Jump to content

Advertisements




Gia Định - Sài Gòn

Góc Sài Gòn thành Gia Định thành Phụng thành Bát quái thành Qui

136 replies to this topic

#31 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 16/10/2016 - 21:41

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tượng đài Sài Gòn xưa có số phận bi hài nhất

15/10/2016 22:18 GMT+7

TTO - Đó là tượng đài Léon Gambetta, nhà chính trị gia thuộc phái diều hâu khét tiếng của Pháp cuối thế kỷ 19.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Nơi đặt tượng đài đầu tiên ở: ngã tư Norodom (Lê Duẩn hiện nay) - Pellerin (Pasteur) đầu thế kỷ 20 - Ảnh tư liệu
Léon Gambetta (1838-1882, mất năm 44 tuổi) là thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ Ngoại giao Cộng hòa Pháp trong hai năm 1881-1882.
Đây là khoảng thời gian Pháp đã xâm chiếm xong toàn bộ Nam kỳ lục tỉnh và chuẩn bị cho việc thôn tính hoàn toàn miền Bắc.
Gambetta thuộc phái các nhà chính trị Pháp lúc ấy ủng hộ việc xâm chiếm mở rộng thuộc địa Pháp.
Có lẽ vì vậy, ngay sau khi Gambetta mất, khoảng năm 1883, một khu tượng đài đã được dựng lên ngay giữa trung tâm Sài Gòn, thủ phủ Nam kỳ, nơi quân Pháp tấn công và chiếm được đầu tiên.
Nơi đặt tượng đầu tiên: ngã tư Norodom - Pellerin
Cụ thể nơi dựng tượng ở ngã tư Lê Duẩn (tên đường lúc dựng tượng là đại lộ Norodom) - Pasteur (Pellerin).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đại lộ Norodom (Lê Duẩn hiện nay) nhìn từ dinh Norodom (hội trường Thống Nhất hiện nay) về phía Thảo cầm viên. Quảng trường Gambetta với tượng đài Gambetta ngay ngã tư Norodom - Pellerin (Pasteur). Đường cắt ngang hình là đường Pasteur hiện nay - Ảnh tư liệu

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Chính diện nhóm tượng đài Gambetta ngã tư Norodom - Pellerin đầu thế kỷ 20 - Ảnh tư liệu
Tượng đài gồm 3 khối tượng: Gambetta ở vị trí cao nhất, vai phải hướng về dinh Norodom (Dinh toàn quyền Đông Dương), tay phải để trên nòng đại bác đặt dưới chân theo đúng thực tế ngoại giao pháo hạm của Pháp lúc ấy; tay trái chỉ về hướng thành Gia Định (thành Phụng 1835) vừa bị Pháp chiếm trước đó 24 năm (ngày 17-2-1859).
Mặt tượng đài Gambetta nhìn về phía sông Sài Gòn; lưng quay về cuối đường Pasteur hiện nay.
Hai khối tượng còn lại tạc hai người lính Pháp trong các cuộc xâm chiếm thuộc địa.
Bưu ảnh ghi rõ khu vực đặt tượng này là quảng trường (place). Phải chăng đây là tên gọi đầu tiên của công viên trước mặt hội trường Thống Nhất/Dinh Độc lập hiện nay?
Long đong sang khu vực chợ Bến Thành cũ sau khi giải tỏa chợ
Năm 1912-1914, chợ Bến Thành cũ trên đại lộ Charner (đại lộ/phố đi bộ Nguyễn Huệ hiện nay) bị giải tỏa.
Toàn bộ khu đất chợ cũ được cải tạo thành quảng trường, đặt tên là Quảng trường Gambetta. Tất nhiên nhóm tượng đài Gambetta từ ngã tư Norodom - Pellerin phải dời về đây, lấy chỗ cho xe cộ Sài Gòn, nhất là xe hơi vốn lúc này đã đông đúc hơn đi lại cho thuận tiện.
Nhóm tượng đài Gambetta đặt ở gần phía cuối Quảng trường Gambetta, nhìn ra đại lộ Charner; lưng hướng về đường Hồ Tùng Mậu hiện nay (bản đồ Sài Gòn 1928 ghi là đường Georges Guynemer). Tay trái chỉ về hướng đường Ngô Đức Kế (bản đồ Sài Gòn ghi đường Vannier); tay phải hướng về đường Phủ Kiệt (hiện là đường Hải Triều).

Sửa bởi tuphuongsg: 16/10/2016 - 21:47


#32 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 16/10/2016 - 21:54

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi tuphuongsg: 16/10/2016 - 21:55


#33 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 16/10/2016 - 22:09




  • Tượng đài Gambetta cuối Quảng trường Gambetta (khu vực chợ Bến Thành cũ sau khi giải tỏa chợ) năm 1921. Dãy nhà phía sau là dãy nhà trên đường Hồ Tùng Mậu hiện nay, hiện vẫn còn vài nhà. Bên phải ảnh là đường Ngô Đức Kế hiện nay. Chú thích của bưu thiếp ghi "Quảng trường Chợ Cũ (viết hoa) và Tượng Gambetta - Ảnh tư liệu

    Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


    Đường Hồ Tùng Mậu, mặt sau chợ Bến Thành cũ sáng 7-10. Tòa nhà Bitexco bên phải ảnh hiện nay là nơi mấy chị tiểu thương chợ chồm hổm ngồi khi xưa và là nơi đặt tượng Gambetta sau này - Ảnh: M.C.
    Khu vực đặt tượng hiện nay là tòa nhà Bitexco cao nhất TP......
    Ở đây không được bao lâu, cả khối tượng đài phải dời sang nơi ở cuối để dành chỗ cho tòa nhà kho bạc (tresor).
    Nơi ở cuối cùng: Vườn Ông Thượng hay Vườn Bờ-rô
    Tức là công viên văn hóa t*o Đàn hiện nay và được đặt phía sau khá vắng và ít người qua lại.
    Theo bản đồ Sài Gòn 1947, tượng được đặt giữa ngã tư đường Trương Định - đường nội bộ trong công viên giữa Cách Mạng Tháng Tám và Huyền Trân công Chúa hiện nay.

    Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

    Nơi ở cuối cùng của tượng đài Gambetta: cuối Vườn Ông Thượng/Vườn Bờ-Rô (công viên văn hóa t*o Đàn hiện nay) - Ảnh tư liệu
    Cám cảnh số phận long đong của tượng đài này, người Sài Gòn xưa có câu ca dao: Trên Thượng thơ bán giấy (ly hôn-NV) - Dưới Thủ Ngữ treo cờ - Kìa Ba (tượng đài Gambetta-NV) còn đứng chơ vơ - Nào khi núp bụi, núp bờ - Mủ di đánh dạo bây giờ bỏ em.
    Thượng thơ là dinh Thượng Thơ (hiện vẫn còn ở góc ngã tư Đồng Khởi - Lý Tự Trọng); cột cờ Thủ Ngữ cũng còn ở góc sông Sài Gòn - rạch Bến Nghé, cụ thể ở chân cầu Khánh Hội, góc đường Hàm Nghi hiện nay.
    Câu ca dao này được nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển chép trong Sài Gòn năm xưa: Thượng thơ, Phó Soái - Thủ Ngữ treo cờ, hò, hơ, - Bu-don (bouillon), ỏm lết (omelette), bí tết (beaf steak), xạc xây ờ (sacré) - Mũ ni (menu) đánh đạo, bây giờ mày bỏ t*o ơ! Hớ hơ.
    (Cụ Vương Hồng Sển chú giải đó là lời của một chị bếp (...) "vừa tế nhị, bình dân. Đố ai sửa chữa hoặc thêm bớt được chữ nào. Ban đầu chị kể đường dài thậm thượt từ trước dinh Thượng thơ trải qua dinh Phó Soái, đoạn đến bờ sông... kể các thức ăn gồm hầm bà lằng xạc xây (sacré) và hổ lốn: nào nước xúp bù don, nào hột gà chiên ỏm lết, nào thịt bít tết... Vừa kể chị vừa nhắc ngày thường chồng vợ nhỏ to thủ thỉ luận câu đạo đức, té ra mấy câu “đánh đạo khuyên đời” này mới rõ dẫu chép ra ắt không đầy tờ giấy lộn ra món ăn (menu): khổ ơi là khổ").
    Riêng Ba (tượng Gambetta) thì trên bản đồ Sài Gòn 1947 vẫn còn.
    Sau đó, khi cuộc kháng chiến chống Pháp lan rộng, kết thúc của tượng khá thê thảm và... bi hài: "chánh phủ Pháp muốn thâu dụng số đồng dùng vào chiến tranh, sai thợ nấu lão Gambetta, thì hỡi ôi! Thân lão là ersatz, đồ đồng giả, không dùng được..." (Vương Hồng Sển - Sài Gòn năm xưa).

    Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


    3 vị trí tượng đài Gambetta trên bản đồ TP..... hiện nay: (1) Tượng Gambetta tại Sài Gòn ban đầu nằm giữa đường Norodom (nay là Lê Duẩn) và Pellerin (nay là Pasteur); (2) Tượng Gambetta nằm giữa 4 con đường: mặt trước là Đại lộ Charner (Nguyễn Huệ ngày nay), mặt sau là đường Georges Guynemer (nay là Hồ Tùng Mậu), phía bên phải là đường Vannier (nay là Ngô Đức Kế) và bên trái là Đường Phủ Kiệt (nay là Hải Triều); (3) Tượng Gambetta gần phía sau sân banh t*o Đàn - Đồ họa: T.Thiên


    M.D

    Trả lời
  • Hong Tran 12:30 16/10/2016
    Đầu TK 18 và đầu TK 19 là thời kỳ chủ nghĩa thực dân mở rộng sự xâm lược để giành thuộc địa, cả Đông dương, 1 số nước Châu Á, Phi đều cùng chung số phận, dĩ nhiên dân mất nước và bị ngoại bang đô hộ thì đầy tủi nhục nhưng những người thời đó cũng đã làm hết sức mình, non sông gấm vóc ngày nay liền một dãy cũng là nhờ công lao của các bậc tiền nhân thời Nguyễn. Cái quan trọng là thời đó chúng ta không cam chịu.
    • THÍCH 4

    Lai thi nguyet 08:38 16/10/2016
    Vườn Bờ rô trước đây thỉnh thoảng nghe má tôi nói, bây giờ mới biết là vườn t*o đàn
    • THÍCH 4


  • Lê Nguyên 06:57 16/10/2016
    Bạn Nguyễn Gianh. Pháp đô hộ nước ta chỉ có 100 năm, còn lũ Tầu đô hộ nước ta tới 1000 năm. Vậy bạn thấy nỗi nhục nào hơn nỗi nhục nào? Hiện nay lũ Tầu đang lăm le muốn quay trở lại làm ông chủ dân ta thêm 1000 năm nữa, bạn thấy sao?


#34 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 25/10/2016 - 21:29

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

KIẾP PHONG TRẦN: tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam?
  • Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


  • Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


    TTO - Bản sách in đầu tiên tại Việt Nam là một cuốn truyện ngắn chỉ hơn 4.000 chữ với 7 trang A4 mang tựa Kiếp phong trần in năm 1882 do Nhà hàng Guilland et Martinon thực hiện.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Chân dung nhà văn Nguyễn Trọng Quản và cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của ông - Ảnh tư liệu
Trước đây, nhiều thế hệ người yêu thích văn học Việt Nam mặc định rằng “tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên của Việt Nam là cuốn Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, in năm 1925 tại Hà Nội”.
Đến năm 1998, khi giáo sư Nguyễn Văn Trung phát hiện và công bố quyển tiểu thuyết Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, in tại Sài Gòn năm 1887 thì Tố Tâm "mất ghế danh dự".
Việc phát hiện nầy đặt lại vấn đề là “văn học quốc ngữ bắt đầu từ khi nào? Ai là tác giả đầu tiên? Tác phẩm tên gì? In ở đâu?”.
Những câu hỏi ấy khiến khá nhiều nhà nghiên cứu bỏ thời gian và công sức tìm kiếm lời đáp.
Người viết thì tin rằng ngọn nguồn của văn học quốc ngữ phải xuất phát từ báo chí vì “báo chí là cái nôi của văn học Việt”.
Vì vậy người viết đi tìm trong đống báo xưa cũ, dù còn lưu giữ được không nhiều lắm, và phát hiện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản không phải là cuốn sách quốc ngữ đầu tiên được in tại Việt Nam.
Báo chí và văn chương quốc ngữ
Trước khi vô đúng địa chỉ của tiểu thuyết đầu tiên, có lẽ chúng ta cũng nên khảo sát qua mối quan hệ giữa báo chí và tiểu thuyết.
Nếu ai đã lật những tờ báo quan trọng từ năm 1975 trở về trước, trừ những tờ chuyên ngành, sẽ thấy rằng, văn chương là một phần không thể thiếu của các tờ báo.
Tiểu thuyết giúp người đọc quên sự khô khan của tin tức, những bài nghị luận dài lê thê; tiểu thuyết đăng nhiều kỳ (feuilleton) còn giúp báo giữ độc giả mua báo mỗi ngày để theo dõi truyện trên báo.
Khoảng năm 1925, tờ Công Luận Báo, một tờ báo ủng hộ chánh quyền đương thời, bị độc giả tẩy chay vì không nói gì đến đám tang cụ Phan Châu Trinh, tìm cách lôi kéo độc giả. Chủ báo liền mời người viết tiểu thuyết ăn khách nhứt thuở ấy là nhà văn Phú Đức (Nguyễn Đức Nhuận) về làm chủ bút dù ông... chưa hề làm báo ngày nào. Trách nhiệm duy nhứt của nhà văn Phú Đức là viết tiểu thuyết.
Nhờ vậy mà tờ báo nầy đủ sức cạnh tranh với tờ báo đương thời có đông độc giả là Trung Lập Báo.
Tôi lật tờ Trung Lập Báo (1924-1933), một tờ báo ra hàng ngày bị coi là ủng hộ chánh quyền Pháp, những số ra năm 1924, thì thấy số nào cũng có một đến hai trang dành cho văn học và đều có một đến hai tiểu thuyết đăng nhiều kỳ.
Điều đáng chú ý là rất nhiều nhà báo thuở ấy viết văn. Có thể kể như Trương Minh Ký với bút hiệu Mai Nham xuất hiện đều đặng trên tờ Nam Kỳ (1897-1900), Lương Khắc Ninh (chủ bút tờ Nông Cổ Mín Đàm từ 1901 đến 1906, Lục Tỉnh Tân Văn từ 1906 đến 1911, Trung Lập Báo từ 1924), Trương Duy Toản (phó chủ bút Trung Lập Báo từ 1924, chủ nhiệm tờ Sài Gòn từ 1930), Nguyễn Chánh Sắt (chủ bút Nông Cổ Mín Đàm từ 1920), Nguyễn Viên Kiều tự Lão Ngạc, Đặng Thúc Liêng (chủ bút tờ Tân Văn, phó chủ bút tờ Trung Lập), Lê Sum (chủ bút tờ Công Luận Báo), Lê Hoằng Mưu (chủ bút tờ Lục Tỉnh Tân Văn từ 1921)...
Xưa, chủ bút hoặc nhóm bỉnh bút một tờ báo ngoài việc làm báo họ còn là những cây bút chính. Nếu để ý, chúng ta thấy các vị chủ bút, phó chủ bút viết hầu hết các trang mục của một tờ báo.
Ngoài các phần nghị luận, các vị phải sáng tác, phải dịch cho đủ bài lấp đầy tờ báo ra mỗi kỳ. Có thể vì vậy mà họ “đương nhiên” trở thành nhà văn hồi nào mà chính các vị cũng không hay. Bởi nếu không làm như vậy thì ai làm? Không ai cả! Mỗi tờ báo ngày xưa có rất ít hoặc không có phóng viên như ngày nay.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Chân dung Trương Vĩnh Ký và tờ báo quốc ngữ đầu tiên là Gia Định Báo (1865-1910) - Ảnh tư liệu
Bản sách in đầu tiên
Tháng 4-1865, tờ báo quốc ngữ đầu tiên là Gia Định Báo (1865-1910) ra đời. Hai người Việt đầu tiên và cũng là hai người giỏi quốc ngữ nhứt thời bấy giờ, cộng tác với tờ báo là hai ông Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Paulus Của, cả hai đều học ở trường dòng Penang (Mã Lai).
Năm 1881, chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ vẫn chưa có nhiều người biết. Rất nhiều quan viên (cả người Việt lẫn người Pháp) làm việc trong hệ thống chánh quyền của thực dân ở Nam Kỳ vẫn còn đang học chữ quốc ngữ hoặc biết chút ít.
Đến năm 1882, chữ quốc ngữ mới được ấn định dứt khoát phải sử dụng trong hệ thống hành chánh toàn Nam Kỳ theo quyết định của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers. Với số người đọc ít ỏi ấy, dám viết truyện đã là “liều”.
Và cũng chính vì vậy mà tất cả các truyện ở thời điểm ấy đều ngắn hoặc rất ngắn. Bởi mới biết chút ít mà thấy nhưng truyện dài lê thê dù có chí mấy cũng... chào thua!
Kiếp phong trần là cuốn truyện ngắn chỉ hơn 4.000 chữ với 7 trang A4 và là cuốn truyện đối thoại từ đầu đến cuối, nếu không kể phần thông tin nền.
Truyện là cuộc đối đáp giữa hai người bạn là Trương Đại Chí và Lê Hảo Học. Họ hỏi và đáp về những chuyện đời sống, chuyện cuộc sống và cách sống ở đời. Tuy ngắn nhưng ý nghĩa và là bài học muôn đời.
Kiếp phong trần in năm 1882 do Nhà hàng Guilland et Martinon thực hiện và được tái bản nhiều lần sau đó.
Nếu đi tìm nguồn cội của “tiểu thuyết đầu tiên” trong lịch sử văn học Việt thì đây là bản sách in đầu tiên.
Song trong kho tàng văn học còn có một cuốn sách khác cần được tham khảo là cuốn Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ in năm 1884 của ông Trương Minh Ký.
Đây là cuốn sách viết lại các bài thơ của La Fontain bằng văn xuôi. Tuy các truyện đều rất ngắn nhưng rất đáng để các nhà nghiên cứu văn học để mắt đến.
Điều lưu ý ông Minh Ký là học trò của ông Vĩnh Ký và sách của ông in sau sách của thầy đến hai năm. Thế nhưng qua tra cứu của chúng tôi, có một số truyện của ông Minh Ký đăng trên Gia Định Báo từ cuối năm 1881.
Thời điểm in thành sách rõ ràng sách của ông Vĩnh Ký ra đời trước nhưng khảo lại thì truyện của ông Minh Ký đăng báo trước. Vậy ai là tác giả và truyện nào là tiểu thuyết đầu tiên?

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nhà văn hóa Trương Minh Ký (1855-1900) và tờ Thông Loại Khóa Trình - Ảnh tư liệu
Thiển ý chúng tôi, ông Minh Ký chính là tác giả đầu tiên và truyện Tên chăn bò Thằng ăn trộm với con heo là tiểu thuyết đầu tiên.
Ông Trương Minh Ký (1855-1900), người quận Gò Vấp, bắt đầu theo học ông Vĩnh Ký sau khi Pháp đã chiếm Nam Kỳ. Sau đó, ông vào Trường Khải Tường (nay là Trường Lê Quý Đôn TP.....) học khoảng 8 năm thì ra trường và làm giáo viên tại trường.
Theo một thông báo của chánh quyền Pháp tại Nam Kỳ, năm 1874, ông được thăng cấp. Tờ Gia Định Báo ngày 1-2-1874 viết “Trường Khải Tường, Trương Minh Ký, nguyên làm thầy giáo dạy giúp hạng ba lên hạng nhì đồng niên ăn 1400 quan tiền”.
Ông Minh Ký sanh năm 1855 đến năm 1874 mới có 19 tuổi. Theo lệ của chánh quyền Pháp thì hai năm mới thăng chức một lần. Ít nhứt ông đã dạy học hai năm trước khi được thăng chức, và như vậy năm 17 tuổi ông đã làm thầy giáo! Điều nầy cho thấy ông Minh Ký là một người học rất giỏi.
Ông Minh Ký cũng là người giúp thầy Vĩnh Ký thực hiện tờ Thông Loại Khóa Trình (1888-1889) và viết khá nhiều trong tờ Nam Kỳ (1897-1900) với bút hiệu Mai Nham. Ngày 28-10, Trường ĐH Bình Dương cùng ĐH KHXH&NV và Viện Văn học tổ chức hội thảo Những vấn đề ngôn ngữ và văn học Nam bộ tại Đại học Bình Dương. Nhân dịp nầy Tuổi Trẻ đăng loạt bài nhằm rộng đường dư luận trong việc đi tìm gốc tích của văn học quốc ngữ.
* Đón đọc kỳ 2: Feuillton - Hàng độc của báo chí quốc ngữ


TRẦN NHẬT VY

Sửa bởi tuphuongsg: 25/10/2016 - 21:31


Thanked by 3 Members:

#35 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 25/10/2016 - 21:56

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Ngã tư nổi tiếng đất Sài thành

06:00 AM - 26/06/2016 Thanh Niên



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Quán cà phê ở khu vực Ngã tư Quốc Tế thập niên 1950 - 1960 Ảnh: Life


Nơi ấm áp tình người
Vì là nơi tập trung khá nhiều thành phần nên Ngã tư Quốc Tế cũng là nơi ấm áp tình người, tình nghệ sĩ và đồng nghiệp giới báo chí nên khi ngồi kể lại kỷ niệm nhiều bậc cao niên còn nhớ đến chủ quán bi da Thanh Tâm. Ông tên thường gọi là Tư, đã cho mượn địa chỉ của tiệm bi da để các nghệ sĩ đi nam ra bắc, ai có cần gửi thơ về cho các nghệ sĩ không nhà mà đang theo đoàn hát ở Sài Gòn, họ tới đó mà nhận thơ. Có nhiều người gửi thơ mà không tiền mua cò (tem), nhà dây thép (bưu điện) phạt, ông chủ tiệm vẫn vui lòng trả tiền phạt để cho thơ đừng bị thất lạc. Góc Đề Thám - Bùi Viện có một quán cà phê kho không tên mà trước cửa chủ quán treo tấm bảng viết hai câu thơ lục bát: Uống đâu cũng phải trả tiền/Uống đây giúp đỡ bạn hiền - cám ơn.
Theo nhà văn Trương Đạm Thủy thì đa số khách ghé quán “bạn hiền” là nhân viên của các gánh hát đang lưu trú nơi rạp Nguyễn Văn Hảo kế bên vì ông chủ quán này xưa cũng là nghệ sĩ của các đoàn hát. Về sau Tổ không đãi nữa nên về đây mở quán. Không đi hát nữa nhưng vẫn nhớ nghề nên mở quán cũng chọn ở gần rạp hát để “bạn hiền” còn thường xuyên gặp gỡ chuyện trò cùng các đồng nghiệp. Buổi trưa thì khu Ngã tư Quốc Tế hơi im ắng vì nghệ sĩ thì về... ngủ, ký giả thì về viết tin, bài còn giới áp phe thì đi nhậu chỗ khác. Còn ban đêm thì khu này lại đầy sinh khí ăn uống bình dân, đèn đuốc sáng trưng cho tới khi vãn hát với các món ăn lề đường muôn đời: nem nướng, bánh mì thịt, bò bía, bò viên, bò khô đu đủ, chả giò. Mùi thức ăn bay cả một góc trời.
Bây giờ khung cảnh cũng chẳng khác nhưng nhà cửa khang trang, đẹp đẽ hơn và đầy... Tây ba lô. Nghĩa là quốc tế thứ thiệt chứ không phải quốc tế như ngày xưa. Người khu quốc tế thời xưa đến khu quốc tế... ba lô thì không còn thấy đào, thấy kép ngày trước cũng như những ký giả nội địa ngồi “tám” chuyện in-tẹc-ná-sòn-nồ! (international). Người đến khu quốc tế ngày nay đa phần là Tây ba lô, còn người Việt thì chỉ ăn chơi, nhậu nhẹt. Không còn là nơi để săn tin đem về cho tờ báo đang đói bài dù chỉ là tin... vịt!

Nhà văn Lê Văn Nghĩa



Thanked by 1 Member:

#36 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 26/10/2016 - 19:37

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Những thú vị cách đặt tên đường Sài Gòn trước năm 1975

09:05 AM - 26/10/2016 Thanh Niên Online

Trước 1975, tên đường ở Sài Gòn được đặt theo cụm như tên thi sĩ ở quận 3, cụm tên danh nhân thời Trần ở khu Tân Định, cụm tên nhà cách mạng ở quận 1,… giúp người dân dễ nhớ.

Sau hai bài viết về tên đường ở Sài Gòn nhận được sự quan tâm của bạn đọc, Thanh Niên tiếp tục trao đổi với PGS.TS địa danh học Lê Trung Hoa, Ủy viên Hội đồng đặt tên đường TP..... để tìm hiểu về cách đặt tên đường ở Sài Gòn trước năm 1975.

Trong bài viết dưới đây, chúng tôi chỉ đề cập đến những tên đường ở Sài Gòn từ năm 1954 khi ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng chính phủ chế độ Việt Nam Cộng hòa đến năm 1975.

đường quanh Dinh Độc Lập
Theo PGS.TS Lê Trung Hoa, ngày 7.7.1954, Ngô Đình Diệm giữ chức vụ Thủ tướng chính phủ và sống tại Dinh Độc Lập (nay có tên là Hội trường Thống Nhất thuộc Cục Hành chính Quản trị II, Văn phòng Chính phủ).
Sau một thời gian, ông thành lập Ủy ban đổi tên đường đô thành Sài Gòn để đổi những tên đường do Pháp đặt sang tên tiếng Việt. Do đó, những con đường xung quanh Dinh Độc Lập cũng được ủy ban này đặt lại bằng những tên gọi mới.

Theo PGS.TS Lê Trung Hoa, cụ thể, con đường trước cổng Dinh Độc Lập chạy thẳng đến Sở thú (nay là Thảo Cầm viên) đặt tên là Đại lộ Thống Nhất. Đến khi Tổng bí thư Lê Duẩn mất, UBND TP..... đổi tên Đại lộ Thống Nhất thành đường Lê Duẩn. Con đường này dài chỉ khoảng 2 km, ngay vị trí trung tâm nhưng hiếm khi bị kẹt xe.
Con đường bên trái Dinh đi qua Công viên t*o Đàn được đặt tên là đường Hồng Thập Tự ngụ ý cứu giúp những người gặp hoạn nạn. Hiện nay con đường này có tên mới là đường Nguyễn Thị Minh Khai.
Tương tự, con đường bên phải Dinh có tên Nguyễn Du - một đại thi hào của dân tộc, nhà văn hóa yêu nước. Theo PGS.TS Lê Trung Hoa con đường này được đặt tên đại thi hào có ý nghĩa cánh tay phải của ông Diệm là những người chuộng văn hóa Việt.


Chạy ngang trước Dinh Độc Lập là con đường mang tên Công Lý bởi vì con đường này đi ngang tòa án nhân dân thành phố. Sau năm 1975, đường Công Lý được đổi tên thành đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa.

[left]Còn đường phía sau Dinh được đặt tên là Huyền Trân Công Chúa. Một số tài liệu cho rằng đặt tên như vậy ý muốn nói sau lưng của Ngô Đình Diệm luôn có một người đàn bà. Tuy nhiên, nhiều tài liệu khác lại viết rằng đặt tên là Huyền Trân Công Chúa vì người này có công mở rộng đất nước.






Đường Công Lý nay được đổi tên thành đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa Ảnh: V.P


Bên cạnh đó, dọc theo Đại lộ Thống Nhất có hai con đường nhỏ mang tên Hàn Thuyên và Alexandre de Rhodes. Trong đó, Hàn Thuyên là người sáng tạo ra chữ Nôm (được người Việt dùng trong gần 10 thế kỷ) để thay cho chữ Hán. Còn Alexandre de Rhodes là người góp phần hình thành chữ Quốc ngữ mà hiện nay chúng ta đang sử dụng bằng công trình Tự điển Việt - Bồ - La (1651) và hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh.
Cụm tên đường thi sĩ, nhà cách mạng
Ngoài cụm tên đường thú vị quanh Dinh Độc Lập thì tên đường ở Sài Gòn trước năm 1975 cũng còn những cụm khác như cụm tên đường thi sĩ ở quận 3, cụm nhà cách mạng của Việt Nam Quốc dân Đảng ở quận 1, cụm danh nhân đời Trần ở khu Tân Định,…






Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tên đường theo cụm thi sĩ tại quận 3 Ảnh chụp màn hình Google maps


Tên đường theo cụm thi sĩ tại quận 3 như: Lê Quý Đôn (nhà thơ thế kỷ 18), Hồ Xuân Hương (cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19), Nguyễn Đình Chiểu (nhà thơ lớn của miền Nam Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19), Lê Ngô Cát (nổi tiếng với tài viết sử bằng thơ, thế kỷ 19), Tú Xương (tên thật Trần Tế Xương, thế kỷ 19), Bà Huyện Thanh Quan (sống ở thế kỷ 19),…




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tên đường theo cụm những nhân vật tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng tại quận 1 Ảnh chụp màn hình Google maps


Tên đường theo cụm những nhân vật tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDĐ) tại quận 1 như: Nguyễn Thái Học (sáng lập VNQDĐ), Cô Giang (tên thật Nguyễn Thị Giang, vợ của Nguyễn Thái Học, Cô Bắc (tên thật là Nguyễn Thị Bắc, em gái Cô Giang) nên đường Cô Bắc nằm song song với đường Cô Giang và hai đường này giao nhau với đường Nguyễn Thái Học. Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính, Ký Con (tên thật là Đoàn Trần Nghiệp),… là những người tham gia tổ chức VNQDĐ nên các tên đường này nằm song song với nhau.




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Khu Tân Định được đặt tên theo danh tướng thời Trần Ảnh chụp màn hình Google maps


Khu Tân Định là cụm tên đường liên quan tới danh tướng thời Trần mà ngày nay vẫn giữ nguyên như: Trần Quang Khải (tể tướng đời Trần Thánh Tông) nên con đường này dài nhất khu Tân Định. Cắt dọc Trần Quang Khải có một số đường như: Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Trần Khắc Chân,…

Hiện nay, những cụm trên vẫn được Hội đồng đặt tên đường thành phố vẫn giữ nguyên. Bên cạnh đó một số cụm tên đường mới được hình thành như: cụm đường gắn với tên của các loài hoa ở phường 7, quận Phú Nhuận như: Hoa Lan, Hoa Sứ, Hoa Huệ, Hoa Cúc, Hoa Hồng,…
Cụm đường gắn với tên của những con sông ở khu vực gần sân bay Tân Sơn Nhất, quận Tân Bình như: Tiền Giang, Cửu Long, Đồng Nai, Trà Khúc, Sông Nhuệ, Sông Thao, Sông Đà, Hồng Hà,…giao cắt với những con đường mang tên của những ngọn núi như: Lam Sơn,Yên Thế, Đống Đa, Tản Viên…

Vũ Phượng


Adrian Lam
Đồng Tháp - 26/10/2016
Thực ra các đặt tên xưa rất hay và khoa học. Như đường Công Lý xưa chỉ một chiều, ngụ ý rằng công lý là thượng tôn, rất thâm thúy. Đường về miền Tây xưa kia là Lục tỉnh, rất dễ dàng định hình vị trí địa lý. Và còn nhiều tên rất ý nghĩa nữa tôi không tiện kể ra đây ...

Trần Thanh Tùng
TP .. ... .... - 26/10/2016
Có lẻ người viết hơi nhầm 1 chút : đường Nguyễn Đình Chiểu hiện nay trước năm 1975 là đường Phan đình Phùng, có 1 nhánh nhỏ là đường Cao Thắng - Cao Thắng là bộ tướng đắc lực của Ông Phan Đình Phùng (hiện nay vẫn còn tên), đường Trương Định và đường Nguyễn Thiện Thuật giao với đường Phan Đình Phùng (Cùng hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi để kháng chiến chống Pháp) - Cũng là tên đường được đặt theo cụm.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Ngoc Nam
Ninh Thuận - 26/10/2016
Học Sử qua tên đường rất dễ nhớ ! Từ cửa ngõ vào tới trung tâm Sài Gòn là cả một chiều dài 4000 năm lịch sử dân tộc. Khởi đầu từ Bến xe Miền Tây ta sẽ có Hồng Bàng, An Dương Vương, Triệu Đà ... Bà Triệu ... rồi thì có Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục ... Tiếp tục là Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh ... Lý Chiêu Hoàng. Nhà Trần thì Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo và các tướng quây quần Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư ...Các bến sông gồm có Chương Dương , Vân đồn, Hàm Tử… Bến cảng lớn nhất thì đặt tên Bạch Đằng…vào càng gần trung tâm thì càng tiệm cận đến hiện tại như Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn Trãi ... Nhà Nguyễn lại càng gần trung tâm hơn nữa như Nguyễn Hoàng, Minh Mạng, Tự Đức cùng các tướng ...Chệch qua phía bắc khu trung tâm (phía Quận 3) ta có triều Tây Sơn và các nhà văn, nhà thơ, học sĩ: Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương ... cùng với các võ tướng Tây Sơn Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu ... một người đi từ bến xe vào trung tâm nếu thuộc Sử Việt và để ý tên đường thì rất dễ hình dung mình đang ở khu vực nào. Hai con đường song song với Đại Lộ Thống Nhứt được mang tên của hai danh nhân tạo ra chữ viết của Việt Nam là Hàn Thuyên và Alexandre de Rhodes hàm ý biết ơn sâu sắc ...Cô Giang Cô Bắc thì nằm cạnh Nguyễn Thái Học .....Các Bạn nhớ gì ? ....kể tiếp đi !...

Lê Văn Huệ
Long An - 26/10/2016
Cần khôi phục tên đường Lê Văn Duyệt. Ngài tả quân rất có công với đất SG- Gia Định !

hanh
TP .. ... .... - 26/10/2016
Cách đặt tên đường ngày trước có khoa hoc và logic .Ngay cả đặt tên các quận trong một tỉnh cũng vậy ví dụ như tỉnh Kiên giang thì cac quân trực thuôc đều có chữ kiên đứng trước như:Kiên lương,Kiên Thành, Kiên Bình,Kiên tân...Đến các xã thuôc một quận như Kiên tân thì lại có chữ Tân đứng trước như:Tân hiêp Tân long,Tân hà..

Vũ Thanh Chúc
TP .. ... .... - 26/10/2016
Việc đặt tên đường là việc lớn, nếu không muốn nói là rất lớn. Ngoài việc nhắc nhở các thế hệ sau luôn ghi nhớ công lao to lớn đối với đất nước thì còn phải tạo được mối liên kết lịch sử để dân dễ dàng am hiểu lịch sử hơn. Từ việc am hiểu lịch sử sẽ giúp liên tưởng nhanh và suy luận tốt để dễ dàng …. tìm đường. Vì vậy, hệ thống đặt tên đường là rất khó, mục tiêu tương quan lẫn nhau. Dân muốn tìm đường nhanh chóng thì chịu khó tìm hiểu lịch sử… và hiểu được sử mới là cái đích cao cả của hệ thống quản lý nhà nước.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2 thích Trả lời Báo nội dung xấu

minh
Tiền Giang - 26/10/2016
Tôi đi ra sài Gòn hầu như là những tên đường lạ không phải những tên đường xưa ( tên dường xưa rất hay và có ý nghĩa về lịch sử)
2 thích Báo nội dung xấu

Thỏ
- 26/10/2016
Ngày nay nhiều tên đường tui chẳng biết nhân vật đó là ai cả! Đề nghị thành phố nên chỉnh đốn lại tên đường phù hợp với nhân vật lịch sử mà ai cũng biết (có nhiều tên đường mang tính địa phương quá không biết công trạng người này thế nào hay là thích thì đặt đại hay sao đó).
đường Hồng Thập Tự là do có trụ sờ Hồng Thập Tự ở đó

#37 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 27/10/2016 - 21:42

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

NƯỚC MẮM TRONG NHỮNG MẢNH SỬ RỜI
  • Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


  • Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


    TTCT - “Người dân ở Hà Tiên tên Trần Văn Y sai người đến kinh dâng lên chiếu bông, mật ong, nước mắm, sáp ong, tôm khô, cá khô và lông chim. Sau khi thu nhận, dành phần để tế tự Giao miếu, đem dâng vào cung Gia Thọ (nơi ở của thái hậu Từ Dũ), còn lại thì ban cho hoàng tử, đại thần và cận thần.

    Ban cấp hậu hĩ (cho người nhà Trần Văn Y) mà cho về, rồi cảm khái việc này mà làm bài phú…”, vua Tự Đức đã viết Nam kỳ thổ sản phú với lời dẫn như vậy, tạp chí Nam Phong đăng trong số 156 năm 1931.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Phóng to Một vựa chứa tĩn nước mắm ở Sài Gòn đầu thế kỷ 20 - Ảnh tư liệu
Thứ nước cốt lưu truyền của muôn đời dân Việt
Khoảng cuối thời các chúa Nguyễn, nghề nước mắm ở Bình Thuận mới manh nha, đội “hàm thủy” ở phường Đông Quan chỉ có 50 người, trong số đó có 30 người phải nộp mỗi người mỗi năm một thùng nước mắm, còn 20 người kia thì mỗi người nộp hai vò mắm mòi, một vò mắm tép.
Về sau này, không biết là do nước mắm rớt giá hay do thuế nhà Nguyễn gắt gao mà thời Minh Mạng thuế biệt nạp mỗi người đến tám tĩn, tăng gần ba lần so với cuối thời Lê.
Đại Nam nhất thống chí chép về thuế biệt nạp ở tỉnh Bình Thuận, nước mắm mỗi người mỗi năm tám vò, người già người ốm bốn vò, ba loại mắm ướp, mắm mòi, mắm cá thu mỗi người mỗi năm một vò. Tuy nhiên, việc nước mắm rớt giá hay thời Minh Mạng đánh thuế cao chưa thể vội vàng kết luận, còn phải chờ kết quả nghiên cứu dung tích các loại thùng, vò, tĩn, hũ của mỗi thời và của từng vùng nữa.
Chừng 500 năm trước, một số người Việt ở vùng Đồ Sơn làm nghề đánh bắt, theo nghề mà lưu lạc đến vịnh Phòng Thành, rồi vì sinh kế mà định cư lại đó, đến nay trở thành một trong 56 dân tộc ở Trung Quốc. Giáo sư Đại học Quảng Tây Vương Văn Quang trong Trung Quốc nam phương dân tộc sử đã khảo sát về dân tộc Kinh khá kỹ.
Điểm qua về phong tục ẩm thực đặc thù, ông viết: “Người Kinh sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh cá, có vốn văn hóa lâu đời, biểu hiện qua tập tục ăn uống với cơm gạo là thức ăn chính, lấy khoai núi khoai nước làm thức ăn giặm, tính thích ăn cá, tôm, cua, nước mắm và cơm rượu, phụ nữ thì khoái nhai trầu cau.
Nước mắm là thức điều vị (nêm nếm) của người Kinh, cách làm như sau: trước tiên chọn loại cá nhỏ rửa sạch, cho vào vò sành hoặc thùng gỗ, phân thành lớp rồi rải muối và đậy kín lại. Sau vài tháng cá từ từ tan rã, rỉ ra dung dịch màu hồng, đó là nước mắm. Sau khi lọc kỹ, nước mắm có hương vị nồng nàn tinh thơm. Qua lần lọc thứ hai thì mùi vị kém đi, qua lần lọc thứ ba thì lẫn nhiều xương và cặn bã của cá, chỉ để cho gia súc ăn hoặc bón ruộng.
Nước mắm vừa để nêm nếm trong việc chế biến thức ăn, vừa làm nước chấm khi ăn cơm” (Dân Tộc xuất bản xã, Bắc Kinh, 1999). Những người ly hương này truyền đến nay đã 16, 17 đời, con cháu sinh sôi, địa bàn cư trú lan rộng, mà nước mắm vẫn như một thứ nước cốt luôn truyền lưu lan tỏa.
Giáo sư Vương - ở góc độ văn hóa học - ghi chép mấy dòng về cách làm nước mắm, cốt chỉ để các dân tộc khác dễ hình dung. Thật ra kỹ thuật làm nước mắm bề ngoài coi đơn giản nhưng mỗi vùng có cách chế biến khác nhau, với những bí quyết và kỹ xảo riêng, lại còn do loại cá loại muối ở từng nơi nên hương vị cũng nhiều chỗ đặc biệt.
Ngày nay Phú Quốc, Phan Thiết, Cát Hải lừng danh nhưng khoảng 100 năm trước nước mắm ở xã Đông Giang, huyện Thanh Lâm, tỉnh Hải Dương được Đại Nam nhất thống chí đánh giá cao nhất trong cả nước. Còn theo ghi nhận trong Đại Nam điển lệ thì vào thời Minh Mạng, định lệ hằng năm các tỉnh nộp đặc sản địa phương vào kinh đô Huế để làm phẩm vật tế giao thì Nam Định phải nộp ngỗng trắng, gà thiến và nước mắm; tỉnh Ninh Bình nộp nước mắm; trong khi đó Bình Thuận lại nộp da hươu!
Tuy không cố ý làm một cuộc chan hòa cho nước mắm các vùng miền trong cả nước, nhưng điểm qua tình trạng sử liệu thấy nước mắm Việt hình như nơi nào cũng đi vào sử sách với những ghi nhận ở nhiều góc độ và những ý vị độc đáo riêng.
Cũng như người Miến Điện trong bữa ăn hiếm khi vắng món mắm tôm, người Thái Lan từ thành thị đến nông thôn mỗi ngày không thể thiếu sốt chua cay, Đông phương phong tục văn hóa từ điển nêu đặc trưng văn hóa ẩm thực Việt Nam với bốn món tiêu biểu, xếp hạng theo thứ tự: nước mắm, thuốc lào, bánh chưng, trầu cau (Trương Điện Anh chủ biên, Hoàng Sơn thư xã xuất bản, An Huy, 1991).
Sách này dùng chữ “Việt Nam ngư lộ” để chỉ nước mắm Việt Nam, giống cách dùng chữ “ngư lộ” trên biển hiệu Liên Thành, có thể xem đây là cái nhìn từ bên ngoài về truyền thống và tập tục ăn uống của chúng ta.
Trong bốn món vừa nêu, bánh chưng và trầu cau ẩn chứa nét tâm linh với hào quang truyền thuyết bao phủ, thuốc lào chỉ tàm tạm vì không phổ biến và theo đà văn minh có lẽ cũng mất dần, riêng việc cho nước mắm đứng đầu chứng tỏ nhóm biên soạn này đã nắm bắt được chỗ cốt yếu qua điều nghiên thực tế.
Nước mắm phổ biến, bình dị, sang trọng và… giàu đạm. Theo số liệu của khoảng mươi năm trước do Từ điển Bách khoa Việt Nam ghi nhận, mỗi năm cả nước làm ra độ 150-170 triệu lít nước mắm các loại. Như con số này, trừ đi một ít dành cho người phương Tây đang dùng thử, đổ đồng dân Việt mỗi năm, vào độ ấy, đã cho gần 2 lít nước mắm vào người, trung bình mỗi ngày trên dưới 10 giọt.
Sài Gòn đang nóng, nhớ mấy hàng dừa bên bờ biển miệt Hà Tiên, tiếng gió dắt đưa tiếng ru chậm chậm “ Ầ…u.. ơ…Con cá cơm... thơm hơn con cá bẹ - Bởi mê nước mắm hòn mà… em trốn mẹ theo à… anh”.
__________
(*) Tĩn: loại hũ bằng sành, phình ở giữa, dùng để đựng nước mắm.


Nhà nghiên cứu PHẠM HOÀNG QUÂN

Sửa bởi tuphuongsg: 27/10/2016 - 21:43


Thanked by 1 Member:

#38 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 30/10/2016 - 20:17

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tấm lòng người Sài Gòn

07:48 AM - 30/10/2016 Thanh Niên



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Băng chữ hai dòng tám cột trên Báo Tin Sáng số ra ngày 7.9.1971


Trận lụt đã khiến khoảng 100.000 người thiệt mạng, con số người chết gấp hàng trăm lần so với mức khoảng 1.000 người của trận lũ tại miền Trung năm 1999 và trận lũ năm 2000 tại miền Nam. Thiệt hại rất lớn về giao thông, công nghiệp. Tổng số trên 120.000 công trình liên quan đến nhà cửa, kho tàng bị ngập và trôi. Ngoài ra, thiệt hại của nhân dân và các địa phương bị ảnh hưởng từ lũ lụt, dịch bệnh, ngừng trệ sản xuất sau mưa lũ rất lớn. Theo đánh giá của Cơ quan Quản trị hải dương và khí tượng Mỹ (NOAA) thì đây là một trong những trận lũ lụt lớn nhất của thế kỷ 20 trên thế giới.




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Danh sách bạn đọc đóng tiền cứu trợ đồng bào miền Bắc đăng trên Báo Tin Sáng


Lời kêu gọi nghĩa tình của một tờ báo
Trong lúc miền Bắc cố gắng tập trung khắc phục những hậu quả nặng nề do thiên tai để lại thì tại Sài Gòn, trên tờ báo Tin Sáng đã làm đồng bào chú ý vì một mục ở trang nhất rất lạ. Đó là vào ngày 7.9.1971, dưới chân trang nhất tờ báo in khổ lớn (58 x 42 cm) có chạy một băng chữ hai dòng tám cột: “BẮC NAM RUỘT THỊT MỘT NHÀ, SỚT CƠM CHIA ÁO ĐẬM ĐÀ TÌNH THƯƠNG - Hãy nồng nhiệt hưởng ứng chiến dịch nhường cơm sẻ áo cho đồng bào miền Bắc do Tin Sáng tổ chức”.
Cũng trong số báo ngày hôm đó, phía trái trang nhất có một cột đóng khung đăng nội dung như sau (nguyên văn): “Tin Sáng sẽ xin phép tổ chức đi Hà Nội trao tài vật quyên góp tận tay đồng bào miền Bắc (tít). Sáng nay (7.9) chúng tôi đã nhận được số tiền sau đây để giúp đồng bào nạn nhân miền Bắc bị bão lụt: các tăng sĩ chùa Giác Nguyên 7.640 đồng, ông Trần Thanh Hiệp 1.000 đồng (51 tuổi, đường Trương Minh Giảng), bác Tám Hòa-SG 10.000 đồng. Cộng: 18.640 đồng. Trong thơ gởi đến Tin Sáng các tăng sĩ chùa Giác Nguyên còn cho biết họ tình nguyện đi trong đoàn công tác vận động cứu trợ đồng bào bị lụt miền Bắc. Xin các đoàn thể hiện đang vận động cho công tác nầy lưu ý cho điểm ấy. Chúng tôi vô cùng cảm kích cho nghĩa cử trên và xin thiết tha kêu gọi đồng bào tất cả các giới, vì tình ruột thịt hãy tích cực góp phần và cổ động góp phần cứu trợ. Xin đồng bào cứ đến tòa soạn trong buổi sáng từ 8 giờ 30 đến 12 giờ trưa. Ngoài ra cũng xin thông báo, Tin Sáng sẽ xin phép tổ chức đi Hà Nội để trao số tài vật quyên góp tận tay đồng bào nạn nhân. Phái đoàn dự định sẽ gồm có hai đại diện độc giả, một ký giả và chủ nhiệm Tin Sáng. Trong trường hợp chánh phủ từ chối không cho phái đoàn đi, Tin Sáng sẽ nhờ Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế chuyển giao hoặc sẽ nhờ Tin Sáng hải ngoại cử đại diện đem số tài vật trao tận tay đồng bào miền Bắc”.




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Báo Tin Sáng tổng kết cuộc vận động ẢNH: L.V.N


Những đồng tiền đầy tình thương của người Sài Gòn
Sau đó, hằng ngày trên trang nhất tờ báo đều đăng tên những người đến đóng góp. Thật cảm động khi trong danh sách đó là tên ngắn gọn chị A, ông B, anh C, chị Hai bán cơm tấm, cô Ba bán thịt heo… đóng từ 100 đến 5.000 đồng (giá sinh hoạt năm 1972: 414 đồng/USD, vàng 26.100 đồng/lượng, một chiếc xe Honda SS50 giá 20.000 đồng...). Họ là những tiểu thương, người phu xích lô cho đến thương gia, nghệ sĩ..., có cả những sinh viên, học sinh nghèo. Phải nói đây là một hành động khá liều lĩnh của người dân Sài Gòn, vì khi đóng tiền cứu trợ họ đều ghi tên thật, có địa chỉ mà không sợ chính quyền cho vào sổ bìa đen “thân cộng” và bị theo dõi. Người miền Bắc là đồng bào VN máu đỏ da vàng, dù đang chia cắt hai miền nhưng đồng bào bị thiên tai, lũ lụt thì cùng chia sớt nhau hoạn nạn. Trong danh sách đóng góp này có nữ nghệ sĩ Kim Cương. Riêng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi đến băng nhạc Kinh Việt Nam bán được 5.000 đồng để ủng hộ cho cuộc cứu trợ.
Đến ngày 20.10.1971, Báo Tin Sáng đã tổng kết cuộc vận động với thông tin trên trang nhất: “Cứu lụt miền Bắc kết thúc với 609.490 đồng. Chúng tôi đã quyết định khóa sổ vào 12 giờ trưa ngày 18.10. Kể đến ngày 18.10.1971 chúng tôi đã nhận được 609.490 đồng của mọi giới miền Nam”.




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Cột đóng khung đăng trên Tin Sáng ngày 7.9.1971


Sau đó, không biết vì lý do gì không thấy Báo Tin Sáng đăng tin về việc xin được giấy phép đi ra Hà Nội cứu trợ hay không vì báo cứ bị tịch thu liên tục. Hay là số tiền này theo như cam kết đã gửi cho Hội Hồng thập tự quốc tế hoặc thông qua Tin Sáng hải ngoại để gửi cho người dân miền Bắc đến nay vẫn không biết. Tuy nhiên, người đọc chắc chắn một điều rằng Báo Tin Sáng là báo của những người đối lập chính quyền lúc đó, bảo vệ lẽ phải nên sẽ không bao giờ thâm lạm số tiền đóng góp. Nếu có thâm lạm, chắc chắn sẽ bị người dân thưa kiện và các tờ báo khác “đập” cho không còn manh giáp. Một điều khiến cho mọi người không biết thêm tin tức về khoản cứu trợ này là vì đến tháng 3.1972 Báo Tin Sáng bị đóng cửa.
Dù chưa biết đường đi của số tiền cứu trợ “của ít lòng nhiều” có đến được đồng bào bị lũ lụt hay không nhưng với tinh thần “Cứu trợ đồng bào bão lụt miền Bắc, máu chảy ruột mềm”, khơi gợi trong lòng đồng bào miền Nam hướng về đồng bào miền Bắc ruột thịt, quả là một nghĩa cử chỉ có thể có được ở một tờ báo từ thành phố của những người có máu nghĩa khí Sài Gòn...

Báo Tin Sáng là nhật báo do dân biểu Ngô Công Đức làm chủ nhiệm từ năm 1968 - 1972. Báo khổ lớn, toàn mặt trang 1 được chia làm 8 cột chữ. Sự kiện nào quan trọng nhất trong ngày sẽ được chạy tít 8 cột. Báo Tin Sáng (bộ mới) tục bản vào ngày 10.8.1975 và ngưng xuất bản vào tháng 6.1981.

Lê Văn Nghĩa



#39 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 30/10/2016 - 20:27

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




HỒ CON RÙA lãng mạn ra đời sau thiết kế táo bạo

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


TTO - "Trước 1972, khu vực hồ Con Rùa bây giờ ít ai ghé chơi cả buổi như bây giờ lắm, có một cái hồ nước trơ trọi thì có gì mà chơi".

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hồ Con Rùa nhìn từ đường Nguyễn Đình Chiểu - Ảnh: M.C

Ông cụ Trần Văn D. - cư dân sống từ năm 1945 trên đường Nguyễn Đình Chiểu, gần khu vực hồ Con Rùa hiện nay - bảo vậy với chúng tôi vào sáng 29-10, khi hàng trăm bạn trẻ đang tìm đến đây trong một buổi sáng cuối tuần.
Từ tháp nước "tuyệt đẹp" bị phá bỏ đến tượng Ba Hình... ít ai nhớ
Trên băng ghế uốn cong lãng mạn đặt xung quanh hồ, cụ D. kể: "Trước 1956, cái hồ này nhỏ xíu; giữa có tượng ba lính Pháp bằng đồng, dân Sài Gòn xưa gọi là tượng Ba Hình. Cái bùng binh (round point) xung quanh hồ xưa gọi là công trường Maréchal Joffre".
Trí nhớ của cụ không sai. Công trường Maréchal Joffre nằm giữa giao lộ, đúng hơn là một ngã tư của ba con đường nay là Phạm Ngọc Thạch và Võ Văn Tần, Trần Cao Vân, vì hai đường sau nằm trên một đường thẳng)... và là vòng xoay đầu tiên của thành phố Sài Gòn sau khi người Pháp vô.
Trước đó, bản quy hoạch Sài Gòn 500.000 dân năm 1862 của sĩ quan công binh Coffin không hề có vòng xoay này.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Bản đồ Sài Gòn 1878 với vòng xoay (dấu chữ thập trên bản đồ) đầu tiên của Sài Gòn, hiện nay là Công trường Quốc Tế - hồ Con Rùa. Từ vị trí này đi xuống là nhà thờ Đức Bà (đang xây dựng, năm 1880 mới xong) - Ảnh tư liệu

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Bản đồ quy hoạch Sài Gòn 500.000 dân của Coffin không hề có vòng xoay (bùng binh - round point - hồ Con Rùa hiện nay - Ảnh tư liệu
Trước khi có công trường, nơi đây là một tháp nước được xây dựng từ năm 1878 để cung cấp nước cho Sài Gòn, với nguồn cung cấp là một số hồ nước xung quanh mà hiện nay trong khuôn viên Nhà văn hóa Thanh niên TP..... vẫn còn một cái khá lớn (đã được đặt các tấm bêtông phủ lên. Thỉnh thoảng anh em bảo vệ ở đây leo xuống kiểm tra, có khi bắt được cá trê khủng).
Tháp nước (chateau d'Eau) này được người Pháp ca ngợi và in bưu thiếp khá nhiều: "Một tác phẩm tuyệt đẹp trên một nền móng rất cao và vững chãi với một cầu thang xoắn ốc gắn vô một cái lồng" (Louise Bourbonnaud - Les Indes et l'Extreme Orient, 1892).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Tháp nước khu vực hồ Con Rùa hiện nay lúc xây dựng xong và định hình vòng xoay (dòng chữ trong bưu thiếp: rond point: vòng xoay, dân Sài Gòn gọi là bùng binh) đầu tiên của Sài Gòn. Ảnh chụp từ ngã tư Phạm Ngọc Thạch - Nguyễn Thị Minh Khai hiện nay về phía tháp nước - Ảnh tư liệu

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Tháp nước khu vực hồ Con Rùa hiện nay đầu thế kỷ 20 nhìn từ đường Blancubé (trước năm 1975 là đường Duy Tân, nay là đường Phạm Ngọc Thạch). Bên trong tháp là đường xoắn lên trên - Ảnh bưu thiếp

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Tháp nước (tháp cao phía trên, phía sau nhà thờ Đức Bà - hiện là khu vực hồ Con Rùa) trên bản đồ 3D Sài Gòn năm 1881. Tòa nhà lớn bên trái là dinh Norodom (hiện là hội trường Thống Nhất). Đường trước dinh Norodom là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa hiện nay. Khu nhà cùng đường gần đó giờ là Trường THPT Lê Quý Đôn - Bản đồ của đại úy Fauvre

"Tác phẩm tuyệt đẹp" này bị chính người Pháp phá bỏ năm 1921 vì không còn đủ sức đáp ứng yêu cầu cung cấp nước cho Sài Gòn lúc ấy đã tăng mạnh.
Tượng Ba Hình biểu trưng cho việc xâm chiếm của người Pháp đến năm 1956 cũng bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa phá bỏ mà không ai luyến tiếc.
Tượng không còn, khu vực này trở thành Công trường Chiến Sĩ với cái hồ nhỏ ở giữa "chủ yếu để dân chúng đi qua nghỉ chân chứ ít ai ghé vô" - cụ D. bảo.
Thiết kế táo bạo và lãng mạn Sài Gòn
Cái hồ nhỏ ấy nằm buồn hiu dù nằm giữa một "khung trời đại học" lãng mạn, khi lúc ấy xung quanh nó là một số trường đại học như Luật, Y, Kiến trúc... và "con đường Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch) cây dài bóng mát".
Cho đến giữa thập niên 1960, khu vực này bỗng như bừng tỉnh với thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn Kỳ. Thiết kế được chọn trong cuộc thi quy hoạch mới cho một công trường rộng gần 1ha nhưng nằm buồn hiu giữa Sài Gòn này.
Nhưng thật sự khu công trường này trở nên sống động và thành kỷ niệm khó quên của bao thế hệ người trẻ Sài Gòn khi xa thành phố là cuộc trùng tu, tôn tạo từ năm 1972.
Cụ thể là việc dựng thêm giữa hồ các cột bêtông cao vút. Trên mỗi cột là năm bàn tay xòe ra đón đỡ một nhụy hoa bêtông nhỏ và thanh mảnh bên trong.
Bên ngoài là vòng xoay giao thông, bên trong hồ cũng là một hệ thống đường đi bêtông xoắn ốc theo vòng xoay, hướng tới các trụ bêtông và một bia bêtông ghi tên những nước công nhận Việt Nam Cộng hòa lúc ấy với đường kính gần 100m.
Bia ghi tên được thiết kế đặt trên một con rùa lớn bằng hợp kim đồng mà đám học trò chúng tôi khi đến đây đều leo lên cỡi và nghịch phá. Nhiều người khi đến đây chơi cũng tranh thủ chụp hình với con rùa này.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Công trường Chiến Sĩ (nay là Công trường Quốc Tế) trước lúc chỉnh trang giữa thập niên 1960, lúc đó hồ Con Rùa chỉ là một hồ nước nhỏ chứ không lớn như hiện nay - Ảnh tư liệu

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hồ Con Rùa lúc mới xây dựng xong với con rùa hợp kim đồng dưới bia bêtông, đầu rùa hướng về trụ bê tông tròn giữa hồ, hướng nhà thờ Đức Bà - Ảnh: Wayne Trucke

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Những bước chân đầu tiên trên hồ Con Rùa khi mới xây dựng xong - Ảnh: Wayne Trucke

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Một góc hồ Con Rùa sáng 29-10. Vết còn lại của lưng con rùa đồng vẫn còn dưới bệ bêtông màu trắng trong ảnh - Ảnh: M.C.
Thế là hồ Con Rùa ra đời, dù tên gọi chính thức của nó cho đến nay vẫn là Công trường Quốc Tế. Thậm chí khi con rùa đồng không còn sau một vụ phá hoại sau năm 1975, người ta vẫn gọi đó là hồ Con Rùa - dù hồ không hề có con rùa thật lẫn rùa đồng nào.
Thỉnh thoảng cũng có bạn trẻ tinh nghịch thả rùa phóng sinh vô đó, nhưng làm sao những chú rùa tội nghiệp này có thể sống trong một cái hồ toàn bêtông và thường được làm vệ sinh.
Xin không nói những huyền thoại hư hư thực thực về long mạch, về trấn yểm của tổng thống Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ, có thể nói hồ Con Rùa mà những bạn trẻ tìm đến hiện nay có một thiết kế rất táo bạo.
Trong đó ngay khi vừa ra đời 1972, công trình này từng bị la hoảng khi những con đường đi trên hồ uốn lượn mà không hề có lan can phòng chống... té hồ.
Thế nhưng từ khi đưa vào sử dụng năm 1972 đến nay, chuyện té hồ hình như chưa bao giờ là vấn nạn cần phải xem xét, dù có thể thỉnh thoảng cũng có ai đó hụt chân té xuống cái hồ... cạn sợt này.
Cùng chúng tôi đi trên các con đường bêtông nổi lát đá rửa (để bám chân - được làm rất chắc chắn, giờ vẫn vững chắc sau gần nửa thế kỷ trên mặt hồ và đội mưa nắng), kiến trúc sư trẻ Đậu Việt Đức (Công ty CP nhà Hưng An, Q.Bình Thạnh, TP.....) nhận định: "Vị kiến trúc sư thiết kế nơi đây đã khéo léo dẫn dắt tầm nhìn của người đi trên các con đường xoắn ốc trên hồ đến khu trung tâm (các cột bêtông và bia rùa) nên đã ít nhiều hạn chế tai nạn té hồ".
Theo anh, "đây là thiết kế đơn giản nhưng lãng mạn một cách rất táo bạo - giữa một Sài Gòn ít nhiều chú trọng công năng, hình khối lúc ấy; nhất là thực hiện ở một khu vực dành cho bao người qua lại hằng ngày".
Và nét lãng mạn ấy với thử thách của thời gian đã được xác nhận bởi bao thế hệ bạn trẻ, học trò, người dân Sài Gòn tìm đến, nhớ về; như một trong những địa điểm đáng yêu nhất Sài Gòn.
...Như buổi sáng cuối tuần bình thường 29-10, khi chúng tôi đến đây, hàng trăm bạn trẻ đang ngồi bên nhau xung quanh và bên trong. Một gia đình trẻ cùng hai con nhỏ tung tăng bước vô. Rồi một cặp bạn trẻ đôi mắt ngời hạnh phúc bước lên khối cầu thang trên hồ chụp hình đám cưới...

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Từ đường Nguyễn Đình Chiểu lên, qua khỏi hồ Con Rùa là thấy ngay nhà thờ Đức Bà - Ảnh: M.C.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Một gia đình ghé chơi đến hồ Con Rùa ngày cuối tuần - Ảnh: M.C.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hồ Con Rùa sáng 29-10 với những bạn trẻ bên nhau trên hồ và một đôi bạn trẻ chụp hình cưới - Ảnh: M.C.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Bình an, thanh thản hồ Con Rùa - Ảnh: M.C.

Hồ Con Rùa yên bình giữa một vòng xoay Sài Gòn tấp nập - Clip: M.C


CÙ MAI CÔNG

Sửa bởi tuphuongsg: 30/10/2016 - 20:30


Thanked by 1 Member:

#40 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 03/11/2016 - 21:42

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn





Khung trời đại học ở Sài Gòn là khung trời nào?

03/11/2016 14:30 GMT+7
TTO - Sáng 3-11, ngồi uống cà phê gần nơi mình hay ngồi ngày còn là chàng sinh viên luật 19 tuổi, ông Nguyễn Xuân Hoàng bảo: "Hồi đó học sinh ghi danh học luật đông lắm, trường lớp không đủ chỗ ngồi...".

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đường Pasteur, đoạn trước cổng Trường ĐH Kiến trúc luôn rợp bóng cây (ảnh chụp sáng 1-11) - Ảnh: M.C.
Chúng tôi ngồi ở khu vực "cà phê bệt" góc ngã tư Nguyễn Đình Chiểu - Pasteur của sinh viên ĐH Kiến trúc, ĐH Kinh tế; một góc "khung trời đại học" trước năm 1975 và cảm nhận hơn một điều có lẽ ai cũng biết: khung trời này ngợp bóng những hàng cổ thụ cao vút...
Hai ngôi trường trái ngược nhau
Chàng sinh viên luật niên khóa 1973-1974 Xuân Hoàng nhớ lại: "Ghi danh học luật mấy chục ngàn đứa thì trường lớp lúc đó nhỏ xíu làm sao đủ chỗ ngồi được. Hồi đó học ĐH không điểm danh nên sinh viên tản ra xung quanh "ôm cua" (cours - khóa học, lớp học, giáo trình học; tạo nên từ "cúp cua" mà giờ học trò vẫn xài) là chuyện bình thường. Quanh trường toàn thấy sinh viên đúng ngồi, đi lại um sùm...".
Trường luật trước 1975 có tên chính thức là Luật khoa đại học đường Sài Gòn, cổng trường ở số 17 Duy Tân (nay là cổng Trường đại học Kinh tế, 17 Phạm Ngọc Thạch, Q.3, TP..... - đối diện tòa soạn báo Khăn Quàng Đỏ - Mực Tím).
Chiều dài trường nằm dọc theo nửa đoạn đường từ ngã tư Nguyễn Đình Chiểu - Phạm Ngọc Thạch đến Nguyễn Đình Chiểu - Pasteur hiện nay.
Nửa đoạn đường còn lại thuộc Trường ĐH Kiến trúc có cổng bên 196 Pasteur (nay vẫn vậy) và đâu lưng vô nhau (trước đó Trường ĐH Kiến trúc ở số 61 Phan Đình Phùng, nay là Nguyễn Đình Chiểu, gần đó).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

"Con đường Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch) - Cây dài bóng mát" trưa 1-11. Bên phải là cổng Trường ĐH Kinh tế TP..... (trước năm 1975 là khuôn viên Trường đại học Luật Sài Gòn) - Ảnh: M.C.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Trường ĐH Kinh tế (xưa là vị trí của Trường ĐH Luật Sài Gòn) và Trường ĐH Kiến trúc Sài Gòn (nay là Trường ĐH Kiến trúc TP.....) nằm cạnh nhau và đâu lưng nhau trên đường Nguyễn Đình Chiểu sáng 3-11 - Ảnh: M.C.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Thầy trò Trường ĐH Luật trước 1975 - Ảnh tư liệu

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Giáo sư, KTS Nguyễn Quang Nhạc (khoa trưởng giai đoạn 1967-1970 ) trò chuyện cùng các sinh viên Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn trước 1975 - Ảnh: uah.edu.vn

Con đường Duy Tân - Cây dài bóng mát

Vòm xanh mát rượi trước cổng Trường ĐH Kiến trúc TP..... sáng 3-11 - Clip: M.C
Hai ngôi trường không chỉ "ngược" nhau về vị trí mà còn cả sĩ số ghi danh học.
Trường Luật nhận hàng vạn sinh viên ghi danh học mỗi khóa mới. Theo giáo sư Nguyễn Văn Canh, tiến sĩ công pháp, nguyên phụ tá khoa trưởng từ 1973-1975, năm 1970 số sinh viên ghi danh học năm thứ nhất ban cử nhân là 13.000 sinh viên thì bốn năm sau (1974) số sinh viên tốt nghiệp chỉ 715 (khoảng 5,5%).
Nghĩa là rớt 94,5%. Và đây là tỉ lệ phổ biến nhiều năm. Trong số rớt có cô tiểu thư của nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên: Nghe nói em vừa thi rớt Luật - Môi trâm anh tàn héo nụ xa vời - Mắt công nương thầm khép mộng chân trời - Xin tội nghiệp lần đầu em thất vọng!... (Duyên tình con gái Bắc).
Tỉ lệ này xem ra không làm sờn lòng sĩ tử vì niên khóa 1974-1975, niên khóa cuối cùng của trường trước 1975, số sinh viên ghi danh học lên đến... 58.000 người.
Trong khi đó, số sinh viên ghi danh học kiến trúc chỉ năm bảy trăm mỗi khóa (chẳng hạn năm 1969 chỉ có 689 người). Tỉ lệ tốt nghiệp càng đáng sợ hơn. Giáo sư Nguyễn Quang Nhạc, khoa trưởng kiến trúc 1967-1970 (cha đẻ lễ hội "rửa tội" truyền thống của "dân Kiến" lâu nay) cho biết từ suốt 24 năm, từ 1951-1975 chỉ có 252 kiến trúc sư tốt nghiệp nơi đây.
(Trước 1975, Viện đại học Sài Gòn gồm các trường ĐH là phân khoa thành viên. Khoa trưởng các trường ĐH tương đương với hiệu trưởng hiện nay).
Khung trời đại học đầu tiên của Sài Gòn
Cả hai trường đều có lưng kề với trụ sở Viện đại học Sài Gòn (nay là trụ sở Văn phòng đại diện Bộ Giáo dục - đào tạo, nhìn ra hồ Con Rùa hiện nay).
Gần đó là Trường ĐH Y khoa Sài Gòn ở số 28 Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần và là Bảo tàng Chứng tích chiến tranh). Chuyện sinh viên trường Luật, Kiến trúc, Y qua lại giao lưu tình cảm, hẹn hò nhau là chuyện khá phổ biến trên những cung đường này .
Cũng trên đường Trần Quý Cáp có một khu ký túc xá dành cho nữ sinh viên là Đại học xá Trần Quý Cáp (nam sinh viên ở Đại học xá Minh Mạng, nay là KTX Ngô Gia Tự).
Và đây là khung trời đại học đầu tiên nổi tiếng của Sài Gòn trước 1975, với trục lộ chính là "Con đường Duy Tân (Phạm Ngọc Thạch hiện nay) - Cây dài bóng mát" (Trả lại em yêu - nhạc Phạm Duy).
Cho đến nay, khung trời này vẫn rợp bóng những hàng cây, vòm cây xanh rờn không chỉ trên đường Duy Tân mà cả những con đường bên ngoài, xung quanh các ngôi trường ĐH Kiến trúc, Luật, Y như Pasteur, Phan Đình Phùng, Trần Quý Cáp.
Trước năm 1975, những vòm cây này có tán lá rất dày (có thể vì ít tỉa cành như hiện nay). Đầu thập niên 1970, ai đi dưới những vòm cây đường Trần Quý Cáp để ra hồ Con Rùa và đến Sở Thú chơi có lẽ đều có cảm giác như khi đi trong một đường hầm mà vách hầm dày đặc cây lá.
Ra khỏi những hàng cây cổ thụ xung quanh trường, các sinh viên tới hồ Con Rùa lãng mạn cạnh bên với bóng cây soi bóng nước. Qua hồ tới trụ sở Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (4 Duy Tân, nay là Nhà văn hóa Thanh niên TP.....) thì cũng toàn những hàng cây cao vút.
Nhà thờ Đức Bà và công viên Thống Nhứt (nay là công viên 30-4) gần bên như một rừng cây làm say mê bao thế hệ học trò cho tới nay. Buổi chiều khuôn viên - Mây trời xanh ngắt (Trả lại em yêu - nhạc Phạm Duy).
"Trường Luật chật hẹp mà sinh viên lại quá đông, chúng tôi thường la cà trong những quán cóc. Nhiều nhất là xung quanh công trường Quốc Tế, thường gọi là hồ Con Rùa, bên ngoài trụ sở Tổng hội Sinh viên hay góc Thư viện Quốc gia (nay là Thư viện Khoa học tổng hợp TP.....) trên đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng)" - Hồi ức một sinh viên Luật niên khóa 1972-1973.
Không chỉ vậy, nhiều anh sinh viên Luật, Kiến trúc còn la cà sang Trường ĐH Văn khoa Sài Gòn trước1966 còn nằm trên đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng), cũng một con đường lãng mạn với những vòm me xanh tràn ngập.
Không ít duyên tình đại học đã thực sự mở rộng khung trời đại học Sài Gòn lúc ấy. Khi ĐH Văn khoa chuyển về đại lộ Cường Để (nay là Đinh Tiên Hoàng) năm 1966, ngôi trường Văn khoa xưa bị phá đi để xây Thư viện Quốc gia (nay là Thư viện Khoa học tổng hợp TP.....) thì đây vẫn là địa chỉ mà nhiều sinh viên ở trung tâm khung trời đại học tìm đến như một nơi học tập, kiếm tìm tư liệu và... tâm sự.
"Có thể nói trước 1975, những con đường xung quanh các trường Luật, Y, Kiến trúc... như Pasteur, Phan Đình Phùng, Duy Tân... hầu như lúc nào toàn thấy những gương mặt sinh viên tìm đến học hành, hội họp lẫn... biểu tình chống chế độ Sài Gòn" - ông Hoàng bảo.
Đón đọc kỳ 2: Khung trời đại học thứ hai của Sài Gòn


CÙ MAI CÔNG


Minh Nhật Trương 15:28 03/11/2016
Đó không chỉ là "Khung trời đại học" mà còn là cả "Khung trời kỷ niệm" cho bao thế hệ sinh viên trước 1975. Cũng từ nơi này các tác phẩm âm nhạc và những vần thơ bất hủ về tình yêu thời sinh viên lan tỏa. Áo trắng ngoan hiền áo trắng ơi/ Mùa xuân áo trắng quyện lưng trời/ Mà anh cứ ngỡ trên tà áo/ Là bóng hình em hoa nắng rơi * Về những mối tình sinh viên trong trắng e ấp, lãng mạn: Có phải em mang trong áo bay/ Ba phần gió thổi một phần mây/ Hay là em giữ mây trong áo/ Rồi thả cho làn áo trắng bay *

Sửa bởi tuphuongsg: 03/11/2016 - 21:44


Thanked by 1 Member:

#41 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 04/11/2016 - 20:54

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


khung trời ĐH hoa mộng thứ 2 ở Saigon

TTO - Sáng 4-11, trời Sài Gòn đầy mây. Mưa bay nhẹ trên khung trời trường đại học Khoa học xã hội & nhân văn và khoa Dược. Một chiếc dù xanh viền tím từ cổng trường nhân văn băng qua đường Đinh Tiên Hoàng...

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Chiếc dù xanh viền tím của một nữ sinh Trường ĐH KHXH&NV từ cổng trường ra lúc gần 9g sáng 4-11 - Ảnh: M.C.
"Con đường trời mưa êm - Chiếc dù che màu tím" (Con đường tình ta đi - nhạc Phạm Duy) chợt vang lên trong đầu chúng tôi sáng 4-11, khi đứng giữa khung trời hai trường ĐH Văn khoa và ĐH Dược trước 1975; nơi mà vị nhạc sĩ này thốt lên cảm xúc về "người tình Văn khoa" nào đó.
Cuộc chia ly "chấn động" khung trời đại học Duy Tân
Đầu tháng 11-1963, lực lượng đảo chính chống chế độ Ngô Đình Diệm tấn công tiểu đoàn phòng vệ Phủ tổng thống đóng ở thành Cộng Hòa trên đại lộ Thống Nhứt (nay là Lê Duẩn).
Chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Tòa nhà chính giữa thành (ở vị trí giữa đường Đinh Tiên Hoàng hiện nay) đầy vết đạn pháo. Và công trình xây dựng từ năm 1873 trên vị trí giữa thành Gia Định xưa đã bị chính quyền Sài Gòn sau đó giải tỏa toàn bộ.
Thành Cộng Hòa bị xóa sổ. Hai tòa nhà hai bên cổng thành bị chia cắt thành đường Cường Để nối dài (nay là Tôn Đức Thắng - sau 1975 đoạn đường mới mang tên Tôn Đức Thắng, sau đó cắt về Đinh Tiên Hoàng như hiện nay).
Trường ĐH Dược khoa tách khỏi Y khoa và tá túc một thời gian ở góc Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) - Hiền Vương (nay là Võ Thị Sáu) năm 1964 đã chuyển về định cư (cho đến nay, hiện là khoa dược của Đại học Y dược TP.....) ở khu vực tòa nhà bên trái, nhìn từ đường Lê Duẩn hiện nay nhìn vô.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Cổng khoa dược Trường ĐH Y dược TP...... Tòa thành xưa (màu xám) hiện là căngtin dược khoa - Ảnh: M.C.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Khung trời đại học thứ hai ở Sài Gòn sáng 4-11. Bên trái là khuôn viên ĐH KHXH&NV, bên phải, qua lớp bạt che là khuôn viên khoa dược ĐH Y dược TP...... Hàng cổ thụ giữa ảnh là đường Tôn Đức Thắng - Ảnh: M.C.
Phía sau và sát cạnh ĐH Dược là Trường cao đẳng Nông Lâm Súc (năm 1972 đổi thành Học viện Nông nghiệp, năm 1974 thành Trường ĐH Nông nghiệp Sài Gòn; nay là ĐH Nông lâm TP..... nhưng dời về Thủ Đức hiện nay; trụ sở trường nay là Trường Cán bộ quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn II).
Tòa nhà bên phải giao cho Trường ĐH Văn khoa cũng từ năm 1964. Vốn trước đó, ĐH Văn khoa ở khu vực Thư viện Quốc gia trước khi được xây dựng lại (nay là Thư viện Khoa học tổng hợp TP.....).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Cổng Trường đại học Văn khoa (nay là Trường ĐH KHXH&NV TP.....) trên đường Cường Để (nay là Đinh Tiên Hoàng, Q, 1, TP.....) - Ảnh tư liệu
ĐH Y khoa Sài Gòn sau khi tách Y và Dược từ năm 1961, thầy trò Y khoa đã ở lại cơ sở 28 Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần) tới năm 1966 thì dời sang Trung tâm Giáo dục y khoa vừa xây dựng xong trên đường Hồng Bàng (do hai nhóm kiến trúc sư Mỹ - Việt thiết kế, trong đó có KTS Ngô Viết Thụ, người thiết kế dinh Độc Lập).
Cuộc chia ly này ít nhiều làm rơi nước mắt những chàng, nàng sinh viên các trường "lỡ" quen nhau ở khung trời đại học cũ với trục đường Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch). Có chàng Văn khoa than thở với nàng sinh viên Luật của mình: "Đời sao ngang trái, trớ trêu - Ta đây nàng đấy dựng lều hai nơi" (!).
Một khung trời đại học thành hai khung trời
Hai khung trời này nối với nhau bằng đại lộ Thống Nhứt.
Các chàng, nàng sinh viên Văn khoa, Dược, Nông lâm súc đã bắt đầu khung trời đại học mới của mình. Khung trời thứ hai này thơ mộng không kém, thậm chí còn hơn khung trời đầu tiên khi trước cổng trường là đại lộ Cường Để với hàng cổ thụ lớn nhất Sài Gòn, nhìn như rừng (hiện nay đoạn trước cổng trường là Đinh Tiên Hoàng; đoạn có hàng cổ thụ tiếp theo là Tôn Đức Thắng).
Số lượng sinh viên của khung trời mới này không hề kém số sinh viên ở khung trời cũ. Niên khóa 1969-1970, tổng cộng sinh viên ba trường Văn khoa, Dược, Nông lâm súc gần 20.000, trong đó riêng Văn khoa là 16.372 (cùng lúc hai trường Luật và Kiến trúc ở khung trời đầu tiên chỉ hơn 14.000, cụ thể Luật 13.711, Kiến trúc 689.
Ở đó, năm 1967, trên nền gạch một khu nhà đổ nát được cấp sau cuộc đảo chính 1963 chưa được xây dựng lại, lần đầu tiên giọng ca của ca sĩ Khánh Ly đã vang lên với những bản tình ca Ca khúc da vàng của Trịnh Công Sơn. Đó là một quán lá dựng vội trong khuôn viên Đại học Văn khoa với tên Quán Văn.
Những chàng, nàng sinh viên Văn khoa là những khán giả đầu tiên ngẩn ngơ với giọng ca khàn đục này: Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ (Diễm Xưa - Trịnh Công Sơn). Tháp cổ ấy liệu có phải nói về tầng tháp cổng thành xưa đến giờ vẫn ngập tràn thơ mộng?
Lúc đó, qua cổng trường là những dãy nhà trệt và tòa nhà 3 tầng, mỗi tầng một giảng đường, qua đó là Hội quán Văn Khoa với món uống chủ lực cũng hiền như sinh viên Văn khoa là đá chanh đã vô thơ nhạc (Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt - Trả lại em yêu - Phạm Duy) và chương trình văn nghệ sinh viên.
Rồi gần như sát cạnh ba trường bên là Sở thú, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà đến nay vẫn tràn ngập bóng cây bên ngôi trường Trưng Vương thơ mộng: Con đường mộng hoa xưa, vẫn từng đôi từng lứa - Con đường vào mộng mơ, con đường mặn mà - Hỡi người tình Văn Khoa, bóng người trên hè phố - Lá đổ để đưa đường - Hỡi người tình Trưng Vương (Con đường tình ta đi - nhạc Phạm Duy).
Dân Văn khoa có lẽ ai chẳng mê thơ nhạc. Ca sĩ Hoàng Oanh nổi tiếng Sài Gòn xưa trước và sau giờ học là có chàng đưa đón. "Chiều phai nắng bước ngang Văn Khoa - Mấy bóng hồng như những nụ hoa" - chàng sinh viên Văn khoa Nguyễn Cang đến giờ vẫn nhớ hình bóng cũ những cô nàng Văn khoa niên khóa 1973-1974 của mình như vậy.
Có ai người Sài Gòn không biết, không nhớ những "khung trời đại học" và "con đường mộng hoa" nơi đây? Sáng 4-11, ghé qua khung trời đại học thứ hai này, chúng tôi vẫn cảm nhận rất rõ một khung trời đại học rộn rã yêu thương, như tiếng cười rúc rích của những nàng sinh viên Dược trên sân bóng rổ trong tiết thể dục thể thao, khi mưa buổi sáng lất phất trong những hàng cây cổ thụ Sài Gòn...

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hai khung trời đại học của Sài Gòn trên bản đồ hiện nay với các vị trí (1: khuôn viên đầu tiên của ĐH Văn khoa; 2: ĐH Kiến trúc, 3: Đại học Luật (nay là khuôn viên ĐH Kinh tế TP.....) ở khung trời đầu tiên và vị trí các trường ở khung trời thứ hai (4, 5, 6: Cao đẳng Nông lâm súc, nay là Trường Cán bộ quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn II) - Đồ họa: Trị Thiên



CÙ MAI CÔNG

Sửa bởi tuphuongsg: 04/11/2016 - 20:58


Thanked by 2 Members:

#42 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 21/11/2016 - 21:16

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Việt sử Xứ Đàng Trong: Công cuộc phòng thủ biên giới của chúa Nguyễn

10:05 AM - 21/11/2016 Thanh Niên



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Tin liên quan Cuốn sách đã góp phần đưa ông trở thành một trong những cây bút hàng đầu của sử học miền Nam trước 1975. Nhân dịp NXB Khoa học xã hội tái bản tác phẩm này (theo bản in của NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1969), Thanh Niên xin trích giới thiệu cùng bạn đọc.
Sau khi các chúa Nguyễn thiết lập chính quyền ở Đàng Trong, hai bên Trịnh, Nguyễn chiến tranh 7 lần, khi đánh, khi nghỉ trong suốt 45 năm.
Tương quan lực lượng
Tài liệu không cho chúng ta biết một cách đích xác lực lượng quân sự của chúa Nguyễn và chúa Trịnh trong các cuộc chiến tranh này, nhưng chúng ta biết chắc rằng ở Bắc Hà, việc tổ chức quân đội đã có quy củ lâu đời. Bấy giờ chiến tranh, biến loạn xảy ra luôn, chúa Trịnh lại ỷ vào binh lực để tự tồn, quan, dân cũng lấy việc quân làm trọng, cho nên Bắc Hà đã có một đạo quân khá mạnh.
Nam Hà, từ sau khi chúa Thái Tổ đánh thắng Lập Bạo, trong cõi yên ổn một thời gian lâu, quân đội vẫn như lúc chúa mới vào, từ chức Chưởng dinh, Chưởng cơ cho đến Cai đội, chỉ dùng người công tộc và người Thanh Hoa, con cháu họ lớn lên thì làm cho Cai đội trong quân ở các dinh, xem vậy quân đội chưa được mở rộng thành một lực lượng của toàn dân.
Đại Nam thực lục tiền biên cho ta biết năm Quý Tị (1653) là năm sắp đánh lần thứ 5 với họ Trịnh (trận Ất Mùi, 1655), chúa Thái Tông mở một cuộc duyệt binh lớn ở An Cựu, nay xem số quân của các dinh, cơ, đội, thuyền tham dự, cộng lại cả thảy chỉ 22.740 người. Số lính chính quy của Bắc Hà, theo những người ngoại quốc cho biết, gồm tới 50.000 người đóng ở Thăng Long.
Ấy là số binh sĩ túc trực thường ngày ở kinh đô. Gặp chiến tranh, chúa Nguyễn cũng như chúa Trịnh, có thể gọi thêm binh ở các địa phương và hương binh ở các phủ, huyện, như chúa Nguyễn Thái Tông đã làm năm Nhâm Tý (1672). Theo giáo sĩ Alexandre de Rhodes, đã mục kích đạo quân chúa Trịnh đi đánh chúa Nguyễn năm Ất Mão (1626), thì quân bộ của Bắc Hà không dưới 12 vạn, và thủy, bộ cả thảy là 20 vạn người.
Về thủy quân, Trịnh hơn hẳn Nguyễn. Vì ở bắc có nhiều sông ngòi lớn, liên lạc với nhau, hạm đội dễ điều động nên người bắc chú trọng thủy quân, tu tạo nhiều chiến thuyền, còn ở nam thì sông ngòi hẹp, lại không liên lạc được nhau, thuyền chỉ dùng ở mặt biển mà thôi. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes trong dịp nói trên, đã thấy Trịnh Tráng có 600 chiến thuyền, lớn hơn tàu Âu châu thời ấy, mỗi chiếc trang bị 3 khẩu đại bác, mỗi bên thuyền có 25 người chèo, xen lẫn vào đám thủy thủ là những lính chiến. Theo các tài liệu của nhiều giáo sĩ khác nhau có mặt ở khắp Nam Hà lúc ấy thì chúa Nguyễn có chừng 200 chiến thuyền thôi.
Theo giáo sĩ Bénigne Vachet (đến Nam Hà năm 1671) thì chúa Nam Hà có 40.000 lính chính quy, trong số ấy lấy 15.000 phòng thủ biên giới phương bắc, 9.000 giữ phủ chúa, 6.000 giữ dinh thự các hoàng thân, đại thần, 10.000 giữ các dinh (tỉnh) khác. Số chiến thuyền của chúa lên đến 200 chiếc, nhưng chiến thuyền của Bắc Hà nhiều gấp ba, gấp bốn số ấy, mà lại lớn hơn, trang bị khí giới đầy đủ hơn.
Công trình phòng thủ quan trọng của chúa Nguyễn
Sau cuộc phát binh vào nam của chúa Trịnh năm Đinh Mão (1627) và sau việc trả lại sắc của vua Lê, chúa Hy Tông thấy rằng muốn bảo tồn lãnh thổ và duy trì địa vị thì chiến tranh với họ Trịnh không thể tránh khỏi. Mà đã thế thì trước phải lo việc biên phòng.
May đâu, một nhân vật đã đến làm quen với chúa, được chúa tin dùng, đó là Lộc Khê hầu Đào Duy Từ, đã giúp chúa kế hoạch bố trí sự phòng thủ ấy. Hai lũy Trường Dục và Nhật Lệ do sáng kiến của Lộc Khê hầu vạch ra đồ bản và thực hành các công tác, đã giữ một vai trò tối quan trọng trong cuộc chiến tranh với họ Trịnh, và chính nhờ hai công trình kiến trúc ấy mà các chúa Nguyễn đã đẩy lùi các cuộc xâm nhập của quân Trịnh.
Người ta phải tự hỏi vì sao chỉ phòng thủ ở Quảng Bình mà thôi, quân Trịnh không thể đổ bộ ở một nơi nào khác rồi kéo đến phủ chúa Nguyễn ở Phước Yên, ở Kim Long, ở Phú Xuân sao? Quân Trịnh không thể đổ bộ vào một hải cảng nào ở phía nam Thuận Hóa, ở Thị Nại, ví dụ như vua Lê Thánh Tông đã làm, vì bấy giờ Chiêm Thành còn có lực lượng, sợ có thể bị kẹp vào giữa hai lực lượng Chiêm, Nguyễn thì không có đường thoát. Quân Trịnh cũng không thể đổ bộ ở một hải cảng nào gần hơn, như cửa Việt, cửa Eo (hoặc gọi là cửa Noãn, tức cửa Thuận An ngày nay) để rồi lên sông Quảng Trị hay sông Thuận An, vì các sông này chật hẹp, chiến thuyền lớn vào không tiện. Vả lại không binh gia nào lại đem quân xông thẳng vào kinh đô của địch là nơi phòng thủ chắc phải nghiêm ngặt rồi. Vậy muốn đánh Thuận Hóa, ắt phải đánh sông Nhật Lệ, đổ bộ lên đất Quảng Bình, rồi từ đó quân bộ, quân thủy mới chia ra mà đi công kích. Vì đó mà Quảng Bình phải làm đất chiến trường cho hai họ Trịnh, Nguyễn suốt nửa thế kỷ, trên đó hai lũy Trường Dục và Nhật Lệ là đối tượng của hai bên, bên này cố giữ đến cùng, bên kia cố lấy cho được. Phan Khoang (Trích từ Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777 (Cuộc nam tiến của dân tộc VN), NXB Khoa học xã hội 2016

Thanked by 1 Member:

#43 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 22/11/2016 - 21:52

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Việt sử Xứ Đàng Trong: Dẫu thêm hai cánh trường thành khó bay

06:19 AM - 22/11/2016 Thanh Niên




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Chia sẻ
Một tấm bia (ảnh phải) tìm được ở đoạn lũy Trấn Ninh (ảnh trái)Ảnh: Trương Quang Nam

Chính nhờ hệ thống các lũy phòng thủ được xây dựng do sáng kiến của Lộc Khê hầu Đào Duy Từ mà quân đội chúa Nguyễn - với lực lượng yếu hơn - đã đẩy lùi các cuộc tấn công của quân Trịnh.

Theo tài liệu của tác giả R.P.Cadière trong tạp chí nghiên cứu Bulletin de l’Ecole Françaises d’Extrème d’Orient, 1906 (tập san Viện Viễn Đông Bác Cổ), lũy Trường Dục là một trường thành bằng đất, bắt đầu từ làng Trường Dục, dưới chân núi Trường Sơn, chạy tới phá Hạc Hải (Thạch bàn hải nhi). Lũy dọc theo bờ sông Rào Đá, đến chỗ giáp sông Nhật Lệ, lại từ sông này ngược lên tả ngạn đến làng Quảng Xá, đi qua địa phận các làng Trường Dục, Xuân Dục, Cổ Hiền tới Đình Thôn. Lũy dài 2.500 trượng (khoảng 10 đến 12 cây số), có nơi cao đến 3 thước tây, chân rộng từ 6 đến 8 thước tây. Phỏng quân Trịnh vượt qua được sông Nhật Lệ mà tiến lên thì phía tây gặp núi non hiểm trở, không qua được, phía đông là một đồng bằng, nay là phá Vạn Xuân quanh năm bùn lầy, rồi đến một bãi cát lớn. Ở giữa phá Vạn Xuân và bãi cát có một khoảng đất, đường quốc lộ ngang qua đó, trên khoảng đất này chúa Nguyễn đặt nhiều công cuộc phòng thủ. Trong lũy Trường Dục, có dinh để các quan ở, các trại lính và kho lương, theo hình chữ dĩ 已, ở trong chữ hồi 回, nên lũy này còn gọi là Hồi văn lũy.

Lũy Trường Dục là để giữ con đường núi và chặn ngang đường tiến lên của quân địch đã đổ bộ được sông Nhật Lệ. Vậy phải chặn ngay quân địch khi mới đổ bộ lên Nhật Lệ. Vì đó, năm sau, Lộc Khê hầu lại đắp lũy Động Hải, cách lũy Trường Dục 20 cây số, về phía bắc. Núi Đâu Mâu là một rặng núi lớn, từ núi Trường Sơn chia ra làm hai dãy đồi, dãy thứ nhất chạy đến sông Nhật Lệ, ở địa phận làng Văn In (sử gọi là làng Cầm La, thường gọi là Cồn Hàu), dãy thứ nhì chạy đến bờ biển, khoảng 15 cây số về phía bắc, ở địa phận là Phú Hội, thường gọi là Kẻ Địa. Hai dãy đồi ấy như hai cái càng cua ôm lại một đồng bằng rộng bùn lầy, hình bán nguyệt, mùa đông đầy nước, không qua được. Thành Đồng Hới ở giữa đường kinh nổi hai đầu cái bán nguyệt đó. Lũy Động Hải được xây dựng trên một đường từ cửa Nhật Lệ, ban đầu chạy xiên về phía nam, rồi rẽ sang phía tây, cho đến rặng núi Đâu Mâu, cắt ngang chính giữa đồng bằng nói trên. Phía bắc có con sông Lệ Kỳ khá rộng và hai bờ đều là bùn lầy.
Lũy Động Hải dài 3.000 trượng (12 cây số), cứ cách một trượng đặt một khẩu súng khóa sơn, 3 hay 5 trượng lại xây một pháo đài, đặt một khẩu súng nòng lớn, lũy cao một trượng 5 xích (6 thước tây), mặt ngoài đóng gỗ lim, trong đắp đất, làm 5 cấp, voi ngựa có thể đi được.
Quân Trịnh từ bắc vào chỉ có thể dùng hai con đường: phía đông là đường theo bờ biển, nghĩa là dọc theo quốc lộ ngày nay, phía tây là đường núi, đồng bằng làng Võ Xá bùn lầy không cho họ tiến vào khoảng giữa được. Ở hai đầu lũy, chúa Nguyễn có các trở ngại. Hạm đội chúa Trịnh lên sông Nhật Lệ, còn bộ binh thì qua lũy Động Hải, theo đường bộ kéo vào nam. Thì ở đây, họ gặp phải đồn binh hiểm yếu của dinh Mười là lỵ sở hành chính và quân sự của Quảng Bình, ở trên địa phận làng Võ Xá hiện nay. Nơi này dài nhiều cây số, ở phía bắc và phía nam đều có những đồn binh bảo vệ.
Năm Mậu Tý (1648), quân Trịnh chiếm được Động Hải và dinh Quảng Bình (dinh Mười), nhưng họ không thắng được, vì ở phía tây còn có lũy Trường Dục bẻ gãy mọi cố gắng tiến lên của họ. Xem thế thì tuy lũy Trường Dục và lũy Động Hải đã được kiến trúc hai lần, trong hai giai đoạn, nhưng vẫn tạo thành một hệ thống phối hợp với nhau.
Lũy Động Hải còn gọi là Trường Lũy (lũy dài) hoặc là lũy Nhật Lệ vì nó nằm ngay trên tả ngạn sông này, hoặc lũy Trấn Ninh, là lấy tên làng ở phía đông lũy mà gọi, thường thì gọi là lũy Thầy, vì Đào Duy Từ đáng là thầy Chúa, đắp lên.
Thời ấy có những câu ca dao nói lên sự hiểm trở của lũy Thầy:
Thứ nhứt thì sợ lũy Thầy,
Thứ nhì sợ lầy Võ Xá.


Có tài vượt nổi sông Gianh
Dẫu thêm hai cánh trường thành khó bay.

Các lũy phụ
Ngoài lũy Trường Dục và lũy Động Hải (Nhật Lệ) là hai lũy lớn, còn nhiều công trình phụ thuộc mà các tướng sẽ tùy theo nhu cầu, kiến trúc thêm để bổ túc cho việc phòng thủ. Chúng ta sẽ thấy lũy Trường Sa đắp lên năm Quý Dậu (1633), trên bãi cát giữa cửa Động Hải và cửa Tùng để phòng đối phó quân địch khi họ không đổ bộ ở cửa Nhật Lệ mà theo đường thủy xuống phía nam, đổ bộ lên bãi biển ở phía bắc cửa Tùng; lũy Trấn Ninh kiến trúc năm Nhâm Dần (1662) để bảo vệ phía đông lũy Động Hải mà giữ đường biển.
Chính lũy Trấn Ninh này, trong chiến cuộc năm Nhâm Tí (1672), quân Trịnh đã cố gắng đánh trong mấy tháng, hy sinh rất nhiều, nhưng không hạ được, vì sự chống giữ kiên trì của Nguyễn Hữu Dật, rồi phải rút về, và từ đó nghỉ binh, mặc nhiên chấp nhận sông Gianh làm giới tuyến giữa hai miền Nam, Bắc.

Phan Khoang



(Theo Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777 (Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam), NXB Khoa học Xã hội, 2016)

Thanked by 1 Member:

#44 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 23/11/2016 - 20:33

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Việt sử Xứ Đàng Trong: Tổ chức chính quyền thời chúa Nguyễn

10:09 AM - 23/11/2016 Thanh Niên




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Chia sẻ
Quan lại thời nhà Nguyễn Ảnh: tư liệu

Chúa Thái Tổ vẫn giữ các cơ quan hành chính do triều Lê lập ra. Tuy nhiên, khi chúa Hy Tông lên ngôi, liền bỏ các cơ quan ấy.


Khu vực hành chính
Khi mới vào Thuận Hóa, Thái Tổ Nguyễn Hoàng đóng ở Ái Tử, chỗ gọi là dinh, các cơ quan chính quyền trung ương của xứ Thuận Hóa đều ở đó. Sau khi được kiêm lãnh xứ Quảng Nam (1570), chúa đặt dinh Quảng Nam. Từ “dinh” ở đây chỉ một khu vực hành chính. Đến thời chúa Hy Tông thì đặt thêm dinh Quảng Bình, dinh Trấn Biên, dinh Bố Chính. Khu vực mà chúa đóng dinh (từ đời chúa Hy Tông gọi là phủ) gọi là Chính dinh. Dinh hoặc phủ chúa dời từ Ái Tử đến Trà Bát (1570), đến phía đông dinh Ái Tử cũ (1600, gọi là dinh Cát), đến Phước Yên (1626), rồi Kim Long (1635), Phú Xuân (1687), Bác Vọng (1712), trở lại Phú Xuân (1739), và sau đó rời khỏi Ái Tử thì khu vực đó gọi là Cựu dinh (đất Quảng Trị ngày nay), còn Chính dinh là đất tỉnh Thừa Thiên ngày nay.
Đến chúa Thế Tông, lãnh thổ chia làm 12 dinh và 1 trấn như sau: dinh Bố Chính, tục gọi là dinh Ngói, ở làng Thổ Ngõa; dinh Quảng Bình, tục gọi là dinh Trạm ở làng An Trạch (nay thuộc H.Lệ Thủy, Quảng Bình); dinh Lưu Đồn tục gọi là dinh Mười, ở làng Võ Xá (H.Khương Lộc, nay là phủ Quảng Ninh); Cựu dinh ở xã Ái Tử; Chính dinh; dinh Quảng Nam, tục gọi là dinh Chiêm; dinh Phú Yên; dinh Bình Khương; dinh Bình Thuận; dinh Trấn Biên; dinh Phiên Trấn; dinh Long Hồ và trấn Hà Tiên. Dinh có Trấn thủ, Cai bộ, Ký lục để cai trị, trấn Hà Tiên có chức đô đốc trấn giữ. Hai phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn thuộc dinh Quảng Nam, thì đặt riêng chức Tuần vũ và Khám lý để cai trị. Dinh chia ra nhiều phủ, phủ gồm nhiều huyện, huyện gồm nhiều tổng, tổng gồm nhiều xã; các nơi gần núi rừng, dọc sông, biển thì đặt làm thuộc.
Chúa Hy Tông đặt ba ty là ty Xá sai, ty Tướng thần lại và ty Lệnh sử. Ở Chính dinh có ty Xá sai coi việc văn án từ tụng, có Đô tri và Kí lục đứng đầu, và 3 Câu kê, 7 Cai hợp, 40 Ty lại giúp việc. Ty Tướng thần lại có Cai bộ đứng đầu, coi việc thu tiền sai dư và lúa tô ruộng các xã Thuận Hóa, phát lương tháng cho các dinh đạo Lưu Đồn, dinh thủy và bộ Quảng Bình, dinh Bố Chính, phát tiền cho các quân cùng cấp lính các xã. Ty Lệnh sử có Nha úy đứng đầu, coi việc tế tự, lễ tiết, phát lương tháng cho quân ở Chính dinh và coi các quan điền, số nhân viên cũng như hai ty kia.
Ngoài ra, còn có ty Nội lệnh sử kiêm coi các thứ thuế. Ty này gồm hai ty Tả lệnh sử, Hữu lệnh sử chia nhau thu tiền sai dư của các xã hai xứ để nạp cho Nội phủ. Lại có ty Lệnh sử đồ gia để thu cất các đồ đạc, phẩm vật (như sắt, đồng, vàng, thiếc, đồ đồng, dầu sơn, than, gỗ...).
Chức tước và bổng lộc
Năm Mậu Dần (1638), chúa Thần Tông bắt đầu đặt các chức: Nội tả, Ngoại tả, Nội hữu, Ngoại hữu - gọi là Tứ trụ đại thần, là những chức cao nhất trong triều. Phủ có Tri phủ, huyện có Tri huyện đứng đầu, thuộc viên có Đề lại coi các văn án từ tụng, Thông lại để tra xét các từ tụng; Huấn đạo, Lễ sinh coi việc tế tự miếu văn thánh và các linh từ. Xã có Xã trưởng. Còn việc thu thuế ở các phủ, huyện, châu thì ban đầu có Chánh, Phó đề đốc, Chánh, Phó đề lãnh, Ký lục, Cai phủ, Cai tri, Ký phủ, Thư ký, Cai tổng, Lục lại chuyên lo.
Chúa Túc Tông giảm bớt nhân viên và thay đổi như sau: xứ Thuận Hóa mỗi phủ đặt 1 Đề đốc, 1 Đề lãnh, 1 Ký lục, 1 Cai phủ, 1 Thư ký; mỗi huyện đặt 3 Cai tri, 3 Thư ký, 4 Lục lại; mỗi tổng đặt 3 Cai tổng. Xứ Quảng Nam, mỗi phủ đặt 1 Chánh hộ Khám lý, 1 Đề đốc, 1 Đề lãnh, 1 Ký lục, 1 Cai phủ, 1 Thư ký; mỗi huyện đặt 1 Cai tri, 1 Thư ký, 2 Lục lại; mỗi tổng đặt 1 Cai tổng, thuộc có Ký thuộc.
Đời chúa Túc Tông, năm Bính Ngọ (1726), sai Ký lục Chính dinh Nguyễn Đăng Đệ đi tuần xét các phủ xứ Quảng Nam, định chức, lệ cho các thuộc mới lập. Ngạch hoạn quan (thái giám) cũng đã đặt ra. Thường thường, họ giữ sổ sách, thuế khóa, thu thuế, canh phòng nội cung và quản trị việc chi tiêu trong cung cấm.
Các quan viên không có thường bổng, chỉ được cấp ruộng, hoặc điền lộc, dân lộc, nhiêu phu làm ngụ lộc. Các phủ, huyện xử kiện tụng, bắt bớ, tra hỏi, được thu lễ của các đương sự cung đốn cho, các quan chức thu thuế được thu một món lúa, tiền của người nạp thuế nạp thêm. Ruộng ngụ lộc là ruộng cấp cho để cày cấy. Huân thích, quí thần mỗi người được cấp 10 mẫu, Chưởng cơ 5 mẫu, Cai cơ 4 mẫu, Cai đội 3 mẫu, Nội Đội trưởng 3 mẫu rưỡi, Ngoại Đội trưởng 2 mẫu rưỡi. Điền lộc là thu thuế ruộng ở mấy xã làm ngụ lộc, dân lộc là thu thuế thân ở mấy xã làm ngụ lộc; nhiêu phu là số dân được cấp theo hầu, người dân ấy phải nạp cho người được cấp một số tiền để thay thuế thân. Ví dụ như Chánh, Phó đề đốc được cấp mỗi người 20 nhiêu phu, thu tiền 27 quan, Đề lãnh được cấp 16 nhiêu phu, thu được 21 quan 6 tiền...
Các chức, lại, mỗi khi được bổ nhiệm, phải nạp các lễ như thượng lễ để dâng chúa, nội lễ để dâng nội cung, tiền lĩnh bằng, tiền ngụ lộc các quan, tiền đóng ấn, tiền trầu. Như Tướng thần phải nạp thượng lễ 35 quan, nội lễ 7 quan, tiền lĩnh bằng và tiền ngụ lộc các quan cộng là 7 quan; Xã trưởng phải nạp thượng lễ 30 quan, nội lễ 6 quan, tiền lĩnh bằng và tiền ngụ lộc các quan cộng là 5 quan...

(Theo Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777 (Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam), NXB Khoa học Xã hội, 2016)


Phan Khoang



#45 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 25/11/2016 - 21:33

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Việt sử Xứ Đàng Trong: ​Sự biến đổi y phục người Đàng Trong

06:21 AM - 24/11/2016 Thanh Niên


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Người Đàng Trong qua tranh vẽ xưa

Xem Ô châu cận lục viết năm Ất Mão (1555), đời Mạc Phước Nguyên, tức trước khi ông Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa không lâu, ở hai phủ Tân Bình, Triệu Phong có làng cách mặc còn theo kiểu Chăm.

Từ khi Nguyễn Hoàng vào Thuận, Quảng, người Việt vào đông thêm và y phục, khí dụng, phong tục cố nhiên là y theo kiểu họ đã sống ở bắc.
Tương truyền rằng Chính Lộc Khê hầu (Đào Duy Từ) trong khi bày mưu định kế chống cự với họ Trịnh, đã khuyên chúa Hy Tông bắt dân thay đổi tập tục cho khác hẳn dân bắc, như bỏ nón thượng, đội nón chóp, bỏ quần màu đen, mặc quần màu nâu, đàn bà bỏ áo bốn thân mà mặc áo 5 thân gài khuy, bỏ tóc bao mà búi tó, bỏ váy để mặc quần. Đến đời chúa Thế Tông, năm Giáp Tý, lên ngôi vương thay đổi mũ áo các quan và bắt nhân dân cũng phải cải cách y phục.


Phủ biên tạp lục chép: “(Hiểu vương) xưng vương hiệu, lấy thể chế áo mũ trong “tam tài đô hội” làm kiểu, hạ lệnh cho trai gái hai xứ đổi dùng quần áo y như Bắc quốc (Trung Quốc) để tỏ sự biến đổi... nhưng khiến phụ nữ đều mặc áo ngắn, hẹp tay như áo đàn ông thì Bắc quốc không như thế. Trải hơn 30 năm, người ta đều tập quen, quên cả tập cũ...”.


Thua trận vì... xem thường y phục đối phương
Phủ biên tạp lục có chép một việc buồn cười về nhận xét theo y phục, gây ra thất trận cho quân Nguyễn: Năm Giáp Ngọ (1774) khi quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phước thống lĩnh kéo đến Hồ Xá thuộc H.Minh Linh, Quảng Trị và chúa Nguyễn đã sai bắt Trương Phước Loan đem nạp và xin giữ lệ cống, Ngũ Phước chưa trả lời thì cai đội của Nguyễn là Tô Nhuận thấy trong đội quân Bắc hà thống tướng mặc áo vải xanh, binh sĩ ăn mặc rách rưới, nên có ý khinh thường, tưởng không phải là đại quân, bèn đem quân ra đánh, bị quân bắc đánh cho thua to, rồi nhân đó, tiến vào đất Phú Xuân. Sau khi Hoàng Ngũ Phúc chiếm Thuận Hóa, đặt nha môn Trấn Vũ, tháng 7 năm Bính Thân (1776), hiểu dụ nhân dân rằng: “Y phục bản quốc vốn có chế độ, địa phương này từ trước cũng tuân theo quốc tục. Nay kính vâng thượng đức, dẹp yên biên phương, trong ngoài như nhau, chính trị và phong tục phải được tề nhất. Nếu còn có người mặc quần áo kiểu người khách (Trung Quốc) thì nên đổi theo thể chế của nước nhà. Đổi may y phục theo tục nước mà thông dụng vải, lụa, duy có quan chức mới dùng xen the, là, trừu, đoạn, còn gấm vóc và các thứ hoa rồng phượng thì đều không được theo thói cũ tiếm dùng. Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hẹp tùy ý. Áo thì từ hai bên nách trở xuống phải may kín liền, không cho xẻ hở. Duy đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc cũng cho. Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh lạt hay vải đen, vải trắng, tùy nghi. Còn các hạng về viền cổ kết lót thì đều theo như hiểu dụ năm trước mà chế dùng”. Nhưng chỉ năm sau Tây Sơn chiếm Thuận Hóa, chính quyền Lê - Trịnh không còn, chắc là nhân dân lại dùng y phục kiểu cũ.
Theo Lê Quý Đôn, người Thuận Hóa sống xa hoa: “Thuận Hóa thanh bình lâu ngày, công tư đều giàu có, y phục dùng đồ tươi đẹp. Lại trải qua thời Hiểu vương (Nguyễn Phước Khoát) hào hoa, phóng túng, bắt chước nhau trở thành phong tục, y phục gấm vóc, chiếu nệm bằng mây hoa, phú quý phong lưu, đua nhau khoe đẹp [...] Binh sĩ đều ngồi chiếu mây, gối dựa dọc hàng ôm lò hương, uống trà ngon trong chén sứ bịt bạc, nhổ ống nhổ thau, đĩa bát dùng trong ăn uống không có gì là không của Trung Quốc, một bữa ăn ba bát lớn. Đàn bà, con gái đều mặc áo sa, là, tơ, lụa, thêu hoa ở cổ tròn. Coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, xa xỉ quá lắm”. Có lẽ ở đây tác giả Phủ biên tạp lục chỉ phong tục ở thành Phú Xuân là nơi đã trở thành phồn hoa từ đời chúa Thế Tông, chứ các nơi khác ở Quảng Nam và trong dân gian thì không thể xa hoa như vậy được.


Ở đất Gia Định, người Việt mới đến kiết cư, lập nghiệp đông đúc từ đời chúa Hiển Tông, cuối thế kỷ 17. Sách Gia Định thông chí chép: “Gia Định là đất phương Nam của nước Việt. Khi mới khai thác, lưu dân nước ta cùng người kiều ngụ như Đường (Trung Quốc), người Cao Miên, người Tây dương, người Phú Lang Sa (Pháp), người Hồng Mao (Anh), Mã Cao (người Tây ở Macau đến), người Đồ Bà, ở lẫn lộn, nhưng về y phục, khí cụ thì người nước nào theo tục nước ấy. Người Việt vẫn theo tập tục của Giao Chỉ... Quan chức thì đội khăn cao sơn, mặc áo phi phong, mang giày bì đà, sĩ thứ thì búi tóc, đi chân trần, con trai con gái đều mặc áo ngắn tay, bâu thẳng, may kín hai nách, không có quần, con trai thì dùng một miếng vải cột từ lưng thẳng xuống dưới háng, quanh lên đến rốn, gọi là cái khố, đội nón lớn, hút bình điếu, ở nhà thấp, trải chiếu ngồi dưới đất, không có bàn ghế. Vua Thế Tông cải định sắc phục của quan văn, quan võ, tham chước các đời Hán, Đường, Minh mà chế ra, còn y phục, gia thất, khí dụng của sĩ thứ thì đại lược như thể chế đời Minh, bỏ hết tục xấu Bắc Hà mà làm một nước y quan văn hiến vậy”.

(Theo Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777 (Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam), NXB Khoa học Xã hội 2016)

Phan Khoang



Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |