Jump to content




Advertisements




Tam hợp? Phi tinh? Đường nào đến La Mã?

tam hợp phi tinh

107 replies to this topic

#31

VDTT



 

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 624 Bài viết:
  • 1886 thanks

 

Gửi vào 27/12/2018 - 22:41

 FM_daubac, on 27/12/2018 - 12:58, said:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(Kỳ 7.
Các kỳ trước msgs 1, 7, 11, 13, 17, 27 hoặc gần đó.
Bút đàm msgs 16, 19, 24 hoặc gần đó)

Để quý độc giả dễ so sánh, tôi xin luận vài đại hạn bằng ba cách Việt, Đài, và phi tinh. Việt theo cái học sách vở thiếu sót của tôi, Đài là theo cái tinh hoa tôi học được của Tử Vi Đài Loan, phi tinh là theo cái tôi học được trong thời gian nghiên cứu chuyên sâu hai năm trở lại đây và hiện vẫn đồng ý.

Đại hạn Đinh Dậu 6-15 tuổi:
Sự thật: Năm 13 tuổi (Mậu Dần) sang Haiwaii ở chung với người anh ruột có cơ sở làm ăn ở đó. Nhờ vậy được học hỏi văn minh, khoa học tây phương, lại thấy Haiwaii bị Mỹ chiếm nên nẩy ra ý muốn chống lại cường quyền bạo lực, thành cái nhân đấu tranh chống triều đình nhà Thanh sau này.

(Chú: Sở dĩ nói chuyện xuất ngoại vì mệnh cư Dậu có Đồng gặp Âm là sao động hãm xung chiếu, cách cục nguyên thủy đã ứng chuyện xuất ngoại).

Việt luận: Hạn có song Lộc, Quyền, Tả Hữu, Khôi (hoặc Việt, tùy cách an), Hỏa Linh nói chung tốt và nhiều tính động, nhưng vì thành cách Tả Hữu Không Kiếp chỉ tốt nếu hành động vì người khác, không phải cho mình. Đặc biệt hạn di có Âm hãm địa, với những cách tốt kể trên, có cơ hội đi xa tốt đẹp (Chú: cách này không mạnh lắm, phải đoán hơi liều mới ra).

Năm đi xa: Tôi chủ trương xem cả tiểu hạn lẫn Thái Tuế nếu có thời giờ suy ngẫm, còn như nếu vội vàng thì chỉ xem Thái Tuế thôi (Tiểu hạn là ta làm, Thái Tuế là trời cho, trởi thường thắng người). Nam mệnh Tiểu hạn và Thái Tuế luôn luôn ở thế đối nghịch. Nữ mệnh cách năm, năm này đối nghịch thì năm sau trợ giúp và ngược lại.

Ông TDT nam mệnh, tuổi tứ mã nên tiểu hạn đi trước Tuế 2 cung, như năm Dần thì tiểu hạn ở Thìn.

Xem theo tiểu hạn thì năm 10-12 tuổi (10 vì nhập quan ở Sửu có Cơ là sao động, 11 nhập tứ mã địa ở Dần có Tử Phủ Vũ Tướng diệu dụng Kị Hình thêm Mã xung chiếu, 12 vì nhập di gặp Âm Hỏa đều có tính động mạnh).

Xem theo Thái Tuế (lưu niên) thì năm 12-14 tuổi. Lý như tiểu hạn sau khi cộng thêm 2 tuổi. (Ngoài ra một năm khác có thể xảy ra là năm 7 tuổi nhập cung Thân, trong cung có Mã, nhưng xác xuất nhỏ hơn vì còn bé quá).

Đài luận: Dùng tứ hóa của cung nhập đại hạn (như số ông TDT hạn đầu là Đinh Dậu nên dùng tứ hóa của can Đinh) rồi phối hợp với các thần sát trong tam hợp mà luận. Theo phái Tử Vân ngoài ảnh hưởng trên các cung hạn ra, phải xem hạn hóa ảnh hưởng như thế nào trên cách cục nguyên thủy.

Về tứ hóa nguyên thủy ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương “mệnh vận phân ly” nên không xem. Tôi vẫn xem, lại coi là tiên quyết, tức là nếu hạn hóa đấu với hóa nguyên thủy thì hóa nguyên thủy thắng, dĩ nhiên khi phải đấu tranh thì cái hay cũng có tì vết rồi.

Cách cục tốt (như Việt luận) hạn lại là Đinh (Nguyệt Đồng Cơ Cự) rõ là dễ có cách đi xa tốt đẹp. Không Kiếp đây chỉ khiến mọi việc không hoàn toàn đúng ý, nhưng cũng chẳng thể kể là xấu. Coi là có chút gập ghềnh mà thôi.

Năm đi xa: Như Việt luận, nhưng xem theo Thái Tuế, không xem theo tiểu hạn. (Chú: Vẫn có vài phái ở Đài Loan dùng tiểu hạn, nhưng là thiểu số rất nhỏ. Cách định cung tiểu hạn dĩ nhiên y hệt Tử Vi Việt).

Phi tinh luận: Về cơ sở phép phi tinh khi xem đại hạn không chỉ dùng hóa của hạn mệnh, mà còn dùng hóa của hạn tài và hạn quan; nhưng chỉ tìm tín hiệu ở một số cứ điểm đặc biệt, nhất là mệnh tài quan nguyên thủy và các cung xung chiếu. (Sâu thêm một bước lại tùy theo việc muốn xem mà vận dụng các cung hóa phù hợp, bước sâu này xin phép không giải thích ở đây).

Hạn mệnh tứ Hóa (Đinh Nguyệt Đồng Cơ Cự), hạn tài (Quý Phá Cự Âm Tham), hạn quan (Tân Cự Nhật Khúc Xương). Theo hạn mệnh tứ Hóa đoán là dễ có cách đi xa tốt đẹp, giống như Đài luận. Cả ba cung hóa đều hiện ra Cự. Cự là phe phản đối triều đình, mầm đấu tranh đã manh nha (mệnh Kị) và được nuôi dưỡng rối (tài Quyền quan Lộc).

Năm xuất ngoại: 13 hoặc 14 tuổi, nhưng 13 tuổi xác xuất cao hơn vì 1) ở tứ mã địa lại đến trước 14 tuổi 2) có Xương hạn quan Kị xung 3) cung can Canh khiến chính tinh cư mệnh là Đồng hóa Kị (Chú: Tôi xem cả cung can lẫn can Thái Tuế, nhưng trường hợp này can Thái Tuế là Mậu ảnh hưởng không rõ ràng). Năm 14 tuổi có xác xuất vì nhập đại hạn di, gặp Âm là sao ứng động lại được hạn hóa Lộc. Tóm lại không đi năm 13 tuổi thì cũng đi năm 14 tuổi.

Nhận xét: Cả ba cách xem đều có thể đoán được chuyện xuất ngoại. Nhưng hai cách Đài và phi tinh rõ nét hơn Việt, và phi tinh rõ nét hơn Đài.

Về năm đi xa (tức năm 13 tuổi) cả ba cách đều chấp nhận được, nhưng theo tôi phi tinh xem tốt nhất vì tín hiệu rõ nét hơn.

(Còn tiếp)

Sửa bởi VDTT: 28/12/2018 - 10:03


Thanked by 3 Members:

#32

VDTT



 

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 624 Bài viết:
  • 1886 thanks

 

Gửi vào 28/12/2018 - 10:17

 MikeDo, on 27/12/2018 - 10:49, said:

CHào bác Cháu xin phép ngắn gọn luôn để vào thẳng vấn đề, vì những đề tài này khó, rất dễ gây hiểu lầm. Cháu xin phép khẳng định rằng, tử vi việt cũng có định lại vòng chính tinh. Các kĩ thuật này có lan truyền trong phái phúc tông, và ngoài ra có trong triệu thị minh thuyết. Tất nhiên, những tác phẩm của các ông như VDTTL, phát lộc... chỉ là cào cào bên ngoài, không thể đại diện được cho tử vi việt.

Trước hết Tử Vi Việt cũng định lại vòng chính tinh là chuyện tôi không hề biết. Dễ hiểu, vì tôi học Tử Vi Việt không thầy, chẳng được bí truyền, chỉ bằng sách vở, người quen, và kinh nghiệm.

Nhưng sự thật là trong thời gian nghiên cứu ở Đài Loan, chính tôi cũng đã thử phương pháp này (định lại vòng chính tinh), thậm chí theo phương pháp của tôi mỗi đại hạn vòng chính tinh đều được định lại, và nếu muốn thì định lại chính tinh để xem tiểu hạn. Dĩ nhiên phương pháp của tôi rất lớp lang (tối thiểu tôi nghĩ thế) vì tôi thành lập nó với tiêu chuẩn khoa học. Nhưng cuối cùng tôi quyết định bỏ nó vì lý do là nó phạm lý dao cạo Occam (=khi lập thuyết phải cắt bỏ hết những gì có thể cắt bỏ, chỉ không cắt bỏ những gì không thể cắt bỏ) là lý cao đẳng nhất mà người lập thuyết nên theo.

Ly kỳ làm sao, về sau tôi biết chính ông Vương Đình Chi cũng đã thử định lại vòng chính tinh (dùng nạp âm của cung thân), và hình như cuối cùng ông cũng đã quyết định bỏ chuyện này, vì chỉ thấy viết trong một sách.

Vì đã thiết lập rồi bỏ cách định lại vòng chính tinh, thấy sách mới của Tử Vân dùng pháp này, thú thật tôi rất chán nản.

Nay nghe anh nói Tử Vi Việt “bí truyền” có định lại vòng chính tinh, tôi đâm lo cho họ

 MikeDo, on 27/12/2018 - 10:49, said:

Cháu thì không biết quái tượng của tử vân là cái gì, nhưng cháu có swr dụng việc định lại chính tinh, đồng thời sử dụng can lăn trên tầng tiên thiên của tứ trụ năm tháng ngày giờ.
Tức là anh cũng có ý đổi vòng chính tinh? Nếu thế tôi đâm lo cho anh. Anh nên nghĩ lại cái lý của dao cạo Occam, chẳng phải cứ thêm chi tiết, giải thích thêm được một số chuyện là lý thuyết hay hơn, có khi chỉ là “vẽ rắn thêm chân” (vì thế cái tên của lý này mới là dao cạo Occam, gặp đâu cắt đó, không cắt được nữa mới thôi).

Dĩ nhiên tôi có thể sai. Nhưng vì lý dao cạo Occam tôi khó tin đổi vòng chính tinh là chuyện nên làm.

 MikeDo, on 27/12/2018 - 10:49, said:

Đoạn này cháu nghĩ sẽ có thể gây mập mờ và gây ra khó hiểu, như cháu đã đề xuất nên làm rõ ngay từ đầu vif biết trước có sự dễ hiểu lầm. Cháu nghĩ là bác nên làm rõ, thế nào là cách xem tứ hoá luận hạn, thế nào là cách xem phi tinh, thế nào là cách xem tam hợp cũ. Ví dụ, hiển nhiên phép xem phi tinh cũng luận mệnh, mà tứ hoá luận hạn, cũng là một. Cháu nghĩ mình nên nói rõ, là của nhà nào, vì tử vi đài cũng rất rộng. Mình nên chỉ rõ cho rõ ràng, tránh đi sự hiểu lầm.
Cám ơn đề nghị của anh. Tôi sẽ cố gắng vừa đoán lá số thật vừa giải thích. Vấn đề phức tạp thật, vì có thể nói Tử Vi Đài vốn đã có vạn pháp, gọi chung là Tử Vi Đài có thể gây hiểu lầm. Vả lại ngay phi tinh cũng chia ra làm tối thiểu mấy pháp. Thôi thì ngôn ngữ giới hạn, mong độc giả tìm ý quên lời.

Chính tôi cũng không rõ anh theo pháp nào của phái phi tinh. Tôi nghe anh theo sách của Sái Minh Hoành (là cao thủ nhất lưu, nghe nói được chân truyền của Tố Tâm lão nhân). Sách ông này tôi không có, nhưng tôi giả sử đại lược cũng giống các phái phi tinh khác (tam phương + tứ chính, 1, 5, 9, 10 là cung ta, 6, 11 là cung “xám”, còn lại là cung ngoài v.v…)

Sửa bởi VDTT: 28/12/2018 - 10:26


Thanked by 1 Member:

#33

MikeDo



 

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 860 Bài viết:
  • 857 thanks

 

Gửi vào 28/12/2018 - 14:22

Kính thưa bác.
Cháu xin phép được tóm lược lại như sau:

Trích dẫn

Hạn mệnh tứ Hóa (Đinh Nguyệt Đồng Cơ Cự), hạn tài (Quý Phá Cự Âm Tham), hạn quan (Tân Cự Nhật Khúc Xương). Theo hạn mệnh tứ Hóa đoán là dễ có cách đi xa tốt đẹp, giống như Đài luận. Cả ba cung hóa đều hiện ra Cự. Cự là phe phản đối triều đình, mầm đấu tranh đã manh nha (mệnh Kị) và được nuôi dưỡng rối (tài Quyền quan Lộc).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Cháu có sở thích vẽ hình, vì đỡ phải viết dài.
Trước kia tầm 4 năm cháu có vất đồ hình này lên trên tvls, nhưng không ai để ý. Nên cháu kệ, vì cháu nghĩ cơ bản là duyên phận. Đến giờ, cháu thấy bác sử dụng đòn thế này, thật sự cháu rất sung sướng vì có người quan tâm và sử dụng.
Tuy nhiên, cháu xin phép thể hiện quan điểm rằng, kĩ thuật này là kĩ thuật phế một chân. Lý do, nó cũng không hội đủ tam tài, và theo nguyên tắc nghiên cứu của cháu, mọi kĩ thuật không đủ tam tài đều là có khuyết thiếu. Bản chất của nó là phi hóa của diện, nhưng khi thiếu đi tác động của tài địa, thì chiêu thức cũng sẽ có lúc đúng lúc sai. Dùng để nói tương lai thì còn được, còn khi mình dùng để chốt hạn quá khứ sắc nét rồi bắt đương số xác nhận, thì sẽ sinh ra sai số. Có điều sách vở vẫn phải viết ra vậy vì lý do sư phạm.

Trích dẫn

Chính tôi cũng không rõ anh theo pháp nào của phái phi tinh. Tôi nghe anh theo sách của Sái Minh Hoành (là cao thủ nhất lưu, nghe nói được chân truyền của Tố Tâm lão nhân). Sách ông này tôi không có, nhưng tôi giả sử đại lược cũng giống các phái phi tinh khác (tam phương + tứ chính, 1, 5, 9, 10 là cung ta, 6, 11 là cung “xám”, còn lại là cung ngoài v.v…)
Thật sự thì cháu cũng không hề theo sách của ai cả dù rằng có học qua nhiều môn phái và nhiều sách vở.
Vì lý do đơn giản, cháu đặt mục tiêu là đột phá đẳng 4.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Và vì như vậy, cháu cho rằng nếu chỉ đi học các sách vở một cách dập khuôn thì mãi mãi dừng lại ở đẳng cấp 2. Vì hầu hết tất cả các cao thủ thành danh, chưa từng có ai chỉ có học gạo, dịch sách, thuộc sách mà thành cao thủ, mà tất cả đều phải có điểm chung là lãnh ngộ của họ với quy tắc lãnh vực.
Cháu khi học qua, thì thấy rằng hầu hết các môn phái khác nhau đều có ít nhiều lãnh ngộ cá nhân, tuy nhiên, hầu hết tất cả đều chỉ là hiểu được 1 phần của chiêu thức, nên mới phân chia ra nhiều phái như vậy. Ở đây, cháu bao gồm Khâm thiên môn, sái minh hoành, tử vân, liễu vô, tằng từ sinh...
Thực sự cháu đọc, toàn thấy phế chiêu, vì đa số hàng đưa ra ngoài đều là hàng bị cắt gọt, hoặc cũng có thể là người đi trước người ta cũng chỉ có thể đi được đến đấy, không đủ duyên để đi xa hơn.
Về việc sử dụng, khi thấy các mâu thuẫn của các môn phái, cháu tự nghĩ ra lý thuyết và chiêu thức mới, dựa trên việc tham khảo các kỹ thuật của người đi trước, khảo sát lại, và sửa chữa để chúng không hề mâu thuẫn với nhau. Cách đây 3-4 năm, cháu invent ra chiêu đồ tẫn để khắc phục mâu thuẫn giữa trung châu phái, khâm thiên môn, và tử vi nam phái và đưa ra kết luận chung. Trong đó, bước quan trọng là thiết lập ra lý thuyết cung khí để san định mâu thuẫn giữa tử vi Nam và Bắc Phái.
Trong khoảng 1 năm trở lại đây, cháu hướng dẫn học trò phát minh ra lý thuyết tam tài phi tinh hậu thiên phổ để kết nối tiên thiên tứ hóa phi tinh phổ (Lộc và Kỵ Phổ) với lý thuyết đồ tẫn. Từ đây, tiên thiên tứ hóa phi tình kỳ phổ trở thành một trường hợp đặc biệt không tầm thường.

Giờ chúng ta quay lại chủ đề về san định vòng chính tinh. Như bác đã đề cập, ngài Vương Đình Chi có sử dụng nạp âm của cung an thân, và sau đó bác không thấy ông ta sử dụng nữa, trong cách sách vở sau đó. Cháu ngược lại cho rằng đây là chiêu thức cực mạnh, ngài VDC không viết tiếp rất có thể là đưa nó vào mật truyền. Lý do, khi cháu sử dụng kỹ thuật của cháu đồ tẫn trên nền tảng lý thuyết tam bàn, san định lại chính tinh, thì nó là một công cụ cực mạnh để xem vận, và nó bổ khuyết cho chỗ yếu của các lý thuyết bắc phái trước đó. Kết quả đã được nghiệm lý một cách độc lập bởi vài chục người nghiên cứu, tính ra con số phải là hàng ngàn trường hợp, độ sắc nét tối thiểu là hạn năm, đa số là hạn tháng. Do đó, lý thuyết địa bàn của TCP là công cụ xem hạn tai nạn cực kì sắc nét, tất nhiên là kết hợp với đồ tẫn.

Ở đây, cháu xin nói rõ, cách thức làm việc của cháu, đơn giản là gặp đương số, xin một số thông tin, rồi chốt hạn quá khứ sắc nét yêu cầu đương số xác nhận để tránh bất cứ một trường hợp nào gọt chân cho vừa giày. Đồng thời, để tránh tiếp tình trạng có những kĩ thuật chỉ có thể một người dùng được (kiểu như ông Tử Vân không dạy được học trò, vì ông tử vân có cảm ứng, còn người khác thì không, hoặc người ta lại bảo là vào vận xem mới đúng), Cháu sử dụng những học trò học tử vi chưa lâu để họ sử dụng, nhiều người còn không thuộc an sao, và đều có kết quả chém quá khứ khả quan. Và theo cháu nhận định, sự kiểm chứng trên diện rộng (vài chục người xem, hàng ngàn đương số, chém quá khứ độc lập) đủ để khẳng định tính khoa học thống kê.
(còn tiếp).

Sửa bởi MikeDo: 28/12/2018 - 14:26


Thanked by 2 Members:

#34

MikeDo



 

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 860 Bài viết:
  • 857 thanks

 

Gửi vào 28/12/2018 - 14:36

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tạm thời, bởi vì rằng việc lập hệ chính tinh theo Trung CHâu Phái đã được khẳng định (ít nhất về khía cạnh thống kê), chúng ta có thể thiết lập lại lý thuyết tổng quát hóa.
Motivation trực tiếp của kỹ thuật lấy từ thuyết tương đối, cụ thể hơn là hình học của không thời gian 4 chiều. Bởi vì rằng, cấu trúc của khoa học phương đông dựa trên can chi, nên chắc chắn phải có sự thay đổi nhỏ về cấu trúc spacetime, nhưng đại ý nó cũng đại đồng tiểu dị. Khi ta thực hiện phép quay không gian sang thời gian, thì từ lý thuyết trung châu phái (đông a cũng dùng đòn tương tự nhưng có chút khác biệt), ta thu được lý thuyết được sử dụng đã lâu của phúc tông. Còn cháu không rõ rằng các lý thuyết mới nhất của ngài tử vân có trùng với nó hay không, nhưng cháu cho rằng nó đại đồng tiểu dị, khác nhau nếu có chắc là chi tiết kỹ thuật.

P.s: Về lý thuyết cung khí mà sử dụng làm nền tảng cho kỹ thuật đồ tẫn của bắc phái và nam phái, cháu có khảo cứu và nhận thấy có một số người có lãnh ngộ gần giống. Ở Việt Nam, có cụ BaLa, ông ấy không công khai cách xem bao giờ, nhưng cháu gần đây có đọc lại, phát hiện ngay ra ông ấy dùng đòn thế có nét gần giống với cung khí. Ở đài loan, có ông Từ Tằng Sinh, có viết ra một vài ý sơ khởi, nhưng ngộ tính của ông ấy không cao, nên theo cháu hiểu, ông ấy chưa đi được bao xa, dùng vẫn sai. Cháu không biết trong các tác phẩm mới nhất của ngài TTS thế nào, đã hoàn thiện được lý thuyết hay chưa.

Sửa bởi MikeDo: 28/12/2018 - 14:40


Thanked by 1 Member:

#35

MikeDo



 

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 860 Bài viết:
  • 857 thanks

 

Gửi vào 28/12/2018 - 16:48

Bởi vì rằng, rất nhiều lý thuyết tử vi tam hợp phái, là hệ quả tầm thường của phi hóa bắc phái khi chúng ta thực hiện thủ pháp đẩy từ hậu thiên lên tiên thiên, nói cách khác lý thuyết xem mệnh là hệ quả tầm thường của lý thuyết xem vận (ví dụ, lý thuyết thiên lương là hệ quả tầm thường và phiên bản lỗi của lý thuyết phi hóa của diện, và được sử dụng lỗi với ngũ hành), cháu nghĩ là mình nên nói về quan điểm định nghĩa trước thì sẽ dễ dàng hơn.

Tạm thời, để dễ hiểu, mình có thể bắt đầu bằng nền tảng tiên thiên. Tạm thời, để dễ dàng có được sự đồng thuận, cũng như dễ hiểu quan điểm của bác hơn, bác và cháu tạm thời bỏ qua vận hành của chính tinh. Các chính tinh là static.


Tiên Thiên Tử Vi Luận


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Khi ta bắt đầu từ A tới C, từ start tới end, sẽ có 3 con đường chính.

1-A D C Ta bắt đầu bằng thủ pháp hội sao của Nam Phái, trên tam phương tứ chính với nền là cục số, thông qua các lý thuyết cơ bản về cách cục (cung khí, các bộ sao, ngũ hành, tính lý....) để nghiên cứu các cung, sau đó ta mới thực hiện việc nghiên cứu quan hệ giữa các cung vị với nhau.
Người ta gọi đó là Tử Vi Nam Phái.

Ví dụ điển hình là ngài Tử Vân, là đại biểu của Nam Phái.

2- ABC Ta thực hiện việc nghiên cứu quan hệ giữa các cung chức và cung vị, thông qua các công cụ khác nhau. Vì rằng nền tảng của các cung là địa chi, nên quan hệ của chúng phải thể hiện thông qua thiên can để hội đủ tam tài, nên tứ hóa phi tinh là công cụ rất mạnh (không phải là duy nhất).
Sau khi tới B, nhìn xem thần tụ tại cung nào, thì ta mới thực hiện thủ pháp hội sao tam phương tứ chính trên nền cục số để khoan sâu vào các cung.

Người ta gọi đó là Tử Vi Bắc Phái.
Ví dụ lý thuyết của ngài Sái Minh Hoành,

3-Đường zigzag: Sử dụng kết hợp để luận đoán khi cần thiết, và dùng lý thuyết cung khí làm nền tảng để xét.
Ví dụ, lý thuyết đồ tẫn, lý thuyết phi tinh hậu thiên mệnh phổ.

Đây là định nghĩa của cháu về Nam và Bắc Phái. Nói một cách đơn giản, tử vi nam phái có thể coi là lý thuyết standard models, còn tử vi bắc phái nghiên cứu về Quantum field theory. Nói theo kiểu kinh tế học, một cái là Micro Economics, một cái Macro Economics. Cháu hi vọng bác có sự đồng thuận về định nghĩa này. Nói đơn giản, nó là các path trong spacetime.

Theo bác, con đường của bác đi hiện nay, là 1, hay 2, hay 3?

Sửa bởi MikeDo: 28/12/2018 - 16:50


Thanked by 2 Members:

#36

VDTT



 

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 624 Bài viết:
  • 1886 thanks

 

Gửi vào 29/12/2018 - 09:35

 MikeDo, on 28/12/2018 - 14:22, said:

Cháu có sở thích vẽ hình, vì đỡ phải viết dài.
Trước kia tầm 4 năm cháu có vất đồ hình này lên trên tvls, nhưng không ai để ý. Nên cháu kệ, vì cháu nghĩ cơ bản là duyên phận. Đến giờ, cháu thấy bác sử dụng đòn thế này, thật sự cháu rất sung sướng vì có người quan tâm và sử dụng.
Tuy nhiên, cháu xin phép thể hiện quan điểm rằng, kĩ thuật này là kĩ thuật phế một chân. Lý do, nó cũng không hội đủ tam tài, và theo nguyên tắc nghiên cứu của cháu, mọi kĩ thuật không đủ tam tài đều là có khuyết thiếu. Bản chất của nó là phi hóa của diện, nhưng khi thiếu đi tác động của tài địa, thì chiêu thức cũng sẽ có lúc đúng lúc sai. Dùng để nói tương lai thì còn được, còn khi mình dùng để chốt hạn quá khứ sắc nét rồi bắt đương số xác nhận, thì sẽ sinh ra sai số. Có điều sách vở vẫn phải viết ra vậy vì lý do sư phạm.

Anh nói rõ hơn một chút về tài địa được chăng? Địa = chi năm?
Nếu định nghĩa tam tài trong Tử Vi của anh giống tôi (Can năm = thiên, chi năm = địa, tháng giờ và ngày = nhân) thì chủ trương đòi hỏi tam tài của anh cũng giống tôi. (Đây chính là lý do tôi phản đối cách xem “bỏ hết thần sát” của ông Liễu Vô cư sĩ, vì cách này hoàn toàn gần như không có tài địa, và bỏ rất nhiều yếu tố thuộc tài thiên).

Nhưng về câu “mọi kĩ thuật không đủ tam tài đều là có khuyết thiếu” thì tôi lại nói là chưa chắc. Như cơ sở vật lý là x, y, z, t đâu có nghĩa một khám phá nào đó công thức sau cùng không có t là thiếu sót, vì biết đâu hiện tượng được khảo sát hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi t nên trong công thức không có t?

Thành thử tôi sẽ không vội đánh giá thấp các kĩ thuật mà anh gọi là “kĩ thuật phế một chân” mà tôi sẽ định giá xem kĩ thuật ấy có chính xác không, vì nếu chính xác thì nó đã là một đột phá to lớn (bỏ được t đi mà vẫn ra kết quả chính xác).

Và đó là lý do tại sao sau khi “bỏ cuộc” cách xem của ông Tử Vân, tôi nghiên cứu chuyên sâu cách xem hạn của phái phi tinh (“phế một chân”). Cách của phái này cũng như một công thức mà không có t vậy. Dĩ nhiên họ cho là nó chính xác. Tôi cần thử nghiệm xem nó có thật chính xác không. Nếu nó quả chính xác thì là một đột phá to lớn. (Tôi hiện vẫn chưa dám tin như vậy).

 MikeDo, on 28/12/2018 - 14:22, said:

Thật sự thì cháu cũng không hề theo sách của ai cả dù rằng có học qua nhiều môn phái và nhiều sách vở.
Vì lý do đơn giản, cháu đặt mục tiêu là đột phá đẳng 4.

Và vì như vậy, cháu cho rằng nếu chỉ đi học các sách vở một cách dập khuôn thì mãi mãi dừng lại ở đẳng cấp 2. Vì hầu hết tất cả các cao thủ thành danh, chưa từng có ai chỉ có học gạo, dịch sách, thuộc sách mà thành cao thủ, mà tất cả đều phải có điểm chung là lãnh ngộ của họ với quy tắc lãnh vực.
Cháu khi học qua, thì thấy rằng hầu hết các môn phái khác nhau đều có ít nhiều lãnh ngộ cá nhân, tuy nhiên, hầu hết tất cả đều chỉ là hiểu được 1 phần của chiêu thức, nên mới phân chia ra nhiều phái như vậy. Ở đây, cháu bao gồm Khâm thiên môn, sái minh hoành, tử vân, liễu vô, tằng từ sinh...
Thực sự cháu đọc, toàn thấy phế chiêu, vì đa số hàng đưa ra ngoài đều là hàng bị cắt gọt, hoặc cũng có thể là người đi trước người ta cũng chỉ có thể đi được đến đấy, không đủ duyên để đi xa hơn.
Chúc mừng anh có tham vọng cao như vậy.
Nhận xét của anh về các tác giả trước cũng giống tôi.

 MikeDo, on 28/12/2018 - 14:22, said:

Về việc sử dụng, khi thấy các mâu thuẫn của các môn phái, cháu tự nghĩ ra lý thuyết và chiêu thức mới, dựa trên việc tham khảo các kỹ thuật của người đi trước, khảo sát lại, và sửa chữa để chúng không hề mâu thuẫn với nhau. Cách đây 3-4 năm, cháu invent ra chiêu đồ tẫn để khắc phục mâu thuẫn giữa trung châu phái, khâm thiên môn, và tử vi nam phái và đưa ra kết luận chung. Trong đó, bước quan trọng là thiết lập ra lý thuyết cung khí để san định mâu thuẫn giữa tử vi Nam và Bắc Phái.

1) Tôi không rõ lý thuyết cung khí của anh điểm chính là gì, hoặc muốn khắc phục khuyết điểm nào. Anh nói rõ hơn chút được chăng?
2) “Đồ tẫn” có nghĩa gì tôi không hiểu.

 MikeDo, on 28/12/2018 - 14:22, said:

Trong khoảng 1 năm trở lại đây, cháu hướng dẫn học trò phát minh ra lý thuyết tam tài phi tinh hậu thiên phổ để kết nối tiên thiên tứ hóa phi tinh phổ (Lộc và Kỵ Phổ) với lý thuyết đồ tẫn. Từ đây, tiên thiên tứ hóa phi tình kỳ phổ trở thành một trường hợp đặc biệt không tầm thường.
Xin anh cho biết lý thuyết tam tài phi tinh hậu thiên phổ khắc phục được những khó khăn hoặc khuyết điểm nào của các thuyết trước đó. Chúng ta có thể bàn phương pháp sau, không cần ngay.

 MikeDo, on 28/12/2018 - 14:22, said:

Giờ chúng ta quay lại chủ đề về san định vòng chính tinh. Như bác đã đề cập, ngài Vương Đình Chi có sử dụng nạp âm của cung an thân, và sau đó bác không thấy ông ta sử dụng nữa, trong cách sách vở sau đó. Cháu ngược lại cho rằng đây là chiêu thức cực mạnh, ngài VDC không viết tiếp rất có thể là đưa nó vào mật truyền. Lý do, khi cháu sử dụng kỹ thuật của cháu đồ tẫn trên nền tảng lý thuyết tam bàn, san định lại chính tinh, thì nó là một công cụ cực mạnh để xem vận, và nó bổ khuyết cho chỗ yếu của các lý thuyết bắc phái trước đó. Kết quả đã được nghiệm lý một cách độc lập bởi vài chục người nghiên cứu, tính ra con số phải là hàng ngàn trường hợp, độ sắc nét tối thiểu là hạn năm, đa số là hạn tháng. Do đó, lý thuyết địa bàn của TCP là công cụ xem hạn tai nạn cực kì sắc nét, tất nhiên là kết hợp với đồ tẫn.
Như tôi đã trình bày, chính tôi đã từng lập ra một thuyết dùng nạp âm cung để định lại chính tinh, rồi sau bỏ nó vì nó phạm đòi hỏi của dao cạo Occam. Nếu sự thật anh nhờ định lại vòng chính tinh mà xem tiểu hạn, nguyệt hạn chính xác hơn người xưa thì chắc là tôi đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Tôi thật tò mò muốn biết cách xem này thế nào.

 MikeDo, on 28/12/2018 - 14:22, said:

Ở đây, cháu xin nói rõ, cách thức làm việc của cháu, đơn giản là gặp đương số, xin một số thông tin, rồi chốt hạn quá khứ sắc nét yêu cầu đương số xác nhận để tránh bất cứ một trường hợp nào gọt chân cho vừa giày. Đồng thời, để tránh tiếp tình trạng có những kĩ thuật chỉ có thể một người dùng được (kiểu như ông Tử Vân không dạy được học trò, vì ông tử vân có cảm ứng, còn người khác thì không, hoặc người ta lại bảo là vào vận xem mới đúng), Cháu sử dụng những học trò học tử vi chưa lâu để họ sử dụng, nhiều người còn không thuộc an sao, và đều có kết quả chém quá khứ khả quan. Và theo cháu nhận định, sự kiểm chứng trên diện rộng (vài chục người xem, hàng ngàn đương số, chém quá khứ độc lập) đủ để khẳng định tính khoa học thống kê.
Nếu anh đã ứng dụng phép xem này cho hàng ngàn người thì có thể đã thỏa điều kiện của khoa thống kê rồi. Tôi tò mò muốn biết, trên tiêu chuẩn của khoa thống kê, độ chính xác là bao nhiêu.

Nhưng tôi xin tò mò thêm, anh có nắm vững cách định giá lý thuyết của khoa thống kê hay không? Muốn thỏa thống kê điều kiện đầu tiên là thỏa đòi hỏi “ngẫu nhiên” (randomness requirement). Xin lưu ý anh một trường hợp lịch sử có thật trong huyền học tây phương. Ông Jung, một trong vài ba ông tổ khoa tâm lý học, phái học trò đi thu thập mấy ngàn lá số chiêm tinh tây phương, tưởng là có thể trình bày kết quả như một kết quả có tính khoa học dựa trên nền tảng của khoa thống kê, nào ngờ có người nắm vững khoa thống kê cho ông biết tập hợp lá số này không thỏa điều kiện “ngẫu nhiên”, cuối cùng kết quả của cuộc phân tích này phải vất vào sọt rác giờ không ai biết đến nữa.

 MikeDo, on 28/12/2018 - 14:36, said:

Tạm thời, bởi vì rằng việc lập hệ chính tinh theo Trung CHâu Phái đã được khẳng định (ít nhất về khía cạnh thống kê), chúng ta có thể thiết lập lại lý thuyết tổng quát hóa.
Motivation trực tiếp của kỹ thuật lấy từ thuyết tương đối, cụ thể hơn là hình học của không thời gian 4 chiều. Bởi vì rằng, cấu trúc của khoa học phương đông dựa trên can chi, nên chắc chắn phải có sự thay đổi nhỏ về cấu trúc spacetime, nhưng đại ý nó cũng đại đồng tiểu dị. Khi ta thực hiện phép quay không gian sang thời gian, thì từ lý thuyết trung châu phái (đông a cũng dùng đòn tương tự nhưng có chút khác biệt), ta thu được lý thuyết được sử dụng đã lâu của phúc tông. Còn cháu không rõ rằng các lý thuyết mới nhất của ngài tử vân có trùng với nó hay không, nhưng cháu cho rằng nó đại đồng tiểu dị, khác nhau nếu có chắc là chi tiết kỹ thuật.

P.s: Về lý thuyết cung khí mà sử dụng làm nền tảng cho kỹ thuật đồ tẫn của bắc phái và nam phái, cháu có khảo cứu và nhận thấy có một số người có lãnh ngộ gần giống. Ở Việt Nam, có cụ BaLa, ông ấy không công khai cách xem bao giờ, nhưng cháu gần đây có đọc lại, phát hiện ngay ra ông ấy dùng đòn thế có nét gần giống với cung khí. Ở đài loan, có ông Từ Tằng Sinh, có viết ra một vài ý sơ khởi, nhưng ngộ tính của ông ấy không cao, nên theo cháu hiểu, ông ấy chưa đi được bao xa, dùng vẫn sai. Cháu không biết trong các tác phẩm mới nhất của ngài TTS thế nào, đã hoàn thiện được lý thuyết hay chưa.
Xin anh nói rõ hơn một chút “cung khí” có nghĩa gì. Vài sự lựa chọn.
A-Như chia các cung thành tứ sinh, tứ mã, tứ mộ, tính chất khác nhau. Rồi mỗi tổ lại có khác biệt trong nội bộ (như tứ mã Dần Thân Tị Hợi chia ra Dần Thân dương, Tị Hợi âm; Dần Thân lại chia ra Dần ấm Thân nguội; Tị Hợi lại chia ra Tị nóng Hợi lạnh).
B-Như dùng lý 12 cung của tử vi tây phương mà định sẵn một số tính chất cho từng cung một.
C-Như dùng ngũ hổ độn để xem nạp âm cung ấy là gì, tính ra lý ngũ hành mạnh yếu.
D-???
Chú ý rằng đa số các phái hiện đại đều đã ẩn tàng cung khí theo lý A hoặc B trong cách xem (C thì mới chỉ thấy một quyển sách Đài Loan dùng tới). Chẳng hạn xét tứ sinh Tí Ngọ Mão Dậu, dùng cung khí theo lý A thấy Tử Vị cư Ngọ sáng giá hơn Tử Vi cư Tí, và Tử Vi Tí Ngọ sáng giá hơn Tử Vi Mão Dậu. Lý B thì thấy trong sách Phan Tử Ngư thuộc phái “nhất diệp tri thu” và trong các sách của Khuyến học trai chủ, lãnh tụ của một phái phi tinh Đài Loan.

 MikeDo, on 28/12/2018 - 16:48, said:

Bởi vì rằng, rất nhiều lý thuyết tử vi tam hợp phái, là hệ quả tầm thường của phi hóa bắc phái khi chúng ta thực hiện thủ pháp đẩy từ hậu thiên lên tiên thiên, nói cách khác lý thuyết xem mệnh là hệ quả tầm thường của lý thuyết xem vận (ví dụ, lý thuyết thiên lương là hệ quả tầm thường và phiên bản lỗi của lý thuyết phi hóa của diện, và được sử dụng lỗi với ngũ hành), cháu nghĩ là mình nên nói về quan điểm định nghĩa trước thì sẽ dễ dàng hơn.

Tạm thời, để dễ hiểu, mình có thể bắt đầu bằng nền tảng tiên thiên. Tạm thời, để dễ dàng có được sự đồng thuận, cũng như dễ hiểu quan điểm của bác hơn, bác và cháu tạm thời bỏ qua vận hành của chính tinh. Các chính tinh là static.
…(bỏ hình để đỡ chiếm chỗ).
Khi ta bắt đầu từ A tới C, từ start tới end, sẽ có 3 con đường chính.

1-A D C Ta bắt đầu bằng thủ pháp hội sao của Nam Phái, trên tam phương tứ chính với nền là cục số, thông qua các lý thuyết cơ bản về cách cục (cung khí, các bộ sao, ngũ hành, tính lý....) để nghiên cứu các cung, sau đó ta mới thực hiện việc nghiên cứu quan hệ giữa các cung vị với nhau.
Người ta gọi đó là Tử Vi Nam Phái.

Ví dụ điển hình là ngài Tử Vân, là đại biểu của Nam Phái.

2- ABC Ta thực hiện việc nghiên cứu quan hệ giữa các cung chức và cung vị, thông qua các công cụ khác nhau. Vì rằng nền tảng của các cung là địa chi, nên quan hệ của chúng phải thể hiện thông qua thiên can để hội đủ tam tài, nên tứ hóa phi tinh là công cụ rất mạnh (không phải là duy nhất).
Sau khi tới B, nhìn xem thần tụ tại cung nào, thì ta mới thực hiện thủ pháp hội sao tam phương tứ chính trên nền cục số để khoan sâu vào các cung.

Người ta gọi đó là Tử Vi Bắc Phái.
Ví dụ lý thuyết của ngài Sái Minh Hoành,

3-Đường zigzag: Sử dụng kết hợp để luận đoán khi cần thiết, và dùng lý thuyết cung khí làm nền tảng để xét.
Ví dụ, lý thuyết đồ tẫn, lý thuyết phi tinh hậu thiên mệnh phổ.

Đây là định nghĩa của cháu về Nam và Bắc Phái. Nói một cách đơn giản, tử vi nam phái có thể coi là lý thuyết standard models, còn tử vi bắc phái nghiên cứu về Quantum field theory. Nói theo kiểu kinh tế học, một cái là Micro Economics, một cái Macro Economics. Cháu hi vọng bác có sự đồng thuận về định nghĩa này. Nói đơn giản, nó là các path trong spacetime.

Theo bác, con đường của bác đi hiện nay, là 1, hay 2, hay 3?
Con đường của tôi xưa nay vẫn thế.
  • Tìm ra cái lý cơ bản của Tử Vi (đã đạt, nhờ gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị).
  • Phát triển ra một cách luận Tử Vi thỏa 2 điều kiện A. Chính xác. B. Có khoa học tính (tức là chỉ cần đừng bị ngu độn thì có thể học được và dạy người khác được).

Nhờ hiểu 1) kể trên tôi thấy ngay nhiều phái mới đã không thỏa tam-tài thiên địa nhân, như ông Liễu Vô cư sĩ bỏ thần sát là đánh mất nửa tài thiên và gần như toàn bộ tài địa. Tôi học các cách xem Tử Vi không phải vì tôi muốn trở thành người biết xem Tử Vi, mà vì tôi không muốn sáng tạo lại các bánh xe “chạy tốt”, tức là tôi muốn nắm vững hết các tinh hoa trong thuật xem số Tử Vi của thế giới để hoàn chỉnh phương pháp xem số nhanh hơn thay vì phải lập lại bước đi của người khác mất thời giờ.

Thành ra, nói đại khái là tôi theo đường 3, nhưng nói thế vẫn không đúng hẳn vì con đường sau cùng tôi tìm thấy có thể chẳng dính líu gì đến nam hoặc bắc phái (theo danh từ của anh, tôi phân loại theo sách Đài Loan, gọi là “tam hợp” và “phi tinh”). Nhưng nếu nam phái có gì hay, tôi sẵn sàng học ngay, bắc phái cũng thế. Ngắn gọn, phái nào có 99 cái dở nhưng có một cái hay mà tôi chưa nghĩ ra, tôi sẽ cố học cái hay đó.

Xem ra, mục tiêu của anh có vẻ giống mục tiêu của tôi. Nhưng hình như có một khác biệt rất to lớn: Tôi tìm sự giản dị vì tôi tin vào lý Occam, còn anh có vẻ không ngại lập một thuyết hết sức phức tạp.

Mỗi người một con đường. Tôi không nói sai đúng ở đây.

Sửa bởi VDTT: 29/12/2018 - 09:43


Thanked by 4 Members:

#37

VDTT



 

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 624 Bài viết:
  • 1886 thanks

 

Gửi vào 29/12/2018 - 10:48

(Kỳ 8.
Các kỳ trước msgs 1, 7, 11, 13, 17, 27, 31 hoặc gần đó.
Bút đàm msgs 16, 19, 24, 32, 36 hoặc gần đó)

Đại hạn Kỷ Hợi 26-35

Sự thật: Năm 1896, 31 tuổi, ông TDT bị điệp viên bắt ở Anh rồi giam trong sứ quán Trung Hoa ở Anh, định mang về Trung Hoa xử tử. Nào ngờ chuyện lộ ra ngoài, lại được một ông thầy dạy học cũ can thiệp, sự việc đăng lên mặt báo, cuối cùng sứ quán Trung Hoa bị chính phủ Anh áp lực phải thả ông TDT ra sau 12 ngày. Chính nhờ vụ này mà tăm tiếng ông TDT nổi khắp năm châu, tên tuổi được toàn thể thế giới biết đến.

Việt luận: Đại hạn nhập Hợi gặp Nhật hãm địa có Kiếp Sát Phi Tuyệt, tam phương tứ chính có cách thập ác (Âm hãm gặp Hỏa cùng cung), Thiên Không Mộc Dục Phục Binh, có thể bị người âm mưu làm hại. Tóm lại, hạn này dưới trung bình, nhưng chi tiết thế nào thì không đoán được. Rõ ràng hơn, chẳng đoán được chuyện bị bắt suýt bị xử tử. Và vì không có chuyện đáng nói nên không bàn thêm năm ứng.

Dĩ nhiên đây là tôi xem, như đã trình bày tôi tự học Tử Vi Việt nên có thể thiếu chiều sâu. Ai có ý kiến khác tôi rất mong được lắng nghe.

Đài luận: Luận thần sát như Tử Vi Việt biết đại hạn có vấn đề. Đại hạn Kỷ (Vũ Tham Lương Khúc) kích hoạt cách “Hình Tù giáp Ấn hình trượng nan đào” coi chừng bị người ta bắt bớ, hành hạ.

Năm ứng: Năm Giáp Ngọ (1894) tuế nhập Ngọ là cung chứa cách Hình Tù giáp Ấn có thể ứng, nhưng vì năm Giáp khiến Liêm hóa Lộc làm cách Hình Tù giáp Ấn bớt xấu, nên xác xuất thấp hơn năm Bính Thân (1896) khi tuế nhập Thân, vì Bính khiến Liêm hóa Kị tăng cường sức hung hiểm của cách Hình Tù giáp Ấn. Mà bị bắt năm Thân thì có thể thoát nạn, vì Khoa nguyên thủy là sao cứu nạn nằm ngay ở đấy.

Phi tinh luận: (đoạn đầu sau đây đã viết lại cho đúng, vì trước viết là có cách Hình Tù giáp Ấn, nhưng xem theo phép phi tinh không thể có cách này.)
Hạn mệnh Kỷ (Vũ Tham Lương Khúc), hạn tài Ất (Cơ Lương Tử Nguyệt), hạn quan Tân (Cự Nhật Khúc Xương). Hạn tật ách có Liêm Kị nguyên thủy. Liêm là tù tinh, cùng cung với Tướng lại hóa Kị ứng chuyện bắt bớ giam cầm, nay Khúc cùng cung lại bị hạn mệnh hóa Kị thì tín hiệu mạnh lắm, vì “mệnh” liên hệ trực tiếp đến bản thân, phải đoán là xác xuất cao bị bắt bớ giam cầm.

Tuy nhiên, vì hạn di chứa Cự là sao hóa bản mệnh Kị bản tài Quyền, bản quan Lộc nên đây là lúc sao Cự nổi bật, đến lúc được tiếng tăm (Cự Quyền Lộc) trong cảnh kình chống bất thường (Cự Kị).

Năm ứng:
Có thể năm 1894 (Giáp Ngọ) bị bắt, nhưng với lý tương tự trường hợp Đài luận, chỉ thêm là năm Giáp Ngọ can năm là lưỡng Giáp (năm Giáp vào cung Giáp), năm Bính Thân can năm là lưỡng Bính (năm Bính vào cung Bính) lại có Xương hạn quan Kị nên cộng hưởng cực mạnh. Chưa kể là theo cách xem phi tinh khi gặp thế xấu của đại hạn tính là năm thứ nhất (Giáp Ngọ), còn phải phòng đến hết năm thứ ba (Bính Thân) mới thoát nạn.

Thành ra có thể khẳng định rằng năm 1896 (Bính Thân) là năm bị bắt. Cùng lý với Đài luận, bị bắt năm Bính Thân thì thoát nạn vì có sao cứu nạn là Khoa nguyên thủy đóng ngay đấy.

Đoán là nổi tiếng từ năm 1893 khi vào hạn di vì gặp Cự thêm can tuế và can cung đều là Quý khiến Cự hóa Quyền, nhưng đến năm 1896 thì mới thật là nổi như cồn vì có bệnh (Xương ứng bằng sắc gặp hạn quan Kị) được thuốc (Khoa nguyên thủy).

Tiếc là phần đầu đoạn này (nổi tiếng từ năm 1893) không kiểm chứng được. Nếu năm này ông TDT đã được nhiều người trong nước Trung Hoa biết đến thì đúng. Chúng ta biết rằng năm sau đó (1894) ông và một bằng hữu đưa kiến nghị dài 8 ngàn chữ lên quan lớn Lý Hồng Chương nhưng không được tiếp. (Năm 1894 dám nghĩ chuyện đưa kiến nghị lên quan lớn cấp 1 như thế thì chắc là phải tự tin lắm, nên rất có thể năm 1893 đã được quần chúng thán phục rồi. Dĩ nhiên đây chỉ là hậu đoán. Sự thật phải chờ các sử gia.)

Nhận xét: Tử Vi Việt dường như không đoán ra chuyện bị bắt trong hạn này. Tử Vi Đài đoán đúng, nhưng phi tinh chính xác hơn vì thêm cách nổi tiếng (Cự Lộc Quyền Kị) ở hạn di.

Tóm lại, hai hạn 6-15 và 26-35 phép phi tinh đều đoán đúng các diễn biến chính yếu.

(Còn tiếp)

Sửa bởi VDTT: 29/12/2018 - 23:43


#38

tripooh1



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 556 Bài viết:
  • 325 thanks

 

Gửi vào 29/12/2018 - 23:36

chuyện bị bại lộ trên mặt báo rộng rãi: Phong cáo ngộ triệt + xương khoa + lưu khoa ( can bính lưu tuần triệt gặp chính triêt nữa)
Ông thày giáo cũ này chắc là người nước ngoài: văn xương, hóa khoa, đà la thất sát ân quang
Nơi mưu toan ám hại và bị bắt: Tử vi thái tuế (mẫu quốc), (can bính và nguyên thủy); lãnh sự quán được xem là vùng đất của của mỗi quốc gia đặt tòa lãnh sự =))
Tòa lãnh sự bị áp lực của Anh quốc phải thả ra: lưu tuế, thất sát, ân quang, xương khoa (gây áp lực qua con đường ngoại giao và quan hệ quốc tế)

suy đoán thế vì cháu ko có thông tin kiểm định chính xác

tuần triệt đều an theo can và 4 hóa cũng từ can, như vậy có khi cả tuần triệt và 4 hóa cùng là 1 bộ phận không tách rời của quy luật tạo hóa

Sửa bởi tripooh1: 29/12/2018 - 23:57


Thanked by 1 Member:

#39

MikeDo



 

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 860 Bài viết:
  • 857 thanks

 

Gửi vào 30/12/2018 - 10:54

CHào bác VDTT.
Hôm qua cháu và một số học trò ngồi nghiên cứu lại bài luận về lá số Tôn Dật Tiên của bác.
Cháu suy nghĩ kĩ, viết đi xóa lại 4 lần, nhưng cuối cùng cháu đành xin phép bác. Cháu xin lỗi, nhưng cháu nói thật, cách bác sử dụng phi tinh, thực sự cũng rất nhiều sai sót. Có gì cháu nói, mong bác thứ lỗi.

Lý do ở đây, cháu nghĩ là thời gian bác làm về phi tinh chưa được lâu, nên công phu chưa được mài dũa và lắng đọng. Chính vì vậy:

1-Bác đang bị tình trạng nhầm lẫn giữa hai loại tứ hóa, là tứ hóa lưu và tứ hóa can cung. Và vì thế, bác có tình trạng cào bằng giữa hai đối tượng không có cùng thứ nguyên, và tệ hơn là đi so sánh độ mạnh yếu của chúng.

Thật ra, cháu hiểu bác đang sử dụng nguyên lý dao cạo, nói nôm na theo nghĩa tiếng việt là sử dụng lý thuyết xấp xỉ để gạt bỏ bớt t hông tin nhiễu. Tuy nhiên, cháu cho rằng ở đây bác đã gạt đi quá nhiều, và với hai đối tượng thuộc không gian khác nhau lại cho cùng một hệ quy chiếu để có thể dao cạo, làm mất đi giá trị chính của chiêu thức. Nói theo ngôn ngữ đời thường, là bỏ phiếu để xem lợn và cầu chì, cái nào có tác dụng lớn hơn.

2-Thực sự các chiêu thức của bác, nó cực kì lỏng lẻo. Cháu thấy bác không biết cách sử dụng ứng kì. Đồng thời, các chiêu thức của bác nó hỗn tạp kiểu lẩu, lý do là bác trộn lẫn chưởng pháp của các môn phái phi tinh khác nhau lại với nhau, nhưng vì sử dụng occam nên quá trình dung hợp có vấn đề. Ví dụ, cháu thấy bác đúng là sử dụng tam hợp mệnh tài quan đại vận để tác phi hóa bay lên tầng tiên thiên, nhưng tới khi luận vận năm thì bác lại không (hoặc chưa, hoặc chưa biết) cách sử dụng.
Về nguyên tắc, chiêu thức nó muốn mạnh và sắc nét thì cần phải thuần và đồng bộ, từ tầng nguyên thủy cho tới tầng đv, lưu niên, nguyệt, nhật, thời. Cháu không thấy điều đấy ở cách bác sử dụng.
Hệ quả, các khuyết điểm đó sẽ bị khuyếch đại ở các tầng vận cao, và cháu không tin bác có thể dùng nó để xem vận ở tầng tháng, chưa cần nói tới xem hạn ngày và giờ.
3-Ngoài ra, theo cháu thì, thời điểm ông TDT bị bắt, theo lá số, phải là ông ta và bạn bè đi gái gú rồi bị bắt. Trong các sách vở lịch sử, cháu có khảo cứu suốt chiều qua, đều chỉ ghi là "vì các nguyên nhân không rõ ràng", ông tôn đi thăm người bạn cũ là bác sĩ xxx, và không hiểu sao lại xuất hiện tại đại sứ quán trung quốc.... Còn cháu thấy bác luận thì chỉ mang sao ra xem, nhưng bỏ qua cái chuyện quan trọng nhất là nó tác động lên tầng cung chức nào, và có nghĩa là bác đã bỏ qua cái tinh túy nhất của tử vi bắc phái phi tinh.

Còn tiếp.

Thanked by 1 Member:

#40

VDTT



 

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 624 Bài viết:
  • 1886 thanks

 

Gửi vào 30/12/2018 - 11:03

(Kỳ 9.
Các kỳ trước msgs 1, 7, 11, 13, 17, 27, 31, 37 hoặc gần đó.
Bút đàm msgs 16, 19, 24, 32, 36 hoặc gần đó)

Đại hạn Canh Tí 36-45

Sự thật: Nổi dậy chống nhà Thanh nhiều lần, đều thất bại cả.

Việt luận: Hạn Sát Phá Tham Mã Khốc Khách thì hăng hái bôn ba đấu tranh, nhưng hạn Phá Quân có Xương Khúc hội họp là trái cựa rồi, ngay trong hạn bị Thiên Phúc (thử thách) trấn giữ, lại bị Hình Kình Kị xung, mưu sự khó thành. May mà Khoa nguyên thủy ở tam hợp, nên nếu nguy được cứu.

Vì đại hạn không có thành tựu, chẳng cần luận năm làm gì.

Đài luận: Cách bất lợi y như Việt luận, hạn Canh (Nhật Vũ Âm Đồng) nên hạn Kị nhập bản mệnh gây bất lợi, nhưng hạn Quyền nhập phối xung quan nên không chịu thua số mệnh, nhất định làm chuyện muốn làm. Hạn Lộc hạn Khoa nhập tam hợp phúc phối di, lại là hạn Mã Khốc Khách rõ là mười năm bôn ba khổ ải nhưng gặp nhiều nhân duyên tốt đẹp.

Phi tinh luận: Hạn Sát Phá Tham thì có rất nhiều diễn biến xảy ra. Hạn mệnh lại có Phá Quân cư Tí thì hăng hái ghê gớm. Phần này y như Việt luận, Đài luận.

Nay dùng hạn hóa để luận thành bại. Hạn mệnh Canh (Nhật Vũ Âm Đồng), hạn tài Bính (Đồng Cơ Xương Liêm), hạn quan Nhâm (Lương Vi Phụ Vũ). Hạn tài Kị xung hạn mệnh, hạn quan Kị xung hạn quan; ba yếu tố mệnh tài quan bị hai bất lợi như thế thật là nghiêm trọng; còn may hạn mệnh Kị nhập bản mệnh nên sức kháng cự rất mạnh (Chú: Theo phép phi tinh, hạn Kị nhập mệnh tài quan nguyên thủy chẳng xấu vì là Kị của mình, điểm này khác với Đài luận như phái Tử Vân). Thành thử luận là mưu sự thất bại, nhưng sống còn chẳng phải là vấn đề.

Nhận xét: Cả ba cách đều đồng ý rằng hạn này bất lợi cho việc đấu tranh, nhưng sức đấu tranh rất ghê gớm. Chú ý rằng phép phi tinh cho cùng kết quả với hai phép kia mặc dù chẳng xét Mã Khốc Khách, Hình Kình v.v…

Đại hạn Tân Sửu 46-55

Sự thật:
Năm Tân Hợi 1911: Cách mạng Tân Hợi thành công, ông TDT về nước nhậm chức đại tổng thống, bắt đầu Trung Hoa Dân Quốc năm thứ nhất ngày 1-1-1912 (vẫn còn trong năm Tân Hợi).

Năm Nhâm Tí 1912: Ông TDT trong thế kẹt phải nhường chức đại tổng thống cho Viên Thế Khải. Viên Thế Khải lộng quyền.

Năm Quý Sửu 1913: Ông TDT phải lưu vong sang Nhật để khỏi bị họ Viên hãm hại.

Năm Ất Mão 1915: Bà Tống Khánh Linh trốn nhà (Thượng Hải) sang Nhật gặp ông Tôn. Ông Tôn bảo bà là đã li dị bà Lô Mộ Trinh (lấy từ năm 1885), hai bên cử hành hôn lễ. Thực ra, ông Tôn chẳng bao giờ li dị bà Lô nên cuộc hôn nhân này là một trường hợp mà Tử Vi gọi là “phạm đào hoa”.

Việt luận: Hạn Cơ hãm đắc hóa Quyền nguyên thủy, lại được Đồng hãm đắc Lộc nguyên thủy chiếu; lại là hạn song Lộc, trong cung có sẵn Tả Hữu, thật là rực rỡ. Hiềm là hạn Âm Long Trực dễ phạm sai lầm hoặc thua thiệt. Kiếp Không hãm đủ bộ hội họp e rằng thành công không giữ được, trước tốt sau xấu. Thêm Hồng Loan-Quả Tú Cô Thần càng đáng ngại. Do đó đoán là khởi đầu thành công, nhưng bị thua thiệt, không giữ được thành quả.

Xét hạn năm:

Theo tiểu hạn
Tân Hợi (1911): Nhập cung Sửu, rõ ứng. Rất tốt, nhưng vì Không Kiếp e cuối năm có biến chuyển không tốt. Quả thật cuối năm đang vừa nhậm đại tổng thống đã phải nghĩ ngay đến chuyện nhường chức này cho Viên Thế Khải để cứu vãn cách mạng.

Nhâm Tí (1912): Nhập cung Dần, bị Hình Tù giáp Ấn hóa Kị chiếu, thật không hay. May mà chính cung có Tử Phủ mạnh, lại được Khoa xung, không đến nỗi. Sự thật mất chức về tay Viên Thế Khải, nhưng chưa phải làm chuyện gì cực đoan.

Quý Sửu (1913): Nhập cung Mão, gặp Âm hãm địa, được Đồng Lộc xung, Khôi Việt là quý nhân chiếu. Âm ứng động nên nếu gặp khó khăn thì có thể cao bay xa chạy thoát thân. Sự thật là năm lưu vong tránh họa Viên Thế Khải.

Ất Mão (1915): Nhập cung Tị, cách Đồng Cự Cơ, không có tín hiệu gì đặc biệt.

Theo Thái Tuế:
Tân Hợi 1911: Vào Hợi, không có tín hiệu gì đặc biệt.

Nhâm Tí 1912: Vào Tí, bị cung xung (Ngọ) áp lực nặng nề.

Quý Sửu 1913: Vào Sửu, chính tinh Cơ nên có tính động. Vì có Không Kiếp có thể đoán phải đi xa lánh nạn.

Ất Mão 1915: Vào Mão, gặp Âm hãm hội Dương hãm Đào Hỉ Mộc Dục, có thể có chuyện đào hoa.

Phối hợp tiểu hạn và Thái Tuế có thể luận rằng:

Tân Hợi 1911: Trời cho vinh quang, rồi có vấn đề. (Đúng).
Nhâm Tí 1912: Bị áp lực nặng nề, là một năm không tốt. (Đúng).
Quý Sửu 1913: Đi xa lánh nạn. (Đúng).
Ất Mão 1915: Có chuyện đào hoa (Đúng).

Đài luận:
Cách cục y như Việt luận, nhưng thêm hạn Tân (Cự Nhật Khúc Xương). Cự Nhật nhập trục của hạn quan phối, rõ ràng có biến chuyển to lớn tốt đẹp về đường quan lộc. Tiếc là Xương ở hạn tật hóa hạn Kị, xung hạn phụ mẫu. Phụ mẫu ứng công việc, bằng sắc; Xương ứng bằng sắc tức là không có duyên với bằng sắc trong hạn này. Nếu có phải mất.

Luận các năm:

Các năm cách cục y như Việt luận, thêm các dữ kiện sau đây:
-Năm Tân Hợi 1911 (trùng can đại hạn): Cự hạn và lưu Lộc ở Tị là đại hạn quan lại là di của Tuế nên đi xa vinh quang. Xương hạn và lưu Kị ở Thân là đại hạn tật e gặp cảnh luống cuống chân tay, không thể xử cho hay được.

-Năm Nhâm Tí 1912: Lương lưu Lộc xung hạn mệnh còn tạm yên ổn, nhưng Vũ lưu Kị ở hạn tử xung hạn điền thì mầm mống loạn lạc đã rõ ràng.

-Năm Quý Sửu 1913: Phá lưu Lộc ở hạn bào làm sao kình chống nổi với Kị nguyên thủy ở cung nô xung, rõ là thế bị người ta công kích, Lộc trở thành đường chạy trốn. Tham lưu Kị ở hạn điền càng rõ là phải chạy trốn.

-Năm Ất Mão 1915: Cơ lưu Lộc ở hạn mệnh, Nguyệt lưu Kị ở hạn phúc, tín hiệu mạnh rõ là cách “đào hoa” thành hình.

Phi tinh luận:
Hạn mệnh Tân (Cự Nhật Khúc Xương), hạn tài Đinh (Nguyệt Đồng Cơ Cự), hạn quan Quý (Phá Cự Âm Tham). Ba tổ đều có Cự đúng là lúc Cự (quan lộc) nổi bật. Nhưng một trong ba hóa của Cự là hạn Kị, xung hạn phối. Kị xung phối ứng sự “vô duyên” với người hôn phối, là tín hiệu xấu cho hôn nhân. Cự lại có cả Lộc lẫn Kị kình chống nhau, thành thử từ tốt biến thành xấu.

Luận năm:
Năm Tân Hợi 1911: Nhập Hợi thấy cả ba tính của Cự ở cung xung (hạn mệnh Lộc, hạn tài Kị, hạn quan Quyền), trước huy hoàng sau có vấn đề. (Đúng).

Năm Nhâm Tí 1912: Nhập Tí gặp hạn quan hóa Lộc (Phá) tưởng tốt, nhưng lưu quan là cung ứng với quan lộc lại gặp hạn quan hóa Kị (Tham). Có quan chức khó mà giữ được vì quan lộc gặp Kị khó làm quan. Tuế can Nhâm (Lương Vi Phụ Vũ) và cung can Canh (Nhật Vũ Âm Đồng) cho biết có chuyện không tốt cho bản thân (Đồng ở bản mệnh bị Kị), có thể ứng vào chuyện mất chức.

Năm Quý Sửu 1913: Nhập Sửu là tuế hạn trùng phùng. Hạn quan và Tuế can Quý (Phá Cự Âm Tham) khiến điền bị song Kị rõ là nơi ẩn náu (điền) có vấn đề. Cung can Tân (Cự Nhật Khúc Xương) khiến Kị nhập tật của hạn và Tuế, xung phụ mẫu của hạn và Tuế, công việc hỏng hết rồi, đã đến lúc bôn tẩu.

Năm Ất Mão 1915: Nhập Mão. Cung can Tân (Cự Nhật Khúc Xương) không có gì đáng nói, nhưng Tuế can Ất (Cơ Lương Tử Nguyệt) khiến lưu Lộc nhập lưu phối (Sửu), trong khi lưu Kị nhập lưu mệnh (Mão) gây mâu thuẫn đấu tranh ở sao Nguyệt (vì Nguyệt nhờ hạn tài Đinh mà hóa Lộc, vì năm Ất mà hóa Kị). Ta có thể đoán có vấn đề trong hôn nhân, nhưng chẳng thể nói là phạm đào hoa như cách xem Việt hoặc Đài.

Nhận xét: Hạn này cả ba cách đều tương đối đoán đúng chuyện đấu tranh. Về vấn đề đào hoa cách Đài Loan rõ nét hơn hết, rồi đến cách Việt. Cách phi tinh hơi mập mờ, mặc dù lý tính vẫn đúng.

Luận năm thì các năm liên hệ đến đấu tranh cách phi tinh chính xác nhất (vì đoán được là có thể mất chức năm 1912), cách Việt yếu nhất nhưng đoán đại khái vẫn đúng. Về năm có cách đào hoa, cả ba cách đoán đúng là có vấn đề hôn nhân, nhưng cách phi tinh yếu nhất vì không thể xem ra là phạm đào hoa.

Hạn Canh Dần 56-65:
Ông TDT mất năm 1925, thọ 60 tuổi ta. Hạn cuối không có gì đặc biệt lắm, nên xin miễn luận.
(Còn tiếp)

Thanked by 2 Members:

#41

VDTT



 

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 624 Bài viết:
  • 1886 thanks

 

Gửi vào 30/12/2018 - 11:36

 MikeDo, on 30/12/2018 - 10:54, said:

CHào bác VDTT.
Hôm qua cháu và một số học trò ngồi nghiên cứu lại bài luận về lá số Tôn Dật Tiên của bác.
Cháu suy nghĩ kĩ, viết đi xóa lại 4 lần, nhưng cuối cùng cháu đành xin phép bác. Cháu xin lỗi, nhưng cháu nói thật, cách bác sử dụng phi tinh, thực sự cũng rất nhiều sai sót. Có gì cháu nói, mong bác thứ lỗi.

Lý do ở đây, cháu nghĩ là thời gian bác làm về phi tinh chưa được lâu, nên công phu chưa được mài dũa và lắng đọng. Chính vì vậy:
Anh đừng ngại chê thẳng. Chưa được lâu là đúng. Công phu chưa mài dũa là đúng.

 MikeDo, on 30/12/2018 - 10:54, said:

1-Bác đang bị tình trạng nhầm lẫn giữa hai loại tứ hóa, là tứ hóa lưu và tứ hóa can cung. Và vì thế, bác có tình trạng cào bằng giữa hai đối tượng không có cùng thứ nguyên, và tệ hơn là đi so sánh độ mạnh yếu của chúng.

Nhầm lẫn thì không có đâu. Chỉ là đây mới là nửa đầu của diễn trình phát triển phái phi tinh mà tôi muốn trình bày cho độc giả. Nên tôi chỉ dùng những kiến thức hết sức cơ sở. Nói cách khác tôi cố ý dùng thật ít chiêu (không có nghĩa tôi không biết các chiêu khác, hoặc không biết đủ chiêu).

Tôi biết đại đa số các phái chỉ dùng can cung, theo luật “thiên nhân hợp nhất”, và giải thích khá rõ tại sao phải dùng can cung thay vì dùng Tuế can. Nhưng đây tôi chưa dùng cách đó. (Ông Khuyến học trai chủ thì dùng cả hai, thú thật tôi chưa nghiên cứu kỹ cách của ông ấy).


 MikeDo, on 30/12/2018 - 10:54, said:

Thật ra, cháu hiểu bác đang sử dụng nguyên lý dao cạo, nói nôm na theo nghĩa tiếng việt là sử dụng lý thuyết xấp xỉ để gạt bỏ bớt t hông tin nhiễu. Tuy nhiên, cháu cho rằng ở đây bác đã gạt đi quá nhiều, và với hai đối tượng thuộc không gian khác nhau lại cho cùng một hệ quy chiếu để có thể dao cạo, làm mất đi giá trị chính của chiêu thức. Nói theo ngôn ngữ đời thường, là bỏ phiếu để xem lợn và cầu chì, cái nào có tác dụng lớn hơn.
Đúng là tôi dùng dao cạo. Nhưng đừng hiểu lầm dao cạo là cắt hết chẳng còn gì.

Đây chưa phải là thuyết phi tinh đầy đủ mà tôi sẽ đề nghị ở đoạn kết loạt bài này. Đừng vội kết luận.

 MikeDo, on 30/12/2018 - 10:54, said:

2-Thực sự các chiêu thức của bác, nó cực kì lỏng lẻo. Cháu thấy bác không biết cách sử dụng ứng kì.
Anh có thể nói là tôi chưa xử dụng cách tính ứng kỳ của phái phi tinh, vì nhắc lại, đây là nửa đầu.

(Cách tính ứng kỳ sách phi tinh nào cũng có viết rất rõ. Nhưng đúng là tôi chưa tuân thủ các cách đó).

 MikeDo, on 30/12/2018 - 10:54, said:

Đồng thời, các chiêu thức của bác nó hỗn tạp kiểu lẩu, lý do là bác trộn lẫn chưởng pháp của các môn phái phi tinh khác nhau lại với nhau, nhưng vì sử dụng occam nên quá trình dung hợp có vấn đề.
Điều này có lẽ đúng. Tôi chưa dung hợp xong. Nhưng theo tôi đây là tiểu tiết.

 MikeDo, on 30/12/2018 - 10:54, said:

Ví dụ, cháu thấy bác đúng là sử dụng tam hợp mệnh tài quan đại vận để tác phi hóa bay lên tầng tiên thiên, nhưng tới khi luận vận năm thì bác lại không (hoặc chưa, hoặc chưa biết) cách sử dụng.
Chưa xử dụng. Tôi muốn độc giả thấy một vài vấn đề -của ngay chính phái phi tinh- trước đã.

 MikeDo, on 30/12/2018 - 10:54, said:

Về nguyên tắc, chiêu thức nó muốn mạnh và sắc nét thì cần phải thuần và đồng bộ, từ tầng nguyên thủy cho tới tầng đv, lưu niên, nguyệt, nhật, thời. Cháu không thấy điều đấy ở cách bác sử dụng.
Hệ quả, các khuyết điểm đó sẽ bị khuyếch đại ở các tầng vận cao, và cháu không tin bác có thể dùng nó để xem vận ở tầng tháng, chưa cần nói tới xem hạn ngày và giờ.
Cám ơn anh lo lắng, nhưng nếu làm theo sách thì tôi chẳng có vấn đề cho đến tháng, ngày.
Nhưng anh nói rất đúng về giờ, vì tôi chưa thấy sách nào đưa đề nghị hợp lý cả.

 MikeDo, on 30/12/2018 - 10:54, said:

3-Ngoài ra, theo cháu thì, thời điểm ông TDT bị bắt, theo lá số, phải là ông ta và bạn bè đi gái gú rồi bị bắt. Trong các sách vở lịch sử, cháu có khảo cứu suốt chiều qua, đều chỉ ghi là "vì các nguyên nhân không rõ ràng", ông tôn đi thăm người bạn cũ là bác sĩ xxx, và không hiểu sao lại xuất hiện tại đại sứ quán trung quốc.... Còn cháu thấy bác luận thì chỉ mang sao ra xem, nhưng bỏ qua cái chuyện quan trọng nhất là nó tác động lên tầng cung chức nào, và có nghĩa là bác đã bỏ qua cái tinh túy nhất của tử vi bắc phái phi tinh.
Nhắc lại, tôi hiện chỉ “bán” cho làng Tử Vi Việt một chiêu bài là chỉ cần thập bát phi tinh phái phi tinh đã đạt thành quả đáng kể, thế thôi.

Tôi cố ý chưa nói gì đến hiện tượng hoặc tượng kẻo loãng chủ đề. Thành thử gái gú hay không tôi chưa cần biết tới.

Bài mới đăng trên cũng thế, chỉ cần xem theo cách VN cũng biết năm 1915 ông TDT phạm đào hoa. Nếu chỉ dùng thập bát phi tinh cơ sở (như tôi hiện dùng) thì chưa thể xem ra điều ấy.

Sửa bởi VDTT: 30/12/2018 - 11:45


Thanked by 2 Members:

#42

MikeDo



 

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 860 Bài viết:
  • 857 thanks

 

Gửi vào 30/12/2018 - 12:25

Dạ vâng. Cháu rất mừng vì bác không giận, cháu lo suốt cả buổi sáng nghĩ đi xoá lại nhiều lần, nhưng hoá ra là lo thừa. Nhưng dù gì thì gì cháu vẫn mong bác thứ lỗi.
Chính xác là cháu đinhj nghĩa tam tài như bâc, nói chính xác hơn cháu học lý thuyết tam tài đấy từ bác. Và sau đó cháu sử dụng nó làm công phu có bản để nghĩ Ra các kỹ thuật khác. Ví dụ bộ tam tài phi tinh hậu thiên mệnh phổ, dùng để nối kết lý thuyết can lưu và can cung được nghĩ ra dựa trên nền tảng chính là tam tài do bác phât minh ra.
Thậm chí cháu cho rằng không đột phá xong cái phần tam tài của bác thì học tử vi bắc phái vĩnh viễn là chuồn chuồn điểm nước, cá bảy màu song phi tàu ngầm hạt nhân. Ngay cả trong nam phái, nó cũng nên là công phu nòng cốt là nguyên lý của phản cách và chế giải trong tử vi.
Cháu đồng ý với bâc đúng là chỉ cần dùng thập bát phi tinh đã có thể quyết đoán hầu hết. Như cháu thì thừa thời gian mới cho thêm thần sát vào để thêm phần hoa lá nhưng nó không phải cốt lõi của chiêu thức. Thậm chí cháu vất chính tinh đi dùng mỗi lộc và kị, kết hợp với cung khí đã có thể đạt tới độ sắc nét tương đối.

Có một cái khâu rất quan trọng mà cháu nghĩ chắc bấc chưa viết ra, đó là điều kiện để tác phi hoá. Không phải lúc nào một cung cũng có thể bắn phá một cung khác bằng phi hoá, nói cách khác tuỳ độ cường nhược cuả phi hoá bắn sang mà khi tính xáp xỉ mà ta bỏ qua hay không.

Về ứng kỳ, cháu. Nghĩ là công phu quan trọng hàng đầu của bắc phái, cháu có đi sâu vào và thẩy rằng ngoài các công phu thuần bắc phái( ứng kỳ theo tam tài) thì sử dụng kết hợp với các công phu nam phái sẽ đạt impact gấp đôi. Vì rõ ràng chúng ta nghiên cứu tử vi đều mong đạt tới sự sắc nét.
Kính

Sửa bởi MikeDo: 30/12/2018 - 12:34


Thanked by 4 Members:

#43

goldfish



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1036 Bài viết:
  • 462 thanks

 

Gửi vào 30/12/2018 - 15:50

Anh trai Sun Mei có cống hiến vô cùng lớn cho sự nghiệp của TDT (nuôi ăn học, bán hết đất đai để trang trải cho khởi nghĩa...). Theo như blog dưới đây, ông Sun Mei sinh ngày 6 tháng 12 năm 1854, tuổi Giap Dan, mất năm 1915, từng là doanh nhân rất thành đạt ở Hawaii

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nguồn khác thì nói ông Mei sinh năm 1851, tuổi Tân Hợi (?)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi Supernova: 30/12/2018 - 15:52


Thanked by 1 Member:

#44

VDTT



 

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 624 Bài viết:
  • 1886 thanks

 

Gửi vào 30/12/2018 - 23:22

 Supernova, on 30/12/2018 - 15:50, said:

Anh trai Sun Mei có cống hiến vô cùng lớn cho sự nghiệp của TDT (nuôi ăn học, bán hết đất đai để trang trải cho khởi nghĩa...). Theo như blog dưới đây, ông Sun Mei sinh ngày 6 tháng 12 năm 1854, tuổi Giap Dan, mất năm 1915, từng là doanh nhân rất thành đạt ở Hawaii

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nguồn khác thì nói ông Mei sinh năm 1851, tuổi Tân Hợi (?)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Cám ơn bạn. Hình như bạn biết đọc tiếng Hoa?
Đây là lần đầu tiên tôi biết rõ hơn về ông này.
Ngoài ra, từ dữ kiện thì 13, 14 tuổi ta (1878, 1879) đều ứng cả (13 ứng dự tính, 14 ứng việc đi học), nhưng phải dùng 14 làm dữ liệu kiểm nghiệm thay vì 13 như tôi đã viết. Năm 14 tuổi thì tín hiệu Tử Vi rõ lắm vì năm ấy Tuế nhập Mão gặp Nguyệt hóa đại hạn Lộc, chính là ứng kỳ đi xa. Việt luận không xử dụng đại hạn Lộc, nhưng từ phương vị cũng có thể đoán đúng, mặc dù khó xem hơn.

Sửa bởi VDTT: 30/12/2018 - 23:23


Thanked by 2 Members:

#45

VDTT



 

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 624 Bài viết:
  • 1886 thanks

 

Gửi vào 31/12/2018 - 10:40

Nhờ một tình cờ tôi gặp bài này của anh AlexPhong, một nhân tài kiệt liệt của làng tử vi VN, trong loạt bài “Bốn yếu lĩnh xem vận bằng tứ hóa”, link: https://tuvilyso.org...an-bang-tu-hoa/ Thấy 33 có lẽ là kỷ lục được cám ơn. Xin ghi lại đây vì phù hợp và xin có vài lời nhận xét cộng với một vài câu hỏi. Xin chia làm hai phần. Phần đầu toàn thể để độc giả đọc suốt một lượt. Phần 2 tách ra và ghi ý kiến + câu hỏi.

 AlexPhong, on 25/04/2017 - 08:47, said:

Tứ hóa như công cụ hữu ích, chích kim là thấy máu. Tuy nhiên, sách vở hệ thống hiện nay quá rắc rối rườm rà. Nặng về múa may và nhẹ về hiệu dụng. Người xem tứ hóa cần hiểu rằng tứ hóa là công cụ xem vận, chứ không thể vượt qua hoàn toàn kết cấu của lá số tĩnh. Xem vận bằng tứ hóa có ưu điểm là rõ ràng không mập mờ. Hóa là hóa mà không hóa là không hóa. Kị là Kị mà Lộc là Lộc. Hội tụ là hội tụ mà phân tán là phân tán. Nhưng cần có những yếu lĩnh để phân tách rạch ròi có và không. Những kiến thức mang tính gây rối nhập nhèm cần phải loại trừ. Ngoài bốn yếu lĩnh dưới đây còn vô khối các kĩ pháp thiện xảo khi vận dụng, ví dụ như Hóa Quyền là rất ham muốn, đóng điền trạch là muốn xây nhà mua đất. Nhưng những kí xảo đó chỉ có ích khi người học nắm được cơ bản. Còn không thì cũng như thầy bói xem voi, rờ đâu biết đó, lúc trúng lúc trượt mà thôi.

1. Mệnh là mệnh, vận là vận:
Có nghĩa là loại bỏ tất cả những cung quan đại vận, cung quan lưu niên, hay 12 cung lưu theo vận. Chỉ có 12 cung nguyên thủy, duy nhất và vĩnh hằng. 12 cung này là 12 hay yếu tố tĩnh tại của lá số chờ đón cơn mưa tứ hóa rơi xuống. Vì trên thực tế xem số, nhận thấy lưu 12 cung không mang lại hiệu quả rõ nét, trái lại chỉ gây rối thêm cho người xem. Và tứ hóa của lưu niên tương tác mạnh mẽ tới cung vị nguyên thủy. Ví dụ cung quan nguyên thủy có Tham Lang, năm Quý Tham Lang hóa Kị nhập cung quan nguyên thủy tương tác xảy ra rõ rệt chứ chẳng hề phải theo tầng theo bậc như sách vở ghi lại. Cho nên cân nhắc, ngẫm nghĩ mãi thấy rằng chân lý ở sự tối giản. Tất cả lưu cung đều là man thư rác rưởi của bọn hàn lâm suông để lại. Cần phải loại bỏ như vén mây cho người học thấy mặt trời để nhìn đường mà đi.


2. Xung là xung, thủ là thủ:
Tứ hóa khi xung và khi thủ có tác dụng đặc biệt khác nhau. Hóa Kị xung vận là đại họa nhưng Hóa Kị thủ vận thì êm đềm. Đây là điều nghìn năm Nam phái chưa bao giờ biết.

3. Tam Kị hội đại hung, lưỡng Kị hội thất nghiệp:
Kì thực, phép xem tứ hóa phong phú biến hóa. Ở đây chỉ đưa ra cách cục của tam Kị nhằm mục đích giúp người nghiên cứu đang bị hôn mê vì sao bay đầy trời thấy được lối ra. Sau này, tam Lộc hay tam Quyền đều có thể tự suy diễn, nhưng trước hết cứ nắm vững cách cục tam Kị. Nắm vững để mường tượng ra cách tứ hóa tương tác như thế nào. Nắm vững, để biết được trọng tâm mà phát lực thì đòn thế mới có hiệu quả, chứ đi ngủ mà cũng nắm tay gồng mình thì chỉ là phường máy móc.

Cách thứ nhất của tam Kị hội là cả ba Kị đồng cung. Cách thứ hai của tam Kị hội là 3 Hóa Kị (nguyên thủy, đại vận, lưu niên) xếp thành 3 cung liên châu, ví dụ thân dậu tuất thì năng lượng Hóa Kị dồn vào cung dậu. Cách thứ ba của tam Kị hội là hai Kị tam hợp, một Kị chính xung.

Cách lưỡng Kị là khi Hóa Kị tiểu vận tới xung Hóa Kị đại vận.
Xem tứ hóa tương tác cần chú ý trường hợp cung VCD và không có sao có khả năng hóa khí, khi đó nó lấy toàn bộ tứ hóa cung đối diện làm của mình. Ví dụ cung hợi VCD và không có sao có khả năng hóa khí như 14 chính tinh và Tả Hữu Xương Khúc, đối cung là Liêm Tham ở tị, thì khi Liêm Tham hóa Kị sẽ được cung hợi mượn về. Trường hợp này xung cũng như thủ.

Đó là các cách tập trung năng lượng của các Hóa Kị. Chung quy thì tử vi cũng là bài toán năng lượng. Năng lượng thì có hội tụ và phân tán. Khi năng lượng xấu hội tụ thì sự xấu phải xảy ra. Sự hội tụ tinh giản nhất là sự hội tụ từ ba con số, đó là tam tài thiên địa nhân. Tứ hóa nguyên thủy là thiên, tứ hóa đại vận là địa, tứ hóa lưu niên là nhân. Vấn đề còn lại là sự hội tụ đó nhắm vào đâu.

Tam Kị hội, nếu đả nhập những cung cốt lõi của lá số như mệnh tài quan tật thì sinh mệnh bị đe dọa ngàn cân treo sợi tóc. Ba cung mệnh tài quan như xương sống nối liền hộp sọ của cơ thể con người. Phân ra thì là quan lộc chủ danh chức, tài bạch chủ tiền tài, nhưng người xem cần có con mắt tổng quát hiểu rằng mệnh tài quan đều là đương số cả. Tam Kị đánh vào đó cũng như thiên địa nhân cùng đánh vào xương sống thì không chết mới là lạ.

Lưỡng Kị hội, nếu Hóa Kị đại vận nhập mệnh, Hóa Kị lưu niên đến xung thì năm đó tan nát sự nghiệp. Vì lưỡng Kị khi đó đánh vào trục mệnh di.

4. Cha xung con bình thường, con xung cha đại nghịch:
Câu này ví von để độc giả nắm được cách tương tác của hóa khi ba tầng: nguyên thủy, đại vận, lưu niên. Khi ta xét hội tụ như yếu lĩnh thứ ba nói trên, thì cứ gom vào ào ào cho dễ hiểu dễ học. Nếu mới học mà cân phân quá kĩ thì không nắm được tổng quát mà lại rơi rụng cơ bản. Kì thực, vũ trụ này có trật tự trên dưới to nhỏ. Tứ hóa nguyên thủy xung đại vận hay nói cách khác đại vận đi đến nơi có tứ hóa nguyên thủy xung thì xấu. Xấu vì bị Hóa Kị xung nhưng sự xấu này trung bình, không phải là khủng khiếp. Điều này giống như Hóa Kị nguyên thủy nhập mệnh thì cũng xấu nhưng cái xấu đó như cái tật trên người mang theo cả cuộc đời. Giống như người mù bẩm sinh, xót xa thật nhưng đỡ xót xa hơn khi trưởng thành bị chọc mù mắt. Cái thằng chọc mù mắt đó chính là đại vận mang Hóa Kị đến xung, thằng đó phải chịu kết án hình sự.

Cho nên Hóa Kị đại vận đến nhập mệnh, rồi Hóa Kị lưu niên đến xung mệnh là đại kị. Tương tự như vậy, Hóa Kị lưu niên tới xung đại vận cũng là đại kị. Có thể nói đó là những sự kiện bề tôi chống vua, con bất hiếu với cha, đại nghịch vô đạo.
Yếu lĩnh dòng chảy trên dưới trước sau này đúng với tất cả các môn mệnh lý, chứ không chỉ tử vi. Ở đây, bút giả cũng chỉ vịn vào để nói rằng cái gì đúng thì phải đúng với mọi nguyên lý chung.

 AlexPhong, on 25/04/2017 - 08:47, said:

1. Mệnh là mệnh, vận là vận:
Có nghĩa là loại bỏ tất cả những cung quan đại vận, cung quan lưu niên, hay 12 cung lưu theo vận. Chỉ có 12 cung nguyên thủy, duy nhất và vĩnh hằng. 12 cung này là 12 hay yếu tố tĩnh tại của lá số chờ đón cơn mưa tứ hóa rơi xuống. Vì trên thực tế xem số, nhận thấy lưu 12 cung không mang lại hiệu quả rõ nét, trái lại chỉ gây rối thêm cho người xem. Và tứ hóa của lưu niên tương tác mạnh mẽ tới cung vị nguyên thủy. Ví dụ cung quan nguyên thủy có Tham Lang, năm Quý Tham Lang hóa Kị nhập cung quan nguyên thủy tương tác xảy ra rõ rệt chứ chẳng hề phải theo tầng theo bậc như sách vở ghi lại. Cho nên cân nhắc, ngẫm nghĩ mãi thấy rằng chân lý ở sự tối giản. Tất cả lưu cung đều là man thư rác rưởi của bọn hàn lâm suông để lại. Cần phải loại bỏ như vén mây cho người học thấy mặt trời để nhìn đường mà đi.
Điểm này rất đáng suy nghĩ. Tôi đã từng mơ có thể xem tử vi giản dị như thế này, nhưng chưa dám. Xin hỏi xem thế đúng thật chăng?
Nhưng biết rằng các sách phi tinh dạy: Nguyên thủy là thể, hạn là dụng. Thể xung dụng hại ít, dụng xung thể hại to! Tức là sách đồng ý trên đại thể với anh AlexPhong, nhưng như thế thì lưu cung vẫn có ảnh hưởng, dù nhỏ, chưa thể coi là rác rưởi cần gạt đi.

 AlexPhong, on 25/04/2017 - 08:47, said:

2. Xung là xung, thủ là thủ:
Tứ hóa khi xung và khi thủ có tác dụng đặc biệt khác nhau. Hóa Kị xung vận là đại họa nhưng Hóa Kị thủ vận thì êm đềm. Đây là điều nghìn năm Nam phái chưa bao giờ biết.
Đây chính là cách xem tiêu chuẩn của phái phi tinh, và theo tôi đây là một đột phá to lớn của phái phi tinh; vì Việt luận cũng như Đài luận đều cho Kị thủ vận là xấu.

 AlexPhong, on 25/04/2017 - 08:47, said:

4. Cha xung con bình thường, con xung cha đại nghịch:
Câu này ví von để độc giả nắm được cách tương tác của hóa khi ba tầng: nguyên thủy, đại vận, lưu niên. Khi ta xét hội tụ như yếu lĩnh thứ ba nói trên, thì cứ gom vào ào ào cho dễ hiểu dễ học. Nếu mới học mà cân phân quá kĩ thì không nắm được tổng quát mà lại rơi rụng cơ bản. Kì thực, vũ trụ này có trật tự trên dưới to nhỏ. Tứ hóa nguyên thủy xung đại vận hay nói cách khác đại vận đi đến nơi có tứ hóa nguyên thủy xung thì xấu. Xấu vì bị Hóa Kị xung nhưng sự xấu này trung bình, không phải là khủng khiếp. Điều này giống như Hóa Kị nguyên thủy nhập mệnh thì cũng xấu nhưng cái xấu đó như cái tật trên người mang theo cả cuộc đời. Giống như người mù bẩm sinh, xót xa thật nhưng đỡ xót xa hơn khi trưởng thành bị chọc mù mắt. Cái thằng chọc mù mắt đó chính là đại vận mang Hóa Kị đến xung, thằng đó phải chịu kết án hình sự.
Ghi lại cho độc giả dễ theo dõi, và nhìn nhật là phù hợp với lý của phái phi tinh.

 AlexPhong, on 25/04/2017 - 08:47, said:

Cho nên Hóa Kị đại vận đến nhập mệnh, rồi Hóa Kị lưu niên đến xung mệnh là đại kị. Tương tự như vậy, Hóa Kị lưu niên tới xung đại vận cũng là đại kị. Có thể nói đó là những sự kiện bề tôi chống vua, con bất hiếu với cha, đại nghịch vô đạo.
Yếu lĩnh dòng chảy trên dưới trước sau này đúng với tất cả các môn mệnh lý, chứ không chỉ tử vi. Ở đây, bút giả cũng chỉ vịn vào để nói rằng cái gì đúng thì phải đúng với mọi nguyên lý chung.
Đồng ý cách 2, chiếu theo quy luật phi tinh.

Cách đầu (“Hóa Kị đại vận đến nhập mệnh, rồi Hóa Kị lưu niên đến xung mệnh là đại kị.”) tôi thấy hơi lạ, nhưng có thể tôi chưa học phi tinh lâu nên không nắm vững, mặc dù tôi biết là anh dùng cách này để luận tại sao ông Trần Thủy Biển bị tù.

Mong anh AlexPhong hoặc MikeDo trả lời: Nếu chỉ có Hóa Kị đại vận đến nhập mệnh, nhưng không có Hóa Ki lưu niên đến xung mệnh thì sao? (Theo sách tôi đọc thì chẳng sao cả. Tôi hiểu lầm sách chăng).

Sửa bởi VDTT: 31/12/2018 - 10:42


Thanked by 4 Members:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |