Hôm nạy ngẫu hứng lanh chanh mà "góp ý" trong đề mục này, mong rằng nhừng lời "góp ý" này sẽ là một sự "giải thích" hữu ích đến với những người mới học để mà bớt "lấn cấn" hoặc nhầm lẫn trong sự suy diễn để tìm hiểu về môn học này ...
Tất cả đều không ngoài "Thể và Dụng" - Thể là khuôn mẫu bất di bất dịch ...Dụng là hành Dụng từ cái Thể đó - đế áp dụng qua sự biến hoá, tao tác âm dương ngũ hành, để định vượng suy, thành bại, trắc trở hoặc hạnh thông ...
Vậy thì cái Thể ban đầu, Can và Chi - Sự chuyển vận bất di bất dịch:
Với Thiên Can,
Điểm Khởi từ: 1)Giáp, 2)Ất, 3)Bính, 4Đinh, 5)Mậu, 6)Kỷ 7)Canh 8)Tân 9)Nhâm 10)Quý
Với Địa Chi,
Điểm Khởi Từ: 1)Tí , 2)Sửu 3)Dần 4)Mão 5)Thìn 6)Tỵ 7)Ngọ 8)Mùi 9)Thân 10)Dậu 11)Tuất 12)Hợi
Vậy thì
Khởi điểm, từ Can đến Chi cùng chung (mẫu số) bắt đầu từ
số 1 = (1)Giáp (1)Tí ...rồi từ đó mà xếp vào cùng nhau giữa Can và Chi ... Và (Giáp Tí) đây là mốc dấu khởi nguyên của Can Chi - Rồi từ điểm khởi này mà tất cả đều theo chu kỳ chuyển vận, tiến trình thuận - bất di dịch - về Thiên Can thì từ giáp, rồi đến ất, bính, đinh, mậu kỷ canh tân nhâm quý và tái lập tiếp tục khởi từ giáp ất ... Còn Địa Chi cũng thế Khới từ Tí rồi đến Sửu, Dần, Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Da6u Tuất Hợi ...hết 12 chi rồi tái lập, trở lại khởi từ Tí - cứ thế mà chuyển tiếp chẳng ngừng dứt -
đó là cái Thể chẳng thay đổi ....
Nói đến Dụng, tức là Dụng của cái Thể - qua sự biến hoá, tao tác âm dương cùng ngũ hành, để áp Dụng vào việc định vượng suy ...thành bại, trắc trở hoặc hạnh thông trong cuộc sống ... từ đó mà suy tính từ bản chất đến hành động của con người - Thì cái thể được sắp xết theo 12 cung bàn, ở đây nói về Khoa Tử Vi, cho nên cái Thể trên được áp đặt vào 12 cung trên lá số Tử Vi ...
Vậy thì trên lá số được chia thành 12 cung - thì Khởi cung được tính từ cung Dần tức là tháng giêng (1) kiến Dần, là tháng
khởi đầu của 1 năm .... Từ đây, lấy điểm
Khởi từ
Giáp Ti cho sự khởi nguyên ...Thì Do đó, lấy Giáp Tí - Can với Chi ứng dụng tuần tự Khởi từ giáp tí, ât Sửu
đến điểm Khởi của Cung là Bính Dần .... Do đó, Năm Có Thiên Can là
Giáp - thì tháng Dần sẽ là Bính ... ....tuần tự cho hết 12 chi, tức sang chu kỳ mới (sang năm mới cho dễ hiểu) thì địa chi sau khi chuyển vận 12 cung khởi từ Bính Dần - và sự tái lập chuyển tiếp sẽ là Mậu Dần để khởi một chu kỳ mới - và Thiên Can, sau Giáp Tí sẽ là Năm Mới Ất Sửu ....cứ thế mà tiếp nối chẳng ngừng dứt ...vì thế cách tính cho gọn là Năm mang Thiên Can:
Giáp Kỷ > thì Khởi từ Bính Cung Dần
Ất Canh> Khởi từ Mậu cung Dần
Bính Tân > Khởi từ Canh cung Dần
Đinh Nhâm > Khởi từ Nhâm cung Dần
Mậu Quý > Khởi từ Giáp cung Dần ....
....Cứ thế mà chuyển vận ....
Từ đây, trong chủ đề của đề mục này, thì cách an cung mệnh, người xưa dùng tháng và giờ sinh để tính Mệnh cung của con người ...thì đa số theo sách vở là
dùng tháng đi thuận và giờ đi nghịch, bất kể Nam hay Nữ .... Có lẽ, vì chữ
Thuận và Nghịch này được nêu ra cho "dễ nhớ" trong cách tính Mệnh Cung... cũng vì thế, chữ "Thuận với Nghịch" đã tạo nên sự "lấn cấn" đối với những người mới học .... Theo cá nhân của tôi, thì
tất cả đều là Thuận,
vì trong cách tính này khi đã định "bất kể Nam Hay Nữ", tức là bất kể Âm hay Dương ...thì nếu còn tính thuận với nghịch là mâu thuẫn !!!
Trước nhất, tại sao dùng tháng và dùng giờ sinh để định cung mệnh vì Năm Sinh (can chi) tượng cho Cha Mẹ - Cha Mẹ sinh ra Ta (ngã) cùng đồng ngang hàng vị với huynh đệ . Vì thế, Lấy Tháng làm Ta (ngã) - và giờ mà Ta được sinh ra - kết hợp lại, tất sẽ tìm được
Mệnh Khởi của ta
từ đâu trên cái Thiên Bàn, gồm 12 Cung trên lá số Tử Vi ....
Vậy thì, tôi lấy thí dụ Năm Tháng Giờ Sinh từ thí dụ của ông VDTT đưa ra ...là Năm Sinh Giáp - Tháng Thân -
Giờ Sinh (Tỵ, Ngọ, Mùi hoặc Thân) vì đây là điểm chính trong sự bàn luận của mục này ...
Thì trước nhất, Năm Sinh Giáp thì
Bính khởi tại cung dần - Tháng Thân - thì từ bính Dần, Đinh Mão ... cho đến tháng 7 là Nhâm Thân - giờ sinh là Giờ Tỵ - thì Tỵ nhập cung Thân mà đi thuận, tỵ ngọ, thân dâu, tuất hợi cho tới
Tí điểm Khởi Sinh của cái Thể Ban đầu là Tí (như nói ở trên) ...thì Tỵ tại cung Thân, Ngọ tại cung Dậu, Mùi tại cung Tuất, Thân tại cung Hợi, Dậu tại cung Tí, Tuất tại cung Sửu, Hợi tại cung Dần và
Tí (sự khởi sinh của Mệnh) đóng tại Mão ... tiếp theo, về Can thì Bắt đầu là Bính (do năm sinh giáp) khởi từ cung Dần ... tức là bính dần rồi tới cung Mệnh là Đinh Mão ...!!! đó là
Khởi Vận (mệnh) từ Đinh Mão ...
Cũng như trên, giờ sinh là Ngọ - thì Ngọ tại cung thân ...chuyển thuận theo cung đến Chi Tí là điểm Khởi... thì Mệnh cung tại Dần - Thì Dần có Bính là Khởi ... do đó Khởi Vận từ
Bính Dần !!!
Cũng Vậy, thì nếu Giờ Sinh là giờ Mùi - thì Mùi tại cung Thân (tháng) chuyển thuận kế tiếp là Thân tại cung Dậu, ....cho tới Tí điểm khởi của mệnh sẽ đóng tại cung Sửu - thì, thiên Can khởi từ Bính Dần, rồi đến Đinh Mão, Mậu Thin... cho đến cung Sửu là Đinh Sửu ... và
Đinh Sửu khởi mệnh cung là vì vậy ...
Cho Tới Giờ Thân ...thì cũng thế ...vẫn chuyển thuận ... đến điểm khởi Tí tại cung Tí - Thì Thiên Can khởi từ Bính Dần ..thuận đến cung Tí là Bính Tí - và
Bính Tí là Khởi Vận của người với Năm Sinh là Giáp hay Kỷ - tháng Thân, giờ như trên ...!!!!
Vậy thì tóm lại, có gì là không hợp lý ...???
Từ đây, khi có Mệnh khởi tại Cung - thì bắt đầu mới phân biệt Âm Dương, Nam Nữ, để nói về đặc tính riêng, của người Nam hay Nữ, theo lẽ Âm Dương Thuận và Nghịch lý thì từ đó đại vận đi nghịch hay thuận do sự Nghịch Lý và Thuận lý của Âm Dương đối với người Nam hay người Nữ ....
Thì theo cách tính trên, được hiểu theo Nam Phái - với quan niệm, con người khi có "Mệnh Vận" là khi mới được khởi sinh ra - bởi thế Mệnh từ điểm khởi sinh (do tháng và giờ) tại cung nào thì Mệnh Vận bắt đầu từ Cung đấy ... Còn Bắc Phái ..với quan niệm, vận mệnh con người, được tính khi còn mới là Thai, trong bụng ...bởi thế, Mệnh Cung được đặt tại cung Huynh hoặc Phụ ...tuỳ thuộc vào Âm Dương, Nam Nữ ...thuậnh lý, hoặc Nghịch Lý ...
Vài hàng "góp ý" ...vì diễn đàn mới, chưa quen, nên tôi không biết cách nào để "xem thử trước" ...nhưng cũng vì tính "lười" đọc lại, cho nên, nếu có chỗ nào sai gõ dấu ...thì quý vị châm chước cho !!!
Sửa bởi DiakyTai: 04/05/2011 - 02:46