Jump to content

Advertisements




TRUYỆN NGẮN


312 replies to this topic

#136 SongKy

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 4 Bài viết:
  • 2 thanks

Gửi vào 15/07/2020 - 00:27

Xỉu ra 9 đời tươi như chim ca buổi sáng, đổ vào tài bể hết chén ngọc lưu, vì sao luẩn quanh mày hả bạc, càng nghĩ càng thêm mặn vs đời.

#137 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 15/07/2020 - 20:31

ĐI QUA TUỔI TRẺ
Có một lần mình và Trang đang dạo bước ở cảng Fisherman, thành phố San Francisco, Trang bỗng đứng sựng lại khi nghe khúc dạo đàn của người đàn ông trên cảng. Trang nói với mình: Hotel California, QA ơi! Chỉ có vậy thôi mà bỗng dưng ký ức ùa về, nhất là khi mình đang đi cùng với người bạn thân thiết thời thiếu nữ mà mười mấy năm mới gặp lại. Tính ra từ khi Trang đi Mỹ theo diện HO cùng với gia đình là đã 25 năm. Trong 25 năm ấy, bọn mình chỉ gặp nhau có một lần khi Trang trở về Đà Nẵng. Và đây là lần thứ hai mình gặp lại Trang ở trên đất Mỹ.
Sau những tháng ngày khó khăn và buồn khổ của những năm 80, nghĩ lại, mình không biết mình, Trang cùng những người bạn đồng cảnh ngộ đã đi qua những ngày tháng đó như thế nào nếu bọn mình không tự tạo ra cho bản thân những món ăn tinh thần. Mình cảm ơn những bài hát, những cuốn truyện ngày đó đã giúp cho tụi mình có những giây phút thi vị mà quên đi những ẩn ức, buồn bã khôn nguôi.
Mình học xong lớp 12, sau khi hỏng đại học, mình đi thi trung cấp kế toán do một người quen tốt bụng dẫn đường và hứa hẹn sẽ xin việc làm cho mình sau khi học xong. Thi hai môn Văn, Toán lớp 9. Đối với mình, đứa siêng năng học hành thì những cách giải phương trình, vẽ đồ thị của chương trình lớp 9 chẳng có gì là khó. Mình làm xong còn sớm, chị lớn hơn ngồi cạnh mình năn nỉ cho chị chép bài. Mình thấy thương nên đưa cho chị chép mà không biết cái kiểu vừa chép vừa liếc giám thị thì chị copy lại có chính xác hay không. Chị nói không hy vọng gì lắm vì môn Văn với đề ra thi về văn học cách mạng chị không làm được, do 10 năm học phổ thông của chị là trước 1975.
Hồi hộp chờ người quen báo tin kết quả hoài mà không thấy. Cứ chờ cho đến một hôm, chị chạy đến nhà mình báo tin chị chuẩn bị đi vào Tam Kỳ nhập học. Chị hỏi mình có đi với chị không. Mình buồn bã trả lời rằng mình không thấy tin tức gì hết, có lẽ rớt rồi nên không thấy ai báo.
Hai tháng sau, lại một người quen tốt bụng khác nói với má sẽ xin cho mình vào làm công nhân dệt may của Cty Dệt may 29/3. Mình khấp khởi hy vọng để rồi sau đó khoảng hai tháng, má nhận tin từ chú ấy là mình không được vào làm công nhân vì lý lịch có cha là ng... q....
Vậy rồi trôi dạt xin đủ việc vẫn không được, cuối cùng mình học đan len bằng máy và xin vào tổ hợp tác dệt len. Thời đó, áo len đan máy của Việt Nam được xuất khẩu sang Liên Xô qua ngành ngoại thương với những đơn hàng rất lớn, việc làm không hết.
Vào làm rồi mới biết Tổ hợp tác đan len là nơi giải quyết công ăn việc làm cho con cái của những người tù cải tạo, có người cha đã về, có người cha chưa về. Chị tổ trưởng cũng là một người con của lính VNCH, cô tổ phó thì có chồng đã tử trận. Còn lại tổ viên toàn là thành phần lý lịch xấu không xin được việc làm. May mà còn có tổ hợp này để nương náu kiếm sống qua ngày.
Ở đó, mình đã gặp chị Mỹ Hòa, một cô gái đẹp duyên dáng, khả ái mà tụi mình thời đó cứ coi chị như là thần tượng. Chị đi đứng khoan thai, nhẹ nhàng, nói năng từ tốn và lúc nào cũng nở nụ cười trên môi khi gặp bọn mình. Chị là con nhà thượng lưu thuộc dòng trâm anh thế phiệt. Đến bây giờ, nhắc tên các anh chị của chị hẳn nhiều người ở Đà Nẵng vẫn biết.
Chị đã chép tay với nét chữ bay bướm, phóng khoáng rất đẹp trên cuốn vở có giấy đen nhám thời ấy những bài học về cuộc sống và đề tặng mình. Mình cảm động với món quà ấy lắm nên đã nâng niu, gìn giữ rất cẩn thận. Tiếc là sau này cho một bạn mượn, bạn ấy lại chuyền tay nên đã làm mất của mình. Hình như chị cảm nhận có gì đó khiến mình rụt rè và ít mở lòng với người lạ nên chị đã tặng cho mình những bài học rất hay trên quyển vở đó. Chị đã tặng mình cuốn truyện “Những con chim trốn tuyết” trong đó miêu tả một chàng trai bị gù lưng luôn mang nặng nỗi mặc cảm tật nguyền của mình. Rồi tình yêu của một cô gái đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời của người con trai đó.
Những bài học chị tặng mình đã thay đổi dần bản tính nhút nhát của mình, thay đổi con ốc luôn luôn cuộn mình trong vỏ đã chịu rút ra khỏi vỏ để nhìn trời, nhìn đất. Ngày chị lên đường đi Bỉ định cư, mình thẫn thờ một thời gian dài như vừa chia tay vĩnh viễn một người thân.
Ở tổ hợp này, mình đã quen nhiều bạn mới: Xuân Trang, Xuân Trúc, Vị Hà, Thu Ba, Minh Nguyệt. Những lúc đến tổ hợp nhận len về đan là những lúc tụi mình gặp nhau và hay trò chuyện, tấm tắc về những cuốn sách đã đọc. Có khi chỉ vì bàn tán về một nhân vật trong truyện mà tụi mình quên cả chuyện đi về.
Thời đó, không dễ gì mua được sách hay. Vậy mà tụi mình đã chắt mót từng đồng tiền làm ra, cậy cục nhờ người quen làm ở công ty phát hành sách mua giúp. Không đủ tiền mua tất cả, tụi mình mua mỗi người một vài cuốn rồi đổi nhau đọc. Cuốn theo chiều gió; Jane Eyre; Những con chim ẩn mình chờ chết, Phi trường, Hãy để ngày ấy lụi tàn, Đồi gió hú, Bố già; Một ngày dài hơn thế kỷ; Cội rễ… tụi mình đọc rồi cùng say sưa phân tích tính cách từng nhân vật.
Thế giới trong trang sách đã giúp tụi mình tạm nguôi ngoai quên đi những buồn bã mà tụi mình đang nếm trải. Có những lúc tụi mình cảm thấy như lạc loài với thế giới bên ngoài khi mặc định mình là những đứa con tù cải tạo và đang bị xã hội phân biệt. Những lúc như vậy, tụi mình lại tìm đến nhau và tìm đến sách, đến thơ, đến nhạc.
Có những hôm chỉ vì Trang mới tìm ra một bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên mà tối đó mình háo hức đạp xe lên nhà Trang để đọc và chép lại. Những vần thơ đầy muộn phiền như gần gũi với tụi mình hơn bởi thực tại: Tình yêu khó theo thời cơm áo khó. Ta dìu nhau đi dưới bóng nợ nần. Em đã bắt đầu ân hận chưa em? Khi đã trót yêu anh cadi thằng quanh năm túng thiếu. Nếu ân hận thì cũng đành cam chịu. Cứ coi như sự kiện đã lâu ngày. Như địa cầu không thể ngược vòng quay. Như Phật Chúa cũng gay go trước ngày lên cõi Phật Chúa.
Thời đó tụi mình cứ ngân nga những bài thơ của Nguyên Sa, Mường Mán, Nguyễn Tất Nhiên và cả những bài thơ nổi tiếng của các nhà thơ tiền chiến.
Mình nhớ có những ngày rảnh rỗi, mình đã chạy lên nhà Xuân Trang. Trang và Trúc là hai chị em kề nhau trong một gia đình có 7 anh chị em. Gia đình Trang rất hòa thuận, luôn thương yêu đùm bọc lẫn nhau nên bầu không khí ấm áp ở đó khiến mình rất thích. Mình thân với Trang, Trúc nên dần dần cũng thân thiết với các anh chị của Trang. Có những ngày, mình ngồi nghe Trúc dạo đàn và rồi hai chị em Trang Trúc cùng say sưa hát những ca khúc quen thuộc của ABBA, Scorpions,... Mình vốn học tiếng Pháp nhưng bập bẹ được vài bài tiếng Anh yêu thích cũng là nhờ Trang Trúc.
Nhờ sách và nhạc mà tui mình đã đi qua một giai đoạn buồn bã của thời tuổi trẻ. Lấy đời sống tinh thần bù đắp cho những khó khăn của cơm áo gạo tiền và để quên đi những gì đã làm tổn thương tụi mình. Những Xuân Trang, Xuân Trúc, Thu Ba, Vị Hà, Yên Châu, Nguyên Diệu, Vân Anh, những đứa con ngụy thời ấy bây giờ đã ở cách mình rất xa. Và mình cảm ơn FB đã giúp mình kết nối, giữ gìn tình bạn của tụi mình.
Những ngày xa xưa đã qua chưa thể phai mờ trong trí nhớ và dù nó có đượm màu tối tăm như thế nào đi nữa thì mình vẫn nhớ lại tình bạn đẹp đẽ của tụi mình, nhớ lại rằng trong chuỗi ngày đó vẫn có những khoảnh khắc rực rỡ từ thơ, từ nhạc, từ sách... bù đắp cho tụi mình những niềm vui tuy chưa trọn vẹn nhưng cũng đủ làm quên đi những ẩn ức cay đắng của tháng ngày xa xưa ấy.
Những bức ảnh của năm 1989, trước khi Trang Trúc sang Mỹ định cư.
Q.A
15/7/2020

Thanked by 4 Members:

#138 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 16/07/2020 - 20:01

Một câu chuyện buồn.
Mà không phải chỉ buồn, còn là đau lòng lắm í.
Nhân vật chính ở đây là ông Chu Bá Phượng. Ta hãy xem ông được giới thiệu thế nào nhé:
Chu Bá Phượng (1906 - 1964) là một nhà cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông là một trong những thành viên sáng lập Việt Nam Quốc dân Đảng, từng giữ các chức vụ Bộ trưởng Bộ Kinh tế (nay là Bộ Công thương) và Bộ trưởng Bộ Cứu tế (nay là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
(Wikipedia tiếng Việt, mục từ Chu Bá Phượng:
https://vi chấm

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

)
*****
Ông Chu Bá Phượng, là cháu đời thứ năm của quan ngự sử Chu Danh Tể, là người Việt Nam đầu tiên được nhận ba bằng cử nhân khoa học kiến trúc, cầu đường, hóa học từ Pháp gửi sang. Là một nhân sĩ yêu nước có uy tín, ông Chu Bá Phượng được cử làm Bộ trưởng Cứu tế năm 1945 - 1946. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông là Ủy viên Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giữ chức Bộ trưởng Kinh tế trong Chính phủ.
(Báo Nhân dân

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

chấm

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

)
*****
Nói tóm lại, ông là người học cực giỏi, đỗ đạt sớm, yêu nước, mỗi tội tham gia thành lập Quốc Dân Đảng (theo quan điểm của Đảng CS). Quốc Dân đảng khi thành lập cũng là một chính đảng yêu nước chứ, 13 anh hùng rơi đầu ở Yên Bái đã nói rõ điều ấy. Tuy vậy ông nhiệt tình tham gia Chính phủ Liên hiệp thời 1945-46, làm Bộ trưởng, có tên trong phái đoàn chính phủ đi dự Hội nghị Fontainebleau. Tin tưởng vào Đảng Bác, quên hẳn cái Đảng cũ của mình, theo kháng chiến suốt 9 năm. Hòa bình trở về Thủ Đô năm 54, từ đó đến cuối đời thì chả báo nào nói nữa.
Giờ ta xem con cháu trong họ nói gì nhé:
Thứ Năm, 30 tháng 7, 2015
KỶ NIỆM VỀ CHU BÁ PHƯỢNG
Ông có họ với tôi, về bên ngoại (phía cụ bà tôi – họ Chu, chứ không phải phía mẹ tôi – họ Ngô). Chẳng là ông nội tôi là con rể của Cụ Nghè Nếnh (tên nôm của làng Mật Ninh, tổng Sen Hồ, Huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang). Thuở tôi còn rất nhỏ, ông nội tôi rất mến tôi, và thấy tôi là đứa trẻ dễ bảo và thích “đi” nên giỗ Tết, mỗi khi sang quê ngoại của cụ, ông nội tôi thường bảo tôi đi cùng, vừa mang đồ đạc cho ông, vừa trò chuyện dọc đường.
Làng Mật Ninh cách làng tôi (Đáp Cầu) chừng bẩy tám cây số, chỉ cần đi bộ. Tôi còn nhớ lờ mờ, dinh cơ Cụ Nghè là một nhà ngói ba gian hai trái, giống như mọi gia đình khác trong làng, có sân lát gạch Bát Tràng rất rộng, một hàng cau và một bể nước có hòn non bộ, và dẫy nhà ngang rất dài là nơi Cụ bà nuôi tằm. Sang đấy tôi hay được cho ăn món nhộng rang béo ngậy. Nhìn chung là một cuộc sống đạm bạc.
*
Ông nội tôi kể chuyện, Cụ Nghè hay chữ nên đặt tên con cái rất có ý nghĩa. Con gái thì tên một loại hoa : ĐÀO SEN CÚC… Con Trai thì đặt theo tên một loài điểu (chim) : CƯU, PHƯỢNG, NHẠN, BẰNG… Tôi còn rất nhỏ nên chỉ nhớ nhà ngang có những khung bằng tre dài, áp tường, để đặt những nong tằm.
*
Thế rồi mãi đến năm 1946, 13 tuổi, tôi mới gặp một chuyện để lại ấn tượng cho tôi đến tận bây giờ. Lúc ấy tôi học năm thứ hai trường Chu Văn An, đóng tại địa điểm của trường Felix Faure, (trường của học sinh gái người Pháp, gọi là “Trường đầm”), trên đường phố Trần Phú bây giờ. (Sau là Đại sứ quán Liên Xô). Để ở gần trường, tôi đến ở nhà ông Ngô Thế Tiếu, em trai út của bà nội tôi, ở số 44 HÀNG ĐẪY (bây giờ là Phố Nguyễn Thái Học.) Ông Tiếu có người em vợ là họa sĩ Mai Trung Thứ, quay phim nghiệp dư, đã ghi lại được nhiều thước phim rất quý, về quang cảnh lễ Độc Lập ngày 2-9-1945. (Sau này ông đã tặng lại Chính phủ ta).
Bên cạnh là Trường Phan Chu Trinh lúc ấy là Trường Trung học có uy tín bậc nhất vì do Tổng bộ Việt Minh đỡ đầu. Học sinh Trường hầu hết là con cán bộ Mặt trận hoặc có cảm tình đặc biệt với Mặt Trận VM.
*
Nhà ông Tiếu là một biệt thự kiểu Pháp (villa), xung quanh là sân và vườn hoa, trước 1946 cho một gia đình người Pháp thuê, nhưng sau Đảo chính Nhật (9-3-1945) họ trả lại nhà để về nước. Bên cạnh cũng là một villa giống hệt, xây kiểu đối xứng, là sở hữu của một ông bác tôi (anh con chú con bác của mẹ tôi), tên là Ngô Thế Loan, hồi Kháng chiến chống Pháp đã có thời làm Chủ tịch Ủy Ban Hành Chính – Kháng Chiến tỉnh Bắc Ninh. Ngôi biệt thự này hình như bác đã cho con gái bác là Ngô Thị Phụng, làm hồi môn khi lấy chồng. Chồng chị là anh Thuần, bác sĩ (nghe nói về sau có một thời gian anh làm Giám đốc Y tế Sài Gòn).
Sau này tôi mới biết nhà khảo cứu Thụy Khuê, người phụ nữ có nhiều công trình rất nổi tiếng, chính là con dâu của hai anh chị. Lần Thụy Khuê nhờ người đem đến tôi một cuộn tài liệu, kèm một lá thư, tôi chưa biết chị lại có quan hệ thân thuộc. Tôi rất ngạc nhiên thấy trong thư chị viết “Bây giờ cháu cũng đi theo con đường của chú. Cháu biết chú rất thân với bà Hoàng Xuân Sính, chú vui lòng chuyển cuộn giấy này cho bà ấy, Chú chuyển tận tay giúp cháu. Ký tên Thụy Khuê”. Mãi sau này tôi mới biết thì ra chị là con dâu anh Thuần và chị Phụng của tôi, mà năm 1946 tôi ở cạnh nhà.
*
Vị trí nhà tôi ở bấy giờ khá đặc biệt : bên cạnh, số nhà 42, là Trường Phan Chu Trinh do Mặt trận Việt Minh đỡ đầu, đối diện bên kia đường phố là trụ sở của Trung Ương VN Quốc Dân Đảng (nhà này sau 1954 là Trường Nghệ thuật Hà Nội). Vì Hà Nội lúc ấy nhiều đảng phái và luôn có sự tranh chấp, địa điểm nhà tôi ở lại như thế, rồi đường phố luôn náo động : sáng thì thanh niên nam nữ lũ lượt vừa chạy vừa hát “Khỏe vì nước, kiến thiết quốc gia…” để ra sân vận động S.E.P.T.O. ở gần cuối phố. Ban ngày thì thường xuyên có những đám biểu tình của các phe phái vừa đi vừa hát và hô khẩu hiệu, nên tuy bận học tôi cũng “phải” quan tâm đôi chút đến những vấn đề về chính trị.
Sáng sáng bên Trụ sở T.Ư. Quốc Dân Đảng có nghi lễ kéo cờ Đảng của họ. Báo VIỆT NAM của họ và báo CỜ GIẢI PHÓNG của Mặt trận Việt Minh được các gia đình mua, có gia đình mua cả hai. Họ hàng tôi lại có hai nhân vật đối lập nhau về chính trị. Ông Hoàng Quốc Việt, Chủ tịch Tổng bộ Việt Minh, tên khai sinh là Hạ Bá Cang, người làng tôi và có mối liên hệ thân thuộc với gia đình tôi, rồi đến ông Chu Bá Phượng, “ông trẻ” tôi, lại là Ủy viên trung ương Quốc Dân Đảng.
*
Thỉnh thoảng tình cờ nhìn sang bên kia đường phố, tôi thấy xe ô tô chở ông Phượng đến, nhưng tôi chưa giáp mặt ông lần nào. Đọc báo tôi cũng biết khi Chính phủ Liên hiệp ra mắt ở Nhà Hát Lớn, thì ông Phượng cũng là thành viên và là Bộ trưởng Kinh tế…
Trước kia tôi còn nhỏ và ông Phượng lại đi “hoạt động” (nghe nói “ở hải ngoại” nên tôi không biết mặt ông, chỉ nhớ có mỗi một lần sang Mật Ninh, ông nội tôi trỏ một người còn trẻ, gầy và mặc áo dài đen : “Ông trẻ Phượng đấy ! Cháu chào ông trẻ đi”. Rồi ông tôi kể ông Phượng rất chăm học, người đầu tiên ở nước ta nhận bằng cử nhân khoa học từ bên Pháp gửi sang đấy…Bấy giờ ta chưa có Đại học...”
*
Phải đến năm 1946 tôi mới nhìn thấy ông thật sự. Vì cha tôi thỉnh thoảng ở quê (Đáp Cầu) sang Hà Nội thăm hai con trai (anh tôi cũng học Chu Văn An, trên tôi 4 lớp)… Hôm ấy ba cha con đang đi dạo trên vỉa hè Phố Hàng Bông, thì một chiếc xe hơi khá sang tạt vào sát vỉa hè rồi đỗ lại. Một tiếng gọi từ trong xe ra :”Anh Vân!” và một cái đầu ló ra. Cha tôi nhận ra người trong xe, mừng rỡ đáp “Chú Phượng! Chú mới ở Fontainebleau về ạ?”
Hai người ngang tuổi, nhưng tính theo họ hàng, cha tôi phải gọi ông ấy bằng “chú”. Ông Phượng vẫn ngồi trong xe, chỉ thò đầu ra, nói : “Tôi mới về chưa được bao lâu, bận quá, chưa về quê được. Anh có gặp ai thì cho tôi gửi lời chào hộ nhé.”
Lúc ấy vừa xảy ra vụ Ôn Như Hầu, được báo chí đưa nhiều tin tức khiến dư luận rất phẫn nộ. Cha tôi tuy không tham gia chính trị nhưng đọc báo thấy, cũng phẫn nộ. Người hỏi “móc máy” : “Chú đã nghe tin về vụ Ôn Như Hầu rồi chứ ?” Nghe đến mấy chữ ấy, mặt ông Phượng tối xầm lại :
“Khi một Đảng chính trị thất thế thì nhục thế đấy. Thiếu người phải nhận những đứa du côn. Không có tiền trả lương chúng, đành phải để chúng làm bậy. Làm chính trị nhiều lúc cay đắng thế đấy. Thôi, nhìn thấy ba cha con thì đứng lại chào thế thôi. Nếu gặp ai, anh nhớ chuyển lời chào hộ tôi nhé. Nói mấy hôm nữa công việc vãn vãn một chút, tôi sẽ đến thăm các ông các bà ấy.”
Nói xong xe quặt ra mặt phố, lao đi…
Hôm ấy, tôi mới được nhìn rõ mặt ông Phượng. Ông rất gầy… Và mặc dù ăn mặc lịch sự ông cũng rất “thư sinh”.
***
Thế rồi bẵng đi nhiều năm, tôi chỉ được nghe một số tin đồn về ông: nào ông bị quản thúc trên Hà Giang, nào ông nhận dạy môn Vạn Vật (bây giờ hình như gọi là môn Sinh vật) cho một trường Trung học gần “trại”…
Rồi một sự kiện rất ngẫu nhiên xảy ra vào năm 1968.
Lúc ấy hai vợ chồng tôi sống trong một phòng nhỏ trong dẫy nhà đang xây dở dang, trong Khu Nhà hát Nhân dân (Khu đấu xảo ngày xưa ở số nhà 91 Trần Hưng Đạo, sau này khu ấy bị giải tỏa, phá đi để xây Cung Văn hóa Hữu Nghị Việt-Xô, còn bây giờ là Cung Văn hóa Lao động, gia đình tôi phải trả lại gian nhà đang ở, và được phân một căn hộ tại khu lắp ghép Trung Tự.)
Khi sự kiện kia xảy ra, tôi mới lập gia đình, chưa có con.
*
Sự kiện ấy là thế này:
Nhà hát Nhân dân được tu sửa, cả sàn biểu diễn lẫn các hàng ghế ngoài trời dành cho khán giả, trước bằng gỗ, nay thay bằng ghế xi-măng. Trông nom phần kỹ thuật là một kỹ sư xây dựng trẻ, chỉ trạc tuổi tôi: khoảng trên 30. Nhà tôi, nói đúng ra chỉ là một phòng, chưa lắp cửa ra vào. Từ trong "nhà" nhìn ra sân, tôi thấy anh kỹ sư mỗi lần đi đâu, qua phòng hai vợ chồng tôi ở, lại liếc mắt vào trong. Một hôm thấy anh nhìn vào, tôi bèn gọi, mời anh vào uống nước.
- Cảm ơn anh. Anh nhiều sách quá. Tôi hay ngó vào chỉ để ngắm cái tủ sách ấy thôi.
- Thì anh cũng vào chơi, uống chén nước.
Anh kỹ sư bước vào nhưng không ngồi mà chỉ đứng bên tủ sách, xem.
- Anh muốn đọc cuốn gì cứ lấy.
- Anh cho phép thế thì tốt quá.
Anh kỹ sư nói rồi lấy xuống một cuốn.
Tôi đỡ lấy xem, thì là cuốn CÁCH MẠNG THÁNG TÁM của Kiến Giang, do nhà SỰ THẬT xuất bản.
- Xin anh cho mượn cuốn này.
- Được, anh ạ. Cuốn ấy tôi đọc rồi, Anh cứ đọc thoải mái, hôm nào xong thì trả. Không cần vội.
- Tôi chỉ đọc trong vòng một tuần thôi.
*
Sáu ngày sau anh đem trả sách. Tôi mời anh ngồi xuống uống nước. Anh nói :
- Muốn hỏi anh một câu, được không ạ?
- Anh cứ nói.
Anh lật trang có ảnh chụp Chính phủ Liên hiệp năm 1946 ra mắt trên sân khấu Nhà hát Lớn, có đầy đủ các thành viên.
- Những người này, bây giờ ta đánh giá họ thế nào?
- Còn tùy người. Vì là “Liên hiệp” nên mỗi người một khuynh hướng chính trị. Sau này cách chính phủ ta đối xử cũng dựa theo đấy. Nhưng anh quan tâm đến ông nào trong ấy?
Anh ta trỏ vào hình ông Chu Bá Phượng.
- Ông này chẳng hạn…
- À, ông Chu Bá Phượng! Bộ trưởng Kinh tế. Hiện nay ở đâu tôi không biết. Nhưng nhân tiện, ông ấy có họ hàng với tôi đấy.
- Họ hàng thế nào ạ?
Tôi kể.
Anh kỹ sư chăm chú nghe rồi nói :
- Ra cũng gần đấy nhỉ ? Nếu thế tôi xin nói thật: Tôi là con rể ông ấy.
Tôi hết sức ngạc nhiên :
- Nếu thế, tất anh phải biết cụ đang ở đâu chứ ?
- Không. Chính phủ cho vợ tôi về Hà Nội, vào học Đại học Sư Phạm, sau đấy cho một chân dạy ở một trường cấp ba, chu cấp đầy đủ, lại cấp cho cả một căn hộ ờ Thành Công, thậm chí các ngày Tết ngày lễ đều có quà, nhưng với một điều kiện: tuyệt đối không được liên hệ gì với bố. Không được thư từ đã đành, nhưng cũng không được nhờ ai nhắn miệng gì hết. Tóm lại: phải coi như ông thân sinh không còn sống trên đời nữa!
Tôi hết sức ngạc nhiên, thầm nghĩ: “Chà, chính trị là thế đấy!”. Rồi hỏi:
- Nhưng khi hai anh chị tìm hiểu nhau, chị không kể về ông à?
- Không. Vả lại lúc ấy tôi chưa quan tâm lắm. Chỉ sau khi cưới, vợ tôi mới kể đầy đủ.
- Và anh chị không dám liên lạc gì với ông?
- Tất nhiên. Tuyệt đối không.
*
Sau khi anh kỹ sư, con rể ông Phượng, ra khòi cửa, tôi không nói chuyện với anh lần nào nữa, và hình như anh cũng tránh mặt, sợ liên lụy đến tôi.
Vài hôm sau, cơ quan yêu cầu chuyển hai vợ chồng tôi ra ở một gian khác nằm bên ngoài bức tường Nhà hát (nhưng vẫn trong khuôn viên số nhà 91) bên cạnh nhà của cán bộ nhiều cơ quan khác. Từ bấy đến nay tôi không gặp lại anh kỹ sư ấy. Sau này cứ ân hận là đã không hỏi họ tên anh và địa chỉ của hai anh chị… Nhưng tôi vốn nhát nên dù có biết cũng không dám quan hệ tiếp.
*
Sau đấy nhiều năm, tình cờ tôi gặp lại một bạn cũ, hồi Kháng chiến hai đứa cùng một đơn vị trinh sát của Ban Quân báo Đại đoàn 308, và sau khi xuất ngũ, anh chuyển ngành sang cơ quan an ninh. Nhân trò chuyện, nói đến ông Phượng, anh bạn tôi kể :
- Chà, nếu đấy là họ hàng cậu, thì mình kể cậu nghe chuyện này. Năm ngoái mình trong số tháp tùng ông Đồng trong chuyến đi kinh lý mấy tỉnh biên giới. Hôm đến Hà Giang, xe đang chạy bỗng thấy một ông già, mặc bộ quần áo chàm bạc phếch, má hóp, gầy gò, một chòm râu lưa thưa, từ bụi cây bên đường đi nhanh ra giữa đường, chặn trước mũi xe Thủ tướng. Xe đỗ lại. Ông già hom hem kia bước đến bên cừa sổ xe:
- Tôi là Chu Bá Phượng… muốn đề nghị Chính phủ một viêc. Tôi già lắm rồi, lại đau ốm, đề nghị cho tôi về chết ở quê.
Ông Đồng đáp, đại khái là:
- Chào anh! Điều anh đề nghị, riêng tôi nghĩ là hợp lý, nhưng anh hiểu cho. Việc ấy tôi không đủ thẩm quyền. Vả lại, chúng ta là những người làm chính trị, đều biết và đã chấp nhận một sự thật là không phải muốn làm gì cũng được. Nói thế chắc anh hiểu. Chúc anh giữ được sức khỏe… Rất tiếc, rất tiếc…
Ông già tránh ra và xe lao đi…
Chuyện anh bạn tôi kể chỉ là như thế. Tôi định hỏi thêm nhưng lại thôi.
*
Vài năm sau, có dịp về quê, chú tôi kể là ông Phượng đã mất. Gia đình ở Mật Ninh nhận được giấy báo của Công an cho biết: “phạm nhân Chu Bá Phượng đã qua đời tại trại giam Hà Giang…” Trong giấy báo không nói mất ngày nào, nên từ đấy, gia đình đành coi ngày ký thông báo trên đấy làm ngày giỗ ông ấy hàng năm vậy.
Hôm ấy, em dâu ông Phượng (hình như bà vợ ông Chu Bá Nhạn) lấy ra trong hộp sắt cất trong tủ ban thờ, một tờ giấy khác đã hoen ố, đưa tôi, nói: "Cháu đọc thêm cái này" Tôi đỡ và đọc, thì ra là thư chia buồn của ông H khi bà Phượng mất, hình như năm 1947. Lâu rồi, tôi không còn nhớ chính xác, nhưng nhớ là thư được đánh máy, nội dung đại khái như sau: "Thân ái gửi Chú Phượng. Nghe tin Thím Phượng qua đời, thay mặt Chính phủ và nhân danh cá nhân tôi, gửi đến chú lời chia buồn cùng chú và gia đình. Chào thân ái. Ký tên H.C.M." Thư còn có cả chữ ký của ông H bằng tay...
*
Câu chuyện này tôi giữ kín trong bụng, chỉ kể với anh chị em ruột, hôm nay mới viết ra giấy. Sau này tôi có quen và khá thân với mấy bạn đồng hương, đều biết khá rõ gia đình, họ hàng nhà tôi: nhà văn TRẦN NINH HỒ (Mật Ninh và Sen Hồ), và nhà văn ĐỖ CHU. Chu có lần nói vui: tính họ hàng thì anh trên em, chứ nếu anh dưới em thì đâm khó xưng hô, anh nhì ?”
2015

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


*****
Trong Hồi ký của ô. Nguyễn Đăng Mạnh cũng có một dòng:
Ta có một trại giam tù chính trị ở Quản Bạ (Hà Giang). Có người bị giam suốt đời ở đó như Chu Bá Phượng. Còn Nguyễn Hữu Đang thì bị giam 15 năm. Khi ra tù, phụ cấp cho 40 đồng một tháng. Đang khi ra tù không hề biết có cuộc chiến tranh chống Mỹ và sự kiện giải phóng miền Nam 30-4-1975.
https://www chấm

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


*****
Tôi đưa lại câu chuyện mình đã đọc. Để đây và không nói gì. Ai tin thì tin.
Ảnh: nguồn Wikipedia tiếng Việt





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 3 Members:

#139 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 18/07/2020 - 21:33

Cây kim may
Ngày xửa ngày xưa, vào khoảng năm 1978, 1979 gì đó, khi còn làm phóng viên báo Tuổi Trẻ tôi được (hay bị) đưa đi “vô sản hoá” tại nhà máy Sinco ở Sàigòn.
Nhà máy này vốn của chế độ cũ để lại, chuyên sản xuất máy may lấy hiệu là Sinco. Khi các “tồng chí” tiếp quản được ít lâu thì hết mẹ nó phụ tùng nên đếch hoạt động được.
Lúc tôi đến xin làm công nhân ở đó thì thấy Giám đốc cùng mấy anh kỹ sư, thợ tiện, thợ phay, thợ nguội… đang ngồi bàn cách phục hồi hoạt động của nhà máy, để chế tạo cho được một cái máy may mang thương hiệu Việt Nam chính cống.
Các linh kiện của một chiếc máy may bàn đạp khá đơn giản nên không bàn tới. Mọi người đều tập trung nghiên cứu làm cái ổ thuyền, vì đó là bộ phận khó làm nhất.
Muốn làm cái ổ thuyền phải qua rất nhiều công đoạn: thiết kế bản vẽ, chọn nguyên liệu. Sau đó là thi công: những thợ phay, thợ tiện, thợ mài… giỏi nhất làm đi làm lại nhiều lần, rồi tới thợ nguội đo đạc chính xác từng “zem”, rồi đánh bóng, kiểm tra… rồi cho chạy thử.
Sau nhiều lần trục trặc, chiếc máy may nhãn hiệu Sinco do Việt Nam sản xuất cũng ra đời. Tuy nhiên hôm họp báo công bố sản phẩm, giám đốc nhà máy đã làm tôi ngạc nhiên khi nói:
“Thưa các đồng chí, chúng tôi có thể tự hào tuyên bố rằng chúng ta đã sản xuất được một chiếc máy may hoàn chỉnh trừ… cây kim!”
Bỏ mẹ! Tôi nghĩ thầm, cái ổ thuyền khó như vậy mà còn làm được, sao cây kim lai chịu thua?!
Kể từ đó đến nay, cái sản phẩm đầy tâm huyết, đầy tim óc của tập thể giám đốc, kỹ sư, công nhân nhà máy Sinco, cái “niềm thự hào thương hiệu Việt Nam” kia biến mất tăm và nhà máy Sinco chắc cũng đã bị phù phép thành cái quỷ quái gì rồi.
Bốn mươi năm sau, tôi gặp một cô bé công nhân trên xe buýt, nó nói:
-Con làm trong một nhà máy của Nhật tại khu chế xuất Tân Thuận.
-Chế cái gì?
-Cái kim may
Thưa quý vị,
Như vậy là cho đến năm 2018 này. Sau 40 năm, Việt Nam chúng ta cũng chưa chế tạo được cái kim may. Và cái máy may Sinco (không có kim) mà Việt Nam chế tạo được chắc cũng đang nằm trong viện bảo tàng!
Không phải nòi giống ta đần độn. Không phải dân tộc ta lười biếng…
Vậy thì vì cái gì?
Bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế từng nói:
“Thế giới gồm nước phát triển, nước đang phát triển, nước chậm phát triển nhưng Việt Nam có lẽ là mô hình đặc biệt nhất. Đó là nước… không chịu phát triển! Đầu tư nhiều đến thế, ODA nhiều đến thế (20 năm qua lượng ODA đổ vào Việt Nam lên tới gần 90 tỉ USD) nhưng đến bây giờ vẫn không phát triển được thì chỉ có thể là… không chịu phát triển!”
Sao vậy?
...
Rất mong chúng ta đừng quên câu chuyên về nhà máy Sinco.
Họ đã cố gắng hết sức để làm cho được cái ổ thuyền vậy mà còn cái kim may cho đến giờ vẫn chưa làm được, đủ hiểu con đường công nghiệp gian khổ đến nhường nào!
Cây kim may - Đào Hiếu ngày 3/10/2018
(st)




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#140 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 02/08/2020 - 20:20

Đôi vợ chồng văn sĩ Túy Hồng - Thanh Nam mà nhà văn Mai Thảo gọi là "một tý gái núi Ngự, một tý trai sông Hồng" đã bền duyên đến ngày nhà văn Thanh Nam từ trần năm 1985 vì ung thư thanh quản. Sau ngày ông mất, Túy Hồng đã viết lại những kỷ niệm hôn nhân "buồn ít hơn vui", một bài trên tạp chí Văn Học, một bài trên Thế Kỷ 21.
Túy Hồng
Đến khi mất tiếng nói
Thanh Nam người làng Mỹ Trọng, tỉnh Nam-Định, con một, cha là Tổng giám thị trường Cao đẳng kỹ thuật ở Hà nội ngày trước.
Khi người cha đem một cô đầu về làm vợ bé, mẹ chàng bỏ nhà đi sang Lào cùng với ông anh ruột. Bà dì ghẻ không có con, nuôi một cô gái làm dưỡng nữ tên là Tần. Năm lên chín tuổi, Thanh Nam cầm dao đâm hụt vào bụng dì ghẻ rồi thoát ly gia đình đến tá túc nhà người cô mà ơn nghĩa và tình thương đã khiến chàng nhận là mẹ.
Gã con trai tên là Trần Đại Việt bỏ học, xông xáo vào trường đời quá sớm, năm 15 tuổi đã làm thơ, viết văn với bút hiệu là Thanh Nam. Hà nội còn có tên là Hà Thành, Nam-định còn có tên là Thành-Nam, có lẽ chàng lấy nguyên tên của quê quán mình là Thành-Nam làm bút danh và sau đó bỏ cái dấu huyền đi chăng?
Lúc di cư vào Nam, khi phải khai lý lịch để vô giấy tờ trước một ủy ban điều tra gồm hầu hết người Pháp, viên thông ngôn người Việt hỏi chàng:
– Làm nghề gì?
Tưởng đâu thơ văn là thứ mình ham thì kẻ khác cũng ham nên Thanh Nam trả lời:
-- Làm thơ.
Viên thông ngôn thêm một cái dấu nặng dưới chữ thơ, thành ra “Làm thợ” rồi dịch sang tiếng Pháp là “Ouvrier” cho mấy ông Tây coi.
Sự nghiệp của Thanh Nam gồm truyện dài, truyện ngắn và thơ. Chàng là tác giả một số lượng truyện dài đáng kể như: Hồng ngọc, Giấc ngủ cô đơn, Thuế sống, Cho mượn cuộc đời, Xa như dĩ vãng, Gã kéo màn, vân vân... Người sáng tác thường theo hai đường lối khi viết truyện dài: viết văn hoặc đặt tiểu thuyết; dưới mắt một số độc giả, Thanh Nam là người kể chuyện, người báo cáo những trường hợp khác thường nào đó của cuộc đời và lồng vào những giả thuyết nho nhỏ để tạm kết những điều mình đã viết ra.
Chúng ta hãy tạm nghĩ rằng Thanh Nam là người viết tiểu thuyết hơn là người viết văn. (Người phê bình tác phẩm của Thanh Nam nặng tay nhất là tôi, lúc đó còn độc thân ở Huế).
Cộng tác với “Sáng tạo”, chủ trương tờ “Hiện đại”, Thanh Nam viết truyện ngắn và một số được gom lại thành hai tập truyện Buồn ga nhỏ, Cánh đồng xanh phía trước. Từ tiểu thuyết dài sang truyện ngắn,Thanh Nam đã lột xác, đã nhảy vọt về hình thức cũng như nội dung.
Đoạn cuối của cuộc đời, Thanh Nam làm thơ. Đất khách là thi tập duy nhất mà Thanh Nam đã ngâm với cái chết đang chờ, với cơn đau ung thư, với nỗi buồn được che kín và để hở...
*
Những ngày trước khi vào Sàigòn, tôi đã đi chơi song song bằng xe đạp với Đ.T. suốt hai vùng tả và hữu ngạn sông Hương.
Đ.T. khuyên:
– Hãy giữ lấy đời sống độc thân đừng lấy chồng! Khi tự do mất, những tế bào văn chương trong con người mất theo. Hãy tự do chơi bời cho sập trời đi để lấy chất liệu viết văn.
- Sợ xã hội cười mình ế chồng.
- Hãy bóp mật cho ra đởm lượng, không sợ một con nhái nào cười hết.
– Nhưng tôi thích có con!
– Không lấy chồng cũng có con được.
- Xã hội chậm tiến chứ đâu có vùn vụt như ý anh nghĩ!
- Sau khi T.H. đi, tôi biết thế nào cũng nhận được tin buồn T.H. lấy chồng.
Vào Sàigòn, gia đình bắt đi lo thủ tục giấy tờ thuyên chuyển, bắt đến trường Mạc Đĩnh Chi ra mắt ông Hiệu trưởng, bắt ở nhà đánh tứ sắc với mẹ với dì, bắt dạy mấy đứa em học thi.
Hồi đó tôi đang định cho xuất bản tập truyện Vết thương dậy thì và khởi sự viết truyện dài đầu tay. Phi truyện dài bất thành văn sĩ, tôi theo dõi tác phẩm của những cây bút mới khác và cứ sợ họ viết hay hơn mình. Tôi còn đem áo quần tới tòa soạn “Bách Khoa” ngồi may máy vì vừa thích đi chơi vừa tiếc thì giờ. Hồi ở Huế, bao giờ chèo perissoire ra sông Hương tôi cũng cho vào cái túi ny-lông một con gà hoặc một con vịt đã nhúng qua nước sôi rồi đậu thuyền lại giữa dòng ngồi nhổ lông và hát nghêu ngao.
Hình như lần đầu tiên đến nhà tìm tôi, anh Mai Thảo nói:
- Những người con gái Huế mà tôi đã gặp hình như có nét mặt hao hao giống nhau: Nhã Ca, Hà Thanh, Túy Hồng, Lai Hồng, Nguyễn thị Hoàng…
Người con gái nhổ lông gà trên sông Hương cười:
- Chắc anh nhớ đến câu thơ Hàn Mặc Tử: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Chắc anh nhớ đến câu ca dao Trời mưa lâm dâm ướt dầm ngọn khế. Tui thương một người ở Huế mới vô...
Đêm một, tôi được dẫn đến biệt thự của Trần Thanh Hiệp.
Đêm hai, đi ăn cơm Tàu Tân Lạc Viên.
Đêm ba, họp mặt đông đủ, thiếu Mặc Đỗ và Nghiêm Xuân Hồng.
Ai nấy ngồi yên tĩnh như để tự suy tôn mình ngoại trừ Trần Lê Nguyễn cứ rục rịch làm ồn ở thế động và nói dai. Hôm đó, nhóm “Sáng tạo” họp để bình luận một thời sự vừa xảy ra đang nói tới, cái magnetophone được đặt ở giữa thu thanh tất cả mọi ý kiến phát biểu, mỗi người nói ra điều mình nghĩ và sau đó, Mai Thảo ngồi lại mở băng magnetique nghe và viết bài. Cứ ngỡ là khách thì được ngồi yên nghe các ngài ngâm, nhè đâu họ bắt mình góp ý. Đang lúng túng càng gỡ càng vướng miệng cạy không ra thì người ngồi bên cạnh đập một phát vào vai.
Đó là Thanh Nam mà ba năm về trước đã gặp nhau lần đầu trên đường Lê Lợi.
- Chào cô T.H.
Người đàn ông đó cười hề hề và ngắm tôi:
- Cô T.H. chuyến này vào Sàigòn ở hẳn hay lại trở ra Huế như lần trước?
“Thằng cha nói nhanh quá nuốt cả chữ”, tôi nghĩ và trả lời:
- Ở đây luôn, được hoán chuyển.
Sau đó, đêm nào tôi cũng đi ăn với Cái Bang. Các anh Mai Thảo, Thanh Nam, Hoài Bắc, Mặc Đỗ, Anh Ngọc, Vũ Khắc Khoan, Thanh Tâm Tuyền tụ họp lại thành một băng gọi là Cái Bang. Họ nhậu rất nhiều nhưng ăn chẳng bao nhiêu. Tất cả ăn mày Cái Bang đều đối xử với tôi qua một cung cách và khoảng cách, riêng Thanh Nam cứ thấy mặt là xông tới ôm đại, níu kéo, vuốt tóc, vòng hai tay trói lại không cho cử động và đi theo sau lưng.
Những lần đầu tiên tôi kêu:
- Anh Thanh Nam không nên làm như vậy.
Thằng cha cười hề hề, nói nhanh như nói tiếng Tây:
- Con nhỏ Huế này có đôi mắt hình trái ớt.
Dần dần, bọn ăn mày Cái Bang lảng ra hết, chỉ còn một mình Thanh Nam đêm đêm đưa đón tôi đi ăn đi chơi dính chặt không rời, không rứt ra được.
Một đêm trước giờ giới nghiêm, khi chúng tôi đứng ở con hẻm Cống Quỳnh ôm nhau hôn để về ngủ ngon, Thanh Nam nói:
– Mai anh đến đón T.H. lên Building Cửu Long ăn bánh cuốn.
Căn phòng độc thân của chàng gồm chiếc giường cũng độc thân, hai cái ghế sa-lông đứng đối thoại, bàn viết ngăn nắp, tủ áo nhiều màu xanh.
Bánh cuốn do một vũ nữ già làm cho, chúng tôi vừa ăn vừa bàn chuyện tạp lục.
Tôi hỏi :
- Hồi còn ở Huế, tôi có viết hai bài phê bình truyện dài của anh đăng trên báo “Tin Sách”, anh còn giận tôi không?
Thanh Nam khoát tay:
– Chúng mình thích nhau lắm rồi, hãy bỏ cách xưng hô anh anh tôi tôi văn nghệ nửa mùa ấy đi.
- Tôi bắt chước các ca sĩ gọi anh bằng chú được không? Chú.
Lần đầu tiên tôi để ý chàng có đôi bàn tay suông suông tháp bút. Nhìn chung, Thanh Nam có nhân dáng cao gầy nhẹ nhõm, da xanh, cách ăn mặc dễ thích: áo sơ mi màu nhạt tươi mát, quần xám, xám sẫm, xanh đậm, không mặc màu nâu.
Ăn sáng xong, Thanh Nam mở cửa đùn chén bát ra ngoài cho chị bồi phòng đến dọn mang đi. Ở phòng tắm ra, Thanh Nam mở tủ đem xuống mấy cuốn album dán hình ảnh kỷ niệm của chàng, của bạn bè... Trong ba tập ảnh đó, nhiều thật nhiều hình bóng của những người đàn bà đã ghé qua cuộc đời chàng. Tôi chợt quay mặt về phía khác và bỗng nhìn thấy bức tranh của Bích Sơn to rộng một cách khác thường treo trên tường đối diện cái giường. Người trong tranh có đôi mắt hạt huyền mơ màng sương phủ núi Chapa, tóc thề kiểu gái Bắc, môi như trái tim.
- Bích Sơn ở ngoài có đẹp không anh?
Người đàn ông húng hắng ho:
– Đẹp hơn! dịu hiền ngoan ngoãn, nhưng không lanh và có duyên như Bích Thủy.
Trong một số báo “Kịch Ảnh”, Thanh Nam đã mệnh danh Bích Sơn là Kiều nữ, “Kiều nữ Bích Sơn, nàng đứng nhìn gì trên núi biếc?” Đó là câu đối xanh do Thanh Nam xướng và đã có người họa nguyên vận. Thanh Nam còn gán cho Út Bạch Lan cái tên Sầu nữ.
Thanh Nam nói:
-- Anh rất muốn đi đến hôn nhân với Bích Sơn, nhưng trở ngại là bà Bích Thuận buộc anh phải theo đạo.
Đôi mắt tôi vẫn không rời người đẹp trong tranh:
– Bức hình gì mà to bằng cả bức tường. Như vậy những lúc anh ở nhà, anh nhìn đâu cũng thấy Bích Sơn... Còn Thanh Nga, nghe đồn anh và Thanh Nga yêu nhau đến độ đoàn ca kịch “Thanh Minh - Thanh Nga" đang tính đổi tên là “Thanh Nam - Thanh Nga” phải không anh?
(Thưa quý độc giả, tôi mạn phép nhắc đến tên Thanh Nga và Bích Sơn, vì trước tôi, vài bài báo đã đề cập đến mối tình của họ với Thanh Nam rồi).
Thanh Nam trở mình:
-- Thanh Nga là con gà đẻ trứng vàng của bà Thơ, bà Thơ đâu chịu gả cho đi lấy chồng.
- Thanh Nga là vương hậu của ca kịch trường miền Nam, là đệ nhất đào thương của sân khấu cải lương... Thanh Nga thanh sắc vẹn toàn, đóng xi-nê cũng đẹp...
– Nó đẹp lắm! Trên hay dưới sân khấu, ngoài hay trong ánh đèn màu đều đẹp... đẹp một cách toàn bích, quý phái. Nó là một con nhỏ ngoan nết, tốt tánh, dễ thương. Nó ngây thơ không biết xã hội hiện tại mình đang sống là gì, vì nó là đệ nhất nữ kịch sĩ, nên bà Thơ giữ riết nó ở trong nhà, bởi nó mà đi ra ngoài, người ta bu lại nhìn mặt, cầm tay, sờ áo. Nó bị mẹ nhốt trong nhà nên nó i-tờ ngơ ngác không biết cây cà-rem giá mấy đồng, gói xí-mụi bao nhiêu tiền, rau muống mấy đồng một bó... Con bé lại có tâm hồn đa cảm viết văn làm thơ.
Ở chơi từ 8 giờ sáng đến 8 giờ tối mới rời, trên đường về tôi bảo:
-- Sáng nay, H. nói dối với cả nhà là đi Biên hòa ăn bưởi với anh... vậy hãy ghé chỗ nào mua vài trái bưởi đem về cho cả nhà khỏi nghi... mua bưởi gì cũng được vì gia đình người Huế thì bất cứ trái bưởi nào cũng là bưởi Biên hòa.
Năm giờ rưỡi sáng hôm sau, khi cả nhà tôi đang ngủ thì có tiếng gõ cửa, thằng em trai xuống mở rồi kêu:
- Anh Thanh Nam tới! Anh Thanh Nam tới…
Tôi sửa soạn qua loa như mèo rửa mặt, chạy xuống nhăn nhó:
-- Anh đến sớm hơn cả Sơn tinh đi hỏi vợ... Thanh Nga, Bích Sơn thì anh đến thăm lúc họ đã đánh phấn vẽ mắt rồi, còn em thì mặt chưa rửa... Thật là bất công!
Người đàn ông trân trọng:
– Anh thức dậy từ bốn giờ sáng, sửa soạn áo quần ngồi chờ hết giờ giới nghiêm lấy taxi đến đây hỏi em có muốn làm vợ anh không vì hôm qua chúng ta đã tỏ ra là vợ chồng.
Đợi trời sáng bạch, nắng Sàigòn lên, chúng tôi vào chợ Tân định ăn miến măng, Thanh Nam ngậm ngùi:
- Đời anh, anh sống hết cho bạn và cho người yêu. Những người đàn bà đã đi vô đời anh, anh thật lòng yêu họ chứ không làm dáng, anh yêu thật và anh đối xử hào sảng rộng rãi chứ không kẹo... cũng không keo. Khi xa nhau, tuy hiện tại hết yêu ai hẹn hò, nhưng tương lai vẫn còn nhớ, anh và người đàn bà không ai oán hận ai, thỏa hiệp giữ lại tình bạn và tình huynh muội.
Bức tranh kiều nữ Bích Sơn đã được gỡ xuống, họa sĩ Thái Tuấn trân trọng xin lại, nhưng Thanh Nam trân trọng giữ gìn làm kỷ niệm. Lễ đính hôn của chúng tôi gây huyên náo trong giới giang hồ nghệ sĩ từ Nam tông Bắc phái, ma giáo, các bang hội, các nhóm bảo tiêu cho đến bọn cá cơm ba mươi sáu động bẩy mươi hai đảo. Trước bàn thờ tổ tiên nghèo nàn và sơ sài của gia đình tôi, con em thứ tư của tôi, Ngọ Thu, và con em thứ năm của tôi, Dũ Xuân... đeo cho Thanh Nam chiếc nhẫn không mặt rồi chạy vào trong bếp tí toáy:
– Để ý coi... cái miệng anh Nam giống miệng cóc, hai mắt anh Nam cũng giống mắt cóc... hay đó là Hoàng tử Cóc?
Trong lúc đó thì vài tên ăn mày Cái Bang cũng tí toáy:
-- Em vợ của Thanh Nam giống T.H. từ ruột thịt giống ra nhưng đẹp hơn nhiều...
Đám cưới được chuẩn bị vào cuối tháng chạp dương. Tin được gửi ra Huế cho Đ.T. Đ.T. không đồng ý tôi lấy chồng, không đồng ý tôi lấy Thanh Nam. Có hai tên ăn mày Cái Bang cũng nghĩ như Đ.T. vậy, hai tên ăn mày ăn cơm Tây, uống Martell lắc đầu tán dóc: Cuối cùng hai người lấy nhau, một cú “sút” tuyệt đẹp đá quả banh vào gôn. Thanh Nam thì độc thân lâu quá rồi, để cho nó lấy vợ... nhưng phải bắt Túy Hồng độc thân, phải đày đọa nó độc thân nó mới viết được, để nó lấy chồng là nó hư. Túy Hồng mót lấy chồng quá, túng quá, không có gan cóc tía chút nào hết... Đúng hơn, Thanh Nam và Túy Hồng nên làm hai người tình của nhau thôi rồi tự do của ai, người ấy tôn thờ, Túy Hồng phải nhìn xa thấy rộng, phải yêu cuồng sống bạo, phải tự do quá trớn mới không hư, Túy Hồng mà cứ hiền như đi dạy học thì bỏ một đời. Phải tình nguyện là một kẻ độc thân chứ!
Đám cưới của chúng tôi là một đại hội văn nghệ qui tụ đủ mặt quân công dân cán chính do bạn bè góp tiền đặt tiệc ở nhà hàng Đồng Khánh, một đám cưới tiêu quá nhiều tiền mà không ai chê một câu vì chính khách đến dự đã sponsor đám cưới, tôi không lên xe hoa mà lên xe hơi của một người bạn lái về building Cửu Long, ở đó anh em đã mang quà tặng chất đầy gian phòng độc thân của Thanh Nam.
Đêm đầu tiên thức khuya để mở phong thư đếm tiền mừng, Thanh Nam trợn mắt:
- Hồi chiều đám cưới, em làm anh ngượng với quan khách quá! Cô dâu gì mà cầm một con bồ câu quay xé hai ra ăn phăng phăng trước mặt mọi người không chào hỏi ai hết.
Gia đình tôi dễ dàng kết luận: Thanh Nam đã tỏ ra cao hơn mình đánh giá, có sao bạn bè mới nhường cơm xẻ áo cho vậy chứ! mới quý cảm như vậy chứ!
Đêm hai mươi ba tháng chạp năm 1966, đám cưới mở ra và tàn như hoa quỳnh, bài hát Lý ngựa ô bắt đầu và chấm dứt, hai người khắc tuổi, khác tính, ngược tư tưởng đã kết đôi và thề sống bên nhau trọn đời. Bảy giờ sáng hôm sau, có ai gõ cửa phòng - bấy giờ là tân phòng - Thanh Nam ra mở rồi đóng lại:
- Vũ Khắc Khoan đi ngang gõ cửa chọc chơi, anh bảo nó đi chỗ khác chơi rồi... Hắn đến thăm vũ nữ Mai Liên để xin con chó mới đẻ.
Vài ngày sau Thanh Nam lại mắng:
- Tính em thật giống Mai Thảo. Hồi anh với thằng Anh Ngọc thuê cái nhà trong Phú Nhuận ở chung, hai thằng thương yêu đồ vật giữ gìn cái gì cũng như mới, Mai Thảo bị đuổi nhà đến ở hai tuần lễ... bao nhiêu đồ đạc đều tan tành hết.
Trong một bài bình luận xã hội, Hoàng Hải Thủy viết: “Khoảng thập niên 60, một nhà văn có thể kiếm tiền gấp 5 lần một công chức.” Thanh Nam hồi đó viết feuilleton cho ba nhật báo, phụ trách hai chương trình văn nghệ trên đài phát thanh, lợi tức hàng tháng của chàng gần gấp bốn số lương đi dạy học của tôi. Khi
một feuilleton nào sắp chấm dứt, chàng lại có được 30 nghìn đồng nhà xuất bản hỏi mua để in sách.
Một ngày của chàng được chia ra như thế này: Sáng dậy uống trà rồi xoay qua ăn điểm tâm, xong ngồi viết bài cho đến 11 giờ sửa soạn lại tòa báo đưa bài, 12 giờ đi ăn trưa với Sĩ Trung hoặc Ngô Tỵ hoặc các đồng nghiệp người Nam của chàng. Buổi ăn trưa luôn luôn kéo dài 6 tiếng đồng hồ; sau đó lấy taxi về nhà tắm rửa và xuống đường ăn một bữa cơm tối với Cái Bang cũng dài 6 tiếng đồng hồ. Mỗi ngày Thanh Nam chỉ làm việc có ba tiếng đồng hồ thôi, chàng viết vèo vèo, bút múa lia lịa.
Lúc ông Nguyễn Đình Vượng mướn anh Mai Thảo trông coi tờ “Văn”, ông đã than: “Hoặc là tôi lầm, hoặc là tôi có lý khi mời một người ăn một bữa ăn dài 6 tiếng đồng hồ làm Tổng thư ký tòa soạn.”
Sau Tết Mậu Thân, giới nghiêm từ tám giờ tối, quân đội cấm trại một trăm phần trăm, anh Mai Thảo vào ở hẳn trong tòa soạn báo Tiền Tuyến để chơi với anh em quân nhân văn nghệ trong đó và đánh bạc ăn được một triệu đồng!
Nói đến Mai Thảo, thỉnh thoảng Thanh Nam chép miệng:
– Nhiều lần đi trong giờ giới nghiêm bị cảnh sát bắt về ngủ bót bị muỗi đốt đầy mặt như người lên sởi!
Hồi đó, dược sĩ Lê Đình Vượng được cấp giấy phép lái xe trong giờ giới nghiêm, dược sĩ than: “Từ ngày xin được cái giấy phép, không thấy công việc gọi, chỉ có cảnh sát kêu đến bót lãnh ông Mai Thảo về.”
Mấy tháng đầu sống chung, Thanh Nam bỏ cuộc vui với bạn bè Cái Bang, ở nhà coi tivi tới 12 giờ khuya mới ngủ. Thanh Nam uống bia theo giờ giấc đã định sẵn là từ 11 giờ sáng trở đi, mỗi ngày mười ba chai và nghiện rượu.
Nhiều lúc Thanh Nam ăn nói thật thiết tha:
- Thỉnh thoảng em phải tự tay mua cho anh chai rượu để anh thấy có sự đồng ý của em. Em thấy trong truyện của Nhất Linh, bác Lê gái cầm chai đi mua rượu cho bác Lê trai... Em nên đồng ý...
Có lẽ tôi chưa đồng ý nhưng tôi đã đồng tình để Thanh Nam đi chơi, hút thuốc lá và uống bia: Buổi sáng tôi thức dậy trước nấu nước pha trà, đi mua phở cho chàng điểm tâm; 11 giờ trưa đem 13 cái vỏ chai đi đổi 13 chai bia về cất tủ lạnh và chiều chủ nhật thì ủi sẵn cho chàng một số áo quần đủ mặc để đi làm và đi chơi trong tuần. Thuốc lá chàng hút cũng tự tay tôi mua. Không bao giờ can đừng uống rượu, không bao giờ khuyên bỏ thuốc lá, không bao giờ cấm đi chơi. Không phải Thanh Nam đi chơi mê mệt miên man, chàng cũng phải ở nhà, có khi cả tháng trời để dưỡng thương.
Thời kỳ hậu hôn, chúng tôi sang lại căn phòng ở building Cửu Long, về nhà cha mẹ ở tạm. Thấy Thanh Nam ngày đi đêm đi, mấy con em tôi hốt hoảng:
- Sao để vậy mà chịu được? Lãnh chúa muốn làm gì thì làm sao?
- Hai người, hai chủ thể, hai đơn vị... Bây giờ, t*o đang vào phòng đóng cửa lại đọc sách hoặc viết bài... đơn vị này rút vào phòng, đơn vị kia đi ra ngoài... đó là lẽ thiên nhiên, mỗi đơn vị có phần việc riêng.
Một con em vặn:
– Chuyện tình của giống đực, bà tin là Thanh Nam đi với bạn hay tin Thanh Nam đi với đào?
– Đi với bạn.
– Bà tin à? Bà tin như vậy à?
- Nếu t*o nghi Thanh Nam đi với đào, hoặc sau khi Thanh Nam ra đi, có người đến đây mách anh ấy đi với đào, t*o vẫn tin Thanh Nam đi với bạn vì trước khi đi Thanh Nam có bảo “anh đi với bạn”... chồng nói là phải tin.
Hạnh phúc, tôi hơi thiếu một tí. Một tí, vì Thanh Nam không ăn được món Huế.
Một buổi chiều, sau những buổi chiều trăng mật, tôi nấu món “thịt bò chưng cách thủy”. Suốt bữa cơm tối, Thanh Nam đã không ăn, lại còn mở tủ lạnh lôi miếng thịt bò còn lại và cây xà lách Đà lạt ra ném qua cửa sổ.
Sáng hôm sau, tôi xách giỏ đi chợ bọc theo 5 trăm đồng. Vào tới dãy hàng thịt heo lậu phía bên hông, thấy một đám người đứng quây tròn quanh một sòng bạc, tôi cũng chun vô lôi một trăm đồng ra đặt. Đánh đấm sao mà mới 5 phút đã thua hết cả tiền chợ và còn nợ nhà cái một nghìn rưởi, con mẹ đè ra lột chiếc nhẫn cưới.
Về kể lại, da mặt chồng xanh mát như trái mướp ngọt, chàng gầm lên:
- Cái điềm gì mà mới lấy nhau có mấy ngày đã mất nhẫn cưới? Đánh bài gì vậy? Tứ sắc hả?
- Không biết thứ bài gì mà hơi giống bầu cua cá cọp.
- Vậy là thế nào mấy con điếm, con đĩ Tân định nó biết em ngu, nó theo em về tới building này... thừa lúc anh đi vắng...
Thanh Nam quyết định ăn cơm tháng người vũ nữ già nấu. Người đàn bà này đã dạy tôi biết làm một số món ăn Bắc như tiết canh vịt, thịt đông, canh rau ngót, cá chài om thìa là, canh chua cá dấm v.v... Nấu ăn, may vá, đánh máy chữ... đó là kỹ thuật hơn là nghệ thuật vì tập nhiều thì làm được, may luôn thì khéo tay.
Những tháng đầu về ở chung với gia đình, Thanh Narn thường ăn ngoài vì không kham được những món Huế mẹ tôi làm; ít lâu sau, đại gia đình sang được cái nhà rộng hơn, chúng tôi ở chung nhưng tổ chức ăn uống riêng.
Thỉnh thoảng mấy con em vẫn hậm hực:
– Một lần nhịn là chín lần thua, tại răng bà cứ nhịn thua hoài vậy?
-- Chồng mình thì mình phải nhịn. Chồng mình, mình thua chồng mình một chút... Khi mình thua chồng mình, mình có hạnh phúc nhiều hơn.
Thanh Nam cũng hậm hực mấy con em của tôi:
– Em út gì hỗn láo không bao giờ gọi chị bằng chị... Cả nhà như vậy, chẳng ai gọi ai bằng chị bằng anh hết.
Rồi chàng quay qua tôi:
– Em là một người may, đã không có mẹ chồng lại chẳng có em chồng.
Tôi đâu phải vừa:
- Trong cuốn phim Psycho, Alfred Hitchcock đã cấu tạo nhân vật chính là người con trai do Anthony Perkins đóng, người con trai đó có hai personality: một của người mẹ và một của chính hắn... Anh, anh có tới ba personality ở trong người anh: người mẹ chồng, người chồng, người em chồng.
Nấu bếp, viết văn, Thanh Nam làm việc gì cũng nhanh, một ngày đang sống phải là một ngày dư ra vài giờ nhàn rỗi để uống bia, đọc báo, thắp cây nhang trước bàn thờ Phật.
Thanh Nam không biết nhạc lý tuy có đặt lời ca cho một số nhạc phẩm thời đại. Các nhạc sĩ Hoàng Trọng, Nguyễn Hiền, Ngọc Bích chỉ việc soạn sẵn phần nhạc với những hạt đậu âm thanh ré la sol mi do fa si; còn phần lời ca thì dưới mỗi nốt nhạc đã đặt, các ông đề: không dấu, dấu sắc, không dấu, dấu huyền, không dấu, dấu ngã, dấu nặng, dấu hỏi... Thanh Nam đâu cần biết tới phần ký âm ở trên, huýt gió còn không ra hơi nữa là, chỉ ngó cái hàng chữ “không dấu” hoặc “sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã” rồi ngồi đó mà mò mà moi ra:
Cho nhớ thương về quê xưa
Mùa xuân không còn nữa.
hoặc
Hôm qua đến tìm em
Anh thấy hoa xuân rơi đầy trước thềm.
(Ba tháng trước đêm Thanh Nam lìa đời, Quỳnh Giao và Mai Hương đã đứng bên giường bệnh hát hầu hết tất cả những bài nhạc Thanh Nam đặt lời ca).
Con gái đầu lòng của chúng tôi, cháu Hồng Ân, ra đời được sáu tháng thì bố thổ huyết phải nằm nhà thương.
Bác sĩ khuyên:
– Từ nay thôi đừng phóng tay tự tàn phá thân thể của mình nữa, phải ăn nhiều, bỏ rượu, bỏ thuốc.
Cháu Hồng Ân được 10 tháng thì tôi bắt đầu viết feuilleton cho một số báo hằng ngày. Một người đàn bà sùng bái văn chương như tôi, lòng một tất để mà tâm niệm “Văn chương là sứ mạng thiêng liêng gắn liền với quê hương” nay bỗng dưng viết tiểu thuyết rẻ tiền cho các báo hằng ngày, tôi quyết định vậy vì tôi yêu Thanh Nam hơn hết những người tôi yêu. Một hoặc hai năm, nhà văn cho ra đời một truyện dài thì tác phẩm mới có giá trị, đằng này, anh viết như cái vòi rồng, như đấu võ rừng, anh phá sản mất rồi.
Mặc Đỗ than:
- Đến Túy Hồng mà cũng viết feuilleton nữa thôi!
Tôi trả lời:
- Tôi lấy một người viết feuilleton nên tôi phải viết feuilleton để bằng người ấy... Giữ gìn ngòi bút làm chi? Phá luôn!
Tôi đã viết 5 cái feuilleton cho 5 tờ báo hằng ngày, một mục tạp ghi thời sự và một mục điểm mặt văn nghệ ti vi trên hai tuần báo, cộng tác với chị Thái Thanh trong chương trình “Lời trong đêm” của đài phát thanh “Tiếng nói tự do”. Phải bỏ dạy học 4 năm liền để mà viết, phải gửi thằng con áp út – cháu tên là Ốc Sên - về bên ngoại nuôi giùm cho rảnh tay hơn. Viết đến độ không có thì giờ sửa lại những đoạn viết ẩu khi đem in thành sách, viết nhiều quá thành ra viết bậy: chị em ruột cũng cho lấy nhau, tên tuổi nhân vật lẫn lộn rối beng và có hai truyện dài phải cúp ngang vì không nghĩ ra được kết cuộc. Và, viết xuống dốc quá bị chủ báo coi thường!
Thanh Nam và tôi, đời chúng tôi, không biết đã viết được bao nhiêu truyện dài, nhưng mối tình của chúng tôi, đó là truyện dài hay nhất!
Một buổi trưa đến nhà chúng tôi ăn cơm, anh Mặc Đỗ bảo:
- Hễ thấy Túy Hồng là thấy cái cảnh “phu tróc tử phọc”.
*
Nhưng sau năm 1975, anh Mặc Đỗ không thấy lại chúng tôi, nếu gặp nhau, chắc anh sẽ kêu:
- Hễ thấy Thanh Nam là thấy cái cảnh “thê tróc tử phọc”.
Sau năm 1975, có một đoạn, Thanh Nam ở nhà làm bếp trông con, tôi ra đi như những ngày xưa mưa mùa Thanh Nam đã khoác áo ra đi.
Chúng tôi là một đôi vợ chồng khắc khẩu, không hợp tuổi, ngược tính tình: Thanh Nam quan niệm dù sống và viết bên nhau, chúng tôi không phải là hai chủ thể, hai đơn vị, hạnh phúc không phải là mỗi người khư khư nắm lấy cây bút của mình, mỗi người cứ ôm chầm lấy tự do vào ngực mình.
Đây là một điệp khúc chàng thường đơn ca từ ngày qua Mỹ:
– Cuộc đời anh, anh sung sướng đã làm được hai điều lành: một là ngăn cấm em viết potin chửi đời, hai là giữ được lòng trung thành với em từ sau ngày cưới.
Hai mươi năm về trước, một nhà báo đã phỏng vấn năm nhà văn nữ, trong đó có một đoạn về Nhã Ca.
Hỏi: Thưa chị Nhã Ca, nghe anh em trong giới đồn rằng chị và anh Trần Dạ Từ sắp ly dị phải không ạ?
Đáp: Chúng tôi là hai nghệ sĩ, hạnh phúc như cái quán văn nghệ, ai vô thì vô ai ra thì ra.
(Thưa quý độc giả, bài phỏng vấn đó đã đăng báo, tức là đã đưa ra công luận hai mươi năm về trước, tức là đã được coi như tài liệu).
Thanh Nam bác:
– Túy Hồng cũng quan niệm như vậy. Không được. Hạnh phúc không phải là một bỏ ngõ, một vòng tròn hở ai vô ai ra cũng được. Lâu đài hạnh phúc của tôi, tôi treo bảng “Vô phận sự miễn vào”.
Thời gian chúng ta mới lấy nhau, em đã phóng thích anh đi đêm đi ngày mà không ghen; đó là quan niệm của em. Còn anh, anh quan niệm khác, em không ghen thì anh ghen, anh kiểm soát thư từ, anh cấm em giao dịch...
Chúng ta đã sống hai kiếp trong một cuộc đời, kiếp một ở Việt Nam và kiếp hai ở Mỹ, chúng ta đã có con sống con chết với nhau... đừng, đừng bao giờ phụ phản nhau.
“Ai bao năm từng lê gót nơi quê người”, chúng tôi đầu tiên dừng gót ở tiểu bang New Jersey, Thanh Nam đi làm Shipping Clerk cho một hãng bán sỉ áo quần ở New York, tiền ăn họ đạo bao sáu tháng, tiền nhà họ đạo bao một năm, tưởng như vậy là yên, nhưng không, cuộc đời lại được cải táng một lần nữa, chúng tôi lại tha 4 đứa con về định cư ở cái xứ gió mưa ngậm ngùi này, sắm sửa lại đồ đạc từ cái tăm xỉa răng, cái bát ăn cơm mua tại Goodwill.
Ở Seattle được vài tháng, Thanh Nam được kêu làm part-time cho tờ báo “Đất Mới”, tôi đi may và sau đó học Ceta tức là chương trình huấn nghệ sáu tháng học Anh ngữ, sáu tháng học nghề.
Mấy nữ học viên cùng khóa thỉnh thoảng nói cười:
- Chỉ có ông Thanh Nam là sướng được tiếp tục nghề cũ, còn bà Túy Hồng bao giờ cầm bút trở lại đây?
Tôi thở dài như dạo nào:
– Sang tới đây rồi thì... thì... bút gì cũng bỏ hết, bút “bic" nguyên tử, bút máy, bút se ngọn thỏ...
Mấy bà kê khai:
– Cái nhà là nhà của ta, chồng tôi tự tay làm được cái nhà.
– Chồng tôi đặt được cả hệ thống ống nước dưới đất.
- Chồng tôi là thợ điện ở hãng Tood Shipyard, có thể dùng răng cắn đứt ngang sợi dây điện.
– Chồng tôi biết hàn xì tất cả mọi chỗ nối trên tàu thủy.
Tôi cũng kêu:
- Chồng tôi nấu ăn giỏi như bà Quốc Việt.
Kêu xong, tôi về nhà kêu ca:
– Sang tới đây, đàn ông ai cũng lập thân hết, họ không cần ai cải tạo họ, họ tự cải tạo thành con người mới, họ đã tự tẩy não họ cho quên hết cái quá khứ công chức ở Việt Nam... để chuộc lại những ngày ăn chơi, họ làm việc với đam mê. Nếu không có máu anh hùng, làm sao con người có thể tu chỉnh cuộc sống của mình như vậy được? Anh thấy không?
Tôi chỉ ưa vặn chồng như vặn cái nút chai mà không đưa tay sờ lên ót: đem chồng ra đọ với mấy ông trong khi quên so sánh mình với mấy bà. Chồng chèo thì vợ chống, mấy bà phụ cu ly chồng sửa nhà, cưa ống cống, bắt điện, trồng hoa làm vườn, mấy bà lái xe, nói tiếng Mỹ, mấy bà thơm tay chụp job này bắt job khác... Còn tôi, từ ngày sang Mỹ đến nay, tôi hóa Mỹ ở hai điểm: mê coi Basketball và Football như ngày xưa mê coi đá bóng đã chạy theo thủ môn Rạng của Quan thuế và Đực Hai của Tổng tham mưu để xin chữ ký. Mọi người sang đây đều Mỹ hóa, thường thường Mỹ hóa những cái hay; còn như mê coi football và basketball là Mỹ hóa cái kiểu không có lợi.
Nấu ăn là một kỹ thuật ngày xưa ở Việt Nam Thanh Nam biết mà không sử dụng; bây giờ, chàng thực tập hoài, lại còn âm thầm mở sách dạy gia chánh của các bà Quốc Việt, Vân Đài ra nghiên cứu nữa.
Ngày chưa mất tiếng nói, Thanh Nam vẫn kêu:
- Người đàn ông này không phải vợ cho ăn thứ gì thì cúi đầu ăn thứ đó.
-- Người đàn ông này không chấp nhận trái Zucchini có thể thay thế cho trái bí đao để nấu canh.
– Người đàn ông này không đồng ý cái bó bông Broccoli lại có thể thay thế cho bó Cải làn để xào tôm thịt.
Thanh Nam luôn luôn đập thật nhiều tỏi để cho vào các món xào. Phải nhìn những cử động trở tay xoay mình của chàng khi đứng trước bếp đỏ chần thịt, trụng bánh, khua đũa gắp các món cho vào tô phở đãi bạn mới thấy ở chàng nỗi hứng cảm tha thiết còn hơn lúc ngồi rung đùi bên ly bia vàng ngàu sáng tác thơ văn.
Chàng nói :
– Anh không sửa nhà được, không sửa ống nước, không bắt dây điện... thì anh nghiên cứu kỹ thuật nấu ăn để sau này mở quán nhậu.
Bạn bè đến nhà thường khen Thanh Nam có 5 cái “nhất”:
– Nấu phở ngon nhất Seattle.
– Kho cá thu ngon nhất Seattle.
– Nấu giả cầy tuyệt nhất Seattle.
– Làm chả cá Thăng Long khéo nhất Seattle.
- Làm bít-tết tài nhất Seattle.
Bác sĩ Nguyễn Đăng Diệm là người khăng khăng chủ trương không ăn thịt :
Vì sợ chứng ruột dư thận sạn
Trồng hành ngò rau ráng mà ăn.
cũng phải khen:
– Muốn thấy tài làm bếp của Thanh Nam, chỉ cần ăn một miếng Bít-tết: ngoài thì cháy sém và co rút lại, ở trong còn rỉ máu hồng.
Các món ăn nhà chúng tôi, Thanh Nam thường đứng nấu, nhưng không phải bao giờ Thanh Nam cũng đứng nấu, còn tôi chỉ đứng chơi; người phải sửa soạn mọi thứ để sẵn như là thái thịt, nhặt rau, làm cá, cắt cà-rốt, đập hành tỏi v.v... cố nhiên không phải Thanh Nam. Ấy vậy mà cái bà Kim Anh nhỏ nhít như con búp bê kia, bà là vợ của ông Nguyễn Tất Đắc, bà cứ quả quyết Thanh Nam làm hết cả công tác nội trợ nấu nướng săn sóc nhà cửa, cắt tóc cho con... để bà cà khịa với ông chồng “theo đạo Khổng không bước chân vô bếp” của bà; và, bây giờ, Thanh Nam đã tan thành tro bụi rồi, bạn bè ai cũng tin rằng:
– Túy Hồng lúc này nhàn nhất, mấy đứa con ăn món Mỹ... mỗi ngày chỉ vào bếp bẩy phút... rảnh quá!
Thanh Nam được báo chí tặng cho cái danh từ “Người hiền”, điều đó đúng không, hãy đọc những lời chàng bút đàm:
- Anh không phải là người khó tính, anh chỉ khó ăn... anh là người dễ tính, nhưng khó ăn; còn em, em là người dễ ăn nhưng khó tính. Anh là con người cụ thể, chơi với bạn, anh chỉ muốn mời bạn ăn ngon, làm cho bạn vui cười sung sướng, còn em, em là con người trừu tượng chỉ hay phân tách tâm lý của bạn...
Trên phương diện văn chương, anh với em cũng trái ngược nhau nhiều. Ngày xưa, anh viết feuilleton cho các nhật báo ở Việt Nam, cũng như mấy năm về trước ở Mỹ, anh đã giúp việc cho tờ “Đất Mới” thật đắc lực... không bao giờ anh nghĩ anh đang mang nặng một sứ mạng, mà, anh cho rằng, anh chỉ là một người làm công không hơn không kém; còn em em luôn luôn nghĩ rằng văn chương là sứ mạng thiêng liêng này nọ...
– Năm 1975, một buổi sáng trong trại tị nạn ở Pennsylvania, bóc một trái cam ăn, bỗng nhiên nghe buốt và xót một bên cổ. Sáu năm sau, chỗ đau ấy là thảm kịch mất tiếng nói bây giờ.
Anh đã hút thuốc lá, anh đã uống rượu, anh đã viết năm 15 tuổi và anh còn hút thuốc phiện trong thời gian mười năm.
- Tuần trước, khi Huy Quang lại thăm cho mấy khúc cá kho riềng... anh bỗng có quyết định phải tiến hành chuyện mở quán ăn... cùng với em trông coi...
Ngày 4 tháng 5, 1986
Túy Hồng
(Văn Học số 5 tháng 6/1986, số Tưởng Niệm Thanh Nam)
• Ảnh: đám cưới Túy Hồng - Thanh Nam (hình chú thích sai tên em gái của Túy Hồng)
(st)





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 2 Members:

#141 Hoa Cái

    Hội Viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPip
  • 5381 Bài viết:
  • 18599 thanks

Gửi vào 02/08/2020 - 21:45

Đây là một điệp khúc chàng thường đơn ca từ ngày qua Mỹ:
– Cuộc đời anh, anh sung sướng đã làm được hai điều lành: một là ngăn cấm em viết potin chửi đời, hai là giữ được lòng trung thành với em từ sau ngày cưới.

------------------------------------------------------------------------------------
Thanh Nam viết câu trên không đúng, là văn sĩ nên bay bướm tưởng tượng .

Sau khi chồng chết, Túy Hồng viết 1 đoạn dại khái như sau:

Tôi bước vào phòng thăm nuôi tại bệnh viện, bất thần nhìn thấy người bạn đời của mình đang nhấp nhô trên bụng 1 người bạn gái của vợ .

HC

Thanked by 1 Member:

#142 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 04/08/2020 - 20:55

LỜI TÂM SỰ CỦA MỘT NHÂN CHỨNG
Nói chuyện với các nhà văn Đức
tại thành phố Nuremberg.
2.2000
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố độc lập năm 1945 khi đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc. Cùng với sự tuyên xưng độc lập, chế độ kiểm duyệt thời thuộc Pháp chính thức bị bãi bỏ.
Nhưng chẳng bao lâu sau, những tờ báo thuộc các xu hướng không làm vừa lòng nhà cầm quyền mới lần lượt bị đóng cửa bằng nhiều cách, kể cả những cách hoàn toàn không dân chủ chút nào - phong toả trụ sở, tịch thu báo, cấm bán, cấm tồn trữ…
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chỉ có vài tờ báo ở chiến khu làm nhiệm vụ tuyên truyền cổ động nhân dân đánh giặc. Thiếu giấy, thiếu phương tiện in, nhưng chúng đã làm tốt nhiệm vụ của mình. Trong kháng chiến, việc kiểm duyệt không được đặt ra.
Sau năm 1954, khi Hà Nội trở về tay những người chiến thắng, số tờ báo còn lại trong vùng quân đội Pháp chiếm đóng được phép tồn tại èo uột thêm một thời gian ngắn. Sau, chúng bị chuyển thành những tờ báo của các tổ chức công quyền. Năm 1956, tờ báo tư nhân cuối cùng là tờ Nhân Văn, vừa mới ra liền bị đóng cửa, nhiều người làm văn làm báo bị đưa ra toà, bị đi tù hoặc đi cải tạo lao động. Có thể nói, đó là năm cuối cùng của cái gọi là “tự do báo chí”, kể cả tự do ở trên giấy.
Năm 1967, tôi chính thức bước vào nghề báo, làm phóng viên kiêm biên tập viên cho một tờ báo tên là Báo Ảnh Việt Nam. Tờ báo này trực thuộc Uỷ ban Đối ngoại Trung ương. Tờ báo này chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là giới thiệu, tuyên truyền cho nước Việt Nam c.... s... Vào thập niên 60, thế giới c.... s.. chia làm hai phe: phe theo đường lối của Liên Xô (cũ) gọi là phe “xét lại”; phe theo đường lối Trung Quốc gọi là phe “giáo điều” (theo cách người trong hai phe gọi nhau). Do chức năng của nó, những người làm báo ảnh sống khá yên ổn. Báo in ảnh nhiều, chữ ít, bài vở được duyệt cẩn thận, trước hết là ở phòng, ban, sau đến thư ký toà soạn, chủ nhiệm, nên hiện tượng “mất lập trường”, sai “quan điểm” hầu như không có. Tuy nhiên, trong phong trào “chống chủ nghĩa xét lại hiện đại” dâng cao, thỉnh thoảng lại có sự phát động những cuộc rà soát từng câu từng chữ trong các bài đã in để “phát hiện” những “phần tử xét lại” trong hàng ngũ. Nói khá yên ổn chỉ có nghĩa như vậy. Kể lại những tình tiết trong các vụ rà soát này cần phải có nhiều thời gian. Người nghe kể thể nào cũng nghi ngờ tính chân thực của câu chuyện – nó giống chuyện tiếu lâm. Người trong cuộc thì không có cơ hội để cười - ai cũng có thừa cơ hội để lo lắng. Người bị nghi ngờ là “phần tử xét lại”, hoặc “có tư tưởng xét lại” chắc chắn sẽ phải chịu những hình phạt mà không ai có thể đoán trước nó sẽ là thế nào. Nhẹ thì bị đưa ra khỏi biên chế, tức là đuổi việc, nặng thì có thể bị đưa đến những nơi không ai muốn đến.
Tôi không may mắn bị bị rơi vào số người bị nghi ngờ, trước hết là do những phát biểu của mình trong những cuộc họp tôi đã không ca ngợi tư tưởng Mao Trạch Đông như những người khác. Ấy là chưa kể tôi còn có những lời châm biếm “người cầm lái vĩ đại”. Việc ca ngợi Mao Trạch Đông trong thời kỳ này được coi như lời khẳng định lập trường mác xít - lê-nin-nít chân chính trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống “chủ nghĩa xét lại”.
Cộng vào đấy, tôi là kẻ có tì vết. Một truyện ngắn của tôi được đăng trên tờ Văn Học mấy năm trước bị vị lãnh tụ văn nghệ lên án trong bài viết “Nâng cao lập trường tính đảng, chống chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ” của ông ta. Ai đã sống qua thời ấy mới hiểu tầm quan trọng của bài phê bình ấy, chỉ cần đọc cái đầu đề. Tôi lại có quan hệ bè bạn với những người bị coi là “phần tử xét lại”, có tên trong “sổ đen”. “Sổ đen” tuy nằm trong két sắt của các cơ quan trấn áp, nhưng nó là một thứ secret de Polichinelle, ai cũng biết. Cuộc “đấu tranh tư tưởng” kéo dài nhiều năm, trong bầu không khí nặng nề, đầy đe dọạ. Ở nước láng giềng phương Bắc những kẻ như tôi chắc đã ở trong tù, hoặc tệ hơn, đã mất mạng.
Tôi ngây thơ nghĩ rằng ở nước tôi tình hình không đến nỗi như thế. Nhưng tôi đã lầm.
Cuối năm 1967, một cuộc bắt bớ rộng rãi, “một mẻ lưới” theo cách gọi của đảng cầm quyền, được thực hiện.
Tôi bị bắt cóc giữa đường và đưa thẳng vào nhà tù, nơi cha tôi đã ở qua nhiều lần trong cuộc đời hoạt động giành độc lập cho đất nước của ông. Gần nửa năm sau vợ tôi mới được cơ quan thông báo tôi đã bị bắt. Trước đó, gia đình tôi chỉ biết tôi đã mất tích. Trong đợt càn quét này số cán bộ ở các cơ quan trung ương bị bắt khoảng gần 40 người, theo tôi tính nhẩm. Con số chính thức chỉ có công an biết. Ở các tỉnh, trong phong trào thi đua “chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”, số người bị bắt nghe nói còn đông hơn, trong đó có nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng gần đây “Chuyện Kể Năm 2000”. Tất cả những người bị bắt giam trong “vụ án của tôi” đều là những người lương thiện. Họ chỉ có một cái tội, ấy là dám nghĩ bằng cái đầu của mình, dám nói ra những ý nghĩ của mình.
Sự bắt bớ tràn lan trong cơn lên đồng tập thể này còn thâu tóm vào nó rất nhiều người không vì một lý do chính đáng nào. Trong tù, tôi gặp mấy dị bản “xét lại” kỳ quặc. Một sinh viên đi học ở Hungary, anh ta rơi vào tù vì yêu một cô gái Hung. Hungari là một nước “xét lại”, cô ta ắt cũng là “xét lại”, yêu cô ta thì cũng là “xét lại”. Một tên “xét lại” khác, một trí thức đi tù vì biết tiếng Anh, nhờ biết tiếng Anh, anh ta quen mấynhà ngoại giao Ai Cập và Nam Dương mời tới nhà uống rượu. Những người Ai Cập và Nam Dương hiển nhiên nằm trong phe cái gọi là “phe đế quốc”.
Cùng với cuộc bắt bớ này, cái “vô sản chuyên chính” của những lãnh tụ hoàn toàn được khẳng định. Mặt nạ dân chủ không còn cần thiết nữa, không cần dùng tới nữa. Thay vào đó là cái khác mang tên “dân chủ tập trung”cho đến nay vẫn còn làm tốn rất nhiều giấy mực. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã lột xác hoàn toàn để khoác áo mới “cách mạng vô sản”.
Tôi đã ở qua bốn nhà tù, trong số đó có ba nhà tù tôi bị giam trong xà lim một người. Đó là một căn phòng ẩm ướt, thiếu ánh sáng và không khí, đủ chỗ cho bốn cái quan tài. Tôi không được phép đọc dù chỉ một mẩu giấy có chữ in – người ta đã bóc hết giấy bọc quà của gia đình được phép gửi cho thân nhân bị tù.
Lần đầu tiên tôi sau bốn năm tù tôi đọc mấy mẩu báo đã hết thời gian tính dùng để gói thức ăn của thân nhân tù gửi cho người nhà trong trại. Ấy là khi tôi đã được đưa từ xà lim ra trại chung, nơi tù chính trị và hình sự ở lẫn với nhau để làm lao động. Sau khi ra tù tôi có đặt câu hỏi với những người tù cùng một vụ với tôi vốn đã bị thực dân Pháp giam giữ trong thời thuộc Pháp vì tội hoạt động cách mạng: nhà tù nào khắc nghiệt hơn? Câu trả lời là: nhà tù Việt Nam c.... s.. khắc nghiệt hơn.
Đói, rét, là chuyện bình thường. Cái tệ hại hơn cả là người ta tìm cách huỷ diệt chí khí và trí não của người tù bằng cách bắt người tù ngồi đấy suốt năm này sang năm khác trong bốn bức tường, không được đọc, không được viết, không có tiếp xúc với nhân quần, không được biết ngày trở về.
Trong tù tôi luôn hỏi các cán bộ chấp pháp: bao giờ họ hỏi cung xong để đưa chúng tôi ra toà? Không có một câu trả lời. Tới năm thứ sáu thì họ bảo: tội của tôi không đáng đưa ra xử, kể từ nay tôi sẽ bị tập trung cải tạo. Điều đó có nghĩa là cuộc hỏi cung tôi kéo dài tới 6 năm, và tôi sẽ còn ở tù lâu, cứ 3 năm sẽ có một lệnh mới, cho đến khi người ta cho rằng tôi đã “cải tạo tốt”. Trong các nhà tù mà tôi đi qua tôi đã gặp nhiều người bị oan ức, có người chỉ vì một câu nói phạm thượng trong lúc say rượu mà ở tù cả chục năm. Tôi đã thấy một người vì đói quá mà ăn mỗi ngày hai tờ báo Nhân Dân xin được của những người có tiếp tế. Vỏ khoai luộc là thứ dạ dày không tiêu hoá được, nhưng nhiều người tù vẫn nhặt ở dưới đất lên để ăn.
Sau khi được thả, người ta cho tôi ký một hợp đồng tạm tuyển làm công nhân bốc vác, sau đó tôi làm nhiều nghề khác nhau nữa để kiếm sống. Trừ nghề viết. Không có một lệnh nào bằng văn bản quy định như thế, nhưng ở mọi tờ báo, ở mọi nhà xuất bản, đã nhận được lệnh miệng, thứ lệnh có hiệu lực hơn bất cứ văn bản nào. Mười năm sau, cho tới thời kỳ gọi là “đổi mới”, tôi mới được phép viết trở lại. Cũng không có lệnh giải toả nào hết. Và cũng không có cả lệnh miệng. Là nhờ một giám đốc một nhà xuất bản dũng cảm dám in bừa, in đại. Cuốn sách của tôi được giải thưởng cao nhất trong một kỳ chọn sách hay cho trẻ em. Như một phép màu.
Trong suốt mười năm ấy, tôi phải sắm vai một công dân ngoan ngoãn, nhưng tôi biết cơ quan mật vụ vẫn theo dõi tôi từng bước. Ý nghĩ về một cuốn sách miêu tả cái xã hội quái gở mà tôi buộc phải sống trong đó không lúc nào rời bỏ tôi. Nhờ biết thông thạo tiếng Nga, tôi được đi theo một đoàn thương mại đến Liên Xô với tư cách phiên dịch, rồi sau đó, nhờ ký được mấy hợp đồng, tôi được ở lại làm đại diện cho một công ty. Cuốn Đêm Giữa Ban Ngày được viết ra trong thời kỳ này. Do bất cẩn, việc tôi viết một cuốn sách chắc chắn là ph.... đ.... đến tai nhà cầm quyền. Người ta đã tạo ra một vụ trấn lột để cướp bản thảo, tôi bị đâm, bị cướp sạch những gì tôi có. Tôi chạy qua Warszawa, rồi từ đó, khi biết người ta vẫn lần theo dấu vết của mình, tôi nhớ tới lời khuyên của một đại tá KGB (cũ) điều tra vụ trấn lột tôi và biết rõ kẻ trấn lột là ai, tôi tìm đường sang Pháp. Nước Pháp cho tôi quy chế tị nạn chính trị, và tôi hoàn tất cuốn sách bị cướp ở Paris.
Tôi đã không sai lầm khi chọn cuộc sống lưu vong.
Nó không phải cuộc sống tự nguyện, nhưng nó cho tôi điều kiện để viết xong cuốn sách ấp ủ. Tôi coi nó là món nợ phải trả. Đồng bào tôi phải được biết về mặt trái của cái xã hội được coi là đoạn đầu của con đường đi tới miền hạnh phúc viên miễn. Nền tuyên truyền dối trá, như một thứ thuốc lú, đã làm cho nhiều người mê mẩn, không phân biệt chân giả, quên mất mình là con người có quyền được sống như một con người, chứ không phải một robot chỉ biết tuân lệnh các lãnh tụ tự xưng “vô cùng sáng suốt” và “duy nhất đúng đắn”
Tôi cảm ơn nước Pháp đã cho tôi tá túc. Tôi cảm ơn hai tổ chức International Parliament of Writers và Intrenational PEN đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi làm công việc mà tôi muốn được làm là đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì dân chủ hoá xã hội Việt Nam. Công việc ấy chiếm toàn bộ thời gian còn lại của tôi.
Tôi sẽ không quên lòng tốt của những người bạn ở các thành phố mà tôi đã được sống qua: Paris, Strassbourg, Bern, Nuremberg. Nhờ các bạn tôi được hiểu biết thêm rất nhiều về các dị bản của xã hội dân chủ, những mặt mạnh cũng như những chỗ yếu của nó...
Tôi đặc biệt yêu mến Nuremberg, một trong những cái nôi của nền văn hoá Đức. Nhờ nó mà cả nước Đức trở thành gần gụi với tôi. Nhờ nó mà hôm nay tôi không bỡ ngỡ khi được có mặt ở đây giữa các bạn, như giữa những người thân thuộc.
Có vẻ tôi đã nói nhiều về chính trị hơn là cần thiết.
Tôi nghĩ: ở nước tôi hiện nay không thiếu các nhà văn, lại là những nhà văn rất tài hoa nữa, nhưng còn thiếu nhiều công dân ý thức được trách nhiệm của mình. Vì sự thiếu ấy, tôi chọn vị trí công dân.
Xin cảm ơn các bạn đã bỏ thời giờ nghe lời tâm sự của tôi.
Vũ Thư Hiên

Thanked by 2 Members:

#143 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 09/08/2020 - 20:34

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Lịch sử dầu khí VN không thể bỏ qua những kí ức này.
Gã vừa nhận được mail của anh rể gã ở San Diego, Mỹ:
"Xin chuyển đến Văn bài viết mới về dầu hỏa Việt-nam. Tác giả Trần Văn Khởi, anh ruột của anh,lúc trước là Tổng Cục Trưởng, Tổng Cục Dầu hỏa và Khoáng Sản Việt Nam là người chịu trách nhiệm về việc đấu thầu khai thác dầu hỏa cho VN tại miền nam VN trước năm 1975."
Kèm theo thư này là thư của ông Trần Văn Khởi gửi cho em trai mình ngày 5.8.2020 :
"Có bài mới viết về ông Phạm Kim Ngọc nguyên tổng trưởng KT, người có công đầu cho việc thăm dò và khai thác dầu khí ở miền nam VN, gởi để em đọc trong lúc cách ly vì covid.
Bài đã gởi cho báo, nhưng trong nhà thì ưu tiên đọc trước .
Ngoài ra thì mới nghe tin VN tìm được dầu khí ngoài Huế - ngoài khơi, chếch phía Quảng Trị.
Giếng mang tên là Kèn Bầu (cũng ngộ a ), gas nhiều hơn dầu, chưa được vui lắm. Nhưng sẽ khoan tìm thêm, ở đâu có dầu khí là ở đó có dầu - rồi sẽ đủ để khai thác. May ra Huế được hưởng.
Thân mến,
Khởi."
Sau đây là bài viết của ông Trần Văn Khởi kể lại quá trình VNCH khai thác dầu khí thế nào. Các tư liệu này rất cần bổ sung vào Lịch sử dầu khí VN.
NHỮNG HỢP ĐỒNG TÌM DẦU ĐẦU TIÊN Ở VIỆT NAM
Trần Văn Khởi
Chẳng có gì nhiều thực hiện hồi Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) trước đây mà còn lưu lại sau ngày c.... s.. chiếm miền Nam: hầu hết đường sá bị đổi tên, tượng đài phá huỷ, và các dự án chương trình đều đã bị ngưng bỏ từ lâu. Nhưng công cuộc tìm dầu ngoài khơi thì vẫn còn tiếp tục, và còn đem lại nhiều phúc lợi đáng kể cho kinh tế Việt Nam ngày nay.
Trong vòng 6 tháng trước Tháng Tư Bảy Mươi Lăm, sáu giếng tìm dầu đã được khoan ở thềm lục địa miền Nam: kết quả là ba giếng khô, ba giếng tìm thấy dầu khí ở ba mỏ đặt tên là Dừa, Đại Hùng và Bạch Hổ. Cả ba đến nay vẫn còn tiếp tục sản xuất, trong đó mỏ lừng danh Bạch Hổ là mỏ dầu lớn nhất ở Việt Nam, và là mỏ khổng lồ, thuộc vào loại đặc trưng trong hàng quốc tế. Cùng với hàng chục mỏ khác được khám phá sau này, dầu khí ở thềm lục địa miền Nam đã đem lại cả trăm tỉ Mỹ kim cho Việt Nam.
Sáu giếng này được khoan theo những hợp đồng tìm dầu đầu tiên mà ông Tổng Trưởng Kinh Tế Phạm Kim Ngọc đã ký với các công ty dầu trong tháng Tám năm 1973. Việc thành tựu các hơp đồng này là một điểm son trong quá trình công vụ của ông Ngọc, và tôi cũng đã may mắn và hoan hỉ được làm việc cùng ông Ngọc trong chương trình này, rồi sau đó tiếp tục duy trì liên lạc với ông Ngọc trong hàng chục năm qua.
Nhìn Về Dầu Khí Ngoài Khơi
VNCH đi tìm dấu rất trễ, cả 9 năm đệ nhất cộng hoà không làm gì. Đến năm 1967, VNCH tham gia chương trình khảo sát địa chấn trên phần phía nam Biển Đông và ở Vịnh Thái Lan do Liên Hiệp Quốc tổ chức. Kết quả sơ khởi thấy khả quan nên sau đó có thêm nhiều cuộc khảo sát do các công ty dầu tài trợ. Năm 1968, VNCH ra tuyên cáo xác nhận chủ quyền và quyền tái phán trên thềm lục địa, theo Quy Ước Geneve 1958 về Thềm Lục Địa. Cũng trong năm 1968, một dự thảo luật dầu hoả đã được khởi sư xúc tiến qua một uỷ ban liên bộ do hai kỹ sư Hồ Mạnh Trung và Võ Anh Tuấn của Nha Tài Nhiên Thiên Nhiên phụ trách. Tôi đã tham gia với tư cách Chánh Sở Đầu Tư ở Bộ Kinh Tế.
Khi nhậm chức Tổng Trưởng Kinh Tế khoảng cuối năm 1969, dù phải bận rộn với những biện pháp cấp bách nhằm ổn định kinh tế, ông Ngọc đã quan tâm tới triển vọng dầu khí, và góp phần thúc đẩy để sớm thông qua đạo luật. Khoảng tháng 12 năm 1970, khi ông Tuấn và tôi đang tham khảo với công ty CONOCO ở New York, tìm hiểu về kỹ nghệ dầu khí, thì được gọi về ngay - Luật Dầu Hoả số 011/70 vừa được Quốc Hội thông qua và Tổng Thống ban hành. Ông Ngọc muốn chỉ định tôi phụ trách chương trình tìm dầu, thi hành Luật Dầu Hoả; khi đó Ông Ngọc và tôi tuy có biết về nhau, nhưng tôi không làm việc trực tiếp với ông Ngọc; làm Chánh Sở Đầu Tư thì khi đó tôi dưới quyền ông Thứ Trưởng Công Kỹ Nghệ Phạm Minh Dưỡng.
Trong lần nói chuyện bàn việc, ông Ngọc nêu lên những điều mình cần làm, cũng như cách thức mình phải làm. Ông chia sẻ với tôi viễn ảnh một nền kinh tế phát triển bền vững do khai thác dầu hoả dẫn đầu; và qua việc mình làm với các công ty dầu ông muốn “chứng tỏ với thế giới là mình đủ sức và đáng tin cậy để thực hiện những dự án có tầm vóc lớn”. Ông nói ông giao mọi việc cho tôi, và sẽ giúp tôi chu toàn những gì tôi cần. Rất nhiều việc cần phải làm, và ông Ngọc mong muốn sẽ làm ngay và tiến triển mau.
Luật Dầu Hoả của VNCH dựa trên hệ thống đặc nhượng đang áp dụng khi đó ở Trung Đông, theo đó các công ty dầu sẽ được chọn lựa để đầu tư tìm kiếm, khai thác, sản xuất và xuất cảng dầu hoả, rồi trả nhượng tô (royalty) và nạp thuế cho chính phủ. Hoạt động dầu khí sẽ dựa trên Luật Dầu Hoả, các sắc lệnh nghị định sẽ phải ban hành, và các chi tiết ghi rõ trong các hợp đồng đặc nhượng, gọi nôm na là hợp đồng tìm dầu, mà chính phủ sẽ ký với các công ty.
Về chuyện lựa chọn công ty, nói chung thì có hai cách: hoặc thương thuyết trực tiếp với công ty, hoặc đấu thầu quốc tế rộng rãi. Trong lần tiếp xúc với CONOCO thì họ đề nghị VNCH nên nói chuyện song phương. Tôi thấy khó đi đường đó – họ coi bộ nắm vững mà mình lại không biết gì nhiều. Tôi nói với ông Ngọc “mình đòi ít thì lỗ, đòi nhiều thì hố, mà mình lại không biết đâu là ít đâu là nhiều”. Mà cũng không biết nên nói chuyện với công ty nào.Tôi nghiêng về đấu thầu. Ông Ngọc cũng thấy những trắc trở của chuyện bàn luận tay đôi – ông nói việc mình làm cần phải được rõ như thanh thiên bạch nhật để ai cũng thấy. Ông nói các điều khoản và thủ tục của việc đấu thấu đều phải được rất rõ ràng, minh bạch.
Vì việc tìm kiếm và khai thác dầu hoả liên quan đến luật lệ của nhiều cơ quan khác nhau, như tài chánh, quốc phòng, thuế vụ, ngoại giao, hối đoái…nên nhiều điều khoản của hợp đồng tìm dầu cần phải được sự đồng ý của các cơ quan này, và như vậy thì rất nhiều vấn đề sẽ phải giải quyết qua tiến trình liên bộ. Cả ông Ngọc và tôi đều e ngại phải đi qua cách thức làm việc chậm chạp này; ông nói mình phải nghĩ tìm cách gì sáng tạo để thúc đẩy nhanh công việc.
Ngoài ra thì thềm lục địa của mình sẽ phải được chia thành lô để gọi thầu từng đợt. Trong khi các quốc gia láng giềng đã công bố ranh giới thềm lục địa của họ thì VNCH chưa làm, và sẽ phải sớm công bố ranh giới của mình, và phải sẵn sàng để thương thảo giải quyết những trùng hợp, tranh chấp. Tôi nói mình sẽ phải làm việc với Hải Quân và Ngoại Giao, và phải nhanh chóng tìm hiểu Luật Biển và pháp lý thềm lục địa.
Tôi nói với ông Ngọc trước sau gì mình cũng phải cần sự giúp đỡ của chuyên gia, cố vấn, có kinh nghiệm đã làm chuyện này trước rồi. Tôi cũng nói thêm là trong lần gặp ông Thống Đốc Nguyễn Hữu Hanh vừa qua ở Ngân Hàng Thế Giới, ông có nhắn với tôi “khi mình tìm cố vấn thì mình phải để ý áo lót của họ không có nhãn hiệu công ty dầu.” Ông Ngọc, vốn đã làm việc gần gũi với ông Hanh từ nhiều năm trước, suy nghĩ khá lâu về chuyện này, nhưng không nói gì.
Rồi ông nói tôi sẽ cần có chuyên viên làm việc giúp, lại cần chỗ làm. Ông có vẻ hăm hở muốn xúc tiến nhanh, và đã gọi một phụ tá vào để nhờ kiếm chỗ cho “anh em dầu hoả, ở đâu đó trong building mình.”
Một Uỷ Ban Làm Việc Hữu Hiệu
Do nhu cầu, nhiều công việc trong chính phủ đều phải được giải quyết qua tiến trình tham khảo liên bộ. Nhược điểm chính của phương thức này là các vị đại diện các cơ quan thường là cấp thấp, lại có khi thay đổi, nên không mạnh dạn phát biểu ý kiến hay đề nghị sáng kiến tại buổi họp. Thường thì họ phải đem vấn đề về cơ quan, xét trình nội bộ, cho tới một kỳ họp sau; tiến độ vì vậy thường chậm chạp.
Vài ngày sau, tôi trình với ông Ngọc đề nghị thành lập một tổ chức cao cấp mang tên Uỷ Ban Quốc Gia Dầu Hoả để thực thi Luật Dầu Hoả, xúc tiến tìm dầu:
- Thành viên từ các bộ và cơ quan sẽ được chỉ định đích danh chức vụ, ở cấp Tổng Thư Ký hoặc Tổng Giám Đốc, và không được thay thế hay đại diện;
- Bắt chước vài uỷ ban công vụ của Hoa Kỳ, tôi đề nghị Uỷ Ban sẽ có 3 hội viên từ lãnh vực tư, hội viên chính thức chứ không phải chỉ là cố vấn, được chỉ định đích danh. Những người này sẽ thuộc lãnh vực luật pháp, kinh tế và kỹ thuật. Tôi cũng nói thêm là nếu có được Bắc Trung Nam thì lại càng hay cho công việc chung mới mẻ này. Tôi đã để ý tìm kiếm và tham khảo cấp tốc mấy ngày qua, và tìm được tên của quý ông Luật Sư Vương Văn Bắc, Kỹ Sư Địa Chất Âu Ngọc Hồ, và Kỹ Sư Đinh Quang Chiêu. Tôi chưa hề gặp hai ông Bắc và Chiêu, và đã làm việc với ông Hồ là người tiền nhiệm mới đây của ông Ngọc,
- Uỷ Ban sẽ có một văn phòng chuyên viên do một Giám Đốc điều hành; Giám Đốc sẽ làm thuyết trình viên và đóng góp vào các cuộc thảo luận của Uỷ Ban, nhưng sẽ không được quyền biểu quyết.
Ông Ngọc tỏ vẻ hài lòng với một uỷ ban liên bộ cao cấp mà lại có tư nhân tham gia. Ông vốn đã quen biết Luật Sư Bắc, và nói ông cũng mong muốn có ông Bắc trong uỷ ban. Ông cũng đồng ý ông Chiêu là một viên chức kinh tế cao cấp uy tín người Nam. Nhưng ông tỏ vẻ dè dặt về ông Hồ. Tôi đoán chắc chỉ là vì bất đồng cố hữu của người-sau-thay-người-trước, ngoài ra tôi thấy ông Hồ cũng đã sốt sắng thúc đẩy chương trình tìm dầu khi tại chức, nên tiếp tục thuyết phục mời ông Hồ; rồi ông Ngọc cũng đồng ý.
Sau đó ông Ngọc nói cần phải có thù lao cho uỷ ban, vì có các hội viên tư nhân, một chuyện mà tôi đã không nghĩ tới. Tôi nói như vậy sẽ công bằng phần nào cho tư nhân, mà cũng là một khích lệ cho mấy công chức cao cấp vốn đã bận rộn nhiều bề. Ông nói cũng phải 4000 đồng mỗi phiên họp (US$ 34 tính theo giá chính thức), một thù lao không phải nhỏ lúc đó.
Một uỷ ban như vậy sẽ là uỷ ban cao cấp đầu tiên chính phủ thời VNCH mà lại có hội viên tư nhân, và có thù lao họp như ở các công ty tư. Ông Ngọc nói ông sẽ lo làm phần của ông là vội vàng đem đề nghị đi tham khảo, xin ủng hộ và chấp thuận. Vài ngày sau, ông bảo tôi làm tờ trình và qua ngày 7 tháng Giêng năm 1971, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm ký ban hành sắc lệnh số 003/SL/KT thành lập Uỷ Ban Quốc Gia Dầu Hoả (UBQGDH) với nhiệm vụ thi hành Luật Dầu Hoả - chỉ 1 tháng sau khi Luật được ban hành.
Ông Ngọc làm Chủ Tịch của UBQGDH. Ông bổ nhiệm tôi làm Giám Đốc điều hành văn phòng, Kỹ Sư Tuấn làm Phó; khi đó chưa có chỗ làm, chuyên viên hay nhân viên nào cả. Tuy là thuyết trình viên không biểu quyết, tôi cũng được lãnh thù lao các buổio họp mà sau đó tôi chia cùng tất cả sáu nhân viên của văn phòng Uỷ Ban.
Chuyên Viên Iran Giúp Đỡ
Một ngày làm việc trễ, ông Ngọc gọi tôi lên văn phòng và bảo tôi chuẩn bị cho một phái đoàn đi Tehran gặp Thủ Tướng Hoveyda và Tổng Trưởng Dầu Hoả Amouzegar để nhờ giúp đỡ. Tôi chẳng hiểu gì cả, không biết gốc gác sự tình ra sao, thì ông nói vắn tắt là một bạn học của ông ở London hàng chục năm trước, bây giờ là Tổng Trưởng Tài Chánh của Iran, đã giúp thu xếp viếng thăm giúp đỡ. Ông nói ông đã nhờ Luật Sư Bắc, bây giờ đã ở trong Uỷ Ban, hướng dẫn phái đoàn, và bảo tôi đi gặp ông Bắc bàn mình cần gì, làm gì. Tôi nói tôi sẽ đi gặp ông Bắc bàn việc ngay, nhưng ông Tuấn sẽ đi Tehran thay tôi vì tôi đang phải cấp tốc thu xếp chỗ và tìm người làm việc, và đang dịch Luật Dầu Hoả ra tiếng Anh để gởi cho các công ty, và nay thì để cho chuyên viên Iran có văn bản làm việc ngay.
Phái đoàn đi Tehran vào cuối tháng Hai gồm có Luật Sư Bắc, Kỹ Sư Tuấn và hai viên chức của Phủ Thủ Tướng. VNCH yêu cầu Iran giúp ba chuyên viên về luật dầu hoả, kinh tế dầu hoả, và về địa vật lý (để nghiên cứu các dữ kiện khảo sát Liên Hiệp Quốc và thẩm định triển vọng dầu khí). Phái đoàn mang theo mấy tranh sơn mài làm quà tặng.
Qua đầu mùa Xuân năm 1971, các chuyên viên của National Iranian Oil Company (NIOC) đến Saigon và làm việc với chuyên viên của UBQGDH gồm Kỹ Sư Dầu Hoả Phí Lê Sơn, Cử Nhân Địa Chất Nguyễn Văn Vĩnh, Kỹ Sư Tuấn, và tôi; có thêm Kỹ Sư Nguyễn Trọng Hiền tăng cường từ Bộ Tài Chánh.
Trong ba tuần lễ, các chuyên viên Iran đã kể cho chúng tôi nghe nguồn gốc và tiến hoá của chế độ đặc nhượng dầu hoả ở Trung Đông. Họ trình bày chi tiết những tranh chấp với các công ty dầu, ngay từ những năm đầu khởi công, tiếp tục qua việc thành lập OPEC năm 1960 (Organization of Petroleum Exporting Countries) mà Tổng Trưởng Jamshid Amouzegar của Iran là một người đề xướng thành lập. Nghe chuyện dầu khí họ kể thấy còn hấp dẫn hơn là chuyện Một Ngàn Lẻ Một Đêm. Họ thẳng thắn trả lời các câu hỏi của chúng tôi, không tỏ vẻ dấu diếm chuyện gì cả.
Họ giúp soạn thảo một Hợp Đồng Đặc Nhượng Mẫu (Model Concession Agreement) để cùng với Luật Dầu Hoả và các sắc lệnh nghị định liên hệ sẽ làm căn bản cho hồ sơ gọi thầu quốc tế.
Chúng tôi thảo luận ngày này qua ngày kia cách thức và thủ tục gọi thầu, và những đề mục (bid items) của đề cung (offer), sao cho phản ảnh đúng những ưu tiên VNCH nhắm trong công cuộc tìm dầu, và sao cho việc thẩm lượng, so sánh các đề cung được dễ dàng, minh bạch, tránh mâu thuẫn và mơ hồ. Trong khi đó thì chuyên viên địa vật lý nghiên cứu các tài liệu khảo sát của Liên Hiệp Quốc, và tuy cuộc khảo sát là tổng quát và có tính sơ khởi, ông ta cũng cho ý kiến rất lạc quan về triển vọng dầu khí ngoài khơi Việt Nam.
Việc giúp đỡ của các chuyên viên Iran thực sự đã rất hữu hiệu và bổ ích, (i) cho chúng tôi những bài học sâu rộng về kỹ nghệ dầu khí và tương quan với công ty dầu, (ii) soạn thảo một hợp đồng mẫu tiến bộ và đầy đủ, (iii) đúc kết những thủ tục gọi thầu và chọn lựa đề mục đề cung, sau này giúp việc gọi thầu và chọn thầu được suông sẻ, nhanh chóng; (iv) xác nhận tiềm năng dầu khí sáng sủa ở ngoài khơi, và (v) đã làm hết thảy công việc đó nhanh chóng vào đúng lúc mình cần.
Làm Đi … Làm Lại
Uỷ Ban bắt tay ngay vào việc, đầy nhiệt tâm và hy vọng – chuyên viên làm việc không kể giờ giấc. Ông Ngọc không hề vắng mặt một phiên họp nào, có khi ghé thăm anh em làm việc ban đêm ở văn phòng.
Tất cả tài liệu làm việc với NIOC đều được dịch ra tiếng VIệt để Uỷ Ban nghiên cứu, thảo luận, tu chỉnh, chấp thuận; sau đó, các tài liệu đã hoàn bị được dịch ra tiếng Anh để làm hồ sơ gọi thầu. Uỷ Ban cũng thành lập các tiểu ban để làm việc chi tiết hơn với chuyên viên, có khi từng câu từng chữ, để giúp thúc đẩy các thảo luận ở Uỷ Ban được rõ ràng và nhanh chóng hơn. Tất cả hồ sơ gọi thầu đều làm hai thứ tiếng, và Uỷ Ban tự lo lấy việc phiên dịch, không nhờ người ngoài.
Qua tháng Sáu năm 1971, sáu tháng sau khi Luật Dầu Hoả ban hành, mọi chuyện đã sẵn sàng. Ngày 9 tháng Sáu, ông Ngọc ký nghị định và hôm sau UBQGDH họp báo công bố ý định của VNCH gọi thầu quốc tế để tìm kiếm và khai thác dầu khí trong vùng biển ngoài khơi, ghi rõ các lô sẽ mở thầu và các lô sẽ để dành về sau. Các công ty muốn tham dự sẽ phải trả lời các câu hỏi trong một Vấn Đề Lục (Questionnaire) trước ngày 15 tháng 8 để UBQGDH cứu xét khả năng dự thầu. Sau đó các công ty dự thầu sẽ được mời nhận hồ sơ gọi thầu và sẽ có 45 ngày để chuẩn bị nạp thầu.
Ngay sau đó, toàn bộ hồ sơ gọi thầu, kể cả dự thảo các sắc lệnh sẽ phải ban hành theo Luật Dầu Hoả, được trình ngay lên cả Phủ Thủ Tướng lẫn Phủ Tổng Thống để xin chấp thuận xúc tiến.
Không biết vì lý do gì mà không thấy có lệnh cho xúc tiến trước ngày 15 tháng 8; rồi sau ngày 15 tháng 8 cũng không có. Chính ông Ngọc đã hỏi thăm nhiều lần, nhưng vẫn không được đèn xanh, mà cũng không biết lý do tại sao.
Việc gọi thầu quốc tế bị xếp lại trong gần hai năm liền; trong thời gian đó, công việc chính của UBQGDH là bàn thảo về các tranh chấp ranh giới thềm lục địa với các quốc gia láng giềng.
Một ngày giữa tháng Ba năm 1973, sau khi Hiệp Định Paris về Việt Nam vừa mới được ký kết hồi cuối tháng Giêng, ông Ngọc đi họp về và bảo tôi Tổng Thống Thiệu chấp thuận cho làm gọi thầu tìm dầu.
UBQGDH lập tức chuẩn bị trở lại tổ chức gọi thầu, các tài liệu cũ được cập nhật và tu chỉnh - công bố lại ý định gọi thầu ngày 24 tháng Ba, hạn nạp Vấn Đề Lục là 24 tháng Tư, họp khoáng đại các công ty dự thầu giữa tháng Năm để trình bày, giải thích, và phân phát hồ sơ gọi thầu. Hạn nạp thầu là 6 giờ chiều ngày 2 tháng Bảy năm 1973.
Những Hợp Đồng Đầu Tiên
Mười lăm công ty, họp với nhau thành 7 nhóm, đã nạp 18 đề cung cho 8 lô. Các đề cung trong phong bì khằn kín được mở ra ngày hôm sau, trước sự hiện diện của toàn thể UBQGDH, có Thừa Phát Lại toà án, và bốn Tuỳ Viên Thương Mại của các toà đại sứ Canada, Pháp, Anh và Hoa Kỳ chứng kiến.
Công ty ESSO thắng 1 lô, công ty MOBIL OIL thắng 2 lô, công ty SUNNINGDALE 2 lô, và công ty PECTEN (chi nhánh của công ty SHELL US) 3 lô. Tổng cộng số hoa hồng chữ ký là 16.6 triệu Mỹ kim. Mọi người đều hoan hỉ, vui mừng.
Lễ ký kết các hợp đồng tìm dầu đầu tiên sẽ được tổ chức sáng ngày 21 tháng Tám năm 1973. Tôi vẫn còn nhớ mãi chiều tối hôm trước.
Sau cơm chiều, tôi mang 32 bản hợp đồng (8 lô, mỗi lô 2 bản tiếng Anh, 2 bản tiếng Việt ) đến nhà ông Ngọc để ông ký tắt trên từng trang. Trước đó trong ngày, tôi đã mời đại diện các công ty đến văn phòng ký tắt các bản hợp đồng của họ.
Cùng uống trà sâm và ăn bánh ngọt, hai người nói chuyện trong khi tay ông Ngọc, lúc đầu chậm, sau nhanh hơn, cứ như máy ký tên tắt trên từng trang mỗi hợp đồng.
Ông cám ơn tôi đã làm được việc; ông được tiếng khen từ nhiều giới tư nhân và mấy toà đại sứ. Và lúc này thì mấy người trong chính phủ ai cũng chắc chắn là mình sẽ có dầu rồi, vì các đại công ty đã trả 17 triệu chỉ để được phép đi tìm dầu! Ông Ngọc rất hài lòng.
Tôi nói bốn anh em chúng tôi,Tuấn, Vĩnh, Sơn, đều cố gắng hết sức. Uỷ Ban thì đã làm việc đắc lực và dễ chịu – ai cũng nhiệt tình và lo chuyện chung; mình may mắn có ông Bắc tham gia, là rường cột của Uỷ Ban (khi đó ông Bắc làm đại sứ VNCH ở London và là thành viên phái đoàn hoà đàm Paris, ít lâu sau thì làm Ngoại Trưởng). Ông Ngọc gật đầu đồng ý, nhưng cũng nói thêm cũng có hội viên không đúng mức như mình tưởng.
Tôi nói việc Iran giúp đỡ mình đúng là Trời cho. Ông Ngọc cười rồi nói “Tôi chỉ hỏi anh bạn đó thôi, mà hắn với tôi thì cũng chả thân nhau gì mấy!”
Tôi nói chuyên viên Iran không những mang lại cho mình kiến thức và kinh nghiệm về dầu hoả, mà họ còn mang lại uy tín và “credibility” khó kiếm ở chỗ nào khác. Tôi nói cũng nhờ tiếng tăm của họ mà việc mình làm được trôi chảy nhiều bề - với công ty dầu, với chính phủ, với báo chí, ngay cả nội bộ chính trị trong nước. Rồi tôi kể cho ông Ngọc nghe chuyện các chuyên viên Iran, hai năm trước, lúc xong công tác sắp sửa về, đã nhờ tôi thu xếp cho họ gặp với phụ nữ Việt Nam. Tụi tôi bối rối quá, không biết làm sao – phải 2 ngày hỏi han thu xếp, rồi sau cùng cũng làm được. Tôi kể thêm là khi ra về, ở phi trường, cả ba người đều rất hoan hỉ, cứ nhiều lần rối rít cám ơn tụi tôi.
Ông Ngọc cười lớn, rung cả tay lắm chữ ký tắt xiêng xẹo ở hai ba trang.
Chúng tôi bàn chuyện ký ngày hôm sau với Esso, Mobil và Sunningdale, và tuần sau với Shell và Cities Services; phải dời lại để Cities có thì giờ lo các thủ tục đăng ký. Ông Ngọc đã biết chuyện chấp thuận để Shell đưa Cities Services vào từ đầu và bằng lòng dời ngày ký; và đổi lại Shell hứa sẽ khoan giếng đầu tiên trong vòng 1 năm. Tôi nói tôi tin Shell sẽ giữ đúng lời hứa (và quả thật sau đó Shell đã khoan giềng Hồng 1X vào ngày 17 tháng Tám năm 1974). Ông hỏi tôi nếu họ tìm thấy dầu thì khi nào mình xuất cảng được. Tôi nói ở vùng nước cạn chắc là 2 năm; mà khi đó thì mình phải ráng hết sức làm việc với họ để đẩy làm nhanh. Rồi ông nhìn tôi, nói đầy tin tưởng: “Khi nào có dầu thì mình sẽ đi vào lịch sử.”
Trong mấy tiếng đồng hồ chiều tối hôm trước ngày ký những hợp đồng tìm dầu đầu tiên, ông Ngọc và tôi đều rất thoải mái, hân hoan, tràn đầy hy vọng. Mấy tháng sau, trong một lần thay đổi nội các, ông rời Bộ Kinh Tế và UBQGDH.
Hai Năm Trì Hoãn Còn Là Bí Ẩn
Việc trì hoãn 2 năm không gọi thầu đã làm đình trệ vô cùng tai hại chương trình tìm dầu của VNCH. Nếu không bị đình trệ thì đáng lẽ các hợp đồng tìm dầu đầu tiên phải được ký hai năm sớm hơn, đã tìm được dầu năm 1973 thay vì năm 1975, và rất có thể đã là một chuyện đổi đời. Vậy mà cho tới nay cũng không thấy có gì rõ vì sao lại bị ngưng trệ gọi thầu.
Vào năm 2000, sau khi hết làm toàn thời gian, tôi dự định sẽ dành thì giờ viết về chương trình tìm dầu của VNCH, và về những kinh nghiệm trong kỹ nghệ dầu khí, trước cũng như sau Bảy Mươi Lăm. Tôi đi Library of Congress để sao lục bất cứ tài liệu gì tôi tìm được liên quan đến nỗ lực tìm dầu trước đây, và tôi ghé thăm ông Ngọc lần đầu tiên ở Virginia. Ông và tôi đã sớm móc nối lại được với nhau từ năm 1976, khi ông từ Virginia điện thoại cho tôi đang ở Lafayette, mới làm việc với Superior Oil, trông nom những mỏ dầu trên bờ dưới biển ở Louisiana. Chúng tôi nhắc lại thời gian cùng làm việc ở Bộ Kinh Tế, ôn lại chuyện cũ, và nói về chuyện đình trệ 2 năm không được gọi thầu.
Tôi nói tôi có ráng phân tích những lý do khả dĩ có thể làm việc gọi thầu bị ngưng trệ (i) chuyện chính trị liên quan tới cuộc bầu cử tổng thống VNCH năm 1971; (ii) tình hình chiến sự và những dồn dập của hoà đàm Paris; (iii) chính phủ không tin là mình có triển vọng có dầu, và (iv) Mỹ can thiệp không cho làm. Theo tôi thì Mỹ không cho mình làm lúc đó vì chuyện phản chiến ở nội bộ Hoa Kỳ.
Tôi ngạc nhiên khi nghe ông Ngọc nói: “Chẳng phải Mỹ mốc gì cả. Vụ đầu thầu bị ngâm tôm chỉ là vì mấy ông phụ tá của Tổng Thống sợ cho làm thì Bộ Kinh Tế sẽ tham nhũng, sẽ ăn tiền.” Tôi cũng biết chuyện tham nhũng ở VNCH thời đó thì quả thật là tệ hại, đưa tới những cuộc điều tra do chính Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đảm trách. Nhưng tôi thật khó lòng tin được chỉ vì nghi ngờ tham nhũng mà có thể làm đình trệ một công trình nhiều hứa hẹn như vậy. Mặt khác, tôi lại nghĩ ông Ngọc gần với cấp cao có quyền quyết định nên chắc phải biết rõ hơn tôi. Khi ra cuốn Dầu Hoả Việt Nam 1970-75: Những Ngày Còn Nhớ năm 2002, có ghi lại chuyến viêng thăm này, tôi có gởi biếu ông Ngọc một bản; ông đọc xong, gọi tôi và nói “sách đọc được; anh viết thì tôi khỏi viết”.
Từ đó qua bao nhiêu năm gặp gỡ chuyện trò, ít khi chúng tôi nhắc lại chuyện chậm đấu thầu. Một lần, cách đây mấy năm, ông nói với tôi là ông đã nói chuyện với những người thân cận nhất, gấn gũi nhất với Tổng Thống Thiệu, thì được giải thích rằng hồi đó ông Thiệu quá bận rộn với các vấn đề quân sự và hoà đàm. Ông tỏ vẻ không tin, và tôi cũng thấy lý do đó cũng khó thuyết phục.
Đấu tháng Năm năm ngoái, tôi gặp ông Ngọc ở Cali, cùng với nhiều đồng nghiệp kinh tế cũ. Ông trông rất khoẻ mạnh, mặc quần jeans áo màu hồng trẻ trung. Đang ngồi nói chuyện chung giữa anh em bỗng ông quay qua hỏi riêng tôi mấy chục năm qua thì Việt Nam thu được bao nhiêu tiền dầu hoả. Tôi không biết, đã lâu không theo dõi, chỉ đoán mò và nói trong vòng hơn 40 năm qua, tính tròn thì trị gia tài nguyên dầu khí sản xuất cũng phải 200 tỉ Mỹ kim, sau tất cả các phí tổn và chia phần thì mình cũng phải được hơn cả trăm tỉ.
Rồi ông đưa cho tôi xem một tài liệu đã giải mật của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, một trao đổi giữa Toà Đại Sứ ở Saigon (TĐS) và Nhà Trắng (NT). TĐS phân tích vấn đề và sau khi cân nhắc các khía cạnh đã đề nghị không can thiệp vào lịch trình gọi thầu dầu hoả của VNCH, nhưng nếu NT muốn thì TĐS sẽ đi thẳng tới cấp cao nhất VNCH để khuyến cáo khác đi. NT trả lời lại, nói rõ là Tổng Thống quyết định không được (should not) can thiệp làm đình hoãn tiến trình gọi thầu.
Ông Ngọc bảo tôi coi mấy cái ngày: Tờ trình của TĐS đề ngày 8 tháng Hai năm 1972; NT trả lời ngày 15 tháng Hai năm 1972. Cả hai đều nói về ý định của VNCH sẽ gọi thầu vào ngày 11 tháng Hai năm 1972.
Tôi nhìn ông Ngọc, ngơ ngác và phân vân, không biết ngày 11 tháng Hai năm 1972 là ngày gì, ở đâu ra. Trong im lặng, chắc cả hai chúng tôi đều thắc mắc, sau khi UBQGDH chính thức công bố ý định gọi thầu hồi đầu tháng Sáu, không biết có gì đã xảy ra trong nửa năm 1971 và cả năm 1972 mà đã làm ngưng trệ gọi thấu mất hai năm.
Mấy tháng sau, tôi bàng hoàng xúc động khi nghe tin ông Ngọc đã đột ngột qua đời tháng 12 năm 2019 tại Saigon (thượng thọ 92 tuổi). Tôi đã cầu nguyện cho ông an vui ở cõi vĩnh hằng, và giờ đây, lại thêm một tháng Tám, xin ghi lại vài trang để tưởng niệm nguyên Tổng Trưởng Kinh Tế Phạm Kim Ngọc, người đã ký những hợp đồng tìm dầu đầu tiên của VNCH trong tháng Tám năm 1973./.

Thanked by 1 Member:

#144 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 18/08/2020 - 20:20

Trận Long Tân (Long Tan Day)
Mới đây, ngày 17/8/2016, Sở in & đúc hiện kim Úc-Đại-Lợi (Royal Australian Mint, thường gọi tắt là “the Mint”) đã cho phát hành đồng 5 Úc kim bằng kim loại, dành riêng cho giới sưu tầm.
Đồng 5 Úc kim này hình tròn, một mặt – cũng giống như bất cứ giấy bạc, đồng tiền kim loại nào khác của Úc-Đại-Lợi – có hình Nữ hoàng Elizabeth đệ Nhị, còn mặt kia có hình cây Thánh giá trong rừng cao su Long Tân, với hàng chữ “BATTLE OF LONG TAN 1966”.
Cùng với việc phát hành đồng 5 Úc kim nói trên, Chính phủ Liên bang Úc-Đại-Lợi đã ra một Thông cáo Báo chí, có đoạn chính như sau:
“Trước ngày kỷ niệm 50 năm trận đánh Long Tân, Sở in & đúc hiện kim Úc-Đại-Lợi đã phát hành đồng tiền tưởng niệm đặc biệt dành riêng cho giới sưu tầm (commemorative collectible coin) để tưởng nhớ các chiến binh đã chiến đấu và hy sinh tính mạng trong trận đánh này.”
Năm mươi năm trước, vào ngày 18/8/1966, tại một rừng cao su gần làng Long Tân, Tỉnh Bình Tuy, 108 chiến binh Úc-Đại-Lợi và Tân-Tây-Lan đã phải đương đầu với một lực lượng trên 2000 gồm bộ đội chính quy Bắc Việt và Việt cộng trong Nam. Trong trận đánh được ghi nhận là lớn nhất của Quân Đội Úc trong suốt thời gian tham chiến tại Việt Nam, đã có tổng cộng 17 quân nhân Úc tử trận, 25 người bị thương trong đó có một người không qua khỏi.
Vào dịp tưởng niệm 3 năm trận đánh này, một cây Thánh giá đã được dựng lên tại rừng cao su Long Tân và biểu tượng đặc biệt này (cây Thánh giá trong rừng cao su) đã được đưa lên mặt đồng tiền có đường kính 3.874 cm (1.5 inch).” (PHỤ LỤC: Thánh giá Long Tân)

PHỤ LỤC: Thánh Giá Long Tân
Thánh Giá Long Tân (Long Tan Cross) là một cây thánh giá đúc bằng bê-tông, cao gần 3m, nặng khoảng 100kg, là sáng kiến của Trung Tá David Butler và Chuẩn Úy James Cruickshank, do Trung Sĩ Alan McLeand thực hiện 3 năm sau ngày xảy ra trận Long Tân, trên có tấm plaque tưởng niệm các binh sĩ Úc đã hy sinh trong trận đánh.
Vào chiều ngày 17/8/1969, cây thánh giá được trực thăng đưa tới vị trí đã xảy ra trận đánh dưới sự bảo vệ an ninh của các binh sĩ thuộc Tiểu Đoàn 6 Trung Đoàn Hoàng Gia Úc-Đại-Lợi (6 RAR).
Sáng ngày 18/8/1969, đúng 3 năm kỷ niệm trận đánh, cây thánh giá được dựng lên, và “Đài kỷ niệm Thánh Giá Long Tân” (Long Tan Cross Memorial) được “khánh thành” trong một buổi lễ đơn sơ, cảm động do một vị Tuyên Úy Quân Đội Úc chủ trì, với 10 binh sĩ đã tham dự trận đánh đứng dàn chào hai bên.
Sau năm 1975, cây thánh giá đã được giáo dân Việt Nam đem đi một nơi khác rồi sử dụng làm bia tưởng niệm một vị linh mục Công Giáo (có lẽ để che dấu nguồn gốc?). Tới năm 1984, việc này bị nhà cầm quyền CS khám phá, cây thánh giá bị tịch thu đưa về Viện Bảo Tàng của tỉnh Đồng Nai ở thành phố Biên Hoà.
Năm 1989, sau khi Việt Nam “mở cửa”, và Úc đã trở thành một trong những quốc gia viện trợ nhiều nhất cho Việt Nam, các cựu chiến binh Úc tham chiến tại Việt Nam, thông qua Bộ Ngoại Giao Úc, đã vận động và được nhà cầm quyền Việt Nam chấp thuận cho tái thiết “Thánh Giá Long Tân” tại vị trí cũ ở tỉnh Phước Tuy (nay thuộc đất của tư nhân) với một thánh giá "bản sao" (replica, cao khoảng 2m).
Từ đó, nhiều cựu quân nhân Úc cùng thân nhân, nhiều cấp lãnh đạo, và cả một số du khách không có liên hệ tới cuộc chiến, khi tới Việt Nam đã đến viếng Thánh Giá Long Tân. Đặc biệt vào mỗi dịp 18 tháng 8, một buổi truy điệu chính thức đã được tổ chức, với điều kiện không được mặc quân phục, không được đeo huy chương, và không được cử quốc thiều Úc hay bất cứ bản nhạc quân hành nào.
Về phần cây Thánh Giá Long Tân “thật” vào giữa năm 2012 đã được Viện Bảo Tàng Đồng Nai cho Úc “mượn” để trưng bày tại viện bảo tàng Australian War Memorial ở thủ đô Canberra từ ngày 17/8, và hoàn trả cho phía Việt Nam vào tháng 4/2013.
Năm 2016, nhân đánh dấu 50 năm trận Long Tân, Australian War Memorial đã xin “mượn” lại Thánh Giá Long Tân để tổ chức lễ kỷ niệm ở thủ đô Canberra nhưng bị từ chối. Trước tình thế này, khoảng 3,500 người Úc, gồm cựu quân nhân từng tham chiến tại Việt Nam trong đó có những người đã trực tiếp dự trận Long Tân, cùng thân nhân, và du khách Úc đã kéo nhau sang Việt Nam, để tổ chức buổi kỷ niệm 50 năm tại Thánh Giá Long Tân "bản sao".
Nhưng mặc dù đã đóng “lệ phí 12 Úc kim” cho mỗi đầu người, vào ngày nói trên, khi đoàn người còn cách địa điểm 200m, đã bị một lực lượng công an hùng hậu ngăn chặn, bắt quay trở ra.
nhà cầm quyền Việt Nam không cho biết lý do...
Cũng từ ngày ấy, người Úc không còn được phép tụ tập tại Thánh Giá Long Tân để cử hành bất cứ nghi thức gì.
Việc buổi kỷ niệm bị ngăn cấm vào giờ phút chót đã khiến công chúng Úc phẫn nộ; sau đó đích thân Thủ Tướng Úc Malcolm Turnbull đã phải “nói chuyện riêng” với các nhà lãnh đạo Việt Nam về việc này.
...
Kết quả, hơn một năm sau, vào đầu tháng 11/2017, hai tuần trước khi Thủ Tướng Úc Malcolm Turnbull đặt chân tới Việt Nam để tham dự Hội Nghị Hợp Tác Kinh Tế Á Châu – Thái Bình Dương (APEC: Asia-Pacific Economic Cooperation) lần thứ 29, tổ chức tại Đà Nẵng, nhà cầm quyền Việt Nam đã âm thầm trao trả cây Thánh Giá Long Tân “thật” cho Úc...
Thánh Giá Long Tân được an vị vĩnh viễn tại một phòng trưng bày trang trọng trong Australian War Memorial ở thủ đô Canberra, và vào ngày 6/12/2017, đã chính thức mở cho công chúng.
Nguyễn Hữu Thiện
Melbourne, tháng 10/2016
(Bổ túc, cập nhật tháng 9/2019)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn









Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi tuphuongsg: 18/08/2020 - 20:36


Thanked by 1 Member:

#145 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 22/08/2020 - 19:26

Lê Viết Lới - Doanh nhân 'Trung kỳ' dám đối đầu với người Pháp

PHẠM XUÂN CẦN
23, Tháng 04, 2020

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Không chỉ là một doanh nhân có tài, Lê Viết Lới còn hoạt động xã hội sôi nổi, đồng thời là một dân biểu có chính kiến và đóng góp nhiều cho Viện Dân biểu Trung Kỳ trong hai nhiệm kì đắc cử.
Doanh nhân bản lĩnh
Lê Viết Lới thuộc thế hệ những doanh nhân đầu tiên của Vinh – Bến Thủy thời thuộc Pháp. Không biết ông chính thức bước vào con đường kinh doanh và thành lập công ty từ năm nào, nhưng trước Thế chiến thứ Nhất, Lê Viết Lới đã là cái tên quen thuộc trên lĩnh vực kinh doanh lâm sản. Ông có xưởng cưa khá lớn ở Bến Thủy. Trước và trong Thế chiến thứ Nhất, công ty của Lê Viết Lới đã có tới 30 - 40 công nhân. Như một số nhà công thương người Việt khi đó (Trương Đắc Lập, Bạch Hưng Nghiêm), Lê Viết Lới lên tận các huyện vùng thượng du và sang Lào mua gỗ về chế biến thành các sản phẩm mộc dân dụng và kinh doanh. Nhờ mua tận gốc, bán tận ngọn, nên ông thu được lợi nhuận khá cao.
Tuy nhiên, chủ trương nhất quán của Pháp là không phát triển công nghiệp thuộc địa, hay nói chính xác hơn, công nghiệp thuộc địa chỉ được phát triển trong giới hạn không phương hại đến công nghiệp chính quốc. Công nghiệp chính quốc cần được bổ sung chứ không phải là để phá sản bởi công nghiệp thuộc địa. Với tinh thần đó, ngay từ những năm đầu chiếm đóng Việt Nam, thực dân Pháp đã chú ý ngăn cản người Việt ở Trung Kỳ thành lập xí nghiệp, công ty lớn, có khả năng cạnh tranh với các công ty tư bản Pháp.

