TIN VỈA HÈ
vietnamconcrete
22/07/2014
Đài Loan
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này nói về hòn đảo Đài Loan. Để đọc về chính thể tại Đài Loan, xin xem bài . Đài Loan
Tên gốc: 臺灣 hoặc 台灣
Phía đông Đài Loan chủ yếu là đồi núi và các đồng bằng thoai thoải về phía tây. Quần đảo Bành Hồ nằm ỏ phía tây Đài Loan. (Hình vệ tinh của ) Địa lý [[Image:
||giữa]] Vị trí Thái Bình Dương, cách bờ biển Diện tích 36008 km² Điểm cao nhất Thành phố lớn nhất (Tân Đài Bắc) (3.900.199) Nhân khẩu học Dân số 23,061,689 (không tính và (tính đến năm 4/2011) Mật độ 668 Người bản xứ 98%
70%
14%
14% Người ngoại tỉnh
2%
Đài Loan ( : 臺灣 hoặc 台灣; : 台湾; : Táiwān; : T'ai-wan; : Tâi-oân) là một hòn đảo ở khu vực , ngoài khơi đông nam , phía nam và phía bắc . Từ "Đài Loan" cũng thường được dùng để chỉ lãnh thổ do nhà nước (THDQ) quản lý, bao gồm các đảo Đài Loan (gồm có đảo và ), tại , và ở ngoài khơi , đồng thời THDQ cũng kiểm soát và ở .
Đảo chính của Đài Loan cũng từng được gọi trong một số ngôn ngữ phương Tây là Formosa cho đến (các thủy thủ gọi nó là Ilha Formosa, nghĩa là "hòn đảo xinh đẹp"), phía đông giáp với , phía nam giáp , phía tây là eo biển Đài Loan và phía bắc là . Hòn đảo này dài 394 km và rộng 144 km, gồm nhiều dãy núi dốc và được bao phủ bởi hệ thực vật nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Lịch sử[ | ]
Bài chi tiết:
Thời tiền sử và những những người định cư đầu tiên[ | ]
Bằng chứng khảo cổ cho thấy con người đã có sự hiện diện của ở Đài Loan đã có từ 30.000 năm trước, mặc dù những cư dân đầu tiên của Đài Loan có thể đã không có chung nguồn gốc với bất kỳ nhóm dân tộc nào hiện nay trên đảo. Khoảng 4.000 năm trước, tổ tiên của ngày nay đã định cư tại đảo. Những người này có đặc tính di truyền gần gũi với các dân tộc Nam Đảo và có họ hàng với , hay và với cả những ở phía đông hiện nay, và các nhà ngôn ngữ học phân loại các ngôn ngữ của họ thuộc về .
Có nhiều khác biệt trong thư tịch từ thời cổ Trung Quốc cho thấy có thể đã biết đến sự tồn tại của đảo chính Đài Loan kể từ thời (230 CN), và phân chia các đảo xa bờ biển Trung Hoa này thành Đại Lưu Cầu (Đài Loan) và Tiểu Lưu Cầu (có thể là của Nhật Bản ngày nay). Người Hán bắt đầu định cư tại trong những năm 1200, nhưng họ đã gặp phải sự chống đối của các bộ tộc bản địa, thêm vào đó là thổ dân trên đảo không có các mặt hàng tốt hay sản vật đặc sắc để có thể giao thương, thế nhưng "thỉnh thoảng vẫn có người mạo hiểm hay các ngư dân đến trao đổi hàng hóa" cho đến thế kỷ thứ 16. .
Thực dân Châu Âu[ | ]
Bài chi tiết: và
Năm 1594, một tàu Bồ Đào Nha đã trông thấy hòn đảo Đài Loan và đặt tên cho nó là Ilha Formosa, có nghĩa là "Hòn đảo xinh đẹp". Năm 1624, người Hà Lan thành lập một cơ sở giao thương tại Đài Loan và bắt đầu đưa những lao công người Hán từ và đến và nhiều người trong số họ đã định cư tại đảo. Người Hà Lan đã xây dựng Đài Loan thành một thuộc địa với thủ phủ là thành Tayoan (nay là ). Cả Tayoan và tên đảo Taiwan đều xuất phát từ một từ trong , ngôn ngữ của một trong các bộ tộc thổ dân Đài Loan. Quân đội Hà Lan tập trung trong một pháo đài gọi là . Những người thực dân Hà Lan cũng bắt đầu việc tìm kiếm (Cervus nippon taioanus) trên đảo và cuối cùng đã làm cho loài này bị tại Đài Loan. . Tuy vậy, việc này đã góp phần nhận diện danh tính của các bộ tộc bản địa trên đảo. Năm 1626, người Tây Ban Nha đặt chân lên đảo và chiếm đóng và lập một cơ sở thương mại. Thời kỳ thuộc địa của người Tây Ban Nha kéo dài 16 năm cho đến 1642.
Vương quốc Đông Ninh[ | ]
Bài chi tiết:
Sau khi sụp đổ, chiếm đóng , một thủ lĩnh quân sự người Hán là đã tập hợp lực lượng trung thành với nhà Minh ở miền nam Phúc Kiến, đã đánh bại và đuổi người Hà Lan khỏi Đài Loan vào năm 1662. Ông xây dựng nơi đây thành một lãnh địa riêng không chịu quyền kiểm soát của nhà Thanh, thường được biết dưới tên gọi Vương quốc Đông Ninh. Trịnh Thành Công đã lập thủ phủ tại và dùng Đài Loan như một căn cứ, những người kế vị ông là và vẫn tiếp tục tiến hành các cuộc thâm nhập vào vùng bờ biển đông nam Trung Quốc đại lục nhằm lật đổ nhà Thanh. Năm 1683, hạm đội quân Thanh dưới sự chỉ huy của đô đốc đã đánh bại quân của họ Trịnh, Đài Loan chính thức sáp nhập vào .
Thời kỳ nhà Thanh cai trị[ | ]
Nhật Bản đã tìm cách kiểm soát Đài Loan từ năm 1592 khi Hideyoshi Toyotomi bắt đầu mở rộng ảnh hưởng của Nhật Bản ra hải ngoại. Năm 1609, Mạc phủ Tokugawa đã cử Harunobu Arima thực hiện sứ mệnh thám hiểm. Năm 1616 Toan Murayama đã dẫn đầu một cuộc xâm lược hòn đảo, tuy nhiên điều này đã không thành công.
Năm 1871, một tàu của Okinawa bị đắm ở đỉnh phía nam của Đài Loan và toàn bộ thủy thủ với khoảng 54 người đã bị thổ dân chém đầu. Khi Nhật Bản đòi hỏi bồi thường từ phía nhà Thanh, nó đã không được chấp nhận bởi nhà Thanh coi vụ việc xảy ra là công việc nội bộ. Nhà Thanh cho rằng Đài Loan là một châu thuộc tỉnh Phúc Kiến của mình và (vương quốc trên quần đảo Okinawa lúc bấy giờ) là một của nhà Thanh. Khi bộ trưởng ngoại giao Nhật Bản trả lời rằng nhà Thanh phải bồi thường cho 4 nạn nhân là công dân Nhật Bản đến từ tỉnh trên tàu, nhà Thanh đã chính thức bác bỏ yêu cầu này với lý do đó là hành động của các thổ dân "man di" và chưa được chinh phục và hành động đó nằm ngoài quyền hành của họ. Nhiều thổ dân Đài Loan đã bị đối xử vô cùng cay nghiệt; Lãnh sự Hoa Kỳ J.W. Davidson đã mô tả cách người Hán ở Đài Loan ăn và mua bán thịt của những người thổ dân . Việc từ bỏ chủ quyền ở Đài Loan đã dẫn tới việc Nhật Bản xâm lược hòn đảo. Năm 1874, một đội quân viễn chinh gồm ba nghìn lính đã được cử đến đảo. Cuộc chiến kết thúc với 30 người Đài Loan và 543 người Nhật thương vong (12 trong chiến trận và 531 vì dịch bệnh bên phía Nhật Bản)
Nhật Bản cai trị[ | ]
Nhà Thanh đã thất bại trong (1894-1895) và phải nhượng toàn bộ chủ quyền Đài Loan cùng cho . Những người mong muốn vẫn được làm thần dân của nhà Thanh có 2 năm chuyển tiếp để bán các tài sản của mình và chuyển về đại lục. Chỉ có rất ít người Đài Loan thực hiện được điều này
Vào ngày 25 tháng 5 năm 1895, một nhóm quan chức cấp cao trung thành với nhà Thanh đã tuyên bố thành lập để chống lại sự kiểm soát sắp tới của người Nhật. Các lực lượng Nhật Bản đã tiến vào thủ phủ và dập tắt sự kháng cự này vào ngày 21 tháng 10 năm 1895.
Những người Nhật sau đó đã công nghiệp hóa hòn đảo; họ mở rộng đường sắt và các mạng lưới giao thông khác, xây dựng một hệ thống bảo vệ sức khỏe trải rộng và xây dựng hệ thống trường công. Trong thời kỳ này, cả sản lượng và đều tăng lên. Năm 1939, Đài Loan là nơi sản xuất đường lớn thứ bảy trên thế giới . Tuy nhiên, và thổ dân chỉ được xếp là công dân hạng hai và hạng ba. Các vụ đấu tranh lớn tiếp tục diễn ra trong thập kỷ đầu, Nhật Bản đã tiến hành trên 160 trận chiến để hủy diệt các bộ tộc thổ dân Đài Loan trong suốt 51 năm cai trị hòn đảo Khoảng năm 1935, Nhật Bản bắt đầu kế hoạch đồng hóa trên phạm vi toàn đảo để quản lý vững chắc hòn đảo và người dân được dạy là phải tự coi mình là người Nhật. Trong , hàng chục nghìn người Đài Loan đã phục vụ trong quân dội Nhật Bản . Chẳng hạn, anh trai của cựu Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc đã phục vụ trong hải quân Nhật Bản và chết trong khi làm nhiệm vụ tại vào tháng 2 năm 1945.
hoạt động chủ yếu bên ngoài Đài Loan. "Nhóm bổn phận phương Nam" có căn cứ bên ngoài Trường Đại học Đế quốc Taihoku (Taihoku nghĩa là Đài Bắc). Nhiều lực lượng Nhật Bản tham gia vào trận Không chiến Đài Loan-Okinawa đặt căn cứ tại Đài Loan. Các căn cứ quân sự và trung tâm công nghiệp quan trọng của Nhật Bản ở khắp nơi tại Đài Loan, như , đã trở thành mục tiêu của các vụ ném bom ác liệt của Hoa Kỳ.
Nhật Bản mất quyền kiểm soát Đài Loan sau khi bại trận trong và Văn kiện Đầu hàng của Nhật Bản được ký vào ngày 14 tháng 8 năm 1945. Nhưng sự kiểm soát của Nhật Bản đã có tác động lâu dài đối với Đài Loan, nhất là văn hóa Đài Loan. Nhiều cơ sở hạ tầng của Đài Loan được bắt đầu xây dựng dưới thời Nhật quản lý. Dinh Tổng thống hiện nay cũng được xây trong thời kỳ này. Năm 1938, có khoảng 309.000 người Nhật định cư tại Đài Loan , hầu hết họ đã hồi hương sau chiến tranh.
Thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc[ | ]
Thời kỳ thiết quân luật Quốc Dân Đảng[ | ]
diễn ra từ 22 đến 26 tháng 11 năm 1943 tại , đã xác định lập trường của phe chống lại Nhật Bản trong , và giải quyết các vấn đề hậu chiến ở Châu Á. Một trong ba điều khoản chính của Tuyên bố Cairo là "Tất cả các lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm đoạt từ Trung Quốc, bao gồm , Đài Loan và , sẽ được hoàn trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc". Tuy nhiên, nhiều thay đổi đã diễn ra khiến cho văn kiện này đơn thuần chỉ là một phát biểu với mục đích soạn thảo một Hiệp ước Hòa bình sau chiến tranh.
Vào ngày 25 tháng 10 năm 1945, Hải quân Hoa Kỳ đã chở binh lính Trung Hoa Dân Quốc đến Đài Loan để tiếp nhận việc đầu hàng của lực lượng quân sự Nhật Bản tại Đài Bắc (trước đó gọi theo cách đọc tiếng Nhật là Taihoku). Toàn quyền Ando Rikichi và các chỉ huy cấp dưới của tất cả các lực lượng trên đảo đã ký vào văn kiện đầu hàng và trao cho đại diện Trung Hoa Dân Quốc. THDQ đã tuyên bố đây là ngày "Ngày Trao lại Đài Loan". Chính quyền THDQ tại Đài Loan được thiết lập một cách miễn cưỡng và không ổn định, cộng vào đó là những khó khăn về kinh tế, đặc biệt là nạn lạm phát cao. Hơn nữa, xung đột văn hóa và ngôn ngữ giữa và người đại lục nhanh chóng dẫn đến việc mất đi sự ủng hộ rộng rãi cho chính quyền mới . Điều này lên đến cực điểm trong một chuỗi các xung đột ác liệt giữa quân THDQ và người Đài Loan, gồm 228 vụ việc với ước tính 20.000-30.000 dân thường đã bị Quân đội Trung Hoa Dân Quốc hành quyết trong Bạch sắc khủng bố . Cùng với đó là một trong những thiết quân luật được áp đặt lâu nhất trên thế giới với trên 38 năm, với kết quả là hàng nghìn người Đài Loan đã bị bắt giữ, tra tấn, bỏ tù và hành hình vì các hành vi chống đối Quốc Dân Đảng. Những người này chủ yếu thuộc tầng lớp trí thức và tầng lớp có địa vị xã hội. Năm 2008, một lời xin lỗi chính thức đã được đưa ra cho các hành động này, tuy nhiên vẫn chưa hề có một sự bồi thường hay đền bù nào cho các nạn nhân hay gia đình của họ
Năm 1949, trong , chính quyền Trung Hoa Dân Quốc do lãnh đạo đã triệt thoái khỏi để di chuyển đến Đài Bắc, thành phố lớn nhất Đài Loan khi đó. Trung Hoa Dân Quốc tiếp tục tuyên bố chủ quyền trên toàn "Trung Quốc", theo định nghĩa của THDQ là bao gồm Trung Quốc đại lục, Đài Loan, Ngoại Mông (tức Mông Cổ) và các khu vực khác. Các lãnh thổ duy nhất không thuộc Đài Loan vẫn còn nằm dưới sự kiểm soát của THDQ là và . Tại Trung Quốc đại lục, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập và tuyên bố mình là đại diện hợp pháp duy nhất cho cả Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan) và Trung Hoa Dân Quốc không còn tồn tại
Khoảng 2 triệu người, gồm chủ yếu là quân nhân, các thành viên Quốc dân đảng và các thành phần trí thức và doanh nhân quan trọng, đã di tản từ Trung Quốc đại lục và di chuyển đến Đài Loan trong thời gian đó. Cộng thêm vào đó, chính quyền Quốc dân đảng đã chuyển đến Đài Bắc nhiều tài sản quốc gia như dự trữ vàng và ngoại tệ . Từ thời kỳ này cho đến những năm 1980, Đài Loan được được dưới thiết quân luật. Không có sự khác biệt nào dù là nhỏ giữa Quốc dân đảng và chính quyền, tài sản công, tài sản nhà nước, và sở hữu của đảng đều có thể chuyển đổi cho nhau. Nhân viên chính quyền và đảng viên không thể phân biệt được, với nhiều công chức, viên chức được kết nạp là đảng viên Quốc dân đảng.
Trung Hoa Dân Quốc vẫn duy trì là một nhà nước độc đảng trên thực tế theo thiết quân luật theo "Điều khoản Tạm thời có hiệu lực trong thời kỳ Phiến loạn Cộng sản" từ 1948 đến 1987. Sau đó, Tổng thống và đã dần dần tiến hành một hệ thống tự do hóa và dân chủ hóa. Với việc chuyển sang chế độ dân chủ, vấn đề lại nổi lên là một vấn đề tranh cãi (trước đây những ý kiến không phải là thống nhất dưới quyền của THDQ đều bị cấm đoán).
Do Nội chiến Trung Quốc không hề có thỏa thuận ngừng bắn, THDQ đã củng cố các căn cứ quân sự của mình trên khắp Đài Loan. Trong nỗ lực này, quân đội Quốc Dân đảng trước đây đã xây dựng Quốc lộ Ngang Trung tâm đảo (Trung hoành công lộ) qua hẻm núi Taroko (Thái Các Lỗ) vào thập niên 1950. Hai bờ eo biển Đài Loan vẫn tiếp tục giao chiến lẻ tẻ và hiếm khi công khai chi tiết ra bên ngoài cho đến thập niên 1960 với cực điểm là vào tháng 9 năm 1958 khi tên lửa Nike Hercules đã từng được triển khai. Hiện các thế hệ tên lửa đạn đạo thế hệ mới nhất đã được thay thế cho hệ thống Nike Hercules trước đây trên khắp hòn đảo.
Trong thập kỷ 1960 và 1970, Đài Loan đã phát triển một cách nhanh chóng và công nghiệp hóa mạnh đất nước với một nền kinh tế bền vững và năng động, trở thành một trong bốn con hổ Châu Á trong khi vẫn duy trì thiết quân luật và dưới sự cầm quyền độc đảng của Quốc Dân đảng. Vì lợi ích trong , hầu hết các quốc gia phương Tây và Liên Hiệp Quốc coi Trung Hoa Dân Quốc là chính quyền hợp pháp duy nhất của Trung Quốc cho đến thập niên 1970, khi hầu hết các nước bắt đầu chuyển sang công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Hậu thiết quân luật[ | ]
Người kế nghiệp của là con trai . Sau khi thay thế cha mình, ông đã bắt đầu tự do hóa nền chính trị Đài Loan. Năm 1984, ông đã lựa chọn , một nhà kỹ trị người Đài Loan làm phó tổng thống. Năm 1986, (DPP) được thành lập và được coi là đảng đối lập đầu tiên ở Đài Loan. Một năm sau, Tưởng Kinh Quốc đã nới lỏng thiết quân luật.
Sau khi Tưởng Kinh Quốc qua đời, Tổng thống đã trở thành Tổng thống đầu tiên của . Ông tiếp tục dân chủ hóa chính quyền và giảm sự tập trung của chính phủ vào vấn đề Trung Quốc đại lục. Dưới thời ông cầm quyền, Đài Loan đã trải qua một thời kỳ địa phương hóa mà trong đó văn hóa và lịch sử Đài Loan được coi trọng trong lòng văn hóa Trung Hoa tương phản với chính sách ban đầu của Quốc Dân đảng là coi trọng tính đồng nhất của Trung Hoa. Những cải cách của Lý Đăng Huy bao gồm chuyển việc in giấy bạc từ Ngân hàng tỉnh Đài Loan sang Ngân hàng Trung ương và chuyển hầu hết các công việc của chính quyền tỉnh Đài Loan cho chính quyền Trung ương. Chế độ đại diện cho các tỉnh tại Đại lục trước đây cũng bị bãi bỏ, phản ánh thực tế là Trung Hoa Dân Quốc không quản lý Trung Quốc đại lục. Hạn chế việc sử dụng tiếng Phúc Kiến Đài Loan trong truyền thông đại chúng và trường học cũng đã được nới lỏng. Trong những năm sau đó, Lý Đăng Huy vướng vào một vụ rắc rối về vấn đề tham nhũng về đất đai và mua bán vũ khí mặc dù đã không có vụ luận tội nào được diễn ra.
Thập kỷ 1990, Trung Hoa Dân Quốc tiếp tục các cải cách dân chủ, Tổng thống Lý Đăng Huy đã tái cử trong lần bầu cứ phổ thông đầu tiên được tổ chức vào năm 1996. Năm 2000, thuộc (DPP) đã trở thành tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc không phải là thành viên Quốc Dân đảng, ông đã tái cử trong cuộc bầu cử năm 2004. Tình trạng phân cực chính trị nổi bật tại Đài Loan với sự hình thành các đảng trong Liên Hiệp Lam (Phiếm Lam), dẫn đầu là Quốc Dân đảng, chủ trương thống nhất Trung Quốc và các đảng thuộc Liên Hiệp Lục (Phiếm Lục) do lãnh đạo với chủ trương Đài Loan độc lập.
Vào ngày 30 tháng 12 năm 2007, Đảng Dân Tiến đã phê chuẩn một nghị quyết yêu cầu tách rời tính đồng nhất với Trung Quốc và kêu gọi ban hành một hiến pháp mới của một "quốc gia bình thường". Đảng này cũng kêu gọi hoàn toàn sử dụng từ 'Đài Loan' và loại bỏ tên gọi Trung Hoa Dân Quốc . Trần Thủy Biển đã tổ chức 2 cuộc trưng cầu dân ý về phòng thủ đất nước và gia nhập Liên Hiệp Quốc vào các năm 2004 và 2008 nhưng đều thất bại vì số người đi bỏ phiếu dưới 50% . Ông sau đó đã phải đối mặt với các cáo buộc tham nhũng và phải ngồi tù.
Quốc Dân đảng đã trở thành đa số trong cuộc bầu cử Nghị viện tháng 1 năm 2008 và ông cũng đã đắc cử tổng thống cùng năm, chính sách của ông là chấn hưng kinh tế và thiết lập mối quan hệ tốt hơn với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông bắt đầu nhiệm kỳ vào ngày 20 tháng 5 năm 2008. Một phần của chính sách là tận dụng sức mạnh phát triển kinh tế của CHNDTH. Tuy nhiên, một số nhà phân tích cho rằng xung đột quân sự với CHNDTH vẫn sẽ không giảm nhiệt.
Địa lý[ | ]
Bài chi tiết:
Hòn đảo Đài Loan nằm cách bờ biển đông nam Trung Quốc đại lục khoảng 180 km qua . Diện tích của đảo là 35.801 km² (13.822,8 mi²). nằm ớ phía bắc, phía tây là , thẳng hướng về phía nam và phía tây-nam của hòn đảo là . Đảo có sự tương phản giữa 2/3 lãnh thổ, chủ yếu ở phía đông gồm chủ yếu là các vùng đồi núi hiểm trở, có tới 5 dãy núi chạy từ bắc xuống nam của đảo. Đồng bằng tập trung ở phía tây và cũng là nơi sinh sống của hầu hết cư dân Đài Loan. Điểm cao nhất Đài Loan là cao tới 3.952 mét và 5 ngọn núi khác có độ cao trên 3.500 mét. Đài Loan được xếp là hòn đảo cao thứ tư trên thế giới. Công viên Quốc gia Taroko (Thái Các Lỗ) nằm ở vùng đồi núi phía đông của hòn đảo là một ví dụ điển hình cho địa chất, công viên có các hẻm núi và bị xói mòn bởi một dòng sông chảy siết.
Khí hậu[ | ]
Đài Loan có khí hậu nhiệt đới đại dương . Phần phía bắc của đảo có mùa mưa từ cuối tháng một cho đến cuối tháng 3 do gió mùa đông bắc đem tới. Hòn đảo có khí hậu nóng, ẩm từ tháng 6 đến tháng 9. Vùng trung và nam đảo không có gió mùa đông bắc vào mùa đông. Các thiên tai như bão và động đất thường xuyên xảy ra tại hòn đảo
Đài Loan có một mật độ dân số cao với nhiều nhà máy, điều này đã làm cho nhiều khu vực trên đảo đã bị ô nhiễm nặng nề. Đáng chú ý là các khu ngoại ô phía nam Đài Bắc và phía tây Đài Nam và phía nam của Cao Hùng. Trong quá khứ, Đài Bắc đã phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm vì có nhiều phương tiện giao thông và nhà máy, nhưng cùng với việc bắt buộc sử dụng xăng không chì và thành lập Cơ quan Bảo vệ Môi trường, chất lượng không khí của Đài Loan đã được cải thiện rất nhiều . Xe tay ga, đặc biệt là xe có động cơ hai thì có thể bắt gặp mọi nơi tại Đài Loan, cũng góp một phần nhỏ vào nạn ô nhiễm.
Nhân khẩu[ | ]
Dân tộc[ | ]
Bài chi tiết: và
Dân số Đài Loan năm 2011 ước tính khoảng 23,2 triệu người, hầu hết trong số đó cư trú tại đảo Đài Loan. Khoảng 98% là . Trong số đó, 86% có nguồn gốc là những người nhập cư từ trước năm 1949, được gọi là (本省人 Běnshěng rén, bản tỉnh nhân). Nhóm này thường được gọi là "người Đài Loan bản địa" tuy nhiên mới thực sự là những người định cư sớm hơn. Bản tỉnh nhân bao gồm 2 phân nhóm: người gốc Phúc Kiến (70% dân số), những người này di cư từ vùng ven biển phía nam Phúc Kiến từ thế kỷ 17; (15% dân số) và có nguồn gốc từ tỉnh Quảng Đông. Một số bản tỉnh nhân không thường xuyên sử dụng , thay vào đó họ sử dụng và .
12% dân số là "ngoại tỉnh nhân" (外省人 Waishěng rén), nhóm này gồm có những người đã di cư từ Trung Quốc đại lục sau cùng với và hậu duệ của họ. Hầu hết ngoại tỉnh nhân chủ yếu nói .
Khoảng 2% dân số Đài Loan, vào khoảng 458.000 người được liệt kê là , họ được chia tiếp thành 13 nhóm chính là: Ami, Atayal, Paiwan, Bunun, Rukai, Puyuma, Tsou, Saisiyat, t*o (Yami), Thao, Kavalan, Truku và Sakizaya
Ngôn ngữ[ | ]
Tiếng Phổ thông chuẩn (hay còn gọi là tiếng Quan thoại) được công nhận là ngôn ngữ chính thức của Trung Hoa Dân Quốc, ngôn ngữ này được đại đa số dân chúng sử dụng. Khoảng 70% người dân Đài Loan là người gốc Phúc Kiến và họ nói cả (một phương ngữ của ) và tiếng Phổ thông. Tiếng Phổ thông là ngôn ngữ chủ yếu trong giảng dạy tại trường học từ khi Nhật Bản rút quân khỏi hòn đảo vào những năm 1940. Nhóm người Khách Gia, chiếm khoảng 15% dân số, sử dụng . Các nhóm thổ dân hầu hết nói ngôn ngữ bản địa của họ, mặc dù hầu hết họ cũng có thể nói . Các ngôn ngữ thổ dân không thuộc về hay mà thuộc
Mặc dù tiếng Phổ thông là ngôn ngữ giảng dạy trong trường học và chiếm ưu thế trên truyền hình và phát thanh, các ngôn ngữ hay phương ngôn khác đã chứng kiến một sự hồi sinh trong đời sống công cộng tại Đài Loan, chủ yếu là từ thập niên 1990 sau khi các hạn chế về ngôn ngữ được nới lỏng. Một phần lớn trong dân chúng có thể nói , và nhiều người khác cũng có thể hiểu ngôn ngữ này ở những mức độ khác nhau. Những người già từng được giáo dục dưới thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng (1895-1945) đều có thể nói được .
là ngôn ngữ phổ biến tại Đài Loan, một số trường tư có quy mô lớn đã tiến hành giảng dạy bằng . Tiếng Anh là bắt buộc trong chương trình giảng dạy khi các học sinh bước vào trường tiểu học. Tiếng Anh khá được đề cao trong các trường học Đài Loan
Tôn giáo[ | ]
Trên 93% dân số Đài Loan trung thành với một sự kết hợp đa thần giáo gồm tôn giáo cổ Trung Hoa, , và ; 3,9% dân số theo (2,6% và 1,3% ) và dưới 2,5% theo các tôn giáo khác, như . Đa số theo Công giáo với 64% số người theo tôn giáo này, các nhà thờ là một điểm nhấn khiến các ngôi làng của họ trở nên khác biệt với làng của người Phúc Kiến hay Khách Gia
Văn hóa[ | ]
Văn hóa Đài Loan là một sự pha trộn của nhiều dòng khác nhau, kết hợp chặt chẽ với các yếu tố của văn hóa cổ truyền Trung Hoa, vốn là nguồn gốc lịch sử và dân tộc của đa số cư dân hiện nay, văn hóa Nhật Bản, tín ngưỡng Khổng Tử và các sắc màu đến từ Phương Tây.
Sau khi dời đến Đài Loan, đã áp đặt các phong tục chính thống của văn hóa truyền thống Trung Hoa cho văn hóa Đài Loan. Chính quyền tổ chức các chương trình về nghệ thuật thư pháp, thư họa, nghệ thuật cổ truyền và ca kịch Trung Hoa.
Kể từ phong trào địa phương hóa tại Đài Loan bắt đầu vào những năm 1990. Đặc điểm của văn hóa Đài Loan đã biểu hiện rõ nét hơn. Đặc tính chính trị, cùng với hơn một trăm năm tách biệt vở Trung Quốc đại lục đã khiến cho văn hóa truyền thống cũng có nhiều khác biệt trong nhiều lĩnh vực, như ẩm thực và âm nhạc.
Tình trạng của văn hóa Đài Loan đang là đề tài tranh luận. Người ta mâu thuẫn với nhau khi xếp loại văn hóa Đài Loan là một dạng văn hóa địa phương Trung Hoa hay là một nền văn hóa riêng. Nói đã trở thành một biểu tượng cho phong trào địa phương hóa và là tượng trưng cho đặc điểm của người Đài Loan.
Một trong các sức hút lớn nhất của Đài Loan là Bảo tàng Cung điện Quốc gia, nơi đây lưu giữ 650.000 hiện vật đồ đồng, ngọc bích, tư pháp, thư họa và gốm sứ Trung Hoa và được coi là một trong là một trong các bộ sưu tầm lớn nhất của nghệ thuật và đồ cổ Trung Hoa trên toàn thế giới . Quốc Dân Đảng đã di chuyển bộ sưu tầm này từ ở năm 1949 khi họ chạy đến Đài Loan. Bộ sưu tầm này ước tính chiếm tới khoảng 1/10 kho tàng văn hóa Trung Hoa và chỉ 1% trong số đó được thay phiên nhau trưng bày. cho rằng bộ sưu tầm này đã bị ăn cắp và chúng thuộc về Trung Quốc về mặt luật pháp, nhưng Đài Loan trên thực tế đã bảo vệ được chúng khỏi những cuộc phá hoại nếu chúng còn nằm ở đại lục, đặc biệt là trong thời kỳ .
Karaoke, một hình thức giải trí của văn hóa Nhật Bản, vô cùng phổ biến tại Đài Loan, tại đây chúng được gọi là KTV. Ngành kinh doanh KTV hoạt động giống như mô hình một khách sạn, được chia thành các phòng nhỏ và phòng khiêu vũ phù hợp với số khách trong nhóm. Nhiều KTV hợp tác với các nhà hàng, quán giải khát để tổ chức các hoạt động phục vụ đầy đủ cho các gia đình, bạn bè hoặc bạn kinh doanh.
Kinh tế[ | ]
Đài Loan đã công nghiệp hóa một cách nhanh chóng trong nửa cuối của thế kỷ 20, và điều này được mệnh danh là "Thần kỳ Đài Loan" (台灣奇蹟 Đài Loan cơ tích). Đài loan cùng với , và được gọi là bốn con rồng châu Á (hay 4 con hổ Châu Á).
Năm 1962, Đài Loan có thu nhập quốc dân (GNP) đầu người là 170 đô là Mỹ, chỉ tương được với và . Năm 2008 thu nhập quốc dân đầu người đã lên tới 33.000 đô là Mỹ, Chỉ số Phát triển Con người (HDI) cũng tương đương với các nước phát triển. HDI của Đài Loan năm 2007 là 0,943 (xếp thứ 27, rất cao) , và 0,868 năm 2010 (xếp thứ 18, rất cao) theo cách tính mới của Liên Hiệp Quốc.
Đài Loan ngày nay có một nền kinh tế năng động, tư bản, dựa vào xuất khẩu đi cùng với việc dần dần giảm sự can dự của nhà nước trong đầu tư và thương mại quốc tế. Một số ngân hàng và các hãng công nghiệp lớn do chính quyền điều hành đã được tư nhân hóa. Tăng trưởng GDP thực trung bình là 8% trong suốt gần 3 thập kỷ gần dây. Xuất khẩu là động lực chính cho công nghiệp hóa. Thặng dư thương mại khá lớn và dự trữ ngoại hối của Đài Loan đứng thứ 5 thế giới tỉnh đến 31 tháng 12 năm 2007
Đóng góp của nông nghiệp trong nền kinh tế Đài Loan là rất nhỏ, chỉ chiếm 2% so với 35% vào năm 1952. Từ những năm 1980, các ngành công nghiệp sử dụng nhiều nhân công đã dần di dời ra hải ngoại và được thay thế với các ngành đòi hỏi tính kỹ thuật cũng như vốn đầu tư lớn. Các khu công nghệ cao đã có mặt tại tất cả các vùng tại Đài Loan. Đài Loan trở thành một trong các nhà đầu tư nước ngoài chính tại , , , , và . Theo ước tính năm 2003, có khoảng 50.000 doanh nhân và người làm ăn cũng như gia đình của họ sống tại CHNDTH
------------------------------------------------------------------------------------
EM DỐT CHÍNH TRỊ, CHO EM HỎI CÂU NÀY:
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này nói về hòn đảo Đài Loan. Để đọc về chính thể tại Đài Loan, xin xem bài . Đài Loan
Tên gốc: 臺灣 hoặc 台灣
Phía đông Đài Loan chủ yếu là đồi núi và các đồng bằng thoai thoải về phía tây. Quần đảo Bành Hồ nằm ỏ phía tây Đài Loan. (Hình vệ tinh của ) Địa lý [[Image:
||giữa]] Vị trí Thái Bình Dương, cách bờ biển Diện tích 36008 km² Điểm cao nhất Thành phố lớn nhất (Tân Đài Bắc) (3.900.199) Nhân khẩu học Dân số 23,061,689 (không tính và (tính đến năm 4/2011) Mật độ 668 Người bản xứ 98%
70%
14%
14% Người ngoại tỉnh
2%
Đài Loan ( : 臺灣 hoặc 台灣; : 台湾; : Táiwān; : T'ai-wan; : Tâi-oân) là một hòn đảo ở khu vực , ngoài khơi đông nam , phía nam và phía bắc . Từ "Đài Loan" cũng thường được dùng để chỉ lãnh thổ do nhà nước (THDQ) quản lý, bao gồm các đảo Đài Loan (gồm có đảo và ), tại , và ở ngoài khơi , đồng thời THDQ cũng kiểm soát và ở .
Đảo chính của Đài Loan cũng từng được gọi trong một số ngôn ngữ phương Tây là Formosa cho đến (các thủy thủ gọi nó là Ilha Formosa, nghĩa là "hòn đảo xinh đẹp"), phía đông giáp với , phía nam giáp , phía tây là eo biển Đài Loan và phía bắc là . Hòn đảo này dài 394 km và rộng 144 km, gồm nhiều dãy núi dốc và được bao phủ bởi hệ thực vật nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Mục lục
[ ]
Lịch sử[ | ]
Bài chi tiết:
Thời tiền sử và những những người định cư đầu tiên[ | ]
Bằng chứng khảo cổ cho thấy con người đã có sự hiện diện của ở Đài Loan đã có từ 30.000 năm trước, mặc dù những cư dân đầu tiên của Đài Loan có thể đã không có chung nguồn gốc với bất kỳ nhóm dân tộc nào hiện nay trên đảo. Khoảng 4.000 năm trước, tổ tiên của ngày nay đã định cư tại đảo. Những người này có đặc tính di truyền gần gũi với các dân tộc Nam Đảo và có họ hàng với , hay và với cả những ở phía đông hiện nay, và các nhà ngôn ngữ học phân loại các ngôn ngữ của họ thuộc về .
Có nhiều khác biệt trong thư tịch từ thời cổ Trung Quốc cho thấy có thể đã biết đến sự tồn tại của đảo chính Đài Loan kể từ thời (230 CN), và phân chia các đảo xa bờ biển Trung Hoa này thành Đại Lưu Cầu (Đài Loan) và Tiểu Lưu Cầu (có thể là của Nhật Bản ngày nay). Người Hán bắt đầu định cư tại trong những năm 1200, nhưng họ đã gặp phải sự chống đối của các bộ tộc bản địa, thêm vào đó là thổ dân trên đảo không có các mặt hàng tốt hay sản vật đặc sắc để có thể giao thương, thế nhưng "thỉnh thoảng vẫn có người mạo hiểm hay các ngư dân đến trao đổi hàng hóa" cho đến thế kỷ thứ 16. .
Thực dân Châu Âu[ | ]
Bài chi tiết: và
Năm 1594, một tàu Bồ Đào Nha đã trông thấy hòn đảo Đài Loan và đặt tên cho nó là Ilha Formosa, có nghĩa là "Hòn đảo xinh đẹp". Năm 1624, người Hà Lan thành lập một cơ sở giao thương tại Đài Loan và bắt đầu đưa những lao công người Hán từ và đến và nhiều người trong số họ đã định cư tại đảo. Người Hà Lan đã xây dựng Đài Loan thành một thuộc địa với thủ phủ là thành Tayoan (nay là ). Cả Tayoan và tên đảo Taiwan đều xuất phát từ một từ trong , ngôn ngữ của một trong các bộ tộc thổ dân Đài Loan. Quân đội Hà Lan tập trung trong một pháo đài gọi là . Những người thực dân Hà Lan cũng bắt đầu việc tìm kiếm (Cervus nippon taioanus) trên đảo và cuối cùng đã làm cho loài này bị tại Đài Loan. . Tuy vậy, việc này đã góp phần nhận diện danh tính của các bộ tộc bản địa trên đảo. Năm 1626, người Tây Ban Nha đặt chân lên đảo và chiếm đóng và lập một cơ sở thương mại. Thời kỳ thuộc địa của người Tây Ban Nha kéo dài 16 năm cho đến 1642.
Vương quốc Đông Ninh[ | ]
Bài chi tiết:
Sau khi sụp đổ, chiếm đóng , một thủ lĩnh quân sự người Hán là đã tập hợp lực lượng trung thành với nhà Minh ở miền nam Phúc Kiến, đã đánh bại và đuổi người Hà Lan khỏi Đài Loan vào năm 1662. Ông xây dựng nơi đây thành một lãnh địa riêng không chịu quyền kiểm soát của nhà Thanh, thường được biết dưới tên gọi Vương quốc Đông Ninh. Trịnh Thành Công đã lập thủ phủ tại và dùng Đài Loan như một căn cứ, những người kế vị ông là và vẫn tiếp tục tiến hành các cuộc thâm nhập vào vùng bờ biển đông nam Trung Quốc đại lục nhằm lật đổ nhà Thanh. Năm 1683, hạm đội quân Thanh dưới sự chỉ huy của đô đốc đã đánh bại quân của họ Trịnh, Đài Loan chính thức sáp nhập vào .
Thời kỳ nhà Thanh cai trị[ | ]
Nhật Bản đã tìm cách kiểm soát Đài Loan từ năm 1592 khi Hideyoshi Toyotomi bắt đầu mở rộng ảnh hưởng của Nhật Bản ra hải ngoại. Năm 1609, Mạc phủ Tokugawa đã cử Harunobu Arima thực hiện sứ mệnh thám hiểm. Năm 1616 Toan Murayama đã dẫn đầu một cuộc xâm lược hòn đảo, tuy nhiên điều này đã không thành công.
Năm 1871, một tàu của Okinawa bị đắm ở đỉnh phía nam của Đài Loan và toàn bộ thủy thủ với khoảng 54 người đã bị thổ dân chém đầu. Khi Nhật Bản đòi hỏi bồi thường từ phía nhà Thanh, nó đã không được chấp nhận bởi nhà Thanh coi vụ việc xảy ra là công việc nội bộ. Nhà Thanh cho rằng Đài Loan là một châu thuộc tỉnh Phúc Kiến của mình và (vương quốc trên quần đảo Okinawa lúc bấy giờ) là một của nhà Thanh. Khi bộ trưởng ngoại giao Nhật Bản trả lời rằng nhà Thanh phải bồi thường cho 4 nạn nhân là công dân Nhật Bản đến từ tỉnh trên tàu, nhà Thanh đã chính thức bác bỏ yêu cầu này với lý do đó là hành động của các thổ dân "man di" và chưa được chinh phục và hành động đó nằm ngoài quyền hành của họ. Nhiều thổ dân Đài Loan đã bị đối xử vô cùng cay nghiệt; Lãnh sự Hoa Kỳ J.W. Davidson đã mô tả cách người Hán ở Đài Loan ăn và mua bán thịt của những người thổ dân . Việc từ bỏ chủ quyền ở Đài Loan đã dẫn tới việc Nhật Bản xâm lược hòn đảo. Năm 1874, một đội quân viễn chinh gồm ba nghìn lính đã được cử đến đảo. Cuộc chiến kết thúc với 30 người Đài Loan và 543 người Nhật thương vong (12 trong chiến trận và 531 vì dịch bệnh bên phía Nhật Bản)
Nhật Bản cai trị[ | ]
Nhà Thanh đã thất bại trong (1894-1895) và phải nhượng toàn bộ chủ quyền Đài Loan cùng cho . Những người mong muốn vẫn được làm thần dân của nhà Thanh có 2 năm chuyển tiếp để bán các tài sản của mình và chuyển về đại lục. Chỉ có rất ít người Đài Loan thực hiện được điều này
Vào ngày 25 tháng 5 năm 1895, một nhóm quan chức cấp cao trung thành với nhà Thanh đã tuyên bố thành lập để chống lại sự kiểm soát sắp tới của người Nhật. Các lực lượng Nhật Bản đã tiến vào thủ phủ và dập tắt sự kháng cự này vào ngày 21 tháng 10 năm 1895.
Những người Nhật sau đó đã công nghiệp hóa hòn đảo; họ mở rộng đường sắt và các mạng lưới giao thông khác, xây dựng một hệ thống bảo vệ sức khỏe trải rộng và xây dựng hệ thống trường công. Trong thời kỳ này, cả sản lượng và đều tăng lên. Năm 1939, Đài Loan là nơi sản xuất đường lớn thứ bảy trên thế giới . Tuy nhiên, và thổ dân chỉ được xếp là công dân hạng hai và hạng ba. Các vụ đấu tranh lớn tiếp tục diễn ra trong thập kỷ đầu, Nhật Bản đã tiến hành trên 160 trận chiến để hủy diệt các bộ tộc thổ dân Đài Loan trong suốt 51 năm cai trị hòn đảo Khoảng năm 1935, Nhật Bản bắt đầu kế hoạch đồng hóa trên phạm vi toàn đảo để quản lý vững chắc hòn đảo và người dân được dạy là phải tự coi mình là người Nhật. Trong , hàng chục nghìn người Đài Loan đã phục vụ trong quân dội Nhật Bản . Chẳng hạn, anh trai của cựu Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc đã phục vụ trong hải quân Nhật Bản và chết trong khi làm nhiệm vụ tại vào tháng 2 năm 1945.
hoạt động chủ yếu bên ngoài Đài Loan. "Nhóm bổn phận phương Nam" có căn cứ bên ngoài Trường Đại học Đế quốc Taihoku (Taihoku nghĩa là Đài Bắc). Nhiều lực lượng Nhật Bản tham gia vào trận Không chiến Đài Loan-Okinawa đặt căn cứ tại Đài Loan. Các căn cứ quân sự và trung tâm công nghiệp quan trọng của Nhật Bản ở khắp nơi tại Đài Loan, như , đã trở thành mục tiêu của các vụ ném bom ác liệt của Hoa Kỳ.
Nhật Bản mất quyền kiểm soát Đài Loan sau khi bại trận trong và Văn kiện Đầu hàng của Nhật Bản được ký vào ngày 14 tháng 8 năm 1945. Nhưng sự kiểm soát của Nhật Bản đã có tác động lâu dài đối với Đài Loan, nhất là văn hóa Đài Loan. Nhiều cơ sở hạ tầng của Đài Loan được bắt đầu xây dựng dưới thời Nhật quản lý. Dinh Tổng thống hiện nay cũng được xây trong thời kỳ này. Năm 1938, có khoảng 309.000 người Nhật định cư tại Đài Loan , hầu hết họ đã hồi hương sau chiến tranh.
Thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc[ | ]
Thời kỳ thiết quân luật Quốc Dân Đảng[ | ]
diễn ra từ 22 đến 26 tháng 11 năm 1943 tại , đã xác định lập trường của phe chống lại Nhật Bản trong , và giải quyết các vấn đề hậu chiến ở Châu Á. Một trong ba điều khoản chính của Tuyên bố Cairo là "Tất cả các lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm đoạt từ Trung Quốc, bao gồm , Đài Loan và , sẽ được hoàn trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc". Tuy nhiên, nhiều thay đổi đã diễn ra khiến cho văn kiện này đơn thuần chỉ là một phát biểu với mục đích soạn thảo một Hiệp ước Hòa bình sau chiến tranh.
Vào ngày 25 tháng 10 năm 1945, Hải quân Hoa Kỳ đã chở binh lính Trung Hoa Dân Quốc đến Đài Loan để tiếp nhận việc đầu hàng của lực lượng quân sự Nhật Bản tại Đài Bắc (trước đó gọi theo cách đọc tiếng Nhật là Taihoku). Toàn quyền Ando Rikichi và các chỉ huy cấp dưới của tất cả các lực lượng trên đảo đã ký vào văn kiện đầu hàng và trao cho đại diện Trung Hoa Dân Quốc. THDQ đã tuyên bố đây là ngày "Ngày Trao lại Đài Loan". Chính quyền THDQ tại Đài Loan được thiết lập một cách miễn cưỡng và không ổn định, cộng vào đó là những khó khăn về kinh tế, đặc biệt là nạn lạm phát cao. Hơn nữa, xung đột văn hóa và ngôn ngữ giữa và người đại lục nhanh chóng dẫn đến việc mất đi sự ủng hộ rộng rãi cho chính quyền mới . Điều này lên đến cực điểm trong một chuỗi các xung đột ác liệt giữa quân THDQ và người Đài Loan, gồm 228 vụ việc với ước tính 20.000-30.000 dân thường đã bị Quân đội Trung Hoa Dân Quốc hành quyết trong Bạch sắc khủng bố . Cùng với đó là một trong những thiết quân luật được áp đặt lâu nhất trên thế giới với trên 38 năm, với kết quả là hàng nghìn người Đài Loan đã bị bắt giữ, tra tấn, bỏ tù và hành hình vì các hành vi chống đối Quốc Dân Đảng. Những người này chủ yếu thuộc tầng lớp trí thức và tầng lớp có địa vị xã hội. Năm 2008, một lời xin lỗi chính thức đã được đưa ra cho các hành động này, tuy nhiên vẫn chưa hề có một sự bồi thường hay đền bù nào cho các nạn nhân hay gia đình của họ
Năm 1949, trong , chính quyền Trung Hoa Dân Quốc do lãnh đạo đã triệt thoái khỏi để di chuyển đến Đài Bắc, thành phố lớn nhất Đài Loan khi đó. Trung Hoa Dân Quốc tiếp tục tuyên bố chủ quyền trên toàn "Trung Quốc", theo định nghĩa của THDQ là bao gồm Trung Quốc đại lục, Đài Loan, Ngoại Mông (tức Mông Cổ) và các khu vực khác. Các lãnh thổ duy nhất không thuộc Đài Loan vẫn còn nằm dưới sự kiểm soát của THDQ là và . Tại Trung Quốc đại lục, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập và tuyên bố mình là đại diện hợp pháp duy nhất cho cả Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan) và Trung Hoa Dân Quốc không còn tồn tại
Khoảng 2 triệu người, gồm chủ yếu là quân nhân, các thành viên Quốc dân đảng và các thành phần trí thức và doanh nhân quan trọng, đã di tản từ Trung Quốc đại lục và di chuyển đến Đài Loan trong thời gian đó. Cộng thêm vào đó, chính quyền Quốc dân đảng đã chuyển đến Đài Bắc nhiều tài sản quốc gia như dự trữ vàng và ngoại tệ . Từ thời kỳ này cho đến những năm 1980, Đài Loan được được dưới thiết quân luật. Không có sự khác biệt nào dù là nhỏ giữa Quốc dân đảng và chính quyền, tài sản công, tài sản nhà nước, và sở hữu của đảng đều có thể chuyển đổi cho nhau. Nhân viên chính quyền và đảng viên không thể phân biệt được, với nhiều công chức, viên chức được kết nạp là đảng viên Quốc dân đảng.
Trung Hoa Dân Quốc vẫn duy trì là một nhà nước độc đảng trên thực tế theo thiết quân luật theo "Điều khoản Tạm thời có hiệu lực trong thời kỳ Phiến loạn Cộng sản" từ 1948 đến 1987. Sau đó, Tổng thống và đã dần dần tiến hành một hệ thống tự do hóa và dân chủ hóa. Với việc chuyển sang chế độ dân chủ, vấn đề lại nổi lên là một vấn đề tranh cãi (trước đây những ý kiến không phải là thống nhất dưới quyền của THDQ đều bị cấm đoán).
Do Nội chiến Trung Quốc không hề có thỏa thuận ngừng bắn, THDQ đã củng cố các căn cứ quân sự của mình trên khắp Đài Loan. Trong nỗ lực này, quân đội Quốc Dân đảng trước đây đã xây dựng Quốc lộ Ngang Trung tâm đảo (Trung hoành công lộ) qua hẻm núi Taroko (Thái Các Lỗ) vào thập niên 1950. Hai bờ eo biển Đài Loan vẫn tiếp tục giao chiến lẻ tẻ và hiếm khi công khai chi tiết ra bên ngoài cho đến thập niên 1960 với cực điểm là vào tháng 9 năm 1958 khi tên lửa Nike Hercules đã từng được triển khai. Hiện các thế hệ tên lửa đạn đạo thế hệ mới nhất đã được thay thế cho hệ thống Nike Hercules trước đây trên khắp hòn đảo.
Trong thập kỷ 1960 và 1970, Đài Loan đã phát triển một cách nhanh chóng và công nghiệp hóa mạnh đất nước với một nền kinh tế bền vững và năng động, trở thành một trong bốn con hổ Châu Á trong khi vẫn duy trì thiết quân luật và dưới sự cầm quyền độc đảng của Quốc Dân đảng. Vì lợi ích trong , hầu hết các quốc gia phương Tây và Liên Hiệp Quốc coi Trung Hoa Dân Quốc là chính quyền hợp pháp duy nhất của Trung Quốc cho đến thập niên 1970, khi hầu hết các nước bắt đầu chuyển sang công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Hậu thiết quân luật[ | ]
Người kế nghiệp của là con trai . Sau khi thay thế cha mình, ông đã bắt đầu tự do hóa nền chính trị Đài Loan. Năm 1984, ông đã lựa chọn , một nhà kỹ trị người Đài Loan làm phó tổng thống. Năm 1986, (DPP) được thành lập và được coi là đảng đối lập đầu tiên ở Đài Loan. Một năm sau, Tưởng Kinh Quốc đã nới lỏng thiết quân luật.
Sau khi Tưởng Kinh Quốc qua đời, Tổng thống đã trở thành Tổng thống đầu tiên của . Ông tiếp tục dân chủ hóa chính quyền và giảm sự tập trung của chính phủ vào vấn đề Trung Quốc đại lục. Dưới thời ông cầm quyền, Đài Loan đã trải qua một thời kỳ địa phương hóa mà trong đó văn hóa và lịch sử Đài Loan được coi trọng trong lòng văn hóa Trung Hoa tương phản với chính sách ban đầu của Quốc Dân đảng là coi trọng tính đồng nhất của Trung Hoa. Những cải cách của Lý Đăng Huy bao gồm chuyển việc in giấy bạc từ Ngân hàng tỉnh Đài Loan sang Ngân hàng Trung ương và chuyển hầu hết các công việc của chính quyền tỉnh Đài Loan cho chính quyền Trung ương. Chế độ đại diện cho các tỉnh tại Đại lục trước đây cũng bị bãi bỏ, phản ánh thực tế là Trung Hoa Dân Quốc không quản lý Trung Quốc đại lục. Hạn chế việc sử dụng tiếng Phúc Kiến Đài Loan trong truyền thông đại chúng và trường học cũng đã được nới lỏng. Trong những năm sau đó, Lý Đăng Huy vướng vào một vụ rắc rối về vấn đề tham nhũng về đất đai và mua bán vũ khí mặc dù đã không có vụ luận tội nào được diễn ra.
Thập kỷ 1990, Trung Hoa Dân Quốc tiếp tục các cải cách dân chủ, Tổng thống Lý Đăng Huy đã tái cử trong lần bầu cứ phổ thông đầu tiên được tổ chức vào năm 1996. Năm 2000, thuộc (DPP) đã trở thành tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc không phải là thành viên Quốc Dân đảng, ông đã tái cử trong cuộc bầu cử năm 2004. Tình trạng phân cực chính trị nổi bật tại Đài Loan với sự hình thành các đảng trong Liên Hiệp Lam (Phiếm Lam), dẫn đầu là Quốc Dân đảng, chủ trương thống nhất Trung Quốc và các đảng thuộc Liên Hiệp Lục (Phiếm Lục) do lãnh đạo với chủ trương Đài Loan độc lập.
Vào ngày 30 tháng 12 năm 2007, Đảng Dân Tiến đã phê chuẩn một nghị quyết yêu cầu tách rời tính đồng nhất với Trung Quốc và kêu gọi ban hành một hiến pháp mới của một "quốc gia bình thường". Đảng này cũng kêu gọi hoàn toàn sử dụng từ 'Đài Loan' và loại bỏ tên gọi Trung Hoa Dân Quốc . Trần Thủy Biển đã tổ chức 2 cuộc trưng cầu dân ý về phòng thủ đất nước và gia nhập Liên Hiệp Quốc vào các năm 2004 và 2008 nhưng đều thất bại vì số người đi bỏ phiếu dưới 50% . Ông sau đó đã phải đối mặt với các cáo buộc tham nhũng và phải ngồi tù.
Quốc Dân đảng đã trở thành đa số trong cuộc bầu cử Nghị viện tháng 1 năm 2008 và ông cũng đã đắc cử tổng thống cùng năm, chính sách của ông là chấn hưng kinh tế và thiết lập mối quan hệ tốt hơn với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông bắt đầu nhiệm kỳ vào ngày 20 tháng 5 năm 2008. Một phần của chính sách là tận dụng sức mạnh phát triển kinh tế của CHNDTH. Tuy nhiên, một số nhà phân tích cho rằng xung đột quân sự với CHNDTH vẫn sẽ không giảm nhiệt.
Địa lý[ | ]
Bài chi tiết:
Hòn đảo Đài Loan nằm cách bờ biển đông nam Trung Quốc đại lục khoảng 180 km qua . Diện tích của đảo là 35.801 km² (13.822,8 mi²). nằm ớ phía bắc, phía tây là , thẳng hướng về phía nam và phía tây-nam của hòn đảo là . Đảo có sự tương phản giữa 2/3 lãnh thổ, chủ yếu ở phía đông gồm chủ yếu là các vùng đồi núi hiểm trở, có tới 5 dãy núi chạy từ bắc xuống nam của đảo. Đồng bằng tập trung ở phía tây và cũng là nơi sinh sống của hầu hết cư dân Đài Loan. Điểm cao nhất Đài Loan là cao tới 3.952 mét và 5 ngọn núi khác có độ cao trên 3.500 mét. Đài Loan được xếp là hòn đảo cao thứ tư trên thế giới. Công viên Quốc gia Taroko (Thái Các Lỗ) nằm ở vùng đồi núi phía đông của hòn đảo là một ví dụ điển hình cho địa chất, công viên có các hẻm núi và bị xói mòn bởi một dòng sông chảy siết.
Khí hậu[ | ]
Đài Loan có khí hậu nhiệt đới đại dương . Phần phía bắc của đảo có mùa mưa từ cuối tháng một cho đến cuối tháng 3 do gió mùa đông bắc đem tới. Hòn đảo có khí hậu nóng, ẩm từ tháng 6 đến tháng 9. Vùng trung và nam đảo không có gió mùa đông bắc vào mùa đông. Các thiên tai như bão và động đất thường xuyên xảy ra tại hòn đảo
Đài Loan có một mật độ dân số cao với nhiều nhà máy, điều này đã làm cho nhiều khu vực trên đảo đã bị ô nhiễm nặng nề. Đáng chú ý là các khu ngoại ô phía nam Đài Bắc và phía tây Đài Nam và phía nam của Cao Hùng. Trong quá khứ, Đài Bắc đã phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm vì có nhiều phương tiện giao thông và nhà máy, nhưng cùng với việc bắt buộc sử dụng xăng không chì và thành lập Cơ quan Bảo vệ Môi trường, chất lượng không khí của Đài Loan đã được cải thiện rất nhiều . Xe tay ga, đặc biệt là xe có động cơ hai thì có thể bắt gặp mọi nơi tại Đài Loan, cũng góp một phần nhỏ vào nạn ô nhiễm.
Nhân khẩu[ | ]
Dân tộc[ | ]
Bài chi tiết: và
Dân số Đài Loan năm 2011 ước tính khoảng 23,2 triệu người, hầu hết trong số đó cư trú tại đảo Đài Loan. Khoảng 98% là . Trong số đó, 86% có nguồn gốc là những người nhập cư từ trước năm 1949, được gọi là (本省人 Běnshěng rén, bản tỉnh nhân). Nhóm này thường được gọi là "người Đài Loan bản địa" tuy nhiên mới thực sự là những người định cư sớm hơn. Bản tỉnh nhân bao gồm 2 phân nhóm: người gốc Phúc Kiến (70% dân số), những người này di cư từ vùng ven biển phía nam Phúc Kiến từ thế kỷ 17; (15% dân số) và có nguồn gốc từ tỉnh Quảng Đông. Một số bản tỉnh nhân không thường xuyên sử dụng , thay vào đó họ sử dụng và .
12% dân số là "ngoại tỉnh nhân" (外省人 Waishěng rén), nhóm này gồm có những người đã di cư từ Trung Quốc đại lục sau cùng với và hậu duệ của họ. Hầu hết ngoại tỉnh nhân chủ yếu nói .
Khoảng 2% dân số Đài Loan, vào khoảng 458.000 người được liệt kê là , họ được chia tiếp thành 13 nhóm chính là: Ami, Atayal, Paiwan, Bunun, Rukai, Puyuma, Tsou, Saisiyat, t*o (Yami), Thao, Kavalan, Truku và Sakizaya
Ngôn ngữ[ | ]
Tiếng Phổ thông chuẩn (hay còn gọi là tiếng Quan thoại) được công nhận là ngôn ngữ chính thức của Trung Hoa Dân Quốc, ngôn ngữ này được đại đa số dân chúng sử dụng. Khoảng 70% người dân Đài Loan là người gốc Phúc Kiến và họ nói cả (một phương ngữ của ) và tiếng Phổ thông. Tiếng Phổ thông là ngôn ngữ chủ yếu trong giảng dạy tại trường học từ khi Nhật Bản rút quân khỏi hòn đảo vào những năm 1940. Nhóm người Khách Gia, chiếm khoảng 15% dân số, sử dụng . Các nhóm thổ dân hầu hết nói ngôn ngữ bản địa của họ, mặc dù hầu hết họ cũng có thể nói . Các ngôn ngữ thổ dân không thuộc về hay mà thuộc
Mặc dù tiếng Phổ thông là ngôn ngữ giảng dạy trong trường học và chiếm ưu thế trên truyền hình và phát thanh, các ngôn ngữ hay phương ngôn khác đã chứng kiến một sự hồi sinh trong đời sống công cộng tại Đài Loan, chủ yếu là từ thập niên 1990 sau khi các hạn chế về ngôn ngữ được nới lỏng. Một phần lớn trong dân chúng có thể nói , và nhiều người khác cũng có thể hiểu ngôn ngữ này ở những mức độ khác nhau. Những người già từng được giáo dục dưới thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng (1895-1945) đều có thể nói được .
là ngôn ngữ phổ biến tại Đài Loan, một số trường tư có quy mô lớn đã tiến hành giảng dạy bằng . Tiếng Anh là bắt buộc trong chương trình giảng dạy khi các học sinh bước vào trường tiểu học. Tiếng Anh khá được đề cao trong các trường học Đài Loan
Tôn giáo[ | ]
Trên 93% dân số Đài Loan trung thành với một sự kết hợp đa thần giáo gồm tôn giáo cổ Trung Hoa, , và ; 3,9% dân số theo (2,6% và 1,3% ) và dưới 2,5% theo các tôn giáo khác, như . Đa số theo Công giáo với 64% số người theo tôn giáo này, các nhà thờ là một điểm nhấn khiến các ngôi làng của họ trở nên khác biệt với làng của người Phúc Kiến hay Khách Gia
Văn hóa[ | ]
Văn hóa Đài Loan là một sự pha trộn của nhiều dòng khác nhau, kết hợp chặt chẽ với các yếu tố của văn hóa cổ truyền Trung Hoa, vốn là nguồn gốc lịch sử và dân tộc của đa số cư dân hiện nay, văn hóa Nhật Bản, tín ngưỡng Khổng Tử và các sắc màu đến từ Phương Tây.
Sau khi dời đến Đài Loan, đã áp đặt các phong tục chính thống của văn hóa truyền thống Trung Hoa cho văn hóa Đài Loan. Chính quyền tổ chức các chương trình về nghệ thuật thư pháp, thư họa, nghệ thuật cổ truyền và ca kịch Trung Hoa.
Kể từ phong trào địa phương hóa tại Đài Loan bắt đầu vào những năm 1990. Đặc điểm của văn hóa Đài Loan đã biểu hiện rõ nét hơn. Đặc tính chính trị, cùng với hơn một trăm năm tách biệt vở Trung Quốc đại lục đã khiến cho văn hóa truyền thống cũng có nhiều khác biệt trong nhiều lĩnh vực, như ẩm thực và âm nhạc.
Tình trạng của văn hóa Đài Loan đang là đề tài tranh luận. Người ta mâu thuẫn với nhau khi xếp loại văn hóa Đài Loan là một dạng văn hóa địa phương Trung Hoa hay là một nền văn hóa riêng. Nói đã trở thành một biểu tượng cho phong trào địa phương hóa và là tượng trưng cho đặc điểm của người Đài Loan.
Một trong các sức hút lớn nhất của Đài Loan là Bảo tàng Cung điện Quốc gia, nơi đây lưu giữ 650.000 hiện vật đồ đồng, ngọc bích, tư pháp, thư họa và gốm sứ Trung Hoa và được coi là một trong là một trong các bộ sưu tầm lớn nhất của nghệ thuật và đồ cổ Trung Hoa trên toàn thế giới . Quốc Dân Đảng đã di chuyển bộ sưu tầm này từ ở năm 1949 khi họ chạy đến Đài Loan. Bộ sưu tầm này ước tính chiếm tới khoảng 1/10 kho tàng văn hóa Trung Hoa và chỉ 1% trong số đó được thay phiên nhau trưng bày. cho rằng bộ sưu tầm này đã bị ăn cắp và chúng thuộc về Trung Quốc về mặt luật pháp, nhưng Đài Loan trên thực tế đã bảo vệ được chúng khỏi những cuộc phá hoại nếu chúng còn nằm ở đại lục, đặc biệt là trong thời kỳ .
Karaoke, một hình thức giải trí của văn hóa Nhật Bản, vô cùng phổ biến tại Đài Loan, tại đây chúng được gọi là KTV. Ngành kinh doanh KTV hoạt động giống như mô hình một khách sạn, được chia thành các phòng nhỏ và phòng khiêu vũ phù hợp với số khách trong nhóm. Nhiều KTV hợp tác với các nhà hàng, quán giải khát để tổ chức các hoạt động phục vụ đầy đủ cho các gia đình, bạn bè hoặc bạn kinh doanh.
Kinh tế[ | ]
Đài Loan đã công nghiệp hóa một cách nhanh chóng trong nửa cuối của thế kỷ 20, và điều này được mệnh danh là "Thần kỳ Đài Loan" (台灣奇蹟 Đài Loan cơ tích). Đài loan cùng với , và được gọi là bốn con rồng châu Á (hay 4 con hổ Châu Á).
Năm 1962, Đài Loan có thu nhập quốc dân (GNP) đầu người là 170 đô là Mỹ, chỉ tương được với và . Năm 2008 thu nhập quốc dân đầu người đã lên tới 33.000 đô là Mỹ, Chỉ số Phát triển Con người (HDI) cũng tương đương với các nước phát triển. HDI của Đài Loan năm 2007 là 0,943 (xếp thứ 27, rất cao) , và 0,868 năm 2010 (xếp thứ 18, rất cao) theo cách tính mới của Liên Hiệp Quốc.
Đài Loan ngày nay có một nền kinh tế năng động, tư bản, dựa vào xuất khẩu đi cùng với việc dần dần giảm sự can dự của nhà nước trong đầu tư và thương mại quốc tế. Một số ngân hàng và các hãng công nghiệp lớn do chính quyền điều hành đã được tư nhân hóa. Tăng trưởng GDP thực trung bình là 8% trong suốt gần 3 thập kỷ gần dây. Xuất khẩu là động lực chính cho công nghiệp hóa. Thặng dư thương mại khá lớn và dự trữ ngoại hối của Đài Loan đứng thứ 5 thế giới tỉnh đến 31 tháng 12 năm 2007
Đóng góp của nông nghiệp trong nền kinh tế Đài Loan là rất nhỏ, chỉ chiếm 2% so với 35% vào năm 1952. Từ những năm 1980, các ngành công nghiệp sử dụng nhiều nhân công đã dần di dời ra hải ngoại và được thay thế với các ngành đòi hỏi tính kỹ thuật cũng như vốn đầu tư lớn. Các khu công nghệ cao đã có mặt tại tất cả các vùng tại Đài Loan. Đài Loan trở thành một trong các nhà đầu tư nước ngoài chính tại , , , , và . Theo ước tính năm 2003, có khoảng 50.000 doanh nhân và người làm ăn cũng như gia đình của họ sống tại CHNDTH
------------------------------------------------------------------------------------
EM DỐT CHÍNH TRỊ, CHO EM HỎI CÂU NÀY:
- TẠI SAO ĐÀI LOAN LÀ MỘT ĐẢO NHỎ MÀ TRUNG QUỐC KHÔNG LÀM GÌ ĐC TRONG BAO NHIÊU NĂM, MÀ NÓ LẠI QUAY QUA GÂY SỰ VỚI VIỆT NAM? BÍ QUYẾT LÀ GÌ?
KimCa
22/07/2014
vietnamconcrete
22/07/2014
KimCa
22/07/2014
hamzui9
22/07/2014
KimCa
22/07/2014
hamzui9, on 22/07/2014 - 13:20, said:
Em thấy mấy chiến sỹ trên diễn đàn tuvilyso mần kiểu này anh ơi
Đây là biện pháp đấu tranh qua mạng internet. Để người dân trong nước đề cao tinh thần yêu nước chống ngoại xâm. Đồng thời thông báo cho bạn bè thế giới biết đến chính sách và mong muốn của người dân VN qua các tờ báo mạng. Tự do ngôn luận.
hamzui9
22/07/2014
Management, on 22/07/2014 - 13:24, said:
Đây là biện pháp đấu tranh qua mạng internet. Để người dân trong nước đề cao tinh thần yêu nước chống ngoại xâm. Đồng thời thông báo cho bạn bè thế giới biết đến chính sách và mong muốn của người dân VN qua các tờ báo mạng. Tự do ngôn luận.
KimCa
22/07/2014
hamzui9, on 22/07/2014 - 13:29, said:
Mình không dành về chính trị lắm, chỉ biết thấy trên mạng tuyên truyền bức tranh trên với tên gọi " Anh hùng bàn phím" thôi
Dân số VN trẻ, tỷ lệ người dưới 35t rất cao, hàng đầu khu vực và trên thế giới, vì vậy tỷ lệ người dùng internet chiếm tỷ lệ cao trong dân số. cùng với đó là sự ưa chuộng công nghệ của giới trẻ. các anh hùng bàn phím chính là những người góp phần phát triển lớn mạnh về Công nghệ thông tin ở VN, nhất là công nghiệp xuất bản phần mềm.
hamzui9
22/07/2014
Management, on 22/07/2014 - 13:33, said:
Dân số VN trẻ, tỷ lệ người dưới 35t rất cao, hàng đầu khu vực và trên thế giới, vì vậy tỷ lệ người dùng internet chiếm tỷ lệ cao trong dân số. cùng với đó là sự ưa chuộng công nghệ của giới trẻ. các anh hùng bàn phím chính là những người góp phần phát triển lớn mạnh về Công nghệ thông tin ở VN, nhất là công nghiệp xuất bản phần mềm.
Mana hiểu theo nghĩa vậy cũng được, tiếc mình hiểu theo nghĩa khác
Sáng giờ mới được cười, gặp anh Vietnam với Mana lại thích nghịch chút chút
KimCa
22/07/2014
hamzui9
22/07/2014
KimCa
22/07/2014
hamzui9
22/07/2014
vietnamconcrete
22/07/2014
Management, on 22/07/2014 - 14:01, said:
hamzui là nữ mà. Chỉ sợ có anh lại nhầm là nam thôi. có khi lại nhầm cả 2 ý chứ
oh thế ra đằng ấy là nữ ah? Đang tính get, hóa ra là nữ lại thôi.
· ·
·
'Thu nhập người Việt lẽ ra phải cao hơn gấp 5 lần'
Báo cáo môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới vừa xếp Việt Nam vào hạng 99/189 nước.
Các báo trong nước dẫn lời ông Olin McGill, chuyên gia của USAID, cho rằng ở mức xếp hạng này, lẽ ra thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam phải đạt 7.545 đôla/năm, thay vì chỉ 1.400 đôla như hiện nay.
“Nguyên nhân chủ yếu là do điều hành không hiệu quả”, ông McGill nói.
Ông lấy ví dụ mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải tiêu tốn đến 872 giờ/ năm cho việc nộp thuế.
McGill cho rằng con số này là “quá sức tưởng tượng”, vì theo kinh nghiệm của ông, “nước kém nhất cũng chỉ mất khoảng 300 giờ”.
Một ví dụ khác là thủ tục hải quan rườm rà đang gây ra những thiệt hại lớn cho tổng kim ngạch thương mại.
Chỉ cần nhập khẩu hay xuất khẩu bị tắc lại 1 ngày thì sẽ ảnh hưởng tới 1% tổng kim ngạch Việt Nam, ông McGill cho biết.
Trong khi đó, thời gian ách tắc hiện nay là đến 21 ngày, ước tính gây thất thoát 15% tổng kim ngạch thương mại.
Người Mỹ bảy năm mới khám bệnh
Claire Bolderson
BBC News, Kentucky, Hoa Kỳ
Cập nhật: 13:19 GMT - thứ hai, 21 tháng 7, 2014
Cải cách y tế của Tổng thống Obama là đạo luật quốc nội căn bản và cũng gây tranh cãi nhất của ông.
Nó gặp phải những phản kháng chính trị mạnh mẽ và vẫn tiếp tục bị thách thức về luật pháp.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Nhưng hàng triệu người đã đăng ký tham gia "Obamacare" [tên gọi bình dân của cải cách y tế của ông Obama] trong năm đầu tiên và có được dịch vụ y tế mà trước đây họ không đủ tiền chi trả.
Liberty Sizemore ngồi ngả người vào ghế với gương mặt rạng rỡ.
Cô gái 26 tuổi làm nghề thu ngân tại trạm xăng vừa được thông báo đăng ký tham gia Obamacare của cô đã hoàn tất.
Giờ cô có thể hẹn gặp bác sỹ lần đầu tiên trong bảy năm qua.
"Tôi vui lắm," cô Sizemore nói trong lúc chờ vào phòng khám ở Grace Community Health Centre tại Hạt Clay ở bang Kentucky.
"Tôi không có bảo hiểm y tế từ khi 19 tuổi."
Nhưng cô Sizemore cũng lo lắng. Cô bị béo phì và từ lúc còn thiếu niên đã bị cảnh báo có thể sẽ bị tiểu đường về sau này.
Vì không có bảo hiểm y tế, cô không đủ tiền để đi khám và xét nghiệm để xem có bị tiểu đường không.
"Tôi chỉ tới bệnh viện khi nguy cấp," cô nói. Hiện giờ Sizemore vẫn đang phải trả khoản 10.000 đô la phí cắt ruột thừa cách đây hai năm.
"Viện phí là thứ đang nằm trong thẻ tín dụng của tôi," cô thở dài.
Sizemore là một trong số 421.000 người ở Kentucky đã đăng ký tham gia kể từ khi Luật Bảo vệ Bệnh nhân và Chăm sóc sức khỏe Hợp túi tiền, vẫn được gọi là Obamacare, có hiệu lực từ tháng Mười năm ngoái.
Giống như nhiều người khác, cô đủ điều kiện tham gia Medicaid, chương trình của chính phủ nhằm trả phí y tế cho những người nghèo nhất ở Hoa Kỳ.
Theo luật mới, chính quyền trung ương cấp ngân quỹ cho các tiểu bang để mở rộng Medicaid tới cho nhiều người hưởng lương thấp hơn, như Liberty Sizemore.
Ngoài ra chính quyền cũng cấp tiền để tạo ra những thị trường mua bán bảo hiểm mới ở cấp tiểu bang để người Mỹ có thể lựa chọn bảo hiểm y tế tư.
Một số bảo hiểm y tế được chính quyền trợ cấp ở mức cao tùy thuộc vào thu nhập của người dân.
Không ưa Tổng thống
Kentucky là một trong số ít bang - và là bang duy nhất ở miền Nam - nhận tiền của Washington và thực hiện mọi cải cách.
Nhưng họ đã làm thế mà không vồ vập chính người được đặt tên cho chương trình y tế.
"Tổng thống không được ưa chuộng lắm ở bang này," Thống đốc Steven Beshear thuộc phe Dân chủ nói.
Ông Beshear chỉ ra rằng chỉ có 34% người dân tiểu bang ủng hộ ông Obama (thấp hơn 8% so với mức toàn quốc).
"Vì thế chúng tôi không bàn về Obamacare," ông nói.
Thay vào đó các quan chức rất nhiệt tình nói về thị trường giao dịch bảo hiểm của chính Kentucky, Kynect.
Thống đốc tin rằng chiến lược của ông đã thành công.
"Ngay từ ngày đầu đã có rất nhiều người tới đăng ký và từ đó tới nay vẫn thế."
Nhưng những ngần ngại về cuộc cải cách y tế lớn nhất ở Hoa Kỳ trong 50 năm qua vẫn còn đó - ngay cả trong số những người được hưởng lợi nhiều nhất.
Thợ làm đầu Sadie Smith đã đăng ký tham gia nhưng, cô hy vọng, đây chỉ là biện pháp tạm thời.
Bảo hiểm y tế của gia đình cô biến mất khi chồng cô mất việc.
Hầu hết người Mỹ có bảo hiểm y tế qua nơi làm việc với chủ lao động và người được tuyển dụng chia sẻ chi phí.
Vừa hoàn tất những chỉnh sửa cuối cùng trên mái tóc khách hàng trong salon nhỏ ở Manchester, Kentucky, cô Smith nói cô biết ơn Obamacare.
Nhưng cô không thấy thoải mái.
"Nó làm tôi sợ. Chính quyền muốn kiểm soát mọi thứ của mọi người - từ tài chính tới bảo hiểm, đều là kiểm soát cả."
Cảm giác như thế này cũng chính là lý do khiến một quy định khác của chương trình Obamacare bị phản đối: mọi người đều phải có bảo hiểm y tế nếu không sẽ bị phạt.
Những người khác tức giận vì các dịch vụ y tế tư khác mà họ thích lại bị hủy vì không phù hợp với tiêu chuẩn Obamacare.
[indent]
"Nó làm cho nhiều người mất bảo hiểm [y tế] hơn là được."
Robert Stivers, Chủ tịch Thượng viện Kentuckty[/indent]
Những quy định mới đòi hỏi bảo hiểm y tế phải mở rộng hơn để bao gồm cả những xét nghiệm phòng bệnh.
"Nó làm cho nhiều người mất bảo hiểm [y tế] hơn là được" - đó là bình luận của ông Robert Stivers, Chủ tịch Thượng viện Kentuckty, người thuộc phe Cộng hòa.
Thượng nghị sỹ Stivers cho rằng phí bảo hiểm sẽ tăng đáng kể "vì những bảo hiểm bắt buộc này."
Ông cũng lo ngại về chi phí mà bang phải gánh chịu về lâu dài.
Trước mắt chính quyền liên bang hiện đang chi trả cho những dịch vụ liên quan tới Obamacare.
Nhưng Kentucky sẽ bắt đầu đóng góp 10% bắt đầu từ năm 2017.
Không giống nhiều đồng nghiệp thuộc Đảng Cộng hòa ở Kentucky và Washington DC, Thượng nghị sỹ Stivers không kêu gọi bãi bỏ hoàn toàn Obamacare.
"Điều chúng tôi muốn là giải pháp thay thế hợp lý," ông nói.
Điều này bao gồm việc hủy việc mở rộng và trợ cấp Medicaid cũng như bỏ toàn bộ những bảo hiểm bắt buộc.
'Thực sự hữu ích'
Nhưng Thống đốc Steven Beshear không đồng tình với ông Stivers.
"Giờ chúng tôi có 421.000 người ở Kentucky, cũng chính là các cử tri, đăng ký thụ hưởng theo luật và họ thích những gì họ thụ hưởng," ông nói.
"Vì thế người ta sẽ không lấy đi được bảo hiểm của họ."
Bà Benita Adams có thể là một trong số những người mà Thống đốc muốn nói tới.
Bà năm nay 62 tuổi và sống ở vùng Núi Appalachia ở miền đông Kentucky.
Bà sở hữu nhà nhưng phải làm trợ lý nha khoa ở hai nơi khác nhau để có đủ thu nhập.
Bà không bỏ phiếu cho Tổng thống Obama.
Bà Adams không có bảo hiểm y tế từ khi ly dị cách đây 30 năm.
Cuộc phẫu thuật tim gần đây của bà tốn tới 67.000 đô la.
Cho dù bệnh viện đã miễn cho bà một nửa số tiền này, bà vẫn phải trả mỗi tháng 50 đô la để thanh toán dần phần còn lại.
"Tôi từng nói nếu tôi đau ốm hãy để tôi chết vì tôi không thể trả thêm tiền viện phí nữa," bà nói.
Nhưng giờ bà Adams không còn phải lo lắng nữa.
Theo chương trình Obamacare, bà đủ tiêu chuẩn có bảo hiểm y tế tư mà chính phủ trả toàn bộ tiền đóng góp hàng tháng.
[indent]
"Mọi người tức giận vì Obamacare nhưng đó là điều tuyệt vời, nó thực sự hữu ích."
Bà Benita Adams[/indent]
"Mọi người tức giận vì Obamacare nhưng đó là điều tuyệt vời, nó thực sự hữu ích," bà Adams nói và kể ra những cuộc hẹn khám bệnh mà bà có được kể từ khi có bảo hiểm.
Dĩ nhiên ông Obama không thể ra tranh cử tổng thống thêm nữa.
Nhưng giả thử ông có thể làm vậy thì bà Adams có bỏ phiếu cho ông không?
"Chắc chắn là tôi sẽ cân nhắc chuyện đó," bà nói.
"Đó là điều hay nhất mà ông ấy làm được."
Cô Liberty Sizemore, hiện đang đợi kết quả thử máu từ Trung tâm Y tế Cộng đồng Grace, cũng chia sẻ cảm giác này.
Khi được y tá báo tin tốt lành, cô thở dài.
Cô đã tiến tới sát ranh giới của bệnh tiểu đường nhưng vẫn chưa mắc bệnh.
Giọng cô run lên khi cô nói nhỏ "Thật nhẹ cả người."
Và cô bắt đầu khóc khi y tá hướng dẫn cô cách để cải thiện sức khỏe.
"Tôi từng rất lo lắng," cô nói. "Nhưng giờ tôi sẽ khá lên vì có bác sỹ. Tôi có bác sỹ và thế là tôi mất đi gánh nặng mà bà khó biết được."
---------------------------------------------------------------------------
NƯỚC MỸ QUÁ LẠC HẬU, GIỜ MỚI CÓ VỤ OBAMACARE GÌ ĐÓ, VIỆT NAM ĐÃ CÓ KIM TIẾN'S CARE TỪ LÂU RỒI.
vietnamconcrete
22/07/2014
Cấm bán rượu bia sau 10h đêm: Người uống cũng phạt
Chủ Nhật, ngày 20/07/2014 00:05 AM (GMT+7)
Dự thảo luật phòng chống tác hại của rượu bia, Bộ Y tế đề xuất cấm bán rượu sau 10h đêm, người uống rượu sau khung giờ này cũng có thể bị phạt.
Bộ Y tế vừa ban hành Dự thảo luật Phòng chống tác hại của rượu bia. Theo đó, người bán rượu bia sau 10h có thể bị cấm. Xung quanh vấn đề này, chúng tôi có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế.
Bộ Y tế vừa có đề xuất cấm người bán rượu bia sau 10h đêm, theo đó, những người bán rượu bia sau khoảng thời gian này có thể bị phạt. Vậy, căn cứ vào đâu Bộ Y tế đưa ra đề xuất này, thưa ông?
Phòng chống tác hại thuốc lá và tác hại rượu bia là hai vấn đề quan trọng trong dự thảo phòng chống các bệnh không lây nhiễm. Đối với rượu bia nếu uống mức độ vừa phải, trong hàm lượng cho phép phù hợp với thể chất con người Việt Nam sẽ tốt cho sức khỏe. Nếu lạm dụng dẫn tới nghiện, gây tác hại lớn đối với sức khỏe người sử dụng
Đặc biệt các bệnh liên quan đến tâm thần, gan, sức khỏe tình dục. Lạm dụng rượu bia có thể gây rối loạn về hành vi, dẫn đến không kiểm soát hành vi, gây bạo lực gia đình, thậm chí đánh nhau dẫn đến chết người.
Sử dụng rượu, bia trong khoảng thời gian từ 22h đến 24h dễ dẫn tới tình trạng gây mất trật tự xã hội, vi phạm nếp sống văn minh trong hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá nơi công cộng. Vì vậy, trên cơ sở kinh nghiệm pháp luật quốc tế và tình hình sử dụng rượu, bia tại Việt Nam nhiều chuyên gia đề xuất quy định không được bán rượu bia sau 22h trong Luật Phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia.
Có ý kiến cho rằng, Bộ Y tế đề xuất cấm bán rượu bia từ 22h đến 24h là không hợp lý, ông nghĩ sao?
Tôi phải đính chính, Bộ Y tế đề xuất cấm bán rượu bia từ 22h đến 6h sáng hôm sau chứ không phải từ 22h đến 24h.
Vậy tại sao Bộ Y tế lại cấm bán rượu bia sau 22h chứ không phải trước và sau khoảng thời gian đó, thưa ông?
Sở dĩ chúng tôi đề xuất cấm bán rượu bia sau 22h tại Việt Nam vì đa số các nước trên thế giới đều có quy định cấm bán rượu bia sau 22h. Cụ thể: Theo luật của Lithuania việc mua bán đồ uống có cồn tại các cơ sở phục vụ thương mại và công cộng chỉ được cho phép từ 11h sáng tới 6h sáng ngày hôm sau (việc mua bán bia được cho phép từ 8h sáng). Thuế tăng gấp đôi nếu là cơ sở thương mại thực hiện hoạt động mua bán đồ uống có cồn sau 10 giờ tối, và sau 12h tối đối với cơ sở công cộng.
Thổ Nhĩ Kỳ cấm bán rượu tại siêu thị và các góc của cửa hàng từ 22h đến 6h. Tại Nauy rượu, rượu bia cũng được bán vào những khoảng thời gian nhất định. Thời gian này có thể thay đổi nhưng không muộn hơn 8h tối vào các ngày thường và 6h tối ngày thứ bảy và các ngày lễ. Các cửa hàng, siêu thị không được bán rượu vào chủ nhật, ngày lễ và ngày bầu cử hoặc ngày trưng cầu dân ý và ngày mùng 1 và 17 tháng 5. Ngoài ra, một số bang của Mỹ cũng quy định về thời gian cấm bán rượu,bia, như: Texas.
Ngay cả Việt Nam hiện đã có quy định không được bán rượu trong quán karaoke, vũ trường sau 24 giờ để tránh mất an ninh trật tự.
Có ý kiến cho rằng, các nhà xây dựng luật thường theo tư duy “không quản được thì cấm”. Phải chăng quy định này của Bộ Y tế cũng như vậy?
Hiện nay chưa có quy định xử phạt người bán rượu bia sau 22h. Trên thực tế có rất nhiều quy định, nhưng người dân thực hiện không nghiêm. Dự thảo cấm bán rượu bia sau 22h muốn khả thi còn phụ thuộc vào ý thức tự giác của mỗi người và trách nhiệm công dân.
Bất kể Luật nào đưa ra cũng phụ thuộc vào ý thức chấp hành của người dân. Chúng tôi đề xuất thanh tra, kiểm tra thường xuyên, phát hiện sai phạm xử phạt nghiêm, thậm chí rút giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Như ông nói, người bán rượu bia sau 22h có thể bị cấm và xử phạt. Vậy, người uống rượu bia sau 22h có bị xử phạt không, thưa ông?
Người uống chưa có quy định xử phạt, đây là Luật nội dung, còn khi xây dựng Luật hình thức sẽ có cân nhắc xử phạt người uống rượu bia sau 22h. Tất nhiên, người dân mua về nhà uống không có ai cấm.
Hiện nay Việt Nam đang cấm rất nhiều hoạt động về đêm. Nay lại có thêm lệnh cấm bán rượu bia sau 22h đêm nên khó khả thi. Ông nghĩ sao?
Đây mới là dự thảo lần 1 về luật phòng chống tác hại rượu bia của Bộ Y tế. Luật sẽ còn thay đổi rất nhiều. Để đảm bảo tính khách quan, khả thi, Tổ biên tập phải tổng hợp tất cả những ý kiến, quan điểm, đề xuất. Những nội dung này sẽ được đánh
giá tác động và được hoàn thiện theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trước khi xin ý kiến các tổ chức, cá nhân có liên quan. Chúng tôi sẽ chỉ nghiên cứu, lựa chọn và chỉ trình Chính phủ, Quốc hội những quy định thật sự phù hợp sau khi lấy ý kiến rộng rãi.
Trên thực tế, các cửa hàng bán rượu bia ở khắp các đường phố, ngõ ngách. Vậy, làm sao để kiểm soát những cửa hàng nhỏ lẻ này, thưa ông?
Thanh tra quản lý thị trường, thanh tra y tế, chủ tịch UBND các cấp đều có quyền xử phạt. Nếu Luật làm nghiêm, lập tức người dân sẽ thay đổi.
Kiểm soát có nghị định kinh doanh rượu đã có quy hoach để khống chế. Còn bia, uống 1 lon bia 330 tương đương 1 ly rượu, uống 3 lon bia mới vượt quá giới hạn cho phép.
Xin chân thành cảm ơn ông!
Việt Nam là nước tiêu thụ bia cao thứ 3 tại châu Á (sau Nhật Bản và Trung Quốc). Trong 10 năm qua tốc độ tiêu thụ bia của người Việt Nam đã tăng hơn 200%. Có đến đến 90% đàn ông Việt Nam uống rượu, bia; trong đó 1/4 trong số này sử dụng rượu, bia ở mức độ có hại. Có tới 4,4% người dân Việt Nam phải gánh chịu bệnh tật do hậu quả của rượu, bia mang lại. Rượu, bia là nguyên nhân trực tiếp của gần 40 loại bệnh, và là nguyên nhân gián tiếp của nhiều loại bệnh khác
Theo thống kê của Viện Chiến lược chính sách y tế, có tới 4,4% người dân Việt Nam phải gánh chịu bệnh tật do hậu quả của rượu, bia mang lại. Điều tra về sức khoẻ vị thành niên và thanh niên (14-15 tuổi) cho thấy 69% nam và 28% nữ từng uống bia, rượu.
-------------------------------------------
NẾU CHUYỆN CẤM BÁN BIA SAU 22H MÀ TRỞ THÀNH HIỆN THỰC, DỰ BÁO LÀ MÁY BÁN HÀNG TỰ ĐỘNG RƯỢU BIA SẼ LÊN NGÔI...
Chủ Nhật, ngày 20/07/2014 00:05 AM (GMT+7)
Dự thảo luật phòng chống tác hại của rượu bia, Bộ Y tế đề xuất cấm bán rượu sau 10h đêm, người uống rượu sau khung giờ này cũng có thể bị phạt.
Bộ Y tế vừa ban hành Dự thảo luật Phòng chống tác hại của rượu bia. Theo đó, người bán rượu bia sau 10h có thể bị cấm. Xung quanh vấn đề này, chúng tôi có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế.
Bộ Y tế vừa có đề xuất cấm người bán rượu bia sau 10h đêm, theo đó, những người bán rượu bia sau khoảng thời gian này có thể bị phạt. Vậy, căn cứ vào đâu Bộ Y tế đưa ra đề xuất này, thưa ông?
Phòng chống tác hại thuốc lá và tác hại rượu bia là hai vấn đề quan trọng trong dự thảo phòng chống các bệnh không lây nhiễm. Đối với rượu bia nếu uống mức độ vừa phải, trong hàm lượng cho phép phù hợp với thể chất con người Việt Nam sẽ tốt cho sức khỏe. Nếu lạm dụng dẫn tới nghiện, gây tác hại lớn đối với sức khỏe người sử dụng
Đặc biệt các bệnh liên quan đến tâm thần, gan, sức khỏe tình dục. Lạm dụng rượu bia có thể gây rối loạn về hành vi, dẫn đến không kiểm soát hành vi, gây bạo lực gia đình, thậm chí đánh nhau dẫn đến chết người.
Sử dụng rượu, bia trong khoảng thời gian từ 22h đến 24h dễ dẫn tới tình trạng gây mất trật tự xã hội, vi phạm nếp sống văn minh trong hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá nơi công cộng. Vì vậy, trên cơ sở kinh nghiệm pháp luật quốc tế và tình hình sử dụng rượu, bia tại Việt Nam nhiều chuyên gia đề xuất quy định không được bán rượu bia sau 22h trong Luật Phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia.
Có ý kiến cho rằng, Bộ Y tế đề xuất cấm bán rượu bia từ 22h đến 24h là không hợp lý, ông nghĩ sao?
Tôi phải đính chính, Bộ Y tế đề xuất cấm bán rượu bia từ 22h đến 6h sáng hôm sau chứ không phải từ 22h đến 24h.
Vậy tại sao Bộ Y tế lại cấm bán rượu bia sau 22h chứ không phải trước và sau khoảng thời gian đó, thưa ông?
Sở dĩ chúng tôi đề xuất cấm bán rượu bia sau 22h tại Việt Nam vì đa số các nước trên thế giới đều có quy định cấm bán rượu bia sau 22h. Cụ thể: Theo luật của Lithuania việc mua bán đồ uống có cồn tại các cơ sở phục vụ thương mại và công cộng chỉ được cho phép từ 11h sáng tới 6h sáng ngày hôm sau (việc mua bán bia được cho phép từ 8h sáng). Thuế tăng gấp đôi nếu là cơ sở thương mại thực hiện hoạt động mua bán đồ uống có cồn sau 10 giờ tối, và sau 12h tối đối với cơ sở công cộng.
Thổ Nhĩ Kỳ cấm bán rượu tại siêu thị và các góc của cửa hàng từ 22h đến 6h. Tại Nauy rượu, rượu bia cũng được bán vào những khoảng thời gian nhất định. Thời gian này có thể thay đổi nhưng không muộn hơn 8h tối vào các ngày thường và 6h tối ngày thứ bảy và các ngày lễ. Các cửa hàng, siêu thị không được bán rượu vào chủ nhật, ngày lễ và ngày bầu cử hoặc ngày trưng cầu dân ý và ngày mùng 1 và 17 tháng 5. Ngoài ra, một số bang của Mỹ cũng quy định về thời gian cấm bán rượu,bia, như: Texas.
Ngay cả Việt Nam hiện đã có quy định không được bán rượu trong quán karaoke, vũ trường sau 24 giờ để tránh mất an ninh trật tự.
Có ý kiến cho rằng, các nhà xây dựng luật thường theo tư duy “không quản được thì cấm”. Phải chăng quy định này của Bộ Y tế cũng như vậy?
Hiện nay chưa có quy định xử phạt người bán rượu bia sau 22h. Trên thực tế có rất nhiều quy định, nhưng người dân thực hiện không nghiêm. Dự thảo cấm bán rượu bia sau 22h muốn khả thi còn phụ thuộc vào ý thức tự giác của mỗi người và trách nhiệm công dân.
Bất kể Luật nào đưa ra cũng phụ thuộc vào ý thức chấp hành của người dân. Chúng tôi đề xuất thanh tra, kiểm tra thường xuyên, phát hiện sai phạm xử phạt nghiêm, thậm chí rút giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Ông Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế.
Như ông nói, người bán rượu bia sau 22h có thể bị cấm và xử phạt. Vậy, người uống rượu bia sau 22h có bị xử phạt không, thưa ông?
Người uống chưa có quy định xử phạt, đây là Luật nội dung, còn khi xây dựng Luật hình thức sẽ có cân nhắc xử phạt người uống rượu bia sau 22h. Tất nhiên, người dân mua về nhà uống không có ai cấm.
Hiện nay Việt Nam đang cấm rất nhiều hoạt động về đêm. Nay lại có thêm lệnh cấm bán rượu bia sau 22h đêm nên khó khả thi. Ông nghĩ sao?
Đây mới là dự thảo lần 1 về luật phòng chống tác hại rượu bia của Bộ Y tế. Luật sẽ còn thay đổi rất nhiều. Để đảm bảo tính khách quan, khả thi, Tổ biên tập phải tổng hợp tất cả những ý kiến, quan điểm, đề xuất. Những nội dung này sẽ được đánh
giá tác động và được hoàn thiện theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trước khi xin ý kiến các tổ chức, cá nhân có liên quan. Chúng tôi sẽ chỉ nghiên cứu, lựa chọn và chỉ trình Chính phủ, Quốc hội những quy định thật sự phù hợp sau khi lấy ý kiến rộng rãi.
Trên thực tế, các cửa hàng bán rượu bia ở khắp các đường phố, ngõ ngách. Vậy, làm sao để kiểm soát những cửa hàng nhỏ lẻ này, thưa ông?
Thanh tra quản lý thị trường, thanh tra y tế, chủ tịch UBND các cấp đều có quyền xử phạt. Nếu Luật làm nghiêm, lập tức người dân sẽ thay đổi.
Kiểm soát có nghị định kinh doanh rượu đã có quy hoach để khống chế. Còn bia, uống 1 lon bia 330 tương đương 1 ly rượu, uống 3 lon bia mới vượt quá giới hạn cho phép.
Xin chân thành cảm ơn ông!
Việt Nam là nước tiêu thụ bia cao thứ 3 tại châu Á (sau Nhật Bản và Trung Quốc). Trong 10 năm qua tốc độ tiêu thụ bia của người Việt Nam đã tăng hơn 200%. Có đến đến 90% đàn ông Việt Nam uống rượu, bia; trong đó 1/4 trong số này sử dụng rượu, bia ở mức độ có hại. Có tới 4,4% người dân Việt Nam phải gánh chịu bệnh tật do hậu quả của rượu, bia mang lại. Rượu, bia là nguyên nhân trực tiếp của gần 40 loại bệnh, và là nguyên nhân gián tiếp của nhiều loại bệnh khác
Theo thống kê của Viện Chiến lược chính sách y tế, có tới 4,4% người dân Việt Nam phải gánh chịu bệnh tật do hậu quả của rượu, bia mang lại. Điều tra về sức khoẻ vị thành niên và thanh niên (14-15 tuổi) cho thấy 69% nam và 28% nữ từng uống bia, rượu.
Diệu Thu
-------------------------------------------
NẾU CHUYỆN CẤM BÁN BIA SAU 22H MÀ TRỞ THÀNH HIỆN THỰC, DỰ BÁO LÀ MÁY BÁN HÀNG TỰ ĐỘNG RƯỢU BIA SẼ LÊN NGÔI...


