

Địa Không tọa cung nào phúc cho cung đó
#166
Gửi vào 11/06/2023 - 12:55
Chung Ju-yung ( 정주영, Trịnh Chu Vĩnh, sinh ngày 25 tháng 11 năm 1915 – mất ngày 21 tháng 3 năm 2001) là nhà tư bản công nghiệp, doanh nhân người Hàn Quốc, nhà sáng lập tập đoàn Hyundai. Ông là một trong những nhà công nghiệp có tầm ảnh hưởng lớn nhất Hàn Quốc.
Trong giới xe hơi, cái tên Hyundai có lẽ không còn xa lạ với nhiều người. Thương hiệu ô tô này là một trong những niềm tự hào của người dân Hàn Quốc vươn lên sau chiến tranh, tự sản xuất ra xe hơi nội địa. Thế nhưng, ít ai biết rằng người sáng lập ra tập đoàn Hyundai, ông Chung Ju Yung đã phải nhiều lần bỏ nhà ra đi mới có được cơ ngơi như ngày hôm nay.
Vào năm 1946, Chung Ju Yung thành lập Hyundai để tận dụng cơ hội tái xây dựng và công nghiệp hóa sau chiến tranh. Ban đầu ông định tiếp tục mảng sửa xe, cơ khí nhưng nhanh chóng nhận thấy chúng không lợi nhuận bằng xây dựng công trình bất động sản.
Tại thời điểm đó, ngành xây dựng Hàn Quốc có sự khủng hoảng niềm tin khi các công ty trong nước yếu về kỹ thuật không được giao các dự án lớn. Để tìm kiếm hướng đột phá, Chung Ju Yung đã quyết định đấu thầu các dự án nước ngoài để lấy kinh nghiệm và xây dựng thương hiệu trước khi quay trở về thị trường nội địa.
Ban đầu, Hyundai đấu thầu thành công dự án đường cao tốc Pallani Narathiwat ở Thái Lan, tiếp đó là những công trình khó khăn ở Nhật Bản và các nước trong khu vực. Hyundai đã tự chế tạo những thiết bị xây dựng và đưa vào thương mại hóa như máy nén áp suất, xe bê tông xi măng… để tự tháo gỡ các khó khăn trong quá trình làm dự án.
Sau khi đã có kinh nghiệm và danh tiếng tại các dự án quốc tế, Hyundai quay trở lại Hàn Quốc và dễ dàng trúng thầu nhiều dự án lớn, thậm chí là những hợp đồng với quân đội Mỹ.
Đường cao tốc đầu tiên Gyeongbu có độ dài 428km, băng qua hơn 200 cây cầu và 6 đường hầm chính (động thổ ngày 01/02/1968) nối Seoul - Busan được xây dựng bằng tinh thần "cứ làm đi" của người Hàn Quốc, khi nước này không có cả vốn lẫn công nghệ.
Richard M. Steers – tác giả cuốn “Made in Korea: Chung Ju Yung và Sự trỗi dậy của Hyundai” cho biết tổng thống Park Chung Hee đã đề nghị chủ tịch trẻ của Hyundai khi đó – Chung Ju Yung giám sát dự án. Dù kinh nghiệm xây đường quốc tế của Hyundai lúc ấy chỉ là một cao tốc 93 km năm 1964 tại Thái Lan, mà cũng không mấy thành công. Chính phủ Hàn Quốc khi đó hợp tác chặt chẽ với Hyundai để làm cao tốc. Chung Ju Yung thuê nhân công làm việc gần như cả ngày. Các lao động chỉ nghỉ 2 ngày mỗi tháng. Ông cũng ăn ngủ cùng công nhân tại công trường.
Tiếp trong những năm sau đó, Hyundai liên tục mở rộng sang các ngành đóng tàu, xe hơi, điện tử…
Thập niên 1980, Huyndai trở thành tập đoàn gia đình trị (Chaebol) lớn nhất Hàn Quốc. Hãng đóng tàu của Hyundai vào thời đỉnh cao là một trong 3 hãng đóng tàu sừng sỏ trên thế giới và là người đi tiên phong cho mảng này tại Hàn Quốc. Công ty con sản xuất điện tử của Hyundai cũng nhanh chóng trở thành nhà sản xuất chip vi tính lớn thứ 2 thế giới trong thập niên 1990.
Mặc dù không được học hành đầy đủ nhưng trước đó vào năm 1982, Chung Ju Yung là người đầu tiên không phải công dân Mỹ được nhận bằng tiến sỹ danh dự về quản trị của trường đại học George Washington.
Trước khi cuộc khủng hoảng Châu Á 1997 diễn ra, doanh thu của Hyundai đã vượt 90 tỷ USD. Bản thân Chung Ju Yung với tổng tài sản hơn 6 tỷ USD đã trở thành người giàu nhất Hàn Quốc khi đó.
Mặc dù giàu có nhưng Chung Ju Yung sống rất tiết kiệm, ngay cả gia đình ông cũng chi tiêu hợp lý chứ không phung phí. Gia tộc Hyundai đến ngày nay vẫn có thói quen ghi lại các khoản chi tiêu hàng ngày, một điều hiếm trong số các Chaebol Hàn Quốc.
Bản thân Chung Ju Yung cũng chưa bao giờ trách cứ thân phận nông dân nghèo gian khó, thay vào đó ông cảm ơn số phận đã cho ông nghị lực để tiến về phía trước.
Nhà sáng lập Hyundai cho rằng người thành công hay thất bại khác nhau ở quá trình nỗ lực và cách nhìn nhận kết quả chứ không phải do xuất phát điểm.
Đối với người dân Hàn Quốc, Chung Ju Yung là huyền thoại khởi nghiệp và là niềm tự hào của dân tộc.
#167
Gửi vào 12/06/2023 - 06:40
Lá số hay, đáng học hỏi và chiêm nghiệm! Xét qua các Vận Hạn, cuộc đời đương số trải qua rất nhiều thăng trầm, tự rèn luyện để thành đạt khi ngoài 50t đến lúc lìa đời. Đương số là người hiền lương và để lại di sản Hyundai cho Nam Hàn (nói riêng).
Thanked by 3 Members:
|
|
#168
Gửi vào 12/06/2023 - 08:27
Tâm Thiện, on 12/06/2023 - 06:40, said:
Lá số hay, đáng học hỏi và chiêm nghiệm! Xét qua các Vận Hạn, cuộc đời đương số trải qua rất nhiều thăng trầm, tự rèn luyện để thành đạt khi ngoài 50t đến lúc lìa đời. Đương số là người hiền lương và để lại di sản Hyundai cho Nam Hàn (nói riêng).
Cảm ơn a Hạnh với sự bền bỉ!
#169
Gửi vào 17/06/2023 - 01:17
Thành viên trong Hội đồng Tổng thống về Đạo đức Sinh học
Người phụ nữ Úc đầu tiên được trao giải Nobel – Khoa học về những tế bào không bao giờ lão hóa
Điều gì đã khiến cơ thể chúng ta lão hóa... da chúng ta nhăn nheo, tóc bạc đi, hệ miễn dịch yếu dần?
Nhà sinh học Elizabeth Blackburn giành được giải Nobel cho công trình của mình khi tìm ra câu trả lời, với khám phá về telomerase: một enzym giúp khôi phục phần rìa của các chromosome, chúng bị mất đi khi tế bào phân chia.
Elizabeth Helen Blackburn, (sinh 26 tháng 11 năm 1948) là một người Mỹ-Úc đạt giải Nobel, và là người từng giữ chức vụ giám đốc của Viện nghiên cứu sinh học Salk. Trước đó, bà là một nhà nghiên cứu Sinh học tại Đại học California tại San Francisco (UCSF). Blackburn nghiên cứu đoạn telomere, một bộ phận ở phần đuôi của nhiễm sắc thể có nhiệm vụ bảo vệ cả cấu trúc di truyền này.
Năm 1984, Blackburn cùng với Carol Greider đã khám phá ra telomerase, một enzym giúp kéo dài đoạn telomere. Vì nghiên cứu này, bà đã được trao giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 2009 cùng với Carol Greider và Jack W. Szostak. Đồng thời, Blackburn là người phụ nữ người Úc đầu tiên được trao giải Nobel.
Ngoài ra, bà cũng hoạt động trong lĩnh vực đạo đức y khoa, và từng là một hội viên trong Hội đồng Tổng thống về Đạo đức Sinh học (tiếng Anh: President's Council on Bioethics hay PCPE) trước khi bị Tổng thống Bush sa thải - một sự kiện khiến dư luận xôn xao thời bấy giờ.
Học vấn: Đại học Melbourne; Đại học Cambridge, Anh.
Nơi công tác: Đại học Yale, Đại học California tại Berkeley, Đại học California tại San Francisco, Viện Salk.
#170
Gửi vào 25/06/2023 - 00:01
Chủ tịch SK Group
Từ ngày 22/06/2023 đến 24/06/2023 Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol đã đến Việt Nam trong chuyến thăm cấp nhà nước. Tháp tùng ông là đoàn 205 doanh nghiệp Hàn Quốc, trong đó có lãnh đạo các tập đoàn hàng đầu như Samsung, SK, Hyundai, Daewoo.
Chúng ta đã nghe nói nhiều về SK Group. SK Group tiền thân là công ty dệt may Sunkyong Textiles, được thành lập vào năm 1953 do ông Chey Jong-kun (chú của ông Chey Tae-won) sáng lập và điều hành. SK Group được biết tới là một trong những chaebol hàng đầu Hàn Quốc, kinh doanh đa ngành, bao gồm các lĩnh vực truyền thông, chất bán dẫn, hoá chất và năng lượng và một số mảng khác.
Một số công ty thành viên hiện nay:
SK E&C (SK Engineering & Construction Co. Ltd - Công ty Xây dựng và Kỹ thuật SK).
SK Innovation (dầu khí và hóa chất),
SK Telecom (SK Telecom được xem là nhà mạng lớn nhất và dẫn đầu về công nghệ 5G tại Hàn Quốc. SK Telecom còn sở hữu đội game Liên Minh Huyền Thoại SKT1)
SK Hynix (một công ty bán dẫn lớn của Hàn Quốc, họ được xem là nhà cung cấp chip nhớ lớn thứ 2 thế giới chỉ sau Samsung Electronic).
SK Holdings (dịch vụ công nghệ cao),
SK E&S (cung cấp năng lượng và nhiên liệu sạch).
Dẫn dắt 'đế chế' này hiện nay là Chủ tịch Chey Tae-won (Ngày sinh: 03 tháng 12 năm 1960), là cháu trai của nhà sáng lập SK Group Chey Jong-kun.
Ông Chey Tae-won đã được chuẩn bị để lãnh đạo tập đoàn đa quốc gia Hàn Quốc. Khi đang học tại Đại học Chicago vào cuối những năm 1980, ông đã gặp vợ mình, Roh So-young, con gái của cựu tổng thống Hàn Quốc Roh Tae-woo. Cuộc đời Chey Tae-won khá ly kỳ, ông từng 2 lần vướng vòng lao lý vì gian lận tài chính.
Ông gia nhập SK vào năm 1989 với vai trò quản lý tại một công ty con ở San Jose, California, hai năm sau chuyển đến trụ sở chính của tập đoàn tại Mỹ ở New York và trở lại Seoul vào năm 1994 với vị trí Giám đốc điều hành của tập đoàn.
Năm 1997, ông được thăng chức từ trưởng bộ phận phát triển kinh doanh lên Giám đốc điều hành của SK Corp., khi đó là công ty con lớn nhất của tập đoàn.
Đến năm 1998, SK Group tiếp tục chứng kiến một cuộc chuyển giao thế hệ khi Chey Tae-won trở thành chủ tịch tập đoàn sau cái chết của người cha do căn bệnh ung thư phổi.
Năm 2000, ông thu xếp thương vụ SK Telecom thâu tóm Shinsegi Telecom với giá 2,3 nghìn tỉ won (2 tỉ USD) bằng tiền mặt và cổ phiếu. Chỉ sau 1 đêm, thị phần viễn thông tại Hàn Quốc của SK Telecom tăng vọt từ 43% lên 57%. Nhưng kế hoạch vươn ra nước ngoài của Chey đã bị trì hoãn khi vào năm 2003, ông bị kết án ba năm tù vì gian lận kế toán song được hoãn thi hành án. Chey Tae-won được trả tự do sau bảy tháng và được tổng thống Hàn Quốc khi đó ân xá hoàn toàn vào năm 2008. Ông sau đó dẫn dắt SK Group tiến vào thị trường Trung Quốc, đầu tư vào thăm dò dầu mỏ ở Biển Đông cũng như năng lượng và hóa chất ở Thượng Hải và Vũ Hán.
Đầu năm 2013, ông một lần nữa bị bắt vì tội biển thủ công quỹ của công ty, bị truy tố và bị kết án bốn năm tù vào tháng 02/2014. Ngày 13/08/2015, Tổng thống khi đó là Park Geun-hye đã ân xá cho Chey cùng với 16 doanh nhân khác “nhằm mục đích tạo cơ hội để họ phát triển nền kinh tế của đất nước”. Đặc biệt, trong thời gian Chủ tịch Chey ở tù, cổ phiếu của SK Hynix vẫn tăng 51% nhờ lợi nhuận ròng năm 2014 tăng 40%. Cổ phiếu của SK Holdings cũng gần gấp 3 lần với với lợi nhuận tăng 90%.
Tháng 03/2016, Chey trở lại với vai trò là chủ tịch của cả SK Holdings và SK Hynix. Năm 2017, thu nhập của SK Hynix tăng hơn gấp ba lần và tăng thêm 46% vào năm 2018 lên mức kỷ lục 15,5 nghìn tỷ won. Chey đã đa dạng hóa sang các ngành công nghiệp mới, chi 3,2 tỷ đô la để mua 12 công ty ở Châu Âu, Đông Nam Á và Mỹ trong sáu năm.
Vào tháng 09/2019, SK Hynix xếp thứ 20 trên Forbes Digital 100. Thời điểm đó, Chey đứng thứ 7 trong danh sách 50 người giàu nhất Hàn Quốc.
Dưới sự điều hành của ông, SK trở thành một trong 4 chaebol lớn nhất xứ kim chi với giá trị tập đoàn chỉ đứng sau Samsung. Tờ The Korea Economic Daily cho biết tại Việt Nam: SK South East Asia Investment nắm giữ 6,1% cổ phần của tập đoàn Vingroup JSC; 9,5% cổ phần của Masan Group; còn có 14,5% cổ phần của chuỗi bán lẻ Pharmacity; 54% cổ phần của công ty dược phẩm Imexpharm Corp.; 16,3% cổ phần của nhà bán lẻ VinCommerce và 4,9% cổ phần của The CrownX Corp.
Ngày 06/12/2022, Tòa án gia đình thành phố Seoul đã chấp thuận việc ly hôn của Chủ tịch SK Chey Tae-won và vợ Roh Soh-yeong sau 7 năm tỷ phú thừa nhận ngoại tình, có con ngoài giá thú (theo Korea JoongAng Daily đưa tin). Theo phán quyết của tòa, ông Chey sẽ phải trả khoản tiền cấp dưỡng 100 triệu won (hơn 75.000 USD) và một khoản thanh toán trị giá 66,5 tỷ won (50,7 triệu USD) cho bà Roh. Họ có với nhau một con gái, một con trai. Báo chí gọi đây là cuộc ly hôn 66 tỷ won của giới tài phiệt Hàn Quốc. Tuy hôn nhân xuất phát từ tình yêu, nhưng sự khác biệt về tính cách khiến hạnh phúc của hai vợ chồng đã không kéo dài lâu.
(Nguồn tham khảo: Forbes)
Sửa bởi NhatHanh: 25/06/2023 - 00:04
#171
Gửi vào 29/06/2023 - 23:42
Năm nay là năm Quý Mão 2023, vừa tròn một hoa giáp 60 năm Nam Phương hoàng hậu tạ thế. Nam Phương hoàng hậu, người phụ nữ mở đầu cho một thế hệ nữ quyền của nữ nhân chốn hậu cung, đồng thời cũng là người chứng kiến ngày “cáo chung” của chế độ phong kiến cuối cùng tại Việt Nam. Cuộc đời thời trẻ của hoàng hậu giống như một giấc mộng cổ tích đối với tất cả thiếu nữ thời bấy giờ. Một tuổi thơ nhung lụa, một tình yêu đẹp (dù chỉ là thuở ban đầu) với hoàng đế Bảo Đại, và một thân phận Hoàng hậu cao quý.
Người ta thường bảo, sai lầm lớn nhất cuộc đời bà là lấy Vua Bảo Đại. Vì nếu nên duyên cùng người khác, sẽ chẳng bao giờ bà phải cô đơn những ngày cuối đời, sẽ chẳng bao giờ phải chứng kiến chồng mình đi cùng người phụ nữ khác, và càng không bị cuốn vào những vòng xoáy chính trị bất tận. Nhưng cũng nhờ cuộc hôn nhân với Bảo Đại, bà có cơ hội được tỏa sáng như một viên kim cương trên bản đồ Đông Dương, được lưu danh sử sách về nhan sắc lẫn trí tuệ của mình. Trong địa hạt chính trị, có lẽ bà không thành công.
Nam Phương hoàng hậu với khuê danh Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh ngày 14/11/1913 tại vùng đất Gò Công, Tiền Giang. Gò Công vốn được mệnh danh là “đất Hoàng gia” khi có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế (theo lời kể của vua Bảo Đại trong hồi ký “Con Rồng An Nam”). Thân thế của Thị Lan càng thêm quyền quý khi nàng là con gái của ông Pierre Nguyễn Hữu Hào và bà Marie Lê Thị Bình. Ông ngoại nàng là đại phú hộ Lê Phát Đạt, hay còn gọi là Huyện Sỹ, người giàu nhất xứ Nam Kỳ thời bấy giờ (mà người ta hay kháo nhau rằng “Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Hỏa” - Nhiều người nhận định các đại gia này không chỉ giàu nhất Sài Gòn mà còn thuộc vào hàng giàu nhất Đông Dương trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20).
Năm 12 tuổi, Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan được gửi sang Pháp du học tại tu viện nữ sinh nội trú Couvent des Oiseaux, Paris. Tháng 9 năm 1932, chưa tròn 20 tuổi, nàng hoàn thành tú tài Pháp và trở về quê hương, và gặp được Vua Bảo Đại trong một cuộc yến tiệc tại khách sạn La Palace nổi tiếng của Đà Lạt vào năm 1932. Sau lần gặp đầu tiên, Vĩnh Thụy - tức cựu hoàng Bảo Đại - đã đem lòng yêu mến bởi nhan sắc và học thức của Nguyễn Hữu Thị Lan.
Sau 6 năm sinh sống và học tập tại Pháp, vị hoàng hậu tương lai vẫn giữ được cốt cách và nét kín đáo chuẩn mực của một người con gái An Nam. Với chiều cao 1m75, vóc dáng mảnh khảnh yêu kiều, khuôn mặt trái xoan thanh tú, ánh mắt nhỏ nhưng tinh anh, ưa thích thời trang của hãng mốt danh tiếng Dior, Thị Lan chính là hiện thân cho vẻ đẹp dịu dàng nhưng đầy tri thức, điều hiếm thấy ở con gái thời bấy giờ.
Hôn lễ được tổ chức ngày 20 tháng 3 năm 1934 ở Huế, bà được tấn phong hoàng hậu ngày 21/03/1934. Nguyễn Hữu Thị Lan thời điểm kết hôn cùng Vua Bảo Đại chỉ mới là cô thiếu nữ vừa ngoài 20, nhưng hưởng thụ nền giáo dục phương Tây từ nhỏ, là một bà Hoàng đặc biệt, khi không thấm nhuần những tư tưởng của Nho giáo. Tuy sống trong lồng son phong kiến, nhưng qua những gì bà thể hiện, người ta biết rõ đây là một người phụ nữ tân thời, và đầy tham vọng. Bà thường xuyên tháp tùng chồng trong các chuyến công du ngoại quốc hoặc đón tiếp các nguyên thủ quốc gia. Với khả năng nói tiếng Pháp trôi chảy, kiến thức và sự tinh tế, thanh lịch, khéo léo, bà đã để lại ấn tượng rất đẹp trong lòng các chính khách.
Về chuyện vợ chồng, bà chỉ mong muốn có được người chồng chung thủy. Vì thế, điều kiện bà đặt ra để tiến đến hôn nhân với vua Bảo Đại là phải giải tán tam cung lục viện, bỏ hẳn chế độ thê thiếp trong cung. Trái ngược với mong muốn của bà, Bảo Đại chỉ mặn nồng với bà được vài năm sau đó vướng vào những tình ái khác khiến cho bà phiền lòng không ít. Tuy vậy, bà cũng không hề có một thái độ nào quá đáng. Bà vẫn luôn luôn giữ thể diện cho chồng và dành phần thua thiệt về mình. Săn đuổi đàn bà đẹp là đặc tính cố hữu của Bảo Đại. Bất kể đó là cô hầu phòng bình thường, vợ của các gia nhân, hoa hậu Đông Dương hay các cô gái nhảy… Nam Phương vẫn luôn có cách hành xử đầy kiêu hãnh. Bà đã bỏ cả một quãng thời gian dài để vun vén hạnh phúc cùng chồng rồi sau đó mở lòng tha thứ những phụ bạc ruồng rẫy. Có thể nói, bà là một phụ nữ có đầy đủ đức tính cao đẹp mà người đời phải nể phục.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị, ra Hà Nội làm cố vấn, Nam Phương hoàng hậu một mình sống tại cung An Định (Huế) để lo cho các con. Năm 1947, sau khi Ngô Đình Diệm lật đổ Quốc trưởng Bảo Đại, vì không còn hy vọng về việc Thái tử Bảo Long sẽ lên ngôi, Nam Phương hoàng hậu dường như “chấp nhận” số phận, ngày 01/01/1947 bà đưa các con sang Pháp định cư và dành năm tháng cuối đời ở nơi đất khách.
Kể cả khi người ta hay bảo là bà “lưu vong”, Nam Phương hoàng hậu vẫn sống trong nhung lụa nhờ gia đình giàu có của mình. Bố mẹ hoàng hậu, ông bà Nguyễn Hữu Hào, đã mua cho bà nhiều nhà đất, những mong của cải vật chất có thể khỏa lấp nỗi buồn riêng của con gái. Nhưng bà đã lựa chọn lánh xa nơi phù phiếm đô thành, tìm về với niềm vui an nhiên ở vùng quê Chabrignac, cách Paris 500km về phía Tây Nam.
Trong những năm tháng cuối cùng, ở nơi xứ người, Nam Phương hoàng hậu vẫn chiếm trọn cảm tình của những người dân xung quanh. Lucien Boudy – một cựu xã trưởng làng Chabrignac, mô tả về hoàng hậu Nam Phương: “Là một mệnh phụ phu nhân rất duyên dáng, đặc biệt thân thiện rộng rãi với dân làng. Bà cũng rất nhân đạo và yêu thương với người hầu kẻ hạ trong nhà”. Truyền thông nước Pháp cũng luôn dành sự ưu ái và những lời có cánh cho người phụ nữ đến từ An Nam xa xôi: “Bà hoàng hậu đẹp vẫn ngự trong tim” (La belle impératrice demeure dans les coeurs – Tiêu đề một bài báo điện tử của Pháp).
Năm Quý Mão 1963, Nam Phương hoàng hậu qua đời, nhưng chút hương thơm miền Nam trên đất Pháp ấy sẽ còn lặng lẽ mà vương vấn mãi trong tâm trí những người yêu quý bà. Cuộc đời nhiều thăng trầm và nhan sắc của bà hoàng hậu cuối cùng của nước Nam đến nay vẫn thu hút đông đảo sự quan tâm của công chúng. Người đời có thể tiếc nuối, nhưng cô gái Nguyễn Hữu Thị Lan ngày nào đã sống trọn một cuộc đời xứng đáng với cái danh hoàng hậu cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam.
(Nguồn tổng hợp)
#172
Gửi vào 01/07/2023 - 11:24
NhatHanh, on 29/06/2023 - 23:42, said:
Năm nay là năm Quý Mão 2023, vừa tròn một hoa giáp 60 năm Nam Phương hoàng hậu tạ thế. Nam Phương hoàng hậu, người phụ nữ mở đầu cho một thế hệ nữ quyền của nữ nhân chốn hậu cung, đồng thời cũng là người chứng kiến ngày “cáo chung” của chế độ phong kiến cuối cùng tại Việt Nam. Cuộc đời thời trẻ của hoàng hậu giống như một giấc mộng cổ tích đối với tất cả thiếu nữ thời bấy giờ. Một tuổi thơ nhung lụa, một tình yêu đẹp (dù chỉ là thuở ban đầu) với hoàng đế Bảo Đại, và một thân phận Hoàng hậu cao quý.
Người ta thường bảo, sai lầm lớn nhất cuộc đời bà là lấy Vua Bảo Đại. Vì nếu nên duyên cùng người khác, sẽ chẳng bao giờ bà phải cô đơn những ngày cuối đời, sẽ chẳng bao giờ phải chứng kiến chồng mình đi cùng người phụ nữ khác, và càng không bị cuốn vào những vòng xoáy chính trị bất tận. Nhưng cũng nhờ cuộc hôn nhân với Bảo Đại, bà có cơ hội được tỏa sáng như một viên kim cương trên bản đồ Đông Dương, được lưu danh sử sách về nhan sắc lẫn trí tuệ của mình. Trong địa hạt chính trị, có lẽ bà không thành công.
Nam Phương hoàng hậu với khuê danh Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh ngày 14/11/1913 tại vùng đất Gò Công, Tiền Giang. Gò Công vốn được mệnh danh là “đất Hoàng gia” khi có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế (theo lời kể của vua Bảo Đại trong hồi ký “Con Rồng An Nam”). Thân thế của Thị Lan càng thêm quyền quý khi nàng là con gái của ông Pierre Nguyễn Hữu Hào và bà Marie Lê Thị Bình. Ông ngoại nàng là đại phú hộ Lê Phát Đạt, hay còn gọi là Huyện Sỹ, người giàu nhất xứ Nam Kỳ thời bấy giờ (mà người ta hay kháo nhau rằng “Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Hỏa” - Nhiều người nhận định các đại gia này không chỉ giàu nhất Sài Gòn mà còn thuộc vào hàng giàu nhất Đông Dương trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20).
Năm 12 tuổi, Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan được gửi sang Pháp du học tại tu viện nữ sinh nội trú Couvent des Oiseaux, Paris. Tháng 9 năm 1932, chưa tròn 20 tuổi, nàng hoàn thành tú tài Pháp và trở về quê hương, và gặp được Vua Bảo Đại trong một cuộc yến tiệc tại khách sạn La Palace nổi tiếng của Đà Lạt vào năm 1932. Sau lần gặp đầu tiên, Vĩnh Thụy - tức cựu hoàng Bảo Đại - đã đem lòng yêu mến bởi nhan sắc và học thức của Nguyễn Hữu Thị Lan.
Sau 6 năm sinh sống và học tập tại Pháp, vị hoàng hậu tương lai vẫn giữ được cốt cách và nét kín đáo chuẩn mực của một người con gái An Nam. Với chiều cao 1m75, vóc dáng mảnh khảnh yêu kiều, khuôn mặt trái xoan thanh tú, ánh mắt nhỏ nhưng tinh anh, ưa thích thời trang của hãng mốt danh tiếng Dior, Thị Lan chính là hiện thân cho vẻ đẹp dịu dàng nhưng đầy tri thức, điều hiếm thấy ở con gái thời bấy giờ.
Hôn lễ được tổ chức ngày 20 tháng 3 năm 1934 ở Huế, bà được tấn phong hoàng hậu ngày 21/03/1934. Nguyễn Hữu Thị Lan thời điểm kết hôn cùng Vua Bảo Đại chỉ mới là cô thiếu nữ vừa ngoài 20, nhưng hưởng thụ nền giáo dục phương Tây từ nhỏ, là một bà Hoàng đặc biệt, khi không thấm nhuần những tư tưởng của Nho giáo. Tuy sống trong lồng son phong kiến, nhưng qua những gì bà thể hiện, người ta biết rõ đây là một người phụ nữ tân thời, và đầy tham vọng. Bà thường xuyên tháp tùng chồng trong các chuyến công du ngoại quốc hoặc đón tiếp các nguyên thủ quốc gia. Với khả năng nói tiếng Pháp trôi chảy, kiến thức và sự tinh tế, thanh lịch, khéo léo, bà đã để lại ấn tượng rất đẹp trong lòng các chính khách.
Về chuyện vợ chồng, bà chỉ mong muốn có được người chồng chung thủy. Vì thế, điều kiện bà đặt ra để tiến đến hôn nhân với vua Bảo Đại là phải giải tán tam cung lục viện, bỏ hẳn chế độ thê thiếp trong cung. Trái ngược với mong muốn của bà, Bảo Đại chỉ mặn nồng với bà được vài năm sau đó vướng vào những tình ái khác khiến cho bà phiền lòng không ít. Tuy vậy, bà cũng không hề có một thái độ nào quá đáng. Bà vẫn luôn luôn giữ thể diện cho chồng và dành phần thua thiệt về mình. Săn đuổi đàn bà đẹp là đặc tính cố hữu của Bảo Đại. Bất kể đó là cô hầu phòng bình thường, vợ của các gia nhân, hoa hậu Đông Dương hay các cô gái nhảy… Nam Phương vẫn luôn có cách hành xử đầy kiêu hãnh. Bà đã bỏ cả một quãng thời gian dài để vun vén hạnh phúc cùng chồng rồi sau đó mở lòng tha thứ những phụ bạc ruồng rẫy. Có thể nói, bà là một phụ nữ có đầy đủ đức tính cao đẹp mà người đời phải nể phục.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị, ra Hà Nội làm cố vấn, Nam Phương hoàng hậu một mình sống tại cung An Định (Huế) để lo cho các con. Năm 1947, sau khi Ngô Đình Diệm lật đổ Quốc trưởng Bảo Đại, vì không còn hy vọng về việc Thái tử Bảo Long sẽ lên ngôi, Nam Phương hoàng hậu dường như “chấp nhận” số phận, ngày 01/01/1947 bà đưa các con sang Pháp định cư và dành năm tháng cuối đời ở nơi đất khách.
Kể cả khi người ta hay bảo là bà “lưu vong”, Nam Phương hoàng hậu vẫn sống trong nhung lụa nhờ gia đình giàu có của mình. Bố mẹ hoàng hậu, ông bà Nguyễn Hữu Hào, đã mua cho bà nhiều nhà đất, những mong của cải vật chất có thể khỏa lấp nỗi buồn riêng của con gái. Nhưng bà đã lựa chọn lánh xa nơi phù phiếm đô thành, tìm về với niềm vui an nhiên ở vùng quê Chabrignac, cách Paris 500km về phía Tây Nam.
Trong những năm tháng cuối cùng, ở nơi xứ người, Nam Phương hoàng hậu vẫn chiếm trọn cảm tình của những người dân xung quanh. Lucien Boudy – một cựu xã trưởng làng Chabrignac, mô tả về hoàng hậu Nam Phương: “Là một mệnh phụ phu nhân rất duyên dáng, đặc biệt thân thiện rộng rãi với dân làng. Bà cũng rất nhân đạo và yêu thương với người hầu kẻ hạ trong nhà”. Truyền thông nước Pháp cũng luôn dành sự ưu ái và những lời có cánh cho người phụ nữ đến từ An Nam xa xôi: “Bà hoàng hậu đẹp vẫn ngự trong tim” (La belle impératrice demeure dans les coeurs – Tiêu đề một bài báo điện tử của Pháp).
Năm Quý Mão 1963, Nam Phương hoàng hậu qua đời, nhưng chút hương thơm miền Nam trên đất Pháp ấy sẽ còn lặng lẽ mà vương vấn mãi trong tâm trí những người yêu quý bà. Cuộc đời nhiều thăng trầm và nhan sắc của bà hoàng hậu cuối cùng của nước Nam đến nay vẫn thu hút đông đảo sự quan tâm của công chúng. Người đời có thể tiếc nuối, nhưng cô gái Nguyễn Hữu Thị Lan ngày nào đã sống trọn một cuộc đời xứng đáng với cái danh hoàng hậu cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam.
(Nguồn tổng hợp)
Tạm cho là ngày sinh trên bia mộ 14/11/1913 mới là ngày sinh đúng (theo wiki là 4/12/1913) - Tôi thì tin ngày sinh trên mộ hơn vì như vậy mới là tháng 10 AL có Địa Không thủ mạng dẫn đến tình trạng mắt híp/nhỏ so với khuôn mặt.
Theo các dữ kiện lịch sử của NPHH trên thì tôi không công nhận lá số giờ Mão chủ yếu vì:
- không khớp hình tướng người phá quân (lùn, thô, đen)
- xuất thân không phù hợp; phải là xuất thân nghèo hèn mới ứng Phá Quân hãm (hóa khí hao), hóa lộc thì bị phá bởi địa không
- vị trí cung mệnh như vầy trong vòng trường sinh thì phải là người hiếm muộn, dễ không con. Trong khi đó bà có tới 5 người con.
Tôi nghiêng về lá số giờ Mùi:
- Đẹp kiểu yêu kiều nhưng đoan trang
- Thông minh
- Xuất thân vừa giàu có vừa quyền quý
- Chồng cao quý nhưng sụp đổ giữa chừng
- Nhiều con
- Tiền tài kém hơn về hậu vận
- Cung tật ách kim-hỏa-thủy xung nhau nặng nên vừa bị bệnh tim vừa bị bệnh phổi, sau này mất vì biến chứng phổi
- Về Tử Bình: năm và giờ xung nhau nên phù hợp với việc lưu vong sau này.
Sửa bởi CaspianPrince: 01/07/2023 - 11:26
Thanked by 1 Member:
|
|
#173
Gửi vào 02/07/2023 - 12:58
Nữ Giáp Dần ngày 20 tháng 12 giờ Mùi
Lá số của NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU?
Nữ Giáp Dần ngày 20 tháng 12 giờ Mùi
Luận giải:
Nữ mệnh tuổi Giáp Dần cư Ngọ là vị trí của người đáng bực đàn chị trong xã hội về phương diện xử thế ,1 người luôn luôn cố suy nghĩ sao cho xứng đáng với tư cách và địa vị của mình .Nhưng Thân đóng ở cung Thân là nỗi niềm của người thất vọng ,chán nản , vì có Phượng các nên không thể có những hành động quá khích .,và có lẽ nghiệp quả (Hình Riêu Không Kiếp) mà cam chịu không lột xác làm điều của thế nhân thường làm (Phượng -Triệt)
Thân Mệnh vcd là 1 điểm kém ,tuy nhiên vcd đắc Nhật Nguyệt lại là 1 cách sang .Nòng cốt của mệnh là Long trì ,của Thân là Phượng các (sinh xuất) : chứng tỏ 1 vị mệnh phụ đài các sang trọng .Người này nổi bật lên có đôi mắt mặc dầu Nhật -Kị ,Âm -Tuần ; còn có Tồn –thanh long ,còn Mệnh Thân =Long Phượng không thể nào nói là kém quang huy .Đặc biệt có Sinh nên con mắt dài có đuôi .
Đây là cặp mắt phụng trên tư cách đường bệ của người chính đính (Thái tuế -Vượng).
Về hình thức Á Đông phải công nhận đây là 1 người đẹp ,không phải liễu yếu đào tơ ,mà có vẻ thanh mai khỏe mạnh (Hỏa ở Ngọ tuổi Giáp Dần);uy nghi oai vệ (Tướng -Ấn).
Tiếc rằng 1 Long trì làm nòng cốt không đủ tư thế để ngăn Địa Kiếp và Hỏa tinh hè nhau hãm hại .
Một trường hợp vcd thủy mệnh khó khăn,Long trì quá yếu chỉ câu được bộ Nhật Nguyệt để chiếm lấy địa vị cao sang ,cuộc đời rồi như mộng ảo : không bần thì yểu.
Thân cũng như Mệnh đều vô chính diệu ,nhờ vào cung Phúc đức ,mà Phúc đức lại không có cách gì qua mắt được vô chính diệu đắc Nhật Nguyệt chiếu cung Ngọ và Thân .Người này nhờ Thân dựa vào Phúc đức : con giòng cháu giống ,có tiếng tăm danh vọng trong xã hội .Tuy trong thình trạng chua cay ,bất mãn (Phá –Hư) nhưng vẫn phải đóng vai trò đủ tư cách của người cao cả ,không thể làm những việc gì sai phạm để mất danh dự được.
Chồng là 1 hiền nhân khôn khéo ,khỏe mạnh (Cơ LươngThìn Tuất),bệ vệ ,thành thật (Mộ Bát tọa) (trong lá số mẫu thì là sao Mộ chứ không phải là sao Đế vượng),có tâm trạng lo âu nhưng buồn nhát (Tang-Khốc).Hai bên đã gặp nhau trong trường hợp tình cờ rồi hẹn ước (Phục) mà nên tương đắc và quý trọng nhau(Mệnh thủy gặp Cơ Lương)
Quyền -Lộc chỉ là phù phiếm(nhị hợp cung Phu sinh nhập) ,không thể gây nguy hiểm tàn ác (Liêm Phá ngộ Triệt) là may ,kể gì đến chuyện thành công trong những lo toan ,còn có thể đi đến chỗ phá sản .Nhưng dù sao cũng vẫn được hưởng cảnh vinh hiển thanh nhàn(Mộ-Bát tọa)
Hồi đó báo chí có nói là Hoàng hậu kém Đức vua 1 tuổi ,tức là tuổi Giáp Dần.
-Trích Tử vi Nghiệm lý của cụ Thiên Lương-
Thanked by 4 Members:
|
|
#174
Gửi vào 02/07/2023 - 23:13
Thanked by 2 Members:
|
|
#175
Gửi vào 08/07/2023 - 02:59
Cựu Thủ tướng Nhật Bản
Hôm nay là ngày 08/07/2023.
Vào ngày này năm ngoái (08/07/2022), cả thế giới bàng hoàng với tin cựu Thủ tướng Nhật Shinzo Abe bị ám sát. Đến khoảng 17 giờ 03 phút (giờ Nhật Bản) ngày 8 tháng 7 năm 2022, ông được xác nhận là đã qua đời.
Abe Shinzō (21/09/1954 – 08/07/2022) tuổi Giáp Ngọ, là con trai của một gia tộc có truyền thống nhiều đời làm chính trị. Shinzo Abe là thế hệ thứ 3 trong dòng họ chính trị gia liên tục là tổng thư ký Đảng Dân chủ Tự do. Việc này chưa từng có trong lịch sử Nhật Bản. Ông cũng ghi dấu ấn là thủ tướng có thời gian tại vị lâu nhất ở đất nước Nhật Bản.
Chức vụ đã đảm trách:
1/ Hạ nghị sĩ.
Nhiệm kỳ 19/07/1993 – 20/10/1996: 3 năm, 93 ngày.
Nhiệm kỳ 20/10/1996 – 08/07/2022: 25 năm, 261 ngày (bị ám sát).
2/ Tổng Thư ký Đảng Dân chủ Tự do (LDP).
Nhiệm kỳ tháng 09/2003 – tháng 09/2004.
3/ Chánh Văn phòng Nội các Nhật Bản.
Nhiệm kỳ 31/10/2005 – 26/09/2006: 330 ngày.
4/ Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do.
Nhiệm kỳ 20/09/2006 – 26/09/2007: 01 năm, 6 ngày.
Nhiệm kỳ 26/09/2012 – 14/09/2020: 7 năm, 354 ngày.
5/ Thủ tướng Nhật Bản.
Nhiệm kỳ 26/09/2006 – 26/09/2007: 1 năm, 0 ngày.
Nhiệm kỳ 26/12/2012 – 16/09/2020: 7 năm, 265 ngày.
Ông ngoại của ông là Kishi Nobusuke giữ chức Thủ tướng từ 1957 đến 1960.
Ông nội của ông là Abe Kan từng phục vụ trong Hạ viện Nhật Bản.
Cha của Abe, ông Abe Shintaro từng là Bộ trưởng Ngoại giao từ năm 1982 đến 1986.
Nobuo Kishi, em trai của Abe, từng là Bộ trưởng Quốc phòng từ năm 2020 đến 2022.
Bên cạnh đó Abe Shinzō còn có quan hệ gần gũi với Thủ tướng, và cũng là ông chú (em ruột của ông ngoại), Santo Eisaku là người từng giữ chức vụ này từ năm 1964 cho đến năm 1972 và sau đó được trao giải Nobel Hòa Bình vào năm 1974. Với một gia tộc như thế chứng tỏ lá số tử vi của ông có một cung Phúc đức rất tốt đẹp. Tuổi Giáp Ngọ được lợi thế về bộ sao Tuần Triệt khi Triệt đáo kim cung Tuần lâm hỏa địa, nhất là tại đó có bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm.
Abe Shinzō là vị Thủ tướng trẻ tuổi nhất Nhật Bản, cũng là người giữ chức Thủ tướng Nhật Bản bốn nhiệm kỳ liên tiếp; đồng thời là Chủ tịch của Đảng Dân chủ Tự do (LDP) từ 2012 đến 2020, và trước đó từ 2006 đến 2007.
Ông đã cải tổ bộ máy an ninh khi cho ra đời Hội đồng An ninh Quốc gia năm 2013. Một trong những mục tiêu suốt 9 năm cầm quyền mà cố Thủ tướng Abe ấp ủ là sửa đổi hiến pháp hòa bình của Nhật Bản, điều mà đến nay vẫn là mục tiêu dang dở. Sau Thế chiến II, điều 9 hiến pháp Nhật Bản quy định nước này “cam kết vĩnh viễn không phát động chiến tranh như là một phương tiện giải quyết xung đột quốc tế” và “lục quân, hải quân và không quân cũng như các tiềm lực chiến tranh khác sẽ không được duy trì". Ông Abe hiểu rằng việc viết lại điều 9 và biến Nhật Bản trở thành “quốc gia bình thường” có quân đội là không thể. Chủ nghĩa hòa bình đã ăn sâu vào suy nghĩ của dân Nhật Bản. Bởi những trở ngại từ quy trình lập pháp phức tạp cũng như sự phản đối của người dân, kế hoạch sửa đổi hiến pháp của ông Abe không bao giờ thành hiện thực. Vì vậy, ông đề xuất thêm khoản mới trong điều 9 nhằm khẳng định vị thế của Lực lượng phòng vệ (SDF). Việc thừa nhận sự tồn tại của SDF cũng hợp pháp hóa vai trò hiện tại của lực lượng này. Tháng 07/2014, chính quyền Thủ tướng Abe gây tranh cãi khi giải thích lại điều 9 hiến pháp, theo đó đề xuất cho phép Lực lượng phòng vệ Nhật Bản tham chiến ở nước ngoài trong trường hợp đồng minh bị tấn công vũ trang. Đến tháng 09/2015, quốc hội Nhật Bản bỏ phiếu thông qua luật hợp pháp hóa đề xuất trên của ông Abe. Hiến pháp hòa bình cũng không ngăn được ông Abe liên tục tăng cường sức mạnh của SDF.
Về con cái, vợ chồng ông Abe không có con, họ đã trải qua những cuộc điều trị hiếm muộn không thành công. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn, bà Akie Abe cho biết bà chấp nhận hai vợ chồng sẽ không có con. “Tôi nghĩ tất cả đều là số phận và tôi phải chấp nhận, thực tế là tôi kết hôn với một chính trị gia, rằng ông ấy trở thành thủ tướng và chúng tôi không được ban phúc để có con”, bà nói.
Năm 2007, Abe từ chức Thủ tướng với lý do bệnh viêm loét đại tràng. Sau khi phục hồi, Abe bất ngờ trở lại chính trị, vượt qua cựu Bộ trưởng Quốc phòng Ishiba Shigeru để trở thành Chủ tịch LDP lần thứ hai vào tháng 9 năm 2012. Tháng 12 năm 2012, sau chiến thắng áp đảo của LDP trong cuộc tổng tuyển cử, ông trở thành Thủ tướng đầu tiên tái nhiệm kể từ Yoshida Shigeru năm 1948. Ông tiếp tục đắc cử với kết quả áp đảo năm 2014 và 2017. Tháng 8 năm 2020, Abe thông báo ý định từ chức, với lý do là bệnh viêm loét đại tràng trở lại. Ông chính thức từ chức vào ngày 16 tháng 9 năm 2020. Ngày 8 tháng 7 năm 2022 ông qua đời do bị ám sát.
Bất chấp nhiều thành tựu, những gì Abe đạt được chưa bao giờ tương xứng với tham vọng của ông. Abe ra đi để lại nhiều mục tiêu chưa được hoàn thành. Những mục tiêu tham vọng và phức tạp mà ông Abe còn dang dở như sửa đổi hiến pháp, trao trả tù nhân Nhật Bản bị Triều Tiên bắt giữ, hay giải quyết dứt điểm vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Dù vậy, Nhật Bản đã trở thành một đất nước rất khác dưới bàn tay ông Abe. Trước khi Covid-19 ập đến, số người nước ngoài đến thăm và định cư ở Nhật Bản nhiều nhất trong lịch sử.
Sửa bởi NhatHanh: 08/07/2023 - 03:00
#176
Gửi vào 08/07/2023 - 13:34
#177
Gửi vào 14/07/2023 - 22:14
Cựu Thủ tướng Nhật Bản
Nói về chính trường Nhật Bản suốt nhiều thâp kỷ có 2 dòng họ Sato và Kishi là nổi bật nhất. Kishi Nobusuke là Thủ tướng thứ 55 và 56 của Nhật Bản từ 31/01/1957 đến 19/07/1960.
Kishi Nobusuke sinh ngày 13/11/1896 tại Tabuse, Yamaguchi, Nhật Bản. Mất ngày 07/08/1987 tại Tôkyô, Nhật Bản.
Cha mẹ: Hidesuke Sato, Moyo Sato
Cháu nội/ngoại: Abe Shinzō, Kishi Nobuo, Abe Hironobu. Trong đó: Abe Shinzo là Thủ tướng 4 nhiệm kỳ liên tiếp (từ 26/12/2012 đến 16/09/2020); còn Kishi Nobuo là Bộ trưởng Quốc phòng.
Con: Kishi Yoko, Nobukazu Kishi.
Kishi Nobusuke có người em ruột cũng là Thủ tướng. Satō Eisaku – Thủ tướng thứ 61, 62 và 63 của Nhật Bản (từ 09/11/1964 đến 07/07/1972).
Đảng phái: Liberal Democratic Party.
Thời tuổi trẻ, Nobusuke Kishi đã từng đi nhiều nơi để học ngành công nghiệp và chính sách phát triển công nghiệp từ Mỹ, Đức, Nga.
Các chức vụ đã đảm nhiệm:
Thành viên Chúng Nghị viện. Nhiệm kỳ 30/04/1942 – 07/10/1979
Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp. Nhiệm kỳ 18/10/1941-08/10/1943
Sau Đệ nhị thế chiến 08/1945, Kishi Nobusuke bị đi tù 3 năm.
Năm 1952 Nobusuke Kishi quay lại chính trường.
Bộ trưởng Ngoại giao Nhiệm kỳ 23/12/1956 - 10/07/1957
Bộ trưởng Quốc phòng Nhiệm kỳ 31/01/1957 – 02/02/1957
Thủ tướng thứ 56 và 57 của Nhật Bản Nhiệm kỳ 31/01/1957 – 19/07/1960.
Năm 1960 Nobusuke Kishi bị ám sát: Theo báo Japan Times, về mặt chính trị, năm 1960 là một trong những năm hỗn loạn nhất trong lịch sử thời hậu chiến tranh của Nhật Bản, với các nỗ lực ám sát nhắm vào ít nhất 3 nhân vật chính trị tầm cỡ, trong đó có một vụ thành công. Năm 1960, Nobusuke Kishi bị một kẻ ám sát liên kết với các nhóm cánh hữu dùng dao tấn công. Không rõ động cơ tấn công vào thời điểm đó. Ông Kishi may mắn sống sót vì lưỡi kiếm đã đâm trượt các động mạch chính. Tính từ năm 1909 đến nay, đã có 7 thủ tướng và cựu thủ tướng Nhật Bản bị ám sát và tấn công, trong đó có vụ ám sát bất thành cố thủ tướng Kishi Nobusuke, ông ngoại của ông Abe.
Trong nhiệm kỳ Thủ tướng, Kishi Nobusuke có tâm nguyện sửa đổi Điều 9 Hiến pháp của Nhật Bản để khôi phục lực lượng quân đội của Nhật Bản sau thế chiến II nhưng không thành. Đến thời Shinzo Abe tiếp tục hoàn thành tâm nguyện của ông ngoại nhưng vẫn còn dở dang.
Hiến pháp hiện hành của Nhật Bản được ban hành vào ngày 04/05/1947, được xây dựng dưới sự giám sát của lực lượng Mỹ đang chiếm đóng. Điều 9 của văn bản này quy định người dân Nhật Bản chân thành tìm kiếm hòa bình quốc tế dựa trên công lý và trật tự, việc vĩnh viễn từ bỏ quyền phát động chiến tranh, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực được coi là giải pháp giải quyết tranh chấp quốc tế; để đạt được mục đích đó, Nhật Bản không giữ lại lực lượng lục quân, hải quân, không quân và các lực lượng chiến đấu khác. Nhật Bản không thừa nhận quyền giao chiến của đất nước. Vì vậy, Hiến pháp Nhật Bản còn được gọi là “Hiến pháp hòa bình”. Bản hiến pháp này đã đảm bảo hòa bình cho Nhật Bản trong hàng chục năm sau Thế chiến II nhưng Nhật Bản cũng đánh mất đi phần lớn quyền tự chủ về quốc phòng mà một quốc gia bình thường cần có.
Năm 1960, sau khi ký kết Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật và rút lui khỏi chức Thủ tướng, Nobusuke Kishi chuyển từ Nanpeidai sang Tomigaya một thời gian. Sau đó chuyển chỗ ở về khu dinh thự ở tỉnh Shizuoka từ năm 1970. Dinh thực này trở thành nơi sinh sống cho đến cuối đời của Nobusuke Kishi. Ngày 07/08/1987 Nobusuke Kishi qua đời tại Tokyo, thọ 92 tuổi. Ông ra đi với nhiều tâm nguyện chưa thành.
#178
Gửi vào 16/07/2023 - 15:00
Người sáng lập Trung Hoa Dân Quốc
Khi nhắc đến lịch sử hiện đại của Trung Quốc thế kỷ 20, không thể không nhắc đến ông Tôn Trung Sơn, và Tống Khánh Linh. Nếu ông Tôn là người tiên phong của cuộc cách mạng dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc hiện đại, người sáng lập Trung Hoa Dân Quốc và Quốc Dân Đảng Trung Quốc, thì Tống Khánh Linh, vợ của ông, đã có những đóng góp to lớn trong việc giáo dục quyền và nhân văn cho phụ nữ và trẻ em Trung Quốc.
Khi nhắc đến Tôn Trung Sơn thì không thể không nhắc đến người vợ của ông là Tống Khánh Linh – một trong “ba chị em nhà họ Tống” với “ba cuộc hôn nhân nổi tiếng”: chị cả Tống Ái Linh (vợ của Khổng Tường Hi, sau này là Bộ trưởng Bộ Tài chính 1933-1944 và cũng là người giàu nhất Trung Quốc thời điểm đó); chị thứ hai Tống Khánh Linh (vợ của Tôn Trung Sơn, bà cũng từng giữ chức đồng Chủ tịch CHND Trung Hoa với ông Đổng Tất Vũ nhiệm kỳ 1968-1972; và Chủ tịch danh dự năm 1981); cô út Tống Mỹ Linh (vợ của Tưởng Giới Thạch, sau này là Tổng thống Đài Loan).
Trong ba chị em thì Tống Ái Linh được xem là "một người yêu tiền" (一個愛錢), Tống Khánh Linh được xem là "một người yêu nước" (一個愛國), Tống Mỹ Linh được xem là "một người yêu quyền" (一個愛權). Năm 1997 có một bộ phim của Hồng Kông nói về ba chị em nhà họ Tống có tên "Hoàng triều nhà Tống" (Tống gia hoàng triều - 宋家皇朝), có sự tham gia diễn xuất của nữ minh tinh Trương Mạn Ngọc đã miêu tả cuộc sống của ba chị em.
Tôn Trung Sơn (12/11/1866 – 12/03/1925), nguyên danh là Tôn Văn, tự Tải Chi, hiệu Nhật Tân, Dật Tiên là nhà cách mạng vĩ đại, người đóng vai trò quan trọng trong cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911), lật đổ triều đại Mãn Thanh và khai sinh ra Trung Hoa Dân Quốc. Ông được người dân yêu mến, tôn kính và xưng ông là quốc phụ. Cuộc đời của Tôn Trung Sơn đầy sóng gió, lưu lạc, thăng trầm, nhiều lúc tính mạng như chỉ mành treo chuông.
Thời niên thiếu, ông sang Honolulu (quần đảo Ha-oai) ở với người anh buôn bán kinh doanh, ở bên đó ông theo học các trường tiểu học và trung học của người Âu Châu. Năm 1883, Tôn Trung Sơn trở về nước, theo học trường Đại học Y khoa ở Hương Cảng và trở thành bác sĩ. Trong hoàn cảnh đất nước đang bị đế quốc xâu xé, ông thấy việc cứu nguy cho toàn xã hội quan trọng hơn là trị bệnh cho một vài người, nên ông bỏ nghề y tham gia hoạt động chính trị.
Thời trung học, ông học tại trường Iolani, Honolulu được dạy dỗ bởi những người Anh theo Anh giáo. Tại đây, ông lần đầu tiếp xúc với Kitô giáo và bị ấn tượng sâu đậm. Sau đó ông tham dự Nhà thờ Đạo Tế (được sáng lập bởi Hội Truyền giáo London vào năm 1888) trong khi học Y khoa ở Hồng Kông. Việc ông theo đạo Ki-tô liên hệ tới những lý tưởng cách mạng và nỗ lực cải tiến đất nước.
Chiến tranh Nhật – Thanh là cuộc chiến tranh giữa đế quốc Đại Thanh và đế quốc Nhật Bản diễn ra từ ngày 01/08/1894 đến ngày 17/04/1895. Cuộc chiến tranh này đã trở thành biểu tượng về sự suy yếu của nhà Mãn Thanh.
Năm 1894, Tôn Trung Sơn thành lập Hưng Trung Hội ở Honolulu (Ha-oai) là Hội cách mạng đầu tiên của giai cấp tư sản Trung Quốc đề ra Cương lĩnh: “Đánh đuổi giặc Thát, khôi phục Trung Hoa, sáng lập chính phủ hợp quần”. Hội đã thu hút nhiều nhân sĩ và thanh niên Trung Quốc yêu nước tham gia, quyên góp kinh phí, mua sắm vũ khí chuẩn bị các cuộc khởi nghĩa Quảng Châu (1895), Huệ Châu (1898) dự định kết hợp với phong trào phản đế của Nghĩa Hòa Đoàn ở miền Bắc, nhưng đã không thành công, ông lại phải lưu vong ra nước ngoài.
Năm 1895 ông bị vây bắt ở Hương Cảng về tội chuyên chở võ khí lậu về Trung Hoa, ông nhờ may mắn nên thoát nạn.
Năm 1896 ông bị giam giữ ở Tòa lãnh sự Trung Hoa tại Luân Đôn, chỉ chờ giờ là giải ông xuống tàu về nước thọ lãnh án tử hình, may nhờ Bộ Ngoại giao Anh can thiệp kịp thời nên thoát chết.
Năm 1905, Tôn Trung Sơn hợp nhất Hưng Trung hội với một số tổ chức cách mạng ở trong nước, lập thành “Trung Quốc Đồng Minh Hội” do ông làm Tổng lý. Trên tờ Dân báo, cơ quan ngôn luận của Hội, ông đã đề xướng Chủ nghĩa Tam dân: “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Từ đó, phong trào cách mạng tiến mạnh hơn trước.
Từ 1905, Trung Quốc Đồng Minh Hội tổ chức nhiều cuộc binh biến ở các tỉnh miền Nam, nhưng không thành công. Thời điểm đó, bất mãn vì nhà Thanh quốc hữu hoá đường sắt Xuyên-Hán, Việt-Hán để gán nợ cho Anh, Pháp, Đức, Mỹ; nhân dân các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Đông, Tứ Xuyên nổi dậy phản đối.
Ngày 10/10/1911, lợi dụng thời cơ nhà Thanh điều quân đội từ Vũ Xương đến Trùng Khánh, vào ban đêm binh lính ở Vũ Xương đã nổi dậy. Đây là kết quả của một cuộc vận động lâu dài của Trung Quốc Đồng minh Hội. Mờ sáng hôm sau thì quân cách mạng chiếm được Vũ Xương. Sách sử gọi là Khởi Nghĩa Vũ Xương. Thắng lợi này đã cổ vũ các tỉnh khác tuyên bố ly khai với nhà Thanh, làm nên cuộc Cách mạng Tân Hợi 1911.
Ngày 02/11/1911, Viên Thế Khải (họ Viên là một đại thần cuối thời nhà Thanh) cho quân đánh chiếm lại Hán Khẩu, sau đó cho bao vây Vũ Xương.
Ngày 15/11/1911, đại biểu quân cách mạng ở các tỉnh về Thượng Hải dự hội nghị, nhưng đến ngày 24/11/1911 thì bị vây phải dời về Vũ Xương. Nơi này lại bị vây, hội nghị phải họp trong tô giới Anh ở Hán Khẩu.
Ngày 02/12/1911, quân cách mạng chiếm được Nam Kinh, hội nghị liền dời về đây để bầu đại Tổng thống, lập Chính phủ lâm thời.
Ngày 25/12/1911, Tôn Trung Sơn từ Mỹ về nước.
Ngày 29/12/1911, Tôn được đại biểu của 17 tỉnh dự họp bầu làm Đại tổng thống lâm thời, và lấy ngày 01/01/1912 làm ngày khai sinh của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc. Ông đã ban bố bản Lâm thời ước pháp (Hiến pháp lâm thời) để làm cơ sở cho việc xây dựng nước Trung Hoa dân quốc.
Được tin, Viên Thế Khải liền tìm mọi cách tấn công vào chính quyền mới. Vừa bị quân đội của Viên Thế Khải uy hiếp, vừa bị các nước đế quốc thu hết thuế quan (họ không công nhận chính phủ của Tôn Dật Tiên), nên chính phủ Cộng hòa gặp rất nhiều khó khăn.
Tôn Trung Sơn xuất thân từ ngành y, nhưng các hoạt động chính trong suốt cuộc đời của ông lại tập trung vào đấu tranh vũ trang. Từ khởi nghĩa Quảng Châu năm 1895 đến khởi nghĩa Hoàng Hoa Cương (Quảng Châu) ngày 27/04/1911, cả 10 lần bạo động vũ trang đều do ông lãnh đạo phát khởi từ Đồng Minh hội và Trung Hưng hội. Ảnh hưởng to lớn từ tư tưởng Tôn Dật Tiên và tổ chức bí mật Đồng Minh hội trong quân Thanh đã dẫn đến cuộc khởi nghĩa Vũ Xương, cuối cùng khiến triều đình Mãn Thanh bị lật đổ. Sau khi Tôn Trung Sơn được bầu làm đại tổng thống lâm thời, không chỉ Viên Thế Khải và các thủ hạ quân đội Bắc Dương mới của Viên luôn chực chờ như hổ đói, mà các đội quân khác cũng đang hùng cứ các nơi. Khi đó, Trung Hoa Dân Quốc vừa mới thành lập, Đại Tổng thống Tôn Trung Sơn nắm đảng cầm quyền nhưng trong tay lại không có quân đội, vậy nên ông khó có thể thi triển được hùng tâm tráng chí của mình. Ngay ở những ngày đầu tiên khi Trung Hoa vừa thoát khỏi ách chuyên chế phong kiến, lãnh tụ Dân quốc của họ (Tôn Trung Sơn) đã có chủ trương sai lầm. Chỉ sau một tháng kể từ khi nhậm chức, Tôn Trung Sơn đã thoái lui, nhường ghế Đại Tổng thống lại cho Viên Thế Khải, chỉ kèm theo điều kiện đã hiển nhiên diễn ra: Viên Thế Khải phải bắt Hoàng đế Phổ Nghi thoái vị, xếp lịch sử phong kiến Trung Hoa vào viện bảo tàng và phải tuyên thệ tuyệt đối trung thành với Chính phủ Cộng hòa.
So với lời thề trung thành với chế độ cộng hòa thì mộng bá vương với Viên Thế Khải còn quan trọng hơn gấp bội. Sau khi thu tóm được quyền lực, họ Viên lập tức tiến hành hàng loạt động thái chống lại nền Cộng hòa non trẻ. Ông ta cách chức một loạt tỉnh trưởng, đốc quân các tỉnh.
Ngày 20/03/1913, một đảng viên trọng yếu của Trung Quốc Đồng Minh hội là Tống Giáo Nhân bị mưu sát mà người chủ mưu là một viên chức cao cấp trong Chính phủ của Viên Thế Khải. Vì việc này mà Tôn Dật Tiên tuyên bố chống Viên Thế Khải.
Tháng 08/1913, vì sợ Viên Thế Khải lộng quyền, Trung Quốc Đồng Minh Hội do Tôn Trung Sơn thành lập (từ trước) được cải tổ thành Quốc dân Đảng, lấy ưu thế chiếm đa số, tìm cách nhanh chóng thông qua Quốc hội kiềm giữ tham vọng xưng Hoàng đế của Viên. Đáp lại, người của Viên Thế Khải đã thủ tiêu, ám sát một số nhân vật quan trọng của Quốc dân Đảng. Đồng thời, Tôn Trung Sơn cũng tập hợp các lực lượng cách mạng ở các tỉnh phía Nam chống lại họ Viên, nhưng bị đàn áp nhanh chóng và thất bại (lịch sử gọi là Cuộc cách mạng lần thứ hai). Để lên ngôi Hoàng đế, Viên Thế Khải đã thỏa hiệp cho Nhật chiếm đóng một phần lãnh thổ để được họ làm lực lượng hậu thuẫn.
Sau thất bại, Tôn Trung Sơn và nhiều đồng chí của mình đã phải sống lưu vong tại Nhật Bản. Người bạn thân thiết của Tôn Trung Sơn là Tống Diệu Như (Tống Gia Thụ - sau này là cha vợ), một thương gia giàu có nhưng rất có cảm tình với Đảng cách mạng, đã hỗ trợ ông rất nhiều trong thời gian hoạt động tại Nhật Bản. Lúc đó, người con gái lớn của Tống Diệu Như là Tống Ái Linh làm thư ký tiếng Anh cho Tôn Trung Sơn và người con gái thứ hai là Tống Khánh Linh vẫn đang lưu học tại Mỹ. Tống Khánh Linh nhiều lần gặp mặt và rất sùng bái Tôn Trung Sơn, cô mang hy vọng cháy bỏng được theo ông tham gia cách mạng. Khi Tống Ái Linh kết hôn với Khổng Tường Hi (sau này là Bộ trưởng Tài chính 1933-1944 và cũng là người giàu nhất Trung Quốc thời điểm đó) và không thể tiếp tục đảm nhận vai trò thư ký tiếng Anh cho Tôn Trung Sơn, thì Tống Khánh Linh liền chủ động đề xuất đảm nhận công việc này. Kể từ đây tình yêu bền chặt keo sơn giữa hai người đồng chí cùng chung chí hướng đã nảy sinh. Mối tình giữa ông Tôn Trung Sơn và bà Tống Khánh Linh đã bị những định kiến xã hội ảnh hưởng rất lớn vào thời điểm đó. Trong thời đại đầy biến động đó, Tống Khánh Linh kém ông Tôn Trung Sơn 27 tuổi nên đã có rất nhiều người đồn đoán ác ý về mối quan hệ của họ. Trải qua nhiều khó khăn, thị phi, cả hai đi đến kết hôn vào năm 1915 sau khi Tôn Trung Sơn ly dị người vợ đầu tiên là Lư Mộ Trinh. Tôn Trung Sơn và Tống Khánh Linh chung chí hướng rằng phải tạo ra một cuộc cách mạng mới, để tương lai Trung Quốc ngày càng tốt đẹp hơn, cuộc sống dân chúng ngày một tốt hơn.
Trong thời gian Tôn Trung Sơn bỏ sang Nhật sống lưu vong. Các nghị viên thuộc Quốc dân đảng chiếm đa số cũng nhanh chóng bị Viên Thế Khải tống cổ ra khỏi Quốc hội, buộc số còn lại phải thừa nhận quyền lực của ông ta.
Năm 1914, Viên Thế Khải giải tán luôn Quốc hội, vay 25 triệu bảng từ các nước đế quốc Anh, Pháp, Nga, Nhật, Đức để củng cố quân đội riêng, chống lại nền Cộng hòa. Không chấp nhận được điều đó, hàng loạt thủ lĩnh quân sự, chính trị Trung Quốc ở khắp nơi đã nổi lên chống Viên Thế Khải, tuyên bố ly khai, hình thành nên nạn cát cứ, đưa Trung Quốc bước vào giai đoạn hỗn loạn Bắc Dương quân phiệt. Bản thân Viên Thế Khải sau đó đã lên ngôi, làm hoàng đế Trung Hoa được 83 ngày thì chết ở tuổi 57.
Năm 1916 cái chết của Viên Thế Khải đã dẫn đến sự phân hóa sâu sắc cả hệ thống chính trị Trung Quốc và sự kết thúc của Chính phủ Bắc Dương với tư cách là cơ quan trung ương của Trung Hoa Dân quốc.
Tháng 09/1917, Tôn Trung Sơn đi về phía nam đến Quảng Châu, đảm nhiệm chức vị đại nguyên soái của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc và tổ chức quân đội bảo vệ Hiến Pháp. Ông sử dụng “Kế hoạch tác chiến đối kháng lại quân đội phương Bắc” do Tưởng Giới Thạch đề xuất để phát động cuộc chiến bảo vệ Hiến Pháp và thảo phạt Đoàn Kỳ Thụy, mấy tháng liền thường xuyên có tin vui. Không ngoài dự liệu của quân chủ lực bảo vệ Hiến Pháp, các sứ quân của Đường Kế Nghiêu và Lục Vinh Đình vì lợi ích cá nhân đã tự ý cầu hòa với phương Bắc và âm mưu với các tướng lĩnh nhằm lũng đoạn quyền lực của đại nguyên soái. Bởi vậy nên vào tháng 05/1918, Tôn Trung Sơn tức giận từ chức đại nguyên soái.
Ngày 05/04/1919 khi phong trào Cách mạng Ngũ Tứ chống phong kiến cát cứ, chống đế quốc thôn tính đất đai Trung Quốc, chống hiệp ước Verseille cắt tỉnh Sơn Đông từ tay Đức sang giao cho Nhật Bản… thành công, Tôn Trung Sơn và Tống Khánh Linh từ Nhật Bản trở về Thượng Hải, tiếp tục lãnh đạo cách mạng.
Năm 1920, ông xuống Quảng Châu đảm nhận chức đại nguyên soái và triển khai “Phong trào hộ pháp”, tuy nhiên đã bị tập đoàn quân phiệt và giới chính khách phản bội, Tôn Trung Sơn phẫn nộ từ chức trở về Thượng Hải.
Tháng 01/1921, hội nghị đại hội Quốc hội bất ngờ diễn ra tại Quảng Châu. Vào tháng 4, Tôn Trung Sơn được bầu làm Tổng thống và Trần Quýnh Minh được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh quân đội Quảng Đông, một lần nữa chuẩn bị cho cuộc Bắc phạt để thống nhất Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch đã sớm nhìn ra Trần Quýnh Minh là loại người không đáng tin cậy, nên đã sớm cảnh báo cho Tôn Trung Sơn nhưng ông bỏ ngoài tai và cái gì phải đến đã đến, Tôn Trung Sơn đã trả một cái giá rất đắt.
Ngày 16/6/1922, Trần Quýnh Minh trở mặt phản bội và ra lệnh hơn 4.000 binh lính vây chặt phủ Tổng thống, lại dùng đại bác và máy bay bỏ bom bắn phá phủ Tổng thống. Tôn Trung Sơn buộc phải liều mạng vượt qua rừng súng mưa đạn, rời khỏi phủ Tổng thống, đi bộ tới Bộ tư lệnh Hải quân trên con đê dài. Sau đó bước lên chiến hạm Vĩnh Phong, chỉ huy hải quân đánh trả quân phiến loạn. Trong lúc hoạn nạn, Tôn Trung Sơn đã nghĩ tới Tưởng Giới Thạch. Lúc này Tưởng Giới Thạch đang cúng giỗ một năm ngày qua đời của mẹ ở Triết Giang. Tôn Trung Sơn liền sai người đánh đi một bức điện khẩn: ”Việc nguy cấp, mong tới đây ngay”. Sau khi Tưởng nhận được bức điện, đã cấp tốc tới Quảng Đông lặng lẽ bước lên chiến hạm Vĩnh Phong, hộ vệ Tôn Trung Sơn, sau đó Tôn Trung Sơn thoát nạn. Sự kiện phiến quân Trần Quýnh Minh một lần nữa nêu bật sự cần thiết phải thành lập quân đội quốc gia. Sau sự kiện đó, Tôn Trung Sơn bắt đầu xem xét khả năng khi liên minh với các lực lượng quân sự khác.
Sau khi kết hôn với Tôn Trung Sơn, Tống Khánh Linh vẫn làm công việc phụ giúp ông Tôn Trung Sơn. Cô đã chăm sóc ông Tôn Trung Sơn bằng mọi cách có thể. Do hết lòng với cách mạng và công việc bận rộn nên cả hai vẫn chưa có con sau nhiều năm chung sống. Mãi đến năm 1922, bảy năm sau khi hai người kết hôn, Tống Khánh Linh mang thai, đây là lần mang thai duy nhất trong đời cô. Vào tháng 06/1922, khi Trần Quýnh Minh phát động một cuộc binh biến ở Quảng Châu, đã bắn phá dinh tổng thống. Khi đó, Tống Khánh Linh đang mang thai và khả năng vận động hạn chế. Chính bà Tống Khánh Linh đã nhất quyết yêu cầu ông Tôn Trung Sơn rời khỏi Phủ Chủ tịch trước, Tống Khánh Linh cũng rời khỏi Phủ Chủ tịch sau đó, nhưng trong quá trình này, bà cũng mất đi đứa con duy nhất của mình.
Đầu năm 1924 Tôn Trung Sơn cử Tưởng Giới Thạch lập kế hoạch xây dựng Trường quân sự Hoàng Phố, cử Tưởng Giới Thạch làm chủ tịch ủy ban trù bị của Học viện Quân sự Hoàng Phố để thành lập trường quân sự và lực lượng quân sự của riêng mình. Năm 1924 trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Quốc Dân Đảng Trung Quốc, Tôn Trung Sơn đã tuyên bố thực hiện 3 chính sách lớn “liên Nga, liên Cộng và giúp đỡ nông dân”, tiếp nhận sự trợ giúp của Đảng CSTQ và Đảng CS Liên Xô, cải tổ Quốc Dân Đảng.
Lúc này, bản đồ Trung Quốc đã bị băm nhỏ, mỗi địa phương bị cát cứ bởi một tập đoàn tướng lĩnh quân phiệt, khi hợp tung, lúc liên hoành đánh nhau hỗn loạn. Trước tình hình đó, Tôn Trung Sơn đã quyết định liên minh với Đảng CSTQ vào năm Dân quốc thứ 5 (năm 1924) nhằm đoàn kết tạo sức mạnh chính trị chống nạn cát cứ quân phiệt. Ông phong cho Tưởng Giới Thạch làm Tư lệnh quân Bắc phạt.
Năm 1924 biểu hiện bệnh gan của Tôn Trung Sơn cũng chưa rõ ràng, nhưng tới tháng 01/1925, bệnh tình của Tôn Trung Sơn bỗng trở nên trầm trọng. Lúc này, ông đang khổ sở chống chọi căn bệnh ung thư gan. Ngày ngày, Tống Khánh Linh túc trực bên giường bệnh của chồng. Bà chăm sóc ông hết mực, một bước không rời đức phu quân. Đau khổ xót xa, nhưng người phụ nữ ấy vẫn cứng cáp, vững vàng. Bà nén buồn thương, giấu nước mắt trong lòng. Ngày 12/3/1925, nhà lãnh đạo họ Tôn vĩnh viễn rời xa cuộc đời với biết bao tâm nguyện còn dang dở. Phút lâm chung, ông cố góp chút hơi tàn căn dặn mọi người hãy đối xử thật tốt với người vợ yêu của mình.
Sau khi Tôn Trung Sơn mất, quyền lãnh đạo Quốc Dân đảng do Tưởng Giới Thạch nắm giữ. Cái chết của Tôn Trung Sơn là một tổn thất lớn cho phong trào cách mạng Trung Quốc lúc đó.
Năm 1925, khi Tôn Trung Sơn qua đời tại Bắc Kinh, bà Tống Khánh Linh vô cùng đau buồn. Ba bức thư mà Tôn Trung Sơn để lại cũng là người trao gửi những thành quả cách mạng và tâm nguyện cuối đời của ông cho Tống Khánh Linh. Chính với sự giao phó của ông Tôn Trung Sơn, trong mấy chục năm sau, bà âm thầm chịu đựng nỗi cô đơn và làm việc chăm chỉ để hoàn thành tâm nguyện cuối cùng của ông Tôn. Sau cái chết của Tôn Trung Sơn cũng mở ra nửa thế kỷ hỗn loạn nhất ở Trung Quốc.
Để ghi nhớ những đóng góp của vị lãnh tụ vào cuối thời kỳ nhà Thanh, Nhà tưởng niệm Tôn Trung Sơn được xây dựng tại Đài Bắc và hoàn thành vào năm 16/05/1972. Với lối kiến trúc cổ xưa pha lẫn nét hiện đại, tòa kiến trúc tráng lệ và uy nghiêm được đặt trong không gian quảng trường Chung Shan với tượng đài Tôn Trung Sơn uy nghi, vững chắc như cánh tay vững chắc bảo vệ cho nhân dân cả khu vực, nhiều hoa tô điểm xung quanh.
Tại đại lục, Tôn Trung Sơn được xem là “Cách mạng tiên hành giả” (người tiên phong của cách mạng) và tên của ông thậm chí còn được đề cập tới trong lời tựa Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Có thể nói, ông là một nhà cách mạng vĩ đại, người cả đời theo đuổi lý tưởng cách mạng, trải qua bao thăng trầm để khai sinh ra Trung Hoa Dân Quốc.
Tại TPHCM, Quận 7 hiện nay chúng ta cũng thấy có con đường mang tên Tôn Dật Tiên tại khu đô thị Phú Mỹ Hưng.
Sửa bởi NhatHanh: 16/07/2023 - 15:06
Thanked by 3 Members:
|
|
#179
Gửi vào 18/07/2023 - 01:22
Thanked by 1 Member:
|
|
#180
Gửi vào 22/07/2023 - 00:35
- Jawaharlal Nehru.
Từ khi Ấn Độ giành được độc lập vào năm 1947, trong chính trường có một gia tộc rất nổi bật vì 3 đời làm Thủ tướng, đó là gia tộc Nehru - Gandhi: Thủ tướng đầu tiên Jawaharlal Nehru, Thủ tướng thứ ba Indira Gandhi và Thủ tướng thứ tư Rajiv Gandhi.
Từ năm 1858 thế kỷ 19, Ấn Độ đã bị thực dân Anh cai trị trực tiếp. Ngày 1/1/1877, Nữ hoàng Anh tuyên bố đồng thời là Nữ hoàng Ấn Độ. Ấn Độ bị thực dân Anh thi hành chính sách ngu dân gần 100 năm, khuyến khích tập quán lạc hậu và hủ tục cổ xưa.
Nói đến chính trị Ấn Độ thế kỷ 19 phải nói đến Đảng Quốc đại, chính đảng đầu tiên của giai cấp tư sản Ấn Độ. Đảng Quốc Đại Ấn Độ thành lập từ năm 1885 và là đảng phái có sự nghiệp chính trị đồ sộ nhất trong lịch sử nước này. Đây là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh giành độc lập từ tay thực dân Anh. Đảng Quốc đại gắn liền với gia tộc Nehru – Gandhi vì có nhiều đời làm Chủ tịch đảng.
Thế kỷ 20, sau Thế chiến I, phong trào đòi độc lập diễn ra khắp nơi, nổi bật nhất là phong trào bất bạo động của nhà lãnh đạo Mahatma Gandhi.
Trong Thế chiến II, Vương quốc Anh hứa sẽ trao trả độc lập cho Ấn Độ để đổi lấy việc người Ấn tham chiến. Sau Thế chiến II, kinh tế Anh bị thiệt hại nặng nề, và việc duy trì thuộc địa ở Ấn Độ trở thành một gánh nặng. Thủ tướng Anh khi đó là Clement Atlee tuyên bố rút khỏi Ấn Độ, dự kiến vào tháng 6/1948.
Từ nhiều thế kỷ, ba tôn giáo chính ở Ấn Độ là đạo Hindu, đạo Hồi và đạo Sikh tồn tại xen kẽ. Ngày 16/8/1946, thủ lĩnh Hồi giáo Jinnah kêu gọi người Hồi giáo tổng đình công trên toàn Ấn Độ để đòi ly khai. Bạo loạn bùng phát ở Calcutta, thủ phủ tỉnh Tây Bengal, châm ngòi cho một tuần đẫm máu mang tên "Đại thảm sát Calcutta" khiến khoảng 5.000 người thiệt mạng.
Năm 1947, người Hồi giáo tấn công và áp đảo người Sikh ở tỉnh Punjab.
Để khỏi phải chịu trách nhiệm cho cảnh bạo lực ngày một trầm trọng, Toàn quyền Louis Mountbatten quyết định đẩy ngày độc lập cho Ấn Độ sớm hơn, tức ngày 15/08/1947 thay vì tháng 06/1948 như dự kiến.
Ngày 15/08/1947, Ấn Độ được chia thành hai quốc gia dựa trên sự khác biệt tôn giáo. Theo đó, các tỉnh đa số người Hồi giáo thuộc về Pakistan, các tỉnh đa số người Hindu thuộc về Ấn Độ. Tỉnh Punjab và Bengal bị chia đôi với ranh giới chưa được quyết định.
Ngày 14-15/8/1947, Pakistan và Ấn Độ lần lượt tuyên bố độc lập mặc dù chưa rõ ranh giới lãnh thổ.
Mahatma Gandhi, linh hồn của phong trào độc lập, từ chối ăn mừng ở Delhi. Thất vọng vì cách tiến hành việc chia cắt, ông đến Calcutta nơi bạo lực đang hoành hành để tuyệt thực và cầu nguyện.
Jawaharlal Nehru được Quốc hội bầu làm Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ độc lập, mặc dù câu hỏi về lãnh đạo đã được giải quyết từ năm 1941, khi Mahatma Gandhi thừa nhận Nehru là người thừa kế chính trị của ông.
…
Jawaharlal Nehru sinh ngày 14/11/1889 tại Allahabad, là con trai của luật sư Motilal Nehru - cựu Chủ tịch Đảng Quốc Đại. Motilal Nehru là một luật sư ưu tú, hoạt động tích cực trong phong trào đấu tranh giành độc lập cho Ấn Độ ngay từ thời kỳ đầu và trở thành Chủ tịch đảng Quốc Đại 1919-1920 và 1928-1929. Motilal Nehru và Mahatma Gandhi không có huyết thống. Motilal Nehru là một trong những người bạn cách mạng sớm nhất của Mahatma Gandhi trong đảng Quốc đại.
Jawaharlal Nehru xuất thân từ tầng lớp quý tộc, du học tại Anh từ năm 15 tuổi, theo học Trường Harrow, rồi sau đó là Đại học Trinity ở Cambridge. Ông nghiên cứu luật tại Hội luật sư Inner Temple ở London.
Năm 1912 Nehru quay trở lại Ấn Độ và hành nghề luật trong vài năm.
Năm 1916, ông kết hôn với Kamala Kaul, năm sau đó (1917) họ sinh một người con gái và đặt tên là Indira Gandhi.
Năm 1919, nối gót cha mình làm cách mạng, Nehru tham gia Đảng Quốc đại Ấn Độ và đấu tranh đòi quyền tự chủ lớn hơn từ người Anh.
Trong các thập niên 1920 và 1930, có hơn 10 năm, Nehru liên tục bị người Anh giam giữ trong tù do các hành vi bất tuân dân sự của mình. Ngay cả khi ở trong tù, Jawaharlal Nehru vẫn cùng với Mahatma Gandhi lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ chống thực dân Anh.
Đến năm 1929, Jawaharlal Nehru kế nhiệm cha mình (ông Motilal Nehru) trong cương vị Chủ tịch đảng Quốc Đại. Với uy tín và tài năng của mình, Jawaharlal Nehru nhiều lần được bầu làm Chủ tịch Đảng Quốc đại (các năm 1929-1930, 1936-1937, 1946, 1951-1954).
Trước ý chí đấu tranh kiên quyết của nhân dân Ấn Độ, đặc biệt là trong phong trào chống thực dân Anh được phát động vào năm 1942, buộc thực dân Anh đã phải ngồi vào bàn thương thuyết với Ấn Độ.
Đến cuối Thế chiến thứ hai, Nehru được xem như người kế nhiệm Mahatma Gandhi. Ông đóng vai trò trung tâm trong những cuộc đàm phán độc lập cho Ấn Độ.
Năm 1947, Jawaharlal Nehru phản đối quan điểm của Liên đoàn Hồi giáo yêu cầu chia cắt Ấn Độ theo tôn giáo. Louis Mountbatten, Phó vương người Anh cuối cùng của Ấn Độ, đã ủng hộ sự chia cắt lãnh thổ bởi đây là giải pháp nhanh nhất và khả thi nhất. Nehru cuối cùng cũng miễn cưỡng đồng ý.
Ngày 15/8/1947, Ấn Độ tuyên bố độc lập, Nehru được bầu làm Thủ tướng đầu tiên của nước Ấn Độ độc lập, đồng thời kiêm nhiệm chức Ngoại trưởng Ấn Độ.
Những chức vụ Nehru đã đảm nhiệm:
1/-Bộ trưởng Quốc phòng: Nhiệm kỳ từ 10/02/1953-10/01/1955; Nhiệm kỳ từ 30/01/1957-17/04/1957; Nhiệm kỳ từ 31/10/1962-14/11/1962.
2/-Bộ trưởng Tài chính: Nhiệm kỳ từ 24/07/1956-30/08/1956; Nhiệm kỳ từ 13/02/1958-13/03/1958.
3/-Bộ trưởng Ngoại giao: Nhiệm kỳ từ 15/08/1947 đến 27/05/1964: 16 năm 286 ngày.
4/-Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ: Nhiệm kỳ từ 15/08/1947 đến 27/05/1964: 16 năm 286 ngày.
Hiến pháp Ấn Độ đã được ban hành vào năm 1950, sau đó Nehru bắt tay vào một chương trình đầy tham vọng về cải cách kinh tế, xã hội và chính trị. Ông đã tiến hành những cải cách kinh tế – xã hội đáng kể và gắn Ấn Độ với chính sách công nghiệp hóa. Chủ yếu, ông giám sát quá trình chuyển đổi của Ấn Độ từ một thuộc địa sang một nước cộng hòa, trong khi nuôi dưỡng một hệ thống đa nguyên, đa đảng. Trong chính sách đối ngoại, ông giữ vai trò lãnh đạo trong Phong trào không liên kết. Ông là một trong những người Ấn Độ đầu tiên đã đưa ánh sáng khoa học của thế kỷ chiếu rọi vào lịch sử rất đa dạng, phong phú nhưng cũng đượm màu huyền bí của Ấn Độ; và đã phát hiện ra những mâu thuẫn giữa một bên là tiềm năng vô tận của đất mẹ và một bên là thực tế nghèo nàn của đại đa số nhân dân Ấn Độ.
Nehru là người đã đưa ra sáng kiến triệu tập hội nghị các nước châu Á năm 1947 và là một trong những người sáng lập Phong trào không liên kết. Chính sách hòa bình không liên kết, chống đế quốc của ông đã mang lại uy tín lớn lao cho đất nước Ấn Độ, đồng thời góp phần làm dịu tình hình căng thẳng trên thế giới, củng cố hòa bình và hợp tác giữa các nước. Trong thời kỳ ‘chiến tranh lạnh’ (1947-1991), Nehru cho Ấn Độ thi hành chính sách ‘trung lập tích cực’. Chính ông cũng là vị thượng khách đầu tiên đến thăm Hà Nội sau khi thủ đô nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà mới giải phóng được 1 tuần lễ. Ông và Chủ tịch H.C.M đã đặt nền móng cho quan hệ hữu nghị bền chặt Ấn Độ và Việt Nam.
Năm 1962, tranh chấp ở biên giới Trung – Ấn đã leo thang thành chiến tranh, quân Ấn Độ bị đánh bại hoàn toàn. Sự việc này tác động mạnh đến tình trạng sức khỏe đang suy yếu của Nehru. Sau thất bại trong xung đột với Trung Quốc vào năm 1962, Nehru nhận thấy quân đội Ấn Độ cần thiết phải có vũ khí hạt nhân. Sau đó, Ấn Độ dưới sự chỉ đạo của Nehru đã khẩn trương bắt tay vào nghiên cứu vũ khí nguyên tử (hay còn gọi là vũ khí hạt nhân) và công việc được chính thức bắt đầu vào năm 1965 dưới thời tiến sỹ Homi Bhabha. Quá trình nghiên cứu và phát triển có những bước đột phá dưới thời nữ Thủ tướng Indira Gandhi. Năm 1974, Ấn Độ thử nghiệm vụ nổ plutonium đầu tiên của mình. Trải qua 35 năm nghiên cứu, Ấn Độ chính thức tuyên bố sở hữu vũ khí nguyên tử vào năm 1998, với việc liên tiếp thử nghiệm 5 vụ thử hạt nhân, trong đó một quả bom nhiệt hạch và bốn quả bom phân hạch.
Trong lúc Nehru còn quá nhiều kế sách đang thực hiện thì Nehru đột ngột qua đời vào ngày 27/5/1964 sau một cơn đau tim nặng, hưởng thọ 76 tuổi. Thi hài ông được hỏa táng, tro được đem trải khắp đồng ruộng Ấn Độ và được thả xuống dòng sông Hằng ở nơi thành phố quê hương ông.
Jawaharlal Nehru không chỉ là một nhà hoạt động chính trị lỗi lạc của thế kỷ 20, mà còn là một nhà văn hóa, khoa học và triết học tài năng. Ông đã để lại cho đất nước Ấn Độ và nhân loại một di sản văn hóa lớn. Các tác phẩm của ông thể hiện trí tuệ triết học sâu sắc và niềm tin bất diệt ở tiến bộ xã hội, như cuốn “Tiểu sử tự thuật” (năm 1936), “Sự thống nhất Ấn Độ” (năm 1941), “Sự phát hiện Ấn Độ”… Đặc biệt trong tác phẩm “Sự phát hiện Ấn Độ” nổi tiếng khắp thế giới, Nehru đã đi sâu tìm hiểu “tính sách dân tộc Ấn” và những giá trị to lớn của nền văn hóa Ấn Độ. Ông đã đưa ra những ý kiến sắc sảo về sự “không đoạn tuyệt”, “không bao giờ quên” những di sản huy hoàng trong quá khứ của đất nước Ấn Độ.
Để vinh danh cho Jawaharlal Nehru sau khi ông qua đời, chính phủ Ấn Độ thành lập Giải Jawaharlal Nehru hàng năm. Giải này được thiết lập năm 1965, do "Hội đồng quan hệ Văn hóa Ấn Độ" (Indian Council for Cultural Relations) quản lý, dành cho những người "có đóng góp xuất sắc vào việc thúc đẩy sự Thông cảm quốc tế, thiện chí và tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới". Khoản tiền thưởng của giải là 2,5 triệu rupee tương đương 800 triệu VNĐ.
Sau khi J. Nehru qua đời (27/05/1964), giai đoạn ổn định tương đối của Ấn Độ chấm dứt. Ấn Độ lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt. Nạn thiếu lương thực trầm trọng và kéo dài, đặc biệt là những năm 1965 - 1966.
Ngày 19/01/1966, sau khi Thủ tướng kế nhiệm J. Nehru, ông L.B. Saxtri qua đời, bà Indira Gandhi (con gái của cố Thủ tướng J. Nehru) trở thành vị Thủ tướng thứ ba của Cộng hoà Ấn Độ.
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
![]() Các Công tố viên Liên bang Xem xét Lệnh khám xét đối với các Email của Giuliani. Barr sớm sẽ không thể giúp đỡ |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
![]()
|
|
![]() ![]() làm nhà nước không vì tiền vậy vì cái gì |
Linh Tinh | QuyenLocTamMinh |
|
![]()
|
|
![]() Lá số tử vi không phải là của bạn (mà là của cha mẹ bạn) |
Mệnh Lý Tổng Quát | iamthat |
|
![]() |
|
![]() Chấn động: Tòa ra lệnh, Trump không được áp thuế cả thế giới để 'giải phóng Mỹ' |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
![]() |
|
![]() Cách ăn hạt đu đủ chữa bệnh – 99% người không biết dùng đúng |
Y Học Thường Thức | FM_daubac |
|
![]() |
|
![]() Gạo Giả – Sữa Giả – Thuốc Giả: 4 Dấu Hiệu Nhận Biết Không Cần Công Nghệ |
Y Học Thường Thức | FM_daubac |
|
![]() |
4 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 4 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