Ở Vinh - Bến Thủy, người Pháp đã sớm nhận ra tiềm năng và lợi thế vô cùng to lớn về ngành khai thác và chế biến lâm sản, khi nhìn thấy những khu rừng nguyên sinh bạt ngàn, với nhiều gỗ quý ở vùng thượng du và Lào.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

, nhà buôn người Pháp đầu tiên đặt chân lên Bến Thủy từ năm 1885, cũng đầu tư vào kinh doanh buôn bán gỗ. Sau J. Dupuis, ba anh em nhà F. Mange, năm 1888 cũng lập ra một cơ sở chế biến và kinh doanh gỗ. Năm 1892, F. Mange mua lại cơ sở của J. Dupuis, lập nên công ty Lâm sản và thương mại. Năm 1900 công ty Lào cũng được thành lập và nhanh chóng phát triển lên số vốn 600.000 fr, có gần 300 công nhân. Năm 1904, F. Mage lập Công ty Lâm sản và Diêm Đông Dương (SIFA) trên cơ sở Công ty Lâm sản và Thương lại Trung kỳ. Ngay sau đó nó thôn tính luôn cả công ty Lào và hầu như thâu tóm toàn bộ các hoạt động kinh doanh lâm sản ở Vinh – Bến Thủy. Không chỉ tổ chức khai thác, thu mua lâm sản tận gốc từ các huyện vùng thượng du và Lào, đóng bè đưa về Bến Thủy, SIFA còn tổ chức chế biến sâu. Họ đầu tư xây dựng nhà máy Diêm Bến Thủy, nhà máy điện SIFA. Được nhà nước hỗ trợ, SIFA còn giành được hợp đồng lớn cung cấp gỗ cho các dự án xây dựng đường sắt bắc nam và khai thác mỏ ở Quảng Ninh, chưa kể xuất khẩu gỗ ra nước ngoài. Từ đó, SIFA đã phát triển thành một đế chế thực sự.
Sự lớn mạnh nhanh chóng của đế chế SIFA đã chèn ép các doanh nghiệp kinh doanh lâm sản nhỏ khác ở Bến Thủy đến chỗ phải phá sản, hoặc chuyển hướng kinh doanh. Bạch Hưng Nghiêm chuyển sang kinh doanh lĩnh vực vận tải, buôn bán tạp hóa và ô tô; Trương Đắc Lạp, cùng với con trai ông sau này là Trương Đắc Du chuyển sang làm quản lý nhà máy Diêm Bến Thủy cho SIFA. Riêng Lê Viết Lới vẫn trụ lại với nghề kinh doanh gỗ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Gỗ ở cảng Bến Thủy những năm 1920

Sau khi Thế chiến thứ Nhất kết thúc, Lê Viết Lới đầu tư thêm máy móc hiện đại, có thể xẻ được đủ kích thước gỗ, sử dụng từ 30 - 40 công nhân. Bên cạnh đó, ông còn tổ chức sản xuất đồ gỗ mĩ nghệ xuất cảng ra nước ngoài, thu lãi hàng vạn đồng mỗi năm. Xưởng mở rộng thêm quy mô, sử dụng có lúc đến 50 công nhân. Thế nhưng, trước sự bành trướng và chèn ép của SIFA, cơ sở của Lê Viết Lới hầu như không phát triển thêm được. Các cuốn sách sử về Nghệ An, về Vinh đều viết rằng không thể cạnh tranh nổi do yếu về vốn và bị chèn ép về nguyên liệu và thị trường, Lê Viết Lới đã bị phá sản năm 1922.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Quảng cáo của hãng Lê Viết Lới trên báo Thanh Nghệ Tĩnh năm 1935

Tuy nhiên, trên thực tế có thể không hẳn như vậy. Bằng chứng là cho đến những năm 1930 Lê Viết Lới vẫn kinh doanh về gỗ. Một mẩu quảng cáo trên báo Thanh Nghệ Tĩnh năm 1935 viết "Hãng Lê Viết Lới, khai thác các lâm sản ở bắc bộ xứ Trung Kỳ. Chuyên bán các thứ gỗ cây, gỗ phiến, gỗ xẻ và gỗ làm mỏ. Tổng cục tại Bến Thủy (Vinh)". Rất có thể thời gian này, công ty của ông không chế biến các sản phẩm gỗ mỹ nghệ và dân dụng như trước, mà thu hẹp phạm vi, chỉ kinh doanh gỗ nguyên liệu như quảng cáo. Mặt khác, ông cũng chuyển một phần vốn khá lớn để mua ruộng đất, phát canh thu tô và mua nhà, xây nhà cho thuê. Không biết chính xác ông có bao nhiêu mẫu ruộng, nhưng chỉ riêng bốn nhà tư sản kiêm địa chủ lớn là Lê Viết Lới, Lê Cảnh Trứ, Trương Đắc Du và Trần Văn Tân đã có 550 mẫu ruộng ở Vinh và hơn 1000 mẫu khác ở Hưng Nguyên, Nghi Lộc. Theo một người bà con xa với Lê Viết Lới thì ông có tới gần 40 ngôi nhà, trong đó có nhiều nhà cho thuê ở Vinh- Bến Thủy.

Như vậy có thể nói sự chèn ép của ông lớn SIFA chỉ có thể gây khó khăn, nhưng không thể buộc Lê Viết Lới phá sản. Không những thế, từ những năm 1930, Lê Viết Lới còn tham gia tích cực các hoạt động xã hội và chứng tỏ ông có uy tín trong giới công thương thành phố.
Hội đồng Lới
Trong cuộc bầu cử dân biểu Viện Dân biểu Trung Kỳ năm 1933, Lê Viết Lới trúng cử đại biểu thương mại. Ông là một trong hai đại biểu thương mại của ba tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh, đồng thời là một trong sáu đại biểu thương mại của cả Trung Kỳ. Có lẽ biệt danh "Hội đồng Lới" của ông bắt đầu từ đây. Nhiệm kỳ sau đó (1937 – 1940), dù phải cạnh tranh với hai doanh nhân nổi tiếng khác ở khu vực Vinh - Bến Thủy là ông

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(Quản lý hãng đông nam dược Vĩnh Hưng Tường) và Vương Đình Châu (Chủ nhà in Vương Đình Châu), nhưng Lê Viết Lới vẫn tái đắc cử.
Với tư cách đại biểu thương mại của Viện Dân biểu Trung Kỳ, Lê Viết Lới đã có những hoạt động hết sức sôi nổi và trách nhiệm. Ông đã nhiều lần đăng đàn phát biểu, hoặc bày tỏ ý kiến trên báo chí về những vấn đề kinh tế và dân sinh.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tràng An báo (ở Huế) đưa tin về hoạt động của Lê Viết Lới ở Viện Dân Biểu Trung Kỳ

Ông đặc biệt quan tâm đấu tranh để xây dựng và thực thi chính sách thuế khóa hợp lý hơn. Năm 1933, ông đề nghị giảm thuế đinh, thuế điền cho nông dân. Trước câu hỏi nếu bỏ, hoặc giảm thuế đinh, thuế điền thì lấy gì bù đắp vào ngân sách, Lê Viết Lới đề nghị tăng thuế xăng dầu và hàng xa xỉ phẩm, vì các loại thuế này đánh vào nhà giàu. Ông nhiều lần lên tiếng đề nghị miễn, hoãn thu thuế cho dân ở các vùng bị thiên tai, bão lụt hoặc mất mùa. Ông cũng kiến nghị bỏ việc thu thuế lợi tức 2% đối với các doanh nghiệp, mặc dù sắc thuế này đặt ra đã lâu, nhưng chưa hợp lý. Là doanh nhân kinh doanh về gỗ, nên ông cũng kiến nghị về điều chỉnh thuế đối với mặt hàng gỗ. Ông lập luận so với năm 1930 giá gỗ năm 1935 giảm tới 40%, nhưng thuế vẫn giữ nguyên là không hợp lý. Ông kiến nghị bãi bỏ nghị định về lâm chánh hiện hành, mà quay về thực hiện như nghị định về lâm chánh năm 1924 là hợp lý hơn.
Riêng đối với Vinh - Bến Thủy, ông cho rằng việc thành lập thành phố Vinh - Bến Thủy năm 1927 đã làm tăng các sắc thuế ở đây, nhưng trên thực tế do khủng hoảng kinh tế, nên sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn, thu nhập và đời sống của người dân cũng rất thấp. Vì vậy ông kiến nghị giảm thuế: "Hiện thời dân cư Bến Thủy rất khó sinh nhai mà lại phải đóng thuế nặng nề do nghị định thiết lập thành phố Vinh - Bến Thủy năm 1927, 1928. Vậy xin chính phủ đổi lại thuế lệ về nghị định nói trên, hay là chiếu lệ hiện hành mà bớt xuống 30% cho hợp với cách sinh lý của nhơn dân ngày nay". Về chi tiêu ngân sách, ông cũng thẳng thắn chỉ ra những bất hợp lý. Có lần ông kiên quyết phản đối một khoản dự chi ngân sách để mua ô tô công cho cơ quan thú y, cho rằng như vậy là lãng phí, chưa cần thiết. Khoản chi này sau đó bị bãi bỏ. Ông cũng kiến nghị giảm giá điện 25%, vì đời sống khó khăn, hơn nữa giá than đá ở Đông Dương lại giảm mạnh.
Năm 1935, ông đăng đàn kiến nghị về cảng Bến Thủy, đề nghị mở cảng ở Cửa Hội (Hội Thống). Ông chỉ rõ thực trạng nếu như trước đây cảng Bến Thủy có tới 4.000 người làm việc thì nay chỉ còn trên dưới 1.000 người, mà vẫn không đủ việc làm. Nguyên nhân chủ yếu là do cảng không đáp ứng được, nhất là các tàu lớn. Ông đề nghị "Chính phủ nên trù liệu ngân sách để tài bồi nguồn lợi ở Bến Thủy, nhất là trù liệu dần dần mà mở cửa biển Hội Thống để làm hải cảng Bến Thủy, để mỗi khi tàu thủy hãng lớn ở Hải Phòng ghé vào Bến Thủy lấy hàng để đi Tourane và về nước Pháp, hay là ở nước Pháp sang Tourane rồi ghé vào Bến Thủy lấy hàng rồi đi Hải Phòng hay đi Hồng Công để cho tiện lợi, khỏi mất thì giờ và phí tổn bốc hàng ở Bến Thủy ra Hải Phòng như xưa nay người ta vẫn thường làm. Nếu hải cảng Bến Thủy mà thành thì nhân công ở đó sẽ có việc làm và thổ sản ở đó cũng sẽ bán ra được". Đề xuất này đã được nhiều vị dân biểu và báo chí hưởng ứng. Thế nhưng, vì nhiều lí do, dự án này đã không được đầu tư.
Như vậy, có thể thấy Lê Viết Lới với tư cách là đại biểu thương mại, ngoài đấu tranh để bảo vệ lợi ích của giới công thương một cách hợp lý, ông cũng đã quan tâm đến những vấn đề dân sinh liên quan đến đời sống của của dân chúng, nhất là người nghèo. Mặc dù trong chế độ bảo hộ ở Trung Kỳ lúc bấy giờ, bản thân Viện Dân biểu Trung Kỳ cũng không phải là một cơ quan có thực quyền, nhưng dù sao những tiếng nói mạnh mẽ, hợp lý, có trách nhiệm như của Lê Viết Lới cũng là rất đáng ghi nhận.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Mẩu tin về buổi diễn thuyết của Lê Viết Lới trên báo Thanh Nghệ Tĩnh tân văn

Tư tưởng canh tân
Lê Viết Lới cũng tỏ ra là người có tư tưởng canh tân. Ngay từ năm 1933, ông đã đề xuất chính quyền cần tạo điều kiện cho dân chúng được thuê mướn luật sư, thầy cãi trong các vụ kiện tụng với nhà nước, hoặc tranh chấp dân sự, hình sự. Ông cũng nhiều lần đăng đàn diễn thuyết về các vấn đề kinh tế, dân sinh ở rạp chiếu phim Majestic, hội AFANA…Đặc biệt, từ năm 1934, Lê Viết Lới đã có bài báo kiến nghị thành phố Vinh cần xây dựng hệ thống nhà vệ sinh công cộng. Ông cho biết ở thành phố Vinh từ năm 1914 trở về trước đã có một số nhà vệ sinh công cộng, nhưng đương thời thì không còn nữa.
Ông viết: "Vì rằng thành phố Vinh - Bến Thủy đã được vào thành phố phồn hoa hạng nhì của xứ Đông Dương và cũng là trung tâm địa của nước Đại Nam, thế mà có một điều cần nhất cho thành phố mà thành phố còn khuyết điểm, đó là vấn đề vệ sinh chung. Hiện thời nhiều người ta thán, mà các ông hội viên của thành phố họ cứ im tai, không đem vấn đề ra hội đồng bàn bạc, mà xin thành phố bớt chút ngân sách dựng lấy ít sở vệ sinh chung để cho những người qua đường tiện dụng. Tôi cũng biết các ông hội viên tại hội đồng thành phố đều ở nhà tầng, lầu cao, nào có phải nhỡ đường như kẻ khác mà biết tình khổ nhỡ đường. Nay tôi đem một việc ra đây để các nhân vật (Ai đã xưng là nhân vật) sẽ muốn ra ứng cử hội viên về khoá gần đây thì nên chú ý vấn đề này. Còn các công hội viên thành phố sẽ gần mãn hạn thì tôi chưa thấy các ông làm hết bổn phận ích lợi về vấn đề này. Bởi thế tôi chả muốn nói nữa về việc đã qua của các ông, sợ rườm tai độc giả.
Nếu có một người ở các phủ huyện vì công việc tới phố, nhưng khi lưu lại tại phố nhỡ có đại tiểu tiện thì họ lấy chỗ mô mà tiện giải? Họ đành tìm chỗ bên sông, lạch nước làm xằng, bị người lính cảnh sát vớ lấy phạt xu. Cũng có khi một người nhà quê đã thường tới phố đi chợ, chỉ mang trong mình một tấm thẻ sưu, lính cảnh sát đã phạt về tội không đúng vệ sinh, còn phạt thêm tội không giấy ngụ cư nữa.Tôi lại chả nói đến chàng nhà quê nữa. Nói ngay đến bọn dân nghèo của thành phố hiện thời, còn các ông phú ốc thì thân ngộ có lỡ thời thì đã có máy móc tiêu hóa, còn cả nhà tranh xụng xoạng thì đều đi xằng đi xí, bất đồ bộ mặt tinh anh của lính cảnh sát trông thấy, thì bữa gạo đó đi đời. Nếu lính cảnh sát biếng lười thì đường xá, ngõ hẹp đều phát uế lung tung.Ôi thành phố thì phải có vệ sinh. Sao thành phố không dựng cho ít chỗ công tiêu để đỡ gánh nặng bà con cay đắng. Vậy nếu thiết lập chắc phí tổn cũng chẳng là bao. Dám xin hội đồng thành phố nghĩ lại”.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Báo đưa tin diễn kịch gây quỹ từ thiện của Lê Viết Lới

Như nhiều doanh nhân thành đạt khi đó, Lê Viết Lới cũng là người tích cực hoạt động xã hội, từ thiện. Ngoài việc đóng góp tiền bạc cho các tổ chức và hoạt động xã hội, từ thiện, ông còn đứng ra tổ chức hoạt động quyên góp ủng hộ nạn dân ở các vùng thiên tai, bão lụt. Năm 1933, hai tỉnh Phú Yên và Bình Định bị bão lụt gây thiệt hại hết sức nặng nề, Lê Viết Lới đã chủ trì, bỏ toàn bộ tiền chi phí tổ chức hai tối diễn kịch (thứ bảy và chủ nhật, ngày 9 và 10 tháng 11 năm 1933) để quyên góp tiền ủng hộ nạn dân hai tỉnh này, đồng thời trích một phần để ủng hộ hội Dục Anh của thành phố nuôi trẻ mồ côi.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Giải quần vợt mang tên Lê Viết Lới

Những năm 1920, 1930 một số môn thể thao mới du nhập vào thành phố Vinh và được tầng lớp thanh niên hưởng ứng. Thời kỳ này các quan chức, dân biểu và doanh nhân cũng thường tài trợ cho các hoạt động thể thao bằng cách bỏ tiền tổ chức giải đấu, tặng cúp để cho các hội thể thao thi đấu, tranh cúp. Tổng đốc Nguyễn Khoa Kỳ tặng cúp để tranh giải bóng tròn (bóng đá) cúp “Nguyễn Khoa Kỳ”; Kỳ Sung Thúc, doanh nhân người Hoa đặt giải quần vợt mang tên “Kỳ Sung Thúc” luân lưu của ba tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh; dân biểu Trần Bá Vinh có cúp ping pong (bóng bàn) mang tên ông…Năm 1935, Lê Viết Lới đã tài trợ cho Hội “Hoan Thành thể dục” tổ chức một giải đấu quần vợt cho các câu lạc bộ quần vợt ở Vinh, Trường Thi và Quảng Trị. Giải quần vợt Lê Viết Lới còn được tiếp tục trong những năm sau.
Như vậy, có thể thấy, Lê Viết Lới là một doanh nhân có tài. Ông đã chèo lái các hoạt động kinh doanh của mình trong điều kiện bị chèn ép bởi “ông lớn” SIFA thân chính quyền, để không những không bị phá sản mà vẫn tồn tại ổn định trong hàng chục năm trời. Ông cũng là doanh nhân có trách nhiệm xã hội với nhiều hoạt động tích cực, có ý nghĩa. Đặc biệt, với tư cách là đại biểu thương mại trong Viện Dân biểu Trung Kỳ, Lê Viết Lới đã thể hiện là con người có viễn kiến. Ông đã đề xuất nhiều sáng kiến, kiến nghị nhiều vấn đề về kinh tế và dân sinh thiết thực đối với sản xuất, kinh doanh và đời sống của dân chúng. Qua báo chí đương thời có thể thấy Lê Viết Lới là một trong số ít doanh nhân đã có hoạt động xã hội sôi nổi, đồng thời là một dân biểu có chính kiến và đóng góp nhiều cho Viện Dân biểu Trung Kỳ trong hai nhiệm kì đắc cử.
Trong cải cách ruộng đất, Lê Viết Lới được coi là tư sản kiêm địa chủ, với số lượng ruộng đất khá lớn, lại cộng tác với chính quyền thực dân, phong kiến. Cuộc đời doanh nghiệp của ông đã kết thúc bi thảm bằng cái án tử hình.

Thanked by 2 Members:

#146 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 06/09/2020 - 19:30

MẸ TÔI

Gia đình tôi là gia đình di cư.Năm 1954, đồng 18 tuổi, Bố Mẹ tôi nắm tay nhau xuống tàu Há Mồm xuôi Nam... Vào đến Sài Gòn, Bố Mẹ tôi khởi nghiệp bằng cách hành nghề viết Sách làm Báo. Năm tôi còn học Tiểu Học, Mẹ tôi dùng tư gia để thành lập Cơ Sỡ Ấn Loát Huyền Trân. Căn nhà này được cái sâu và rộng nên tôi thấy có đến cả trăm nhân viên nhà in làm việc suốt ngày. Chỗ thì chứa các máy in, chỗ thì đễ những hộc chữ bằng chì, phòng này đặt máy sén, cắt giấy, phòng kia cho giai đoạn khâu sách bằng chỉ của các cô các dì..v...v....Trong giờ làm việc thì ôi thôi vui lắm. Tiếng máy in chạy rầm rầm xen lẩn tiếng nói, tiếng cười đùa, tiếng ca vọng cỗ... nó tạo nên một không khí rất sinh động.

Công nhân của nhà in thì rất quý Mẹ tôi qua cách cư xử và đối đãi với họ rất tận tình chu đáo như đại gia đình. Tôi nghe bà thường nói, ngày thứ 6 là ngày vui nhất của Mẹ trong tuần đó con, vì ngày đó là ngày phát lương cho thợ.Nghĩ đến cảnh họ có tiền chạy về nhà dẫn vợ con đi chơi cuối tuần là Mẹ thấy vui rồi.Cái chân lý ấy đã thấm nhuần tôi cho đến mấy chục năm về sau này, tốt với nhân viên thì họ sẽ đối xử với mình y như vậy thôi.

Có thể nói là Mẹ tôi rất thương tôi, chưa bao giờ Mẹ tôi la rầy gì hết cho mặc tôi có phá phách kiểu gì đi nữa,Mẹ tôi chỉ nhìn và khuyên tôi thôi đừng làm vậy nữa nhe con. Hồi xưa kỷ thuật in ấn còn thô sơ chứ không viết bằng computer rồi in ra như bây giờ. Bài viết được thợ sắp chữ nhìn vào rồi bốc từng chữ chì cho vào cái khay, ABCD - sắc huyền hỏi ngã nặng, sắp được vài hàng là họ phải bỏ qua một bên rồi sắp tiếp, một trang bài có là thợ giỏi cũng mất khoảng 1/2 tiếng, khi đầy trang rồi thì lấy dây cói cột lại, xong họ cà mực lên chì rồi lăn qua giấy trắng, chữ chì ngược khi in qua tờ giấy sẽ hiện ra chữ xuôi.

Dĩ nhiên là khi bốc từng chữ như vậy chắc chắn họ sẽ bốc lộn, Mẹ tôi sẽ coi lại những chỗ sai gọi là sửa Morát, bà lấy bút lôi ra sửa từng chữ rồi trả về cho thợ sắp chữ, họ chỉ việc lấy cái nhíp gắp từng chữ sai ra rồi thay vào đó bằng chữ khác cho đúng. Bản chì đã sửa đủ thành trang, họ chồng lên nhau đễ chờ đưa vào máy in.

Thế mà ban đêm bọn con nít chúng tôi kéo nhau vô chạy nhảy trong nhà in làm lộn tùng phèo hết đống chữ ấy, kéo theo những chồng giấy in khổ báo lớn chất cao tới trần nhà xập xuống đổ ngổn ngang. Thế là sáng hôm sau những người thợ phải làm lại từ đầu.Họ báo cáo lên thì Mẹ tôi cũng không nói gì, bà chỉ yên lặng khi nhìn ra thủ phạm chính là tôi, rồi hiền từ nói, các con muốn chạy nhảy thì ra sân mà chơi nhé, đừng làm công việc nhà in của Mẹ bị chậm trễ.

Có những buổi trưa khi Mẹ tôi còn làm quản lý cho nhà in Hồng Lam trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm của Linh Mục Cao Văn Luận. Cha Luận từng là Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, sau bị chính quyền nhà Ngô thất sủng qua vụ Biến Động Miền Trung,cha có viết một cuốn Hồi Ký lẩy lừng tựa "Bên Giòng Lịch Sử 1940-1965". Mẹ tôi cho tôi đi theo chơi quanh quẩn trong nhà in. Mổi lần được gặp mặt, cha Luận lại dúi cho tôi nay thì vài cái kẹo, dăm bửa thì cái bánh giò, nghĩ lại thật là hân hạnh cũng nhờ Mẹ tôi.

Rồi cũng có những lần, Mẹ tôi dắt tôi đi khám bệnh hay đi làm răng ngoài Sài Gòn, tôi rất ghét cái cha Nha Sĩ này ở gần VP Beer BGI cạnh hảng làm Nước Đá trên đường Hai Bà Trưng, khi xe xích lô ngừng trước cửa là tôi biết ngay, sợ lắm nhất định không dám vào, Mẹ tôi lại phải dụ ngọt mãi.Bù lại,cứ mỗi lần như thế là Mẹ tôi lại dắt tôi đi xem Ciné ở các Rạp như Eden, Đại Nam, Rex...., xong bà còn thưởng cho một chầu ở quán Kem Bạch Đằng đối diện Casino Sài Gòn vì tôi đã anh dũng hy sinh cái răng bị hư. Thiệt, răng bị sâu tôi còn không biết thế mà Mẹ tôi đã biết tỏng rồi...

Khoảng đầu thập niên 70' Mẹ tôi vừa làm nhà in, vừa mở thêm Vườn Trẻ Anh Vũ theo phương pháp giáo dục Montessori, bà mướn trọn cái nhà lầu 2 tầng kế bên có cái sân rất rộng,rồi đập luôn cái tường cho thông qua nhau. Ban ngày phụ huynh gửi trẻ, tối về hết thế là bọn chúng tôi lại có thêm đất đễ chạy nhảy bắn súng chơi 5-10.Hò hét vui thật là vui, lũ con nít trong xóm thòm thèm muốn vô chơi phải xin vào à nhe,nên tôi rất có thớ,đứa nào cà chớn tôi tống cổ ra nên tụi nó một phép. Ỷ Mẹ mà,có quyền vênh váo chút chứ.

Ngoài 2 Cơ Sỡ nêu trên, Mẹ tôi còn phụ trách trang Nhi Đồng trong Báo Hòa Bình của Linh Mục Trần Du trên đường Phạm Ngũ Lão, trang Phụ Nữ trong Báo Dân Chủ thuộc Đảng Dân Chủ của ông Thiệu trên đường Hiền Vương.Đồng thời vào năm 1971, Báo Thiếu Nhi cũng ra đời, bà là Tổng Quản Trị và đồng phụ trách trang Vườn Hồng mà chủ nhiệm là ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhân nhà sách Khai Trí và chủ bút là nhà văn Nhật Tiến. Thời gian này nhà tôi còn đông hơn nữa, khách khứa ra vào nườm nượp, Mẹ tôi tận dụng luôn mấy phòng trên đễ làm Tòa Soạn. Hàng ngày thì các cô chú trong Ban Biên Tập tới làm việc, cuối tuần thì mở cửa đón các thiếu niên vào Thư Viện Báo Thiếu Nhi đọc sách,sinh hoạt Gia Đình Thiếu Nhi. Báo Thiếu Nhi còn mở lớp dạy ORIGAMI - Nghệ Thuật Gấp Giấy của Nhật Bản nữa chứ. Nói chung Mẹ tôi đầu tắt mặt tối, nhưng hình như càng thấy đông con nít lại càng làm cho bà vui, chẳng bao giờ thấy Mẹ tôi kêu ca phiền hà gì.

Năm tôi lên lớp 6, chắc phá quá nên Mẹ tôi cho tôi vào trường nội trú Don Bosco ở Thủ Đức.Cuối tuần thứ 7 có xe Bus chỡ về, ngày chủ nhật họ lại đón đi. Dĩ nhiên là bị bắt vào khuôn khổ kỷ luật của các Linh Mục người Hòa Lan thì làm sao tôi thích được. Thế là tôi dùng 500$ mà cứ mổi tuần Mẹ tôi dúi vào tay khi ra đi ngày chủ nhật, tôi mua kẹo Cam kẹo Dâu trong cái hộp sắt ở Căn Tin rồi chờ thứ 7 đem về tặng Mẹ như là quà hối lộ. Năn nỉ ỉ ôi riết qua năm lớp 7 vì thương tôi nên Mẹ tôi cho tôi về học Lasan Hiền Vương-Sài Gòn.

Vì trong giới Nhà Văn Nhà Báo, Bố Mẹ tôi có rất đông thân hữu.Từ nhà văn Duyên Anh, Mai Thảo, Nguyễn Hiến Lê, Cung Tích Biền, Sơn Nam..v...v... cho tới Nguyễn Thị Vinh, Minh Đức Hoài Trinh, Minh Quân,Tuệ Mai....Riêng nhà văn Nguyễn Thị Vinh còn nhận tôi là con nuôi, mà tôi xưng lại là Me Vinh (Nhà Văn Nguyễn Thị Vinh cũng đã mãn phần vào tháng 1/2020 tại Oslo,Na Uy, hưởng dương 97 tuổi).Hầu như gần hết các Văn Nghệ Sĩ ở Sài Gòn thường xuyên lui tới thăm viếng ông bà cụ và nhiệm vụ của tôi là bưng nước. Còn đãi tiệc thì có thể nói là thường xuyên. Cứ mổi lần đi học về xuống nhà bếp là thấy Mẹ tôi và 3 bà người làm tất bật lo chuẩn bị, thường thì Mẹ tôi đãi khách bằng các món Miền Bắc như Bánh Tôm Cổ Ngư, Chạo Tôm, Nem Rán Cua Bễ, Giả Cầy hay Bún Thang, Bún Ốc..v..v...Thế là tôi lại có dịp được uống nước Xá Xị,nước Cam thả giàn.Chai ướp lạnh khui ra cứ vậy mà nốc.

Ngày 30/4/75 đại họa ụp xuống thế là Mẹ tôi bi mất hết. Nhà in dẹp tiệm, Vườn Trẻ giải tán, toàn bộ Báo Chí của Miền Nam Tự Do bị cấm đoán, chỉ có Nhật Báo Tin Sáng của Dân Biểu đối lập Ngô Công Đức là được tái bản vào tháng 7/1975 vì Võ Văn Kiệt đang cần một tờ báo của chế cũ đễ tuyên truyền. Đã thế vào tháng 9/1975, Ủy Ban Quân Quản còn ra lệnh đổi tiền, cứ 500$ tiền VNCH đổi được 1$ tiền mới. Mổi gia đình được phép đổi 100,000$ VNCH tức là chỉ được 200$ tiền Việt Cộng. Gia đình nào có trên 100,000$ VNCH thì kể như mất sạch. Cú này là đòn chí tử đánh vào những gia đình trung lưu ở Miền Nam.Mẹ tôi kể như trắng tay sau 20 năm tích lũy.

Miền Nam sau ngày Sài Gòn tắt bóng, người dân sống trong cảnh lo âu sợ hãi. Không biết đêm nào Công An sẽ gõ sữa bắt đi vì lý do nào đó. Tuy vậy, ở một khóa học tập gọi là "Khóa Bồi dưỡng Chính Trị dành cho Văn Nghệ Sĩ", Mẹ tôi đã đứng lên chỉ mặt vào một Cán Bộ Miền Bắc tên Mai Quốc Liên, khi ông ta dám tuyên bố rằng "Các anh các chị làm đừng trông mong vào việc cầm bút trở lại. Bởi vì miền Nam các anh các chị làm gì có văn hóa!" Mẹ tôi hỏi:Anh vào trong Nam được bao lâu rồi, và anh đã đọc được bao nhiêu tác phẩm của miền Nam rồi mà anh dám nói miền Nam không có văn hóa? Làm hắn cứng họng.

Là con người đầy nghị lực, Mẹ tôi lại lăn ra đường kiếm sống cũng như hàng triệu người Miền Nam khác, bằng cách mở Quán bán Bánh Tôm Cỗ Ngư tại Hồ Con Rùa trước cửa Viện Đại Học Sài Gòn (tôi có bài viết kỷ niệm về Quán Bánh Tôm này), Một thời gian sau cũng không xong phải dẹp tiệm vì bị Công An rình rập, về nhà bà đi vay mượn rồi lại mở Cơ Sở Sản Xuất Nước Đá cây, hàng ngày bà giao cho tôi đi bỏ mối. Thấy có vẻ xôm trò, thế là Ủy Ban Nhân Dân Phường bắt phải đưa vào Hợp Tác Xã, tức mình Mẹ tôi dẹp luôn, nhất định không dây dưa gì đến chúng nó.

Trong thời gian này, một hôm tôi thấy có Ký Giả - Phóng Viên Chiến Trường Kiều Mỹ Duyên tới nhà sầm sì gì với Mẹ tôi chuyện gì đó. Vài ngày sau thì tôi thấy có một người đàn ông lạ mặt tới ở tuốt đàng sau nhà, căn phòng này xưa là cái kho nhỏ cạnh nhà tắm. Ông ta không bao giờ ra đường, tôi cũng không rõ ông ta ăn uống thế nào. Rồi mãi sau này tôi mới biết ông ta tên Nguyễn Phúc Vĩnh Tung, là sỹ quan QLVNCH, chồng cô Kiều Mỹ Duyên trốn tù cải tạo về TP. Thế mà Mẹ tôi ra tay giúp đỡ bao che cho. Thiệt, chúng mà bắt được thì Mẹ tôi có môn rũ tù, nhưng bà vẫn tĩnh bơ làm như không có chuyện gì xảy ra. Ông Vĩnh Tung sau cũng tìm ra đường đi vượt biên và đã đến được bến bờ tự do vào năm 1979.

Thời gian sau Mẹ tôi nhờ quen biết nên được ông Lý Thái Thuận một người Việt gốc Hoa, Giám Đốc nhà in Alpha mời về làm xếp khâu sửa Morát có biên chế nhà nước. Mừng quá bà nhận lời ngay. Thế là ngày qua ngày Mẹ tôi lại đạp xe đạp từ Cỗng Xe Lữa Số 6 đi làm Công Nhân Viên ở đường Phạm Ngũ Lão gần chợ Thái Bình.Có lần mãi đến tối mịt mới thấy Mẹ tôi về, mồ hôi nhễ nhãi, trời ơi Mẹ tôi phải dắt xe đạp bị đứt Dây Sên từ đường Kỳ Đồng về tới nhà vì không đủ tiền sửa.Dây Sên phải thay mới. Nhưng bà vẩn hớn hở, vì trong giỏ hôm đó là ngày Mẹ tôi được mua Nhu Yếu Phẩm có 1 ký thịt heo. Nhìn Mẹ mà tôi chảy nước mắt nhưng không làm gì được cho Mẹ.

Nhưng cũng nhờ sự quen biết này mà Mẹ tôi mới vay được tiền ông Lý Thái Thuận đễ lo cho 2 anh em tôi đi vượt biên. Ngày chia tay xuống bãi vào cuối Hè năm 1979, Mẹ tôi dúi vào tay tôi một chỉ vàng rồi ôm tôi khóc, Mẹ không biết con sẽ đi về đâu, nhưng nếu có thoát được ráng cho Mẹ biết đễ Mẹ khỏi lo, tôi biết chắc rằng Mẹ tôi sẽ không ngủ được. May sao, rời Ngọc Hà ghe của tôi lênh đênh trên Biển Đông khoảng 1 tuần thì được tàu của Hoàng Gia Na Uy vớt lên đem vào Singapore. Nhập trại xong là tôi mò ra Sembawang đánh điện cấp tốc ngay về cho Mẹ chỉ với 1 hàng chữ "Cam on co chu Thuan", cho khỏi lộ chuyện gia đình có thân nhân đã đào tẩu ra nước ngoài với bọn Công An khu vực.

Lại nữa, không có Mẹ tôi lo cho đi thì ở lại cũng đi đạp Xích Lô chứ khá gì nổi ở cái xứ Xếp Hàng Cả Ngày ấy.

Mẹ tôi chia ra cho cả gia đình đi vượt biên thành 3 chuyến. May sao cả 3 đều trót lọt và cùng gặp nhau tại California. Năm 1981 qua tới, bà lại làm lại từ đầu. Bố mẹ tôi chỡ nhau đi học điện cho thực tế, hồi xưa có trường Control Data Institute ở Anaheim, không biết bây giờ còn không.Sau đó cả 2 ông bà đều ra trường với tấm bằng Technician điện. Sau Hảng Verifone chuyên sản xuất máy cà credit card, nhận cả 2 vào làm Electronic Technician cho tới ngày Bố Mẹ tôi nghĩ hưu, tính ra Mẹ tôi làm cho Verifone cũng được 20 năm.

Sau khi nghĩ hưu có thời giờ rãnh rỗi, Mẹ tôi bắt đầu dồn nỗ lực vào việc nghiên cứu kinh kệ. Bà phụ trách và biên soạn cho chương trình về Phật Pháp Tuệ Đăng hàng tuần trên đài Hồn Việt TV phát đi khắp 50 TB và Canada.Ngoài ra Mẹ tôi còn dịch sách của Triết Gia Krishnamurti sang Việt Ngữ, cũng như phụ trách điều hành trang website khaiphong chấm net cho dân mạng mở mang kiến thức về các vần đề Khoa Học Xã Hội.

Nói thật, Mẹ tôi sinh tôi ra, lo lắng cho tôi từng li từng tí, cái gì tôi thích bà cũng chiều. Muốn đi chơi, Mẹ cho tiền. Muốn xe đạp có xe đạp, muốn giầy mới, đồ mới, mẹ tôi trước sau gì cũng xì tiền cho tôi mua. Chẳng bao giờ thấy Mẹ lôi la mắng gì cả. Ngay đến cái Sổ Học Bạ hồi xưa, tháng nào mà tôi bị xuống hạng.Tôi cũng cầu cứu Mẹ tôi đưa Bố tôi ký cho xong chuyện còn đem đi nộp..

Ngày Mẹ tôi nghĩ hưu, bà có tiền hưu, tiền già, chẳng khi nào bà cần gì từ anh chị em chúng tôi . Nói đúng ra thì tôi chưa lo cho Mẹ tôi được ngày nào, thứ vô cùng vô dụng đối với Mẹ tôi. Nhưng đôi khi tôi cũng có chút an ủi làm cho Mẹ tôi vui,số là thế này. Cách đây 10 năm sau khi giá Địa Ốc bị sụp đổ. Tôi xoay qua nghề nhập các loại máy về Massage vô Mỹ bán,máy thì ôi thôi tôi có đủ. Massage bụng, cổ, vai, lưng, tay,chân,đầu,mặt.. nói chung là các loại các kiểu đủ hết. Mà Mẹ tôi sau này lại hay bị đau nhức vì hồi xưa trước 1975, có lần bà bị Xe Lửa đụng. Đúng vậy, Xe Lửa đụng nát chiếc xe hơi bà đang đi tại Cổng Xe Lửa Số 6 đâm ra Bệnh đau nhức nó cứ theo bà từ dạo đó. Thế là tôi mang đủ loại Massage qua cho Mẹ tôi trị bệnh, mang nhiều đến nỗi bạn bè của Mẹ tôi đến chơi họ còn nói dỡn, cứ tưởng như đang lạc vào GYM. Nhờ vậy mà bệnh đau nhức của Mẹ tôi cũng bớt nhiều, lại còn không phải mổ chân theo lời súi bậy của một ông BS kia.

Có cái đưa máy mới thì lúc nào Mẹ tôi cũng áy náy vì sợ tôi cần hàng đễ bán cho khách. Tôi phải năn nĩ, Mẹ ơi, máy con có cả kho Mẹ cứ sài đồ mới đi... mãi bà mới chịu nhận. Đấy, đến cuối đời Mẹ tôi vẫn lo cho tôi chẳng khác gì ngày tôi còn bé.

Mẹ tôi là người ăn chay trường từ 30 năm nay. Bà sống rất đạm bạc, vui vẽ, lạc quan, yêu đời. Cách đây vài tuần, BS phát giác ra Mẹ tôi trở bạo bệnh vào thời kỳ cuối. Không than van, không rên siết, không làm phiền tới ai. Mẹ tôi đã ra đi thanh thản vào trưa ngày hôm qua Aug 26th,2020 với đầy đủ con cháu chung quanh.

Mẹ ơi, tối hôm qua lúc xe Nhà Quàn tới đưa Mẹ đi, tụi con tiển Mẹ cho tới giờ xe lăn bánh.Kỷ niệm của những năm tháng thời thơ ấu lại trở về đầy ắp trong tâm trí.Bao nhiêu âu yếm ân cần mà Mẹ cho tụi con nay đã trỡ thành dĩ vảng.Ước gì Mẹ ráng ở lại thêm được ngày nào hay ngày đó thì vui biết mấy, hay là Mẹ quay luôn về sống lại những ngày xưa ấu thơ của tụi con thì càng tốt.Con sẽ chạy quanh Mẹ đễ Mẹ xoa đầu gọi "Trụ của Mẹ", Mẹ phải đền cho con khi con bị té, Mẹ phải đền từng mủi chích, từng cái răng khi con bị nhỗ, nhất là phải có Mẹ con mới lên mặt được với chúng nó.

Nhưng ước gì thì ước vậy thôi chứ Mẹ đã ra đi thật rồi thì con xin kính chúc Mẹ được thảnh thơi trên cõi Vĩnh Hằng.Đời Mẹ đã hy sinh cho tụi con như thế là quá đủ, Mẹ đừng bận tâm nữa Mẹ nhé.

Con của Mẹ.

Michael Trụ Bùi
Aug 27th,2020

Thanked by 1 Member:

#147 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 06/09/2020 - 19:44

"Tiếng hát quay tơ", nhạc Tử Phác, tiếng hát Mai Hương.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn








Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn









Tử Phác
MỘT SỐ PHẬN BI THẢM
Nhạc sĩ Tử Phác là một trong những số phận bi thảm nhất trong các nhân vật chủ chốt của Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
Cần phải giải thích thêm là tại sao tôi dùng chữ Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bởi vì ngay gần đây vẫn có người muốn phân biệt rạch ròi là ông này, ông kia chỉ viết ở báo này, báo nọ không dính dáng gì đến báo Nhân Văn hoặc tạp chí Giai Phẩm cả. Đúng là như thế, có những người như thế, như ông Phan Ngọc vừa mới mất chẳng hạn. Tất nhiên ở thời kỳ đó cách dùng thuật ngữ chưa được chuẩn lắm nhưng căn cứ vào tầm vóc của sự kiện, ảnh hưởng sâu rộng toàn xã hội của nó, biện pháp đối phó xử lý các đối tượng của chính quyền, Nhân Văn Giai Phẩm không phải chỉ là một nhóm mà là cả một trào lưu dân chủ rộng lớn ở miền Bắc được sự hưởng ứng trong khắp các tầng lớp nhân dân, trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, giáo viên, sinh viên. Chưa có sự hình thành tổ chức cụ thể nhưng Nhân Văn và Giai Phẩm là trung tâm, là nơi phát đi những làn sóng xung động mạnh mẽ. Thế mới biết rằng trong buổi đầu của xã hội toàn trị chính quyền luôn luôn lo ngại ảnh hưởng của văn học nghệ thuật là vì thế.
Còn với nhạc sỹ Tử Phác, tại sao gọi ông là một trong những số phận bi thảm nhất của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Trong số các nhân vật chủ chốt của phong trào này có nhiều người rơi vào bi thảm, nhưng chỉ có một số ít là bi thảm nhất. Ngoài mức án, mức độ cắt bỏ chế độ chính sách, Tử Phác còn là người chết vì ung thư năm 1982, cho đến nay chưa được một chút gì của chính sách đổi mới, phục hồi như cho các chiến hữu bạn ông.
Tử Phác tức Nguyễn Anh Chấn tên thật là Nguyễn Văn Kim trong một gia đình quan lại, giàu có, là nhạc sĩ, sinh năm 1923, nhà ở phố Hàng Giấy, khu chợ Đồng Xuân, Hà Nội. Thời niên thiếu, ông thường viết nhạc cùng nhạc sĩ Lương Ngọc Châu (cháu của Lương Văn Can trong Đông Kinh Nghĩa Thục). Mẹ ông là Trương Tần Phác, hậu duệ của anh hùng Trương Định. Bút danh Tử Phác có nghĩa là con của bà Phác.
Vợ Tử Phác là bà Lương Thị Nghĩa. Bà Nghĩa cũng là dân phố cổ như ông là em của nhạc sĩ Lương Ngọc Châu. Ông ở Hàng Bạc, còn bà ở Hàng Ngang. Bà học piano từ nhỏ. Kháng chiến, bà tản cư về Thái Bình giảng dạy âm nhạc và tham gia công tác phụ nữ. Bà lên Việt Bắc năm 1950, công tác tại ngành điện ảnh. Ở Việt Bắc, họ đã gặp nhau và thành hôn với nhau.
Năm 1945, đang học dở cử nhân luật ông tham gia kháng chiến chống Pháp. Tử Phác được kết nạp vào Đảng c.... s.. và phụ trách tờ báo Thủ đô của khu II.
Năm 1949, được vào Ban Chấp hành Chi hội Văn nghệ Liên khu III
Năm 1950, Tử Phác giữ chức Trưởng phòng Văn Nghệ thuộc Tổng cục Chính trị
Năm 1952, ông làm Tổng Phụ trách Văn Công Quân đội
Trong thời gian này Tử Phác viết ca khúc nổi tiếng Tiếng hát quay tơ 1948.
Nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha viết:
Riêng với “Tiếng hát quay tơ” của ông, nghệ sĩ Kim Ngọc đã thể hiện hết sức tuyệt vời. Những ngày đầu đổi mới, bà Kim Ngọc hát lại “Tiếng hát quay tơ” vẫn hay và nhuyễn như xưa. Bài hát cần rất nhiều sắc thái khác nhau và bà đã thấm nhuần điều đó khi thể hiện. Đoạn thể hiện chiến sĩ ngoài mặt trận cần mạnh mẽ, bà đã hát rất cuốn hút và bốc lửa: “Người chiến sĩ ầm gió rít sương rơi/ Đẫm mình trong khói súng/ Chiến trường áo mong manh/ Căm thù nuôi ấm thân/ Quyết lấy máu pha tô sắc cờ…”.
Đoạn nối tiếp là tâm sự của người vợ ở hậu phương thì lại được thể hiện rất dịu dàng, mượt mà trong bâng khuâng thương nhớ: “Chàng ra đi giữ miếng vườn này giữ mái tranh này/ Em về xa vắng thầm lo cho cánh chim bay/ Chiều nghe rơi tiếng lá xạc xào em ngỡ/ Ngỡ bóng dáng ai về…”.
Và thương nhớ đã quyến vào nhịp xa quay điệp khúc: “Quay quay thương nhớ luyến vào tơ/ Quay quay may áo rét dâng chàng/ Rộn ràng tơ lướt tới người chiến sĩ yêu/ Quay quay thương nhớ luyến vào tơ/ Quay quay may áo rét dâng chàng/ Mỗi một đường tơ là mỗi dây tình trong lòng/ Em dâng người hiên ngang…”.
Tử Phác còn là người quyết định hiện đại hóa nhạc múa sạp cho điệu múa dân gian của các dân tộc Tây Bắc. Nhạc sĩ Mai Sao kể:
...Ngày ấy, sau chiến dịch Hòa Bình, văn công quân đội “lượm” được một món đặc biệt Tây Bắc. Đó là điệu nhảy “sạp”. Điệu nhảy thật đơn giản. Hai cây tre thon, dài chừng bốn mét gọi là “sạp”. Một chị ở một đầu, một anh ở đầu bên kia, ngồi gõ “sạp” theo nhịp trống. Một đôi nam nữ nhảy ra. Hai cây tre mở ra khép lại. Diễn viên trong sạp hoặc ngoài sạp cứ vỗ tay đều đều theo nhịp gõ. Cũng có nhạc đệm. Có lúc na ná cò lả. Có lúc na ná trống quân. Tại bãi lửa trại cùng thưởng thức nhảy “sạp” đêm đó, có nhạc sĩ Tử Phác và nhà thơ Hoàng Cầm - Trưởng đoàn văn công Quân khu Việt Bắc cùng nhạc sĩ Mai Sao - người chủ trương dùng mấy điệu nhạc trên cho “sạp”. Sau đêm diễn, khi ngồi trao đổi. Hoàng Cầm nói với Tử Phác rằng múa thì độc đáo, nhưng phần nhạc không ổn. Nhạc như thế thì khác nào bắt các cô gái Thái đội nón thúng quai thao. Phải có đúng âm nhạc của “sạp”.

Tử Phác cũng cho rằng phải có một nhạc múa “sạp” đúng là nhạc của miền Tây Bắc. Và thế là Tử Phác yêu cầu Mai Sao phải tìm hiểu để viết ra một nhạc múa phù hợp. Tiếp thu chỉ thị của “thủ trưởng” Tử Phác, Mai Sao trở lại Tây Bắc. Ở đó, anh cùng Bàng Thúc Hiệp đã đi nghe nhiều điệu “khắp” (hát) dân ca Thái và sau nhiều tháng, Mai Sao đã viết ra điệu nhạc múa “sòn sòn sòn đô sòn - sòn sòn sòn đô rê...” theo ngũ cung “rề - mi - son - la - đố” về trình làng tại Tổng cục Chính trị vào mùa hè 1952.

Ngay lập tức, điệu nhạc múa “sạp” này được O.T.K nhiệt liệt. Nó đã được phối khí một cách nhuần nhụy, tinh vi với các nhạc cụ dân tộc: Trống cái, trống cơm, khèn, sáo mèo, nhị, đàn tranh, đàn bầu cùng với các nhạc cụ Tây phương như accordeon, guitare, violon, clarinet... Điệu nhạc được dùng cho điệu múa đã được nhạc trưởng Lê Đóa phối hợp cùng đạo diễn múa Ngọc Minh đưa lên thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo.
Tử Phác là một trong những người đi tiên phong trong phong trào NVGP. Tháng 4 năm 1955 ông cùng sáu bạn chiến đấu khác trong quân đội là Đỗ Nhuận, Trần Dần, Hoàng Cầm, Trần Công, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh đệ trình Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hóa lên Tổng cục chính trị yêu cầu tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, bãi bỏ hệ thống chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội, sửa đổi chính sách văn nghệ trong quân đội.
Sau phát pháo mở màn đầu tiên các ông bị kỷ luật và chuyển ra khỏi quân đội.
Từ năm 1957–1958, Tử Phác là Thư ký tòa Soạn của tạp chí Âm nhạc thuộc Hội Nhạc sĩ Việt Nam.
Năm năm 1959–1960, sau khi vụ Nhân văn Giai phẩm xảy ra, cùng với nhà thơ Lê Đạt ông bị đưa đi cải tạo tại Nông trường Chí Linh Hải Dương.
Tử Phác cùng Đặng Đình Hưng bị khai trừ khỏi Hội Nhạc sĩ Việt Nam thời hạn 3 năm. Kèm theo cái án này cũng là quyết định cấm lưu hành tác phẩm ( treo bút ) trong thời hạn đó. Cũng như những nhà văn bên Hội Nhà Văn, cái án của Tử Phác kéo dài cho tới khi ông chết, không ai trong giới lãnh đạo văn nghệ nghĩ đến việc cởi trói cho họ.
Sau khi cải tạo về Tử Phác không tìm được một việc làm nào. Không được bất cứ cơ quan văn hóa nào nhận ông. Không có sinh kế, vợ con nheo nhóc, sống vất vưởng nhờ tiền trợ giúp của gia đình nội ngoại ở Pháp, đồ đạc trong nhà bán dần dần đến cả chiếc dương cầm, cái hương án...
Túng quẫn Tử Phác đã phải cho vợ và các con vượt biên, chỉ giữ lại người con trai cả đã lập gia đình.
Bế cháu trong lòng đã có lúc ông viết những câu thơ buồn bã thế này :
Chiếc mặt nạ treo cao rạp hát
Nửa cười nửa khóc tấn trò đời
Cũng giống mặt tôi nửa người nửa ngợm
Tôi quay đi khỏi tủi mắt cháu tôi
Thẹn thùng ý tứ với nhà thơ
Tầm Dương canh khuya người kỹ nữ
“Tay ôm đàn che nửa mặt hoa”
Tôi giữ cháu tôi trên đùi tôi nhún nhẩy
Quay đầu đi dấu nửa mặt mo

Ở một bài khác ông viết:
Tôi biết đi đâu biết về đâu
Ðất lửa khi nao là đất thánh
Cát bụi bơ vơ giữa địa cầu
Nay bạn mai thù không hiểu nổi
Chuyện đời nhân nghĩa lộn đầu đuôi
Tôi muốn hỏi trên đường vạn nẻo
Ðâu đất lành dung lũ chúng tôi
Nỗi lo sợ khi “ném vợ con vào chỗ chết để đi tìm đường sống” Tử Phác đã ghi lại trong một bài:

Xưa tiễn Kinh Kha có sá gì
Sá gì tiếng sáo Cao Tiệm Ly
Sầu thế kỷ muôn lần hơn chuyện cổ
Tìm em nơi nao trên biển đông
Thuyền con như lá rớt giữa dòng
Lòng biển tối đen lòng đời hiểm độc
Em lênh đênh theo định mệnh hãi hùng
.....
Ðất đuổi tôi ra biển
Biển quẳng tôi về đâu
Chỉ nghe trong sóng gió
Thảm thiết thiết hải âu
.....
Không biết trên thế giới có bao nhiêu dân tộc người ta đã phải làm cái việc cố gắng lìa nhau để sống, vui mừng vì có người đi thoát khỏi đất nước, dù chẳng còn mong có ngày gặp lại.
Năm 1982, Tử Phác mất trong cảnh cô đơn, nghèo đói, đau đớn vì bệnh ung thư vòm họng. Đám ma ông buồn bã, lặng lẽ. Theo sau quan tài có mấy người bạn NVGP.
Nhà thơ thơ Trần Dần tế ông:
Ngày xửa, ngày xưa... có một chàng trai...
trong ầm ầm... gió rét... mưa bay...
động tâm vì những người chiến trường áo mong manh...
liều lấy cả tuổi xanh mình... tim thật mình...
quay tơ... may áo...
ai ai đều nhớ...
mỗi một đường tơ là mỗi dây tình...
dâng người hiên ngang
Thế là khúc tâm ca thành áo ấm trữ tình
Cho hơn môt thế hệ những người áo mong
manh chiến trường
Nghe âm vang lên tiếng chiến chinh
Mơ làm diều mang sáo thanh bình
Nghe vườn cây xao xác gió may
Mơ làm chiếc lá úa rơi đầy

Rất tiếc nhạc sĩ Tử Phác từ giã cõi đời quá sớm khi ông vừa đầy 60 tuổi vào lúc cuộc sống miền Bắc cực kỳ khó khăn và cũng chưa thấy một chút hy vọng nào về sự cởi mở đối với văn nghệ nói chung và với Nhân Văn Giai Phẩm nói riêng.
Ngày hôm nay thế hệ con cháu chúng ta, các bạn trẻ có lẽ rất ít ai biết đến cái tên Tử Phác. Nhưng trong tâm trí của cha anh họ cái giai điệu tài hoa đậm chất Hà Nội của Tiếng hát quay tơ vẫ còn lưu luyến trong ký ức.
Trong tiến trình dân chủ hóa của đất nước tên tuổi của nhạc sĩ tử Phác không phai mờ cùng Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

Tháng 9- 2020

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 3 Members:

#148 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 10/09/2020 - 19:26

Bà Công chúa Thái...

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn









Tôi gặp bà công chúa Thái trong một dịp thật tình cờ. Lần đó dẫn anh chị từ xa đến, sang thăm Paris, bà chị dâu muốn đến thăm ông bác họ chính chị chưa bao giờ biết mặt. Ông bác ấy là người chồng của bà công chúa Thái.

Cuối tháng 9 năm đó, tôi có dịp trở lại Paris sau nhiều năm xa cách. Trời chớm thu Paris đẹp não nùng, ‘xóm Học’ – Quartier Latin - căng tràn nhựa sống. Được báo trước qua điện thoại, ông bác chống ba-toong ra đón chúng tôi ở ga Metro, một vùng ngoại ô xa, rồi đi bộ về nhà trong một khu chung cư bình thường. Căn hộ bé thôi, nhà bếp vừa đủ kê một bàn ăn mặt tròn, chung quanh là nồi niêu xoong chảo, chai lọ... Trên tường nhà bếp treo nhiều hình chụp trắng đen, đa số của một thiếu nữ rất trẻ, chụp ở một nơi và một thời nào xa tắp.

‘Cô cũng sắp về đến nơi’, người bác nói. Tôi không rõ ông cụ đã lưu vong xứ này từ bao giờ, chỉ biết ông từng làm việc lâu năm ở các viện Pasteur khắp vùng Đông Dương. Tôi đứng lên để nhìn những bức hình chụp cho rõ hơn. Ngoài một bức chân dung hai ông bà, cũng đen trắng, hầu hết là hình một cô gái khoảng 15,16 tuổi. Một bức tôi chú ý đặc biệt hình cô gái ấy ngồi trên chiếc thuyền buồm bé tí hon. Nụ cười của người trong tranh rất tự nhiên khiến tôi rúng động cả người. ‘Hồ Tây đây!’, tôi tự bảo trong lòng.

Cửa nhà mở, người phụ nữ bước vào, tay xách một chiếc túi di lịch bé. Dáng người bà cao lớn như Thái Thanh, mái tóc được bới lên thành một bó lớn hơn nắm tay. Bà cười tươi, nói lớn chào mọi người. Nhác trông bà chỉ chừng 40, nhưng tuổi thật có lẽ phải trên dưới 60, vẫn còn trẻ hơn ông chồng gần 20 tuổi. Hầu như bà không trang điểm, da thật trắng, với một nốt ruồi trên má trái. ‘Bà công chúa Thái’, tôi tự nhủ, vì đã được ông bác giới thiệu trước rồi.

Ngồi xuống với mọi người, bà vẫn tiếp tục nói chuyện không ngừng. Bà mới “đi thăm dân của cô ở dưới miền Nam, họ ở đấy đông lắm, sống thành làng. Bà giải thích thêm, ‘từ ngày Quan Châu mất, cô phải đến thăm dân của cô đều đặn, tháng ít nhất một lần’. Như vậy, bà cũng lãnh “trách nhiệm với dân” đã gần 15 năm rồi, tôi tính nhẩm trong bụng... Đột nhiên bà Công chúa nhìn sang ông chồng và nói, ‘Cô đã có lời thề, ngày nào nước nhà chưa độc lập, cô sẽ không lấy chồng. Nhưng ông ấy nhất định theo đuổi, cuối cùng cô phải chịu, nhưng chỉ sống chung mà không chăn gối...’. Tôi thực sự sửng sốt, nhìn qua ông bác, thấy như một nét đau đớn thoáng hiện trên nét mặt rồi biến mất...

Nhưng rồi bà Công chúa lại trở lại với đề tài nước non. Bà kể về những ngày ấy, ‘Lúc ấy, bốn nhăm bốn sáu, cô còn nhỏ lắm, đang đi học ở Hà Nội thì loạn lạc đến, cô đi theo “anh Cả” để chiến đấu... Mới đầu là ở Hà Nội, nhưng về sau bọn họ thắng thế, cô phải chạy về miền quê, giả làm gái quê đi buôn thịt trâu. Thế nhưng bọn họ nhất định gặp cô ở đâu là phải giết cho kỳ được. Họ gọi cô là “con Tàu con” vì cô lúc nào cũng thắt bím... Có vài lần cô phải trốn dưới hố xí nguyên đêm...’.

Thế rồi, năm 54, đất nước tạm hòa bình trở lại tuy bị chia đôi, bà Công chúa cùng hàng ngàn người dân Thái xuống tàu lưu vong sang Pháp. Thân gái dặm trường bình thường đã đáng thương, huống hồ là một công chúa, chân yếu tay mềm, nhưng tấm lòng sắt son với dân khiến bà không hề cảm thấy khổ. Tôi có thể thấy rất rõ điều đó. Sau 1975, tôi cũng đã thấy muốn phát điên, nhưng rồi khi gặp và sống với những người Việt bỏ tất cả ra đi, thì tự nhiên nỗi khổ riêng tư bỗng biến mất. Đúng hơn, nỗi đau của cá nhân đã hòa tan vào nối buồn của cả dân tộc...

TB. Khi nói đến “dân”, bà Công chúa Thái nói đến dân tộc Thái, chủ yếu ở vùng Lai Châu. Quan Châu là ông anh bà, tức “vua Thái”. Còn “anh Cả” là lãnh tụ Đại Việt, TTA, mà bà coi như là vua của cả nước Việt Nam, trong đó có dân Thái của bà, như truyền thống liên hệ từ thời xưa, nhất là khi Lê Thái Tổ đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi Đại Việt, mang lại nền độc lập tự do cho con dân nước Việt, gồm cả trên 50 các dân tộc thiều số sống trên lãnh thổ. Trong lịch sử mấy ngàn năm, chỉ có các vua Việt mới đủ sức chống lại sư xâm lăng của giặc Tàu từ phương Bắc, nên các dân tộc thiểu số vẫn nhớ ơn.

Bà Công chúa đẹp khiến tôi sững sờ. Mà đa số con gái các sắc dân thiểu số tôi biết đều đẹp.
cụ Trương Tử Anh gốc Tuy Hoà, Phú Yên, tên khai sinh là Trương Kháng, còn được gọi là Cả Kháng, có lẽ vì là con cả. Ông nội và cha đều là những nhà cách mạng chống Pháp. Ông ra Hà Nội, học Luật, năm 1939 thành lập Đại Việt Quốc Dân Đảng, gọi tắt là Đại Việt. Giống như lãnh tụ cách mạng khác là Lý Đông A, TTA là một nhân vật cơ trí, văn võ toàn tài. Cả hai vị đều bị VM lùng bắt và thủ tiêu mất xác, vào khoảng tháng 10-11, 1946.
----------------------------------
nghe nói ca sĩ Ngọc Minh là người Thái trắng?


Thanked by 1 Member:

#149 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 22/09/2020 - 18:59

LỜI TIỄN BIỆT THẦY NHẬT TIẾN

Tin buồn lại đến khi biết tin nhà văn Nhật Tiến giã biệt cõi đời, chỉ sau cô Đỗ Phương Khanh hơn hai tuần. Riêng tôi, cảm thấy mình như vừa mất đi người thân.

Thế hệ 6X ở miền Nam sẽ không quên bộ tuần báo Thiếu Nhi do thầy chủ biên, in ấn đẹp, bài vở thiết thực và tính giáo dục đậm đà. Cũng không quên cuốn sách “Thềm hoang” của thầy mà học trò trung học Đệ nhất cấp đã phải thuyết trình trước lớp. Tôi vẫn nhớ nhiều chi tiết cuốn sách đặc sắc “Thuở mơ làm văn sĩ”, gần như là hồi ký mà thầy kể về thời học trò tập tành làm báo ở Hà Nội. Cuốn sách này đã thúc giục tôi đi vào con đường làm báo sau này. Những cuốn sách đó, cùng cuốn “Những người áo trắng”, vở kịch “Người kéo màn”, khi gặp nhau, thầy đều tặng cho vợ chồng tôi, luôn ghi trang trọng: “Tặng cô chú….”, dù chúng tôi chỉ ở tuổi con của thầy.

Cách nay đúng một năm, tôi xin phép phỏng vấn thầy qua email. Bài trả lời khá dài, sau đó thầy còn viết bổ sung thêm phần cảm nghĩ về Hà Nội xưa, về Sài gòn…

Có vài đoạn tôi muốn chia sẻ:

Thầy kể kỷ niệm đáng nhớ với nhà văn Nhất Linh: “Do quen biết với gia đình nhà văn Nguyễn Thị Vinh nên sau khi Văn Hóa Ngày Nay đình bản, tôi còn có vài cơ hội gặp gỡ Nhất Linh ở nhà in Trường Sơn, đường Nguyễn An Ninh Sài Gòn do bà Nguyễn Thị Vinh làm chủ. Có một buổi gặp gỡ mà mãi sau này trong ký ức của tôi vẫn thấy như là mới mẻ, đó là buổi tối của hôm trước khi xẩy ra cuộc đảo chính ngày 11-11-1960. Nhà tôi, Đỗ Phương Khanh thì đã lên lầu trò chuyện với anh chị Trương Bảo Sơn và Nguyễn thị Vinh. Ở tầng dưới, nhà văn Nhất Linh thì ngồi trầm ngâm bên một cái bàn nhỏ, chung quanh đầy những cột ram giấy của nhà in chất cao nghệu.

Thấy tôi, ông mỉm cười và rủ tôi chơi bài domino. Thế là tôi sà vào bên ông, vui vẻ đổ cỗ bài lên mặt bàn và ngắm nhìn ông xếp những con bài nhựa bằng đôi bàn tay đã bắt đầu thấy hơi run run. Có lẽ đấy là lần đầu tiên tôi có cảm giác gần gũi với ông nhất. Bởi vì sự liên hệ giữa tôi và ông lúc này chỉ là hai con người trong một trò giải trí chứ chẳng phải là giữa một nhà văn vốn đã lừng lẫy trong suốt một chiều dài của lịch sử Văn học Việt Nam, với một thanh niên mới chỉ có 24 tuổi đời, vừa chập chững đi vào thế giới của văn chương. Tôi nhớ là mình đã “gí” ông tận tình và rất thích thú nhìn đôi lông mày rậm của ông nhíu lại, vầng trán cao ngất phảng phất nhiều nếp nhăn, và mỗi khi phản công lại thì ông mỉm cười, nụ cười nom rất hiền từ và bao dung khiến tôi thấy lòng mình như ấm áp hơn lên.

Trong những giây phút thân ái đó, tôi thật đâu có ngờ là đầu óc của ông lại còn đang suy tưởng về một cuộc đảo chính sắp sửa xẩy ra, chỉ trong vài giờ sau đó !”.

Trong bài, thầy Nhật Tiến nhắc về Hà Nội, nơi sinh ra: “… đối với tôi có quá nhiều kỷ niệm. Hồi tôi còn bé (thập niên 40s thế kỷ trước) nhà tôi ở ngõ Thanh Miến mà đầu ngõ bên này tiếp xúc với trường tiểu học Sinh Từ, tên khi đó là trường Pierre Pasquier, còn đầu ngõ bên kia thì trông ra cổng sau của Văn Miếu hay Quốc Tử Giám hồi đó quen gọi tắt là Giám. Lũ bạn bè còn trẻ nhỏ chúng tôi rất thường theo cổng sau vào Giám để cưỡi lên cổ những con Rùa mà trên lưng của chúng có những bia đá ghi khắc sự nghiệp của những vị Tiến Sĩ thời xưa”. Một đọan khác sau khi hồi cư: “Nhưng chỉ hơn một năm sau, mọi sự được phục hồi nhanh chóng. Tiếng xe điện leng keng đã bắt đầu rộn rã. Người hồi cư trở về buôn bán tấp nập. Và nhiều trường học đã mở cửa lại. Chỉ trong vòng 5 năm sau đó, cho đến 1952, 1953 thì mọi sinh hoạt đã trở lại bình thường. Hà Nội đã xuất hiện nhiều tiệm sách với khung cửa kính sáng choang, bên trong bầy đầy ắp sách báo mới ra chen giữa những văn phòng phẩm đủ các loại như tập vở học sinh in hình nữ tài tử điện ảnh tuổi nhỏ xíu Shirley Temple, bút máy Kaolo vỏ ngoài là bút máy nhưng bên trong thì chỉ cắm ngòi bút phải chấm mực. Loại bút máy thứ thiệt như Wearever, Pilot, Chatodo thì phải mãi sau này, khoảng năm 1952, 1953 mới thấy có”.

Trả lời câu hỏi về những suy nghĩ gì về cuộc sống, cùng những triết lý nhân sinh mà ông đúc kết lại trong đời: “Với tôi, tôi cứ sống hết lòng với những gì mình theo đuổi. Mỗi khi thất bại, tôi không cho là trò may rủi mà chỉ tại mình chưa vận dụng hết khả năng đó thôi. Và sau cùng, nếu có đạt được thành quả nào đó thì cũng chẳng nên coi là quan trọng. Vì theo kinh Phật thì đời người như mộng, như huyễn, bèo nổi, ảnh hiện, như sương mai, chớp nhoáng ... mà thôi”.

Tôi đọc câu cuối mà thương cho hai nhà giáo dục của một thời Sài gòn ngày xưa, hai nhà văn Nhật Tiến và Đỗ Phương Khanh, mà chúng tôi đã may mắn thụ hưởng những thành quả văn chương báo chí của ông bà, và từ những vị có tâm huyết khác thời đó, ông Nguyễn Hiến Lê, ông Nguyễn Hùng Trương, nhà văn Minh Quân v.v…

Lần cuối ông bà Nhật Tiến – Đỗ Phương Khanh về chơi năm 2016, chúng tôi đưa ông bà ra Đường Sách. Sau khi ghé nhiều cửa hàng, tôi thấy ông bước ra gần đầu đường, móc bóp lấy tiền lẻ ra để mua gói đậu phộng luộc của chị bán dạo, vừa đợi múc đậu vào bao vừa tươi cười hỏi chuyện. Hình ảnh đó sao mà thương! Chào lần cuối để ra về, cô Đỗ Phương Khanh đọc hai câu thơ của Lý Thương Ẩn thời vãn Đường: “Tương kiến thời nan biệt diệc nan,/ Đông phong vô lực bách hoa tàn”. Câu dịch là “Gặp gỡ nhau đã khó, chia lìa nhau lại càng khó/ Gió xuân không đủ sức, để trăm hoa tàn úa”. Sau, về đọc tiếp hai câu của bài thơ này, càng khiến tôi nhớ thầy cô nhiều hơn: “Xuân tàm đáo tử ty phương tận,/ Lạp cự thành hôi lệ thuỷ can (Tằm xuân đến chết mới nhả hết tơ/ Ngọn nến thành tro mới khô nước mắt”.

Phạm Công Luận
15/9/2020

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 2 Members:

#150 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 01/10/2020 - 20:47

Đêm Sài Gòn xưa, và ban hợp ca Thăng Long

Quá khứ, Sài Gòn từng có một chân dung, một nhan sắc. Đó là chân dung khác. Trái tim khác. Phiên bản khác với đêm. Sài Gòn. Xưa.

Đêm, Sài Gòn bây giờ, với phố đi bộ, con đường gấm hoa của hàng ngàn tuổi trẻ, và thỉnh thoảng, những sân khấu lớn được dựng giữa đất/ trời, làm bệ phóng cho những tiếng hát như những phi tiễn, phóng vào vũ trụ, làm mờ cả những tinh tú sáng chói nhất: Đó là sự xuất hiện và thao diễn cuồng nhiệt của những… “siêu sao” âm nhạc. Những cật lực lao tới, bất kể bến bờ nhân gian nào, của những thần tượng giới trẻ, Sài Gòn hôm nay.

Tôi muốn nói, nếu đấy là quảng trường của đêm bập bùng những ngọn lửa ngồn ngộn khát khao, hối hả hơi thở của sức sống hôm nay thì, đêm, Sài-Gòn-xưa, là sự thiếp ngủ, bằn bặt chiêm bao của những tiếng vỗ một bàn tay.

Góc đêm, Sài Gòn xưa, với tôi, là những con đường vắng lặng, với những ngọn đèn đường lẻ loi, cúi xuống kiếm tìm linh hồn, hay ngắm nhìn chiếc bóng chơ vơ của chính nó.

Thị dân đêm, Sài Gòn, xưa, nếu phải ra khỏi nhà trước 12 giờ khuya, sẽ nghe được tiếng giày mình bị hè phố ném trả lại, như một nhắc nhở cay nghiệt của hoang vắng.

Nhưng, sự thực không phải thế. Đời sống tinh thần Sài Gòn, xưa, với tôi là những “địa đạo” văn hóa nghệ thuật, dưới tầng sâu. Những mái tóc-thề-âm-nhạc trên đôi vai sương khói của những cánh hạc vàng giữa đêm thơm hương hư ảo.

Cách khác, với tôi, đấy là những góc khuất – hay những miểng ngà, ngọc mosaic hoặc, quý kim, khi ráp lại, thành những bức tranh, tựa được hoàn tất từ cổ tích.

Những “địa đạo” văn hóa nghệ thuật của đêm, Sài Gòn xưa, dường được phân bổ đều cho từng góc phố. Tùy nhu cầu tinh thần, thời đó, bạn sẽ thoải mái tìm được cho mình chỗ ngồi thích hợp ở một phòng trà ca nhạc nào đấy.

Nếu là người ái mộ tiếng hát “liêu trai” Thanh Thúy và, chuyện tình tuyệt vọng của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, thời ông mới chập chững bước vào cõi chấp chới những chùm đèn tiền trường sân khấu bất trắc, thì bạn sẽ phải lên lầu hai, phòng trà Đức Quỳnh, ở đường Cao Thắng – để nghe “Thương Một Người” do chính linh hồn của ca khúc ấy: Thanh Thúy, diễn tả.

Nếu bạn là một trong những “fan” âm thầm nhưng quyết liệt của tài-hoa-bất-hạnh Trúc Phương, thì bạn sẽ phải tìm đến phòng trà hồ tắm Cộng Hòa nghe Minh Hiếu nghẹn ngào với “Tàu Đêm Năm Cũ,” hoặc “Buồn Trong Kỷ Niệm” với “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn” mà dân Sài Gòn đã sớm đổi lời thành “Đường vào trường đua, có trăm lần thua, có một lần… huề”…

Dĩ nhiên, bạn cũng sẽ có một chỗ ngồi kín đáo ở phòng trà Hòa Bình, khu chợ Bến Thành hoặc phòng trà Tự Do gần đấy; nếu bạn muốn nghe Băng Tâm hát “Tiễn Em,” hoặc “Ngậm Ngùi” với tiếng hát Lệ Thu…

Cách gì, tôi cũng không thể quên phòng trà Khánh Ly trên đường Tự Do, những năm cuối thập niên 1960. Và cũng trên con đường này, là Đêm Màu Hồng, “địa đạo” của hợp ca Thăng Long. Cùng nhiều, nhiều nữa, những mạch ngầm văn hóa nghệ thuật khác.

“Địa đạo” mang tên Đêm Màu Hồng, từ ngày khai trương tới lúc phải đóng cửa vì giông bão thời thế, được mô tả là… “không giống ai!” Nó vốn là nơi tập trung những người bạn văn nghệ (đôi khi nhiều hơn khách) của nhạc sĩ Hoài Bắc (Phạm Đình Chương).

Đó cũng là cõi riêng của tiếng hát Thái Thanh – cánh “hạc vàng” của nền tân nhạc Việt Nam, khởi tự đầu nguồn…

Ở góc Sài Gòn, xưa này, hầu như không đêm nào, vắng bóng nhà văn Mai Thảo. Đặc biệt, rất hiếm khi ông đi một mình. Nếu đêm trước tác giả “Mười Đêm Ngà Ngọc” đi với Thanh Tâm Tuyền, thì đêm sau, bạn đừng ngạc nhiên, khi thấy ông đi với “Thần Tháp Rùa” Vũ Khắc Khoan, hoặc “Thu Vàng” Cung Tiến… Cũng có khi ông đem theo nhiều hơn một người bạn! Thí dụ tiếng hát châng lâng lẫy lừng Anh Ngọc; cùng “những ngón tay bắt được của trời” mang tên Duy Thanh, Thái Tuấn, Ngọc Dũng…

Từ “địa đạo” văn hóa nghệ thuật này, những đứa con tinh thần mới ra đời được tiếng hát Thái Thanh “giới thiệu,” hoặc do chính Hoài Bắc/ Phạm Đình Chương, đắp đỗi phần thịt da mới cho những sáng tác cũ, của ông. Những ca khúc, mà thời gian không đủ sức gạch bỏ; phải… ngả mũ chào thua…

Nhưng dù mới hay cũ, người nghe cũng sẽ nhận ra những ca khúc ấy, đa phần, như một thứ bút ký, hoặc nhật-ký-âm-giai của họ Phạm trong đời thường. Đó là những ca khúc như “Người đi qua đời tôi/ không nhớ gì sao người?” (Người Đi Qua Đời Tôi, thơ Trần Dạ Từ); “Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa/ cho tôi về đường cũ nên thơ/ cho tôi gặp người xưa ước mơ…” (Nửa Hồn Thương Đau, ý thơ Thanh Tâm Tuyền); hoặc “Hãy mang đi hồn tôi/ một hồn đầy bóng tối/một hồn đầy gió nổi/ một hồn đầy hương phai…” (Khi Cuộc Tình Đã Chết, thơ Du Tử Lê)…

Người nghe, cũng có thể bất ngờ chết lặng với “Kỷ Vật Cho Em” (thơ Linh Phương, nhạc Phạm Duy) qua tiếng hát Thái Thanh; hay “Xóm Đêm” do chính Hoài Bắc, gần sáng, chếnh choáng với ly rượu trên tay, lừng khừng bước tới sát giới hạn sân khấu, cất tiếng, theo yêu cầu của bằng hữu: “Đường về canh thâu/ Đêm khuya ngõ sâu như không màu/ Qua phên vênh có bao mái đầu/ Hắt hiu vàng ánh điện câu…”

Những góc đêm, Sài Gòn, xưa, như thế, cho tôi cảm tưởng ngay những người đang say cũng sẽ giật mình, tỉnh lại; khi những chùm dây dẫn điện của những khu bình dân, Sài Gòn, rối nùi khốn khó. Đó cũng là thời gian tác giả “Xóm Đêm” phải về tá túc nơi căn gác ngôi nhà thân mẫu của ông ở đường Cống Quỳnh, gần Chợ Thái Bình ở đường Phạm Ngũ Lão. Lúc bi kịch gia đình, thình lình chụp xuống, xô đổ mọi xây dựng những tưởng vĩnh cửu đời riêng, của con người tài năng ngoại khổ này!

Tuy nhiên, với tôi, mặt khác của “vàng vọt” nơi những ngọn đèn được câu từ nhà này, tới nhà khác, lại là ghi nhận rực rỡ nhân bản. Tinh thần chia sẻ lần đầu và duy nhất của tân nhạc Việt Nam, với những khu bình dân, xóm nghèo, của họ Phạm…

Cũng vậy, nếu bạn rời khỏi Đêm Màu Hồng vào một đêm hạ tuần, có trăng, tôi tin, tiếng hát Thái Thanh hay Hoài Bắc sẽ vẫn ở trong tâm hồn bạn cùng những vạt trăng lãng mạn tơ nõn: “Chưa gặp em, tôi đã nghĩ rằng/ có nàng thiếu nữ đẹp như trăng…” (Mộng Dưới Hoa, Đinh Hùng/ Phạm Đình Chương). Hoặc cảm thức bi lụy như những miểng chai gắn trên bờ tường ký ức đau đớn: “Đò trăng cắm giữa sông vắng/ Gió đưa câu ca về đâu/ Nhìn xuống đáy nước sông sâu/ Thuyền anh đã chìm đâu…” Đó là “Trương Chi” của Văn Cao. Là vầng trăng của những “Đàn đêm thâu/ trách ai khinh nghèo quên nhau/ Đôi lứa bên giang đầu/ người ra đi, với cuộc phân ly” (Khối Tình Trương Chi của Phạm Duy).

Nếu một khuya khoắt nào, ra khỏi “địa đạo” Đêm Màu Hồng, gặp những hạt mưa không hẹn nhưng đã đợi bạn nơi hè đường từ rất sớm thì, bạn cũng đừng ngạc nhiên, khi cảm được thanh âm lóc cóc của những chuyến xe thổ mộ, Sài Gòn, ngoại ô, dằn xóc, tủi hờn vì khoảng cách địa dư trong “Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội” của Phạm Đình Chương/ Hoàng Anh Tuấn, như những hồi tưởng, không đoạn kết.

Tôi cũng đã từng thấy những đôi vai sát, khi chia tay Đêm Màu Hồng. Họ không nói với nhau một lời nào. Tự thân những khung cửa khép, gió sông Sài Gòn, từ bến đò Thủ Thiêm thay bạn thì thầm về niềm tin yêu, ngày mai, bình minh. An lành thế giới…

Và, thưa bạn, đêm nay, giữa quê người, khi hợp ca Thăng Long, chỉ còn lại duy nhất Thái Thanh, “cánh hạc trong trăng” cũng đang trả lại nhân gian buồn/ vui một kiếp, chuẩn bị đi xa theo Phạm Đình Chương, Hoài Trung, Thái Hằng, và người khách thường trực, Mai Thảo cùng các bạn của ông, tôi chợt thấy, dường tất cả chúng ta, không ai thực sự bỏ đi khỏi đất nước của mình.

Mọi người vẫn ở đâu đó, trong những góc khuất, đêm. Sài Gòn. Xưa. Có thể mọi người đã chính là những đêm mưa, những vạt trăng, những miếng mosaic; những miểng thủy tinh vỡ, găm trên bờ tường đau thương, quá khứ… Thậm chí, có thể ai đó, cũng đã là những cột đèn lẻ loi, cúi xuống kiếm tìm hồn mình hay, chiếc bóng của chính họ giữa Sài Gòn, một thuở, dù đã lâu, không còn hiện hữu!

Bởi vì, thưa bạn, tôi vẫn nghĩ: như đất nước, Sài Gòn không của riêng ai. Sài Gòn, cũng không của một thời kỳ, một giai đoạn mà Sài Gòn, là ký ức tập thể. Và cũng từng là một phần lộng lẫy của trái tim tổ quốc.

Du Tử Lê

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 3 Members:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |