Bàn về miếu vượng đắc hãm
Mr.Anh
30/11/2011
buiram, on 30/11/2011 - 02:24, said:
Haizzz, quả là tôi mù hoàn toàn về dịch. Nếu có loại kiến thức thực thụ được như vậy thì tuyệt vời, vượt hẳn khoa học phương Tây. Chắc là kiểu học và mô tả phải khác khoa học phương Tây rồi. Có sách dạy về dịch không MrAnh hay là bí truyền?
Matrices này đâu phải trong toán phải k? Hay MrAnh muốn nói đến phim Matrix .Hihihi, với tôi thì tôi thấy hơn đó..... đọc đi rồi sẽ biết hơn ở chỗ nào, giải thích sẽ rất mất thời giờ, khi muốn tìm hiểu để phản biện thì phải đọc đã, khi thấy nó thực sự vô lý hay không thể hơn thì lúc đó hãy đưa ra những nhận định.
Mranh
buikhoai
30/11/2011
Hix, đọc là đọc gì vậy MrAnh? Có sách nào k? Chứ đọc mấy bài của MrAnh, bác vuivui... tôi k hiểu dịch là gì, chỉ hiểu là thatsat, bác VDTT... k biết gì về dịch hay âm dương hay lý học phương đông... Mấy tiết lộ còn lại k rõ ràng để tôi hiểu dịch là gì.
Mr.Anh
30/11/2011
buiram, on 30/11/2011 - 11:19, said:
Hix, đọc là đọc gì vậy MrAnh? Có sách nào k? Chứ đọc mấy bài của MrAnh, bác vuivui... tôi k hiểu dịch là gì, chỉ hiểu là thatsat, bác VDTT... k biết gì về dịch hay âm dương hay lý học phương đông... Mấy tiết lộ còn lại k rõ ràng để tôi hiểu dịch là gì.
Mỗi người một trường phái, mộc cách hiểu, một quan điểm, quan điểm của tôi thì cho rằng như vậy là sai, còn bạn theo quan điểm của tác giả VDTT hay Thất Sát thì đó là tùy bạn, nếu bạn thấy nó đúng, bạn hiểu nó và hiệu quả cho bạn. Còn tôi thì thấy nó sai, nó không đúng và không hiệu quả cho tôi, thế thôi.
Tôi không theo trường phái bỏ hết tất cả đi, chỉ coi trọng sao cách cục (bỏ gốc xem ngọn), như tôi đã nói cũng như xem tướng, hình tướng thì xem dễ, khí tướng xem mới khó, khó nên mới chẳng ai xem khí cả chỉ chú trọng đến hình. Với tôi mọi cách cục đều quy về cách cục duy nhất nên tôi chẳng cần thuộc hàng ngàn cách cục hay câu phú làm gì, cũng có thể nhìn ra, cũng có thể biết cách cục đó thế nào, nên việc học rất đơn giản chứ không phải học vẹt từng câu phú từng cách cục một làm gì, mà trong khi áp dụng vẫn còn sai như thường, bạn đã nghiên cứu tử vi, đã biết đến nó vậy bạn có dám đảm bảo rằng các câu phú, cách cục đều đúng hết khi áp dụng cho mỗi lá số bất kỳ không? hay lúc đó lại ngồi gọt cho nó vừa.?.
Mranh
Sửa bởi MrAnh: 30/11/2011 - 12:02
buikhoai
30/11/2011
MrAnh, on 30/11/2011 - 11:58, said:
Mỗi người một trường phái, mộc cách hiểu, một quan điểm, quan điểm của tôi thì cho rằng như vậy là sai, còn bạn theo quan điểm của tác giả VDTT hay Thất Sát thì đó là tùy bạn, nếu bạn thấy nó đúng, bạn hiểu nó và hiệu quả cho bạn. Còn tôi thì thấy nó sai, nó không đúng và không hiệu quả cho tôi, thế thôi.
Tôi không theo trường phái bỏ hết tất cả đi, chỉ coi trọng sao cách cục (bỏ gốc xem ngọn), như tôi đã nói cũng như xem tướng, hình tướng thì xem dễ, khí tướng xem mới khó, khó nên mới chẳng ai xem khí cả chỉ chú trọng đến hình. Với tôi mọi cách cục đều quy về cách cục duy nhất nên tôi chẳng cần thuộc hàng ngàn cách cục hay câu phú làm gì, cũng có thể nhìn ra, cũng có thể biết cách cục đó thế nào, nên việc học rất đơn giản chứ không phải học vẹt từng câu phú từng cách cục một làm gì, mà trong khi áp dụng vẫn còn sai như thường, bạn đã nghiên cứu tử vi, đã biết đến nó vậy bạn có dám đảm bảo rằng các câu phú, cách cục đều đúng hết khi áp dụng cho mỗi lá số bất kỳ không? hay lúc đó lại ngồi gọt cho nó vừa.?.
Mranh
Tôi không theo trường phái bỏ hết tất cả đi, chỉ coi trọng sao cách cục (bỏ gốc xem ngọn), như tôi đã nói cũng như xem tướng, hình tướng thì xem dễ, khí tướng xem mới khó, khó nên mới chẳng ai xem khí cả chỉ chú trọng đến hình. Với tôi mọi cách cục đều quy về cách cục duy nhất nên tôi chẳng cần thuộc hàng ngàn cách cục hay câu phú làm gì, cũng có thể nhìn ra, cũng có thể biết cách cục đó thế nào, nên việc học rất đơn giản chứ không phải học vẹt từng câu phú từng cách cục một làm gì, mà trong khi áp dụng vẫn còn sai như thường, bạn đã nghiên cứu tử vi, đã biết đến nó vậy bạn có dám đảm bảo rằng các câu phú, cách cục đều đúng hết khi áp dụng cho mỗi lá số bất kỳ không? hay lúc đó lại ngồi gọt cho nó vừa.?.
Mranh
Các cách cục luôn đúng nhưng đó chỉ là tiểu thiên địa nhân của chủ nhân từng lá số. Để áp dụng được còn phải xem đại thiên địa nhân, hay nói cách khác là môi trường người đó sống thế nào, phát triển được cách cục tới đâu. Ví dụ một người có Xương Khúc đắc địa mà sinh ra trong gia đình k thể học hành mà chỉ có thể chăn trâu thì có thể người đó chỉ sáng tạo được các cách kêu gọi trâu hay chỉ là hát mấy câu dân ca hay hay thôi. Một người có KK thời nay và thời xưa cũng khác... Đến hạn cũng như thế, hạn thật đẹp về Tài Lộc mà k có môi trường kinh doanh thì cũng khó phất. Về các cách cục thì tôi cũng chỉ thuộc được rất ít cách cục thôi. Kiểu như Phủ hợp với Tả, Xương Khúc hợp với âm Dương...
Hix ráng sửa chữ âm Dương thành âm viết hoa hoài mà k được .
Sửa bởi buiram: 30/11/2011 - 13:51
Mr.Anh
30/11/2011
buiram, on 30/11/2011 - 13:43, said:
Thật ra tôi không tin rằng kiến thức của bác VDTT, thatsat, bác HaUyen... hay các kiến thức mà mọi người tự tìm tòi rồi chia sẻ từ của riêng mình, dịch từ sách, rồi các tạp chí... hiện có ... là chân lí tối thượng. Tôi cũng tin rằng những người này cũng k nghĩ những điều họ biết là chân lí tối thượng và vẫn tìm tòi học hỏi và tôi cũng thế. Có điều rồi thì tôi vẫn chỉ học được từ những nguồn trên mà thôi.
Các cách cục luôn đúng nhưng đó chỉ là tiểu thiên địa nhân của chủ nhân từng lá số. Để áp dụng được còn phải xem đại thiên địa nhân, hay nói cách khác là môi trường người đó sống thế nào, phát triển được cách cục tới đâu. Ví dụ một người có Xương Khúc đắc địa mà sinh ra trong gia đình k thể học hành mà chỉ có thể chăn trâu thì có thể người đó chỉ sáng tạo được các cách kêu gọi trâu hay chỉ là hát mấy câu dân ca hay hay thôi. Một người có KK thời nay và thời xưa cũng khác... Đến hạn cũng như thế, hạn thật đẹp về Tài Lộc mà k có môi trường kinh doanh thì cũng khó phất. Về các cách cục thì tôi cũng chỉ thuộc được rất ít cách cục thôi. Kiểu như Phủ hợp với Tả, Xương Khúc hợp với âm Dương...
Các cách cục luôn đúng nhưng đó chỉ là tiểu thiên địa nhân của chủ nhân từng lá số. Để áp dụng được còn phải xem đại thiên địa nhân, hay nói cách khác là môi trường người đó sống thế nào, phát triển được cách cục tới đâu. Ví dụ một người có Xương Khúc đắc địa mà sinh ra trong gia đình k thể học hành mà chỉ có thể chăn trâu thì có thể người đó chỉ sáng tạo được các cách kêu gọi trâu hay chỉ là hát mấy câu dân ca hay hay thôi. Một người có KK thời nay và thời xưa cũng khác... Đến hạn cũng như thế, hạn thật đẹp về Tài Lộc mà k có môi trường kinh doanh thì cũng khó phất. Về các cách cục thì tôi cũng chỉ thuộc được rất ít cách cục thôi. Kiểu như Phủ hợp với Tả, Xương Khúc hợp với âm Dương...
Bạn đã hiểu cốt lõi của vấn đề, mà tôi đang sử dụng và theo đuổi. Khi bạn hiểu rồi thì bạn chẳng cần thuộc cách cục làm gì, cũng có thể hiểu rõ bản chất nó thế nào. Mà cũng đừng nên thuộc làm gì mà nên hiểu, vậy khi hiểu rồi chẳng cần thuộc nữa.
Chúc bạn sẽ sớm tìm ra chân lý cho riêng bạn.
Mranh
Sửa bởi MrAnh: 30/11/2011 - 13:54
Mr.Anh
30/11/2011
@ buiram
Tôi đưa ra một ví dụ, biết đâu buiram có thể hiểu hơn và đưa được ra phương pháp của riêng mình:
Trong xã hội con ngừoi được sinh ra đều chịu 3 sự tác động chính đó là hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, hoàn cảnh xã hội nên biểu hiện trên lá số có thể giống nhau nhưng lại sẽ rất khác nhau nếu chúng ta không hiểu rõ gốc rễ của bản chất vấn đề ở chỗ đó.
Trong đông y người ta phân ra Tinh, Khí, Huyết, Tân Dịch và Thần trong đó Tinh, Khí rất quan trọng:
- Tinh: Nguồn gốc của tinh do bố mẹ đem lại gọi là tinh tiên thiên và do chất dinh dưỡng của đồ ăn tạo ra gọi là tinh hậu thiên. Hai nguồn tinh tiên thiên và hậu thiên bổ sung cho nhau....
