Ls. Tạ Văn Tài - KỲ 1: Việt Nam có đủ luận cứ công pháp quốc tế
Theo
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
QĐND - Phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc phỏng vấn với Tiến sĩ Tạ Văn Tài, luật sư, cựu giảng viên và hiện đang là nghiên cứu viên tại Trường Luật Harvard (Mỹ) về những cơ sở pháp lý và lịch sử cho thấy Trung Quốc đã vi phạm như thế nào khi hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở Biển Đông.
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Tiến sĩ Tạ Văn Tài. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Luật quốc tế khẳng định chắc chắn các quyền của Việt Nam ở Biển Đông
Phóng viên (PV): Xin Tiến sĩ cho biết những quyền lợi của Việt Nam tại Biển Đông theo Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982)?
Tiến sĩ Tạ Văn Tài: Có hai loại quyền lợi quốc gia của Việt Nam tại Biển Đông chiếu theo Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982. Thứ nhất là chủ quyền lãnh thổ trên nhiều đảo và bãi đá tại hai vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam đã tuyên bố và thực thi chủ quyền trong quá khứ theo đúng luật quốc tế truyền thống đã có từ mấy trăm năm, cho đến khi một số địa điểm bị Trung Quốc chiếm đóng bằng bạo lực. Thứ hai, Việt Nam có lợi ích hay quyền đối với những vùng nước và đáy biển dưới mặt nước tại Biển Đông, gồm có quyền chủ quyền khai thác tài nguyên sinh vật như cá biển và phi sinh vật như quặng mỏ, kim loại hay dầu khí ở đáy biển, trong vùng dưới mặt nước gọi là Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng 200 hải lý tính từ mực nước thủy triều thấp nhất (gọi là đường cơ sở) chạy ra ngoài biển tới 200 hải lý (Điều 56 và 57 UNCLOS); và trong Vùng thềm lục địa, tức mặt đáy biển và đất dưới đáy biển đi ra tới bờ của lục địa hay tới khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở (Điều 76 và 77 UNCLOS).
Hơn nữa, cần nhấn mạnh là theo UNCLOS, các quyền chủ quyền trên trong vùng EEZ và Thềm lục địa của Việt Nam là dành riêng hay độc quyền (exclusive) của quốc gia cận duyên, cho nên Việt Nam trong vùng EEZ, có chủ quyền xây các kiến trúc nhân tạo trên các bãi đá thành những đảo nhân tạo, nghiên cứu biển, quy định bảo vệ môi sinh, miễn là tôn trọng quyền các quốc gia khác về tự do lưu thông hàng hải, đặt dây cáp và ống dẫn dầu khí của các nước khác (Điều 56 và 58 UNCLOS). Và trong thềm lục địa, Việt Nam cũng đương nhiên có quyền độc quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên mà không cần tuyên bố hay chiếm hữu, và các quốc gia khác không thể có các hoạt động khai thác tài nguyên mà không có sự minh thị đồng ý của Việt Nam (Điều 77 UNCLOS).
Vì vậy, theo tôi, khi đấu tranh với Trung Quốc về cơ sở pháp lý, ta nên tuyên bố rõ và nhấn mạnh rằng, luật quốc tế đã khẳng định chắc chắn như “đinh đóng cột” các quyền của Việt Nam ở Biển Đông.
Tránh viện dẫn "đường lưỡi bò" vô căn cứ
PV: Vậy xin ông chỉ rõ hơn về những vi phạm của Trung Quốc đối với Công ước UNCLOS 1982?
Tiến sĩ Tạ Văn Tài: Trung Quốc là một quốc gia duyên hải đã đơn phương ngăn chặn tự do lưu thông với việc tạo ra một vòng vây rộng lớn các tàu chiến và hải giám xung quanh giàn khoan Hải Dương 981. Hành động này đã vi phạm Công ước UNCLOS 1982 liên quan đến tự do và quyền hảng hải, hàng không hoặc tự do và quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như đến việc sử dụng biển vào các mục đích khác mà quốc tế thừa nhận.
Một vi phạm khác nữa đó là trong khi chờ đợi các cơ quan tài phán giải quyết, Việt Nam chỉ giới hạn hoạt động tại các lô 118 và 119, thì Trung Quốc đáng lẽ phải tuân theo bước đi thương lượng giải quyết bất đồng với Việt Nam về EEZ và thềm lục địa, với tinh thần hiểu biết và hợp tác kèm theo những biện pháp tạm thời, thì Trung Quốc lại có các hành động lấn lướt, khiêu khích ở Biển Đông. Đó là chưa kể hành động của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
PV: Ông đánh giá thế nào về những lập luận mà Trung Quốc đưa ra để biện minh cho hành động hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981?
Tiến sĩ Tạ Văn Tài: Trước hết chúng ta cần hiểu rõ lập luận của Trung Quốc về vị trí giàn khoan Hải Dương 981. Khi đem giàn khoan đến vị trí giữa hai lô dầu 142 và 143 của Việt Nam trong Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ Việt Nam), thì trái với sự bàn luận của một số người, Trung Quốc không dùng cái "đường lưỡi bò" hay "đường chín đoạn" (Nine-dotted Line), vốn không thể nào biện hộ được và bị tất cả các nước và học giả Việt Nam và quốc tế chất vấn, làm cơ sở cho hành động xâm lấn của họ. Có thể thấy, thời gian qua, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã tránh viện dẫn "đường lưỡi bò" vô căn cứ đó.
Mà ở đây, Trung Quốc dựa vào cơ sở vùng EEZ của Trung Quốc để nói rằng giàn khoan “đặt hoàn toàn trong vùng nước của quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc" (thực tế quần đảo này thuộc chủ quyền Việt Nam), ám chỉ trong vòng 200 hải lý của EEZ và thềm lục địa của quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc xâm chiếm của Việt Nam.
Chuẩn bị cho khả năng tiến hành hai vụ kiện
PV: Thưa Tiến sĩ, Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra trước Tòa án quốc tế nào không và chúng ta cần chuẩn bị những gì?
Tiến sĩ Tạ Văn Tài: Theo tôi, chúng ta cần bác lập luận của Trung Quốc về EEZ của Hoàng Sa để đòi quyền được khai thác cho giàn khoan Hải Dương 981 bằng hai vụ kiện. Trong đó, Việt Nam phải trình hồ sơ về hai điểm: Thứ nhất, quần đảo Hoàng Sa không phải thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc mà của Việt Nam. Thứ hai, Hoàng Sa không có mỏm đất/đá nào, kể cả Phú Lâm, xứng đáng được gọi là đảo, tức có người sinh sống với nền kinh tế tự túc trong trạng thái nguyên thủy, sơ khai, mà toàn là đá.
Vụ kiện thứ nhất về chủ quyền lãnh thổ ở Hoàng Sa nếu theo luật quốc tế truyền thống, Việt Nam cần chứng minh theo nguyên tắc luật quốc tế là một chính quyền muốn xác nhận chủ quyền phải có sự liên tục thực thi chủ quyền trong hòa bình và tuyên bố chủ quyền.
Xét các bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam theo luật quốc tế này, thì Việt Nam, trong chiều dài lịch sử từ nhiều thế kỷ, đã xác nhận và thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực vào năm 1974 và bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa phản đối. Sau đó, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng phản đối vụ Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa và phản đối nhiều lần việc Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số đảo ở Trường Sa năm 1988. Vì vậy, không thể coi chủ quyền của Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa đã xói mòn vì thiếu sự tuyên bố và thực thi chủ quyền.
PV: Xin cảm ơn Tiến sĩ!
MỸ HẠNH (thực hiện)
Kỳ 2: Đối sách của Việt Nam là tối ưu
---------------------------------------------------------------------
Sự thật về giàn khoan Hải Dương 981 TQ nhận là "tự chế tạo"
Kỹ sư đóng tàu Đỗ Thái Bình, Hội KHKT Biển TP H.C.M, Thành viên Hội Đóng tàu Mỹ (SNAME) đã chia sẻ một bài viết rất chi tiết về chiếc giàn khoan Hải Dương 981 mà Trung Quốc đang đưa vào vùng biển chủ quyền của Việt Nam.
Chưa bao giờ những câu chuyện về biển cả, tàu thuyền đã xâm nhập vào các gia đình như bây giờ. Từ góc độ thuần túy kỹ thuật đóng tàu, chúng tôi muốn mời các bạn cùng tìm hiểu về cái giàn Haiyang 981, một đối tượng học tập của các trường hiện nay tại các khoa “đóng tàu và các công trình nổi,” tức là muốn nói tới các tàu thuyền và các công trình ngoài khơi (offshore structure)
Tên nào là đúng: HD 981 hay Haiyang 981?
Muốn nói tới tên gọi, ta phải hiểu chủ sở hữu của nó là ai, đó chính là CNOOC theo tên gọi tắt quốc tế của China National Offshore Oil Corporation tức Tổng công ty dầu khí Hải dương Quốc gia Trung Quốc mà tên tiếng Trung là 中国海洋石油总公司; Zhōngguó Háiyáng Shíyóu Zǒnggōngsī, âm Hán Việt là Trung Quốc Hải dương Thạch du .
Các phương tiện của CNOOC đều được đặt tên theo quy tắc sau :
Đi đầu là dòng chữ viết bằng tiếng Trung và phiên âm : 海洋石油 và Haiyang Shiyou để chỉ con tàu này thuộc Tổng Công ty dầu khí Hải dương Trung Quốc, bởi vậy ta nên viết đủ tên hay viết tắt HYSY, không nên biến nó thành tên tiếng Việt như HD.
Theo sau là các chữ số với số đầu chỉ loại thiết bị, ví dụ 1–Các loại kho nổi FPSO; 2-Các tàu công trình; 6-tàu công tác ; 7-tàu địa vật lý ; 9-giàn khoan. Con số thứ hai bổ sung thêm, ví dụ sau số 9 là để chỉ giàn 4-giàn tự nâng ,8-nước sâu như giàn 981,982 (Hiện tại Trung Quốc đang đóng giàn khoan nước sâu thứ 2 là Haiyang Shiyou 982). Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Giàn khoan Haiyang Shiyou 981
Từ đó ta có thể đọc tên và hiểu ý nghĩa các con tàu và công trình ,ví dụ Các kho nổi FPSO như HYSY 113, HYSY117. Tàu công trình định vị nước sâu HYSY 289,HYSY 286. Tàu sà lan HYSY 278, tàu đặt ống nước sâu HYSY201. Tàu công tác nước sâu HYSY 612. Tàu địa vật lý HYSY 720. Giàn tự nâng HYSY942, HYSY 943. Giàn nửa chìm HYSY 981 và đang chuẩn bị đóng chiếc thứ hai HYSY 982.
Đây là giàn khoan nửa chìm, tức là sức nổi được đảm bảo bằng các pông tông ngầm dưới nước. Đặc tính kỹ thuật chủ yếu như sau: Dài 114 mét, rộng 90 mét, chiều cao từ chân tới đỉnh 130 mét bằng chiều cao tòa nhà 40 tầng, tổng trọng lượng 3 vạn tấn, tổng số đường điện đã dùng là 900 km. Giàn sử dụng 8 tổ máy phát điện ,công suất mỗi tổ 5530 CV.Pông tông chìm dưới nước có đặc tính Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
ài 114 mét,rộng 20,12 mét, cao 8,54 mét. Giàn chính thức đi vào hoạt động ngày 26/02/2010.
Có tổng cộng 167 người làm việc cho giàn khoan bao gồm 160 người làm việc ngoài khơi và 7 người làm việc trên bờ. Giàn trang bị 6 xuống cứu sinh xuyên lửa tự phóng nhãn hiệu Hatecke (cũng là nhãn của xuồng trên nhiều tàu VN ví dụ ngoài DK 1 hay tàu CSB 8001), mỗi xuồng cho 70 người và 8 bè cứu sinh bơm hơi mỗi bè cho 25 người.Thế nào là giàn nửa chìm?
Để thăm dò và khai thác dầu mỏ,người ta dùng nhiều công trình ngoài khơi (offshore unit) khác nhau như giàn cố định (fixed platform), tháp ưng thuận (compliant tower), giàn chân căng (tension-leg platform); giàn spar (spar platform); giàn nửa chìm (semi-submersible rig) như giàn Đại Hùng 01 của Việt Nam; giàn chân chống/giàn tự nâng (jack up-drilling rig ) ví như giàn Tam Đảo,Cửu Long của Vietsovpetro ... Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Đồ họa cấu trúc giàn khoan nửa chìm
Như hình vẽ ,ta thấy gọi là giàn nửa chìm vì nó nửa chìm nửa nổi trên mặt nước. Phần chìm dưới nước bao gồm những chiếc pông tông tức phao tạo lực nổi để đỡ phần thượng tầng bên trên. Thượng tầng lại tựa lên pông tông bằng các cột chống.
Trên thượng tầng là nhiều tầng boong khác nhau, bố trí các thiết bị để khoan thăm dò hay khai thác (giàn Đại Hùng 01 của ta là giàn khai thác ), tầng sinh hoạt, tầng điều khiển, điều khiển hàng hải... và nổi bật là tháp giá khoan derrick vươn lên cao.
Pông tông không chỉ tạo sức nổi mà trong nó chứa nhiều trang thiết bị, gồm thiết bị động lực để làm cho các chân vịt lái (thruster) hoạt động. Chân vịt lái này rất quan trọng, nó giúp cho giàn khoan đứng nguyên tại vị trí đã định bằng phương pháp định vị động học DP (dynamic positioning).
Haiyang Shiyou 981 là giàn nửa chìm thế hệ mới, thế hệ thứ 6 với một số đặc điểm như sau:
Khả năng chống mệt mỏi (fatigue) - một căn bệnh suy sụp của nhiều giàn khoan, trước tác động của thiên nhiên. Giàn này được thiết kế chịu được những cơn bão khủng khiếp nhất thống kê trong 200 năm lịch sử tại vùng Biển Đông.
Khả năng định vị trên biển. Nếu giàn Đại Hùng 01 của ta giữ vị trí trên biển bằng hệ thống 8 neo thì 981 tại các vùng nước sâu dưới 1000 mét vẫn định vị bằng 12 neo cấp R5 nhưng giàn chủ yếu định vị bằng hệ định động học cấp 3 là cấp cao nhất của hệ thống này với 8 chân vịt lái (thruster), mỗi chân vịt được kéo bởi động cơ 4600 CV.
Khả năng chống tràn dầu. Kinh nghiệm đau đớn của các vụ tràn dầu khiến cho FG tìm mọi biện pháp để ngăn chặn ngay từ giai đoạn đầu tiên. Một hệ thống cảm biến được thiết lập quanh giàn và hành động nhanh chóng để đóng ngay cái BOP (thiết bị chống tràn -Blow Out Preventer)
Bởi vậy ,giàn nửa chìm là công cụ không thể thiếu được trong việc chinh phục độ sâu khi khai thác dầu khí.
Giàn khoan 981: sản phẩm công nghệ Mỹ
Cách đây vừa tròn hai năm, vào tháng 5/2012, một số báo chí của ta bắt đầu nói tới cái gọi là "Ocean Oil 981", tôi đã có một bài viết giới thiệu chi tiết kỹ thuật về cái giàn này. Lúc đó nó đã thành cái "Haiyang Shiyou 981" với các số định dạng IMO là 9480344, số MMSI để dùng hệ vệ tinh toàn cầu GMDSS là 413464330, hô hiệu viễn thông theo quy định của ITU là BYDG.
Tôi cũng giới thiệu các trang vesselfinder để mọi người có thể dùng màn hình máy tính theo dõi tọa độ bằng AIS và vệ tinh, thấy giàn khoan khổng lồ này đang di chuyển từ nhà máy Ngoại Cao Kiều Thượng Hải về phía Nam, đã tới đảo Hải Nam. Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
So sánh khả năng khai thác của giàn tự nâng và giàn nửa chìm
Rồi nó tới lô khai thác Liwan. Thực ra, trước đó 6 năm vào tháng 11/2006 trên các tạp chí hàng hải toàn cầu đã thông báo một sự kiện to lớn: CNOOC ký với FG (công ty công nghệ khai thác và thương mại dầu khí hàng đầu của Mỹ) một hợp đồng trị giá 4,6 tỷ NDT (thực tế giá thành công bố là 6 tỷ NDT) để Trung Quốc chế tạo chiếc giàn khoan nửa chìm nước sâu đầu tiên của nước này.
Hợp đồng giữa 2 bên đưa ra quy định về việc cùng giữ sở hữu trí tuệ và khu vực hoạt động của giàn là Biển Đông (trong hợp đồng là Biển Nam Trung Hoa),Vịnh Mehico và Nam Phi.
Cùng sở hữu trí tuệ vì FG cung cấp thiết kế cơ bản (basic) còn Trung Quốc lo nhiều phần khác.
Thiết kế cơ bản như vậy nhưng đi vào cụ thể, giàn khoan nửa chìm này được chế tạo dựa trên sự huy động tổng lực của Trung Quốc với rất nhiều đơn vị có thể kể ra như Viện 708 của CSSC, Viện Nghiên cứu Thiết kế của CNOOC, Đại học Đại Liên, Đại học Giao thông Thượng Hải, xưởng đóng tàu Ngoại Cao Kiều, xưởng Đại Liên...Trung Quốc tự nhận giàn khoan 981 là của mình
Trung Quốc đã tự nhận đây là một công trình giàn nửa chìm, độ sâu 3 nghìn mét "hoàn toàn tự nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, lắp đặt, thử nghiệm...” và chỉ cho biết thêm một chú thích nho nhỏ là theo mẫu chung ExD của Công ty F&D Mỹ.
Nhiều trang mạng của họ biểu dương tinh thần ái quốc trong việc chế tạo giàn, chẳng hạn vào YouTube , các bạn sẽ thấy cảnh đóng thân giàn tại xưởng Ngoại Cao Kiều trên đảo Sùng Chính Thượng Hải, đoạn clip mô tả công nhân nhà máy xích neo tại Giang Tô nô nức rèn xích cho neo của giàn...
Các nhà máy này thuộc tập đoàn CSSC (nói cho đơn giản, kiểu như Vinashin của ta) làm cả tàu quân sự lẫn dân sự, giàn khoan… không chia nhỏ như nước ta.
Nhưng tìm hiểu kỹ ta sẽ thấy tất cả các thiết bị - cái quyết định mang tính sinh tử của giàn khoan - là do nước ngoài chế tạo, một điểm yếu rất căn bản của đóng tàu Trung Quốc! Chính họ phải thừa nhận: TQ chỉ có 40% giàn khoan này còn 60% giàn khoan là của thế giới với những tên tuổi lừng danh như ABB, Aker, Haliburton, Siemens...
Sửa bởi pth77: 04/06/2014 - 01:46