Phần 1Trích dẫn
Ta lấy ví dụ, hiện tượng đòi nợ, xiết nợ:
1-Chả cần biết thế nào, mình là người đi đòi, thằng khác bị đòi, là cát đã.
Từ đây, người ta phát minh ra tử vi bắc phái.
2-Từ quan điểm của ông thẩm phán, không cần biết ai đòi ai, phải tuân thủ pháp luật. Đằng nào t*o cũng có được xu teng nào đâu.
Tuân thủ pháp luật, gọi là miếu vượng. Dùng đầu gấu xã hội đen,thủ đoạn để đòi, gọi là hãm địa.
Các thần sát được sử dụng ở đây, như là các công cụ để đòi nợ.
Từ đây, người ta phát minh ra tử vi Nam Phái.
3-Cứ cho, mình đi đòi người ta, cứ cho đúng pháp luật đi. Nhưng đòi được bao nhiêu.
Như siêu lừa Huyền Như, nợ 4000 tỷ, đòi bằng cách ra tòa, đúng pháp luật, mình là người đi đòi nhưng có được xu teng nào đâu?
Từ đây, người ta phát minh ra lý thuyết cung khí.
Everything should be
made as
simple as possible,
but not simpler.
Như vậy, chúng ta chưa cần nói nhiều, chỉ cần mỗi hiện tượng đòi nợ đơn giản, đã yêu cầu phải xét tới tối thiểu 3 chiều không gian. Mọi thủ pháp mà giảm số chiều từ 3 chiều xuống thấp hơn, đều chắc chắn đưa tới sự không toàn vẹn về lý thuyết.
Cháu cũng ví dụ hiện tượng thứ 2, khán một cô cung phu thê tốt hay xấu, theo cháu không có giá trị gì hết, lý do tốt xấu chỉ là 1 chiều. Thực tiễn cho thấy:
1-Chồng giàu mà bỏ chồng.
2-CHồng nghèo mà sống hạnh phúc.
3-Chồng giàu, sống hạnh phúc.
4-Chồng nghèo mà sống bất hạnh.
5-Chồng giàu, sốngg hạnh phúc, nhưng lại bị xe cán chết.
6- Chồng nghèo, sống bất hạnh, nhưng sống khỏe mạnh tới năm 90 tuổi, ngày ngày ck tập võ đấm bốc một lần sau khi uống rượu.
7-Chồng giỏi giang, hai vợ ck sống với nhau hạnh phúc, chồng khỏe mạnh, nhưng bỏ nhau vì bà mẹ vợ quái ác.
.........
Cháu cho rằng, đây là các câu hỏi hết sức nền tảng mà đương số cần phải biết. Vì các câu hỏi được đặt ra như vậy, mình cần phải phát triển các lý thuyết làm sao cho mọi thứ vừa tương thích tốt với thực tế, lại vừa đủ đơn giản để các tính toán có thể thực hiện được trong thời gian đủ ngắn.
Phần 2
Vì rằng, bác và cháu đều thống nhất về tính kế thừa, nên tạm thời cháu không bàn về việc sử dụng các kĩ xảo bên ngoài vào lá số. [Ví dụ, tại thời điểm nhận được lá số, cháu độn một quẻ dùng ngay Mai Hoa Thần Số (không phải mai hoa dịch số), rồi dùng tiếp càn khôn thăng giáng 12 lần để rồi dùng tiếp lý thuyết của ngài Kinh Phòng vào trong các cung của tử vi đã được nạp quẻ, quan sát sự vận hành của lục thân. Tuy nhiên, những cái trò này, đa phần là liên quan tới cảm ứng nên nó hoàn toàn không có tính kế thừa.]
Về các ví dụ cụ thể của Đồ Tẫn, Tam Tinh Phổ, cháu sẽ soạn đầy đủ tài liệu rồi gửi cho bác. Bác có thể cho cháu email để cháu gửi trực tiếp, vì cháu nghĩ thời gian nghỉ cũng sắp hết.
Về các câu hỏi, theo cái cháu sử dụng, thì cháu nói thật là cháu chưa bao giờ viết ra đáp án. Đa phần, hàng tuần, cháu dành đúng ngày thứ 7 cho tử vi, bất di bất dịch, không nhiều hơn, trừ các dịp đặc biệt (ví dụ bác lên diễn đàn), và mọi người ai rỗi thì đến uống trà, và thảo luận về nghiên cứu. Trong lúc đó, tùy hứng mà cháu thảo luận các câu hỏi trên. Nhưng cái cháu rất bực, là không có ai chịu dành thời gian để viết ra cả, dù đã vài năm rồi, vì mọi người chủ yếu dành thời gian cho việc nghiên cứu cái mới.
Để cháu thời gian tới sẽ bắt mọi người cùng viết lại rồi gửi cho bác.
Phần 3
Cháu sử dụng ngũ vận lục khí trong tử vi, chứ cháu không dùng tiết khí.
Nhiều phái ở Đài Loan dùng tiết khí, như Tham Lang sinh mùa hạ thì khó đào hoa. Tôi vốn vì lý Occam nên không dùng tiết khí,
Cháu cũng không dùng, đơn giản vì lý tam tài, đòn thế đấy không hội đủ, nên nó là tàn phổ.
Cháu nhắc lại về cách an Triệt, cháu ví dụ tuổi Giáp/Kỷ.
Giáp=kỷ=9
Ất=Canh=8
Bính=Tân=7
Đinh=Nhâm=6
Mậu=Quý=5.
Tuổi Giáp, Giáp+kỷ=18. Từ cung dần ta đếm thuận 18, tới Mùi là hết. Vậy Thân Dậu an Triệt.
Cháu đang nghĩ, tùy các địa chi khác nhau, mà tính chất của Triệt dù cùng tuổi giáp hay kỷ đều sẽ khác nhau.
Phần 4
Cháu đặt câu hỏi về Tử Vi hội Không Kiếp, vì trong tất cả những người học tử vi theo các sách vở bán công khai ngoài chợ sách, thì Tử Vi rất sợ Không Kiếp.
Bài toán quan trọng sẽ là, khi nào tử vi gặp KhK được luận là cát hóa ầm ầm (như trong tài liệu giáo khoa của Khâm Thiên Môn hoặc Trung Châu Phái), khi nào thì đời lụi đế gặp hung đồ (Như sách vở kiểu phát lộc).
Với cháu, thì đơn giản, là xuất hiện yếu tố thứ 3 điều khiển cả hai cái đó.
Phần 5
Trích dẫn
Tôi không hiểu ý anh. Khi ông Tử Vân cho thái tuế nhập quái, cung nhập thì theo tài địa, nhưng ông dùng cả tứ Hóa của người được nhập nữa. Vậy là thiên địa đề huề rồi mới phải chứ? Anh giải thích rõ hơn được không?
Còn tài nhân đây ý anh nói gì? Là tháng sinh của người nhập quái?
Theo cháu hiểu, mọi kỹ thuật đều phải hội đủ tam tài, tuy nhiên, trong các kĩ thuật đấy, đều cần có 1 đối tượng để làm mốc.
Ví dụ, trong thái tuế nhập quái, ta dùng tài địa làm mốc, dùng tứ hóa làm tài thiên, và dụng can chi tác động lên các cung chức tiên thiên và hậu thiên để định tài nhân. Nhưng dù vậy, nó vẫn là cái lấy tài địa làm trọng.
Một trò thứ 2, người ta dùng cung có can trùng với can năm sinh người kia làm mốc. rồi dùng thái tuế, mệnh cung của đương số ném vào. Tam tài cũng hoàn bị, nhưng người ta dùng mốc là tài thiên.
Kỹ thuật thứ 3, là người ta cho trước giả thuyết quan hệ lục thân với đương số (đây là tài nhân), rồi dùng tuổi đương số để khởi nghịch dọc theo chiều của tài nhân. Vì dùng tài nhân làm khởi nguyên, nên dụng thêm quái tượng để phi chính tinh, và để kĩ thuật hội đủ tam tài, ta nạp thần sát, phi hóa vào.
Ví dụ, cháu khán, tháng 8 năm ngoái, bố đẻ đương số tai nạn, chứ không phải mẹ đẻ, là dùng đòn thế này. Đến tháng 10, lại có trục trặc với sếp lớn, chứ không phải bố mẹ....
Vì dụng cái gì làm gốc nó đưa tới mục tiêu của kĩ thuật, nên nó dễ dàng phân biệt được, 2 người tuổi giáp tý là bố của đương số, hay tình nhân của đương số, họ vận hạn sẽ khác nhau ra sao.
Cái này kết hợp với phi hóa bắc phái cho kết quả cực kì sắc nét, vì nó giúp ta định tượng.
Trân trọng
Sửa bởi MikeDo: 03/01/2019 - 13:11