- Khí: Là thành phần cấu tạo của cơ thể, là chất cơ bản duy trì sự sống của con người, có tác dụng thúc đẩy huyết và công năng của tạng phủ, kinh lạc hoạt động, khí ở khắp nơi, nên trong đông y người ta thường nói thận khí, can khí, vị khí.... Nguồn gốc của khí do khí tiên thiên và hậu thiên hình thành và người ta hay nói đến 4 loại khí: Nguyên Khí, Tông Khí, Doanh khí (danh khí), vệ khí.... (Đọc thêm về TTBQ và HTBQ để hiểu hơn).
Vậy thì, Tinh và khí trong Tử Vi ví như âm dương ngũ hành, còn sao (tinh đẩu, cách cục) ví như tạng phủ hay kinh lạc vậy. => âm dương ngũ hành quyết định hiệu quả, công dụng, ý nghĩa của sao, tinh đẩu, cách cục chứ không phải ngược lại vậy nên khi xem ta phải xem tinh khí (ngũ hành) trước rồi mới đến sao, cách cục... để phân định rõ được nặng nhẹ, đúng sai....
Hy vọng sẽ giúp ích cho buiram, còn nếu không thấy có ích thì bỏ qua.
Mranh
Tôi đưa ra một ví dụ, biết đâu buiram có thể hiểu hơn và đưa được ra phương pháp của riêng mình:
Trong xã hội con ngừoi được sinh ra đều chịu 3 sự tác động chính đó là hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, hoàn cảnh xã hội nên biểu hiện trên lá số có thể giống nhau nhưng lại sẽ rất khác nhau nếu chúng ta không hiểu rõ gốc rễ của bản chất vấn đề ở chỗ đó.
Trong đông y người ta phân ra Tinh, Khí, Huyết, Tân Dịch và Thần trong đó Tinh, Khí rất quan trọng:
- Tinh: Nguồn gốc của tinh do bố mẹ đem lại gọi là tinh tiên thiên và do chất dinh dưỡng của đồ ăn tạo ra gọi là tinh hậu thiên. Hai nguồn tinh tiên thiên và hậu thiên bổ sung cho nhau....
- Khí: Là thành phần cấu tạo của cơ thể, là chất cơ bản duy trì sự sống của con người, có tác dụng thúc đẩy huyết và công năng của tạng phủ, kinh lạc hoạt động, khí ở khắp nơi, nên trong đông y người ta thường nói thận khí, can khí, vị khí.... Nguồn gốc của khí do khí tiên thiên và hậu thiên hình thành và người ta hay nói đến 4 loại khí: Nguyên Khí, Tông Khí, Doanh khí (danh khí), vệ khí.... (Đọc thêm về TTBQ và HTBQ để hiểu hơn).
Vậy thì, Tinh và khí trong Tử Vi ví như âm dương ngũ hành, còn sao (tinh đẩu, cách cục) ví như tạng phủ hay kinh lạc vậy. => âm dương ngũ hành quyết định hiệu quả, công dụng, ý nghĩa của sao, tinh đẩu, cách cục chứ không phải ngược lại vậy nên khi xem ta phải xem tinh khí (ngũ hành) trước rồi mới đến sao, cách cục... để phân định rõ được nặng nhẹ, đúng sai....
Hy vọng sẽ giúp ích cho buiram, còn nếu không thấy có ích thì bỏ qua.
Mranh
thatsat
30/11/2011
Cách cục là một tổ hợp sắp xếp từ những phần cơ bản. Từ A T G C có nhiều cách sắp xếp khác nhau mà cho cách cục DNA khác nhau. Rủ thêm hai anh em nhà Dịch và Duyên đến cùng ngồi thiền và trồng cây chuối trăm năm tinh khí huyết limit cũng không đổi được DNA.
ABC123DEf
30/11/2011
MrAnh, on 30/11/2011 - 15:30, said:
Vậy thì, Tinh và khí trong Tử Vi ví như âm dương ngũ hành, còn sao (tinh đẩu, cách cục) ví như tạng phủ hay kinh lạc vậy. => âm dương ngũ hành quyết định hiệu quả, công dụng, ý nghĩa của sao, tinh đẩu, cách cục chứ không phải ngược lại vậy nên khi xem ta phải xem tinh khí (ngũ hành) trước rồi mới đến sao, cách cục... để phân định rõ được nặng nhẹ, đúng sai....
Quá hay!!!Công lực không tệ.
buikhoai
30/11/2011
MrAnh, on 30/11/2011 - 15:30, said:
@ buiram
Tôi đưa ra một ví dụ, biết đâu buiram có thể hiểu hơn và đưa được ra phương pháp của riêng mình:
Trong xã hội con ngừoi được sinh ra đều chịu 3 sự tác động chính đó là hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, hoàn cảnh xã hội nên biểu hiện trên lá số có thể giống nhau nhưng lại sẽ rất khác nhau nếu chúng ta không hiểu rõ gốc rễ của bản chất vấn đề ở chỗ đó.
Trong đông y người ta phân ra Tinh, Khí, Huyết, Tân Dịch và Thần trong đó Tinh, Khí rất quan trọng:
- Tinh: Nguồn gốc của tinh do bố mẹ đem lại gọi là tinh tiên thiên và do chất dinh dưỡng của đồ ăn tạo ra gọi là tinh hậu thiên. Hai nguồn tinh tiên thiên và hậu thiên bổ sung cho nhau....
- Khí: Là thành phần cấu tạo của cơ thể, là chất cơ bản duy trì sự sống của con người, có tác dụng thúc đẩy huyết và công năng của tạng phủ, kinh lạc hoạt động, khí ở khắp nơi, nên trong đông y người ta thường nói thận khí, can khí, vị khí.... Nguồn gốc của khí do khí tiên thiên và hậu thiên hình thành và người ta hay nói đến 4 loại khí: Nguyên Khí, Tông Khí, Doanh khí (danh khí), vệ khí.... (Đọc thêm về TTBQ và HTBQ để hiểu hơn).
Vậy thì, Tinh và khí trong Tử Vi ví như âm dương ngũ hành, còn sao (tinh đẩu, cách cục) ví như tạng phủ hay kinh lạc vậy. => âm dương ngũ hành quyết định hiệu quả, công dụng, ý nghĩa của sao, tinh đẩu, cách cục chứ không phải ngược lại vậy nên khi xem ta phải xem tinh khí (ngũ hành) trước rồi mới đến sao, cách cục... để phân định rõ được nặng nhẹ, đúng sai....
Hy vọng sẽ giúp ích cho buiram, còn nếu không thấy có ích thì bỏ qua.
Mranh
Tôi đưa ra một ví dụ, biết đâu buiram có thể hiểu hơn và đưa được ra phương pháp của riêng mình:
Trong xã hội con ngừoi được sinh ra đều chịu 3 sự tác động chính đó là hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, hoàn cảnh xã hội nên biểu hiện trên lá số có thể giống nhau nhưng lại sẽ rất khác nhau nếu chúng ta không hiểu rõ gốc rễ của bản chất vấn đề ở chỗ đó.
Trong đông y người ta phân ra Tinh, Khí, Huyết, Tân Dịch và Thần trong đó Tinh, Khí rất quan trọng:
- Tinh: Nguồn gốc của tinh do bố mẹ đem lại gọi là tinh tiên thiên và do chất dinh dưỡng của đồ ăn tạo ra gọi là tinh hậu thiên. Hai nguồn tinh tiên thiên và hậu thiên bổ sung cho nhau....
- Khí: Là thành phần cấu tạo của cơ thể, là chất cơ bản duy trì sự sống của con người, có tác dụng thúc đẩy huyết và công năng của tạng phủ, kinh lạc hoạt động, khí ở khắp nơi, nên trong đông y người ta thường nói thận khí, can khí, vị khí.... Nguồn gốc của khí do khí tiên thiên và hậu thiên hình thành và người ta hay nói đến 4 loại khí: Nguyên Khí, Tông Khí, Doanh khí (danh khí), vệ khí.... (Đọc thêm về TTBQ và HTBQ để hiểu hơn).
Vậy thì, Tinh và khí trong Tử Vi ví như âm dương ngũ hành, còn sao (tinh đẩu, cách cục) ví như tạng phủ hay kinh lạc vậy. => âm dương ngũ hành quyết định hiệu quả, công dụng, ý nghĩa của sao, tinh đẩu, cách cục chứ không phải ngược lại vậy nên khi xem ta phải xem tinh khí (ngũ hành) trước rồi mới đến sao, cách cục... để phân định rõ được nặng nhẹ, đúng sai....
Hy vọng sẽ giúp ích cho buiram, còn nếu không thấy có ích thì bỏ qua.
Mranh
buikhoai
30/11/2011
thatsat, on 30/11/2011 - 16:40, said:
Cách cục là một tổ hợp sắp xếp từ những phần cơ bản. Từ A T G C có nhiều cách sắp xếp khác nhau mà cho cách cục DNA khác nhau. Rủ thêm hai anh em nhà Dịch và Duyên đến cùng ngồi thiền và trồng cây chuối trăm năm tinh khí huyết limit cũng không đổi được DNA.
thatsat
30/11/2011
Mr.Anh
01/12/2011
buiram, on 30/11/2011 - 22:58, said:
Cám ơn MrAnh nhiều. Mấy kiến thức trên tôi không biết gì. Bây giờ tôi đã hiểu được phần nào vì sao bạn viết rằng HTBQ là nền tảng của các môn lý số.
TIÊN THIÊN BÁT QUÁI:
Phục Hy vạch quẻ thì lấy vạch liền làm phù hiệu cho khí dương và vạch đứt làm phù hiệu cho khí âm. Điều đó cho thấy đạo trời được diễn tả bằng âm và dương. Đạo đất được diễn tả bằng nhu và cương, đạo người được diễn tả bằng nhân và nghĩa. Đó là trong thuyết tam tài, ở quẻ Càn có 3 vạch vạch trên là đạo trời, vạch dưới là đạo đất, vạch giữa là đạo người và con người sinh ra giữa trời đất, âm dương, 8 quẻ trong Tiên Thiên Bát Quái là do Phục Hy vạch quẻ và sắp xếp 8 hiện tượng trên trong thiên nhiên theo đúng qui luật của trời đất sinh ra nó, bởi vậy mới gọi là tiên thiên.
Trời thì sinh ra 4 cái động, đất thì sinh ra 4 cái tĩnh. Lấy các vạch dương và các vạch âm từ dưới lên cả 3 tầng ta lần lượt được 3 vạch nhưng vạch theo thứ tự từ dưới lên ta được 8 quẻ theo Tiên Thiên Bát Quái. Các quẻ Càn, Đoài, Ly, Chấn thuộc về bên trái từ 0h tới 12h. Các quẻ Tốn, Khảm, Cấn, Khôn thuộc về bên phải. Trong viên đồ, 4 quẻ này theo chiều đi xuống từ 13h tới 0h. Điều này cũng cho thấy trong tiên thiên âm chủ giáng, dương chủ thăng, âm bên phải dương bên trái.
Sau khi trời đất định ngôi, âm dương xác lập thì trời trên, đất dưới, thiên cầu ở phương nam mà thiên cầu đối địa cầu thì quả đất ở phương bắc. Thuỷ hoả đối lập nhau nhưng thuỷ hoả chẳng diệt nhau, chúng tương tác với nhau để sinh công dụng, mặt trời thường mọc ở phương đông, nước chảy thường ở phía tây sang đông nên quÎ y ở phương đông, quÎ Khảm ở phương tây. Sấm gió thường xô xát nhau, gió nhiều ở tây nam, sấm nhiều ở đông bắc nên quẻ Tốn ở phương tây nam và quẻ Chấn giữ vùng đông bắc. Núi đầm thông khí, nơi có núi thường có đầm, có sông có suối, mà núi nhiều ở tây bắc, còn sông suối và đầm có nhiều ở đông nam vì vậy Cấn định vị ở tây bắc, và Đoài chiếm chỗ ở đông nam. Đó là những điều Phục Hy quan sát và nhận thấy nên ông vạch ra Tiên Thiên Bát Quái dựa trên lý lẽ của trời đất. Vì thế có câu Tiên Thiên Bát Quái là hình nhi thượng học nghiên cứu về thiên lý ( nghĩa là môn học đầu tiên nghiên cứu về lý lẽ của trời đất.).
HẬU THIÊN BÁT QUÁI
Trong quẻ Phong Thiên Tiểu Súc, thoán từ viết: Tiểu Súc hanh, mật vân bất vũ, tự ngã tây giao nghĩa là: chứa nhỏ thì hanh thông, mây đen kịt mà không mưa ở cõi trời phía tây của ta. Trong quẻ này khuyên người quân tử nên hoạt động văn tài viết lách mà không nên làm việc chính trị. Quẻ này ứng vào số phận vua Văn bị Trụ Vương cho rằng có tài, tìm cách giết đi nhưng chưa có lý do nên giam vào ngục Dữu Lý trong 7 năm. Trong thời gian này, Văn Vương viết Kinh Dịch, sắp xếp lại các quẻ theo qui luật cuộc sống con người và xã hội, theo quan điểm thực tế hơn gọi là Hậu Thiên Bát Quái.
Vì vậy mới nói Tiên Thiên Bát Quái là hình nhi thượng học nghiên cứu về thiên lý, còn Hậu Thiên Bát Quái là hình nhi hạ học nghiên cứu về nhân sự, nói cách khác thì Tiên Thiên Bát Quái là một môn học đầu tiên nghiên cứu về lý lẽ của trời đất, còn Hậu Thiên Bát Quái là môn học sau này nghiên cứu về việc của con người. Tiên Thiên Bát Quái là nguyên thể, Hậu Thiên Bát Quái là công dụng, tiên thiên là bất dịch, hậu thiên là giao dịch và biến dịch, tiên thiên là vô hình, hậu thiên là hữu hình, âm dương là tiên thiên vì âm dương là vô hình, ngũ hành là hậu thiên vì ngũ hành là hữu hình. Trong âm dương cũng có âm dương tiên thiên và âm dương hậu thiên.
Cho nên Văn Vương sắp xếp lại vị trí các quẻ theo công dụng của nó là sự cần thiết và trên thực tế, sau này nó được vận dụng trong châm cứu, làm lịch, nông nghiệp và người ta thường sử dụng Hậu Thiên Bát Quái. Tiên Thiên Bát Quái dựa theo số 9 của Lạc Thư, còn Hậu Thiên Bát Quái dựa theo vị trí 10 số của Hà Đồ. chỉ lấy số của lão dương là số 9 mà không lấy thiếu dương là số 7, vì già thì biến, nghĩa Như trên đã nói, Hậu Thiên Bát Quái được xếp đặt theo cách suy nghĩ của con người để phát huy công dụng của bát quái. Quẻ Ly là hoả, là mặt trời mọc ở phương đông nhưng độ nóng ở đây là cực tiểu, nó chỉ lớn hơn thiếu dương một ít, chỉ khi nào nó về phương nam, nắng vàng rực rỡ thì hoả mới phát huy công dụng, vì vậy quẻ Càn là biến dịch thì công dụng sinh ra, còn trẻ thì không biến nên chưa thấy được công dụng. Ly hoả ở phương đông thì sao mà phơi thóc và phơi khô các vật được, chỉ có ở phương nam ly hoả mới phát huy công dụng. Cũng như đời người khi còn trẻ, từ lúc đẻ ra tới lúc 16 tuổi thì mẹ chỉ hy vọng vào con cái, đến khi con đủ khôn lớn, tam thập nhi lập ( 30 – 32 tuổi ) thì lúc ấy mới tin tưởng mà giao trách nhiệm cũng như gia tài cho con cái. Vì vậy Văn Vương xếp quẻ Ly vào vị trí của quẻ Càn ở phía nam như con thay bố mẹ. Mặt trời ly hoả ở phương nam để soi sáng khắp nơi, để nghe ngóng thiên hạ thì khảm thuỷ là nước, là mặt trăng phải ở phương bắc để đối diện theo lẽ âm dương. ....
Bạn có thể tự mình tìm hiểu thêm, có rất nhiều tài liệu liên quan giải thích và viết về vấn đề này, tôi viết lại cho bạn, để nếu bạn thực sự muốn tìm hiểu về lý số thì nên tìm hiểu, tôi nghĩ chắc chắn tốt cho bạn nếu bạn muốn nghiên cứu tử vi.
Mranh
Sửa bởi MrAnh: 01/12/2011 - 00:01
TNT
01/12/2011
MrAnh, on 01/12/2011 - 00:00, said:
Vì vậy mới nói Tiên Thiên Bát Quái là hình nhi thượng học nghiên cứu về thiên lý, còn Hậu Thiên Bát Quái là hình nhi hạ học nghiên cứu về nhân sự, nói cách khác thì Tiên Thiên Bát Quái là một môn học đầu tiên nghiên cứu về lý lẽ của trời đất, còn Hậu Thiên Bát Quái là môn học sau này nghiên cứu về việc của con người. Tiên Thiên Bát Quái là nguyên thể, Hậu Thiên Bát Quái là công dụng, tiên thiên là bất dịch, hậu thiên là giao dịch và biến dịch, tiên thiên là vô hình, hậu thiên là hữu hình, âm dương là tiên thiên vì âm dương là vô hình, ngũ hành là hậu thiên vì ngũ hành là hữu hình. Trong âm dương cũng có âm dương tiên thiên và âm dương hậu thiên.
Mranh
Mranh
Để khi rảnh tra cứu sách rồi viết tiếp, do bàn về các con số niên mệnh theo bảng ma phương hơi phức tạp, và luận tử vi, trước hết phải luận các Con Số này.... xem, luận chỗ đứng của một con người đang trong không gian nào?
buikhoai
01/12/2011
MrAnh, on 01/12/2011 - 00:00, said:
Bạn có thể tự mình tìm hiểu thêm, có rất nhiều tài liệu liên quan giải thích và viết về vấn đề này, tôi viết lại cho bạn, để nếu bạn thực sự muốn tìm hiểu về lý số thì nên tìm hiểu, tôi nghĩ chắc chắn tốt cho bạn nếu bạn muốn nghiên cứu tử vi.
ryan88
01/12/2011
MrAnh, on 01/12/2011 - 00:00, said:
TIÊN THIÊN BÁT QUÁI:
Phục Hy vạch quẻ thì lấy vạch liền làm phù hiệu cho khí dương và vạch đứt làm phù hiệu cho khí âm. Điều đó cho thấy đạo trời được diễn tả bằng âm và dương. Đạo đất được diễn tả bằng nhu và cương, đạo người được diễn tả bằng nhân và nghĩa. Đó là trong thuyết tam tài, ở quẻ Càn có 3 vạch vạch trên là đạo trời, vạch dưới là đạo đất, vạch giữa là đạo người và con người sinh ra giữa trời đất, âm dương, 8 quẻ trong Tiên Thiên Bát Quái là do Phục Hy vạch quẻ và sắp xếp 8 hiện tượng trên trong thiên nhiên theo đúng qui luật của trời đất sinh ra nó, bởi vậy mới gọi là tiên thiên.
Trời thì sinh ra 4 cái động, đất thì sinh ra 4 cái tĩnh. Lấy các vạch dương và các vạch âm từ dưới lên cả 3 tầng ta lần lượt được 3 vạch nhưng vạch theo thứ tự từ dưới lên ta được 8 quẻ theo Tiên Thiên Bát Quái. Các quẻ Càn, Đoài, Ly, Chấn thuộc về bên trái từ 0h tới 12h. Các quẻ Tốn, Khảm, Cấn, Khôn thuộc về bên phải. Trong viên đồ, 4 quẻ này theo chiều đi xuống từ 13h tới 0h. Điều này cũng cho thấy trong tiên thiên âm chủ giáng, dương chủ thăng, âm bên phải dương bên trái.
Sau khi trời đất định ngôi, âm dương xác lập thì trời trên, đất dưới, thiên cầu ở phương nam mà thiên cầu đối địa cầu thì quả đất ở phương bắc. Thuỷ hoả đối lập nhau nhưng thuỷ hoả chẳng diệt nhau, chúng tương tác với nhau để sinh công dụng, mặt trời thường mọc ở phương đông, nước chảy thường ở phía tây sang đông nên quÎ y ở phương đông, quÎ Khảm ở phương tây. Sấm gió thường xô xát nhau, gió nhiều ở tây nam, sấm nhiều ở đông bắc nên quẻ Tốn ở phương tây nam và quẻ Chấn giữ vùng đông bắc. Núi đầm thông khí, nơi có núi thường có đầm, có sông có suối, mà núi nhiều ở tây bắc, còn sông suối và đầm có nhiều ở đông nam vì vậy Cấn định vị ở tây bắc, và Đoài chiếm chỗ ở đông nam. Đó là những điều Phục Hy quan sát và nhận thấy nên ông vạch ra Tiên Thiên Bát Quái dựa trên lý lẽ của trời đất. Vì thế có câu Tiên Thiên Bát Quái là hình nhi thượng học nghiên cứu về thiên lý ( nghĩa là môn học đầu tiên nghiên cứu về lý lẽ của trời đất.).
HẬU THIÊN BÁT QUÁI
Trong quẻ Phong Thiên Tiểu Súc, thoán từ viết: Tiểu Súc hanh, mật vân bất vũ, tự ngã tây giao nghĩa là: chứa nhỏ thì hanh thông, mây đen kịt mà không mưa ở cõi trời phía tây của ta. Trong quẻ này khuyên người quân tử nên hoạt động văn tài viết lách mà không nên làm việc chính trị. Quẻ này ứng vào số phận vua Văn bị Trụ Vương cho rằng có tài, tìm cách giết đi nhưng chưa có lý do nên giam vào ngục Dữu Lý trong 7 năm. Trong thời gian này, Văn Vương viết Kinh Dịch, sắp xếp lại các quẻ theo qui luật cuộc sống con người và xã hội, theo quan điểm thực tế hơn gọi là Hậu Thiên Bát Quái.
Vì vậy mới nói Tiên Thiên Bát Quái là hình nhi thượng học nghiên cứu về thiên lý, còn Hậu Thiên Bát Quái là hình nhi hạ học nghiên cứu về nhân sự, nói cách khác thì Tiên Thiên Bát Quái là một môn học đầu tiên nghiên cứu về lý lẽ của trời đất, còn Hậu Thiên Bát Quái là môn học sau này nghiên cứu về việc của con người. Tiên Thiên Bát Quái là nguyên thể, Hậu Thiên Bát Quái là công dụng, tiên thiên là bất dịch, hậu thiên là giao dịch và biến dịch, tiên thiên là vô hình, hậu thiên là hữu hình, âm dương là tiên thiên vì âm dương là vô hình, ngũ hành là hậu thiên vì ngũ hành là hữu hình. Trong âm dương cũng có âm dương tiên thiên và âm dương hậu thiên.
Cho nên Văn Vương sắp xếp lại vị trí các quẻ theo công dụng của nó là sự cần thiết và trên thực tế, sau này nó được vận dụng trong châm cứu, làm lịch, nông nghiệp và người ta thường sử dụng Hậu Thiên Bát Quái. Tiên Thiên Bát Quái dựa theo số 9 của Lạc Thư, còn Hậu Thiên Bát Quái dựa theo vị trí 10 số của Hà Đồ. chỉ lấy số của lão dương là số 9 mà không lấy thiếu dương là số 7, vì già thì biến, nghĩa Như trên đã nói, Hậu Thiên Bát Quái được xếp đặt theo cách suy nghĩ của con người để phát huy công dụng của bát quái. Quẻ Ly là hoả, là mặt trời mọc ở phương đông nhưng độ nóng ở đây là cực tiểu, nó chỉ lớn hơn thiếu dương một ít, chỉ khi nào nó về phương nam, nắng vàng rực rỡ thì hoả mới phát huy công dụng, vì vậy quẻ Càn là biến dịch thì công dụng sinh ra, còn trẻ thì không biến nên chưa thấy được công dụng. Ly hoả ở phương đông thì sao mà phơi thóc và phơi khô các vật được, chỉ có ở phương nam ly hoả mới phát huy công dụng. Cũng như đời người khi còn trẻ, từ lúc đẻ ra tới lúc 16 tuổi thì mẹ chỉ hy vọng vào con cái, đến khi con đủ khôn lớn, tam thập nhi lập ( 30 – 32 tuổi ) thì lúc ấy mới tin tưởng mà giao trách nhiệm cũng như gia tài cho con cái. Vì vậy Văn Vương xếp quẻ Ly vào vị trí của quẻ Càn ở phía nam như con thay bố mẹ. Mặt trời ly hoả ở phương nam để soi sáng khắp nơi, để nghe ngóng thiên hạ thì khảm thuỷ là nước, là mặt trăng phải ở phương bắc để đối diện theo lẽ âm dương. ....
Bạn có thể tự mình tìm hiểu thêm, có rất nhiều tài liệu liên quan giải thích và viết về vấn đề này, tôi viết lại cho bạn, để nếu bạn thực sự muốn tìm hiểu về lý số thì nên tìm hiểu, tôi nghĩ chắc chắn tốt cho bạn nếu bạn muốn nghiên cứu tử vi.
Mranh
Phục Hy vạch quẻ thì lấy vạch liền làm phù hiệu cho khí dương và vạch đứt làm phù hiệu cho khí âm. Điều đó cho thấy đạo trời được diễn tả bằng âm và dương. Đạo đất được diễn tả bằng nhu và cương, đạo người được diễn tả bằng nhân và nghĩa. Đó là trong thuyết tam tài, ở quẻ Càn có 3 vạch vạch trên là đạo trời, vạch dưới là đạo đất, vạch giữa là đạo người và con người sinh ra giữa trời đất, âm dương, 8 quẻ trong Tiên Thiên Bát Quái là do Phục Hy vạch quẻ và sắp xếp 8 hiện tượng trên trong thiên nhiên theo đúng qui luật của trời đất sinh ra nó, bởi vậy mới gọi là tiên thiên.
Trời thì sinh ra 4 cái động, đất thì sinh ra 4 cái tĩnh. Lấy các vạch dương và các vạch âm từ dưới lên cả 3 tầng ta lần lượt được 3 vạch nhưng vạch theo thứ tự từ dưới lên ta được 8 quẻ theo Tiên Thiên Bát Quái. Các quẻ Càn, Đoài, Ly, Chấn thuộc về bên trái từ 0h tới 12h. Các quẻ Tốn, Khảm, Cấn, Khôn thuộc về bên phải. Trong viên đồ, 4 quẻ này theo chiều đi xuống từ 13h tới 0h. Điều này cũng cho thấy trong tiên thiên âm chủ giáng, dương chủ thăng, âm bên phải dương bên trái.
Sau khi trời đất định ngôi, âm dương xác lập thì trời trên, đất dưới, thiên cầu ở phương nam mà thiên cầu đối địa cầu thì quả đất ở phương bắc. Thuỷ hoả đối lập nhau nhưng thuỷ hoả chẳng diệt nhau, chúng tương tác với nhau để sinh công dụng, mặt trời thường mọc ở phương đông, nước chảy thường ở phía tây sang đông nên quÎ y ở phương đông, quÎ Khảm ở phương tây. Sấm gió thường xô xát nhau, gió nhiều ở tây nam, sấm nhiều ở đông bắc nên quẻ Tốn ở phương tây nam và quẻ Chấn giữ vùng đông bắc. Núi đầm thông khí, nơi có núi thường có đầm, có sông có suối, mà núi nhiều ở tây bắc, còn sông suối và đầm có nhiều ở đông nam vì vậy Cấn định vị ở tây bắc, và Đoài chiếm chỗ ở đông nam. Đó là những điều Phục Hy quan sát và nhận thấy nên ông vạch ra Tiên Thiên Bát Quái dựa trên lý lẽ của trời đất. Vì thế có câu Tiên Thiên Bát Quái là hình nhi thượng học nghiên cứu về thiên lý ( nghĩa là môn học đầu tiên nghiên cứu về lý lẽ của trời đất.).
HẬU THIÊN BÁT QUÁI
Trong quẻ Phong Thiên Tiểu Súc, thoán từ viết: Tiểu Súc hanh, mật vân bất vũ, tự ngã tây giao nghĩa là: chứa nhỏ thì hanh thông, mây đen kịt mà không mưa ở cõi trời phía tây của ta. Trong quẻ này khuyên người quân tử nên hoạt động văn tài viết lách mà không nên làm việc chính trị. Quẻ này ứng vào số phận vua Văn bị Trụ Vương cho rằng có tài, tìm cách giết đi nhưng chưa có lý do nên giam vào ngục Dữu Lý trong 7 năm. Trong thời gian này, Văn Vương viết Kinh Dịch, sắp xếp lại các quẻ theo qui luật cuộc sống con người và xã hội, theo quan điểm thực tế hơn gọi là Hậu Thiên Bát Quái.
Vì vậy mới nói Tiên Thiên Bát Quái là hình nhi thượng học nghiên cứu về thiên lý, còn Hậu Thiên Bát Quái là hình nhi hạ học nghiên cứu về nhân sự, nói cách khác thì Tiên Thiên Bát Quái là một môn học đầu tiên nghiên cứu về lý lẽ của trời đất, còn Hậu Thiên Bát Quái là môn học sau này nghiên cứu về việc của con người. Tiên Thiên Bát Quái là nguyên thể, Hậu Thiên Bát Quái là công dụng, tiên thiên là bất dịch, hậu thiên là giao dịch và biến dịch, tiên thiên là vô hình, hậu thiên là hữu hình, âm dương là tiên thiên vì âm dương là vô hình, ngũ hành là hậu thiên vì ngũ hành là hữu hình. Trong âm dương cũng có âm dương tiên thiên và âm dương hậu thiên.
Cho nên Văn Vương sắp xếp lại vị trí các quẻ theo công dụng của nó là sự cần thiết và trên thực tế, sau này nó được vận dụng trong châm cứu, làm lịch, nông nghiệp và người ta thường sử dụng Hậu Thiên Bát Quái. Tiên Thiên Bát Quái dựa theo số 9 của Lạc Thư, còn Hậu Thiên Bát Quái dựa theo vị trí 10 số của Hà Đồ. chỉ lấy số của lão dương là số 9 mà không lấy thiếu dương là số 7, vì già thì biến, nghĩa Như trên đã nói, Hậu Thiên Bát Quái được xếp đặt theo cách suy nghĩ của con người để phát huy công dụng của bát quái. Quẻ Ly là hoả, là mặt trời mọc ở phương đông nhưng độ nóng ở đây là cực tiểu, nó chỉ lớn hơn thiếu dương một ít, chỉ khi nào nó về phương nam, nắng vàng rực rỡ thì hoả mới phát huy công dụng, vì vậy quẻ Càn là biến dịch thì công dụng sinh ra, còn trẻ thì không biến nên chưa thấy được công dụng. Ly hoả ở phương đông thì sao mà phơi thóc và phơi khô các vật được, chỉ có ở phương nam ly hoả mới phát huy công dụng. Cũng như đời người khi còn trẻ, từ lúc đẻ ra tới lúc 16 tuổi thì mẹ chỉ hy vọng vào con cái, đến khi con đủ khôn lớn, tam thập nhi lập ( 30 – 32 tuổi ) thì lúc ấy mới tin tưởng mà giao trách nhiệm cũng như gia tài cho con cái. Vì vậy Văn Vương xếp quẻ Ly vào vị trí của quẻ Càn ở phía nam như con thay bố mẹ. Mặt trời ly hoả ở phương nam để soi sáng khắp nơi, để nghe ngóng thiên hạ thì khảm thuỷ là nước, là mặt trăng phải ở phương bắc để đối diện theo lẽ âm dương. ....
Bạn có thể tự mình tìm hiểu thêm, có rất nhiều tài liệu liên quan giải thích và viết về vấn đề này, tôi viết lại cho bạn, để nếu bạn thực sự muốn tìm hiểu về lý số thì nên tìm hiểu, tôi nghĩ chắc chắn tốt cho bạn nếu bạn muốn nghiên cứu tử vi.
Mranh
like mạnh!!!
(dù ko hiểu gì ^^)