Jump to content

Advertisements




Bản dịch Hoàng Đế Nội Kinh - Tố Vấn


49 replies to this topic

#46 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 154 Bài viết:
  • 162 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 13/03/2025 - 10:10

靈蘭秘典論篇第八
Thiên thứ tám:
LINH LAN BÍ ĐIỂN LUẬN.

KINH VĂN ________________________________________________________________________

黃帝問曰:願聞十二藏之相使,貴賤何如。歧伯對曰:悉乎哉問也,請遂言之。心者,君主之官也,神明出焉。肺者,相傅之官,治節出焉。肝者,將軍之官,謀慮出焉。膽者,中正之官,決斷出焉。膻中者,臣使之官,喜樂出焉。脾胃者,倉廩之官,五味出焉。大腸者,傳道之官,變化出焉。小腸者,受盛之官,化物出焉。腎者,作強之官,伎巧出焉。三焦者,決瀆之官,水道出焉。膀胱者,州都之官,津液藏焉,氣化則能出矣。
Hoàng Đế vấn viết: nguyện văn thập nhị tạng chi tương sứ, quý tiện hà như. Kỳ Bá đối viết: tất hồ tai vấn dã, thỉnh toại ngôn chi.
Tâm giả, quân chủ chi quan dã, thần minh xuất yên. Phế giả, tướng phó chi quan, trị tiết xuất yên. Can giả, tướng quân chi quan, mưu lự xuất yên. Đảm giả, trung chính chi quan, quyết đoán xuất yên. Đản trung giả, thần sử chi quan, hỷ lạc xuất yên. Tỳ vị giả, thương lẫm chi quan, ngũ vị xuất yên. Đại trường giả, truyền đạo chi quan, biến hoá xuất yên. Tiểu trường giả, thâu thịnh chi quan, hoá vật xuất yên. Thận giả, tác cường chi quan, kỹ xảo xuất yên. Tam tiêu giả, quyết độc chi quan, thuỷ đạo xuất yên. Bàng quang giả, châu đô chi quan, tân dịch tàng yên, khí hoá tắc năng xuất hĩ
Hoàng Đế hỏi rằng: “Mong nghe sứ mệnh mười hai tạng phủ, quý tiện thế nào?”. Kỳ Bá trả lời: “Hỏi thật thấu đáo thay, xin được y lời”.
Tạng Tâm là cơ quan Quân Chủ, thần minh phát từ đó (1). Tạng Phế, cơ quan Tể tướng, trị tiết (2) chính từ đó. Tạng Can, cơ quan tướng quân, mưu tính xuất từ đó. Phủ Đởm, cơ quan trung chính, quyết đoán ở từ đó. Chỗ Đản Trung, cơ quan sứ thần, vui sướng bởi từ đó. Chỗ Tỳ Vị, cơ quan kho vựa, 5 vị hóa từ đó (3). Phủ Đại Trường, cơ quan đường dẫn, biến hoá từ đó. Phủ Tiểu Trường, cơ quan thâu thịnh, vật hoá từ đó (4). Tạng Thận, cơ quan hăng mạnh, kĩ xảo từ đó. Chỗ Tam Tiêu, cơ quan khơi ngòi, dòng lạch từ đó. Phủ Bàng Quang, cơ quan bến chợ (5), tân dịch chứa đấy, khí hoá thì tiết ra vậy.

CHÚ THÍCH:
  • Tâm thuộc hoả, phương Nam, tượng của Mặt Trời, sáng suốt trên cao hơn mọi vật. nên ví như vua của tạng phủ. Nó cai quản huyết mạch, 12 kinh mạch đều lấy nó làm chủ.
  • Nguyên chữ “trị tiết” chiết tự thì trị 治 là cai trị, tiết 節là hiệu lệnh, phàm những thứ được sắp xếp thành mạch, có thứ lớp trật tự, đầu mối đoạn mạch rõ ràng gọi là tiết (ví dụ đoạn văn, tiết học, thời tiết, tiết khí...). Ở đây Phế gần với Tâm, mà Tâm ví như vua của 5 tạng, tàng chứa thần minh, Phế ví như Thủ tướng, cầm hiệu lệnh điều tiết (Phế chủ phần khí, lại thông điều thuỷ đạo, thúc đẩy huyết dịch lưu thông, nên phần âm (huyết dịch) và dương (khí) đều do nó điều tiết). Vì chữ này khó dịch nên xin giữ nguyên.
  • Xem thiên: Sinh khí thông thiên luận: ngũ phương sinh ngũ vị, Tỳ thổ là Thái Âm, nó là cơ quan vận hoá nên vật ăn vào từ đó mà chuyển lại trở thành ngũ vị, nên nói: 5 vị từ Tỳ Vị mà ra! Y học hiện đại cũng quan niệm như vậy. Ví dụ như khi bạn ăn thịt cá:
  • Miệng: Thức ăn được nghiền nát và trộn lẫn với nước bọt, bắt đầu quá trình phân giải các phân tử lớn thành các phân tử nhỏ hơn.
  • Dạ dày: Thức ăn được đưa xuống dạ dày, nơi axit dạ dày và các enzyme tiêu hóa tiếp tục phân hủy protein trong thịt cá thành các chuỗi axit amin.
  • Ruột non: Đây là nơi diễn ra quá trình hấp thu chính. Các enzyme từ tuyến tụy và ruột non tiếp tục phân giải các chuỗi axit amin thành các axit amin đơn lẻ. Các axit amin này sau đó được hấp thụ vào máu qua thành ruột non.
  • Máu: Các axit amin được vận chuyển đến các tế bào trên khắp cơ thể.
  • Tế bào: Tại đây, các axit amin được sử dụng để xây dựng và sửa chữa các mô, tạo ra các enzyme và hormone mới, hoặc được chuyển hóa thành năng lượng.

​4. Đại Trường là ống thông để truyền tống cặn bã ra ngoài, tiểu trường là nơi chứa đựng thuỷ cốc của Vị truyền xuống, thâu nhận tinh hoa của vật để hoá nó.

5. Thức ăn vào Vị, lọc lấy phần nước xuống Hạ Tiêu, thấm vào Bàng Quang. Bàng Quang nó là thuỷ phủ, chất nước đều chứa ở đó., vì vậy ví nó như bến chợ nơi các dòng chảy hội họp. Chỗ đó có khí hoá thì nước thải bèn tiết ra được.


Sửa bởi Lenam098: 13/03/2025 - 10:13


Thanked by 1 Member:

#47 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 154 Bài viết:
  • 162 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 15/04/2025 - 11:17

靈蘭秘典論篇第八
Thiên thứ tám:
LINH LAN BÍ ĐIỂN LUẬN.

KINH VĂN ________________________________________________________________________

黃帝問曰:願聞十二藏之相使,貴賤何如。歧伯對曰:悉乎哉問也,請遂言之。心者,君主之官也,神明出焉。肺者,相傅之官,治節出焉。肝者,將軍之官,謀慮出焉。膽者,中正之官,決斷出焉。膻中者,臣使之官,喜樂出焉。脾胃者,倉廩之官,五味出焉。大腸者,傳道之官,變化出焉。小腸者,受盛之官,化物出焉。腎者,作強之官,伎巧出焉。三焦者,決瀆之官,水道出焉。膀胱者,州都之官,津液藏焉,氣化則能出矣。
Hoàng Đế vấn viết: nguyện văn thập nhị tạng chi tương sứ, quý tiện hà như. Kỳ Bá đối viết: tất hồ tai vấn dã, thỉnh toại ngôn chi.
Tâm giả, quân chủ chi quan dã, thần minh xuất yên. Phế giả, tướng phó chi quan, trị tiết xuất yên. Can giả, tướng quân chi quan, mưu lự xuất yên. Đảm giả, trung chính chi quan, quyết đoán xuất yên. Đản trung giả, thần sử chi quan, hỷ lạc xuất yên. Tỳ vị giả, thương lẫm chi quan, ngũ vị xuất yên. Đại trường giả, truyền đạo chi quan, biến hoá xuất yên. Tiểu trường giả, thâu thịnh chi quan, hoá vật xuất yên. Thận giả, tác cường chi quan, kỹ xảo xuất yên. Tam tiêu giả, quyết độc chi quan, thuỷ đạo xuất yên. Bàng quang giả, châu đô chi quan, tân dịch tàng yên, khí hoá tắc năng xuất hĩ
Hoàng Đế hỏi rằng: “Mong nghe sứ mệnh mười hai tạng phủ, quý tiện thế nào?”. Kỳ Bá trả lời: “Hỏi thật thấu đáo thay, xin được y lời”.
Tạng Tâm là cơ quan Quân Chủ, thần minh phát từ đó (1). Tạng Phế, cơ quan Tể tướng, trị tiết (2) chính từ đó. Tạng Can, cơ quan tướng quân, mưu tính xuất từ đó. Phủ Đởm, cơ quan trung chính, quyết đoán ở từ đó. Chỗ Đản Trung, cơ quan sứ thần, vui sướng bởi từ đó. Chỗ Tỳ Vị, cơ quan kho vựa, 5 vị hóa từ đó (3). Phủ Đại Trường, cơ quan đường dẫn, biến hoá từ đó. Phủ Tiểu Trường, cơ quan thâu thịnh, vật hoá từ đó (4). Tạng Thận, cơ quan hăng mạnh, kĩ xảo từ đó. Chỗ Tam Tiêu, cơ quan khơi ngòi, dòng lạch từ đó. Phủ Bàng Quang, cơ quan bến chợ (5), tân dịch chứa đấy, khí hoá thì tiết ra vậy.

CHÚ THÍCH:
  • Tâm thuộc hoả, phương Nam, tượng của Mặt Trời, sáng suốt trên cao hơn mọi vật. nên ví như vua của tạng phủ. Nó cai quản huyết mạch, 12 kinh mạch đều lấy nó làm chủ.
  • Nguyên chữ “trị tiết” chiết tự thì trị 治 là cai trị, tiết 節là hiệu lệnh, phàm những thứ được sắp xếp thành mạch, có thứ lớp trật tự, đầu mối đoạn mạch rõ ràng gọi là tiết (ví dụ đoạn văn, tiết học, thời tiết, tiết khí...). Ở đây Phế gần với Tâm, mà Tâm ví như vua của 5 tạng, tàng chứa thần minh, Phế ví như Thủ tướng, cầm hiệu lệnh điều tiết (Phế chủ phần khí, lại thông điều thuỷ đạo, thúc đẩy huyết dịch lưu thông, nên phần âm (huyết dịch) và dương (khí) đều do nó điều tiết). Vì chữ này khó dịch nên xin giữ nguyên.
  • Xem thiên: Sinh khí thông thiên luận: ngũ phương sinh ngũ vị, Tỳ thổ là Thái Âm, nó là cơ quan vận hoá nên vật ăn vào từ đó mà chuyển lại trở thành ngũ vị, nên nói: 5 vị từ Tỳ Vị mà ra! Y học hiện đại cũng quan niệm như vậy. Ví dụ như khi bạn ăn thịt cá:
  • Miệng: Thức ăn được nghiền nát và trộn lẫn với nước bọt, bắt đầu quá trình phân giải các phân tử lớn thành các phân tử nhỏ hơn.
  • Dạ dày: Thức ăn được đưa xuống dạ dày, nơi axit dạ dày và các enzyme tiêu hóa tiếp tục phân hủy protein trong thịt cá thành các chuỗi axit amin.
  • Ruột non: Đây là nơi diễn ra quá trình hấp thu chính. Các enzyme từ tuyến tụy và ruột non tiếp tục phân giải các chuỗi axit amin thành các axit amin đơn lẻ. Các axit amin này sau đó được hấp thụ vào máu qua thành ruột non.
  • Máu: Các axit amin được vận chuyển đến các tế bào trên khắp cơ thể.
  • Tế bào: Tại đây, các axit amin được sử dụng để xây dựng và sửa chữa các mô, tạo ra các enzyme và hormone mới, hoặc được chuyển hóa thành năng lượng
  • Đại Trường là ống thông để truyền tống cặn bã ra ngoài, tiểu trường là nơi chứa đựng thuỷ cốc của Vị truyền xuống, thâu nhận tinh hoa của vật để hoá nó.
  • Thức ăn vào Vị, lọc lấy phần nước xuống Hạ Tiêu, thấm vào Bàng Quang. Bàng Quang nó là thuỷ phủ, chất nước đều chứa ở đó., vì vậy ví nó như bến chợ nơi các dòng chảy hội họp. Chỗ đó có khí hoá thì nước thải bèn tiết ra được.


Thanked by 1 Member:

#48 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 154 Bài viết:
  • 162 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 29/04/2025 - 19:20

凡此十二官者,不得相失也。故主明則下安,以此養生則壽,歿世不殆,以為天下則大昌。主不明則十二官危,使道閉塞而不通,形乃大傷,以此養生則殃,以為天下者,其宗大危,戒之戒之。
Phàm thử thập nhị quan giả, bất đắc tương thất dã. Cố chủ minh tắc hạ an, dĩ thử dưỡng sinh tắc thọ, một thế bất đãi, dĩ vi thiên hạ tắc đại xương. Chủ bất minh tắc thập nhị quan nguy, sử đạo bế tắc nhi bất thông, hình nãi đại thương, dĩ thử dưỡng sinh tắc ương, dĩ vi thiên hạ giả, kỳ tông đại nguy, giới chi giới chi.
Phàm mười hai cơ quan này, không để mất nhau đặng. Nếu vua sáng bề tôi yên, dưỡng sinh theo đấy được thọ, hết kiếp không khốn, trị dân theo đấy rất thịnh vượng (1). Chúa tối thì mười hai tạng nguy khốn, sứ đạo bế tắc mà không thông, hình thể trọng thương (2), lấy đó dưỡng sinh thì tai ương, lấy đó trị thiên hạ, chỗ gốc nguy lớn, răn lấy răn lấy.
CHÚ THÍCH:
  • Tâm thuộc quẻ Ly, lẽ nó phải sáng không thể tối được, ví như quân chủ, vua sáng thì các quan đều vui giữ chức vụ, vua u tối mê muội, bỏ bê triều dã, các quan cũng bê tha chức trách. Ví như trị thiên hạ cũng tương tự, ở đây Kì Bá so sánh để Hoàng Đế hiểu rõ.
  • Sứ đạo: Tâm Bào Lạc là cơ quan sứ thần (thần sử), thay quân chủ thi hành mệnh lệnh mà chủ về mạch (tức là huyết mạch). Thần khí rối loạn thì huyết mạch ngừng đọng, sứ đạo sẽ bị vít lấp. Huyết khí đầy ở da, nóng vào thịt, thấm ra bì phu, mọc lông tóc, nhuận gân xương, dịu quan tiết (tức các khớp). Nếu huyết mạch không thông thời thân hình còn toàn sao được. Do lẽ đó, nên con người phải cẩn thận bảo vệ lắm mới được - Nguyễn Tử Siêu


Thanked by 1 Member:

#49 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 154 Bài viết:
  • 162 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 18/05/2025 - 19:22

至道在微,變化無窮,孰知其原;窘乎哉,消者瞿瞿,孰知其要;閔閔之當,孰者為良。恍惚之數,生於毫氂,毫氂之數,起於度量,千之萬之,可以益大,推之大之,其形乃制。
黃帝曰:善哉,余聞精光之道,大聖之業,而宣明大道,非齋戒擇吉日,不敢受也。黃帝乃擇吉日良兆,而藏靈蘭之室,以傳保焉。
Chí đạo tại vi, biến hoá vô cùng, thục tri kỳ nguyên; quẫn hồ tai, tiêu giả cù cù, thục tri kỳ yếu; mẫn mẫn chi đương, thục giả vi lương. Hoảng dịch chi số, sinh ư hào Ly, hào Ly chi số, khởi ư độ lượng, thiên chi vạn chi, khả dĩ ích đại, thôi chi đại chi, kỳ hình nãi chế. Hoàng đế viết: thiện tai, dư văn tinh quang chi đạo, đại thánh chi nghiệp, nhi tuyên minh đại đạo, phi trai giới trạch cát nhật, bất cảm thâu dã. Hoàng đế nãi trạch cát nhật lương triệu, nhi tàng linh lan chi thất, dĩ truyền bảo yên.
Đạo cả từ bé (1), biến hoá vô cùng, ai biết chỗ khởi; Rối đầu thay! Mờ ảo mù mù, ai hiểu mấu chốt; lo lắng đảm đương, ai đảm hiền lương? Số Dịch mờ ảo, sinh từ hào Ly, số của hào Ly, nảy từ đoạn lượng, hàng ngàn hàng vạn, lớn nữa hết sức, dồn đến cùng cực, mới thành ra hình (2).
Hoàng Đế nói: Lành thay! Trẫm nghe được đạo sáng tỏ, công bậc đại thánh, nay tuyên rõ đạo lớn, chưa chọn ngày tốt trai giới, nào dám thâu nhận. Hoàng Đế bèn chọn ngày tốt điềm lành, đem vào nhà Linh Lan (3) cất, truyền giữ gìn kĩ.

CHÚ THÍCH:
  • Nguyên nghĩa câu chí đạo tại vi: có thể dịch là chỗ cao nhất của Đạo nằm ở cái nhỏ nhất, quan điểm này gần giống vật lý lượng tử, lại nói thêm: nó biến hoá vô cùng, ai có thể biết được nó nguyên là thứ gì? Quan điểm này lại giống cả vật lý lượng tử và Phật giáo: vũ trụ vĩ mô xuất phát từ lượng tử vi mô, bản chất lượng tử cũng không cố định, nó có tính bất định: nó chỉ là ảo ảnh vật lý, tồn tại của nó không bị ràng buộc về thời gian và không gian, nó xuất hiện và biến mất theo xác suất, cũng như những chấm nhỏ trên màn ảnh ti vi tạo thành ảnh sự vật! Vì thế câu chí đạo tại vi rất khó dịch ngắn gọn sát nghĩa, đành xin phép dịch như trên.
  • Hoảng Dịch chi số nghĩa đen là số dịch hốt hoảng, hoảng tức là hoảng hốt, nghĩa trong câu dịch là mờ ảo mới đúng, vì chữ hoảng hốt nghĩa ban đầu chỉ sự mơ hồ không nhớ rõ cái gì. Riêng chữ đoạn lượng là người dịch gắng chuyển nghĩa đen chữ “độ lượng”, độ là phân thành từng đoạn, lượng là phân rõ để cân đếm xem nó bao nhiêu. Ý đoạn này nói rằng số Dịch xuất phát từ chỗ không có gì rõ ràng đến chỗ thành cái rõ ràng, có số đo đếm, có nguyên lý vận hành, nên còn gọi là lý số! Nếu liên hệ một chút ta sẽ thấy chỗ hình dung này tiếp tục giống khoa học lượng tử đến kinh ngạc: ở cấp độ lượng tử, mọi vật đều không có gì rõ ràng, chúng chỉ là những xác suất tồn tại nhất định, chỉ trở thành ổn định khi có quan sát, tức là mỗi xác suất của chúng ứng với một tình huống tiến triển người quan sát như một kiểu sắp đặt. Khi đã ổn định thì từ đó ta mới có các hạt, mới có nguyên tử, rồi đến phân tử, và cuối cùng đến những vật chất vi mô, rồi mới đến thế giới vĩ mô. (hàng ngàn hàng vạn, có thể lớn mãi, lớn đến cùng cực, mới ra cái hình ..) Điểm vi diệu ở chỗ từng thứ tuy nhỏ bé và vô số nhưng đều tương tác với nhau không sai lệch, bởi vì nếu chúng không ổn định, sai lệch, thì ta sẽ thấy một trái xoài hay trái ở chập chờn bất định như cái màn hình lỗi vậy, và điều đó tất nhiên không xảy ra, đấy chính là nghĩa lý chữ đoạn lượng – từ chỗ mơ hồ đến chỗ rõ ràng, đã mơ hồ thì không rõ ràng, đã thành rõ ràng thì chính xác không mơ hồ!


Thanked by 1 Member:

#50 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 154 Bài viết:
  • 162 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 27/07/2025 - 16:57

六節藏象論篇第九
Thiên thứ chín:
LỤC TIẾT TẠNG TƯỢNG LUẬN.

KINH VĂN ________________________________________________________________________

黃帝問曰:余聞天以六六之節,以成一歲,人以九九制會,計人亦有三百六十五節以為天地久矣,不知其所謂也。歧伯對曰:昭乎哉問也,請遂言之。夫六六之節,九九制會者,所以正天之度、氣之數也。天度者,所以制日月之行也;氣數者,所以紀化生之用也。
天為陽,地為陰;日為陽,月為陰。行有分紀,周有道理,日行一度,月行十三度而有奇焉,故大小月三百六十五日而成歲積氣餘而盈閏矣。立端於始,表正於中,推餘於終,而天度畢矣。
Hoàng đế vấn viết: dư văn thiên dĩ lục lục chi tiết, dĩ thành nhất tuế, nhân dĩ cửu cửu chế hội, kế nhân diệc hữu tam bách lục thập ngũ tiết dĩ vi thiên địa cửu hĩ, bất tri kỳ sở vị dã. Kỳ bá đối viết: chiêu hồ tai vấn dã, thỉnh toại ngôn chi. Phù lục lục chi tiết, cửu cửu chế hội giả, sở dĩ chính thiên chi độ, khí chi sổ dã. Thiên độ giả, sở dĩ chế nhật nguyệt chi hành dã; khí sổ giả, sở dĩ kỷ hoá sinh chi dụng dã.
Thiên vi dương, địa vi âm; nhật vi dương, nguyệt vi âm. Hành hữu phân kỷ, chu hữu đạo lý, nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ nhi hữu kỳ yên, cố đại tiểu nguyệt tam bách lục thập ngũ nhật nhi thành tuế tích khí dư nhi doanh nhuận hĩ. Lập đoan ư thuỷ, biểu chính ư trung, thôi dư ư chung, nhi thiên độ tất hĩ.
Hoàng Đế hỏi rằng: “Ta nghe trời có tiết sáu sáu (1) , để thành một năm, người đặt theo hội chín chín (2), kể người cũng có ba trăm sáu mươi lăm tiết để cùng trời đất lâu dài, chẳng biết đúng vậy hay chăng?”. Kỳ Bá đáp rằng: “Hỏi thật thấu đáo thay, xin được y lời. Phàm tiết sáu sáu, chế hội chín chín kia, chính là để định độ trời, số khí vậy. Phàm độ trời, là đặt theo sự vận hành của nhật nguyệt; phàm tiết khí, là ghi theo công dụng của hóa sinh.
Trời là dương, đất là âm, nhật là dương, nguyệt là âm. Vận hành có chia kì (3), tuần hoàn có đạo lý, Mặt Trời đi một độ, Mặt Trăng đi mười ba độ tính cả phần lẻ, nên tháng lớn nhỏ ba trăm sáu lăm ngày mà thành năm, tích khí dư mà thành tháng nhuận vậy. Lập mối ở đầu, chính xác ở giữa, dồn dư về cuối, thế là độ trời thành đặng!
CHÚ THÍCH:
  • Sáu sáu tức là nhắc đến thiên Can, vì Can thuộc dương hợp với trời. 10 Can nhân sáu lần sáu là 360 tức là đúng 1 vòng tròn 360 độ. Mỗi ngày Mặt Trời đi 1 độ, đi hết 360 với mấy ngày dư thì hết 1 vòng. Tiết là chỉ 1 giai đoạn được chia đặt theo quy luật.
  • Người đặt theo số hợp chín chín là nhắc đến lẽ tam tài, vì số 3 hợp thành thiên, số 3 hợp thành địa, số 3 hợp thành nhân, là số 9 vậy. Nên người có 9 khiếu, đất có 9 châu.
  • Chữ kì nguyên văn là kỉ 紀. Kỉ ở đây là một kì 12, thường là 12 năm, gọi là kỉ. Ở đây Kỳ Bá giải thích: Mặt Trời mỗi năm đi mới được một vòng, vậy mỗi ngày nó đi được 1 độ. Mặt Trăng mỗi tháng đi được một vòng, vậy chia ra mỗi ngày nó đi được hơn 12 độ có dư, tức là gần 13 độ. Nên mới nói: 月行十三度而有奇焉 “Nguyệt hành thập tam nhật nhi hữu kì yên” – Mặt Trăng đi mười ba độ tính cả phần lẻ.
  • Cần để ý rằng cách tính lịch pháp của người Trung Quốc và Việt Nam là tính chu kì cả Mặt Trời và Mặt Trăng, đó là theo lý âm dương. Không phải như lịch người Lưỡng Hà chỉ tính kì trăng, hay lịch Lịch Gregorius tức lịch dương chỉ tính trung bình ngày Mặt Trời, lịch âm dương tính khá chính xác các chu kì khí hậu, bằng chứng cho thấy nó là lịch biểu đúng, vì nó dự đoán được thời tiết. Ngoài ra, tháng nhuận lâu nay vẫn được nhiều người diễn giải là một khoảng thời gian được thêm vào để giữ cho lịch âm dương không sai với mùa màng, nhưng trên thực tế, thiên văn học hiện đại đã biết rằng cứ vào năm nhuận, Trái Đất phải đi thêm một đoạn nữa mới trở về đúng điểm xuất phát, và đó chính là tháng nhuận, điều này có nghĩa rằng lịch âm dương phản ánh đúng nhất với đường đi thiên văn của thiên thể chứ không chỉ là sự thêm thắt tùy tiện để vá víu.
  • Trích diễn nghĩa bản dịch Tố Vấn của Nguyễn Tử Siêu: lịch pháp chu thiên có 365 độ và ¼ độ. đất vòng về tay trái một ngày một đêm thì vận hành được một chu thiên và hơn ra một độ. Nhật-nguyệt đều hữu hành. Cứ một ngày đêm, nhật vận hành được một độ, nguyệt vận hành được 13 độ và 1/7 trong 19 phần của độ. Nên mới nói rằng “có lẻ”.

Nhật một năm thời một chu thiên ; Nguyệt 29 ngày có lẻ thời một chu thiên. Vì là 29 ngày cỏ lẻ nên mới sinh ra tháng đủ tháng thiếu . Mỗi năm có 5 ngày lẽ gọi là “SÓC HƯ”, cho nên chỉ có 365 ngày. Lại có 5 ngày lẻ thuộc về “KHÍ DOANH” lại mà sinh ra tháng NHUẬN. Cho nên mỗi năm tính cả tháng nhuận tổng cộng được 365 ngày có lẻ.

  • HÁN-LUẬT CHÍ chép rằng : Nhật-nguyệt và Ngũ-tinh, từ phương Tây vòng quanh bầu trời đi về hướng đông. Thiên đạo từ phương đông mà về phương Tây. Một ngày một đêm nhật nguyệt theo trời chuyển về phương tây một chu thiên như kiến bò trên cối, cối chuyển một vòng. Mà nhật đi về phương đông chỉ 1 độ, Nguyệt từ phương Tây đi về phương đông được 13 độ. Nguyệt đi nhanh mà mỗi tháng gặp Nhật một lần, là một chu thiên. Do đó mỗi năm ngày đÔNG-CHÍ và HẠ-CHÍ, nhật vận hành có chia ra Nam và Bắc đạo. Mỗi tháng, ngày “thượng huyền” và ngày “hạ huyền” (mặt trăng vòng cong ngửa lên như cái cung để ngửa làThượng huyền, tức là từ rằm (15) đến mồng một (1). Mặt trăng vòng cong trở xuống như cái cung để úp là Hạ huyền (tức là từ 16 đến 30). Nguyệt vận hành có chia ra Nam và Bắc đạo.

(5)-. đời Thượng-cổ dùng cây (gậy) gỗ cao 8 thước chôn đứng thẳng để đo bóng mặt trời và để chia rõ đông, Tây, Nam, Bắc. Lấy chu thiên 365 độ và lẻ ¼ độ, để suy tính sự vận hành có lẻ của Nhật nguyệt ; khí doanh 5 ngày có lẻ, sóc-hư 5 ngày có lẻ… tính dồn cả lại, để cho trọn cái số ngày của 1 năm. đó là tính hết về Thiên-độ.,.








Similar Topics Collapse

3 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |