Ý NGHĨA CỦA VÒNG TRƯỜNG SINH
#1
Gửi vào 14/08/2015 - 11:53
Trong tử bình vòng trường sinh mang ý nghĩa tối quan trọng trong việc xác định dụng thần để điều hòa âm dương ngũ hành cho mệnh của đương số. Nhật chủ vượng nhược đầu tiên phải căn cứ vào việc có được lệnh theo vòng tràng sinh ở nguyệt lệnh hay không, sau đó mới đến các thần sát cường nhược thế nào với nguyệt lệnh. Trong sự hài hòa mà chọn ra dụng thần cho lá số. Xác định được dụng thần là điều kiện tiên quyết trước khi xem vận hạn.
Vòng trường sinh có hai vòng ngược chiều nhau cho âm và dương, ngược chiều nhau theo nguyên lý "âm thịnh dương suy" và "âm suy dương thịnh". Mỗi chất trong ngũ hành để có hai vòng của âm và dương ngược nhau một cách chính xác theo nguyên lý sinh của dương là tử của âm và ngược lại. Vòng trường sinh các Cụ để lại mang đậm dấu ấn của nền văn minh trồng trọt của người Bách Việt.
Tượng của ngũ hành:
Dương mộc Giáp tượng là cây rừng.
Âm Mộc Ất tượng là hoa mầu.
Dương Hỏa Bính tượng là mặt trời.
Âm Hỏa Đinh tượng ngọn đèn.
Dương Thổ Mậu tượng đất khô cằn.
Âm Thổ Kỷ tượng đất trồng trọt.
Dương Kim Canh tượng đồ kim khí cứng như kiếm...
Âm Kim Tân tượng đồ trang sức kim mềm như vòng, tiền kim loại...
Dương Thủy Nhâm tượng nước nói chung.
Âm Thủy Quý tượng chất lỏng khác như nhựa cây...
(còn tiếp về vì sao có hai vong trường sinh ngược nhau cho âm dương ngũ hành)
Thanked by 16 Members:
|
|
#2
Gửi vào 15/08/2015 - 21:31
Khi xét sinh tử trong âm dương ngũ hành phải xét ở chỗ cái dụng của nó.
Mộc: Tại Hợi Âm Thủy sinh mạnh cho Dương Mộc Giáp (cây rừng), cây rậm rạp che nắng mặt trời khiến Âm Mộc Ất (hoa mầu) chết. Nên Giáp sinh tại Hợi, Ất tử tại Hợi. Tại Ngọ Dương Hỏa, chất hỏa cực vượng khiến cháy rừng mà Giáp tử, môi trường trở lại hỗ trợ cho trồng trọt hoa mầu (Ất sinh). Nên Ất sinh tại Ngọ và Giáp tử tại Ngọ.
Hỏa: Tại giờ Dần (3-5h) là lúc bình minh măt trời (Bính) lên, đèn thắp sáng không cần nữa nên tắt. Do vậy Bính sinh tại Dần và Đinh tử tại Dần. Tại giờ Dậu (17h-19h) mặt trời khuất núi và đèn được thắp lên. Do vậy Bính tử tại Dậu và Đinh sinh tại Dậu.
Thổ: Dương Mộc Dần, chất mộc cường vượng đại diện là cây rừng (Bình địa Mộc) khiến đất đai trở nên khô cằn nên đất khô cằn (Mậu) sinh ra và đất trồng trọt (Kỷ) mất đi. Nên Mậu sinh tại Dần và Kỷ tử tại Dần. Tại Dậu Kim can tàng là Canh và Tân đại diện cho các dụng cụ khai hoang vỡ hóa, cầy bừa khiến đất khô cằn (Mậu) mất đi mà thành đất trồng trọt (Kỷ). Nên Mậu tử ở Dậu và Kỷ sinh ở Dậu.
Kim: Tại Âm Hỏa Tỵ đại diện là lò rèn, ở đây các công cụ kim cứng như lưỡi kiếm, cầy bừa.. được rèn thành, nhưng cũng là chỗ nung chảy đồ trang sức từ Âm Kim Tân thành Âm Thủy (chất lỏng) mà kim mất đi. Do vậy Canh sinh tại Tị và Tân Tử tại Tị. Tại Tý với can tàng là Nhâm và Quý sẽ làm hoen gỉ hư hỏng vật dụng kim loại, nhưng khi đúc đồ trang sức muốn thành thì từ chất lỏng kim loại nóng chảy (Quý) phải đổ vào khuôn đúc rồi nguội đi chuyển thể rắn. Do vậy Canh tử tại Tý và Tân sinh tại Tý.
(nói đến đây hẳn có người thắc mắc là kiếm cũng phải đúc vậy, xin thưa rằng lúc đó mới là phôi kiếm vẫn thuộc Tân, cho đến khi qua lò rèn Tị mới sinh thành Canh)
Thủy: tại Mão mùa xuân mưa phùn cây cối hút nước đâm chồi nẩy lộc mà nước bị mất đi, nhựa cây sinh ra. Do vậy mà Nhâm tử tại Mão và Quý sinh tại Mão. Tại Thân mùa ra hoa kết quả, nhựa cây mất đi khiến lá vàng rơi rụng, quả chín mọng nước. Do vậy mà Nhâm sinh tại Thân và Quý tử tại Thân.
Hai vòng trường sinh cho âm dương ngũ hành:
Giáp: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
là Hợi Tý Sửu Dần Mão Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất
Ất: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Ngọ Tị Thìn Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuât Dậu Thân Mùi
Bính: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Dần Mão Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu
Đinh: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Dậu Thân Mùi Ngọ Tị Thìn Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuât
Mậu: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Dần Mão Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu
Kỷ: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Dậu Thân Mùi Ngọ Tị Thìn Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuât
Canh: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Dần Mão Mão Thìn
Tân: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Tý Hợi Tuât Dậu Thân Mùi Ngọ Tị Thìn Mão Dần Sửu
Nhâm: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Dần Mão Mão Thìn Tị Ngọ Mùi
Quý: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuât Dậu Thân Mùi Ngọ Tị Thìn
Thanked by 13 Members:
|
|
#3
Gửi vào 17/10/2015 - 21:51
binhlq, on 15/08/2015 - 21:31, said:
- Khi xét độ vượng suy ngũ hành trong trụ thì buộc phải dựa vào nguyệt trụ, cụ thể là chi tháng. Tại sao lại là chi tháng mà không là chi khác? Con lấy vd như trụ ngày là nhâm tý, còn trụ tháng là bính tị. Rõ ràng nhâm tuyệt ở tị, nhưng lại rất vượng ở tí, vậy thì thân cường hay nhược? Hoặc như trụ con, sao con vượng tại chính trụ con, nhưng lại tử tuyệt tại trụ tháng, sẽ khác gì với th ngược lại, sao con vượng tại trụ tháng nhưng lại chết ngắc tại trụ con?
- Nếu trong trụ khuyết 1 hành, vd khuyết tài, mà đó là tượng người cha và vợ, thì phải luận thế nào ạ?
Con kém tử bình, mong bác chỉ bảo thêm
Thanked by 3 Members:
|
|
#4
Gửi vào 17/10/2015 - 23:44
Atula07, on 17/10/2015 - 21:51, said:
- Khi xét độ vượng suy ngũ hành trong trụ thì buộc phải dựa vào nguyệt trụ, cụ thể là chi tháng. Tại sao lại là chi tháng mà không là chi khác? Con lấy vd như trụ ngày là nhâm tý, còn trụ tháng là bính tị. Rõ ràng nhâm tuyệt ở tị, nhưng lại rất vượng ở tí, vậy thì thân cường hay nhược? Hoặc như trụ con, sao con vượng tại chính trụ con, nhưng lại tử tuyệt tại trụ tháng, sẽ khác gì với th ngược lại, sao con vượng tại trụ tháng nhưng lại chết ngắc tại trụ con?
- Nếu trong trụ khuyết 1 hành, vd khuyết tài, mà đó là tượng người cha và vợ, thì phải luận thế nào ạ?
Con kém tử bình, mong bác chỉ bảo thêm
- Chi tháng trong tử bình là cung trong mười hai cung hoàng đạo quay quanh mặt trời của quả đất. Sự vòng quanh mặt trời của quả đất là sự vận hành và luân chuyển bốn mùa cho nên là hiệu lệnh sinh tử của vạn vật. Vì vậy, chi tháng mang ý nghĩa là hiệu lệnh của mặt trời và ta quen gọi là nguyệt lệnh.
- Nếu là vợ chồng thì lấy hành hỉ dụng thần thay thế.
Thanked by 4 Members:
|
|
#5
Gửi vào 18/10/2015 - 05:30
binhlq, on 15/08/2015 - 21:31, said:
Hai vòng trường sinh cho âm dương ngũ hành:
Giáp: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
là Hợi Tý Sửu Dần Mão Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất
Ất: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Ngọ Tị Thìn Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuât Dậu Thân Mùi
Bính: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Dần Mão Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu
Đinh: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Dậu Thân Mùi Ngọ Tị Thìn Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuât
Mậu: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Dần Mão Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu
Kỷ: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Dậu Thân Mùi Ngọ Tị Thìn Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuât
Canh: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Dần Mão Mão Thìn
Tân: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Tý Hợi Tuât Dậu Thân Mùi Ngọ Tị Thìn Mão Dần Sửu
Nhâm: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Dần Mão Mão Thìn Tị Ngọ Mùi
Quý: Trường Sinh - Mộc Dục - Quan Đới - Lâm Quan - Đế Vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng là
Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuât Dậu Thân Mùi Ngọ Tị Thìn
Giáp dương mộc, Canh dương kim -> khởi sinh từ âm (Hợi Tị)
Bính dương hỏa, Nhâm dương thủy -> khởi sinh từ dương (Dần Thân)
Kim Mộc và Hỏa Thổ Thủy có sự khởi sinh âm dương khác nhau, tại sao lại định lệ như vậy?
Cháu mong được nghe ý kiến của bác binhlq về sự khởi sinh âm dương khác nhau này.
Kính
Sửa bởi VoTraMy: 18/10/2015 - 05:33
Thanked by 4 Members:
|
|
#6
Gửi vào 18/10/2015 - 11:02
VoTraMy, on 18/10/2015 - 05:30, said:
Bính dương hỏa, Nhâm dương thủy -> khởi sinh từ dương (Dần Thân)
Kim Mộc và Hỏa Thổ Thủy có sự khởi sinh âm dương khác nhau, tại sao lại định lệ như vậy?
Cháu mong được nghe ý kiến của bác binhlq về sự khởi sinh âm dương khác nhau này.
Kính
Câu hỏi rất hay.
Kim Mộc thuộc phương Đông và Tây nên về phương diện địa chi do quả đất luôn chuyển động từ tây sang đông nên động, mà động là dương. Hỏa Thủy thuộc phương Nam Bắc và Thổ thuộc trung ương thì lại tĩnh tại nên là âm.
Xét về phương diên âm dương thì Dương sinh tại Âm và Âm Sinh tại Dương. Cho nên, Kim Mộc sinh ở Âm và Thổ Hỏa Thủy sinh ở Dương. Trong Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ lại có phân biệt âm dương như Canh Dương và Tân Âm thì Tân Âm đảo lại sinh ở Tý Dương.
Thanked by 5 Members:
|
|
#7
Gửi vào 18/10/2015 - 11:35
- ngũ hành của Can,
- ngũ hành của địa Chi,
- ngũ hành của Nạp âm.
Thanked by 2 Members:
|
|
#8
Gửi vào 18/10/2015 - 13:42
vietnamconcrete, on 18/10/2015 - 11:35, said:
- ngũ hành của Can,
- ngũ hành của địa Chi,
- ngũ hành của Nạp âm.
Có hai định tuyến rất rõ ràng trong các môn dự đoán học của tiền nhân:
Một là, Âm dương và Ngũ hành chuyên về bản chất huyền diệu bên trong Thiên Địa Nhân.
Hai là, Thái Cực, Lưỡng Nghi (Âm Dương), Tứ tượng, Bát Quái chuyên về biến dịch bên ngoài của vạn vật.
Vì sau có hai hướng? Giống như các giác quan nhận biết của bản thân chúng ta luôn có hai như hai mắt, hai mũi, hai tai, não chia hai bán cầu đại não..., Ngay cả các cơ quan vận động và chấp hành cũng vậy như hai tay, hai chân, tim cũng chia hai...
Chia hai để làm gì? Lão tử đã nói trong chương 2:
"Trong thiên hạ, mọi người biết đến cái đẹp vì đã biết đến cái xấu. Biết cái thiện vì cũng đã biết cái chẳng thiện.
Cho nên: Có và không tương sinh, khó khăn và dễ dãi tương thành, cao thấp cùng so sánh, âm thanh tương hòa, trước sau tùy tòng."
Chia hai chính là để nhận thức đầy đủ về vạn vật.
Do vậy, việc phân hóa là để nhận biết đầy đủ chứ không phải là loại trừ nhau. Môn nào theo định tuyến nào sẽ có đặc trưng theo định tuyến đó. Kinh dịch theo hướng hai. Tử vi, Tử bình theo định tuyến một do vậy Can, Chi, Nạp âm đều có phân định ngũ hành kèm theo.
Việc ứng dụng vòng tràng sinh trong Tử vi cũng rất rõ ràng. Vòng tràng sinh trong Tử vi đại diện cho ngôi Nhân chỉ ra sự cọ sát, tương quan kiếp sống của đương số trong môi trường sống là mười hai cung trong lá số. Do vậy, muốn biết các thông tin của cuộc sống đương số trong môi trường sống ta xem qua vòng này. Ví dụ, muốn biết bệnh tật của đương số trong cuộc sống thì xem sao Bệnh thuộc Vòng Trường Sinh đóng ở cung nào, thì cung đó sẽ ảnh hưởng và đại diện cho bệnh tật đương số. Như rơi vào cung Thê, nếu cung Thê xấu thì cuộc sống vợ chồng không tốt sẽ là nguyên nhân của bệnh tật. Tương tự muốn xem chết ra sao thì xem sao Tử đóng ở đâu..
Thanked by 8 Members:
|
|
#9
Gửi vào 18/10/2015 - 17:22
Bát tự thương quan nhập mộ của nhật chủ và thương quan nhập mộ của thương quan . Tương tự cho ấn và quan .
Liệu rằng vòng trường sinh như vậy thì anh nghĩ với cách cục pháp sử dụng thế nào gọi là cường nhược cho can âm ?
Ý nghĩa của vòng trường sinh với bát tự mệnh là gì ?
Vận thuận và đảo của vòng trường sinh với bát tự có ý nghĩa và ảnh hưởng thế nào về tài quan ấn thực cùng cuộc đời .
Anh nêu suy nghĩ thẳng thắn của anh , tôi cũng sẽ trình bày quan điểm của tôi , mong rằng có thể trao đổi nhiều .
Thanked by 6 Members:
|
|
#10
Gửi vào 19/10/2015 - 09:34
ThichNguNgay, on 18/10/2015 - 17:22, said:
Bát tự thương quan nhập mộ của nhật chủ và thương quan nhập mộ của thương quan . Tương tự cho ấn và quan .
Liệu rằng vòng trường sinh như vậy thì anh nghĩ với cách cục pháp sử dụng thế nào gọi là cường nhược cho can âm ?
Ý nghĩa của vòng trường sinh với bát tự mệnh là gì ?
Vận thuận và đảo của vòng trường sinh với bát tự có ý nghĩa và ảnh hưởng thế nào về tài quan ấn thực cùng cuộc đời .
Anh nêu suy nghĩ thẳng thắn của anh , tôi cũng sẽ trình bày quan điểm của tôi , mong rằng có thể trao đổi nhiều .
Hiện tại có hai trường phái tử bình cơ bản ở bên Tầu, tạm gọi:
Một là, phái Cách cục pháp có từ lâu đời, lấy cách cục là phương pháp luận cơ bản và đưa ra các cục thế định sẵn đã được nghiệm lý từ một số bát tự được cho là chuẩn để xét đoán.
Hai là, phái Vượng suy pháp, có từ đời nhà Thanh lấy vòng trường sinh làm cơ sở để xét nhật chủ vượng suy từ đó đưa ra dụng thần để bổ cứu mệnh số.
Hai trường phái này thường xuyên "đại khẩu chiến". Còn ở Việt Nam, từ xưa thì chỉ có một thứ gần gần như Vượng suy pháp, cái này tôi cũng đang tìm hiểu và suy nghĩ, cũng như tiếp tục nghiệm lý. Còn Cách cục pháp tôi cũng có đọc qua các đại Tác phẩm nhưng thú thực là không được nhập tâm lắm mong bạn thông cảm.
Thanked by 3 Members:
|
|
#11
Gửi vào 23/10/2015 - 04:41
#12
Gửi vào 24/10/2015 - 08:24
- Chỉ bối = Trường sinh
- Hàm trì = Mộc dục
- Nguyệt Sát = Quan đới
- Vong Thần = Lâm quan
- Tướng tinh = Đế vượng
- Phan An = Suy
- Tuế Dịch = Bệnh
- Tức Thần = Tử
- Hoa Cái = Mộ
- Kiếp Sát = Tuyệt
- Tai Sát = Thai
- Thiên Sát = Dưỡng
Riêng 3 chữ Tuyệt - Thai - Dưỡng được gọi là tam sát, trong thuật phong thủy rất chú trọng khi tính toán xây dựng hay tu sửa.
-------------------------------------------------------
Tác giả: Vũ Tài Lục (Thiên Đồng soạn lại)
Nguồn: Tuvilyso.com
Trước hết là cách an sao Tướng Tinh. Tướng Tinh thuộc sao của niên chi chỉ tính theo thế tam hợp.
"Dần Ngọ Tuất Tướng Tinh an ở Ngọ
Thân Tý Thìn Tướng Tinh an ở Tý
Tỵ Dậu Sửu Tướng Tinh an ở Dậu
Hợi Mão Mùi Tướng Tinh an ở Mão"
Tướng Tinh chỉ đi theo chiều thuận như vòng Thái Tuế. Lần lượt đến Phan An, Tuế Dịch, Tức Thân, Hoa Cái, Kiếp Sát, Tai Sát, Thiên Sát, Chỉ Bối, Hàm Trì, Nguyệt Sát, Vong Thần.
Chỉ có ba sao của vòng Tướng Tinh xuất hiện trong lá số Tử Vi Việt là: Đào Hoa (Hàm Trì), Hoa Cái, Kiếp Sát. Vị trí y hệt vị trí an bài qua vòng Tướng Tinh, nghĩa là Đào Hoa ở bốn cung Tí Ngọ Mão Dậu. Hoa Cái ở bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi, Kiếp Sát ở bốn cung Dần Thân Tị Hợi.
Phan Án có hai ý nghĩa cơ bản:
a. Làm tăng thanh thế, tác dụng giống như Bát Tọa, chỉ khác ở điểm Phan Án có lưu niên trong khi Bát Tọa thì không. Bởi vậy Thai Tọa làm tăng thanh thế cho cả một đời, còn Phan Án tăng thanh thế cho một năm.
b. Gần cận người cao sang quyền thế, hay nói khác đi là dễ gặp quí nhân. Phan Án rất hợp với Thiên Khôi, Thiên Việt. Có Khôi Việt đứng bên thì quí nhân chiếu cố, nhưng chỉ là hữu danh vô thực kiểu nhân sĩ tư vấn vớ vẩn.
Tuế Dịch được xem như một loại lưu niên Thiên Mã và tính chất là một. Lưu Lộc mà có Tuế Dịch thì cũng kể làm Lộc Mã giao trì, vào Mệnh vào Tài Bạch Quan Lộc hay Thiên Di đều chủ về sự tấn tài tấn lộc.
Tuế Dịch gặp Lộc Tồn cố định trên lá số thì lại không kể làm Lộc Mã giao trì, chỉ gặp lưu Lộc mới kể. Nếu lưu Lộc đứng cùng, đối xung với Lộc Tồn cố định mà thêm cả Tuế Dịch nữa gọi bằng hiện tượng “động” đưa đến đi xa hoặc thay đổi công việc lâu dài.
Tức Thần mang ý nghĩa thiếu xung động trì trệ nằm ỳ một chỗ. Tức Thần vào cung Phúc Đức tâm tư tiêu cực dễ bi quan, luôn luôn nghĩ đến thất bại thành ra kém nỗ lực phấn đấu.
Tức Thần không nên đứng cùng sao Thiên Cơ ở Mệnh hay Phúc Đức hễ làm việc mà thấy hơi khó là bỏ. Tức Thần hợp với sao Thiên Lương, đứng cùng Thiên Lương thì giỏi tùy hòa mà thành ra đắc lực.
Tức Thần gặp Hàm Trì (Đào Hoa) dễ thuận chịu an bài của mệnh vận, nhất là đối với duyên tình, thiếu ý chí mạnh, gặp sao hay vậy.
Tai Sát trên cơ bản tính chất là tai nạn thường đem hung hiểm tới. Cần phối hợp với các sao khác để đo trình độ hung hiểm.
Tai Sát bao giờ cũng đóng ở cung Tí Ngọ Mão Dậu nếu nó gặp Đào Hoa Mộc Dục hoặc Văn Xương Hóa Kị mà lưu niên lưu nguyệt thấy luôn các sát kị xung hội hẳn nhiên là có tai họa vì tình, bị gái lừa trai gạt, hoặc bị đánh đập vì ghen tuông
Tai Sát vào cung Tật Ách làm tăng thêm sự trầm trọng của hung hiểm. Tai Sát chỉ gây hung hiểm khi nó đến cung nào, toa rập với các hung sát tinh khác, trường hợp cung đó cát tường thì tai sát vô lực.
Thiên Sát tính chất ngược với Thiên Đức. Thiên Đức đem thuận lợi cho quan hệ với người trên, bố mẹ hoặc người hơn chức vị mình. Thiên Sát gây khó khăn cho quan hệ này. Thiên Sát ở mệnh hay vận hạn khó được thượng ty nâng đỡ hoặc bị người thân ghét bỏ.
Chỉ Bối là sao hay bị người nói xấu, nó cùng chất với Phi Liêm. Chỉ Bối đi cặp với văn tinh Khoa, Xương Khúc thì hay bị người ghen với tài học mà phỉ báng.
Nếu Chỉ Bối đứng cùng Phi Liêm thì tình trạng bị dèm pha càng nặng, hoặc gặp Thiên Cơ cũng vậy. Chỉ Bối đứng với Thiên Lương Hóa Lộc là con người vì tham lợi việc gì cũng làm. Chỉ Bối kị đóng ở Mệnh cung, Huynh Đệ và Nô Bộc.
Nguyệt Sát na ná Thiên Sát nhưng tai ách thường đến một cách âm thầm. Nguyệt Sát ảnh hưởng mạnh với số nữ hơn nam mạng.
Nguyệt Sát phải có sự trợ lực của sao mà nó đứng cùng thì mới gây rắc rối mạnh. Nguyệt Sát vào cung Tật Ách là có bệnh khó phát hiện rõ ràng. Nguyệt Sát gặp Văn Khúc Văn Xương Hóa Kị cũng có thể gặp họa trên tình ái.
Vong Thần mang tính chất phá hoại bất ngờ, công việc đang trôi chảy đột nhiên bị phá hoặc do đối thủ hoặc hoàn cảnh thay đổi làm cho mất tiền của, hao tốn tài lộc.
Vong Thần là chuyện thất bại bất ngờ, nhưng nó cũng còn mang ý nghĩa lãng phí nếu nó đứng với Hình, Hao hay Không Kiếp thành ra con người thiếu khả năng quản thủ tiền bạc.
-------------------------------------------------------
VÒNG TƯỚNG TINH
ADMIN: Đào Đức Cường
Vòng Tướng Tinh, một trong 4 bộ tạo thành bộ tứ tượng tử vi?
... Một số sao như đã nói ở trên mà nằm ở Mệnh, Thân, Quan thì con người ấy tài năng khí phách hơn người. Ví như Kình Thiên thủ Mệnh thì bản tính ngang tàng "dọc ngang nào biết trên đầu có ai". Còn như sao Tướng Tinh, sách vở có nhắc tới như sau:
- "Tướng tinh bị hại, Nhạc Vũ Mục (Nhạc Phi) bảo thiên chi oan" (ôm trời kêu oan), hoặc
- "Trai sinh Hoa Cái, gái Tướng Tinh" - Đi về võng lọng đón đường cái - tiến lộc cửa nhà vinh.
Nam nữ thông minh, thanh tân, nhan sắc quý tướng. hoặc câu:
- "Nam vinh nữ trọng quyền"
"Tướng Tinh đại cát lâm"
"Thiếu niên tài lộc thịnh"
"Bán thân mãi điền địa"
Tóm lại là "bẩm tính hoàng thiên nhất thân vinh, vận địa sinh nên đài các, vua quan hào phú thụ bảo thiêng".
Chỉ là một trung tinh thôi mà tinh lực của nó mạnh như vậy, thế thì vấn đề ở đâu? Có phải do vấn đề bí truyền của Tử Vi chăng hay vì người muốn giữ bí mật không lộ thiên cơ mà không dám phổ biến ra ngoài cho người đời sau biết ?
Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư không hề nhắc đến vòng sao Tướng Tinh, nhưng nhiều sách bên Trung Quốc có ghi chép về vòng này. Khoa tử vi Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều bởi Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư nên cũng ko có vòng này. Nhưng thực ra có dùng một số sao của vòng này mà không hay. Đó là Hoa Cái, Đào Hoa (Hàm Trì) và Kiếp Sát...
Trước tiên, ta cần phải biết cách an vòng Tướng Tinh như sau: Tướng Tinh an theo tam hợp Tuổi.
- Dần Ngọ Tuất: Tướng Tinh an tại Ngọ
- Thân Tí Thìn: Tướng Tinh an tại Tí
- Tỵ Dậu Sửu: Tướng Tinh an tại Dậu
- Hợi Mão Mùi: Tướng Tinh an tại Mão.
Vòng Tướng Tinh chỉ đi theo chiều thuận như Thái Tuế. Sau Tướng Tinh tới Phan Án- Tuế Dịch- Tức Thân - Hoa Cái - Kiếp Sát - Tai Sát - Thiên Sát - Chỉ Bối - Hàm Trì (Đào Hoa) - Nguyệt Sát - Vong Thần.
Hiện nay các sách tử vi phổ biến mới chỉ dùng 1 cặp 3 sao trong vòng Tướng Tinh là Đào Hoa (Hàm Trì), Hoa Cái, Kiếp Sát. Cách an cũng dùng tam hợp tuổi (hành của tuổi) như trên.
Trong vòng này, Phan Án có hai ý nghĩa cơ bản:
1 - Làm tăng thanh thế, tác dụng giống như Bát Tọa, chỉ khác ở điểm Phan Án có lưu niên trong khi Bát Tọa không. Bởi vậy Thai Tọa làm tăng thanh thế cho cả đời, còn Phan Án làm tăng thanh thế cho cả một năm/vận.
2- Gần cận người sang quý hay nói cách khác đi là dễ cận kề quý nhân. Phan Án rất hợp với Khôi Việt. Có Khôi Việt đứng bên thì quý nhân chiếu cố là điều khỏi phải bàn, nhưng ko thực, chỉ là hữu danh vô thực, kiểu nhân sĩ tư vấn vớ vẩn. (Thực là Khôi Việt cư chiếu).
Tuế Dịch được xem như một loại lưu niên Thiên Mã (Dịch) và tính chất là một. Lưu Lộc mà có Tuế Dịch thì cũng kể là cách Lộc Mã giao trì, vào Mệnh Tài hay Quan, Di, đều chủ về sự tấn tài tấn lộc.
Tuế Dịch gặp Lộc Tồn cố định trên lá số thì lại không kể làm Lộc Mã giao trì, chỉ gặp lưu Lộc mới tính. Nếu lưu Lộc đứng cùng, đối xung với Lộc cố định mà thêm cả Tuế Dịch nữa thì gây ra hiện tượng "Động" đưa đến đi xa hoặc thay đổi công việc lâu dài.
Tức Thần mang ý nghĩa thiếu xung động trì trệ nằm ì một chỗ. Tức Thần vào cung Phúc Đức tâm tư tiêu cực dễ bi quan, luôn luôn nghĩ đến thất bại thành ra bản thân kém nỗ lực phấn đấu.
Tức Thầnkhông nên cùng đứng với Thiên Cơ ở Mệnh hay Phúc Đức vì hễ làm việc thì sẽ thấy hơi khó là bỏ, không bền chí. Tức Thần hợp với sao Thiên Lương, đứng cùng nhau thì giỏi tùy hòa mà thành ra đắc lực.
Tức Thần gặp Hàm Trì (Đào Hoa) thì dễ thuận, dễ chấp nhận sự an bày của số mệnh, nhất là đối với duyên tình, thiếu ý chí mạnh, gặp sao hay vậy.
Tai Sát trên cơ bản tính chất là tai nạn và thường đem hung hiểm tới. Mức độ tai họa thế nào cần phải phối với các sao khác để đoán.
Tai Sát bao giờ cũng ở Tứ chính nên nếu gặp Đào Hoa, Mộc Dục hoặc Văn Xương thêm Hóa Kỵ, mà lưu niên lưu nguyệt thấy luôn các Sát, Kị xung hội, hẳn là sẽ có tai họa vì tình, bị gái lừa, trai gạt hay bị đánh đập vì ghen tuông.
Tai Sát vào cung Tật Ách làm tăng thêm sự hung hiểm, trầm trọng của tai họa. Tai Sát chỉ gây hung hiểm khi nó đến cung nào, toa rập với các hung sát tinh khác, trường hợp đó cát tường, có nhiều sao giải thì Tai Sát vô lực.
Thiên Sát tính chất ngược với Thiên Đức. Thiên Đức đem thuận lợi cho quan hệ với người trên, bố mẹ hoặc người hơn chức vị mình. Thiên Sát gây khó khăn cho quan hệ này. Thiên Sát ở Mệnh hay Vận thì khó được cấp trên nân đỡ, hoặc dễ bị người thân ghét bỏ.
Chỉ Bối là sao hay bị người khác nói xấu, nó cùng tính chất với Phi Liêm. Chỉ Bổi đi cặp với Văn tinh, Khoa, Xương Khúc thì hay bị người ghen về tài học mà phỉ báng.
Nếu Chỉ Bối đứng cùng Phi Liêm thì tình trạng bị dèm pha càng nặng, hoặc gặp Thiên Cơ cũng vậy. Chỉ Bối đứng với Lương, Hóa Lộc là con người tham lợi, việc gì cũng làm. Chỉ Bối kỵ đóng ở Mệnh cung, Huynh Đệ và Nô Bộc.
Nguyệt Sát na ná như Thiên Sát, nhưng tai ách thường đến một cách âm thầm. Nguyệt Sát ảnh hưởng mạnh với Nữ hơn Nam.
Nguyệt Sát phải có sự trợ lực của sao mà nó đứng cùng thì mới gây rắc rối mạnh. Nguyệt Sát vào cung Tật Ách thì có bệnh khó phát hiện. Nguyệt Sát gặp Văn Khúc, Văn Xương, Hóa Kị thì có thể gặp họa tình ái.
Vong Thần mang tính chất phá hoại bất ngờ, công việc đang trôi chảy đột nhiên bị phá vỡ hoặc do đối thủ, hoặc do hoàn cảnh thay đổi bất ngờ, làm cho mất tiền của, hao tài lộc.
Vong Thần là chuyên thất bại bất ngờ, nhưng nó cũng mang ý nghĩa lãng phí, nếu đứng với Hình Hao hay Không Kiếp thì là con người thiếu khả năng quản thủ tiền bạc.
Các sao còn lại trong vòng Tướng Tinh được nói khá kỹ trong các sách tử vi hiện nay.
Vậy mới thấy, còn hẳn một vòng sao, tác động của các sao và ý nghĩa luận giải quan trọng không được phổ biến. Tướng Tinh đi cùng với các cách Tử Phủ Vũ Tướng miếu vượng, sao phù trợ đẹp(Tả Hữu, Khôi Việt, Xương Khúc, Khoa Quyền Lộc) thì là thượng nhân anh hùng hãn thế.
Ngoài ra khi ta kết hợp các bộ ba sao vòng Tướng Tinh (ví dụ: Tướng Tinh, Hoa Cái, Chỉ Bối...) thì chúng ta sẽ có những phân loại hữu ích.
Từ ý nghĩa của các sao trong vòng Tướng Tinh và tác dụng của sự kết hợp giữa chúng, ta thấy vòng này có tầm quan trọng như 3 vòng Sinh Tuế Lộc. Phải chăng tử vi có lưỡng nghi là hai vòng chính tinh và tứ tượng là 4 vòng, Sinh Tuế Lộc Tướng thì mới hoàn chỉnh? Mà vòng Tướng Tinh lâu nay vốn không được đề cập tới vì lý do bí truyền hay vì tam sao thất bản, hoặc giả do các thầy trước đây thấy một số tính chất giống nhau giữa các sao mà loại bớt đi chăng?
(Theo Vũ Tài Lục và Thiên Phúc).
P/s: phần thứ 2, ví dụ như khi nói "Tai sát gặp Mộc dục" theo tôi hiểu là Tai sát của niên chi năm sinh gặp Đào hoa của năm tiểu vận...
Sửa bởi vietnamconcrete: 24/10/2015 - 08:33
Thanked by 5 Members:
|
|
#13
Gửi vào 24/10/2015 - 11:09
vietnamconcrete, on 24/10/2015 - 08:24, said:
- Chỉ bối = Trường sinh
- Hàm trì = Mộc dục
- Nguyệt Sát = Quan đới
- Vong Thần = Lâm quan
- Tướng tinh = Đế vượng
- Phan An = Suy
- Tuế Dịch = Bệnh
- Tức Thần = Tử
- Hoa Cái = Mộ
- Kiếp Sát = Tuyệt
- Tai Sát = Thai
- Thiên Sát = Dưỡng
Riêng 3 chữ Tuyệt - Thai - Dưỡng được gọi là tam sát, trong thuật phong thủy rất chú trọng khi tính toán xây dựng hay tu sửa.
-------------------------------------------------------
Tác giả: Vũ Tài Lục (Thiên Đồng soạn lại)
Nguồn: Tuvilyso.com
Trước hết là cách an sao Tướng Tinh. Tướng Tinh thuộc sao của niên chi chỉ tính theo thế tam hợp.
"Dần Ngọ Tuất Tướng Tinh an ở Ngọ
Thân Tý Thìn Tướng Tinh an ở Tý
Tỵ Dậu Sửu Tướng Tinh an ở Dậu
Hợi Mão Mùi Tướng Tinh an ở Mão"
Tướng Tinh chỉ đi theo chiều thuận như vòng Thái Tuế. Lần lượt đến Phan An, Tuế Dịch, Tức Thân, Hoa Cái, Kiếp Sát, Tai Sát, Thiên Sát, Chỉ Bối, Hàm Trì, Nguyệt Sát, Vong Thần.
Chỉ có ba sao của vòng Tướng Tinh xuất hiện trong lá số Tử Vi Việt là: Đào Hoa (Hàm Trì), Hoa Cái, Kiếp Sát. Vị trí y hệt vị trí an bài qua vòng Tướng Tinh, nghĩa là Đào Hoa ở bốn cung Tí Ngọ Mão Dậu. Hoa Cái ở bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi, Kiếp Sát ở bốn cung Dần Thân Tị Hợi.
Phan Án có hai ý nghĩa cơ bản:
a. Làm tăng thanh thế, tác dụng giống như Bát Tọa, chỉ khác ở điểm Phan Án có lưu niên trong khi Bát Tọa thì không. Bởi vậy Thai Tọa làm tăng thanh thế cho cả một đời, còn Phan Án tăng thanh thế cho một năm.
b. Gần cận người cao sang quyền thế, hay nói khác đi là dễ gặp quí nhân. Phan Án rất hợp với Thiên Khôi, Thiên Việt. Có Khôi Việt đứng bên thì quí nhân chiếu cố, nhưng chỉ là hữu danh vô thực kiểu nhân sĩ tư vấn vớ vẩn.
Tuế Dịch được xem như một loại lưu niên Thiên Mã và tính chất là một. Lưu Lộc mà có Tuế Dịch thì cũng kể làm Lộc Mã giao trì, vào Mệnh vào Tài Bạch Quan Lộc hay Thiên Di đều chủ về sự tấn tài tấn lộc.
Tuế Dịch gặp Lộc Tồn cố định trên lá số thì lại không kể làm Lộc Mã giao trì, chỉ gặp lưu Lộc mới kể. Nếu lưu Lộc đứng cùng, đối xung với Lộc Tồn cố định mà thêm cả Tuế Dịch nữa gọi bằng hiện tượng “động” đưa đến đi xa hoặc thay đổi công việc lâu dài.
Tức Thần mang ý nghĩa thiếu xung động trì trệ nằm ỳ một chỗ. Tức Thần vào cung Phúc Đức tâm tư tiêu cực dễ bi quan, luôn luôn nghĩ đến thất bại thành ra kém nỗ lực phấn đấu.
Tức Thần không nên đứng cùng sao Thiên Cơ ở Mệnh hay Phúc Đức hễ làm việc mà thấy hơi khó là bỏ. Tức Thần hợp với sao Thiên Lương, đứng cùng Thiên Lương thì giỏi tùy hòa mà thành ra đắc lực.
Tức Thần gặp Hàm Trì (Đào Hoa) dễ thuận chịu an bài của mệnh vận, nhất là đối với duyên tình, thiếu ý chí mạnh, gặp sao hay vậy.
Tai Sát trên cơ bản tính chất là tai nạn thường đem hung hiểm tới. Cần phối hợp với các sao khác để đo trình độ hung hiểm.
Tai Sát bao giờ cũng đóng ở cung Tí Ngọ Mão Dậu nếu nó gặp Đào Hoa Mộc Dục hoặc Văn Xương Hóa Kị mà lưu niên lưu nguyệt thấy luôn các sát kị xung hội hẳn nhiên là có tai họa vì tình, bị gái lừa trai gạt, hoặc bị đánh đập vì ghen tuông
Tai Sát vào cung Tật Ách làm tăng thêm sự trầm trọng của hung hiểm. Tai Sát chỉ gây hung hiểm khi nó đến cung nào, toa rập với các hung sát tinh khác, trường hợp cung đó cát tường thì tai sát vô lực.
Thiên Sát tính chất ngược với Thiên Đức. Thiên Đức đem thuận lợi cho quan hệ với người trên, bố mẹ hoặc người hơn chức vị mình. Thiên Sát gây khó khăn cho quan hệ này. Thiên Sát ở mệnh hay vận hạn khó được thượng ty nâng đỡ hoặc bị người thân ghét bỏ.
Chỉ Bối là sao hay bị người nói xấu, nó cùng chất với Phi Liêm. Chỉ Bối đi cặp với văn tinh Khoa, Xương Khúc thì hay bị người ghen với tài học mà phỉ báng.
Nếu Chỉ Bối đứng cùng Phi Liêm thì tình trạng bị dèm pha càng nặng, hoặc gặp Thiên Cơ cũng vậy. Chỉ Bối đứng với Thiên Lương Hóa Lộc là con người vì tham lợi việc gì cũng làm. Chỉ Bối kị đóng ở Mệnh cung, Huynh Đệ và Nô Bộc.
Nguyệt Sát na ná Thiên Sát nhưng tai ách thường đến một cách âm thầm. Nguyệt Sát ảnh hưởng mạnh với số nữ hơn nam mạng.
Nguyệt Sát phải có sự trợ lực của sao mà nó đứng cùng thì mới gây rắc rối mạnh. Nguyệt Sát vào cung Tật Ách là có bệnh khó phát hiện rõ ràng. Nguyệt Sát gặp Văn Khúc Văn Xương Hóa Kị cũng có thể gặp họa trên tình ái.
Vong Thần mang tính chất phá hoại bất ngờ, công việc đang trôi chảy đột nhiên bị phá hoặc do đối thủ hoặc hoàn cảnh thay đổi làm cho mất tiền của, hao tốn tài lộc.
Vong Thần là chuyện thất bại bất ngờ, nhưng nó cũng còn mang ý nghĩa lãng phí nếu nó đứng với Hình, Hao hay Không Kiếp thành ra con người thiếu khả năng quản thủ tiền bạc.
-------------------------------------------------------
VÒNG TƯỚNG TINH
ADMIN: Đào Đức Cường
Vòng Tướng Tinh, một trong 4 bộ tạo thành bộ tứ tượng tử vi?
... Một số sao như đã nói ở trên mà nằm ở Mệnh, Thân, Quan thì con người ấy tài năng khí phách hơn người. Ví như Kình Thiên thủ Mệnh thì bản tính ngang tàng "dọc ngang nào biết trên đầu có ai". Còn như sao Tướng Tinh, sách vở có nhắc tới như sau:
- "Tướng tinh bị hại, Nhạc Vũ Mục (Nhạc Phi) bảo thiên chi oan" (ôm trời kêu oan), hoặc
- "Trai sinh Hoa Cái, gái Tướng Tinh" - Đi về võng lọng đón đường cái - tiến lộc cửa nhà vinh.
Nam nữ thông minh, thanh tân, nhan sắc quý tướng. hoặc câu:
- "Nam vinh nữ trọng quyền"
"Tướng Tinh đại cát lâm"
"Thiếu niên tài lộc thịnh"
"Bán thân mãi điền địa"
Tóm lại là "bẩm tính hoàng thiên nhất thân vinh, vận địa sinh nên đài các, vua quan hào phú thụ bảo thiêng".
Chỉ là một trung tinh thôi mà tinh lực của nó mạnh như vậy, thế thì vấn đề ở đâu? Có phải do vấn đề bí truyền của Tử Vi chăng hay vì người muốn giữ bí mật không lộ thiên cơ mà không dám phổ biến ra ngoài cho người đời sau biết ?
Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư không hề nhắc đến vòng sao Tướng Tinh, nhưng nhiều sách bên Trung Quốc có ghi chép về vòng này. Khoa tử vi Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều bởi Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư nên cũng ko có vòng này. Nhưng thực ra có dùng một số sao của vòng này mà không hay. Đó là Hoa Cái, Đào Hoa (Hàm Trì) và Kiếp Sát...
Trước tiên, ta cần phải biết cách an vòng Tướng Tinh như sau: Tướng Tinh an theo tam hợp Tuổi.
- Dần Ngọ Tuất: Tướng Tinh an tại Ngọ
- Thân Tí Thìn: Tướng Tinh an tại Tí
- Tỵ Dậu Sửu: Tướng Tinh an tại Dậu
- Hợi Mão Mùi: Tướng Tinh an tại Mão.
Vòng Tướng Tinh chỉ đi theo chiều thuận như Thái Tuế. Sau Tướng Tinh tới Phan Án- Tuế Dịch- Tức Thân - Hoa Cái - Kiếp Sát - Tai Sát - Thiên Sát - Chỉ Bối - Hàm Trì (Đào Hoa) - Nguyệt Sát - Vong Thần.
Hiện nay các sách tử vi phổ biến mới chỉ dùng 1 cặp 3 sao trong vòng Tướng Tinh là Đào Hoa (Hàm Trì), Hoa Cái, Kiếp Sát. Cách an cũng dùng tam hợp tuổi (hành của tuổi) như trên.
Trong vòng này, Phan Án có hai ý nghĩa cơ bản:
1 - Làm tăng thanh thế, tác dụng giống như Bát Tọa, chỉ khác ở điểm Phan Án có lưu niên trong khi Bát Tọa không. Bởi vậy Thai Tọa làm tăng thanh thế cho cả đời, còn Phan Án làm tăng thanh thế cho cả một năm/vận.
2- Gần cận người sang quý hay nói cách khác đi là dễ cận kề quý nhân. Phan Án rất hợp với Khôi Việt. Có Khôi Việt đứng bên thì quý nhân chiếu cố là điều khỏi phải bàn, nhưng ko thực, chỉ là hữu danh vô thực, kiểu nhân sĩ tư vấn vớ vẩn. (Thực là Khôi Việt cư chiếu).
Tuế Dịch được xem như một loại lưu niên Thiên Mã (Dịch) và tính chất là một. Lưu Lộc mà có Tuế Dịch thì cũng kể là cách Lộc Mã giao trì, vào Mệnh Tài hay Quan, Di, đều chủ về sự tấn tài tấn lộc.
Tuế Dịch gặp Lộc Tồn cố định trên lá số thì lại không kể làm Lộc Mã giao trì, chỉ gặp lưu Lộc mới tính. Nếu lưu Lộc đứng cùng, đối xung với Lộc cố định mà thêm cả Tuế Dịch nữa thì gây ra hiện tượng "Động" đưa đến đi xa hoặc thay đổi công việc lâu dài.
Tức Thần mang ý nghĩa thiếu xung động trì trệ nằm ì một chỗ. Tức Thần vào cung Phúc Đức tâm tư tiêu cực dễ bi quan, luôn luôn nghĩ đến thất bại thành ra bản thân kém nỗ lực phấn đấu.
Tức Thầnkhông nên cùng đứng với Thiên Cơ ở Mệnh hay Phúc Đức vì hễ làm việc thì sẽ thấy hơi khó là bỏ, không bền chí. Tức Thần hợp với sao Thiên Lương, đứng cùng nhau thì giỏi tùy hòa mà thành ra đắc lực.
Tức Thần gặp Hàm Trì (Đào Hoa) thì dễ thuận, dễ chấp nhận sự an bày của số mệnh, nhất là đối với duyên tình, thiếu ý chí mạnh, gặp sao hay vậy.
Tai Sát trên cơ bản tính chất là tai nạn và thường đem hung hiểm tới. Mức độ tai họa thế nào cần phải phối với các sao khác để đoán.
Tai Sát bao giờ cũng ở Tứ chính nên nếu gặp Đào Hoa, Mộc Dục hoặc Văn Xương thêm Hóa Kỵ, mà lưu niên lưu nguyệt thấy luôn các Sát, Kị xung hội, hẳn là sẽ có tai họa vì tình, bị gái lừa, trai gạt hay bị đánh đập vì ghen tuông.
Tai Sát vào cung Tật Ách làm tăng thêm sự hung hiểm, trầm trọng của tai họa. Tai Sát chỉ gây hung hiểm khi nó đến cung nào, toa rập với các hung sát tinh khác, trường hợp đó cát tường, có nhiều sao giải thì Tai Sát vô lực.
Thiên Sát tính chất ngược với Thiên Đức. Thiên Đức đem thuận lợi cho quan hệ với người trên, bố mẹ hoặc người hơn chức vị mình. Thiên Sát gây khó khăn cho quan hệ này. Thiên Sát ở Mệnh hay Vận thì khó được cấp trên nân đỡ, hoặc dễ bị người thân ghét bỏ.
Chỉ Bối là sao hay bị người khác nói xấu, nó cùng tính chất với Phi Liêm. Chỉ Bổi đi cặp với Văn tinh, Khoa, Xương Khúc thì hay bị người ghen về tài học mà phỉ báng.
Nếu Chỉ Bối đứng cùng Phi Liêm thì tình trạng bị dèm pha càng nặng, hoặc gặp Thiên Cơ cũng vậy. Chỉ Bối đứng với Lương, Hóa Lộc là con người tham lợi, việc gì cũng làm. Chỉ Bối kỵ đóng ở Mệnh cung, Huynh Đệ và Nô Bộc.
Nguyệt Sát na ná như Thiên Sát, nhưng tai ách thường đến một cách âm thầm. Nguyệt Sát ảnh hưởng mạnh với Nữ hơn Nam.
Nguyệt Sát phải có sự trợ lực của sao mà nó đứng cùng thì mới gây rắc rối mạnh. Nguyệt Sát vào cung Tật Ách thì có bệnh khó phát hiện. Nguyệt Sát gặp Văn Khúc, Văn Xương, Hóa Kị thì có thể gặp họa tình ái.
Vong Thần mang tính chất phá hoại bất ngờ, công việc đang trôi chảy đột nhiên bị phá vỡ hoặc do đối thủ, hoặc do hoàn cảnh thay đổi bất ngờ, làm cho mất tiền của, hao tài lộc.
Vong Thần là chuyên thất bại bất ngờ, nhưng nó cũng mang ý nghĩa lãng phí, nếu đứng với Hình Hao hay Không Kiếp thì là con người thiếu khả năng quản thủ tiền bạc.
Các sao còn lại trong vòng Tướng Tinh được nói khá kỹ trong các sách tử vi hiện nay.
Vậy mới thấy, còn hẳn một vòng sao, tác động của các sao và ý nghĩa luận giải quan trọng không được phổ biến. Tướng Tinh đi cùng với các cách Tử Phủ Vũ Tướng miếu vượng, sao phù trợ đẹp(Tả Hữu, Khôi Việt, Xương Khúc, Khoa Quyền Lộc) thì là thượng nhân anh hùng hãn thế.
Ngoài ra khi ta kết hợp các bộ ba sao vòng Tướng Tinh (ví dụ: Tướng Tinh, Hoa Cái, Chỉ Bối...) thì chúng ta sẽ có những phân loại hữu ích.
Từ ý nghĩa của các sao trong vòng Tướng Tinh và tác dụng của sự kết hợp giữa chúng, ta thấy vòng này có tầm quan trọng như 3 vòng Sinh Tuế Lộc. Phải chăng tử vi có lưỡng nghi là hai vòng chính tinh và tứ tượng là 4 vòng, Sinh Tuế Lộc Tướng thì mới hoàn chỉnh? Mà vòng Tướng Tinh lâu nay vốn không được đề cập tới vì lý do bí truyền hay vì tam sao thất bản, hoặc giả do các thầy trước đây thấy một số tính chất giống nhau giữa các sao mà loại bớt đi chăng?
(Theo Vũ Tài Lục và Thiên Phúc).
P/s: phần thứ 2, ví dụ như khi nói "Tai sát gặp Mộc dục" theo tôi hiểu là Tai sát của niên chi năm sinh gặp Đào hoa của năm tiểu vận...
Bài trích dẫn này rất có giá trị, mang ý nghĩa đầy đủ
Đúng là vòng trường sinh bắt đầu từ tướng tinh.
Về lưu ý, tôi chỉ điểm rằng, không phải tử tuyệt là cái đáng sợ, tướng soái nào cũng phải có tử tuyệt cả.
Không có tử tuyệt thì không phải là tướng soái, chỉ có điều Dụng nó ở chỗ nào mà thôi, có những giá trị muốn Dụng nó thì phải ở tử tuyệt mới dùng được !
Vòng trường sinh không chỉ có ý nghĩa nhỏ bé là suy vượng, hay như kiểu tứ phế, mà nó mang ý nghĩa bao trùm nhiều việc, bao gồm cả tư duy luận và p/p luận
Thanked by 3 Members:
|
|
#14
Gửi vào 24/10/2015 - 12:08
hieuthuyloi, on 24/10/2015 - 11:09, said:
Không có tử tuyệt thì không phải là tướng soái, chỉ có điều Dụng nó ở chỗ nào mà thôi, có những giá trị muốn Dụng nó thì phải ở tử tuyệt mới dùng được !
Vòng trường sinh không chỉ có ý nghĩa nhỏ bé là suy vượng, hay như kiểu tứ phế, mà nó mang ý nghĩa bao trùm nhiều việc, bao gồm cả tư duy luận và p/p luận
Xin thày chỉ giáo thêm cho, đa tạ! Nếu được thày cho xin vài cái ví dụ cho rõ nghĩa, đỡ hiểu lầm thì phước quá.
Sửa bởi vietnamconcrete: 24/10/2015 - 12:11
Thanked by 1 Member:
|
|
#15
Gửi vào 24/10/2015 - 15:57
Những gì bìnhql viết ra đã có sẵn trong các sách, còn cái gì không có sẵn mà phải tự bỏ sức ra hiểu nó thì vietnamconcrete chịu khó tự nghiên cứu lấy
tôi chỉ sơ phác ra vài hướng có tính gợi ý, không bao giờ viết kết quả ở đây cả.
Thanked by 3 Members:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Truyện Huyền Bí
Giải nghĩa "LỤC THẤT NGUYỆT GIAN" trong Sấm Trạnh TrìnhTruyện Huyền Bí |
Khoa Học Huyền Bí | catdang |
|
||
Ý Nghĩa Toán Học Của 32 Cặp Quẻ Trong Kinh Dịch |
Kinh Dịch - Bốc Dịch - Lục Hào | pphoamai |
|
||
Ý nghĩa cung mệnh ấn đường |
Nhân Tướng Học | MinhTriet2022 |
|
||
Chu Dịch Bản Nghĩa (周易本义) - 1 cuốn sách của học giả Chu Hi (朱熹) thời Tống |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Hoangtb |
|
||
Chữ số cuối cùng trong năm sinh của bạn có nghĩa là gì? |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Bộ trưởng tài chính Vương Đình Huệnghiên cứu tử vi |
Tử Vi | rrr |
|
3 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |