Jump to content

Advertisements




Bản dịch Hoàng Đế Nội Kinh - Tố Vấn


42 replies to this topic

#31 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 145 Bài viết:
  • 155 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 14/09/2024 - 11:36

西方生燥,燥生金,金生辛,辛生肺,肺生皮毛,皮毛生腎,肺主鼻。其在天為燥,在地為金,在體為皮毛,在藏為肺,在色為白,在音為商,在聲為哭,在變動為欬,在竅為鼻,在味為辛,在志為憂。憂傷肺,喜勝憂;熱傷皮毛,寒勝熱;辛傷皮毛,苦勝辛。
Tây phương sinh táo, táo sinh kim, kim sinh tân, tân sinh phế, phế sinh bì mao, bì mao sinh thận, phế chủ tỵ. Kỳ tại thiên vi táo, tại địa vi kim, tại thể vi bì mao, tại tạng vi phế, tại sắc vi bạch, tại âm vi thương, tại thanh vi khốc, tại biến động vi khái, tại khiếu vi tỵ, tại vị vi tân, tại chí vi ưu. Ưu thương phế, hỷ thắng ưu; nhiệt thương bì mao, hàn thắng nhiệt; tân thương bì mao, khổ thắng tân.
Phương Tây sinh Táo, táo sinh kim, kim sinh cay, cay sinh Phế, Phế sinh da lông, da lông sinh Thận, Phế chủ mũi. Trên trời là khí táo, dưới đất hành kim, ở thân là da lông, ở tạng là Phế, ở sắc là trắng, ở âm là Thương, ở tiếng là khóc, ở biến động là ho, ở khiếu là mũi, ở vị là cay, tình chí là lo. Lo thương Phế, vui thắng lo, nhiệt hại da lông, hàn thắng nhiệt; cay hại da lông, đắng thắng cay.

Thanked by 1 Member:

#32 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 145 Bài viết:
  • 155 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 16/09/2024 - 11:57

北方生寒,寒生水,水生鹹,鹹生腎,腎生骨髓,髓生肝,腎主耳。其在天為寒,在地為水,在體為骨,在藏為腎,在色為黑,在音為羽,在聲為呻,在變動為慄,在竅為耳,在味為鹹,在志為恐。恐傷腎,思勝恐;寒傷血,燥勝寒;鹹傷血,甘勝鹹。
Bắc phương sinh hàn, hàn sinh thuỷ, thuỷ sinh hàm, hàm sinh thận, thận sinh cốt tuỷ, tuỷ sinh can, thận chủ nhĩ. Kỳ tại thiên vi hàn, tại địa vi thuỷ, tại thể vi cốt, tại tàng vi thận, tại sắc vi hắc, tại âm vi vũ, tại thanh vi hạp, tại biến động vi lật, tại khiếu vi nhĩ, tại vị vi hàm, tại chí vi khủng. Khủng thương thận, tư thắng khủng; hàn thương huyết, táo thắng hàn; hàm thương huyết, cam thắng hàm.
Phương Bắc sinh Hàn, hàn sinh thủy, thủy sinh mặn (1) , mặn sinh Thận, Thận sinh xương tủy (2), tủy sinh Can, Thận chủ tai. Trên trời là khí hàn, dưới đất hành thủy, ở thân là xương, ở tạng là Thận, về sắc là đen, về âm là Vũ, về tiếng là rên (3) , ở biến động là run, khai khiếu lỗ tai, ở vị là mặn, tình chí là sợ. Sợ thương Thận, nghĩ thắng sợ; hàn hại huyết (4), táo thắng hàn; mặn thương huyết, ngọt thắng mặn.

CHÚ THÍCH:
  • Biển là mẹ của trăm sông, nước thuộc thủy là chí âm nên nó chảy về chỗ thấp nhất tụ hội thành biển, vị của nó mặn. Nước ấy ở biển ở đất hóa khí lên trời thì thành hơi, mà rơi xuống đất ngầm vị ngọt của hành thổ nên ngọt nó thắng mặn, nên nước biển vị mặn mà nước sông vị ngọt, cũng là nước nhưng chất âm dương ngũ hành nó khác nhau, cây cỏ và thuốc cũng nên xét tính như thế.
  • Mặn sinh Thận, Thận sinh xương tủy là nhắc lại khí âm dương ở bốn phương thì nó hóa thuộc về ngũ hành, cái phần âm nó hóa ra vị, vị nó nhập thông vào thành tạng và tạng sinh ra hình hài.
  • Thận phát ra tiếng là rên rỉ, nên lạnh (hànà thủy 1 gốc) người rét thì run rồi rên, khi khoái lạc (Thận hành) thì cũng như thế.
  • Hàn thuộc âm nên hại về phần huyết thuộc âm. Táo thì thắng hàn, ngọt thắng mặn là lẽ mẹ thắng con, còn thổ thì lại khắc thủy.

故曰:天地者,萬物之上下也;陰陽者,血氣之男女也;左右者,陰陽之道路也;水火者,陰陽之徵兆也;陰陽者,萬物之能始也。故曰:陰在內,陽之守也;陽在外;陰之使也
Cố viết: thiên địa giả, vạn vật chi thượng hạ dã; âm dương giả, huyết khí chi nam nữ dã; tả hữu giả, âm dương chi đạo lộ dã; thuỷ hoả giả, âm dương chi trưng triệu dã; âm dương giả, vạn vật chi năng thuỷ dã. Cố viết: âm tại nội, dương chi thủ dã; dương tại ngoại; âm chi sử dã.
Nên nói: trời đất là trên dưới của vạn vật vậy; âm dương là khí huyết của nam nữ vậy; tả hữu là đường lối của âm dương vậy; thủy hỏa là âm dương của triệu chứng vậy; âm dương là gốc biến hóa của muôn vật vậy (1) . Nên nói: âm ở trong, dương giữ cho vậy; dương ở ngoài, âm sai khiến vậy.

CHÚ THÍCH:
  • Trong câu 陰陽者,萬物之能始也 (âm dương giả, vạn vật chi năng thuỷ dã): chữ năng có thể hiểu là khả năng, cũng có thể hiểu là năng lượng (thế năng, cơ năng, nhiệt năng, động năng). Dịch quan niệm rằng âm dương là gốc của muôn vật, vừa là năng lượng bên trong, vừa là hình thái, lại luôn biến hóa chuyển đổi muôn hình vạn trạng. Điều này vừa giống vừa khác với khoa học. Vật lý cổ điển chia năng lượng và vật chất thành 2 đối tượng tách biệt để nghiên cứu, nhưng vật lý hiện đại cho rằng năng lượng nhiều khả năng có thể chính là bản thân của vật chất, là nguồn gốc nhỏ nhất của vạn vận trong vũ trụ. Quan điểm của Dịch vừa giống vật lý hiện đại, vừa giống thuyết Vô Ngã của Phật giáo, vừa giống Đạo của Lão Tử: vạn vật chính là âm dương, hóa chuyển lẫn nhau không ngừng, âm dương vừa là phần cấu tạo nhỏ nhất, vừa chính là năng lượng cho sự chuyển hóa lẫn nhau giữa tất cả những thứ nhìn thấy và không nhìn thấy được. Chữ năng vì vậy hơi khó dịch, tôi chỉ có thể dịch tạm như trên.


Thanked by 1 Member:

#33 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 145 Bài viết:
  • 155 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 17/09/2024 - 15:47

帝曰:法陰陽柰何。歧伯曰:陽勝則身熱,腠理閉,喘麤為之俛仰,汗不出而熱,齒乾以煩冤腹滿,死,能冬不能夏。陰勝則身寒汗出,身常清,數慄而寒,寒則厥,厥則腹滿,死,能夏不能冬。此陰陽更勝之變,病之形能也。
Đế viết: pháp âm dương nại hà. Kỳ bá viết: dương thắng tắc thân nhiệt, tấu lý bế, suyễn thô vi chi miễn ngưỡng, hãn bất xuất nhi nhiệt, xỉ càn dĩ phiền oan phúc mãn, tử, năng đông bất năng hạ. Âm thắng tắc thân hàn hãn xuất, thân thường thanh, sổ lật nhi hàn, hàn tắc quyết, quyết tắc phúc mãn, tử, năng hạ bất năng đông. Thử âm dương canh thắng chi biến, bệnh chi hình năng dã.
Đế hỏi: Phép âm dương thế nào? Kỳ Bá đáp: dương thắng thì mình nóng, tấu lý bít, thở gấp mà khó cúi ngửa, mồ hôi nín là nhiệt, răng se mà phiền oán ruột đầy, chứng chết, Đông nên Hạ chẳng nên. Âm thắng tất thân lạnh đổ mồ hôi, mình thường mát, run sợ là hàn, hàn tất Quyết (1) , Quyết tất ruột trướng, chứng chết, nên Hạ chẳng nên Đông. Âý là âm dương thắng nhau chuyển biến, bệnh hiện hình theo vậy.

CHÚ THÍCH:
Quyết là từ chuyên môn trong Đông y, chỉ bệnh do khí nghịch lên chân tay mà quéo lạnh, thường gọi là Quyết Nghịch. Nguyễn Tử Siêu có chú thích rằng: “Âm thắng thời dương hư, nên hãn ra. Âm thắng ở bộ phận BIỂU, nên mình thường mát ; nếu ở LÝ thời hay run và rét. Tứ chi là gốc của chư dương. Biểu lý đều hàn thời tứ-chi quyết lãnh ; tứ chi đã quyết lãnh thời Phúc-bộ sẽ hư mà đầy. đó là tử chứng thuộc về “ Âm hàn thiên thắng”. Nếu nhờ được cái khí dương nhiệt của mùa Hạ còn có thể cứu được cái nạn Âm-hàn.
đó là do sự biến của âm dương mà gây nên tật bịnh”. Ở đây đang nói về sự thắng nhau của âm dương, âm nó ở bên trong, dương ở bên ngoài, nếu âm thắng ở trong mà hiện ra cả bên ngoài thì dương đã suy kiệt lắm rồi, và ngược lại, đó là bệnh chết, ví như cục pin mất đi 1 điện cực vậy. Nếu dương thắng âm nguy, mùa Đông nhờ có khí hàn của trời đất cứu vãn cho cái phần âm, sang mùa Xuân khí dương bắt đầu thắng thế, đó là lúc âm đã tuyệt, không gì cứu được nữa. Âm thắng cũng như vậy, dương đã suy kiệt, chỉ nhờ khí Xuân Hạ là hai mùa thuộc dương, như người chết đuối níu nhờ phao, sang Thu Đông khí âm vượng đến cực điểm thì khí dương không còn nương nhờ vào đâu được nữa, thời chết.

Thanked by 1 Member:

#34 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 145 Bài viết:
  • 155 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 22/09/2024 - 17:15

帝曰:調此二者,柰何。歧伯曰:能知七損八益,則二者可調,不知用此,則早衰之節也。年四十,而陰氣自半也,起居衰矣。年五十,體重,耳目不聰明矣。年六十,陰痿,氣大衰,九竅不利,下虛上實,涕泣俱出矣。故曰:知之則強,不知則老,故同出而名異耳。智者察同,愚者察異,愚者不足,智者有餘,有餘則耳目聰明,身體輕強,老者復壯,壯者益治。是以聖人為無為之事,樂恬憺之能,從欲快志於虛無之守,故壽命無窮,與天地終,此聖人之治身也。
Đế viết: điều thử nhị giả, nại hà. Kỳ bá viết: năng tri thất tổn bát ích, tắc nhị giả khả điều, bất tri dụng thử, tắc tảo suy chi tiết dã. Niên tứ thập, nhi âm khí tự bán dã, khởi cư suy hỹ. Niên ngũ thập, thể trùng, nhĩ mục bất thông minh hỹ. Niên lục thập, âm nuy, khí đại suy, cửu khiếu bất lợi, hạ hư thượng thực, thế khấp câu xuất hỹ. Cố viết: tri chi tắc cường, bất tri tắc lão, cố đồng xuất nhi danh dị nhĩ. Trí giả sát đồng, ngu giả sát dị, ngu giả bất túc, trí giả hữu dư, hữu dư tắc nhĩ mục thông minh, thân thể khinh cường, lão giả phục tráng, tráng giả ích trị. Thị dĩ thánh nhân vy vô vy chi sự, nhạc điềm đảm chi năng, tòng dục khoái chí ư hư vô chi thủ, cố thọ mệnh vô cùng, dữ thiên địa chung, thử thánh nhân chi trị thân dã.
Đế nói: Điều dưỡng cả hai thế nào? Kỳ Bá đáp: nên biết 7 bớt tám thêm (1) , tất điều dưỡng được cả, không biết dùng chúng, tất là sớm suy hao vậy. Năm 40, thì âm khí còn một nửa, khởi cư suy hĩ. Năm 50, thân nặng, tai mắt không thông sáng nữa. Năm 60, âm nuy, khí rất suy, 9 khiếu bất lợi, dưới HƯ trên THỰC, nước mắt mũi tự chảy (2). Nên nói: biết nó tất khỏe, không biết tất già, nó cùng gốc mà nghe khác tên (3) . Bậc trí xét giống, người ngu xét khác, kẻ ngu bất túc, bậc trí hữu dư (4), hữu dư tất tai mắt thông sáng, thân thể khỏe nhạy, già vẫn cường tráng, khỏe mà lợi yên (5) .

CHÚ THÍCH:
  • 7 bớt tám thêm: nguyên văn là 七損八益 – thất tổn bát ích. Thất và bát là nhắc lại kì thiên quý: nữ lấy số 7 thiếu dương làm chủ, nam lấy số 8 thiếu âm làm chủ. Số 7 thuộc về dương nên tính nó tăng thêm, số 8 thuộc về âm nên nó hao giảm. Đó là lí “Dương thường hữu dư, Âm thường bất túc” vậy. Cho nên phép điều dưỡng đúng là đừng để phần âm nó bất túc (hao giảm), bởi vì âm sinh ra, dương tăng trưởng, ví như người nữ sinh con mà nam là trụ cột làm ra cho cả gia đình, ví như Mặt Trời mọc lên từ dưới đất, rồi cứ thế tăng trưởng lên cao. Vậy nên phép dưỡng sinh là chớ để âm nó ham giảm thêm thì âm sẽ sinh ra dương mà dương tự nó lớn, thời âm dương tự sẽ điều hòa được.
  • Phần âm nó sinh ra dương, nên đầu tiên âm khởi, dần mới sinh dương, giờ giấc cũng vậy, đầu ngày mới bắt đầu tính từ giờ Tý thuộc âm rồi mới đến giờ Dần Mão thuộc dương thì Mặt Trời mới mọc. Âm sinh trước nên nó hao giảm trước. Con người thiên quý bất quá nữ nửa kì là 7 x 4 = 28 dần sẽ suy, nam 8 x 4 = 32 dần sẽ suy, đến 40 thì nam nữ đều suy cả. Đến năm 50, 60 thì thân thể cạn hết thiên quý mà già nua. (Xin xem lại thiên đầu: Thượng Cổ thiên chân luận).
  • Cùng gốc mà nghe khác tên: Câu này giống đoạn đầu trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử: Thử lưỡng giả đồng xuất nhi nhị danh, đồng vị chi huyền, huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn (Hai thứ ấy cùng từ một chỗ ra chỉ khác cái tên, cùng huyền vị như nhau, huyền vi huyền vi, mọi điều diệu đầu ở cửa đấy). Ý nói con người có Tinh – Khí – Thần làm gốc, âm Tinh là nơi khởi sinh, khí và thần đều từ đó mà ra, cũng như âm dương từ Thái Cực và Vô Cực sinh ra vậy, bởi vậy nên nói con người là tiểu vũ trụ. Bậc trí biết điều ấy nên xét rõ, còn kẻ ngu thì đi tìm tiểu tiết mà không hiểu gì, ví như thấy cây không thấy rừng, không rõ cái gốc, nên không điều dưỡng được thân thể mà già nua sớm vậy.
  • Bất túc – hữu dư: bất túc nghĩa đen là không đủ, hữu dư nghĩa đen là có thừa, nhưng đa phần các sách đều dùng nguyên chữ, bất túc để chỉ sự còn thiếu hụt không đầy đủ, hữu dư để chỉ sự sung mãn tràn đầy, vì vậy xin để nguyên văn.
  • Nguyên văn là chữ ích trị, ích là được lợi cho sức khỏe, trị là thân thể âm dương khí huyết đều nhờ công phu dưỡng sinh mà yên trị, không loạn, vì không loạn nên được lợi ích, chữ này khó dịch, xin dịch sơ sài như vậy để sát nghĩa nhất.


Thanked by 1 Member:

#35 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 145 Bài viết:
  • 155 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 27/09/2024 - 08:00

天不足西北,故西北方陰也,而人右耳目不如左明也。地不滿東南,故東南方陽也,而人左手足不如右強也。
Thiên bất túc tây bắc, cố tây bắc phương âm dã, nhi nhân hữu nhĩ mục bất như tả minh dã. Địa bất mãn đông nam, cố đông nam phương dương dã, nhi nhân tả thủ túc bất như hữu cường dã.
Trời không đủ Tây Bắc, bởi Tây Bắc là hướng âm, nên tai mắt bên phải người không sáng như trái. Đất không dư Đông Nam, bởi Đông Nam là hướng dương, nên tay chân bên trái người không mạnh như bên phải.

Thanked by 1 Member:

#36 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 145 Bài viết:
  • 155 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 03/10/2024 - 11:12

帝曰:何以然。歧伯曰:東方陽也,陽者其精並於上,並於上,則上明而下虛,故使耳目聰明,而手足不便也。西方陰也,陰者其精並於下,並於下,則下盛而上虛,故其耳目不聰明,而手足便也。故俱感於邪,其在上則右甚,在下則左甚,此天地陰陽所不能全也,故邪居之。
故天有精,地有形,天有八紀,地有五里,故能為萬物之父母。清陽上天,濁陰歸地,是故天地之動靜,神明為之綱紀,故能以生長收藏,終而復始,惟賢人上配天以養頭,下象地以養足,中傍人事以養五藏。
天氣通於肺,地氣通於嗌,風氣通於肝,雷氣通於心,谷氣通於脾,雨氣通於腎。六經為川,腸胃為海,九竅為水註之氣。以天地為之陰陽,陽之汗,以天地之雨名之;陽之氣,以天地之疾風名之。暴氣象雷,逆氣象陽。故治不法天之紀,不用地之理,則災害至矣。

Đế viết: hà dĩ nhiên. Kỳ bá viết: đông phương dương dã, dương giả kỳ tinh tịnh ư thượng, tịnh ư thượng, tắc thượng minh nhi hạ hư, cố sử nhĩ mục thông minh, nhi thủ túc bất tiện dã. Tây phương âm dã, âm giả kỳ tinh tịnh ư hạ, tịnh ư hạ, tắc hạ thịnh nhi thượng hư, cố kỳ nhĩ mục bất thông minh, nhi thủ túc tiện dã. Cố câu cảm ư tà, kỳ tại thượng tắc hữu thậm, tại hạ tắc tả thậm, thử thiên địa âm dương sở bất năng toàn dã, cố tà cư chi.
Cố thiên hữu tinh, địa hữu hình, thiên hữu bát kỷ, địa hữu ngũ lý, cố năng vi vạn vật chi phụ mẫu. Thanh dương thượng thiên, trọc âm quy địa, thị cố thiên địa chi động tĩnh, thần minh vy chi cương kỷ, cố năng dĩ sinh trưởng thu tàng, chung nhi phục thuỷ, duy hiền nhân thượng phối thiên dĩ dưỡng đầu, hạ tượng địa dĩ dưỡng túc, trung bàng nhân sự dĩ dưỡng ngũ tạng.
Thiên khí thông ư phế, địa khí thông ư ách, phong khí thông ư can, lôi khí thông ư tâm, cốc khí thông ư tỳ, vũ khí thông ư thận. Lục kinh vy xuyên, trường vị vy hải, cửu khiếu vy thuỷ chú chi khí.
Dĩ thiên địa vy chi âm dương, dương chi hãn, dĩ thiên địa chi vũ danh chi; dương chi khí, dĩ thiên địa chi tật phong danh chi. Bạo khí tượng lôi, nghịch khí tượng dương. Cố trị bất pháp thiên chi kỷ, bất dụng địa chi lý, tắc tai hại chí hỹ.
Đế hỏi: Cớ vì sao?
Kỳ Bá đáp: Phương Đông là dương, dương tinh tất thảy dồn ở trên, đều ở trên tất trên sáng mà dưới hư, nên khiến tai mắt thông sáng, nhưng tay chân không thuận. Phương Tây là âm, âm tinh hết thảy tịnh ở dưới, đều ở dưới tất dưới thịnh mà trên hư, nên tai mắt không thông sáng nhưng mà tay chân thuận. Thế nên cảm phải tà, nó ở trên ắt bên phải nặng, ở dưới ắt bên trái nặng, đó là âm dương đất trời vốn không thể toàn, nên tà mới ở đó (1) .
Bởi trời có tinh, đất có hình, trời có tám giềng, đất có năm lẽ (2) , nên mới là cha mẹ của muôn vật. Dương trong lên trời, âm đục về đất, vì cớ trời đất có động tĩnh, thần minh có cương kỉ, mới có thể sinh trưởng thu tàng, tận cùng lại mới, duy hiền nhân trên phối trời để dưỡng đầu, dưới theo đất để dưỡng chân, giữa tựa mọi người để nuôi ngũ tạng (3) .
Khí trời thông nơi Phế, khí đất thông nơi Ách, khí Phong thông ở Can, khí sét thông vào Tâm, khí cốc thông vào Tỳ, khí mưa thông vào Thận (4). Sáu kinh là sông, Trường – Vị là biển, chín khiếu là nơi khí nước rót đi.
Lấy trời đất mà làm âm dương, mồ hôi dương, lấy cái mưa trời đất đặt tên, cái khí dương, lấy gió dữ trời đất để đặt tên. Khí bạo tượng sét, khí nghịch tượng dương. Nên cách chữa không theo mối của trời, không dùng lẽ của đất, tất tai hại lắm thay! (5)

CHÚ THÍCH:
  • Ý nói tà khí nhân chỗ thiếu hụt của người mà xâm hại rồi lưu lại. Bởi vì bên trên thuộc dương nên phần dương có thừa mà phần âm bị thiếu hụt, nên bên trái mạnh mà bên phải yếu, vì sao?

Theo bản đồ cổ phương Bắc ở trên, Nam ở dưới, Đông bên phải, Tây bên trái, đó là người bên ngoài nhìn vào. Vậy nên nếu mình ở trong thân nhìn ra thời hướng Tây nó ở bên phải, hướng Đông nó ở bên trái vậy.


(Phần ảnh này không upload được)

Tai và mắt ở trên thượng tiêu, còn tay chân xuôi xuống đều nằm ngang hạ tiêu.

Tai mắt ở trên, thuộc dương. Ở trên dương thịnh mà âm suy, nên phần bên hướng Tây (bên phải, từ trong mình tự nhìn ra) thuộc âm (Tây kim, Bắc thủy là âm) yếu hơn, phần hướng Đông (bên trái từ trong nhìn ra) mạnh hơn vì nó thuộc dương (Nam hỏa, Đông Mộc là dương).

Tay chân ở dưới nên âm thịnh, dương suy, vì thế ngược lại bên phải nó mạnh hơn và là phần thuận, bên trái yếu hơn mà ở phần nghịch.

Như vậy xem ra trời đất cũng không thể toàn vẹn cả, lí tự nhiên vốn như vậy, cho nên nếu tà khí mà xâm hại, nó sẽ thừa chỗ yếu để lấn vào, nên phần yếu nhất bị nặng hơn là do thế.

  • Trời có tám phương, 8 phương hóa sinh ra 8 khí, phục địa thành năm hành, đất có năm hành, hóa vào vạn vật, đó là lẽ âm tinh sinh ra ngũ vị, ngũ vị sinh ra ngũ tạng, ngũ âm, và muôn hình muôn vật. Đấy chính là sự hóa hợp của 8 quẻ và âm dương ngũ hành. Trời là âm đất là dương hóa chuyển thành tất cả, nên mới nói trời đất là cha mẹ, gốc vốn từ vô thủy vô chung mà lại chuyển hóa không có đầu cuối. Chữ thần minh không phải chỉ bậc quyền phép mà muốn nói đến sự biến hóa bất trắc của âm dương, chỉ có thể thấy biết chứ không thể xét đoán tận cùng được. (Xin xem: âm dương ứng tượng đại luận).
  • Trên theo trời để dưỡng đầu, vì trời thuộc dương nên linh hoạt, người nên để mưu chí tung bay, tâm trí thoáng đạt, để tai mắt thông sáng. Dưới theo đất để dưỡng chân, vì đất ổn định dầy lớn, nên khởi cư có nghỉ có làm, chỗ ở nên yên, hạ bộ và các tạng phủ bên dưới nên nuôi bù cho sự bất túc, chớ nên để kinh sợ, hãi động. Giữa gần người hiền, lánh người ác, hòa nhã với xung quanh, dùng người thân cận, mượn sức người để tác thành công việc, như vậy tình chí luôn an ổn không buồn lo oán giận, lo sợ, tinh thần thoải mái, đó là cách dưỡng sinh từ trong tâm ra đến sự ăn ở bên ngoài và thân mình.
  • Phế là quẻ Càn kim, thuộc về trời, nên nó ở bộ vị cao nhất, thống lĩnh khí là chư dương mà thông với khí trời. Đất sinh ra vạn vật hữu hình, nó ứng với Tỳ thuộc hành thổ nên hít khí trời thì thông vào Phế, mà hít khí đất thì trôi vào thực quản là Ách. Can thuộc Mộc, mộc động thì sinh phong, Nam phương sinh Phong, Phong sinh Mộc, Mộc sinh Can, nên nó tìm tới chỗ ứng hợp mà thông vào. Lôi khí gọi là Thiên thượng hỏa, lửa trên trời, nóng cực mà nhanh cũng cực, chỉ có trên trời không có dưới đất, chỉ giáng xuống không mọc lên, đó chí dương ở trong dương, nên ứng với tạng Tâm. Cốc khí xin để nguyên chữ vì đây là danh từ chuyên môn chỉ những tinh hoa của tất cả đồ ăn, chúng đều từ đất mẹ mà có, nên ứng với Tỳ. Khí mưa thuộc Thủy, nên nó ứng với Thận. Đó là lẽ thân mình với vũ trụ thông nhau, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu vậy.
  • Ý nhắc lại câu: Trời có tám giềng mối, đất có năm điều lẽ tức là bát phương và ngũ hành. Chữa trị phải xét thiên địa, âm dương ngũ hành, vận khí vượng suy theo tứ thời và lẽ tương hợp chuyển hóa nương tựa của tạng phủ, coi rõ sự ăn ở cùng luận xét những thứ liên quan. Nếu xét bệnh như vậy thực là thần y chữa trăm bệnh đều không thể sai lạc.

Sửa bởi Lenam098: 03/10/2024 - 11:16


Thanked by 1 Member:

#37 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 145 Bài viết:
  • 155 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 27/10/2024 - 10:17

故邪風之至,疾如風雨,故善治者治皮毛,其次治肌膚,其次治筋脈,其次治六府,其次治五藏。
治五藏者,半死半生也。故天之邪氣,感則害人五藏;水穀之寒熱,感則害於六府;地之濕氣,感則害皮肉筋脈。故善用鍼者,從陰引陽,從陽引陰,以右治左,以左治右,以我知彼,以錶知裏,以觀過與不及之理,見微得過,用之不殆。
善診者,察色按脈,先別陰陽;審清濁,而知部分;視喘息,聽音聲,而知所苦;觀權衡規矩,而知病所主。按尺寸,觀浮瀋滑濇,而知病所生;以治無過,以診則不失矣。故曰:病之始起也,可刺而已;其盛,可待衰而已。故因其輕而揚之,因其重而減之,因其衰而彰之。
Cố tà phong chi chí, tật như phong vũ, cố thiện trị giả trị bì mao, kỳ thứ trị cơ phu, kỳ thứ trị cân mạch, kỳ thứ trị lục phủ, kỳ thứ trị ngũ tạng.
Trị ngũ tạng giả, bán tử bán sinh dã. Cố thiên chi tà khí, cảm tắc hại nhân ngũ tạng; thuỷ cốc chi hàn nhiệt, cảm tắc hại ư lục phủ; địa chi thấp khí, cảm tắc hại bì nhục cân mạch. Cố thiện dụng châm giả, tòng âm dẫn dương, tòng dương dẫn âm, dĩ hữu trị tả, dĩ tả trị hữu, dĩ ngã tri bỉ, dĩ biểu tri lý, dĩ quan quá dữ bất cập chi lý, kiến vi đắc quá, dụng chi bất đãi.
Thiện chẩn giả, sát sắc án mạch, tiên biệt âm dương; thẩm thanh trọc, nhi tri bộ phận; thị suyễn tức, thính âm thanh, nhi tri sở khổ; quan quyền hành quy củ, nhi tri bệnh sở chủ. Án xích thốn, quan phù trầm hoạt sắc, nhi tri bệnh sở sinh; dĩ trị vô quá, dĩ chẩn tắc bất thất hỹ. Cố viết: bệnh chi thuỷ khởi dã, khả thích nhi dĩ; kỳ thịnh, khả đãi suy nhi dĩ. Cố nhân kỳ khinh nhi dương chi, nhân kỳ trùng nhi giảm chi, nhân kỳ suy nhi chương chi.
Nên phong tà khi đến, nhanh tợ bão giông, thầy giỏi chữa ngay bì mao, bậc thứ trị cơ phu, bậc thứ trị gân mạch, kế nữa chữa lục phủ, kế nữa chữa ở ngũ tạng.
Trị đến ngũ tạng, đã sống dở chết dở. Bởi tà khí ngoài trời, nhiễm ắt hại ngũ tạng người; hàn nhiệt của thủy cốc, trúng ắt hại tới lục phủ; thấp khí của đất, cảm tất hại da thịt gân mạch. Nên thầy châm giỏi, tùy âm dẫn dương, tùy dương dẫn âm, lấy bên trái chữa bên phải, lấy bên phải chữa bên trái, coi mình biết người, nhìn bên ngoài biết bên trong, dựa xem lẽ sự thừa thiếu, hiểu nhỏ đắc lớn, chữa mà không nguy.
Người xem giỏi, coi sắc ấn mạch, trước phân âm hay dương; nghiệm trong đục, để biết bộ phận; nhìn hơi thở, nghe âm thanh, để biết chỗ khốn, xem quyền hành quy củ, mà biết bệnh chủ đâu. Ấn XÍCH-THỐN, xem PHÙ -TRẦM – HOẠT – SẮC (1) , để biết nơi bệnh sanh; xem cả người vô bệnh, chẩn đoán ắt không sai lầm.
Vậy nên: khởi đầu của bệnh, có thể dùng châm; bệnh nặng, đợi nó suy đi đã. Nếu nguyên nhân nhẹ thì khích lên, nguyên nhân nặng thì giảm đi, còn nếu suy thì biểu dương thêm (2) .

CHÚ THÍCH:
  • Phù – Trầm – Hoạt – Sắc: là tên bốn mạch thường gặp. Ý chỉ phải xem nhận rõ hình mạch để đoán trúng bệnh bên trong.
  • Câu văn này thể hiện một nguyên tắc quan trọng trong việc điều trị bệnh theo y học cổ truyền, đó là "biến chứng luận trị". Nghĩa là, tùy thuộc vào từng giai đoạn và mức độ nặng nhẹ của bệnh mà có những phương pháp điều trị khác nhau.
    • 因其輕而揚之: Khi bệnh mới chớm nở, các triệu chứng còn nhẹ, cơ thể có khả năng tự phục hồi tốt. Lúc này, bác sĩ sẽ sử dụng các phương pháp điều trị tích cực để tăng cường sức đề kháng của cơ thể, giúp bệnh nhanh chóng khỏi hẳn. Ví dụ như dùng các loại thuốc bổ, châm cứu...
    • 因其重而減之: Khi bệnh tình trở nên nghiêm trọng, cơ thể suy yếu, các chức năng bị ảnh hưởng. Lúc này, nếu dùng thuốc quá mạnh có thể gây ra tác dụng phụ, thậm chí làm bệnh tình trầm trọng hơn. Vì vậy, bác sĩ sẽ giảm bớt liều lượng thuốc, kết hợp với các biện pháp điều trị khác để giảm nhẹ triệu chứng, giúp cơ thể có thời gian hồi phục.
    • 因其衰而彰之: Khi bệnh tình đã suy yếu, các triệu chứng giảm đi, đây là thời điểm thích hợp để tăng cường điều trị, giúp cơ thể loại bỏ hoàn toàn mầm bệnh và phục hồi chức năng.

Sửa bởi Lenam098: 27/10/2024 - 10:23


Thanked by 1 Member:

#38 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 145 Bài viết:
  • 155 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 23/11/2024 - 18:38

形不足者,溫之以氣,精不足者,補之以味。其高者,因而越之;其下者,引而竭之;中滿者,寫之於內;其有邪者,漬形以為汗;其在皮者,汗而發之;其慓悍者,按而收之;其實者,散而寫之。審其陰陽,以別柔剛,陽病治陰,陰病治陽,定其血氣,各守其鄉,血實宜決之,氣虛宜 (XẾ: chữ này không hiện do nó quá cổ) 之。
Hình bất túc giả, ôn chi dĩ khí, tinh bất túc giả, bổ chi dĩ vị. Kỳ cao giả, nhân nhi việt chi; kỳ hạ giả, dẫn nhi kiệt chi; trung mãn giả, tả chi ư nội; kỳ hữu tà giả, tý hình dĩ vy hãn; kỳ tại bì giả, hãn nhi phát chi; kỳ phiêu hãn giả, án nhi thu chi; kỳ thực giả, tán nhi tả chi. Thẩm kỳ âm dương, dĩ biệt nhu cương, dương bệnh trị âm, âm bệnh trị dương, định kỳ huyết khí, các thủ kỳ hương, huyết thực nghi quyết chi, khí hư nghi xế (1) dẫn chi.
Hình không đủ thì ôn nhu bằng khí, tinh không đủ thì bồi bổ bằng vị. Nó cao thì nhân đó phù việt, nó thấp thì dẫn đi cho cạn; giữa đầy thì tả cho vào trong; chỗ có tà thì tẩm hình cho phát hãn; nó ở da lông thì cho ra mồ hôi; nó mà hung mạnh, ấn bóp cho lưu dẫn; là THỰC thì dùng TÁN để TẢ. Thẩm định âm dương, phân biệt mềm cứng, bệnh dương trị âm, bệnh âm trị dương, xác định khí – huyết, rõ nắm bộ vị, huyết thực nên khơi thông, khí hư nên dẫn xướng (1) .

CHÚ THÍCH:
Nguyên chữ ������ (xế) là 1 chữ rất hiếm, tra nhiều từ điển đều chưa thấy, chỉ thấy số rất ít tài liệu đọc là xế, tạm dịch là dẫn cho khí được thông xướng.

Sửa bởi Lenam098: 23/11/2024 - 18:40


Thanked by 1 Member:

#39 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 145 Bài viết:
  • 155 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 20/12/2024 - 06:16

陰陽離合論篇第六
Thiên thứ sáu:
ÂM DƯƠNG LI HỢP LUẬN.

KINH VĂN ________________________________________________________________________

黃帝問曰:余聞天為陽,地為陰,日為陽,月為陰,大小月三百六十日成一歲,人亦應之。今三陰三陽,不應陰陽,其故何也。歧伯對曰:陰陽者,數之可十,推之可百,數之可千,推之可萬,萬之大不可勝數,然其要一也。天覆地載,萬物方生,未出地者,命曰陰處,名曰陰中之陰;則出地者,命曰陰中之陽。陽予之正,陰為之主。故生因春,長因夏,收因秋,藏因冬,失常則天地四塞。陰陽之變,其在人者,亦數之可數。
Hoàng Đế vấn viết: dư văn thiên vi dương, địa vi âm, nhật vi dương, nguyệt vi âm, đại tiểu nguyệt tam bách lục thập nhật thành nhất tuế, nhân diệc ưng chi. Kim tam âm tam dương, bất ưng âm dương, kỳ cố hà dã.
Kỳ Bá đối viết: âm dương giả, số chi khả thập, thôi chi khả bách, số chi khả thiên, thôi chi khả vạn, vạn chi đại bất khả thắng số, nhiên kỳ yếu nhất dã. Thiên phúc địa tải, vạn vật phương sinh, vị xuất địa giả, mệnh viết âm xứ, danh viết âm trung chi âm; tắc xuất địa giả, mệnh viết âm trung chi dương. Dương dư chi chính, âm vi chi chủ. Cố sinh nhân xuân, trưởng nhân hạ, thu nhân thu, tàng nhân đông, thất thường tắc thiên địa tứ tắc. Âm dương chi biến, kỳ tại nhân giả, diệc số chi khả số.
Hoàng Đế hỏi rằng: ta nghe trời là dương, đất là âm, ngày là dương, tháng là âm, tháng đủ thiếu [cộng] ba trăm sáu mươi ngày thành một năm, người cũng như vậy. Nay 3 âm 3 dương (1) , âm dương không ứng, là tại vì sao?
Kỳ Bá đáp rằng: âm dương kia số có thể 10, có thể đến trăm, số đến cả ngàn, có thể đến vạn, vạn cho đến lớn không kể xiết, nhưng kì yếu có 1. Trời che đất chở, vạn vật mới sinh, từ đất chưa ra, kể mệnh chỗ âm, gọi là âm ở trong âm; khi từ đất ra, mệnh là âm ở trong dương. Dương là chính khí, âm ở vị chủ. Nên Xuân thời sinh, Hạ thời trưởng, Thu thâu liễm, Đông bế tàng, thất thường ắt trời đất 4 mùa nghẽn. Lẽ biến âm dương, đều ở người cả, đếm thì biết vận số vậy.


CHÚ THÍCH:
  • Ba âm ba dương tức là nói các đường kinh, tay có 3 kinh âm, 3 kinh dương, chân có 3 kinh âm, 3 kinh dương, kinh âm dẫn tới tạng, kinh dương dẫn tới phủ, tổng là 12 đường kinh mạch đều có kinh âm và kinh dương.

Sửa bởi Lenam098: 20/12/2024 - 06:24


Thanked by 1 Member:

#40 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 145 Bài viết:
  • 155 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 22/12/2024 - 16:54

帝曰:願聞三陰三陽之離合也。
歧伯曰:聖人南面而立,前曰廣明,後曰太衝,太衝之地,名曰少陰,少陰之上,名曰太陽,太陽根起於至陰,結於命門,名曰陰中之陽。中身而上,名曰廣明,廣明之下,名曰太陰,太陰之前,名曰陽明,陽明根起於厲兌,名曰陰中之陽。厥陰之表,名曰少陽,少陽根起於竅陰,名曰陰中之少陽。是故三陽之離合也,太陽為開,陽明為闔,少陽為樞。三經者,不得相失也,搏而勿浮,命曰一陽。
Đế viết: nguyện văn tam âm tam dương chi ly hợp dã.
Kỳ bá viết: thánh nhân nam diện nhi lập, tiền viết quảng minh, hậu viết thái xung, thái xung chi địa, danh viết thiếu âm, thiếu âm chi thượng, danh viết thái dương, thái dương căn khởi ư chí âm, kết ư mệnh môn, danh viết âm trung chi dương. Trung thân nhi thượng, danh viết quảng minh, quảng minh chi hạ, danh viết thái âm, thái âm chi tiền, danh viết dương minh, dương minh căn khởi ư lệ đoài, danh viết âm trung chi dương. Quyết âm chi biểu, danh viết thiếu dương, thiếu dương căn khởi ư khiếu âm, danh viết âm trung chi thiếu dương. Thị cố tam dương chi ly hợp dã, thái dương vi khai, dương minh vi hạp, thiếu dương vi xu. Tam kinh giả, bất đắc tương thất dã, bác nhi vật phù, mệnh viết nhất dương.
Đế nói: nguyện nghe lẽ 3 âm 3 dương ly hợp.
Kỳ Bá nói: Thánh nhân ngoảnh mặt về hướng Nam (1) , phía trước kêu Quảng Minh, phía sau kêu Thái Xung;
Đất của Thái Xung, tên gọi Thiếu Âm, trên của Thiếu Âm, tên gọi Thái Dương, Thái Dương gốc khởi từ Chí Âm, kết nơi Mệnh Môn (2) , gọi là dương ở trong âm. Giữa người về trên, tên gọi Quảng Minh, dưới của Quảng Minh, gọi là Thái Âm, đàng trước Thái Âm, tên là Dương Minh (3) , Dương Minh gốc khởi nơi Lệ Đoài, gọi là thiếu dương ở trong âm.
Biểu của Quyết Âm, tên là Thiếu Dương (4) , Thiếu Dương gốc khởi nơi Khiếu Âm, gọi là thiếu dương ở trong âm. Thế nên lẽ ly hợp tam dương này, Thái Dương là mở, Dương Minh là đóng, Thiếu Dương là then. 3 kinh đấy thời không mất nhau được, đập mà không Phù, mệnh danh Nhất Dương (5) .

CHÚ THÍCH:
  • Thánh nhân ngoảnh mặt về Nam: sách có câu: Vua ngoảnh mặt nhìn hướng Nam mà trị thiên hạ, cung vua cũng nhìn hướng nam, tế trời đất thì đàn Nam Giao cũng nhìn hướng Nam, vì hướng Nam là tượng chí dương, thuộc Trời, mệnh của vua. Ở đây ý nhắc cho thấy các phương đều có tên gọi, đất đai thời tiết cho đến vạn vật đều được xếp đặt theo quy luật chặt chẽ, người phải thuận với vũ trụ, thời thân thể con người ta cũng như thế.

Đó là điểm rất đặc biệt của lối tư duy khoa học biện chứng phương Đông: phương Tây đi vào rõ ràng, chi tiết, đòi hỏi bằng cớ từng thứ một, nêu ra lý thuyết rồi thực nghiệm để kiểm tra. Phương Đông xét mọi vật có tính tương đối, thậm chí từng vật hoán chuyển, vận động liên tục, nhưng về tổng thể tất cả đều tương quan chằng chịt theo quy luật rất cố kết. Cho nên lý luận phương Tây mới nhìn thì chặt chẽ chính xác, nhưng quan sát bao trùm thì tổng thể lại rời rạc không thống nhất, có đúng, có sai, cuối cùng không chắc chắn chỗ nào thật sự đúng hay sai. Phương Đông đi từ lý luận nhỏ đến lớn, xét mọi thứ tương quan với nhau, nên mới nhìn đơn giản nhưng thực sự rất phức tạp thâm diệu, đến nỗi hầu như không có sai sót. Lý thuyết này lại có thể bao trùm lên vạn vật ở mọi phương diện. Về mặt nào đó, đây có thể chính là lý thuyết thống nhất mọi học thuyết mà khoa học hiện đại vẫn ao ước.

  • Chương này nói về sự ly hợp của ba kinh âm và ba kinh dương, Thái Xung có lẽ là tên huyệt, chưa rõ đó là huyệt Thái Xung hay mạch Xung. Kinh âm dương đều liên kết với Xung mạch thuộc kỳ kinh, mạch Xung liên kết với Thận kinh nhiều, Thiếu Âm có thể là Thận, vì trên Thiếu Âm là Thái Dương ắt nói đến Túc Thái Dương Bàng Quang kinh, kinh này khởi từ huyệt Chí Âm nơi ngón út bàn chân rồi đi lên. Đấy là kinh dương có quan hệ biểu lý của Túc Thiếu Âm Thận.
  • Nửa người về trên thuộc về dương nên gọi là Quảng Minh. Dưới phần đó tức là bộ phận vận hoá, tức Tỳ và Vị, nên nói dưới Quảng Minh là Thái Âm, đằng trước Thái Âm tên Dương Minh, tức là Túc Dương Minh Vị, kinh này khởi từ huyệt Lệ Đoài, nằm ở ngón thứ hai kế ngón chân cái.
  • Quyết Âm tức là Can, biểu của nó là Túc Thiếu Dương Đởm, kinh Đởm khởi từ ngón chân thứ 4, ở đó có huyệt gọi là Khiếu Âm.
  • Tam dương tức là ba kinh dương gồm: Bàng Quang, Vị và Đởm. Bàng Quang chức năng là bài tiết ra, nó là chỗ chí dương (Thái Dương) nên nó là KHAI MỞ, Dương Minh Vị là nơi tiếp nhận, thu vào chứ không phát ra, nên nó là đóng, còn Thiếu Dương Đởm nối với Can là chỗ kết thúc chu trình , nó làm trung gian cho sự tiêu hoá của Tỳ Vị và sự bài tiết tiền âm hậu âm, nên ví với cái then chốt. Ba kinh dương này đều thuộc dương, liên kết ràng buộc nhau không thể chia tách, nên gọi là Nhất Dương. Dương tính nó phù nên mạch đập chớ nên quá phù, vì vậy mới nói rằng: “Bác nhi vật phù - Đập mà không Phù” là như thế.


Thanked by 1 Member:

#41 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 145 Bài viết:
  • 155 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 23/12/2024 - 17:42

帝曰:願聞三陰。歧伯曰:外者為陽,內者為陰,然則中為陰,其衝在下,名曰太陰,太陰根起於隱白,名曰陰中之陰。太陰之後,名曰少陰,少陰根起於涌泉,名曰陰中之少陰。少陰之前,名曰厥陰,厥陰根起於大敦,陰之絕陽,名曰陰之絕陰。是故三陰之離合也,太陰為開,厥陰為闔,少陰為樞。三經者,不得相失也。搏而勿沈,名曰一陰。陰陽�� (chữ không hiện do quá cổ),積傳為一周,氣裏形表而為相成也
Đế viết: Nguyện văn tam âm. Kỳ bá viết: Ngoại giả vi dương, nội giả vi âm, nhiên tắc trung vi âm, kỳ Xung tại hạ, danh viết Thái âm, Thái âm căn khởi ư Ẩn bạch, danh viết âm trung chi âm. Thái âm chi hậu, danh viết Thiếu âm, Thiếu âm căn khởi ư Dũng tuyền, danh viết âm trung chi thiếu âm. Thiếu âm chi tiền, danh viết Quyết âm, Quyết âm căn khởi ư Đại đôn, âm chi tuyệt dương, danh viết âm chi tuyệt âm. Thị cố tam âm chi ly hợp dã, Thái âm vi khai, Quyết âm vi hợp, Thiếu âm vi xu. Tam kinh giả, bất đắc tương thất dã. Bác nhi bất trầm, danh viết nhất âm. Âm dương tán tán, tích truyền vi nhất chu, khí lý hình biểu nhi vi tương thành dã.

Đế nói: Xin nghe Tam âm. Kỳ bá đáp: Ngoài thì là dương, trong thì là âm, tất nhiên giữa là âm, ở dưới chỗ Xung, tên gọi Thái Âm, Thái âm gốc khởi từ Ẩn Bạch, gọi là âm ở trong âm (1). Phía sau Thái Âm, gọi là Thiếu Âm, Thiếu Âm gốc khởi từ Dũng Tuyền, gọi là thiếu âm ở trong âm (2). Đàng trước Thiếu âm, gọi là Quyết Âm, Quyết Âm gốc khởi từ Đại Đôn, dương tuyệt của âm, gọi là tuyệt âm ở trong âm (3). Thế nên cái tam âm ly hợp này, Thái Âm là mở, Quyết Âm là khép, Thiếu Âm là then. Ba kinh ấy không thể bỏ nhau được. Đập mà không Trầm, tên gọi Nhất Âm (4).
Âm dương trập trùng, chuyển chứa thành một chu, lý khí hình biểu tương thành nhau là vậy (5)。

CHÚ THÍCH:
  • Thái Âm tức là Tỳ, tên đường kinh là Túc Thái Âm Tỳ, kinh đi từ ngón cái lên, ở đó có huyệt, gọi là Ẩn Bạch. Huyệt này nằm dưới cùng con người, tiếp xúc với mặt đất (khi đi thì ngón cái bám lấy đất mới khỏi ngã); vì đất là mẹ muôn vật, chức năng là nuôi dưỡng vạn vật, Tỳ là mẹ của ngũ tạng, chức năng là nuôi dưỡng thân thể, vận hoá đồ ăn sinh ra hình hài, đó là quy luật “âm thành hình”, cũng là lẽ người và trời đất tương đồng gắn kết với nhau.
  • Thiếu Âm tức là Thận, lật gan bàn chân lên, chia làm 3 phần, co ngón cái lại, đo tới hết 1/3 chính giữa nơi hõm vào có huyệt gọi là Dũng Tuyền, kinh Túc Thiếu Âm Thận ắt đầu từ đấy. Thận là tạng âm nằm ở chỗ âm, nó từ Tỳ mẹ vận hoá ra, là cái âm mới hiện ra hình, là cái âm sơ sinh, nên gọi là Thiếu âm.
  • Quyết Âm tức là Can, kinh Túc Quyết Âm Can khởi từ huyệt Đại Đôn cũng ở ngón chân cái, ngang với huyệt Ẩn Bạch. Huyệt này là chỗ dương đã dứt, nên cái âm nó là tuyệt đối.

Can là tạng dương mà ở chỗ âm, Thận là tạng âm nằm ở chỗ âm, nên Can nằm trước mà Thận nằm sau, nên gọi là “Thiếu Âm chi tiền”, cũng như Phế so với Tâm là âm so với dương, nên Tâm nằm trước Phế nằm sau vậy.

  • Thái Âm Tỳ là nới vận hoá, là chỗ tiếp nhận khí muôn vật, sinh ra huyết dịch nó đầy tràn thì phải KHAI RA, hoá thành hình hài, ví như cái cửa mở, có vào có ra, Thận là nơi huyết thành ra tinh, cũng là nơi khí dương bắt đầu sinh ra, Can là nơi huyết dịch trở về cuối ngày, kết thúc chu trình vận hành của một ngày, cho nên mới nói Thái Âm là mở, Thiếu Âm là then, Quyết Âm là khép.

Ba khí kinh dương đóng mở trong và ngoài thân mình, ba khí kinh âm đóng mở trước và sau trong nội bộ, đều thuộc dương nên gọi là Nhất Dương, đều thuộc âm thì gọi là Nhất Âm, dương tính nó bồng nổi (phù) nên mạch dương chớ nên quá Phù, âm tính nó chìm lặng nên mạch âm chớ nên quá Trầm.

  • Chữ “trập trùng” nguyên văn Hán Việt là tán tán, chữ này đặc biệt cổ, hầu như không xuất hiện ở văn bản ngày nay nữa, chữ này bên phải là chữ 雩, bên phải là chữ 重, đành tạm dịch là trập trùng hay phấp phới. Ý đoạn này nói âm và dương chồng chất đan xen với nhau, lưu chuyển liên tục không khi nào ngừng. Trong thân thể người ta bắt đầu giờ Dần khí sẽ lưu chuyển từ tạng Phế đến giờ Mão thì ở Đại Tràng, giờ Thìn ở Vị, giờ Tỵ ở Tỳ, giờ Ngọ ở Tâm...đến giờ Sửu khí huyết về chứa ở tạng Can là hết 1 chu. Chu trình này liên tục có đi có tụ, nên gọi là chuyển chứa (tích chứa rồi lại truyền đi). Khí vốn thuộc dương ở bên ngoài cũng chuyển vào trong, lại thành cái hình ở ngoài biểu, nuôi tạng nuôi phủ, có ly có hợp tương thành với nhau, tuy có khắc mà có sinh, dù phức tạp nhưng vận động không sai lạc, người và trời đất tương hợp với nhau thành sự sống, đó là lẽ huyền diệu đẹp đẽ của Dịch học vậy.

Sửa bởi Lenam098: 23/12/2024 - 17:47


Thanked by 1 Member:

#42 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 145 Bài viết:
  • 155 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 01/01/2025 - 20:54

陰陽別論篇第七
Thiên thứ bảy:
ÂM DƯƠNG BIỆT LUẬN.

KINH VĂN ________________________________________________________________________

黃帝問曰:人有四經十二從,何謂。歧伯對曰:四經應四時,十二從應十二月,十二月應十二脈。脈有陰陽,知陽者知陰,知陰者知陽。凡陽有五,五五二十五陽。所謂陰者,真藏也,見則為敗,敗必死也;所謂陽者,胃脘之陽也。別於陽者,知病處也;別於陰者,知死生之期。三陽在頭,三陰在手,所謂一也。別於陽者,知病忌時;別於陰者,知死生之期。謹熟陰陽,無與眾謀。
所謂陰陽者,去者為陰,至者為陽;靜者為陰,動者為陽;遲者為陰,數者為陽。凡持真脈之藏脈者,肝至懸絕急,十八日死;心至懸絕,九日死;肺至懸絕,十二日死;腎至懸絕,七日死;脾至懸絕,四日死。

Hoàng Đế vấn viết: Nhân hữu tứ kinh thập nhị tòng, hà vị. Kỳ Bá đối viết: Tứ kinh ứng tứ thời, thập nhị tòng ứng thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt ứng thập nhị mạch. Mạch hữu âm dương, tri dương giả tri âm, tri âm giả tri dương. Phàm dương hữu ngũ, ngũ ngũ nhị thập ngũ dương. Sở vị âm giả, chân tàng dã, kiến tắc vi bại, bại tất tử dã; sở vị dương giả, vị quản chi dương dã. Biệt ư dương giả, tri bệnh xứ dã; biệt ư âm giả, tri tử sinh chi kỳ. Tam dương tại đầu, tam âm tại thủ, sở vị nhất dã. Biệt ư dương giả, tri bệnh kỵ thời; biệt ư âm giả, tri tử sinh chi kỳ. Cẩn thục âm dương, vô dữ chúng mưu.
Sở vị âm dương giả, khứ giả vi âm, chí giả vi dương; tĩnh giả vi âm, động giả vi dương; trì giả vi âm, sác giả vi dương. Phàm trì chân mạch chi tạng mạch giả, can chí huyền tuyệt cấp, thập bát nhật tử; tâm chí huyền tuyệt, cửu nhật tử; phế chí huyền tuyệt, thập nhị nhật tử; thận chí huyền tuyệt, thất nhật tử; tỳ chí huyền tuyệt, tứ nhật tử.
Hoàng Đế hỏi: "Người có bốn kinh mười hai tùng, thế nào?" Kỳ Bá đáp: "Bốn kinh ứng bốn mùa, mười hai tùng ứng mười hai tháng, mười hai tháng ứng mười hai mạch. Mạch có âm dương, biết dương thì biết âm, biết âm thì biết dương. Phàm dương có năm, năm lần năm hai mươi lăm dương. Cái gọi là âm, là chân tạng, thấy ắt là bại, bại thì tất chết; cái gọi là dương, là dương của Vị Quản (1). Phân biệt được dương, biết được nơi bệnh; phân biệt được âm, biết kỳ sống chết. Ba dương ở đầu, ba âm ở tay, cũng chỉ là một. Phân biệt được dương, biết thời kiêng kị; phân biệt được âm, biết kỳ sống chết. Cẩn nắm âm dương, chớ dự lời bàn.
Cái gọi là âm dương, đi thì là âm, đến thì là dương; tĩnh thì là âm, động thì là dương; chậm thì là âm, nhanh thì là dương (2). Phàm nắm cái chân mạch của tạng mạch, Can quá HUYỀN TUYỆT mà CẤP, mười tám ngày chết; Tâm quá HUYỀN TUYỆT, chín ngày chết; Phế quá HUYỀN TUYỆT, mười hai ngày chết; Thận quá HUYỀN TUYỆT, bảy ngày chết; Tỳ quá HUYỀN TUYỆT, bốn ngày chết."

CHÚ THÍCH:

Chương này dạy phân biệt hai điều căn bản là âm dương, đấy là gốc của sống chết, biết nó thì biết bệnh ở đâu, nặng hay nhẹ .sống hay chết. Vì những chương trước bàn về hai lẽ âm dương và sự liên hệ các bộ phận trên cơ thể, ở đâu cũng đều theo một quy luật, nên biết phân biệt âm dương thì xét đoán từ gốc rễ nó không còn phân vân sai lầm.

  • Mượn chú thích của thầy Nguyễn Tử Siêu: “Năm tạng thuộc âm. Nghĩa chữ “TẠNG” tức là “Tàng” (cất dấu) ; “THẦN” tàng ở đó mà không phát hiện ra bên ngoài. Sở dĩ không phát hiện ra bên ngoài là nhờ có cái khí Dương-hòa của Vị-khí. Nếu vị khí không có thời mạch của Chân-tạng sẽ phát hiện, thế tức là Tạng-khí bại, bại thời tất phải CHẾT. Trên kia nói “hai mươi lăm phần Dương” tức là chỉ về cái dương-khí do Vị-quản sinh ra.

Vị-quản ở vào bộ phận Trung-Tiêu. Chuyên chủ về biến hóa cái tinh-khí của thủy-cốc để tư dưỡng 5 Tạng. Xét về mạch của 4 mùa thời : mùa Xuân mạch HUYỀN, mùa Hạ mạch HỒNG, mùaThu mạch PHÙ, mùa đông mạch TRẦM, mùa TrưởngHạ mạch HÒA-HOÃN (tức là dịu dàng, êm ái, tượng mạch của Thổ).

Xét về chính mạch của 5 Tạng thời : Can mạch HUYỀN, Tâm mạch HỒNG, Tỳ mạch HOÃN, Phế mạch SẮC, Thận mạch TRẦM. Như : về mùa Xuân Can-mạch hơi Huyền mà Trường ; Tâm-mạch hơi Huyền mà Hồng ; Tỳ-mạch hơi Huyền mà Hoãn ; Phế-mạch hơi Huyền mà Sắc ; Thận-mạch hơi Huyền mà Trầm…. Về mùa Hạ : Can-mạch thời hơi Hồng mà Huyền ; Tâm-mạch hơi Hồng mà đại ; Tỳ mạch hơi Hồng mà Hoãn ; Phế-mạch hơi Hồng mà Sắc ; Thận-mạch hơi Hồng mà Trầm. v.v….. Bốn mùa, năm tạng, lúc nào cũng có kiêm cả cái VỊ-KHÍ hơi hòa….. như thế là 25 phần Dương vậy”.

  • Ở đây dạy phân biệt âm dương của mạch, mạc có hai mươi bảy bộ, khác nhau nhiều dạng nhưng đều hiện ra âm hay dương, đấy là phép chẩn đoán cơ bản trong bát pháp.

HUYỀN TUYỆT: quá hết sạch không còn một chút Vị khí dương hoà nào.

Chỗ nói là 18 ngày chết, là nói đến ngày tương khắc của nó, ví dụ tạng Can thuộc Giáp Ất, hành mộc, thời đếm hết kì nhật thìn, đến ngày can Canh Tân thì chết, vì kim khắc mộc, khoảng đó tầm 18 ngày. Tạng Tâm mà vị khí đã rỗng không, thì đến ngày thuộc thuỷ tất phải chết, vì Tâm thuộc hoả, tính từ Bính Đinh, đến Nhâm Quý tất là chết. Các tạng khác cũng kể như vậy.



Thanked by 1 Member:

#43 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 145 Bài viết:
  • 155 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 03/01/2025 - 08:47

曰:二陽之病,發心脾,有不得隱曲,女子不月;其傳為風消,其傳為息賁者,死不治。曰:三陽為病,發寒熱,下為癰腫,及為痿厥腨㾓;其傳為索澤,其傳為頹疝。曰:一陽發病,少氣善欬善泄;其傳為心掣,其傳為隔。二陽一陰發病,主驚駭背痛,善噫善欠,名曰風厥。二陰一陽發病,善脹心滿善氣。三陽三陰發病,為偏枯痿易,四支不舉。
Viết: nhị dương chi bệnh, phát tâm tỳ, hữu bất đắc ẩn khúc, nữ tử bất nguyệt; kỳ truyền vi phong tiêu, kỳ truyền vi tức bôn giả, tử bất trị. Viết: tam dương vi bệnh, phát hàn nhiệt, hạ vi ung thũng, cập vi nuy quyết xuyên quyên; kỳ truyền vi tác trạch, kỳ truyền vy đồi sán. Viết: nhất dương phát bệnh, thiểu khí thiện khái thiện tiết; kỳ truyền vi tâm xiết, kỳ truyền vi cách. Nhị dương nhất âm phát bệnh, chủ kinh hãi bối thống, thiện ái thiện khiếm, danh viết phong quyết. Nhị âm nhất dương phát bệnh, thiện trướng tâm mãn thiện khí. Tam dương tam âm phát bệnh, vi thiên khô nuy dịch, tứ chi bất cử.

Nói: Bệnh của Nhị Dương, phát từ Tâm Tỳ, có uất kết bế tắc, con gái mất kinh; nó truyền thành Phong Tiêu, lại truyền thành chứng Tức Bôn, chết khó chữa.
Rằng: Bệnh của Tam Dương, phát hàn nhiệt, dưới thành nhọt thũng, kíp thành Nuy Quyết – Xuyên Quyên (1);truyền biến thì da khô, truyền biến thành Đồi Sán. Bảo: Nhất Dương phát bệnh, thiếu khí dễ ho dễ tiết; nó truyền thành Tâm Xiết, truyền thành chứng Cách. Nhị Dương - Nhất Âm phát bệnh, chủ về kinh hãi đau lưng, hay ợ, hay ngáp, gọi là Phong Quyết. Nhị âm nhất dương phát bệnh, tâm thường đầy trướng, thở dài. Tam Dương Tam Âm phát bệnh, gây Thiên Khô – Nuy Dịch, tứ chi bất động.

CHÚ THÍCH:
Nhất Dương, Nhị Dương, Tam Dương, Nhất Âm, Nhị Âm, Tam Âm: xin xem thiên Âm Dương li hợp luận, có đoạn Hoàng Đế hỏi Kì Bá về tam âm tam dương, Kì Bá kể ra lần lượt gồm Thái Dương, Dương Minh, Thiếu Dương là 3 dương, biểu lý với tam âm gồm Tỳ, Can và Thận. Tính từ mới sinh gọi là Thiếu Dương, hình thành rõ gọi là Dương Minh, đến khi dương toàn, lớn hết mức, chuẩn bị sang âm gọi là Thái Dương, ví như Mặt Trời mới mọc, mọc lên rõ ràng và khi rực rỡ giữa trưa vậy. Thứ tự này tính theo 1 chu trình của tạng phủ: Bắt đầu từ giờ Tý là Túc Thiếu Dương Đởm, rồi đến giờ Sửu là Túc Quyết Âm Can...vv.. Dương kinh thuộc phủ, Âm kinh thuộc tạng, thứ tự cứ như vậy.
  • Nhất dương tức là Túc Thiếu-Dương Đởm Kinh. Nó là chỗ dương khí sơ sinh, bệnh ở đấy thì khí thành ra thiếu hụt, nên hay thở gấp, hay hụt hơi. Thiếu Dương có ẩn Tướng Hoả, hoả động lấn đến Phế kim, Phế bị khắc phạm thành ra hay ho. Kim suy thì Mộc phát, tà của Phong Mộc nhân đó phạm đến Tỳ thổ, ảnh hưởng đến tiêu hoá, lại vì tướng hoả bị thương nên khiến dễ tiết tả, tức là đi phân sống, nát. Bình thường Tỳ vận hoá thành huyết, Tỳ đã bị thương dẫn đến huyết thiếu, Tâm không có tư dưỡng, thành ra suy hư, gọi là chứng Tâm Xiết (theo nghĩa đen của chữ thì là teo cơ tim). Cũng bởi Tỳ bị thương, ở bộ phận giữa (Trung thổ) không đặng, ăn vào không vận hoá xuống dưới được, phải nôn ra, gọi là chứng Cách.
  • Nhị Dương tức là Túc Dương Minh Vị kinh. Tâm bị uất kết, huyết không sinh dưỡng được Tỳ nữa. Tỳ bị thương thì Vị dần cũng hư hao, bởi vì Vị là biểu của nó, nên nói bệnh của Nhị Dương (Vị) phát từ Tâm và Tỳ. Tỳ Vị là cơ quan vận hoá, sinh ra tinh huyết, nay nó đã bị thương thì tinh huyết đều khô cạn. Huyết dịch khô, khí lại uất kết, nhiệt sẽ sinh ra. Nhiệt cực thì phong sinh. Nhiệt lại làm huyết dịch càng khô, cơ thịt không được tưới dưỡng nên tiêu héo, gọi là chứng Phong Tiêu. Nhiệt ấy phạm lên Phế, gây ra chứng thở gấp, gọi là Tức Bôn (Tức là thở, Bôn là khí nó nghịch lên). Bệnh này tuy thể hiện ở Túc Dương Minh Vị, nhưng gốc nó ở Tâm và Tỳ, lại phạm đến Phế. Tỳ là mẹ của 5 tạng, Phế chủ về hơi thở, Tâm là quân chủ thần minh, 3 tạng chủ chốt đã hư suy thì không thể sống được.
  • Tam Dương tức Túc Thái-Dương Bàng Quang Kinh. Kinh Thái Dương là dương toàn, nó chủ về dương khí ngoài biểu. Tà khí phạm vào bì mao ngoài đấy xung đột với chính khí, thành ra chứng Hàn Nhiệt (nóng lạnh), Thái Dương năng lực của nó là khai thông, nay nó đã bệnh thì không thể khai thông nữa, tà khí tụ vào thịt gây chứng ung thũng, chứng này hiện ra hình nên thuộc về âm, ở bộ phận dưới. Thái Dương chủ phần dương, thuộc về khí và gân, nay gân bị thương, thành ra chứng Nuy Quyết (co rút gân) và Xuyên Quyên (đau mỏi ở gân mạch nơi bộ phận dưới – chữ này là chữ rất cổ, không có trong từ điển hiện đại nên khá khó tìm hiểu nguyên nghĩa).
  • Nhất Âm tức là Can, tên đầy đủ kinh này là Túc Quyết Âm Can, nó là nơi dương tuyệt, âm toàn, thành thử gọi là Quyết Âm (chỉ có âm mà thôi).
  • Nhị Âm tức là Thiếu Âm Thận, nó từ chỗ Quyết Âm mới ra, mới thành hình, ví như con gái mới sinh, nên gọi là Thiếu Âm. Thận khí mắc bệnh, tà khí ấy phạm vào Tâm, nên thành ra Tâm đầy, bởi khí đầy nên thở dài để xả khí ra. Còn bị trướng là do Đởm bệnh, Đởm tà là biểu của Can, tà khí ấy theo đường khắc mà phạm vào Tỳ thổ, nên đầy trướng bụng.
  • Tam Âm tức là Thái Âm Tỳ, Tỳ là mẹ của 5 tạng, gọi là Thái Âm. Tỳ bệnh mà Bàng Quang cũng bệnh (Tam Dương là Bàng Quang), thì tà khí nó khu trú ở các đường kinh liên quan. Mạch của Bàng Quang từ đầu lưng dẫn xuống chân, mạch của Tỳ chủ về tứ chi, cho nên chứng trạng cũng theo đó mà hiện ra như vậy.
Thiên Khô: khô đét một nửa người.
Nuy Dịch: tay chân rã rời, lúc ở bên tả, lúc ở bên hữu, hàng biến dịch luôn.

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

11 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 11 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |  
Vượng
Thịnh
Khang
An