以丙与辛合。北方壬癸水畏中央戊己土克。壬阳为兄,癸属阴为妹,壬兄乃将癸妹嫁土家,与戊为妻,所以戊与癸合。

甲与己何名为中正之合?甲,阳木也,其性仁,位处十干之首,己,阴土也,镇静淳笃,有生物之德,故甲己为中正之合。带此合主人尊崇重大,宽厚平直。如带煞而五行无气则多嗔好怒,性梗不可屈。

乙与庚何名为仁义之合?乙,阴木也,其性仁而太柔,庚,阳金也,坚强不屈则刚柔相济,仁义兼资。故主人果敢有守,不惑柔佞,周旋唯仁,进退唯义。五行生旺则骨秀形清,若死绝带煞则使气好勇,体貌不扬,自是非人。甲己、乙庚之合,妇人不忌。

丙与辛何名为威制之合?丙,阳火也,辉赫自盛,辛,阴金也,克刃喜煞。故丙辛为威制之合。主人仪表威肃,人多畏惧,酷毒,好贿喜淫,若带煞或五行死绝则寡恩少义,无情之人。妇人得之,与天中、大耗、咸池相并者,貌美声卑,夭冶而淫。

丁与壬何名为淫慝之合?壬者,纯阴之水,三光不照,丁者,藏阴之火,自昧不明。故丁壬为淫慝之合。主人眼明神娇,多情易动,不事高洁,习下无去,枕欢溺色,于我则吝,于彼则贪,若五行死绝或带煞,见咸池、大耗、天中自败,有淫污家风之丑;亲厚小人,侮慢君子,贪婪妄作,必胜而后已。妇人淫邪奸慝,易挑易诱,多招玷辱,或年高而嫁少夫,或年幼而配老夫,或先贱而后良,或先良而后贱。

戊与癸何名为无情之合?戊,阳土也,是老丑之夫,癸,阴水也,是婆娑之妇,老阳而少阴,虽合而无情,主人或好或丑,如戊得癸则娇媚,姿美得所,男子娶少妇,妇人嫁美夫;若癸得戊则形容古朴,老相俗尘,男子娶老妻,妇人嫁老夫。


.

#41 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 10:17

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Tiến Giao Thối Phục

Diêm Đông Tẩu nói: lấy mười can làm "tứ hậu", mười lăm ngày là một "hậu", mười hai ngày là "tiến thần hậu", ba ngày còn lại là "giao", "thối", và "phục thần hậu". Cho nên giáp tý là "tiến thần" thứ nhất, thì bính tý, đinh sửu và mậu dần là "giao", "thối" và "phục thần"; kỷ mão là "tiến thần thứ hai thì tân mão, nhâm thìn và quý tỵ là "giao", "thối" và "phục thần; giáp ngọ là tiến thần thứ ba, thì bính ngọ, đinh mùi và mậu thân là "giao", "thối" và "phục thần; kỷ dậu là tiến thần thứ tư thì tân dậu, nhâm tuất và quý hợi là "giao", "thối" và "phục thần. Gặp "tiến thần" sẽ mau chóng thịnh vượng, gặp "giao thần" sẽ là việc chung không hài hoà, gặp "thối thần" sẽ là giáng chức, gặp "phục thần" "tam xa" lấy năm giáp kỷ độn khởi: bính dần đến mậu thìn là ba số, số đến ba thì biến hoá mà thìn là rồng cũng có khả năng biến hoá, cho nên giáp kỷ, ất canh, bính tân, đinh nhâm, mậu quý tuỳ theo thiên can mà đạt được "khí" của mình. Lại nói: giáp kỷ thì bính làm đầu, bính thuộc hoả, hoả sanh thổ cho nên nó hoá thành thổ. Còn lại xét theo đó, thuyết không ngoài lý trên.

Nói chung hoá khí, chỉ chọn lấy can ngày mà nói phối hợp với các thần. Có thể năm, tháng và giờ đều có thể sử dụng, nhưng nhật thần phải được vượng khí vào thời điểm đó; nếu không được vượng khí trong tháng, chỉ vượng khí trên trụ giờ, cũng có thể được; vẫn đạt được vượng khí trong tháng mà không tận dụng vượng khí đầu tháng thì không thể; nếu tháng với ngày giờ đều được vượng khí mới là hoàn toàn tốt lành.

Giáp kỷ hoá thổ: chẳng phải các tháng thìn tuất sửu mùi thì không hoá, kế đến là tháng ngọ cũng hoá, có chữ mậu xen lẫn thì không hoá, danh gọi là "đố hợp". Nói chung người sanh ở thìn, tuất, sửu, mùi, trụ có kỷ hợi là nhận khí "lâm quan", đến tuổi già không tốt lành, gặp quan thì đoạt quan, gặp tài thì đoạt tài. Nhận khí "lâm quan" vị trí thứ tư từ "trường sanh", lấy can làm chủ, song phạm tắc ứng (雙犯則應), các tháng còn lại không ứng. Lại nói" giáp kỷ hoá thổ, cần thiết mộc là quan, được hợi mão, hợi mùi là quan, mậu quý khí là phúc, kỵ gặp ngày giờ đinh nhâm.

Ất canh hoá kim: chẳng phải các tháng tỵ dậu sửu thì không hoá, kế là tháng bảy cũng hoá, có chữ giáp xen lẫn thì không hoá, danh gọi là "đố hợp". Nói chung người sanh tỵ dậu sửu, trụ có canh thân là nhận khí "lâm quan", tuổi già không tốt đẹp. Lại nói: ất canh hoá kim, cần thiết hoả là quan, cho nên bính đinh tỵ ngọ, giáp kỷ là phúc, kỵ gặp ngày giờ mậu quý.

Bính tân hoá thuỷ. Chẳng phải tháng thân tý thìn thì không hoá, kế đến là tháng mười cũng hoá, trụ có chữ đinh thì không hoá, danh gọi là "đố hợp". Nói chung người sanh thân tý thìn thấy quý hợi, danh gọi là nhận khí "lâm quan", cũng chủ về tuổi già không tốt đẹp. Lại nói: bính tân hoá thuỷ, cần thiết thổ là quan, được thìn, tuất, sửu, mùi là quan, ất canh là phúc, kỵ thấy ngày giờ giáp kỷ.

Đinh nhâm hoá mộc, chẳng phải tháng hợi mão mùi thì không hoá, kế đến là tháng giêng cũng hoá, trụ có chữ bính thì không hoá, danh gọi là "đố hợp". Người sanh hợi mão mùi thấy giáp dần, danh gọi nhận khí "lâm quan", tuổi già không tốt đẹp. Lại nói: đinh nhâm hoá mộc, cần thiết canh tân thân dậu là quan, bính tân là phúc, kỵ thấy ngày giờ ất canh.

Mậu quý hoá hoả, chẳng phải tháng dần ngọ tuất thì không hoá, kế đến là tháng tư cũng hoá, trụ có chữ kỷ thì không hoá, danh gọi "đố hợp". Nói chung người sanh dần ngọ tuất thấy đinh tỵ là nhận khí "lâm quan", tuổi già không tốt đẹp. Việc làm trì trệ.

论进交退伏

阎东叟云:以十干为四候,十五日为一候,十二日为进神候,外三日为交退伏神候。故甲子为第一进神,则丙子、丁丑、戊寅为交退伏神;己卯为第二进神,则辛卯、壬辰、癸巳为交退退伏神;甲午为第三进神,则丙午、丁未、戊申为交退伏神;己酉为第四进神,则辛酉、壬戌、癸亥为交退伏神。值进神则发迹亨快,值交神则庶事不谐,值退神则官资降黜,值伏神三车以甲己年遁起,丙寅至戊辰三数,数至三则变化,辰为龙,亦能变化,故甲己、乙庚、丙辛、丁壬、戊癸随其所属天干而得其气。又曰:甲己丙作首,丙属火,火生土,故化土。余例推。其说不外前理。

大凡化气,只取日干而言配合之神。或年月与时皆可用,但要日辰得旺气于时;若不得月中旺气,只时上旺气,亦可;尚得月中旺气而时上不乘旺气则不可;若月与日时俱得旺气,方为全吉。

甲己化土,非辰戌丑未月不化,其次午月亦化,有戊字间之则不化,名曰妒合。凡辰戌丑未生人,柱有已亥为受气临官,至晚年不吉,有官夺官,有财夺财。夫受气临官,长生第四位也,以干为主,双犯则应,余月不应,又曰:甲己化土,切要木为官,得亥卯、亥未为官,戊癸气为福,忌见丁壬日时。乙庚化金,非已酉丑月不化,其次七月亦化,有甲字间之则不化,名曰妒合。凡已酉丑生人,柱有庚申为受气临官,晚年不佳。又曰:乙庚化金,切要火为官,故喜丙丁己午甲己为福,忌见戊癸日时。

丙辛化水。非申子辰月不化,其次十月亦化,柱有丁字不化,名曰妒合。凡申子辰生人见癸亥,名曰受气临官,亦主晚年不佳。又曰:丙辛化水,切要土为官,得辰戌丑未为官,乙庚为福,忌见甲己日时。

丁壬化木,非亥卯未月不化,其次正月亦化,柱有丙字不化,名曰妒合。亥卯未生人见甲寅,名曰受气临官,晚年不佳。又曰:丁壬化木,切要庚辛申酉为官,丙辛为福,忌见乙庚日时。

戊癸化火,非丙午戌月不化,其次四月亦化,柱有己字不化,名曰妒合。凡寅午戌生人见丁已为受气临官,晚年不佳。则所作滞留。


.

#42 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 10:43

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Thập Can Hoá Khí

Phục Dương Tử nói: "khi mười can hợp thì hoá, như phối hợp của âm dương, là đạo của vợ chồng". Gặp lục hợp, hợp "độn tam" thì hoá. Vì dư số của năm cung tý đến tỵ sẽ hợp; đã hợp rồi thì "độn hổ thống long" - lánh cọp thống lãnh rồng, rồng căn bản là dương, được chưởng quản trời và thành người biến hoá. Tý: là vị trí cung khảm, "thiên nhất sanh thuỷ" tượng của giao cấu, thai ở trong dương. Cho nên đàn ông từ tý đi theo bên trái ba mươi đến tỵ là dương, cho nên ba mươi thì cưới vợ; phụ nữ từ tý đi theo bên phải hai mươi đến tỵ là âm, cho nên hai mươi thì gã. Đây là người việc hợp với ngũ hành của tạo hoá, lẽ nào có thể vượt qua được thời kỳ này?

Đông, nhâm tý sáu số đến đinh tỵ. Cho nên đinh với nhâm hợp, đinh nhâm hoá mộc. "Giáp đức thống long".
Nam, mậu tý sáu số đến quý tỵ. Cho nên mậu với quý hợp, mậu quý hoá hoả. "Bính đức thống long".
Tây, canh tý sáu số đến ất tỵ. Cho nên ất với canh hợp, ất canh hoá kim. "Canh đức thống long".
Trung, giáp tý sáu số đến kỷ tỵ. Cho nên giáp với kỷ hợp, giáp kỷ hoá thổ. "Mậu đức thống long".
Bắc, bính tý sáu số đến tân tỵ. Cho nên bính với tân hợp, bính tân hoá thuỷ. "Nhâm đức thống long".

Năm giáp kỷ: "mậu đức thống long" với thổ, quản biến hoá điều hoà thổ khí; năm ất canh: "canh đức thống long" với kim, quản biến hoá "hạo thiên" kim khí; năm bính tân:"nhâm đức thống long" với thuỷ, quản biến hoá "huyền thiên" thuỷ khí; năm đinh nhâm: "giáp đức thống long" với mộc, quản biến hoá "thương thiên" mộc khí; năm mậu quý: bính đức thống long" với hoả, quản biến hoá "viêm thiên" hoả khí. "Thống long thiên đức", công sai cai trị thiên hạ đạt được biến hoá, nhiều thứ tụ hợp giảm bớt thuận lợi. Cho nên bính gặp tân, được thân tý thìn nên phấn chấn, được tỵ dậu sửu thì nổi lên vang lừng ; đinh gặp nhâm: được hợi mão mùi thì thanh quý; mậu gặp quý: được dần ngọ tuất thì vinh hiển; giáp gặp kỷ: được thìn, tuất, sửu, mùi thì vượng tướng. Vì vậy ngũ vận lấy ngũ cung làm "chánh miếu", ta nhập vào cung mẹ là "phúc đức", ta nhập vào cung con thì "lậu tiết", ta nhập vào cung quỷ là "hình thương", ta nhập vào cung vợ là "tài bạch"; con cái trái lại có khả năng khắc chế hung sát, luôn luôn xem xét khí chế phục. Vì thế ngũ vận tự nhiên tạo ra muôn vật bất tận, chỉ là sanh khắc, chế hoá. "Tam xa" lấy năm giáp kỷ độn khởi, bính dần đến mậu thìn có ba số, số đến ba sẽ biến hoá, thìn là rồng cũng có khả năng biến hoá, cho nên giáp kỷ, ất canh, bính tân, đinh nhâm, mậu quý tuỳ thuộc vào thiên can mà được khí của nó. Lại nói: giáp kỷ bính đứng đầu, bính thuộc hoả mà hoả sanh thổ, cho nên hoá thổ. còn lại theo đó mà xem xét. Học thuyết của nó không xa rời lý trên. Nói chung về hoá khí, chỉ chọn lấy can ngày mà bàn luận thần của phối hợp, hoặc năm tháng với giờ đều có thể sử dụng, chỉ cần nhật thần được vượng khí vào lúc đó, nếu như không được vượng khí trong tháng, chỉ ở trên trụ giờ vượng khí, cũng có thể; trong tháng được vượng khí mà trên trụ giờ không vượng khí thì không thể; nếu tháng với ngày giờ đều được vượng khí thì mới hoàn toàn tốt lành.

Giáp kỷ hoá thổ: chẳng phải tháng thìn tuất sửu mùi thì không hoá, kế đến là tháng ngọ cũng hoá, có chữ mậu xen lẫn thì không hoá, danh gọi là "đố hợp". Nói chung người sanh thìn, tuất, sửu, mùi, trụ có kỷ hợi là nhận khí "lâm quan", đến tuổi già không tốt lành, có quan đoạt quan, có tài đoạt tài. Nhận được khí "lâm quan" vị trí thứ tư từ trường sanh, lấy thiên can làm chủ, phạm vào sẽ ứng, các tháng còn lại không ứng, lại nói: giáp kỷ hoá thổ, cần thiết mộc là quan, được hợi mão mùi là quan, mậu quý là phúc, kỵ thấy ngày giờ đinh nhâm. Ất canh hoá kim: chẳng phải tháng tỵ dậu sửu thì không hoá, kế đến là tháng bảy cũng hoá, có chữ giáp xen lẫn thì không hoá, danh gọi là "đố hợp". Nói chung người sanh tỵ dậu sửu, trụ có canh thân là nhận được khí "lâm quan", tuổi già không đẹp. Lại nói: ất canh hoá kim: cần thiết hoả là quan, cho nên thích bính, đinh , tỵ, ngọ, còn giáp kỷ là phúc, kỵ thấy ngày giờ mậu quý. Bính tân hoá thuỷ: chẳng phái tháng thân tý thìn thì không hoá, kế đến là tháng mười cũng hoá, trụ có chữ đinh xen lẫn thì không hoá, danh gọi là "đố hợp". Nói chung người sanh thân tý thìn gặp quý hợi, danh gọi là nhận được khí "lâm quan", cũng chủ tuổi già không đẹp. Lại nói: bính tân hoá thuỷ, cần thiết thổ là quan, được thìn, tuất, sửu, mùi là quan, ất canh là phúc, kỵ gặp ngày giờ giáp kỷ. Đinh nhâm hoá mộc: chẳng phải tháng hợi mão mùi thì không hoá, kế đến là tháng giêng cũng hoá, trụ có chữ bính cũng không hoá, danh gọi là "đố hợp". Người sanh hợi mão mùi gặp giáp dần, danh gọi là nhận được khí "lâm quan", tuổi già không đẹp. Lại nói: đinh nhâm hoá mộc, cần thiết canh, thân, tân, dậu là quan, bính tân là phúc, kỵ gặp ngày giờ ất canh. Mậu quý hoá hoả: chẳng phải tháng dần ngọ tuất thì không hoá, kế đến làthang1 tư cũng hoá, trụ có chữ kỷ thì không hoá, danh gọi là "đố hợp". Nói chung người sanh dần ngọ tuất gặp đinh tỵ là nhận được khí "lâm quan", tuổi già không đẹp. Lại nói: mậu quý hoá hoả, cần thiết nhâm, quý, tý, hợi là quan, đinh nhâm là phúc, kỵ thấy ngày giờ bính tân.

Giáp kỷ hoá thổ: thích sanh giờ mậu, bốn tháng cuối mùa thổ thành tượng, trong trụ sanh vượng, có khí lực là phù hợp. Không nên gặp hoả, gặp hoả ắt "hư", thấy mộc sẽ khắc làm hư hoại. Tức là ngày giáp kỷ sợ giờ bính đinh, tháng nhuận thích bính. Ất canh hoá kim: thích sanh giờ canh thìn, tháng thân dậu kim thành tượng. Thích mậu thổ tương sanh, giáp kỷ là phúc. Không thích tử, bại, vì tháng có ngày ất canh sợ giờ tý, dần. Bính tân hoá thuỷ: thích sanh gờ nhâm thìn, tháng hợi, tý thuỷ thành tượng. Ưa chữ canh vì khí tương sanh, ất canh là phúc. Vì tháng có ngày bính tân sợ giờ mão, tỵ. Đinh nhâm hoá mộc: thích sanh giờ giáp thìn, tháng dần, mão mộc thành tượng. Thích bính tân là phúc. Vì tháng có ngày đinh nhâm sợ giờ ngọ, thân. Mậu quý hoá hoả: thích giờ sanh bính thìn, tháng tỵ ngọ hoả thành tượng. Thích chữ giáp tương sanh, đinh nhâm là phúc. Sợ ngày giờ mão dậu, nếu phạm mậu kỷ là hoả gặp thổ, tức là ám phục không rõ ràng. Bính dần tân mão, bính thìn tân mão, canh thân ất dậu, canh tuất ất dậu, kỷ hợi giáp tý, kỷ sửu giáp tý, quý tỵ mậu ngọ, quý mùi mậu ngọ, mậu tý quý sửu, mậu dần quý sửu, kỷ dậu giáp tuất, kỷ hợi giáp tuất, ất tỵ canh thìn, ất mão canh thìn, nhâm ngọ đinh mùi, nhâm thân đinh mùi, bên trên địa chi tiếp nối nhau, là khí giống nhau, nên là "chánh hoá". Có "chuyển giác tiến hoá". Trong can hợp gặp chi thìn, bốn góc tiếp nối thuận nhau, đại khái như là giáp thìn gặp kỷ tỵ. Ngày giờ gặp như vậy, công danh thành tựu không khó khăn. Có "chuyển giác thối hoá": trong can hợp thấy chi ngọ, bốn góc tiếp nối trái ngược, kiểu như giáp ngọ thấy kỷ tỵ. Ngày giờ gặp như vậy, công danh muộn màng, đến nơi tốt đêp thường hay bị sụt giảm, tuế vận gặp cũng ngưng nghỉ. Có "toạ hạ tự hoá": chính là nhâm ngọ, đinh hợi, mậu tý, giáp ngọ, tân tỵ, quý tỵ, như quy định của đinh lộc ở ngọ, nhâm với đinh hợp, nhâm lộc ở hợi, đinh với nhâm hợp. Nhâm ngọ, đinh hợi là phúc tối thâm, mậu tý thông minh, tân tỵ quyền mưu, giáp ngọ cũng làm được thuận lợi nhỏ, quý tỵ trong quý có tật tửu sắc.

论十干化气

复阳子曰:“十干合而化者,阴阳之配,夫妇之道也。”遇六合,合遁三则化。以五子余数至已上得合;既合,遁虎统龙,龙主阳,得司天而成变化者也。子者,坎之位,天一生水媾精之象,胎娠阳中。故男子从子左行三十至巳,阳也,故三十而娶,女子从子右行二十至巳,阴也,故二十而嫁。此人事合五行之造化,讵可过于此期哉?

东壬子,至丁巳六数。故丁与壬合,丁壬化木。甲德统龙。
南戊子,至癸巳六数。故戊与癸合,戊癸化火。丙德统龙。
西庚子,至乙巳六数。故乙与庚合,乙庚化金。庚德统龙。
中甲子,至己巳六数。故甲与己合。甲己化土。戊德统龙。
北丙子,至辛巳六数。故丙与辛合,丙辛化水。壬德统龙。

甲己之岁,戊德统龙以土,司化钧天土气;乙庚之岁,庚德统龙以金,司化颢天金气;丙辛之岁,壬德统龙以水,司化玄天水气;丁壬之岁,甲德统龙以木,司化苍天木气;戊癸之岁,丙德统龙以火,司化炎天火气。统龙天德,上下临御以成变化,品汇咸亨。故丙遇辛,得申子辰而奋发;乙遇庚,得已酉丑而掀轰;丁遇壬,得亥卯未而清贵;戊遇癸,得寅午戌而荣显;甲遇己,得辰戌丑未而旺相。是以五运以五宫为正庙,我入母宫为福德,我入子宫为漏泄,我入鬼宫为刑伤,我入妻宫为财帛;子反能克制于凶煞,仍究煞气制之。所以五运造化无穷,唯生克制化。三车以甲己年遁起,丙寅至戊辰三数,数至三则变化,辰为龙,亦能变化,故甲己、乙庚、丙辛、丁壬、戊癸随其所属天干而得其气。又曰:甲己丙作首,丙属火,火生土,故化土。余例推。其说不外前理。大凡化气,只取日干而言配合之神。或年月与时皆可用,但要日辰得旺气于时;若不得月中旺气,只时上旺气,亦可;尚得月中旺气而时上不乘旺气则不可;若月与日时俱得旺气,方为全吉。

甲己化土,非辰戌丑未月不化,其次午月亦化,有戊字间之则不化,名曰妒合。凡辰戌丑未生人,柱有己亥为受气临官,至晚年不吉,有官夺官,有财夺财。夫受气临官,长生第四位也,以干为主,双犯则应,余月不应,又曰:甲己化土,切要木为官,得亥卯、亥未为官,戊癸气为福,忌见丁壬日时。乙庚化金,非巳酉丑月不化,其次七月亦化,有甲字间之则不化,名曰妒合。凡巳酉丑生人,柱有庚申为受气临官,晚年不佳。又曰:乙庚化金,切要火为官,故喜丙丁巳午甲己为福,忌见戊癸日时。丙辛化水。非申子辰月不化,其次十月亦化,柱有丁字不化,名曰妒合。凡申子辰生人见癸亥,名曰受气临官,亦主晚年不佳。又曰:丙辛化水,切要土为官,得辰戌丑未为官,乙庚为福,忌见甲己日时。丁壬化木,非亥卯未月不化,其次正月亦化,柱有丙字不化,名曰妒合。亥卯未生人见甲寅,名曰受气临官,晚年不佳。又曰:丁壬化木,切要庚辛申酉为官,丙辛为福,忌见乙庚日时。戊癸化火,非寅午戌月不化,其次四月亦化,柱有己字不化,名曰妒合。凡寅午戌生人见丁巳为受气临官,晚年不佳。又曰:戊癸化火,切要壬癸亥子为官,丁壬为福,忌见丙辛日时。

甲己化土,喜戊辰时生,四季月其土成象,柱中生旺,有气为上。不可见火,见火则虚,见木气则克坏。是甲己日怕丙丁时,余月喜丙。乙庚化金,喜庚辰时生,申酉月其金成象。喜戊土相生,甲己为福。不喜死败,故此月有乙庚日怕子寅时。丙辛化水,喜壬辰时生,亥子月其水成象。爱庚字相生之气,乙庚为福。故此月有丙辛日怕卯巳时。丁壬化木,喜甲辰时生,寅卯月其木成象。喜丙辛为福。故此月有丁壬日怕午申时。戊癸化火,喜丙辰时生,巳午月其火成象。爱甲字相生,丁壬为福。怕卯酉日时,若犯戊己,是火见土,即暗伏不明。丙寅辛卯、丙辰辛卯、庚申乙酉、庚戌乙酉、己亥甲子,己丑甲子,癸已戊午、癸未戊午、戊子癸丑、戊寅癸丑、己酉甲戌、己亥天戌、乙巳庚辰、乙卯庚辰、壬午丁未、壬申丁未,以上地支相连,是同气也,故为正化。有转角进化。干合中见支辰,四角相顺连,如甲辰见己巳之类。日时遇之,成立功名不难。有转角退化。干合中见支午,四角相返连,如甲午见己巳之类。日时遇之,功名差晚,到好处多退减,岁运逢之亦歇灭。有座下自化,乃壬午、丁亥、戊子、甲午、辛巳、癸巳,丁禄在午,壬与丁合,壬禄在亥,丁与壬合之例。壬午、丁亥为福最深,戊子聪明,辛巳权谋,甲午亦作小亨,癸巳贵中有酒色之疾。


.

#43 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 10:57

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Chi Nguyên Lục Hợp

Hợp là thuận hợp, chính là âm dương hợp với nhau, khí của nó tự hợp. Tý, dần, thìn, ngọ, thân tuất là sáu chi dương; sửu, mão, tỵ, mùi, dậu, hợi là sáu chi âm, là do một âm hưởng ứng với một dương gọi là hợp. Tý hợp sửu, dần hợp hợi tức là không phải tý hợp với hợi, dần hợp với sửu, tại sao thế? Trong tạo vật chỉ có âm dương mới hợp, dương khí được tôn trọng trong khí số, tý là "nhất dương", sửu là "nhị âm", một với hai thành số ba, dần là "tam dương", hợi là "lục âm" ba với sáu thành số chín; mão là "tứ dương" bốn với năm được số chín; thìn là ngũ dương", dậu là "tứ âm", năm với bốn thành số chín; tỵ là "lục dương", thân là "tam âm", sáu với ba được thành số chín; ngọ là 'nhất dương", mùi là "nhị âm" một với hai được số ba. Tý sửu, ngọ mùi mỗi cặp đều được ba, ba sanh ra vạn vật, còn lại các cặp đều được chín, chính là số cực dương vậy.

Hợp có trường hợp "hợp lộc", "hợp mã", "hợp quý". Lạc Lục Tử nói: do thuận theo không có mà làm thành có, thí dụ như người sanh giáp lấy dần làm "lộc", không thấy dần mà thấy hợi, gọi là "hợp lộc"; người sanh dần lấy thân làm 'mã", không thấy thân mà thấy tỵ, gọi là "hợp mã"; người giáp mậu canh lấy sửu mùi làm "quý", không thấy sửu mùi mà thấy tý ngọ, gọi là "hợp quý". Kinh sách nói rằng: "minh hợp" không bằng "ám hợp", "củng thật" không bằng "củng hư". Đó là ý nghĩa. "Thiên Nguyên Biến Hoá Thư" nói: tý hợp với sửu thì phúc nhẹ, sửu hợp tý thì phúc dồi dào; dần hợp với hợi thì "phúc thanh", hợi hợp với dần thì "phúc mạn"; tuất hợp với mão thì "phúc hư", mão hợp với tuất thì "phúc hậu"; thìn hợp với dậu thì "phúc nhược", dậu hợp với thìn thì "đại lợi"; ngọ hợp với mùi thì "phúc mạn", mùi hợp với ngọ thì "đại lợi"; tỵ hợp thân thì quan khí 'phúc mạn", thân hợp với tỵ quan khí thịnh. Ví như giáp ngọ với tân mùi chỉ là thân vượng tức mệnh lộc nhược, hay như ất mùi với nhâm ngọ tuy rằng lộc nhược và thô sơ. Lại nói: đàn ông kỵ hợp tuyệt, phụ nữ kỵ hợp quý.

论支元六合

夫合者,和也,乃阴阳相和,其气自合。子寅辰午申戌六者为阳,丑卯已未酉亥六者为阴,是以一阴一阳和而谓之合。子合丑,寅合亥,却不子合亥,寅合丑,夫何故?造物中虽是阴阳为合,气数中要占阳气为尊,子为一阳,丑为二阴,一二成三数;寅为三阳,亥是六阴,三六成九数;卯为四阳,戌是五阴,四五得九数;辰为五阳,酉为四阴,五四得九数;巳为六阳,申为三阴,六三得九数;午为一阳,未为二阴,一二得三数。子丑午未各得三者,三生万物,余皆得九者,乃阳数极也。

夫合有合禄、合马、合贵之说。珞??录子云:是从无而立有,谓见不见之形也。从无立有,喻如甲生人以寅为禄,不见寅而见亥,谓之合禄;寅生人以申为马,不见申而见巳,谓之合马;甲戌庚人以丑未为贵,不见丑未而见子午,谓之合贵。经云:明合不如暗合,拱实不拱虚。此之谓也。《天元变化书》云:子合丑福轻,丑合子福盛;寅合亥福清,亥合寅福慢;戌合卯福虚,卯合戌福厚;辰合酉福弱,酉合辰大利;午合未福慢,未合午大利;已合申福慢,申合巳官气盛。如甲午辛未只是身旺,却命禄弱,如乙未壬午虽禄弱粗得。又曰:男子忌合绝,女人忌合贵。


.

#44 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 11:09

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Chi Nguyên Tam Hợp

Có thể lý do tam hợp là như người ta vận dụng một thân hình vậy. "Tinh" chính là cơ bản của "thiên", "khí" chính là nền tảng của "thần", tức là lấy "tinh" làm mẹ của "khí", "thần là con của "khí", mẹ và con tương sanh, 'tinh" "khí" "thần" có đủ là hợp không chia ly. Bởi vì coi địa chi là thuộc về "nhân nguyên" nên mới bàn luận như thế. Ví như thân tý thìn: thân chính là mẹ của tý, thân chính là sanh thuỷ, tý chính là thuỷ vượng, thìn chính là thuỷ khí, "sanh" tức là đẻ con, "vượng" tức là thành tựu, "khố" tức là cất giữ, có sanh đẻ, có "thành tựu, có cất giữ, vạn vật có bắt đầu và có kết thúc, chính là cái lý tự nhiên, cho nên thân tý thìn là "thuỷ cục". Nếu ba chữ mà thiếu một chữ thì hoá mà không thành cục, không nên dùng "tam hợp hoá cục" để bàn luận. Bởi đạo lý giữa trời đất, có được hai thì hoá, ý nghĩa của "nhất âm nhất dương", được ba sẽ hoá, ý nghĩa "tam sanh vạn vật". Tỵ dậu sửu, dần ngọ tuất, hợi mão mùi cũng đều như vậy. ngũ hành không nói đến hành thổ, bốn hành đều nhờ vào thổ mà thành cục, tất cả vạn vật đều trở về ẩn trong đất vậy; nếu có đủ thìn, tuất, sửu, mùi tự làm thành thổ cục để luận. Nói chung mệnh có hợp, cần thành cục mới tốt đẹp. Giả dụ người sanh lệnh bính đinh thấy hợi mão mùi ấn, tỵ dậu sửu tài là thành cục, thấy dần ngọ tuất là bổn cục, thân tý thìn là quan cục, thìn tuất sửu mùi là "thương cục". Lại như người bính thấy tỵ dậu sửu, người đinh thấy dần ngọ tuất là "tam vị lộc cách", ý nghĩa bính lấy tỵ làm lộc, đinh lấy ngọ làm lộc, dậu sửu hợp tỵ, dần tuất hợp ngọ. "Lạc Lục Tử" nói: "lộc có tam hội". "Hồ Trung Tử" nói: được một phần ba, bẻ tiên quế trong mặt trăng". Đó chính là ý nghĩa. Còn lại phỏng theo đó.

Đại khái mệnh có lục hợp, tam hợp nhập vào, chủ là người có hình dáng xinh đẹp, thần khí ổn định, ưa sống ghét chết, tâm địa công bình, ngay thẳng, dễ ứng xử và thông minh. Như sanh hợp với nhau, làm việc thường thành tựu, có thêm phúc thần thì phúc càng dày, một đời bình dị, nhiều khả năng tài nghệ, lời nói hoà thuận bề ngoài vui thích, không tranh đúng sai, ủng hộ phúc lành và tai hoạ, người thường hay tỏ lòng thương yêu; như hợp khắc với nhau, việc dù khó vẫn dễ dàng vui thích, phần lớn là quyết tâm, thường luôn chịu hao tổn, có thêm "hung sát" cả hai gây nên sự việc bất ngờ, tai hoạ đáng sợ, không hết lòng trách cứ khe khắt; tử, tuyệt hợp: chủ là người thường không toại ý, uy thế không thật mạnh mẽ, tinh thần thô tục, bị mọi người coi thường, ý chí thấp hèn và hẹp hòi, ưa tiểu nhân mà ghét quân tử, thói quen tự hạ thấp mình, một đời ít được khen ngợi; cùng với "kiến lộc" hợp, thường được của hoạnh tài, bất ngờ được danh vọng; 'chánh ấn", 'quý nhân" hợp: có ơn trời được phúc lành có quý nhân đề bạt; "thực thần" hợp: y lộc dồi dào, ăn uống được cung cấp hậu hỹ; "đại hao" hợp: vẻ ngoài vô lễ, ăn nói và hành động thô lỗ, ưu đãi với tiện nhân, khinh thường quân tử; "hàm trì" hội hợp: độc ác và gian dâm, hành động tham ô không lương thiện; với "quan phù" hợp: thường bị hình ngục, dính líu việc kiện tụng của người khác, dính vào chuyện thị phi không rõ ràng; "thiên không" tụ hội: động không thành sự thật, kẻ tiện nhân lừa dối. Phụ nữ rất kỵ trong hợp đới sát: "hàm trì" mang tiếng xấu về quan hệ tình dục, "đại hao" thì ăn nằm lén lút với nhau, trong có "quý", "lộc", vốn là thấp hèn mà thành cao quý. Đại khái hợp với cát thần thì tốt lành, còn hợp với hung thần thì xấu.

论支元三合

或以三合者,如人一身之运用也。精乃天之元,气乃神之本,是以精为气之母,神为气之子,子母相生,精气神全而不散之为合。盖谓支属人元,故以此论之。如申子辰,申乃子之母,辰乃子之子,申乃水生,子乃水旺。辰乃水气,生即产,旺即成,库即收,有生有成有收,万物得始得终,乃自然之理,故申子辰为水局。若三字缺一则化不成局,不可以三合化局论。盖天地间道理,两则化,一阴一阳之谓也,三则化,三生万物之谓也。已酉丑、寅午戌、亥卯未皆然。五行不言土者,四行皆赖土成局,万物皆归藏于土故也;若辰戌丑未全自作土局论。凡命有合,要得局为佳。假令丙丁生人见亥卯未印、已酉丑财为得局,见寅午戌火为本局,申子辰水为官局,辰戌丑未土为伤局。又如丙人见已酉丑,丁人见寅午戌为三位禄格,谓丙以已为禄,丁以午为禄,酉丑合已,寅戌合午故也。《珞??录子》云:"禄有三会"。《壶中子》云:"得一分三,折月中之仙桂"。此之谓也。余仿此例。

凡六合三合入命,主人形容姿美,神气安定,好生恶死,心地平直,周旋方便,聪慧疏通。如相生合者,举事多遂,更有福神来往,则福愈厚,一生平易,多艺多才,言和貌悦,不较是非,福祸扶持,人多见怜;如相克合者,难事而易悦,多是定计,动多招损,更有凶煞相兼,横事勾连,惊暴之灾,不致深咎;死绝合者,主人有为未尝遂意,威武不重,精神俗陋,招人鄙薄,志卑气窄,爱小人恶君子,习下自贱,一生少得称怀;与建禄合者,多横财、意外名望之福;正印贵人合,得天恩贵人提携之福;食神合,衣禄丰余,饮食厚给;大耗合,无礼貌,言情行浊,厚于贱人,侮慢君子;咸池并,奸恶私通,不良贪污之行;与官符并,多招形狱,词讼旁牵,暗昧是非;天空并,动无成实,贱人欺诒。妇人大忌合中带煞,咸池玷行淫声,大耗必致淫奔,中有贵禄者,自贱而贵也。大率合吉神则吉,合凶神则凶。


.

#45 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7167 Bài viết:
  • 5628 thanks

Gửi vào 26/06/2024 - 11:22

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị

Luận Tướng Tinh Hoa Cái

"Tướng tinh": giống như là tướng trong quân đội, cho nên dùng vị trí ở giữa trong tam hợp gọi là "tướng tinh"; "hoa cái": hiểu như "bảo cái", trên trời có sao này, hình dạng như dù, lọng, thường che chỗ ngồi của vua, cho nên lấy chỗ đáy của tam hợp tức là "khố" gọi là "hoa cái".

Nói chung "tướng tinh" thường muốn sao tốt phù trợ, có quý sát thêm vào chính là việc tốt lành. "Lý Ngu Ca" nói: "tướng tinh" nếu sử dụng "vong thần" sẽ là trụ cột của đất nước. Biết rằng "cát trợ thì quý, lại thêm kề bên mộ khố của quý thuần tuý không pha tạp là cách" xuất tướng nhập tướng", có mang thêm "hoa cái", "chánh ấn" mà không kề bên mộ khố là cách "lưỡng phủ"; chỉ có bao quanh mộ khố mà bao quanh cả chánh ấn, là quan lang trở lên, đã không bao quanh mộ cũng không bao quanh chánh ấn, chỉ có "hoa cái", thường là lộc của chức vụ; bao quanh "hoa cái" "chánh ấn" mà đúng lúc phong tặng "dịch mã", danh gọi là "tiết ấn", chủ quý về "tinh tiết" (旌節); nếu tuế can khố đồng khố là phúc lành kép, chủ đại quý.

Nói chung người có mệnh được "hoa cái", thường chủ là "cô quả", quý cở nào cũng không tránh khỏi cô độc, luận về tăng đạo nghệ thuật. "Lý Ngu Ca" nói: "hoa cái tuy rằng tốt lành nhưng cũng có tổn hại, có thể là "nghiệt tử" có thể là "cô sương". Cưới vợ, ở rễ thường thiếu người, cái kẹp trên lò đội nón kéo ra thâm vàng. Lại nói: ngôi sao "hoa cái" ít anh em, ngôi sao cô độc trên trời cao; nếu ở giờ sanh hoặc là thai, chỉ là con vợ lẽ.

论将星华盖

将星者,如将札中军也,故以三合中位谓之将星;化盖者,喻如宝盖,天有此星,其形如盖,常覆乎大帝之座,故以三合底处得库谓之华盖。

凡将星常欲吉星相扶,贵煞加临乃为吉庆。《理愚歌》云:将星若用亡神临,为国栋梁臣。言吉助之为贵,更夹贵库墓纯粹而不杂者,出将入相之格也,带华盖、正印而不夹库,两府之格也;只带库墓而带正印,员郎以上,既不带墓又不带正印,止有华盖,常调之禄也;带华印而正建驿马,名曰节印,主旌节之贵;若岁干库同库为两重福,主大贵。

凡人命得华盖,多主孤寡,总贵亦不免孤独,作僧道艺术论。《理愚歌》云:华盖虽吉亦有妨,或为孽子或孤孀。填房入赘多阙口,炉钳顶笠拔缁黄。又云:华盖星辰兄弟寡,天上孤高之宿也;生来若在时与胎,便是过房庶出者。


.






Similar Topics Collapse

4 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 4 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |