1
Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#181
Gửi vào 11/07/2011 - 11:59
PHÁI ĐOÀN TÒA THÁNH THĂM LA VANG VÀ HÀO QUANG XUẤT HIỆN
Sáng ngày 13-06-08, Phái đoàn Tòa thánh Vatican do Đức Ông Piertro Parolin Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Tòa Thánh dẫn đầu, đã đến viếng Đức Mẹ La Vang và dâng thánh lễ đồng tế tại Linh đài Đức Mẹ. Nghe tin có Phái đoàn Tòa Thánh đến thăm Thánh địa La Vang, nên rất đông giáo dân đã mau mắn về tham dự và họ đến từ nhiều vùng của ba miền đất nước. Lúc chín giờ rưỡi sáng, Đức Ông Pietro Parolin đã có bài nói chuyện thay bài giảng với cộng đoàn dân Chúa.
Đức Ông Parolin nói: “Chúng tôi cảm tạ hồng ân và sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho chúng tôi được đến thăm viếng Thánh địa La Vang, và dâng thánh lễ tại đây, trong bầu khí an lành và ấm cúng và đầy tình yêu thương. Chúng tôi đến đây trong tình hiệp thông thân ái và xin gửi lời chào mừng của Đức Thánh Cha, đến tất cả anh chị em hiện diện nơi đây. Chúng tôi đã chứng kiến anh chị em đến từ nhiều giáo phận khác nhau, có cả người nước ngoài nhưng chúng ta cảm thấy như cùng trong một gia đình duy nhất.
Sau mười lăm lần phái đoàn Tòa Thánh đã đến viếng Đức Mẹ La Vang, nhưng đây là lần đầu tiên phái đoàn Tòa Thánh chính thức đại diện cho Đức Thánh Cha đến viếng Linh địa này. Sự hiện diện của phái đoàn Tòa Thánh hôm nay là sự hiện diện cho Đức Thánh Cha luôn quan tâm đến Thánh địa này. Đức Thánh Cha đã gửi đến anh chị em lời thăm hỏi và chúc anh chị em luôn giữ vững đức tin mạnh mẽ. Ngài cũng hứa trong kỳ Đại hội La Vang lần thứ hai mươi tám này, ngài sẽ gửi thông điệp để ban phép lành cho tất cả anh chị em. Tôi xin trao tặng Hào quang Mình Thánh Chúa của Đức Thánh Cha gửi cho Thánh địa La Vang. Vì tôi tin rằng Mẹ cũng đang hiện diện với chúng ta”.
Sau đó Đức Ông trao Hào quang cho Đức Cha Phụ tá Giáo phận Huế F.X Lê Văn Hồng. Đúng lúc đó, cộng đoàn dân Chúa xôn xao và chỉ trỏ lên bầu trời trên Linh đài. Lúc này đúng chín giờ bốn mươi phút, một vầng hào quang sáng ngời tỏa xuống trên Linh đài Đức Mẹ La Vang, nhiều người đã không cầm được nước mắt và quỳ xuống khẩn cầu cùng Mẹ. Đức Cha Phụ tá, phái đoàn Tòa Thánh và các linh mục đồng tế, đã phải ngưng thánh lễ để cùng với cộng đoàn, chứng kiến và chiêm ngắm hiện tượng kỳ lạ xuất hiện trên bầu trời, ngang trên Linh đài Đức Mẹ sau câu nói của Đức Ông Parolin:
- Tôi tin rằng Mẹ đang hiện diện với chúng ta.
Đây rõ ràng là một sự Kỳ diệu mà không thể có lời giải thích tại sao. Sau thánh lễ hầu hết cộng đoàn dân Chúa đều bàn tán về hiện tượng kỳ lạ này.
HIỆN TƯỢNG LẠ TRÊN BẦU TRỜI THÁI HÀ
Liên tiếp các ngày từ 29 đến ngày 31-08-08, có hiện tượng lạ xẩy ra, khi giáo dân cầu nguyện ở linh đài Đức Bà ở Thái Hà. Vào sáng ngày 30-8-2008. Một số người chứng kiến nói:
- Trên bầu trời, hình người nữ đầu đội vương miện bồng hài nhi bên tay trái hiện ra, đứng trên mặt trời vừa mọc, hai luồng sáng từ mặt trời tỏa vút lên. Sau hiện tượng đó là hiện tượng những hình tròn trắng nhỏ, với viền màu đỏ xung quanh, bắn ra từ mặt trời mới mọc.
Có lúc mây đen ùa tới chung quanh mặt trời... Tiếp nữa, ngay tại tượng Đức Mẹ Ban Ơn được đặt trước linh đài, hiện tượng lạ cũng xảy ra. Nhận xét của những người có mặt ở hiện trường cho biết:
- Trên đầu Đức Mẹ, những vòng hào quang với đủ sắc màu cứ tỏa ra liên tục. Hiện tượng lạ diễn ra trong vòng mười lăm phút. Các hiện tượng này lặp lại từ lúc chín giờ rưỡi đến mười giờ sáng.
Vào sáng ngày Chúa Nhật 31-8 hôm nay, dân chúng dù mưa cũng đến cầu nguyện.
Catholic New
Sáng ngày 13-06-08, Phái đoàn Tòa thánh Vatican do Đức Ông Piertro Parolin Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Tòa Thánh dẫn đầu, đã đến viếng Đức Mẹ La Vang và dâng thánh lễ đồng tế tại Linh đài Đức Mẹ. Nghe tin có Phái đoàn Tòa Thánh đến thăm Thánh địa La Vang, nên rất đông giáo dân đã mau mắn về tham dự và họ đến từ nhiều vùng của ba miền đất nước. Lúc chín giờ rưỡi sáng, Đức Ông Pietro Parolin đã có bài nói chuyện thay bài giảng với cộng đoàn dân Chúa.
Đức Ông Parolin nói: “Chúng tôi cảm tạ hồng ân và sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho chúng tôi được đến thăm viếng Thánh địa La Vang, và dâng thánh lễ tại đây, trong bầu khí an lành và ấm cúng và đầy tình yêu thương. Chúng tôi đến đây trong tình hiệp thông thân ái và xin gửi lời chào mừng của Đức Thánh Cha, đến tất cả anh chị em hiện diện nơi đây. Chúng tôi đã chứng kiến anh chị em đến từ nhiều giáo phận khác nhau, có cả người nước ngoài nhưng chúng ta cảm thấy như cùng trong một gia đình duy nhất.
Sau mười lăm lần phái đoàn Tòa Thánh đã đến viếng Đức Mẹ La Vang, nhưng đây là lần đầu tiên phái đoàn Tòa Thánh chính thức đại diện cho Đức Thánh Cha đến viếng Linh địa này. Sự hiện diện của phái đoàn Tòa Thánh hôm nay là sự hiện diện cho Đức Thánh Cha luôn quan tâm đến Thánh địa này. Đức Thánh Cha đã gửi đến anh chị em lời thăm hỏi và chúc anh chị em luôn giữ vững đức tin mạnh mẽ. Ngài cũng hứa trong kỳ Đại hội La Vang lần thứ hai mươi tám này, ngài sẽ gửi thông điệp để ban phép lành cho tất cả anh chị em. Tôi xin trao tặng Hào quang Mình Thánh Chúa của Đức Thánh Cha gửi cho Thánh địa La Vang. Vì tôi tin rằng Mẹ cũng đang hiện diện với chúng ta”.
Sau đó Đức Ông trao Hào quang cho Đức Cha Phụ tá Giáo phận Huế F.X Lê Văn Hồng. Đúng lúc đó, cộng đoàn dân Chúa xôn xao và chỉ trỏ lên bầu trời trên Linh đài. Lúc này đúng chín giờ bốn mươi phút, một vầng hào quang sáng ngời tỏa xuống trên Linh đài Đức Mẹ La Vang, nhiều người đã không cầm được nước mắt và quỳ xuống khẩn cầu cùng Mẹ. Đức Cha Phụ tá, phái đoàn Tòa Thánh và các linh mục đồng tế, đã phải ngưng thánh lễ để cùng với cộng đoàn, chứng kiến và chiêm ngắm hiện tượng kỳ lạ xuất hiện trên bầu trời, ngang trên Linh đài Đức Mẹ sau câu nói của Đức Ông Parolin:
- Tôi tin rằng Mẹ đang hiện diện với chúng ta.
Đây rõ ràng là một sự Kỳ diệu mà không thể có lời giải thích tại sao. Sau thánh lễ hầu hết cộng đoàn dân Chúa đều bàn tán về hiện tượng kỳ lạ này.
HIỆN TƯỢNG LẠ TRÊN BẦU TRỜI THÁI HÀ
Liên tiếp các ngày từ 29 đến ngày 31-08-08, có hiện tượng lạ xẩy ra, khi giáo dân cầu nguyện ở linh đài Đức Bà ở Thái Hà. Vào sáng ngày 30-8-2008. Một số người chứng kiến nói:
- Trên bầu trời, hình người nữ đầu đội vương miện bồng hài nhi bên tay trái hiện ra, đứng trên mặt trời vừa mọc, hai luồng sáng từ mặt trời tỏa vút lên. Sau hiện tượng đó là hiện tượng những hình tròn trắng nhỏ, với viền màu đỏ xung quanh, bắn ra từ mặt trời mới mọc.
Có lúc mây đen ùa tới chung quanh mặt trời... Tiếp nữa, ngay tại tượng Đức Mẹ Ban Ơn được đặt trước linh đài, hiện tượng lạ cũng xảy ra. Nhận xét của những người có mặt ở hiện trường cho biết:
- Trên đầu Đức Mẹ, những vòng hào quang với đủ sắc màu cứ tỏa ra liên tục. Hiện tượng lạ diễn ra trong vòng mười lăm phút. Các hiện tượng này lặp lại từ lúc chín giờ rưỡi đến mười giờ sáng.
Vào sáng ngày Chúa Nhật 31-8 hôm nay, dân chúng dù mưa cũng đến cầu nguyện.
Catholic New
#182
Gửi vào 11/07/2011 - 12:20
THẦN HỘ MỆNH
Rất nhiều người không tin vào Thượng đế nhưng hầu như đều tin vào thần hộ mệnh của mình "có người phù hộ". Ý nghĩ rằng có ai đó ở trên trời cao quan tâm riêng tới mình, nằm sâu trong tiềm thức của mỗi người. Phải, các thần hộ mệnh có tồn tại và con người tiếp xúc với họ hàng ngày. Chúng ta gọi đó là linh tính là tiếng nói trong. Biết bao lần tiếng nói trong bí ẩn ấy cứu giúp con người trong những tình huống khó khăn. Bất kể một quyết định nào dù lớn dù nhỏ, con người đều dựa trên giác quan thứ sáu, trực giác linh tính.
Trực giác linh tính tiếng nói trong đó, là việc thần hộ mệnh tìm cách giúp con người. Rất tiếc con người không phải lúc nào cũng nghe thấy hoặc rất hiếm khi nghe thấy, hoặc từ chối làm theo sự giúp đỡ ấy. Nhiều trường hợp thần hộ mệnh đã giúp con người thoát chết, nhờ những tiếng nói trong mách bảo kịp thời của mình. Nhiều khi thần hộ mệnh trong giấc mơ đã báo mộng cho con người, tương lai gần và những nguy hiểm đang tới. Nếu con người có thần hộ mệnh rất mạnh thì nhiều trường hợp có thể xảy ra, những chuyện thần kỳ như người ngã từ tầng mười một xuống không hề bị gãy xương gì, hoặc những viên đạn bay vào người cách chỗ hiểm chỉ vài milimet, hoặc người vẫn nguyên lành trong các vụ tai nạn ô tô.
Con người là một sinh linh rất mảnh mai, chỉ cần thần hộ mệnh nhãng ý là con người gặp tai nạn liền. Chiếc ghế vẫn ngồi hàng ngày hàng nghìn lần bỗng một hôm lại ngồi chệch, rồi ngã lăn ra sàn đập đầu vào đâu đó, có khi đi tong. Tất cả mọi tai ương xảy ra với con người đều do một lý do: Thần hộ mệnh không bảo vệ. Trước tiên đó là do bạn đã làm đìều gì đó không đúng và thần hộ mệnh đã cho bạn biết điều đó, nhưng bạn phẩy tay không nghe. Vì vậy cần chăm chú hơn đến mọi việc của bạn để hiểu rằng, việc nào bạn đã không đúng và những dấu hiệu nhỏ cảnh báo bạn từ ngay ban đầu, đừng để từ những khó chịu nhỏ ban đầu xảy ra tai họa lớn.
Có nhiều người hỏi rằng tại sao thần hộ mệnh đã để xảy ra những tai ương ấy. Đó là vì thần hộ mệnh bảo vệ con người, nhưng không thể can thiệp vào số phận của chúng ta. Thượng đế yêu quý tất cả mọi người như nhau, và trao cho con người quyền lựa chọn con đường sống của mình. Thần linh chỉ có thể mách bảo con người những phương án tốt nhất của số phận, nhưng quyền lựa chọn là thuộc về người đó, không làm gì để chống lại ý chí của con người. Tai họa là ở chỗ phần lớn con người không biết họ cần gì ở cuộc đời. Nếu con người không muốn nghe theo thần hộ mệnh, thì thần cũng sẽ bỏ mặc không bảo vệ họ trong bảy năm, sau đó sẽ quay lại.
Thần hộ mệnh có ở mỗi con người và có thể có hơn nhiều. Người càng có nhiều thần hộ mệnh, người đó càng dễ dàng đạt được nhiều thành công hơn. Ngược lại những người mà hay gặp thất bại trên mỗi bước đường, chỉ có mỗi một thần hộ mệnh và cả người này cũng rất có thể bỏ mặc người đó. Nhưng có thể tăng số lượng thần hộ mệnh bằng những việc làm thiện của mình. Mười lăm phần trăm dân số trái đất chỉ có một thần hộ mệnh, số đông sáu mươi lăm phần trăm có ba thần hộ mệnh. Mười phần trăm có hai hoặc bốn thần hộ mệnh. Và chỉ có mười phần trăm những người may mắn có từ năm thần hộ mệnh trở lên.
Có các nhân vật lỗi lạc "con số đó không nhiều" được hơn chín thần hộ mệnh bảo vệ. Đó là những người nằm dưới sự bảo vệ của trời, có những may mắn thành công phi thường.
Ví dụ: Diễn viên điện ảnh của Pháp Per Risar có mười bốn thần hộ mệnh, Gian Pôn Benmônđô mười, Brizit Barđô mười bốn, của Nga Alla Pugatrôva mười ba. Bin Klintơn có mười một, Arnôn Svarsenheger mười bốn, cựu thủ tướng Anh Magret Tetrơ có mười, nhà ngoại cảm nổi tiếng người Bun ga ri: Van ga có mười hai thần hộ mệnh. Vận động viên người Nga Valêri Kôbelép sống sót sau khi ngã từ độ cao 185 m có chín thần hộ mệnh.
Người càng nổi tiếng được nhiều người để ý dõi theo, càng có nhiều thần hộ mệnh bảo vệ. Vì rằng các thế lực đen tối trước hết chĩa vào chính các nhân vật lỗi lạc, và trời đã cho thêm thần hộ mệnh để bảo vệ những người đó. Khi thần linh muốn ban thưởng cho con người, thì cái chính yếu không phải là tiền bạc quyền lực, mà là tình yêu tình thương và những tình cảm mạnh mẽ tốt đẹp khác. Chính vì vậy số lượng thần hộ mệnh nhiều hơn, không phải ở các triệu phú, quan chức cao cấp mà ở các ca sĩ nghệ sĩ điện ảnh, các thiền y "lang y có tu thiền"...Dân chúng cũng chân thành yêu quý những người đó, hơn các nhà chính khách và "các tải tiền triệu phú".
Số lượng thần hộ mệnh nhiều nhất từng có ở vị thánh được kính trọng nhất ở Nga Nhicôlai Ugốtnhíc hai mươi bảy. Hiện nay trong số những người sống trên Trái đất có ca sĩ nổi tiếng của Nga Valêri Lêônchep có mười lăm thần hộ mệnh. Ở Pháp tại thành phố Mác xây đang có một cô bé mười một tuổi hiện giờ đã có chín thần hộ mệnh. Vào năm mười bảy tuổi cô sẽ bị tai nạn giao thông làm gãy hai chân. Cô sẽ trải qua cái chết lâm sàng và sau đó sẽ khai mở khả năng ngoại cảm cao, và sẽ trở thành nhà thiền y và tiên tri nổi tiếng. Vào thời điểm đó cô sẽ có mười tám thần hộ mệnh, sau này sau khi chết cô sẽ được coi như bậc thánh nhân.
Thần hộ mệnh có hai nhóm:
1. Thần linh
2. Là những người thân hoặc bạn bè đã mất của bạn. Không phải tất cả mà chỉ gồm những người đã yêu quý bạn chân thành lúc còn sống. Sau khi chết họ cũng vẫn tiếp tục yêu quý bạn như vậy. Tất nhiên nếu như bạn vẫn còn là người tốt như trước, và nếu như có thay đổi thì về hướng tốt hơn.
Trong trường hợp đặc biệt thần hộ mệnh có thể được chỉ định, là người lúc sinh thời đã không yêu quý bạn, như là cơ hội để cho người đó chuộc lỗi, vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của người đó trên thế giới bên kia "trên tầng trời". Vì thế bây giờ người đó "vô hình" sẽ chăm chú đến bạn hơn cả những thần hộ mệnh khác. Thần linh có sức mạnh khác nhau. Đôi khi một vị thần mang đến lợi ích cho con người hơn hai, ba, thậm chí năm vị khác. Thượng đế chỉ định thần linh làm thần hộ mệnh chỉ cho những người được lựa chọn.
Đó là một phần thưởng lớn lao, vì thần linh có sức mạnh hơn rất nhiều lần linh hồn của những người đã mất. Những người lỗi lạc trong lịch sử loài người đạt được những thành công to lớn, là nhờ có thần linh hộ mệnh bảo trợ. Thượng đế đã sinh ra Hitler để dạy cho các nhà cầm quyền bớt hung hăng hiếu chiến, gây chiến tranh liên miên làm khổ dân lành và mọi người cần phải đoàn kết với nhau, bỏ qua nhiều bất đồng để cùng nhau chống lại kẻ thù của loài người. Lần đầu tiên trong lịch sử châu Âu, từ sau thế chiến thứ hai đến giờ, các nước châu Âu sống hòa bình không gây chiến tranh với nhau.
Nói chung chúng ta không thể nhìn rõ mọi hành động của con người bằng thần linh. Có thể bây giờ người đó là người tốt nhưng ở kiếp trước lại là đại gian ác. Dù đã tu chí nhưng vẫn phải trả cho xong nợ tiền kiếp đã. Rất nhiều người có thể thấy là họ nhận quả báo từ ngay kiếp này, tất nhiên họ phải rất trung thực với chính mình. Ví dụ có người bán hàng kể lại là chị ta bây giờ sợ lấy tiền thừa của khách, vì y rằng sau đó chị sẽ bị mất cái gì đó giá trị lớn hơn. Thần hộ mệnh chỉ bảo vệ nhắc nhở con đường đi đúng nhất, tất nhiên họ là thần thiện rồi, còn quyền lựa chọn vẫn là của con người. Không Thần linh nào bám chấp vào ta cả, ta tự ý ta thôi.
Đó là những Thần Trời làm việc theo luật Trời, không phải của các tôn giáo. Mọi người đa phần vẫn sống nhộn nhịp với đời thường, họ thường hành động đầu tiên là theo ý mình, vì mục đích của mình, chứ cũng chẳng có nhiều ảo ảnh thần thánh hay ma quỷ đâu. Những người hướng thiện thì tránh làm điều ác, đó là phản xạ có điều điện của họ rồi. Nhưng còn nhiều người hành động vì mưu lợi ích kỷ cá nhân, nên họ tìm cách đổ vấy cho thần linh can thiệp, chứ thực ra họ đã bắt tay với ma quỷ mà không cần biết hậu quả từ lâu. Chỉ có Trời mới nhìn thấy điểm yếu của những người đó, mà trừng trị cho thích đáng làm họ đau nhất. Không Thần linh nào bám chấp vào ta cả ta tự ý ta thôi.
Sách tâm linh hay có được, không phải là sự tình cờ. Đó là các thần hộ mệnh bằng trực giác đã xui khiến bạn có mặt đúng chỗ đúng lúc, để nhận được những bài học cần thiết. Nhưng người đọc cũng phải tu tập tâm linh không ít, để hiểu được rốt ráo mọi vấn đề mà thần hộ mệnh muốn nhắn nhủ, để giúp đỡ mình tu tập tâm linh. Bạn có nhớ hay có biết chúa Giê su, cũng đã từng sang tận Ấn độ và thành phố quê hương của Phật tổ, để học hỏi về triết học phương Đông và Phật pháp, vượt lên trên những khác biệt tôn giáo, để giác ngộ được những chân lý tối cao của thượng đế, thần linh.
Chúng ta tất nhiên bây giờ không thể sánh bằng các Thánh nhân, song các Thánh cũng đã từng là người thường tu tập hết sức khổ luyện bền bỉ dẻo dai, vững chí từ đời này sang đời khác mới có được như vậy. Giao tiếp với các thần hộ mệnh như thế nào? Thượng đế tạo ra các thần hộ mệnh để giúp đỡ và phục vụ con người. Trả lời cho những lời cầu khấn của chúng ta là ý nghĩa sự tồn tại của họ. Thế giới của chúng ta là vật chất. Thế giới của thần linh là tinh thần. Họ nhìn thấy tất cả ý nghĩ của chúng ta và theo đó xét đoán về con người. Các thần hộ mệnh vui khi thấy những ý nghĩ của chúng ta về hòa bình và tình yêu. Và ngược lại họ lo lắng bởi những ý nghĩ độc ác của con người.
Để có mối giao tiếp với các thần hộ mệnh, hãy thầm kể cho họ những vấn đề của mình, và sau đó hãy lắng nghe tiếng nói trong của mình, và bạn sẽ nhận được câu trả lời. Bạn có thể dùng cuốn Kinh dịch hay từ Taro như một medium để giao tiếp với các thần hộ mệnh của mình. Điều này cần được rèn luyện, với thời gian bạn sẽ trở nên nhạy cảm hơn, hiểu ý các thần hộ mệnh hơn, nhưng phải trung thực với chính bản thân mình. Có khi những điều bạn hỏi sẽ được trả lời bằng những vấn đề quan trọng hơn, mà thần hộ mệnh muốn nói cho bạn. Hãy ghi nhớ. Hãy cầu nguyện thành tiếng, tốt nhất là hàng ngày, các bài cầu nguyện theo tôn giáo mà bạn theo hay vẫn yêu kính, vì đó đều là thể hiện tình yêu và niềm tin đối với Thượng đế, thần linh. Dần dần cuộc sống của bạn và những người thân của bạn sẽ thay đổi tốt đẹp hơn.
Khi nhắc lại những lời cầu nguyện thì năng lượng của của những lời cầu nguyện đó sẽ tăng lên. Đầu tiên hãy hình dung rõ ràng chính xác nguyện vọng của mình, và cầu khấn kết quả chung mà bạn mong muốn, còn các chi tiết cụ thể không cần. Các thần hộ mệnh biết làm điều gì sẽ tốt hơn cho bạn. Việc thực hiện nguyện vọng phụ thuộc vào công đức của con người, ở đời này cũng như đời trước. Tăng cường cầu nguyện có thể thúc đẩy việc thực hiện các nguyện vọng. Kể cả mọi việc của bạn đều tốt, bạn nên tiếp tục cầu xin sự giúp đỡ của thần linh, nếu bạn tranh thủ được sự giúp đỡ đó, bạn sẽ trả nghiệp thuận lợi hơn và cuộc sống sẽ dễ chịu hơn.
Tuy nhiên đó là quyền của bạn. Các thần hộ mệnh tôn trọng ý chí tự do của bạn, nên hiếm khi can thiệp nếu không có nguyện vọng của bạn. Nếu như bạn ngừng cầu xin họ giúp đỡ, thì họ sẽ đứng ngoài cuộc và công việc của bạn sẽ đi xuống. Tuy nhiên các thần hộ mệnh cũng phải tuân theo những luật lệ chung của Thượng đế, thần linh nên bạn cần nhớ:
- Họ không thể thay đổi những hình phạt mà bạn có từ những đời trước. Hiện nay trong năng lượng mới của Kỷ nguyên mới, Thiên sứ Kraion đã nói, có thể xin chất tẩy trung hòa để giải phóng tinh thần trừ sạch nghiệp, nhưng cũng có nhiều điều kèm theo.
- Các thần hộ mệnh không thể làm hại bất kỳ ai theo ý các bạn. Không nên cầu xin họ trừng phạt kẻ thù của mình, thậm chí cả những kẻ gây bạo lực và giết người. Họ biết làm thế nào cho tốt hơn.
- Bạn cần chọn thời gian thích hợp, đúng để cầu xin nguyện vọng của mình. Nếu những nguyện vọng mà bạn cầu xin đến giờ chưa được, có nghĩa là chưa đến lúc đạt được điều đó. Hãy biết chờ đợi hãy xem lại bản thân mình, và luôn yêu kính tin tưởng những người thầy tinh thần của mình.
Trên thực tế trong cuộc sống có rất nhiều vấn đề lớn nhỏ, phải cân nhắc lựa chọn, mà không thể nào biết được qua xem "Sao", nhưng có thể tham khảo ý kiến thần hộ mệnh của mình, nếu như bạn vẫn giao tiếp đều đặn với họ. Các thần hộ mệnh là những vị cố vấn tuyệt vời nhất mà bạn không cần phải đi tìm đâu xa. Những hình thức mà các bạn quen gọi là bói thế này thế khác, thực chất là nhờ có sự bảo hộ "gia trì" của thần hộ mệnh của bạn, hay của người khác nếu bạn đi nhờ người khác xem giúp.
Thậm chí có khi xem "Sao" nói bạn năm nay có thể bị "trúng thương", nhưng thần hộ mệnh bảo không nguy hiểm đến tính mạng, thì bạn vẫn có thể dũng cảm tiến hành công việc mà mình muốn làm, đó cũng là trả nghiệp tốt. Khi con người mới sinh ra thì được ban cho các thần hộ mệnh để bảo vệ và gíúp đỡ người. Sau này lớn lên nếu người tu tập tâm linh và phát triển tinh thần của mình đến mức tốt, sẽ có sự thay đổi thần hộ mệnh hộ pháp để phù hợp với trình độ tinh thần của người đó.
Vị thần hộ mệnh cao nhất cho mỗi chúng ta là Bổn tôn. Chính vị đó là vị thầy Tâm linh sâu sắc nhất của chúng ta. Vị đó sẽ quyết định khi nào chúng ta nên trả nghiệp gì và sẽ trả nghiệp như thế nào, cũng như làm thế nào để chúng ta trải nghiệm các bài học để giác ngộ vượt ra khỏi biển sinh tử. Bạn không cần kêu cầu mà chỉ cần biết rằng: Mình và Bổn tôn luôn có liên hệ trong từng phút giây và mong mỏi sẽ được dẫn dắt ra khỏi biển sinh tử. Bổn tôn không bao giờ từ bỏ ta mà chỉ có ta từ bỏ người.
ST
Rất nhiều người không tin vào Thượng đế nhưng hầu như đều tin vào thần hộ mệnh của mình "có người phù hộ". Ý nghĩ rằng có ai đó ở trên trời cao quan tâm riêng tới mình, nằm sâu trong tiềm thức của mỗi người. Phải, các thần hộ mệnh có tồn tại và con người tiếp xúc với họ hàng ngày. Chúng ta gọi đó là linh tính là tiếng nói trong. Biết bao lần tiếng nói trong bí ẩn ấy cứu giúp con người trong những tình huống khó khăn. Bất kể một quyết định nào dù lớn dù nhỏ, con người đều dựa trên giác quan thứ sáu, trực giác linh tính.
Trực giác linh tính tiếng nói trong đó, là việc thần hộ mệnh tìm cách giúp con người. Rất tiếc con người không phải lúc nào cũng nghe thấy hoặc rất hiếm khi nghe thấy, hoặc từ chối làm theo sự giúp đỡ ấy. Nhiều trường hợp thần hộ mệnh đã giúp con người thoát chết, nhờ những tiếng nói trong mách bảo kịp thời của mình. Nhiều khi thần hộ mệnh trong giấc mơ đã báo mộng cho con người, tương lai gần và những nguy hiểm đang tới. Nếu con người có thần hộ mệnh rất mạnh thì nhiều trường hợp có thể xảy ra, những chuyện thần kỳ như người ngã từ tầng mười một xuống không hề bị gãy xương gì, hoặc những viên đạn bay vào người cách chỗ hiểm chỉ vài milimet, hoặc người vẫn nguyên lành trong các vụ tai nạn ô tô.
Con người là một sinh linh rất mảnh mai, chỉ cần thần hộ mệnh nhãng ý là con người gặp tai nạn liền. Chiếc ghế vẫn ngồi hàng ngày hàng nghìn lần bỗng một hôm lại ngồi chệch, rồi ngã lăn ra sàn đập đầu vào đâu đó, có khi đi tong. Tất cả mọi tai ương xảy ra với con người đều do một lý do: Thần hộ mệnh không bảo vệ. Trước tiên đó là do bạn đã làm đìều gì đó không đúng và thần hộ mệnh đã cho bạn biết điều đó, nhưng bạn phẩy tay không nghe. Vì vậy cần chăm chú hơn đến mọi việc của bạn để hiểu rằng, việc nào bạn đã không đúng và những dấu hiệu nhỏ cảnh báo bạn từ ngay ban đầu, đừng để từ những khó chịu nhỏ ban đầu xảy ra tai họa lớn.
Có nhiều người hỏi rằng tại sao thần hộ mệnh đã để xảy ra những tai ương ấy. Đó là vì thần hộ mệnh bảo vệ con người, nhưng không thể can thiệp vào số phận của chúng ta. Thượng đế yêu quý tất cả mọi người như nhau, và trao cho con người quyền lựa chọn con đường sống của mình. Thần linh chỉ có thể mách bảo con người những phương án tốt nhất của số phận, nhưng quyền lựa chọn là thuộc về người đó, không làm gì để chống lại ý chí của con người. Tai họa là ở chỗ phần lớn con người không biết họ cần gì ở cuộc đời. Nếu con người không muốn nghe theo thần hộ mệnh, thì thần cũng sẽ bỏ mặc không bảo vệ họ trong bảy năm, sau đó sẽ quay lại.
Thần hộ mệnh có ở mỗi con người và có thể có hơn nhiều. Người càng có nhiều thần hộ mệnh, người đó càng dễ dàng đạt được nhiều thành công hơn. Ngược lại những người mà hay gặp thất bại trên mỗi bước đường, chỉ có mỗi một thần hộ mệnh và cả người này cũng rất có thể bỏ mặc người đó. Nhưng có thể tăng số lượng thần hộ mệnh bằng những việc làm thiện của mình. Mười lăm phần trăm dân số trái đất chỉ có một thần hộ mệnh, số đông sáu mươi lăm phần trăm có ba thần hộ mệnh. Mười phần trăm có hai hoặc bốn thần hộ mệnh. Và chỉ có mười phần trăm những người may mắn có từ năm thần hộ mệnh trở lên.
Có các nhân vật lỗi lạc "con số đó không nhiều" được hơn chín thần hộ mệnh bảo vệ. Đó là những người nằm dưới sự bảo vệ của trời, có những may mắn thành công phi thường.
Ví dụ: Diễn viên điện ảnh của Pháp Per Risar có mười bốn thần hộ mệnh, Gian Pôn Benmônđô mười, Brizit Barđô mười bốn, của Nga Alla Pugatrôva mười ba. Bin Klintơn có mười một, Arnôn Svarsenheger mười bốn, cựu thủ tướng Anh Magret Tetrơ có mười, nhà ngoại cảm nổi tiếng người Bun ga ri: Van ga có mười hai thần hộ mệnh. Vận động viên người Nga Valêri Kôbelép sống sót sau khi ngã từ độ cao 185 m có chín thần hộ mệnh.
Người càng nổi tiếng được nhiều người để ý dõi theo, càng có nhiều thần hộ mệnh bảo vệ. Vì rằng các thế lực đen tối trước hết chĩa vào chính các nhân vật lỗi lạc, và trời đã cho thêm thần hộ mệnh để bảo vệ những người đó. Khi thần linh muốn ban thưởng cho con người, thì cái chính yếu không phải là tiền bạc quyền lực, mà là tình yêu tình thương và những tình cảm mạnh mẽ tốt đẹp khác. Chính vì vậy số lượng thần hộ mệnh nhiều hơn, không phải ở các triệu phú, quan chức cao cấp mà ở các ca sĩ nghệ sĩ điện ảnh, các thiền y "lang y có tu thiền"...Dân chúng cũng chân thành yêu quý những người đó, hơn các nhà chính khách và "các tải tiền triệu phú".
Số lượng thần hộ mệnh nhiều nhất từng có ở vị thánh được kính trọng nhất ở Nga Nhicôlai Ugốtnhíc hai mươi bảy. Hiện nay trong số những người sống trên Trái đất có ca sĩ nổi tiếng của Nga Valêri Lêônchep có mười lăm thần hộ mệnh. Ở Pháp tại thành phố Mác xây đang có một cô bé mười một tuổi hiện giờ đã có chín thần hộ mệnh. Vào năm mười bảy tuổi cô sẽ bị tai nạn giao thông làm gãy hai chân. Cô sẽ trải qua cái chết lâm sàng và sau đó sẽ khai mở khả năng ngoại cảm cao, và sẽ trở thành nhà thiền y và tiên tri nổi tiếng. Vào thời điểm đó cô sẽ có mười tám thần hộ mệnh, sau này sau khi chết cô sẽ được coi như bậc thánh nhân.
Thần hộ mệnh có hai nhóm:
1. Thần linh
2. Là những người thân hoặc bạn bè đã mất của bạn. Không phải tất cả mà chỉ gồm những người đã yêu quý bạn chân thành lúc còn sống. Sau khi chết họ cũng vẫn tiếp tục yêu quý bạn như vậy. Tất nhiên nếu như bạn vẫn còn là người tốt như trước, và nếu như có thay đổi thì về hướng tốt hơn.
Trong trường hợp đặc biệt thần hộ mệnh có thể được chỉ định, là người lúc sinh thời đã không yêu quý bạn, như là cơ hội để cho người đó chuộc lỗi, vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của người đó trên thế giới bên kia "trên tầng trời". Vì thế bây giờ người đó "vô hình" sẽ chăm chú đến bạn hơn cả những thần hộ mệnh khác. Thần linh có sức mạnh khác nhau. Đôi khi một vị thần mang đến lợi ích cho con người hơn hai, ba, thậm chí năm vị khác. Thượng đế chỉ định thần linh làm thần hộ mệnh chỉ cho những người được lựa chọn.
Đó là một phần thưởng lớn lao, vì thần linh có sức mạnh hơn rất nhiều lần linh hồn của những người đã mất. Những người lỗi lạc trong lịch sử loài người đạt được những thành công to lớn, là nhờ có thần linh hộ mệnh bảo trợ. Thượng đế đã sinh ra Hitler để dạy cho các nhà cầm quyền bớt hung hăng hiếu chiến, gây chiến tranh liên miên làm khổ dân lành và mọi người cần phải đoàn kết với nhau, bỏ qua nhiều bất đồng để cùng nhau chống lại kẻ thù của loài người. Lần đầu tiên trong lịch sử châu Âu, từ sau thế chiến thứ hai đến giờ, các nước châu Âu sống hòa bình không gây chiến tranh với nhau.
Nói chung chúng ta không thể nhìn rõ mọi hành động của con người bằng thần linh. Có thể bây giờ người đó là người tốt nhưng ở kiếp trước lại là đại gian ác. Dù đã tu chí nhưng vẫn phải trả cho xong nợ tiền kiếp đã. Rất nhiều người có thể thấy là họ nhận quả báo từ ngay kiếp này, tất nhiên họ phải rất trung thực với chính mình. Ví dụ có người bán hàng kể lại là chị ta bây giờ sợ lấy tiền thừa của khách, vì y rằng sau đó chị sẽ bị mất cái gì đó giá trị lớn hơn. Thần hộ mệnh chỉ bảo vệ nhắc nhở con đường đi đúng nhất, tất nhiên họ là thần thiện rồi, còn quyền lựa chọn vẫn là của con người. Không Thần linh nào bám chấp vào ta cả, ta tự ý ta thôi.
Đó là những Thần Trời làm việc theo luật Trời, không phải của các tôn giáo. Mọi người đa phần vẫn sống nhộn nhịp với đời thường, họ thường hành động đầu tiên là theo ý mình, vì mục đích của mình, chứ cũng chẳng có nhiều ảo ảnh thần thánh hay ma quỷ đâu. Những người hướng thiện thì tránh làm điều ác, đó là phản xạ có điều điện của họ rồi. Nhưng còn nhiều người hành động vì mưu lợi ích kỷ cá nhân, nên họ tìm cách đổ vấy cho thần linh can thiệp, chứ thực ra họ đã bắt tay với ma quỷ mà không cần biết hậu quả từ lâu. Chỉ có Trời mới nhìn thấy điểm yếu của những người đó, mà trừng trị cho thích đáng làm họ đau nhất. Không Thần linh nào bám chấp vào ta cả ta tự ý ta thôi.
Sách tâm linh hay có được, không phải là sự tình cờ. Đó là các thần hộ mệnh bằng trực giác đã xui khiến bạn có mặt đúng chỗ đúng lúc, để nhận được những bài học cần thiết. Nhưng người đọc cũng phải tu tập tâm linh không ít, để hiểu được rốt ráo mọi vấn đề mà thần hộ mệnh muốn nhắn nhủ, để giúp đỡ mình tu tập tâm linh. Bạn có nhớ hay có biết chúa Giê su, cũng đã từng sang tận Ấn độ và thành phố quê hương của Phật tổ, để học hỏi về triết học phương Đông và Phật pháp, vượt lên trên những khác biệt tôn giáo, để giác ngộ được những chân lý tối cao của thượng đế, thần linh.
Chúng ta tất nhiên bây giờ không thể sánh bằng các Thánh nhân, song các Thánh cũng đã từng là người thường tu tập hết sức khổ luyện bền bỉ dẻo dai, vững chí từ đời này sang đời khác mới có được như vậy. Giao tiếp với các thần hộ mệnh như thế nào? Thượng đế tạo ra các thần hộ mệnh để giúp đỡ và phục vụ con người. Trả lời cho những lời cầu khấn của chúng ta là ý nghĩa sự tồn tại của họ. Thế giới của chúng ta là vật chất. Thế giới của thần linh là tinh thần. Họ nhìn thấy tất cả ý nghĩ của chúng ta và theo đó xét đoán về con người. Các thần hộ mệnh vui khi thấy những ý nghĩ của chúng ta về hòa bình và tình yêu. Và ngược lại họ lo lắng bởi những ý nghĩ độc ác của con người.
Để có mối giao tiếp với các thần hộ mệnh, hãy thầm kể cho họ những vấn đề của mình, và sau đó hãy lắng nghe tiếng nói trong của mình, và bạn sẽ nhận được câu trả lời. Bạn có thể dùng cuốn Kinh dịch hay từ Taro như một medium để giao tiếp với các thần hộ mệnh của mình. Điều này cần được rèn luyện, với thời gian bạn sẽ trở nên nhạy cảm hơn, hiểu ý các thần hộ mệnh hơn, nhưng phải trung thực với chính bản thân mình. Có khi những điều bạn hỏi sẽ được trả lời bằng những vấn đề quan trọng hơn, mà thần hộ mệnh muốn nói cho bạn. Hãy ghi nhớ. Hãy cầu nguyện thành tiếng, tốt nhất là hàng ngày, các bài cầu nguyện theo tôn giáo mà bạn theo hay vẫn yêu kính, vì đó đều là thể hiện tình yêu và niềm tin đối với Thượng đế, thần linh. Dần dần cuộc sống của bạn và những người thân của bạn sẽ thay đổi tốt đẹp hơn.
Khi nhắc lại những lời cầu nguyện thì năng lượng của của những lời cầu nguyện đó sẽ tăng lên. Đầu tiên hãy hình dung rõ ràng chính xác nguyện vọng của mình, và cầu khấn kết quả chung mà bạn mong muốn, còn các chi tiết cụ thể không cần. Các thần hộ mệnh biết làm điều gì sẽ tốt hơn cho bạn. Việc thực hiện nguyện vọng phụ thuộc vào công đức của con người, ở đời này cũng như đời trước. Tăng cường cầu nguyện có thể thúc đẩy việc thực hiện các nguyện vọng. Kể cả mọi việc của bạn đều tốt, bạn nên tiếp tục cầu xin sự giúp đỡ của thần linh, nếu bạn tranh thủ được sự giúp đỡ đó, bạn sẽ trả nghiệp thuận lợi hơn và cuộc sống sẽ dễ chịu hơn.
Tuy nhiên đó là quyền của bạn. Các thần hộ mệnh tôn trọng ý chí tự do của bạn, nên hiếm khi can thiệp nếu không có nguyện vọng của bạn. Nếu như bạn ngừng cầu xin họ giúp đỡ, thì họ sẽ đứng ngoài cuộc và công việc của bạn sẽ đi xuống. Tuy nhiên các thần hộ mệnh cũng phải tuân theo những luật lệ chung của Thượng đế, thần linh nên bạn cần nhớ:
- Họ không thể thay đổi những hình phạt mà bạn có từ những đời trước. Hiện nay trong năng lượng mới của Kỷ nguyên mới, Thiên sứ Kraion đã nói, có thể xin chất tẩy trung hòa để giải phóng tinh thần trừ sạch nghiệp, nhưng cũng có nhiều điều kèm theo.
- Các thần hộ mệnh không thể làm hại bất kỳ ai theo ý các bạn. Không nên cầu xin họ trừng phạt kẻ thù của mình, thậm chí cả những kẻ gây bạo lực và giết người. Họ biết làm thế nào cho tốt hơn.
- Bạn cần chọn thời gian thích hợp, đúng để cầu xin nguyện vọng của mình. Nếu những nguyện vọng mà bạn cầu xin đến giờ chưa được, có nghĩa là chưa đến lúc đạt được điều đó. Hãy biết chờ đợi hãy xem lại bản thân mình, và luôn yêu kính tin tưởng những người thầy tinh thần của mình.
Trên thực tế trong cuộc sống có rất nhiều vấn đề lớn nhỏ, phải cân nhắc lựa chọn, mà không thể nào biết được qua xem "Sao", nhưng có thể tham khảo ý kiến thần hộ mệnh của mình, nếu như bạn vẫn giao tiếp đều đặn với họ. Các thần hộ mệnh là những vị cố vấn tuyệt vời nhất mà bạn không cần phải đi tìm đâu xa. Những hình thức mà các bạn quen gọi là bói thế này thế khác, thực chất là nhờ có sự bảo hộ "gia trì" của thần hộ mệnh của bạn, hay của người khác nếu bạn đi nhờ người khác xem giúp.
Thậm chí có khi xem "Sao" nói bạn năm nay có thể bị "trúng thương", nhưng thần hộ mệnh bảo không nguy hiểm đến tính mạng, thì bạn vẫn có thể dũng cảm tiến hành công việc mà mình muốn làm, đó cũng là trả nghiệp tốt. Khi con người mới sinh ra thì được ban cho các thần hộ mệnh để bảo vệ và gíúp đỡ người. Sau này lớn lên nếu người tu tập tâm linh và phát triển tinh thần của mình đến mức tốt, sẽ có sự thay đổi thần hộ mệnh hộ pháp để phù hợp với trình độ tinh thần của người đó.
Vị thần hộ mệnh cao nhất cho mỗi chúng ta là Bổn tôn. Chính vị đó là vị thầy Tâm linh sâu sắc nhất của chúng ta. Vị đó sẽ quyết định khi nào chúng ta nên trả nghiệp gì và sẽ trả nghiệp như thế nào, cũng như làm thế nào để chúng ta trải nghiệm các bài học để giác ngộ vượt ra khỏi biển sinh tử. Bạn không cần kêu cầu mà chỉ cần biết rằng: Mình và Bổn tôn luôn có liên hệ trong từng phút giây và mong mỏi sẽ được dẫn dắt ra khỏi biển sinh tử. Bổn tôn không bao giờ từ bỏ ta mà chỉ có ta từ bỏ người.
ST
#183
Gửi vào 12/07/2011 - 01:20
LỜI NGUYỀN Ở CHÙA KHÔNG SƯ
Chuyện rằng khi Thiền sư Không Lộ dựng nên chùa, dân chúng nơi đây không mấy mặn mà với đạo Phật và khói nhang tượng Phật. Thuở đó Đức Thánh tổ nổi giận trừng phạt dân gian. Trong một đêm mưa gió bão bùng, Đức Thánh đan không biết bao nhiêu rọ tre cho tất cả tượng Phật vào đó. Rồi ngài ngả nón làm thuyền vượt sông Hồng sang đất Thái Bình. Và tất cả tượng Phật, cái gì liên quan đến nhà Phật cũng xuôi theo dòng nước theo ngài về nơi đất mới. Đến giữa sông ngài ngoảnh cổ lại và nói một lời nguyền rằng, sẽ không có vị sư nào đến ở ngôi chùa trên.
Cho đến tận bây giờ chẳng sư nào trụ lại được ở ngôi chùa này, làm cho tích chuyện thêm phần kỳ bí. Ngôi chùa bề thế đó có độ tuổi đến vài trăm năm, rêu phong và cổ kính nhất nhì miền Bắc, thế nhưng lại không có bóng dáng của áo thâm, nón tu-lờ, chùa không có sư ở, có vẻ lạ ở trên đời ấy là chùa Keo Hành Thiện, thuộc huyện Xuân Trường Nam Định. Chúng tôi đến thăm chùa không sư vào tờ mờ sáng, khi chưa có khách hành hương về đất Phật. Nhìn ngắm ngôi chùa trong sương sớm, lại ngược thời gian nghe huyền thoại chợt xao lòng, thấy ngôi chùa thêm bao phần kỳ bí mà chưa ai rõ thực hư của vấn đề. Ông Thủ từ Nguyễn Trường Lý từ trong xóm nhỏ đi ra, từ tốn mở cánh cửa lim nặng nề. Một không gian chùa qua bốn trăm năm đang được cách ly với bên ngoài bỗng vỡ òa trong chốc lát, tượng Phật, màu ngói rệu rã rêu phong như làm sửng sốt cho những người lạ chúng tôi.
Như đoán được suy nghĩ của khách ông kể rằng:
- Kể từ khi ngôi chùa này có mặt trên doi đất hình con cá chép này, thì tổ tiên nhà ông là những Thủ từ truyền từ đời này qua đời khác, những khi có việc làng, trùng tu hay lễ hội thì ông lại bàn giao cho làng sử dụng. Lúc hội làng sắp mở làng bắt đầu cắt cử đội bảo vệ chùa, chọn ông chủ lễ phải là người “đức cao vọng trọng”. Thường người được chọn là bậc cao niên, hai ông bà còn song toàn, phải thượng thọ được ăn yến lão. Khi hội làng vừa xong lại bàn giao ngôi chùa này cho ông Thủ từ. Nên mọi lịch sử biến đổi đều do Thủ từ ghi chép lại trong cuốn “Hành thiện xã chí”, Ông vừa làm nhiệm vụ khói nhang cho đức Phật.
Ông Thủ từ cho biết:
- Bố tôi kế nghiệp của ông tôi, ông tôi kế nghiệp của cố, đã qua hai mươi đời nhà tôi làm nghề Thủ từ. Và đến đời tôi cũng phải ghi chép đầy đủ mọi cái diễn ra từ cái nhỏ, đến cả tên tuổi ngày tháng năm sinh của các Thủ từ. Nên cũng từ đó ngôi chùa có bao nhiêu bí mật đều nằm trong cuốn “Hành thiện xã chí” cả, nhưng số người được tiếp cận tính đến nay thì rất hiếm. Cuốn “Hành thiện xã chí” còn ghi cách đây mấy trăm năm, chùa đã từng có rất nhiều vị sư hành khất đến ở được một thời gian, thấy trong người khó ở lại khăn gói ra đi, bởi nhiều điều không ngộ ra giáo lý của ngôi chùa, cũng bởi trong người có một cái gì đó rối rắm như tơ vò mà ra đi không giải thích lý do gì.
Ông Thủ từ cho biết:
- Cách đây vài năm có một vị sư khăn gói từ Thái Bình lên, quyết tâm xin ở lại tu đạo và cũng là nghiên cứu, hóa giải lời nguyền nhưng rồi cũng phải ra đi. Lúc đó ông bảo tôi là bị nhức đầu, suy nhược thần kinh, không đủ khả năng để tịnh cái tâm phải đi mới yên ổn. Từ đó câu chuyện về chùa không sư lại tăng thêm phần kỳ bí, nhưng đến giờ chưa một nhà làm khoa học, học thuật hoặc nhà sư nào hóa giải nổi tính khí huyền thoại của ngôi chùa. Còn ông Thủ từ kín đáo ấy, có bao nhiều bí mật về ngôi chùa lạ, ông mãi giấu những điều bí mật thuộc về giới đạo chăng?
Trong cuốn “Trùng san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục yếu tập” có ghi, chùa Hành Thiện do thánh Không Lộ Thiền Sư 1016-1094 xây cất. Thiền Sư Không Lộ xuất thân trong một gia đình họ Dương làm nghề ngư phủ, lớn lên ông xuất gia theo thiền sư Lôi Hà Trạch. Truyền thuyết còn kể lại rằng, khi viên tịch ông hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên khúc gỗ trầm hương biến thành tượng. Thánh tượng này còn được lưu giữ trong hậu cung, quanh năm khóa kín cửa không cho ai được thấy dung nhan của ngài. Cứ phải qua mười hai năm, một chủ lễ và bốn viên chấp sự được cử để làm lễ trang hoàng tượng thánh. Nên rất nhiều du khách đến chùa muốn xem “mặt ngài” cũng phải đợi mười hai năm mới có dịp.
Nói thêm về phần chọn người tắm rửa, trang hoàng cho ngài cũng phải thuộc những người có nhân phẩm, ăn chay, mặc quần áo mới. Sau khi rước thánh ra từ cấm cung mới dùng nước dừa pha tinh bưởi, để tắm gội và tô son lại cho ngài. Nhưng họ buộc phải giữ bí mật cho đến khi chết mang đi, về những điều đã thấy khi trang hoàng cho ngài. Điều đó càng tạo nên lớp sương mù bí hiểm bao bọc lấy ngôi chùa nhiều huyền thoại này. Nghiên cứu thêm về lịch sử của chùa: Chùa Hành Thiện mang dấu tích của chùa Keo ở làng Dũng Nhân, Giao Thủy, Nam Định. Vì năm 1061 Không Lộ Thiền sư dựng chùa Nghiêm Quang bên hữu ngạn sông Hồng, theo thời gian chùa bị nước làm cho xói mòn. Đến 1611 một trận lũ lớn đã cuốn trôi tất cả các dấu tích của ngôi chùa.
Dân làng Keo phải rời bỏ quê cha đất tổ, một nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông Hồng. Về sau dựng nên chùa Keo Thái Bình. Còn một phần xuống Xuân Trường, Nam Định dựng chùa Hành Thiện và tồn tại cho đến tận bây giờ. Bao giờ giải được lời nguyền? Chúng tôi đã cố gắng vén một chút về bức màn bí ẩn này, thế nhưng đến nay cũng chỉ biết được về lịch sử ngôi chùa: Chùa là một trong hai ngôi chùa gắn với tên tuổi của nhà sư Không Lộ. Ông có công truyền bá rộng rãi đạo Phật trong dân gian. Khởi nguồn về mô hình của Chùa Hành Thiện được tính từ hồi 1062 thời Tiền Lý, người ta di dân đến xây mô hình chùa ở làng Dũng Nhuệ, Giao Thủy.
Sau đó về đất Hành Thiện vào năm 1588, sang Thái Bình năm 1611, về mặt quy mô chùa Keo Thái Bình lớn hơn chùa Keo Hành Thiện, bề thế hơn nhưng cấu trúc lại sao chép như nguyên vẹn; Cả hai chùa đều dựng bằng gỗ Lim, kết với nhau bằng mộng tre, mộng vược và mang cấu trúc thời Tiền Lê, thời kỳ Phật giáo phát triển thịnh vượng nhất ở nước ta. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, rồi đến thời kỳ kháng chiến chống pháp, chống Mỹ, chùa Hành Thiện vẫn uy nghi, nhiều phen bọn thực dân Pháp có ý đồ phá, mà do sự tích kỳ bí về chùa quá lớn đến nỗi họng súng của bọn giặc cũng không dám nhòm ngó tới. Ngày xưa Thái Bình, Nam Định là những nơi nằm trong các dự án di dân dưới các triều đại phong kiến.
Dân hai bên sông Hồng chạy lũ, kéo theo đủ nét văn hóa phong tục, từ văn minh lúa nước đến tín ngưỡng đạo Phật, mà cụ thể là đem theo cấu trúc cũng như mô hình chùa chiền đến vùng đất mới. Đói kém, mất mùa, thiên nhiên bạc đãi, thú dữ… là những thế lực mà con người sợ. Thế nên người ta tôn sùng ngài Không Lộ Thiền sư, người đi đâu đem ngài theo đó để thờ cúng, như một biểu tượng của sự che chở tinh thần. Nên khi chùa Hành Thiện được dựng lên, những cái gì thuộc về nguyên sơ mà người ta đem đến đều được tôn sùng giấu kín để thờ phụng, thì đến nay nhiều thứ còn lại thuộc về di sản đó đang là điều bí mật, không được công bố cho dư luận cũng là điều thường thấy ở các chùa chiền. Nhưng đó cũng là yếu tố để tạo nên những huyền thoại về thánh thần nơi cửa phật.
Còn về vấn đề sao các sư không sống được ở chùa, trong một số sách, trong đó có cuốn “Hành Thiện xã chí” của gia tộc Thủ từ cũng có đề cập đến: “Có thể do không quen với thổ nhưỡng chướng khí. Mà cụ thể là cơ địa con người, nhà sư đạo cao cũng là người, thì không hợp chất đất nguồn nước... là phải. Thì sinh ra ốm đau bệnh tật ở lâu có sư bị viên tịch ngoài ý muốn là phải”. Như vậy mới có chuyện sinh ra các sư đến lưu trú, hành đạo tu đạo trong chùa sẽ bị ốm, bệnh, chết... rồi bỏ đi chăng? Về cơ sở lý thuyết này đến nay vẫn chưa có nhà khoa học tổ chức nào, nghiên cứu cụ thể sát với thực tế, vấn đề “lời nguyền” trong truyền thuyết làm cho câu chuyện về “chùa không sư” thêm phần huyền bí.
Dẫu chùa không sư, không vãi, không tiếng mõ vang âm nhưng ngôi chùa vẫn tồn tại với thời gian. Du khách đến đây ngoài tìm lại bản chất con người nơi cửa chùa ra, còn tìm về huyền thoại tín ngưỡng của cha ông ta, những điều chưa biết chăng?
Công Luận
Chuyện rằng khi Thiền sư Không Lộ dựng nên chùa, dân chúng nơi đây không mấy mặn mà với đạo Phật và khói nhang tượng Phật. Thuở đó Đức Thánh tổ nổi giận trừng phạt dân gian. Trong một đêm mưa gió bão bùng, Đức Thánh đan không biết bao nhiêu rọ tre cho tất cả tượng Phật vào đó. Rồi ngài ngả nón làm thuyền vượt sông Hồng sang đất Thái Bình. Và tất cả tượng Phật, cái gì liên quan đến nhà Phật cũng xuôi theo dòng nước theo ngài về nơi đất mới. Đến giữa sông ngài ngoảnh cổ lại và nói một lời nguyền rằng, sẽ không có vị sư nào đến ở ngôi chùa trên.
Cho đến tận bây giờ chẳng sư nào trụ lại được ở ngôi chùa này, làm cho tích chuyện thêm phần kỳ bí. Ngôi chùa bề thế đó có độ tuổi đến vài trăm năm, rêu phong và cổ kính nhất nhì miền Bắc, thế nhưng lại không có bóng dáng của áo thâm, nón tu-lờ, chùa không có sư ở, có vẻ lạ ở trên đời ấy là chùa Keo Hành Thiện, thuộc huyện Xuân Trường Nam Định. Chúng tôi đến thăm chùa không sư vào tờ mờ sáng, khi chưa có khách hành hương về đất Phật. Nhìn ngắm ngôi chùa trong sương sớm, lại ngược thời gian nghe huyền thoại chợt xao lòng, thấy ngôi chùa thêm bao phần kỳ bí mà chưa ai rõ thực hư của vấn đề. Ông Thủ từ Nguyễn Trường Lý từ trong xóm nhỏ đi ra, từ tốn mở cánh cửa lim nặng nề. Một không gian chùa qua bốn trăm năm đang được cách ly với bên ngoài bỗng vỡ òa trong chốc lát, tượng Phật, màu ngói rệu rã rêu phong như làm sửng sốt cho những người lạ chúng tôi.
Như đoán được suy nghĩ của khách ông kể rằng:
- Kể từ khi ngôi chùa này có mặt trên doi đất hình con cá chép này, thì tổ tiên nhà ông là những Thủ từ truyền từ đời này qua đời khác, những khi có việc làng, trùng tu hay lễ hội thì ông lại bàn giao cho làng sử dụng. Lúc hội làng sắp mở làng bắt đầu cắt cử đội bảo vệ chùa, chọn ông chủ lễ phải là người “đức cao vọng trọng”. Thường người được chọn là bậc cao niên, hai ông bà còn song toàn, phải thượng thọ được ăn yến lão. Khi hội làng vừa xong lại bàn giao ngôi chùa này cho ông Thủ từ. Nên mọi lịch sử biến đổi đều do Thủ từ ghi chép lại trong cuốn “Hành thiện xã chí”, Ông vừa làm nhiệm vụ khói nhang cho đức Phật.
Ông Thủ từ cho biết:
- Bố tôi kế nghiệp của ông tôi, ông tôi kế nghiệp của cố, đã qua hai mươi đời nhà tôi làm nghề Thủ từ. Và đến đời tôi cũng phải ghi chép đầy đủ mọi cái diễn ra từ cái nhỏ, đến cả tên tuổi ngày tháng năm sinh của các Thủ từ. Nên cũng từ đó ngôi chùa có bao nhiêu bí mật đều nằm trong cuốn “Hành thiện xã chí” cả, nhưng số người được tiếp cận tính đến nay thì rất hiếm. Cuốn “Hành thiện xã chí” còn ghi cách đây mấy trăm năm, chùa đã từng có rất nhiều vị sư hành khất đến ở được một thời gian, thấy trong người khó ở lại khăn gói ra đi, bởi nhiều điều không ngộ ra giáo lý của ngôi chùa, cũng bởi trong người có một cái gì đó rối rắm như tơ vò mà ra đi không giải thích lý do gì.
Ông Thủ từ cho biết:
- Cách đây vài năm có một vị sư khăn gói từ Thái Bình lên, quyết tâm xin ở lại tu đạo và cũng là nghiên cứu, hóa giải lời nguyền nhưng rồi cũng phải ra đi. Lúc đó ông bảo tôi là bị nhức đầu, suy nhược thần kinh, không đủ khả năng để tịnh cái tâm phải đi mới yên ổn. Từ đó câu chuyện về chùa không sư lại tăng thêm phần kỳ bí, nhưng đến giờ chưa một nhà làm khoa học, học thuật hoặc nhà sư nào hóa giải nổi tính khí huyền thoại của ngôi chùa. Còn ông Thủ từ kín đáo ấy, có bao nhiều bí mật về ngôi chùa lạ, ông mãi giấu những điều bí mật thuộc về giới đạo chăng?
Trong cuốn “Trùng san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục yếu tập” có ghi, chùa Hành Thiện do thánh Không Lộ Thiền Sư 1016-1094 xây cất. Thiền Sư Không Lộ xuất thân trong một gia đình họ Dương làm nghề ngư phủ, lớn lên ông xuất gia theo thiền sư Lôi Hà Trạch. Truyền thuyết còn kể lại rằng, khi viên tịch ông hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên khúc gỗ trầm hương biến thành tượng. Thánh tượng này còn được lưu giữ trong hậu cung, quanh năm khóa kín cửa không cho ai được thấy dung nhan của ngài. Cứ phải qua mười hai năm, một chủ lễ và bốn viên chấp sự được cử để làm lễ trang hoàng tượng thánh. Nên rất nhiều du khách đến chùa muốn xem “mặt ngài” cũng phải đợi mười hai năm mới có dịp.
Nói thêm về phần chọn người tắm rửa, trang hoàng cho ngài cũng phải thuộc những người có nhân phẩm, ăn chay, mặc quần áo mới. Sau khi rước thánh ra từ cấm cung mới dùng nước dừa pha tinh bưởi, để tắm gội và tô son lại cho ngài. Nhưng họ buộc phải giữ bí mật cho đến khi chết mang đi, về những điều đã thấy khi trang hoàng cho ngài. Điều đó càng tạo nên lớp sương mù bí hiểm bao bọc lấy ngôi chùa nhiều huyền thoại này. Nghiên cứu thêm về lịch sử của chùa: Chùa Hành Thiện mang dấu tích của chùa Keo ở làng Dũng Nhân, Giao Thủy, Nam Định. Vì năm 1061 Không Lộ Thiền sư dựng chùa Nghiêm Quang bên hữu ngạn sông Hồng, theo thời gian chùa bị nước làm cho xói mòn. Đến 1611 một trận lũ lớn đã cuốn trôi tất cả các dấu tích của ngôi chùa.
Dân làng Keo phải rời bỏ quê cha đất tổ, một nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông Hồng. Về sau dựng nên chùa Keo Thái Bình. Còn một phần xuống Xuân Trường, Nam Định dựng chùa Hành Thiện và tồn tại cho đến tận bây giờ. Bao giờ giải được lời nguyền? Chúng tôi đã cố gắng vén một chút về bức màn bí ẩn này, thế nhưng đến nay cũng chỉ biết được về lịch sử ngôi chùa: Chùa là một trong hai ngôi chùa gắn với tên tuổi của nhà sư Không Lộ. Ông có công truyền bá rộng rãi đạo Phật trong dân gian. Khởi nguồn về mô hình của Chùa Hành Thiện được tính từ hồi 1062 thời Tiền Lý, người ta di dân đến xây mô hình chùa ở làng Dũng Nhuệ, Giao Thủy.
Sau đó về đất Hành Thiện vào năm 1588, sang Thái Bình năm 1611, về mặt quy mô chùa Keo Thái Bình lớn hơn chùa Keo Hành Thiện, bề thế hơn nhưng cấu trúc lại sao chép như nguyên vẹn; Cả hai chùa đều dựng bằng gỗ Lim, kết với nhau bằng mộng tre, mộng vược và mang cấu trúc thời Tiền Lê, thời kỳ Phật giáo phát triển thịnh vượng nhất ở nước ta. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, rồi đến thời kỳ kháng chiến chống pháp, chống Mỹ, chùa Hành Thiện vẫn uy nghi, nhiều phen bọn thực dân Pháp có ý đồ phá, mà do sự tích kỳ bí về chùa quá lớn đến nỗi họng súng của bọn giặc cũng không dám nhòm ngó tới. Ngày xưa Thái Bình, Nam Định là những nơi nằm trong các dự án di dân dưới các triều đại phong kiến.
Dân hai bên sông Hồng chạy lũ, kéo theo đủ nét văn hóa phong tục, từ văn minh lúa nước đến tín ngưỡng đạo Phật, mà cụ thể là đem theo cấu trúc cũng như mô hình chùa chiền đến vùng đất mới. Đói kém, mất mùa, thiên nhiên bạc đãi, thú dữ… là những thế lực mà con người sợ. Thế nên người ta tôn sùng ngài Không Lộ Thiền sư, người đi đâu đem ngài theo đó để thờ cúng, như một biểu tượng của sự che chở tinh thần. Nên khi chùa Hành Thiện được dựng lên, những cái gì thuộc về nguyên sơ mà người ta đem đến đều được tôn sùng giấu kín để thờ phụng, thì đến nay nhiều thứ còn lại thuộc về di sản đó đang là điều bí mật, không được công bố cho dư luận cũng là điều thường thấy ở các chùa chiền. Nhưng đó cũng là yếu tố để tạo nên những huyền thoại về thánh thần nơi cửa phật.
Còn về vấn đề sao các sư không sống được ở chùa, trong một số sách, trong đó có cuốn “Hành Thiện xã chí” của gia tộc Thủ từ cũng có đề cập đến: “Có thể do không quen với thổ nhưỡng chướng khí. Mà cụ thể là cơ địa con người, nhà sư đạo cao cũng là người, thì không hợp chất đất nguồn nước... là phải. Thì sinh ra ốm đau bệnh tật ở lâu có sư bị viên tịch ngoài ý muốn là phải”. Như vậy mới có chuyện sinh ra các sư đến lưu trú, hành đạo tu đạo trong chùa sẽ bị ốm, bệnh, chết... rồi bỏ đi chăng? Về cơ sở lý thuyết này đến nay vẫn chưa có nhà khoa học tổ chức nào, nghiên cứu cụ thể sát với thực tế, vấn đề “lời nguyền” trong truyền thuyết làm cho câu chuyện về “chùa không sư” thêm phần huyền bí.
Dẫu chùa không sư, không vãi, không tiếng mõ vang âm nhưng ngôi chùa vẫn tồn tại với thời gian. Du khách đến đây ngoài tìm lại bản chất con người nơi cửa chùa ra, còn tìm về huyền thoại tín ngưỡng của cha ông ta, những điều chưa biết chăng?
Công Luận
#184
Gửi vào 12/07/2011 - 01:28
CHUYỆN XƯA: TÂY NINH VỚI NẠN CỌP LOẠN RỪNG
Như chúng ta đã biết ngày xưa Tây Ninh toàn là rừng già, chưa được khai thác trống trải như ngày nay nên nó là giang sơn của cọp voi, mang mến... Thời ấy, chúa sơn lâm hay bén mảng gần xóm đông dân cư, để rình bắt heo bò và cõng người về rừng xé xác. Chẳng rõ "cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận" dữ đến thế nào, chứ riêng nạn cọp Tây Ninh có lắm lúc bất trị, khiến dân chúng coi như là một đại họa hãi hùng. Cho đến khoảng cận đại, mặc dù đã có khoa học tiến bộ mà vùng Tây Ninh vẫn còn ghi dấu vết ghê rợn về nạn cọp hoành hành.
ngược dòng lịch sử khoảng năm 1914 vào đêm 13-7, đồng bào Tây Ninh bắt đầu trải qua nạn cọp lẻn về xóm trường học và nhà thờ công giáo, trong phạm vi châu thành Tây Ninh. Chiều hôm ấy cọp rời rừng, vào xóm rình bắt heo, bò và tiện bắt luôn cả người, nếu như chúa sơn lâm thấy tiện...Mới hơn bốn giờ chiều mà cọp đã làm lộng lắm rồi. Bắt được bò, cọp lôi ngay vào một nơi khuất tịch ở gần đấy. Nơi này bốn bề phủ kín bởi các lùm cây ổi tây dày bịt, nên không ai hay biết và trông thấy để kịp thời truy hô cùng nhau đánh đuổi chúng.
Nhưng tạo hóa chí công. Những loài độc dữ đi đến đâu thường loài khác biết được nên tránh xa. Cho nên lúc ấy tín đồ công giáo đến nhà thờ làm lể, bỗng ngửi thấy mùi khét và hôi. Xem lại thì trời đang đứng gió mà trong bụi ổi lại thấy cành lá xao động. Sinh nghi những người dạn dĩ hết sức cẩn thận dò xét. Quả nhiên họ thấy ngay một con cọp đang ngấu nghiến con bò. Không chút chần chừ người ta liền báo ngay cho dân chúng để cùng nhau tiêu diệt con cọp gian ác kia. Người có súng dùng súng, có gậy gộc thì dùng gậy gộc. Nhưng không kịp rồi. Cọp thấy động liền phản ứng nhanh chóng, xông ra vồ ngay ông đội Nhiều và một người nữa.
Nhanh trí và bình tĩnh, ông Đội Nhiều lấy nón phang vào mặt cọp để cọp phải né tránh, ông và người kia kịp thời lách mình đối phó. Bị ném nón thình lình, cọp đâm ra hoảng hốt chụp lấy nón xé nát. Không chút chậm trể, Đội Nhiều nhanh chân trèo lên cây me gần đấy thủ thế. Còn người kia thì chạy thoát ra đường vào bưu điện cấp báo về tỉnh. Trong khi ấy cọp vẫn ngạo nghễ phục nơi lùm cây, không thèm chạy đi đâu cả, dường như có ý thách loài người. Mà loài người thì đâu chịu bó tay đầu hàng trước con vật hung ác. Trong lúc cọp ngạo mạn, người thủ thế bao vây, viện binh kéo tới. Ông tỉnh trưởng cùng với viên cận vệ, ông đội Lê Văn Lâm đến nơi.
Tức thì súng nổ đạn bay. Quả là cây súng tài, ngay loạt đạn đầu tiên vị tỉnh trưởng đã hạ được cọp. Mà cũng quả là tới số, nên cọp ở lại chờ chết để đền tội với dân chúng nơi đây. Có điều là sau khi kiểm soát lại, nhận thấy Đội Lâm hớ hênh lẻn ra phía sau định phục kích đường tháo lui của chúa sơn, chẳng may bị lạc đạn bị thương nơi mắt cá chân. Khi Đạo Tam Kỳ khởi khai phá rừng để hoằng dương đạo pháp tại nơi Tòa Thánh hiện nay, trong rằm tháng Giêng năm Đinh Mão 1927 một con cọp ra đầu đường quốc lộ mười ba, vồ một con ngựa đang bắt kế trong một xe thổ mộ, lôi vào mé rừng móc họng.
Khuya đêm ấy ông cụ thân sinh của giáo sư Trần văn Thử, nguyên hiệu trưởng trường Pétrus Ký, từ nhà ở xóm Phan đánh xe bò ra thăm con ở nhà đốc học Trần Văn Giảng đi học. Xe gần đến chổ cọp tác quái, trời còn nhá nhem chưa sáng, ông cụ thấy lờ mờ bên đường, một chiếc xe ngựa chổng đuôi tôm nhúc nhích. Thấy lạ ông gò dây bó chậm lại để xem cho kỹ thì một tiếng chúa sơn lâm hộc vang dậy xé không gian đêm tàn. Đôi bò đánh được hơi cọp liền nhảy sải hai nước lớn kéo xe chạy như bay bất chấp lỗ hang, một mạch tới châu thành Tây Ninh. Lương thực, bánh trái đem theo cho con văng xuống đường mất hết không còn vật gì ông cụ cũng không hay.
Từ ấy đến năm 1946 và trở về trước, mặc dù Tây Ninh là xứ núi rừng, đồng bào phần đông sinh hoạt về lâm sản, trãi bao năm vẫn không nghe ai bị cọp bắt voi chà. Nhưng đến năm 1947-1948, cọp lại loạn rừng. Mỗi đêm khoảng tám giờ tối, quân Pháp ban hành lệnh giới nghiêm tới sáu giờ sáng. Ngoài đường trong vườn tược không một bóng người. Súc vật cũng nhốt trong chuồng hay trong nhà, vì có ba lẽ: nhất là Pháp bắn bỏ hoặc bắt giam, muốn được trả tự do phải lo lót, hai là bị cướp bắt đi, ba là bị cọp bắt ăn thịt chết không toàn mạng. Tại xã Ninh Thạnh ấp Chánh, cọp đã ăn ba mạng và mỗi đêm thường về ấp này bắt heo mang vô rừng ăn dần.
Một hôm vào lúc năm giờ sáng, đạo đồng chùa Long Sơn vừa dứt công phu, còn ngồi gióng chuông, dòm qua kẹt cửa để xem trời sáng chưa, chợt thấy một con cọp cái đang nằm với cọp con cách đó một thước tây thôi. Những người trong chùa cửa đóng then cài, cọp ngoài sân nằm ngửa giởn với con. Mặt chú đạo đồng tái mét cắt không còn chút máu, bò càn xuống hậu liêu, đánh thức chư tăng mà báo động:
- Trời đất ơi! Cọp về! Cọp...
Chư tăng cố trấn tĩnh:
- Cọp về đâu?
- Cọp nằm trước cửa chùa. Cọp mẹ cọp con đang trửng giởn xem bắt lạnh mình rởn óc. Quý Thầy ra xem thì biết.
Mọi người nhẹ gót dòm lén thảy đều hồn bất phụ thể. Không ai dám động tịnh gì, ở đâu ngồi yên đó chờ tới sáng cọp bỏ ra đi. Chừng xem xét lại thì ra cọp đã nằm suốt đêm. Chư Tăng thở một hơi nhẹ nhàng tỉnh hồn tỉnh vía. Trên đây chúng tôi dò tài liệu của ông cụ trụ trì chùa Long Sơn mà ghi chép lại một cách trung thực. Riêng chúng tôi có thân hành đến viếng chùa Long Sơn, được Hòa Thượng trụ trì hướng dẩn đến xem nơi cọp vồ một người, rồi đem xuống bụi tre xé xác, đứa bé xấu số ấy là con của một lão thầy pháp trong làng. Ngày nay gợi lại câu chuyện cọp loạn rừng, ăn thịt người, vật bò, bắt ngựa khiến cho mọi người phải giựt mình hãi sợ, cho đó là tai họa của thời chúa sơn lâm tung hoành, gieo tai ương cho người dân tỉnh Tây Ninh.
Huỳnh Minh
Như chúng ta đã biết ngày xưa Tây Ninh toàn là rừng già, chưa được khai thác trống trải như ngày nay nên nó là giang sơn của cọp voi, mang mến... Thời ấy, chúa sơn lâm hay bén mảng gần xóm đông dân cư, để rình bắt heo bò và cõng người về rừng xé xác. Chẳng rõ "cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận" dữ đến thế nào, chứ riêng nạn cọp Tây Ninh có lắm lúc bất trị, khiến dân chúng coi như là một đại họa hãi hùng. Cho đến khoảng cận đại, mặc dù đã có khoa học tiến bộ mà vùng Tây Ninh vẫn còn ghi dấu vết ghê rợn về nạn cọp hoành hành.
ngược dòng lịch sử khoảng năm 1914 vào đêm 13-7, đồng bào Tây Ninh bắt đầu trải qua nạn cọp lẻn về xóm trường học và nhà thờ công giáo, trong phạm vi châu thành Tây Ninh. Chiều hôm ấy cọp rời rừng, vào xóm rình bắt heo, bò và tiện bắt luôn cả người, nếu như chúa sơn lâm thấy tiện...Mới hơn bốn giờ chiều mà cọp đã làm lộng lắm rồi. Bắt được bò, cọp lôi ngay vào một nơi khuất tịch ở gần đấy. Nơi này bốn bề phủ kín bởi các lùm cây ổi tây dày bịt, nên không ai hay biết và trông thấy để kịp thời truy hô cùng nhau đánh đuổi chúng.
Nhưng tạo hóa chí công. Những loài độc dữ đi đến đâu thường loài khác biết được nên tránh xa. Cho nên lúc ấy tín đồ công giáo đến nhà thờ làm lể, bỗng ngửi thấy mùi khét và hôi. Xem lại thì trời đang đứng gió mà trong bụi ổi lại thấy cành lá xao động. Sinh nghi những người dạn dĩ hết sức cẩn thận dò xét. Quả nhiên họ thấy ngay một con cọp đang ngấu nghiến con bò. Không chút chần chừ người ta liền báo ngay cho dân chúng để cùng nhau tiêu diệt con cọp gian ác kia. Người có súng dùng súng, có gậy gộc thì dùng gậy gộc. Nhưng không kịp rồi. Cọp thấy động liền phản ứng nhanh chóng, xông ra vồ ngay ông đội Nhiều và một người nữa.
Nhanh trí và bình tĩnh, ông Đội Nhiều lấy nón phang vào mặt cọp để cọp phải né tránh, ông và người kia kịp thời lách mình đối phó. Bị ném nón thình lình, cọp đâm ra hoảng hốt chụp lấy nón xé nát. Không chút chậm trể, Đội Nhiều nhanh chân trèo lên cây me gần đấy thủ thế. Còn người kia thì chạy thoát ra đường vào bưu điện cấp báo về tỉnh. Trong khi ấy cọp vẫn ngạo nghễ phục nơi lùm cây, không thèm chạy đi đâu cả, dường như có ý thách loài người. Mà loài người thì đâu chịu bó tay đầu hàng trước con vật hung ác. Trong lúc cọp ngạo mạn, người thủ thế bao vây, viện binh kéo tới. Ông tỉnh trưởng cùng với viên cận vệ, ông đội Lê Văn Lâm đến nơi.
Tức thì súng nổ đạn bay. Quả là cây súng tài, ngay loạt đạn đầu tiên vị tỉnh trưởng đã hạ được cọp. Mà cũng quả là tới số, nên cọp ở lại chờ chết để đền tội với dân chúng nơi đây. Có điều là sau khi kiểm soát lại, nhận thấy Đội Lâm hớ hênh lẻn ra phía sau định phục kích đường tháo lui của chúa sơn, chẳng may bị lạc đạn bị thương nơi mắt cá chân. Khi Đạo Tam Kỳ khởi khai phá rừng để hoằng dương đạo pháp tại nơi Tòa Thánh hiện nay, trong rằm tháng Giêng năm Đinh Mão 1927 một con cọp ra đầu đường quốc lộ mười ba, vồ một con ngựa đang bắt kế trong một xe thổ mộ, lôi vào mé rừng móc họng.
Khuya đêm ấy ông cụ thân sinh của giáo sư Trần văn Thử, nguyên hiệu trưởng trường Pétrus Ký, từ nhà ở xóm Phan đánh xe bò ra thăm con ở nhà đốc học Trần Văn Giảng đi học. Xe gần đến chổ cọp tác quái, trời còn nhá nhem chưa sáng, ông cụ thấy lờ mờ bên đường, một chiếc xe ngựa chổng đuôi tôm nhúc nhích. Thấy lạ ông gò dây bó chậm lại để xem cho kỹ thì một tiếng chúa sơn lâm hộc vang dậy xé không gian đêm tàn. Đôi bò đánh được hơi cọp liền nhảy sải hai nước lớn kéo xe chạy như bay bất chấp lỗ hang, một mạch tới châu thành Tây Ninh. Lương thực, bánh trái đem theo cho con văng xuống đường mất hết không còn vật gì ông cụ cũng không hay.
Từ ấy đến năm 1946 và trở về trước, mặc dù Tây Ninh là xứ núi rừng, đồng bào phần đông sinh hoạt về lâm sản, trãi bao năm vẫn không nghe ai bị cọp bắt voi chà. Nhưng đến năm 1947-1948, cọp lại loạn rừng. Mỗi đêm khoảng tám giờ tối, quân Pháp ban hành lệnh giới nghiêm tới sáu giờ sáng. Ngoài đường trong vườn tược không một bóng người. Súc vật cũng nhốt trong chuồng hay trong nhà, vì có ba lẽ: nhất là Pháp bắn bỏ hoặc bắt giam, muốn được trả tự do phải lo lót, hai là bị cướp bắt đi, ba là bị cọp bắt ăn thịt chết không toàn mạng. Tại xã Ninh Thạnh ấp Chánh, cọp đã ăn ba mạng và mỗi đêm thường về ấp này bắt heo mang vô rừng ăn dần.
Một hôm vào lúc năm giờ sáng, đạo đồng chùa Long Sơn vừa dứt công phu, còn ngồi gióng chuông, dòm qua kẹt cửa để xem trời sáng chưa, chợt thấy một con cọp cái đang nằm với cọp con cách đó một thước tây thôi. Những người trong chùa cửa đóng then cài, cọp ngoài sân nằm ngửa giởn với con. Mặt chú đạo đồng tái mét cắt không còn chút máu, bò càn xuống hậu liêu, đánh thức chư tăng mà báo động:
- Trời đất ơi! Cọp về! Cọp...
Chư tăng cố trấn tĩnh:
- Cọp về đâu?
- Cọp nằm trước cửa chùa. Cọp mẹ cọp con đang trửng giởn xem bắt lạnh mình rởn óc. Quý Thầy ra xem thì biết.
Mọi người nhẹ gót dòm lén thảy đều hồn bất phụ thể. Không ai dám động tịnh gì, ở đâu ngồi yên đó chờ tới sáng cọp bỏ ra đi. Chừng xem xét lại thì ra cọp đã nằm suốt đêm. Chư Tăng thở một hơi nhẹ nhàng tỉnh hồn tỉnh vía. Trên đây chúng tôi dò tài liệu của ông cụ trụ trì chùa Long Sơn mà ghi chép lại một cách trung thực. Riêng chúng tôi có thân hành đến viếng chùa Long Sơn, được Hòa Thượng trụ trì hướng dẩn đến xem nơi cọp vồ một người, rồi đem xuống bụi tre xé xác, đứa bé xấu số ấy là con của một lão thầy pháp trong làng. Ngày nay gợi lại câu chuyện cọp loạn rừng, ăn thịt người, vật bò, bắt ngựa khiến cho mọi người phải giựt mình hãi sợ, cho đó là tai họa của thời chúa sơn lâm tung hoành, gieo tai ương cho người dân tỉnh Tây Ninh.
Huỳnh Minh
#185
Gửi vào 12/07/2011 - 02:36
TRUYỀN THUYẾT VỀ RỒNG
Rồng với ý nghĩa đặc biệt, đã thâm nhập vào khắp lĩnh vực văn hoá cổ truyền của Trung Quốc, và đã trở thành biểu tượng tinh thần mạnh mẽ cho người Trung Quốc. Có thực sự là Rồng có tồn tại? Hay chúng chỉ đơn giản được tưởng tượng trong thế giới tinh thần, hay nó thực sự thiện hữu vật chất? Nó vẫn là một điều huyền bí đối với chúng ta hôm nay. Tôi rất ngạc nhiên vì có thể tìm thấy trong những cuốn sách lịch sử nhiều bản ghi chép chứng kiến về sự tồn tại của những con rồng, và điều đó đã thúc đẩy tôi nghiên cứu xem Rồng có thực sự tồn tại.
“Tạp Ký về Huyện Nghĩa ” từ Triều đại Nhà Thanh viết như sau: Vào năm 1503 sau Công Nguyên Triều Minh, năm thứ mười đời Hồng Di, năm con rồng đã bay lượn trên không trung khoảng mười lý (ba dặm) phía bắc huyện Nghĩa, tỉnh Hà Nam. Sau một thời gian lâu ở trên cao, chúng hạ xuống mặt đất và không thể bay lên lại được nữa. Mây kéo đến đầy trời và mặt biển bị khuấy tung lên. Một vị thần trong trang phục màu xanh từ trên trời đáp xuống và ngay lập tức được vây quanh bởi những con rồng đã rớt xuống. Một lúc sau mây tản hết và biển trở nên yên tĩnh. Năm con rồng vẫn chưa thể bay lên. Bấy giờ một vị thần màu xanh khác xuất hiện và những con rồng vây quanh ông ta. Đột nhiên bầu trời trở nên tối mịt. Những đám mây đen lớn xuất hiện. Cuối cùng khi bầu trời sáng trở lại, hai vị thần và năm con rồng đã bay đi.
“Ký sự về Thiên triều Gia Tĩnh, Phần Những Hiện tượng Kỳ lạ và Hiếm thấy” cũng có một câu chuyện tương tự về huyện Nghĩa. Vào tháng mười năm 1588 sau Công Nguyên, một con rồng trắng đã nổi lên trên Hồ Bình thuộc huyện Bình Hồ, tỉnh Triết Giang. Nó đã bay lượn trên mặt hồ, chiếu sáng một nửa bầu trời với ánh sáng đỏ. Chứng kiến của Shen Maoxiao, một vị quan chép sử cho vương triều, đã nhìn thấy một vị thần với trang phục màu tía và một cái mũ bằng vàng, đứng trên cao chừng ba chục mét, giữa những cái sừng của con rồng. Vị thần này cầm một vật có hình cây kiếm. Ở đó xuất hiện một quả cầu ánh sáng lớn như một cái đấu (một dụng cụ đo lường hình thang ở Trung Quốc) ở bên dưới cái đầu của con rồng.
“Ký sự về Thiên triều Tống Giang, phần những hiện tượng kỳ lạ và hiếm thấy” đã ghi chép một chứng kiến xảy ra hai mươi năm sau sự kiện con rồng trắng được trông thấy ở huyện Bình Hồ. Vào tháng bảy năm 1608 sau Công Nguyên, một con rồng trắng tương tự như con rồng xuất hiện trên Hồ Bình đã được nhìn thấy trên Sông Hoàng Phố ở huyện Tống Giang, Thượng Hải. Cũng có môt vị thần đứng trên đầu con rồng.
“Ký sự về Hậu Hán Triều, Phần Ngũ tố” trích dẫn sau này của "Ký sự về huyện Lạc Dương? Phần hiện tượng Kỳ lạ” đã chép rằng một con rồng trông thấy trên hoàng cung. Lưu Hồng, Hoàng đế của Vương Triều Đông hán, đã xây dựng thủ đô của mình gần huyện Lạc Dương Tỉnh Hà Nam ngày nay. Cung điện Văn Minh có thể là nơi ông cư ngụ. Vào ngày 1-7-178 sau Công Nguyên, một vật đen khổng lồ rớt từ trời xuống vườn đông của cung điện Văn Minh. Vật thể có hình tròn và giống như mái che của xe ngựa ngày xưa. Nó dài hai mươi mét và lướt đi nhanh chóng, phát ra những ánh sáng màu sắc. vật thể có một cái đầu nhưng không có chân và đuôi. Nó trông giống một con rồng nhưng có thể là không phải.
“Biên sử của Triều đại nhà Nguyên? Ký sự về Ngũ Tố” viết rằng có một con rồng xuất hiện gần Long Sơn ở huyện Lâm Tùng, Tỉnh Sơn Đông vào tháng tám năm 1190. Không may sự xuất hiện của nó đã không được ghi chép. Con rồng có thể mang một tảng đã lớn nặng 0,5 tấn bay lên không trung. Vào năm thứ hai mươi bốn của Cát An thuộc triều Đông Hán, một con rồng vàng xuất hiện trên Sông Trì Thủy của huyện Vũ Dương và nằm ở đó trong suốt chín ngày, cuối cùng thì rời đi. Một đền thờ được xây dựng và một bia đá được dựng lên trong đền thờ để ghi danh sự xuất hiện của con rồng.
Vào tháng tư năm thứ nhất của Vĩnh Hà, Triều Đông Tấn 345 Sau Công Nguyên, hai con rồng, một con màu trắng và một con màu đen xuất hiện ở Long Sơn. Mộ Dung Hoàng đế nước Yên, đem các quan trong triều đến một ngọn núi và tổ chức một lễ tế cách xa chỗ hai con rồng hai trăm dặm. Những cuốn sách lịch sử địa phương từ Triều Minh và Triều Thanh cũng có những dấu hiệu của những con rồng.
Theo “Ký sự về Thiên triều Lâm An” năm thứ tư Chongzhen 1631 AD, một con rồng lớn đã được nhìn thấy trên Hồ Kỳ Long, đông nam huyện Shiping, tỉnh Yunan ghi chép đã viết: “Râu, chân và vảy của con rồng nổi trên mặt nước, con rồng dài khoảng vài chục mét.” Rồng có thể đã xuất hiện nhiều hơn một lần ở Long Sơn (Núi Rồng) và Hồ Kỳ Long (Hồ Rồng kỳ lạ), điều này giải thích cho việc đặt tên cho những địa danh này.
“Ký sự Bổ sung của Triều đại Nhà Đường” đã ghi chép rằng một ngày trong năm cuối của Xiantong, một con rồng đen đã rơi xuống mặt đất trong vùng lãnh thổ của tỉnh Tongcheng và chết ở đó vì một vết thương trên cổ. Chiều dài đầy đủ của con rồng đo được là ba mươi mét, trong đó mười lăm mét là đuôi. Cái đuôi hình phẳng. Vảy của nó như vảy cá. Trên đầu có hai cái sừng. Râu của nó mọc bên cạnh miệng dài khoảng sáu mét. Chân của nó mọc ra từ dưới bụng, có một cái vảy màu đỏ che phủ.
“Thất Kinh Thư” của Long Anh chép rằng một ngày trong năm cuối của Thành Hoá Minh Triều, một con rồng rơi xuống trên bãi biển của Huyện Tân Thủy Tỉnh Giang Đông. Nó đã bị những người dân chài địa phương đánh tới chết. Con rồng cao như một người lớn và dài hàng chục mét. Nó trông rất giống con rồng trong những bức tranh cổ chỉ trừ cái bụng của nó màu đỏ.
Một con rồng đã chết được tìm thấy bên bờ Hồ Thái Bạch, vào năm thứ ba mươi hai của Thiếu Hưng thuộc Triều đại Nam Tống, 1162 sau Công Nguyên. Nó có râu dài và những cái vảy rất lớn. Cái lưng màu đen và cái bụng màu trắng. Tay của nó mọc ra từ lưng và hai cái sừng thò ra từ đầu. Nó có thể bốc mùi từ xa hàng dặm. Những người địa phương phát hiện ra nó với một mớ rối bù. Quan lại đã cho người đến làm lễ cúng tế bên cạnh nó. Tuy nhiên sau một đêm giông bão sấm sét con rồng đã biến mất. Chỉ có một cái mương để lại nơi nó đã nằm.
“Biên sử về Thiên triều Vĩnh Bình” chép rằng, vào mùa hè năm thứ mười chín của Đạo Quang, 1839 Sau Công Nguyên, một con rồng đã rớt từ trên trời xuống vùng hạ lưu con Sông Luân Hà, ở huyện Lao Đình. Con rồng nằm mệt lử, ruồi bọ vây quanh. Người dân địa phương làm một cái mái che cho nó để bảo vệ nó khỏi nắng, và phun nước lên người nó. Ba ngày sau, sau một đêm trời dông bão con rồng đã bay đi.
Vào tháng tám năm 1994, hàng trăm người từ Làng Chenjiayuanzi, Huyện Phù Du phía bắc của con sông Tùng Hoà Giang, vây quanh một con rồng đen nằm bên cạnh con sông. Yen Dianyuan, Một người chứng kiến vẫn còn sống, đã kể rằng con rồng dài chừng bảy mét và trông giống một con thàn lằn khổng lồ. Mặt của nó giống hệt như mặt của con rồng được vẽ trong các bức tranh cổ với bảy hoặc tám cái râu dày và cứng. Thân trên có đường kính khoảng một bộ. Bốn cái chân của nó đi để dấu sâu trên cát. Lớp vảy như vảy cá sấu phủ đầy thân nó. Yen Dianyuan vẫn rất băn khoăn tại sao con vật khổng lồ ấy lại trông rất giống với con rồng được vẽ trong tranh.
Vào mùa hè năm 1953, một con vật chưa được nhận biết đã rớt từ trời xuống một nơi gần phía nam Tỉnh Hà Nam. Những người tò mò đã đi bộ một quãng dài để đến xem. Theo sự miêu tả của những người chứng kiến, con rồng trông giống một con cá mập khổng lồ. Mùi hôi của nó thu hút vô số ruồi nhặng. Nếu nó là một con cá mập, nó phải sống dưới vùng biển sâu. Tại sao nó lại rớt từ trời xuống? Trường hợp này có thể liên quan đến những con rồng được ghi chép trong lịch sử rớt xuống từ trời.
Một con rồng xuất hiện vào ngày 31-8-2000. Các nhà khoa học đã dành vô số thời giờ và năng lượng, để khám phá vũ trụ này to lớn và huyền bí đến mức nào, họ đã đạt được không nhiều ngoại trừ những giả định và giả thiết. Họ đã làm việc cả ngày cả đêm, vậy mà họ vẫn bò lết trong cái khung của những lý thuyết bị giới hạn của họ. Nhằm để giải thoát khỏi những điều mê tín huyền hoặc khi thảo luận về “sự thật của vũ trụ” tôi muốn giới thiệu với các bạn một hiện tượng vô hình và huyền bí, nhưng tồn tại khách quan và phản ảnh trong không gian vật lý của chúng ta.
Thời tiết trên hầu hết các vùng của Trung Quốc năm nay rất nóng và khô với nhiệt độ lên đến 40 độ C (104 độ F), và đã dẫn đến cái chết của nhiều cây cối và đồng cỏ. Mùa màng không có màu xanh ở những nông trang rộng lớn. Chúng ta thường thấy những vụ mùa bội thu khi mùa thu đến. Nhưng năm 2000 đã không như vậy. Nhiều giòng sông khô cạn, gây ra hậu quả thiếu nước uống và lan tràn dịch bệnh. Đó chính xác đúng như những gì mà Sư Phụ Lý Hồng Chí đã nói trong một bài thơ: “người vô đức thiên tai nhân hoạ, đất vô đức vạn vật điêu tàn”.
Người ta đã lo lắng rằng mùa hè sẽ thiếu mưa và mùa thu sẽ thừa nước. Vào ngày bốn tháng tám, một trận mưa như trút nước xuống Ngôi làng Hắc Sơn Tử (Heishanzi) và ngôi làng được bao phủ bởi một lớp hơi nước nóng. Đột nhiên những đám mây dày từ bầu trời đáp xuống và cuộn dọc theo trên mặt đất. Người dân trong làng vô cùng hoảng sợ, vì họ chưa bao giờ thấy một loại thời tiết như vậy trước đó. Họ nằm im trong nhà và đóng cửa lại. Có một chàng trai trẻ dũng cảm đã bước ra ngoài xem chuyện gì đang xảy ra.
Anh ta đi xuyên qua và chẳng tìm thấy gì ngoài những đám mây dày đang cuồn cuộn. Anh ta tiếp tục đi và chẳng mấy chốc anh ta đã ở ngoài rìa làng. Đột nhiên anh ta sững sờ vì nhìn thấy cảnh tượng hai con rồng, một con màu đen và một con màu trắng nằm trên mặt đất trước mặt anh ta. Anh ta sững sờ và không thể tin vào những gì mình thấy. Anh ta dụi mắt mình bằng lưng bàn tay và véo vào cánh tay mình. Tay anh ta cảm thấy đau, vậy anh ta biết đó không phải là giấc mơ. Chàng trai trẻ tiến đến gần hơn để xem cho rõ hai con rồng.
Anh ta đã thấy rằng những cái sừng những cái vảy, những cái chân và đuôi của hai con rồng, giống hệt với những con rồng trong những bức tranh truyền thống, ngoại trừ những cái râu của nó ngắn hơn. Anh ta xoay mình và chạy biến về làng, hết sức có thể và la lên:
- Đi xem rồng bà con ơi, đi xem những con rồng rơi từ trời xuống.
Cả làng đi ra ngoài để xem rồng. Tin tức lan rộng nhanh chóng khắp vùng. Cảnh sát, cán bộ chính quyền, chuyên gia, giáo sư đại học đều đến ngôi làng Hắc Sơn Tử. Nhiều người chụp được đám đông vây quanh hai con rồng. Rồi các chuyên gia và giáo sư Đại học bắt đầu nói dông dài về các loại lý thuyết về hiện tượng, nhưng người ta không thể hiểu một từ nào về những gì họ nói. Sau đó cảnh sát bắt đầu giải tán đám đông, để lại một vài người bảo vệ hai con rồng. Một trận gió mạnh cuốn những đám mây đen cuộn lên cuộn xuống, khi nó đi qua con rồng màu trắng đã biến mất, từ những đôi mắt chăm chú nhìn của mấy người bảo vệ. Các quan chức không thể giải thích sự biến mất đó và họ cũng thấy chán nản về con rồng màu đen vẫn nằm ở trên mặt đất.
Lúc đó một lão nông già trên bảy mươi tuổi nói:
- Tôi đã nghe những điều tương tự thế này đã xẩy ra nhiều năm trước.
Và người ta tưới nước cho con rồng để cho nó về nhà. Ông đã kêu một vài người trẻ tuổi trong làng lấy chiếu và dựng một mái che cho con rồng. Rồi họ chở nước bằng xe cút kit, rồi họ phun nước lên chiếu để nước có thể chảy xuống lưng con rồng. Kết quả là con rồng đã sống đến hôm nay.
Vũ Tống (Wusong) là một thành phố bên cạnh sườn Tây của dãy núi Trường Bạch, Đông Nam Tỉnh Cát Lâm được gọi là “thành phố của Nhân Sâm”. Vào sáu giờ chiều ngày 18-9-2000, một con rồng đã xuất hiện trên bầu trời của thành phố và mọi người có thể nhìn thấy nó. Vào ngày đó vì trời trở nên tối vào buổi chiều, một chùm ánh sáng kỳ lạ đã phóng ra từ bầu trời phía đông bắc của thành phố, và nó trở nên sáng hơn và sặc sở sắc màu. Nhiều người đã nhìn thấy ánh sáng đó và nhiều người cảm thấy như phép màu sắp xảy ra.
Nó chắc chắn là một con rồng đã lộ ra. Vào lúc đầu, cái đầu được nhìn thấy nhưng chưa có đuôi. Cuối cùng, miệng, râu, chân, vảy đã được thấy rõ ràng. Con rồng phát ra ánh sáng chói và nó uốn mình lên, rồi duỗi mình ra rồi cuộn mình lại, rồi uốn mình về phía trước. Nó mở cái miệng ra rồi đóng lại. Mọi người thất kinh và tắt tiếng trước cảnh tượng. Một vài người vẫn có thể lẩm bẩm:
- Cuối cùng thì cũng có rồng thực.
Con rồng hiện hình cho thấy khoảng hai mươi phút. Hầu hết mọi người trong thành phố đều thấy nó, một vài người chứng kiến sự việc từ đầu tới cuối. Ánh sáng cuối cùng thì mờ dần và đỏ thẫm và con rồng từ từ biến mất? Khoảng tám giờ một người bạn của tôi ở Vũ Tống đã gọi điện cho tôi và kể về chi tiết sự việc xuất hiện và biến mất của con rồng.
Trên đây là những gì mà tôi đã chép xuống. Có phải những người đó, những người cố ý chụp mũ người ta là mê tín, đang đi lượm lặt những chứng kiến về con rồng với một dụng ý khác? Tôi không nghĩ vậy bởi vì họ không dám. Hàng ngàn người đã ở đó và đã tận mắt thấy con rồng. Họ có thể giảng thuyết tại sao những con khỉ không đuôi là tổ tiên của loài người và làm cách nào mà những người Ai Cập đã xây dựng những kim tự tháp. Nhưng họ không dám diễn thuyết sự xuất hiện và biến mất của con rồng, bên ngoài ngôi làng Hắc Sơn Tử. Hiển nhiên khoa học nhân loại không thể đưa ra giải thích gì thêm. Vũ trụ quá bao la và huyền bí và chỉ có Phật Pháp mới có thể vén mở sự thật về nó.
Sư Phụ Lý Hồng Chí viết:
- Phật Pháp cho phép nhân loại thấu triệt thế giới vô lượng vô biên. Từ nghìn xưa đến nay có thể đưa ra thuyết minh sáng tỏ đầy đủ về nhân loại, mỗi từng không gian vật chất tồn tại sinh mệnh, cho đến toàn vũ trụ thì chỉ có Phật Pháp. Sự xuất hiện của những con rồng trên trái đất đã gợi mở cho con người một cơ hội, để suy ngẫm về mục đích của cuộc sống. Chúng ta không nên dính mắc vào cuộc sống ở không gian này, chúng ta nên mở rộng tầm nhìn để tìm kiếm sự thật.
Con rồng là một hình tượng có vị trí đặc biệt trong văn hóa tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Rồng là tượng trưng cho quyền uy tuyệt đối của các đấng thiên tử (bệ rồng, mình rồng) là linh vật đứng vào hàng bậc nhất trong tứ linh long, lân, quy, phụng. Dân tộc ta có truyền thuyết về con Rồng từ rất sớm bởi nó gắn liền với mây mưa, với việc trồng lúa nước, với sự tích "con rồng cháu tiên". Mỗi người dân Việt Nam đều mang khái niệm từ thời mở nước cha rồng mẹ tiên với huyền sử Hùng Vương con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Hùng Vương đã dạy dân tục xâm mình hình rồng ở ngực, bụng và hai đùi (thái long) để không bị loài thuỷ quái xâm hại.
Rồng tượng trưng cho thần linh mây mưa sấm chớp. Hình tượng rồng còn xuất hiện trong văn hoá Đông Sơn, Âu Lạc với những hình trang trí chữ S và tục thờ tứ pháp. Qua thời kỳ Bắc thuộc dài đằng đẵng, con rồng Việt Nam xuất hiện rõ nét dưới thời Lý. Hình ảnh rồng bay lên. Thăng Long tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc được đem đặt cho đất đế đô. Rồng thời Lý tượng trưng cho mơ ước của cư dân trồng lúa nước, nên luôn luôn được tạo trong khung cảnh của nước của mây cuộn. Triều Lý dựng đô vua Thái Tông cho mở hàng quán chen chúc sát tới đền rất huyên náo. Vua thấy đền cổ bèn sửa sang lại làm nơi thờ thần. Đến đêm thần hiển linh nổi trận gió bắc rất to, các nhà bên đều đổ hết chỉ còn đền thờ. Vua mừng nói:
- Đó là thần Long Đỗ coi việc nhân gian.
Hình rồng thời Lý được trang trí ẩn hiện trong hình lá bồ đề, cánh sen giỡn sóng, ở bệ tượng Đức Phật A Di Đà, Bồ Tát Quan Âm. Rồng thời Lý có thân hình tròn trặn uốn lượn nhiều khúc dài và nhỏ dần về phía đuôi, có dáng dấp gần gũi với loài rắn nhưng đầu rồng có tỷ lệ cân đối so với thân, chân nhỏ mảnh thường là ba ngón. Rồng thời Lý nhẹ nhàng thanh thoát. Những khúc uốn hình chữ S gần như không thể thiếu. Rồng được trang trí trong chùa tháp, cung điện có đầu ngẩng cao mồm há rộng giỡn ngọc, mào hình ngọn lửa hướng về phía trước, tai bờm, râu rồng vút nhỏ dần chuyển động như bay lượn tạo nên bố cục chặt chẽ.
Nhìn tổng thể rồng Lý tạo ra vẻ đẹp thẩm mỹ thuần khiết, cách điệu sống động như một tuyên ngôn độc lập có giá trị đến ngày nay, về mỹ thuật của rồng Đại Việt. Rồng thời Trần tuy có thừa kế những yếu tố cơ bản của thời Lý nhưng đã có những biến đổi về chi tiết. Dạng tự chữ S dần dần mất đi hoặc biến dạng thành hình con, đồng thời xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp sừng và đôi tay. Đầu rồng uy nghi và đường bệ với chiếc mào lửa ngắn hơn. Thân rồng tròn lẳn mập mạp nhỏ dần về phía đuôi uốn khúc nhẹ lưng võng hình yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng khi thì đuôi thẳng và nhọn khi thì xoắn ốc. Các vảy cũng đa dạng. Có vẩy như những nửa hình hoa tròn nhiều cánh đều đặn có vẩy chỉ là những nét cong nhẹ nhàng.
ST
Rồng với ý nghĩa đặc biệt, đã thâm nhập vào khắp lĩnh vực văn hoá cổ truyền của Trung Quốc, và đã trở thành biểu tượng tinh thần mạnh mẽ cho người Trung Quốc. Có thực sự là Rồng có tồn tại? Hay chúng chỉ đơn giản được tưởng tượng trong thế giới tinh thần, hay nó thực sự thiện hữu vật chất? Nó vẫn là một điều huyền bí đối với chúng ta hôm nay. Tôi rất ngạc nhiên vì có thể tìm thấy trong những cuốn sách lịch sử nhiều bản ghi chép chứng kiến về sự tồn tại của những con rồng, và điều đó đã thúc đẩy tôi nghiên cứu xem Rồng có thực sự tồn tại.
“Tạp Ký về Huyện Nghĩa ” từ Triều đại Nhà Thanh viết như sau: Vào năm 1503 sau Công Nguyên Triều Minh, năm thứ mười đời Hồng Di, năm con rồng đã bay lượn trên không trung khoảng mười lý (ba dặm) phía bắc huyện Nghĩa, tỉnh Hà Nam. Sau một thời gian lâu ở trên cao, chúng hạ xuống mặt đất và không thể bay lên lại được nữa. Mây kéo đến đầy trời và mặt biển bị khuấy tung lên. Một vị thần trong trang phục màu xanh từ trên trời đáp xuống và ngay lập tức được vây quanh bởi những con rồng đã rớt xuống. Một lúc sau mây tản hết và biển trở nên yên tĩnh. Năm con rồng vẫn chưa thể bay lên. Bấy giờ một vị thần màu xanh khác xuất hiện và những con rồng vây quanh ông ta. Đột nhiên bầu trời trở nên tối mịt. Những đám mây đen lớn xuất hiện. Cuối cùng khi bầu trời sáng trở lại, hai vị thần và năm con rồng đã bay đi.
“Ký sự về Thiên triều Gia Tĩnh, Phần Những Hiện tượng Kỳ lạ và Hiếm thấy” cũng có một câu chuyện tương tự về huyện Nghĩa. Vào tháng mười năm 1588 sau Công Nguyên, một con rồng trắng đã nổi lên trên Hồ Bình thuộc huyện Bình Hồ, tỉnh Triết Giang. Nó đã bay lượn trên mặt hồ, chiếu sáng một nửa bầu trời với ánh sáng đỏ. Chứng kiến của Shen Maoxiao, một vị quan chép sử cho vương triều, đã nhìn thấy một vị thần với trang phục màu tía và một cái mũ bằng vàng, đứng trên cao chừng ba chục mét, giữa những cái sừng của con rồng. Vị thần này cầm một vật có hình cây kiếm. Ở đó xuất hiện một quả cầu ánh sáng lớn như một cái đấu (một dụng cụ đo lường hình thang ở Trung Quốc) ở bên dưới cái đầu của con rồng.
“Ký sự về Thiên triều Tống Giang, phần những hiện tượng kỳ lạ và hiếm thấy” đã ghi chép một chứng kiến xảy ra hai mươi năm sau sự kiện con rồng trắng được trông thấy ở huyện Bình Hồ. Vào tháng bảy năm 1608 sau Công Nguyên, một con rồng trắng tương tự như con rồng xuất hiện trên Hồ Bình đã được nhìn thấy trên Sông Hoàng Phố ở huyện Tống Giang, Thượng Hải. Cũng có môt vị thần đứng trên đầu con rồng.
“Ký sự về Hậu Hán Triều, Phần Ngũ tố” trích dẫn sau này của "Ký sự về huyện Lạc Dương? Phần hiện tượng Kỳ lạ” đã chép rằng một con rồng trông thấy trên hoàng cung. Lưu Hồng, Hoàng đế của Vương Triều Đông hán, đã xây dựng thủ đô của mình gần huyện Lạc Dương Tỉnh Hà Nam ngày nay. Cung điện Văn Minh có thể là nơi ông cư ngụ. Vào ngày 1-7-178 sau Công Nguyên, một vật đen khổng lồ rớt từ trời xuống vườn đông của cung điện Văn Minh. Vật thể có hình tròn và giống như mái che của xe ngựa ngày xưa. Nó dài hai mươi mét và lướt đi nhanh chóng, phát ra những ánh sáng màu sắc. vật thể có một cái đầu nhưng không có chân và đuôi. Nó trông giống một con rồng nhưng có thể là không phải.
“Biên sử của Triều đại nhà Nguyên? Ký sự về Ngũ Tố” viết rằng có một con rồng xuất hiện gần Long Sơn ở huyện Lâm Tùng, Tỉnh Sơn Đông vào tháng tám năm 1190. Không may sự xuất hiện của nó đã không được ghi chép. Con rồng có thể mang một tảng đã lớn nặng 0,5 tấn bay lên không trung. Vào năm thứ hai mươi bốn của Cát An thuộc triều Đông Hán, một con rồng vàng xuất hiện trên Sông Trì Thủy của huyện Vũ Dương và nằm ở đó trong suốt chín ngày, cuối cùng thì rời đi. Một đền thờ được xây dựng và một bia đá được dựng lên trong đền thờ để ghi danh sự xuất hiện của con rồng.
Vào tháng tư năm thứ nhất của Vĩnh Hà, Triều Đông Tấn 345 Sau Công Nguyên, hai con rồng, một con màu trắng và một con màu đen xuất hiện ở Long Sơn. Mộ Dung Hoàng đế nước Yên, đem các quan trong triều đến một ngọn núi và tổ chức một lễ tế cách xa chỗ hai con rồng hai trăm dặm. Những cuốn sách lịch sử địa phương từ Triều Minh và Triều Thanh cũng có những dấu hiệu của những con rồng.
Theo “Ký sự về Thiên triều Lâm An” năm thứ tư Chongzhen 1631 AD, một con rồng lớn đã được nhìn thấy trên Hồ Kỳ Long, đông nam huyện Shiping, tỉnh Yunan ghi chép đã viết: “Râu, chân và vảy của con rồng nổi trên mặt nước, con rồng dài khoảng vài chục mét.” Rồng có thể đã xuất hiện nhiều hơn một lần ở Long Sơn (Núi Rồng) và Hồ Kỳ Long (Hồ Rồng kỳ lạ), điều này giải thích cho việc đặt tên cho những địa danh này.
“Ký sự Bổ sung của Triều đại Nhà Đường” đã ghi chép rằng một ngày trong năm cuối của Xiantong, một con rồng đen đã rơi xuống mặt đất trong vùng lãnh thổ của tỉnh Tongcheng và chết ở đó vì một vết thương trên cổ. Chiều dài đầy đủ của con rồng đo được là ba mươi mét, trong đó mười lăm mét là đuôi. Cái đuôi hình phẳng. Vảy của nó như vảy cá. Trên đầu có hai cái sừng. Râu của nó mọc bên cạnh miệng dài khoảng sáu mét. Chân của nó mọc ra từ dưới bụng, có một cái vảy màu đỏ che phủ.
“Thất Kinh Thư” của Long Anh chép rằng một ngày trong năm cuối của Thành Hoá Minh Triều, một con rồng rơi xuống trên bãi biển của Huyện Tân Thủy Tỉnh Giang Đông. Nó đã bị những người dân chài địa phương đánh tới chết. Con rồng cao như một người lớn và dài hàng chục mét. Nó trông rất giống con rồng trong những bức tranh cổ chỉ trừ cái bụng của nó màu đỏ.
Một con rồng đã chết được tìm thấy bên bờ Hồ Thái Bạch, vào năm thứ ba mươi hai của Thiếu Hưng thuộc Triều đại Nam Tống, 1162 sau Công Nguyên. Nó có râu dài và những cái vảy rất lớn. Cái lưng màu đen và cái bụng màu trắng. Tay của nó mọc ra từ lưng và hai cái sừng thò ra từ đầu. Nó có thể bốc mùi từ xa hàng dặm. Những người địa phương phát hiện ra nó với một mớ rối bù. Quan lại đã cho người đến làm lễ cúng tế bên cạnh nó. Tuy nhiên sau một đêm giông bão sấm sét con rồng đã biến mất. Chỉ có một cái mương để lại nơi nó đã nằm.
“Biên sử về Thiên triều Vĩnh Bình” chép rằng, vào mùa hè năm thứ mười chín của Đạo Quang, 1839 Sau Công Nguyên, một con rồng đã rớt từ trên trời xuống vùng hạ lưu con Sông Luân Hà, ở huyện Lao Đình. Con rồng nằm mệt lử, ruồi bọ vây quanh. Người dân địa phương làm một cái mái che cho nó để bảo vệ nó khỏi nắng, và phun nước lên người nó. Ba ngày sau, sau một đêm trời dông bão con rồng đã bay đi.
Vào tháng tám năm 1994, hàng trăm người từ Làng Chenjiayuanzi, Huyện Phù Du phía bắc của con sông Tùng Hoà Giang, vây quanh một con rồng đen nằm bên cạnh con sông. Yen Dianyuan, Một người chứng kiến vẫn còn sống, đã kể rằng con rồng dài chừng bảy mét và trông giống một con thàn lằn khổng lồ. Mặt của nó giống hệt như mặt của con rồng được vẽ trong các bức tranh cổ với bảy hoặc tám cái râu dày và cứng. Thân trên có đường kính khoảng một bộ. Bốn cái chân của nó đi để dấu sâu trên cát. Lớp vảy như vảy cá sấu phủ đầy thân nó. Yen Dianyuan vẫn rất băn khoăn tại sao con vật khổng lồ ấy lại trông rất giống với con rồng được vẽ trong tranh.
Vào mùa hè năm 1953, một con vật chưa được nhận biết đã rớt từ trời xuống một nơi gần phía nam Tỉnh Hà Nam. Những người tò mò đã đi bộ một quãng dài để đến xem. Theo sự miêu tả của những người chứng kiến, con rồng trông giống một con cá mập khổng lồ. Mùi hôi của nó thu hút vô số ruồi nhặng. Nếu nó là một con cá mập, nó phải sống dưới vùng biển sâu. Tại sao nó lại rớt từ trời xuống? Trường hợp này có thể liên quan đến những con rồng được ghi chép trong lịch sử rớt xuống từ trời.
Một con rồng xuất hiện vào ngày 31-8-2000. Các nhà khoa học đã dành vô số thời giờ và năng lượng, để khám phá vũ trụ này to lớn và huyền bí đến mức nào, họ đã đạt được không nhiều ngoại trừ những giả định và giả thiết. Họ đã làm việc cả ngày cả đêm, vậy mà họ vẫn bò lết trong cái khung của những lý thuyết bị giới hạn của họ. Nhằm để giải thoát khỏi những điều mê tín huyền hoặc khi thảo luận về “sự thật của vũ trụ” tôi muốn giới thiệu với các bạn một hiện tượng vô hình và huyền bí, nhưng tồn tại khách quan và phản ảnh trong không gian vật lý của chúng ta.
Thời tiết trên hầu hết các vùng của Trung Quốc năm nay rất nóng và khô với nhiệt độ lên đến 40 độ C (104 độ F), và đã dẫn đến cái chết của nhiều cây cối và đồng cỏ. Mùa màng không có màu xanh ở những nông trang rộng lớn. Chúng ta thường thấy những vụ mùa bội thu khi mùa thu đến. Nhưng năm 2000 đã không như vậy. Nhiều giòng sông khô cạn, gây ra hậu quả thiếu nước uống và lan tràn dịch bệnh. Đó chính xác đúng như những gì mà Sư Phụ Lý Hồng Chí đã nói trong một bài thơ: “người vô đức thiên tai nhân hoạ, đất vô đức vạn vật điêu tàn”.
Người ta đã lo lắng rằng mùa hè sẽ thiếu mưa và mùa thu sẽ thừa nước. Vào ngày bốn tháng tám, một trận mưa như trút nước xuống Ngôi làng Hắc Sơn Tử (Heishanzi) và ngôi làng được bao phủ bởi một lớp hơi nước nóng. Đột nhiên những đám mây dày từ bầu trời đáp xuống và cuộn dọc theo trên mặt đất. Người dân trong làng vô cùng hoảng sợ, vì họ chưa bao giờ thấy một loại thời tiết như vậy trước đó. Họ nằm im trong nhà và đóng cửa lại. Có một chàng trai trẻ dũng cảm đã bước ra ngoài xem chuyện gì đang xảy ra.
Anh ta đi xuyên qua và chẳng tìm thấy gì ngoài những đám mây dày đang cuồn cuộn. Anh ta tiếp tục đi và chẳng mấy chốc anh ta đã ở ngoài rìa làng. Đột nhiên anh ta sững sờ vì nhìn thấy cảnh tượng hai con rồng, một con màu đen và một con màu trắng nằm trên mặt đất trước mặt anh ta. Anh ta sững sờ và không thể tin vào những gì mình thấy. Anh ta dụi mắt mình bằng lưng bàn tay và véo vào cánh tay mình. Tay anh ta cảm thấy đau, vậy anh ta biết đó không phải là giấc mơ. Chàng trai trẻ tiến đến gần hơn để xem cho rõ hai con rồng.
Anh ta đã thấy rằng những cái sừng những cái vảy, những cái chân và đuôi của hai con rồng, giống hệt với những con rồng trong những bức tranh truyền thống, ngoại trừ những cái râu của nó ngắn hơn. Anh ta xoay mình và chạy biến về làng, hết sức có thể và la lên:
- Đi xem rồng bà con ơi, đi xem những con rồng rơi từ trời xuống.
Cả làng đi ra ngoài để xem rồng. Tin tức lan rộng nhanh chóng khắp vùng. Cảnh sát, cán bộ chính quyền, chuyên gia, giáo sư đại học đều đến ngôi làng Hắc Sơn Tử. Nhiều người chụp được đám đông vây quanh hai con rồng. Rồi các chuyên gia và giáo sư Đại học bắt đầu nói dông dài về các loại lý thuyết về hiện tượng, nhưng người ta không thể hiểu một từ nào về những gì họ nói. Sau đó cảnh sát bắt đầu giải tán đám đông, để lại một vài người bảo vệ hai con rồng. Một trận gió mạnh cuốn những đám mây đen cuộn lên cuộn xuống, khi nó đi qua con rồng màu trắng đã biến mất, từ những đôi mắt chăm chú nhìn của mấy người bảo vệ. Các quan chức không thể giải thích sự biến mất đó và họ cũng thấy chán nản về con rồng màu đen vẫn nằm ở trên mặt đất.
Lúc đó một lão nông già trên bảy mươi tuổi nói:
- Tôi đã nghe những điều tương tự thế này đã xẩy ra nhiều năm trước.
Và người ta tưới nước cho con rồng để cho nó về nhà. Ông đã kêu một vài người trẻ tuổi trong làng lấy chiếu và dựng một mái che cho con rồng. Rồi họ chở nước bằng xe cút kit, rồi họ phun nước lên chiếu để nước có thể chảy xuống lưng con rồng. Kết quả là con rồng đã sống đến hôm nay.
Vũ Tống (Wusong) là một thành phố bên cạnh sườn Tây của dãy núi Trường Bạch, Đông Nam Tỉnh Cát Lâm được gọi là “thành phố của Nhân Sâm”. Vào sáu giờ chiều ngày 18-9-2000, một con rồng đã xuất hiện trên bầu trời của thành phố và mọi người có thể nhìn thấy nó. Vào ngày đó vì trời trở nên tối vào buổi chiều, một chùm ánh sáng kỳ lạ đã phóng ra từ bầu trời phía đông bắc của thành phố, và nó trở nên sáng hơn và sặc sở sắc màu. Nhiều người đã nhìn thấy ánh sáng đó và nhiều người cảm thấy như phép màu sắp xảy ra.
Nó chắc chắn là một con rồng đã lộ ra. Vào lúc đầu, cái đầu được nhìn thấy nhưng chưa có đuôi. Cuối cùng, miệng, râu, chân, vảy đã được thấy rõ ràng. Con rồng phát ra ánh sáng chói và nó uốn mình lên, rồi duỗi mình ra rồi cuộn mình lại, rồi uốn mình về phía trước. Nó mở cái miệng ra rồi đóng lại. Mọi người thất kinh và tắt tiếng trước cảnh tượng. Một vài người vẫn có thể lẩm bẩm:
- Cuối cùng thì cũng có rồng thực.
Con rồng hiện hình cho thấy khoảng hai mươi phút. Hầu hết mọi người trong thành phố đều thấy nó, một vài người chứng kiến sự việc từ đầu tới cuối. Ánh sáng cuối cùng thì mờ dần và đỏ thẫm và con rồng từ từ biến mất? Khoảng tám giờ một người bạn của tôi ở Vũ Tống đã gọi điện cho tôi và kể về chi tiết sự việc xuất hiện và biến mất của con rồng.
Trên đây là những gì mà tôi đã chép xuống. Có phải những người đó, những người cố ý chụp mũ người ta là mê tín, đang đi lượm lặt những chứng kiến về con rồng với một dụng ý khác? Tôi không nghĩ vậy bởi vì họ không dám. Hàng ngàn người đã ở đó và đã tận mắt thấy con rồng. Họ có thể giảng thuyết tại sao những con khỉ không đuôi là tổ tiên của loài người và làm cách nào mà những người Ai Cập đã xây dựng những kim tự tháp. Nhưng họ không dám diễn thuyết sự xuất hiện và biến mất của con rồng, bên ngoài ngôi làng Hắc Sơn Tử. Hiển nhiên khoa học nhân loại không thể đưa ra giải thích gì thêm. Vũ trụ quá bao la và huyền bí và chỉ có Phật Pháp mới có thể vén mở sự thật về nó.
Sư Phụ Lý Hồng Chí viết:
- Phật Pháp cho phép nhân loại thấu triệt thế giới vô lượng vô biên. Từ nghìn xưa đến nay có thể đưa ra thuyết minh sáng tỏ đầy đủ về nhân loại, mỗi từng không gian vật chất tồn tại sinh mệnh, cho đến toàn vũ trụ thì chỉ có Phật Pháp. Sự xuất hiện của những con rồng trên trái đất đã gợi mở cho con người một cơ hội, để suy ngẫm về mục đích của cuộc sống. Chúng ta không nên dính mắc vào cuộc sống ở không gian này, chúng ta nên mở rộng tầm nhìn để tìm kiếm sự thật.
Con rồng là một hình tượng có vị trí đặc biệt trong văn hóa tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Rồng là tượng trưng cho quyền uy tuyệt đối của các đấng thiên tử (bệ rồng, mình rồng) là linh vật đứng vào hàng bậc nhất trong tứ linh long, lân, quy, phụng. Dân tộc ta có truyền thuyết về con Rồng từ rất sớm bởi nó gắn liền với mây mưa, với việc trồng lúa nước, với sự tích "con rồng cháu tiên". Mỗi người dân Việt Nam đều mang khái niệm từ thời mở nước cha rồng mẹ tiên với huyền sử Hùng Vương con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Hùng Vương đã dạy dân tục xâm mình hình rồng ở ngực, bụng và hai đùi (thái long) để không bị loài thuỷ quái xâm hại.
Rồng tượng trưng cho thần linh mây mưa sấm chớp. Hình tượng rồng còn xuất hiện trong văn hoá Đông Sơn, Âu Lạc với những hình trang trí chữ S và tục thờ tứ pháp. Qua thời kỳ Bắc thuộc dài đằng đẵng, con rồng Việt Nam xuất hiện rõ nét dưới thời Lý. Hình ảnh rồng bay lên. Thăng Long tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc được đem đặt cho đất đế đô. Rồng thời Lý tượng trưng cho mơ ước của cư dân trồng lúa nước, nên luôn luôn được tạo trong khung cảnh của nước của mây cuộn. Triều Lý dựng đô vua Thái Tông cho mở hàng quán chen chúc sát tới đền rất huyên náo. Vua thấy đền cổ bèn sửa sang lại làm nơi thờ thần. Đến đêm thần hiển linh nổi trận gió bắc rất to, các nhà bên đều đổ hết chỉ còn đền thờ. Vua mừng nói:
- Đó là thần Long Đỗ coi việc nhân gian.
Hình rồng thời Lý được trang trí ẩn hiện trong hình lá bồ đề, cánh sen giỡn sóng, ở bệ tượng Đức Phật A Di Đà, Bồ Tát Quan Âm. Rồng thời Lý có thân hình tròn trặn uốn lượn nhiều khúc dài và nhỏ dần về phía đuôi, có dáng dấp gần gũi với loài rắn nhưng đầu rồng có tỷ lệ cân đối so với thân, chân nhỏ mảnh thường là ba ngón. Rồng thời Lý nhẹ nhàng thanh thoát. Những khúc uốn hình chữ S gần như không thể thiếu. Rồng được trang trí trong chùa tháp, cung điện có đầu ngẩng cao mồm há rộng giỡn ngọc, mào hình ngọn lửa hướng về phía trước, tai bờm, râu rồng vút nhỏ dần chuyển động như bay lượn tạo nên bố cục chặt chẽ.
Nhìn tổng thể rồng Lý tạo ra vẻ đẹp thẩm mỹ thuần khiết, cách điệu sống động như một tuyên ngôn độc lập có giá trị đến ngày nay, về mỹ thuật của rồng Đại Việt. Rồng thời Trần tuy có thừa kế những yếu tố cơ bản của thời Lý nhưng đã có những biến đổi về chi tiết. Dạng tự chữ S dần dần mất đi hoặc biến dạng thành hình con, đồng thời xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp sừng và đôi tay. Đầu rồng uy nghi và đường bệ với chiếc mào lửa ngắn hơn. Thân rồng tròn lẳn mập mạp nhỏ dần về phía đuôi uốn khúc nhẹ lưng võng hình yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng khi thì đuôi thẳng và nhọn khi thì xoắn ốc. Các vảy cũng đa dạng. Có vẩy như những nửa hình hoa tròn nhiều cánh đều đặn có vẩy chỉ là những nét cong nhẹ nhàng.
ST
#186
Gửi vào 13/07/2011 - 13:37
NGƯỜI HÓA CÁ
Thái, người trên bốn mươi, làm một chức sở trưởng sở tại Phủ đường Khiêm Chương ở Tứ Xuyên. Phủ quan là một người họ Chu, đồng liêu với ông ta là hai viên phụ tá Lê và Bạch. Mùa thu năm 758 Thái bị ốm kịch liệt. Chàng bị sốt rét kinh khủng, gia đình chàng tốn công chạy thầy, chạy thuốc cũng đều vô ích. Tới ngày thứ bảy chàng mê man bất tỉnh, nằm trở như vậy hàng bao nhiêu ngày. Bè bạn và gia đình cầm chắc là chàng sẽ chết. Mới đầu chàng thấy khát và còn nói được đòi nước uống, về sau chàng mê man thiêm thiếp không ăn uống được gì cả. Chàng cứ ngủ li bì cho tới ngày thứ hai mươi, thì bổng nhiên chàng ngáp một cái và ngồi dậy.
Chàng hỏi vợ:
- Ta ngủ được bao lâu rồỉ?
- Độ ba tuần.
- Phải, chắc là lâu như vậy. Nàng đi tìm các bạn đồng liêu của ta, bảo họ rằng ta đã khỏi bệnh rồi. Hỏi xem họ có ăn gỏi cá chép vào giờ khắc này không. Nếu có ăn bảo họ phải bỏ bữa ăn ngay. Ta có việc muốn bàn với họ. Gọi thằng hầu Chương tới phủ đường. Ta muốn gặp cả nó nữa.
Tên hầu được phái tới phủ đường. Nó thấy quả thật các quan chức đương dùng cơm trưa, và có một đĩa gỏi cá chép nóng hổi khói lên nghi ngút. Tên hầu đưa thư cho mấy ông đó và mọi người đồng ý đến nhà Thái, họ sung sướng nghe tin bạn đã khỏi bệnh.
Thái hỏi:
- Có phải các bác đã sai thằng hầu Chương mua cá không?
- Có, chúng tôi sai nó.
Thái ngoảnh lại nhìn Chương và hỏi nó:
- Có phải nhà người đã mua cá ở nhà lão chài Triệu Cao, và có phải lão ta từ chối không bán cho nhà ngươi con cá lớn không? Đừng ngắt lời ta Nhà ngươi thấy con cá chép lớn giấu trong cái thùng nhỏ có phủ bèo, rồi nhà ngươi mua con cá, nhưng nổi giận vì lão chài đã nói dối nên bắt lão đi theo. Khi nhà ngươi đi vào phủ đường, người viên chức thu thuế ngồi ở phía tây đương đánh cờ. Đúng vậy không? Rồi nhà ngươi đi lên sảnh đường, nhà ngươi trông thấy Chu Phủ quan và Lê Phụ tá đương đánh bài, còn Bạch thì đương ngồi xem miệng bỏm bẻm nhai lê. Nhà ngươi trình với Bạch về lão chài, rồi Bạch đá cho lão ta một cái lăn chiêng xuống sân. Rồi thì nhà ngươi mang cá xuống bếp, tên đầu bếp Hoàng Triết Lương mổ nó làm bữa trưa. Có phải đúng là sự việc xảy ra như vậy không?
Mọi người hỏi Chương và ai nấy hỏi lại lẫn nhau, và thấy rằng mọi chi tiết đều đúng vậy. Kinh ngạc quá họ hỏi Thái làm cách nào mà biết hết được như vậy, và đây là câu chuyện ông ta kể cho các bạn nghe:
- Khi tôi bị ốm tôi sốt nóng kinh khủng, như các bác biết. Không chịu được cơn nóng dữ dội, tôi mê man đi, nhưng cái cảm giác nóng sốt vẫn còn và tôi tự hỏi làm cách nào cho bớt nóng đi. Tôi nghĩ đến việc đi dạo chơi trên một bờ sông tuyệt đẹp, rồi cầm một cây trượng và ra đi.
Vừa ra khỏi thành là tôi đã thấy ngay không khí mát mẻ hơn lên, tôi cảm thấy dễ chịu ngay tức thì. Tôi thấy khí nóng từ các mái nhà bốc lên và tôi thấy khoan khoái đã bỏ xa chúng ở lại phía sau mình. Tôi đi về phía chân đồi, nơi đó Đông Hồ nối liền với sông. Tới bờ hồ nghỉ ngơi trên bờ dưới cây dương liễu. Non nước xanh lơ sao mà quyến rũ thế. Một cơn gió nam nhẹ nhàng thổi qua mặt nước làm cho nước gợn lên như vẩy cá, do đó tôi có thể theo dõi rõ ràng cử động và phương hướng của gió nam trên mặt hồ. Cảnh vật đều im lặng và bình thản. Bổng tôi ao ước được tắm một cái. Tôi quen thói bơi lội như một đứa trẻ con, nhưng từ lâu lắm tôi không tắm ở trong hồ. Tôi bỏ y phục và nhào xuống nước, tôi có cảm giác mát rượi khi nước bao bọc thân mình và chân tay tôi. Tôi ngụp lặn xuống nước nhiều lần thấy khoan khoái vô cùng.
Tôi chỉ còn nhớ là lúc đó tôi nghĩ rằng:
"Thương thay cho Bạch cho Lê và Chu và tất cả bè bạn, cả ngày chúi mũi trong công đường. Ước gì ta được hóa thành con cá một lát, để khỏi lôi thôi vướng víu trát với niêm, với công văn tài liệu. Ta sẽ khoan khoái chừng nào nếu mà ta hóa thành con cá bơi ngày, bơi đêm với nước, chung quanh ta chỉ thấy nước thôi".
Một con cá bơi tới chân ta lúc đó nói ngay rằng:
- Tôi tưởng điều đó dễ làm lắm. Ông có thể hóa cá suốt đời như tôi đây, nếu ông muốn vậy. Tôi có thể giúp ông việc đó được chăng?
- Nếu ngươi có lòng tốt như vậy, ta lấy làm cảm kích vô cùng. Tên ta là Thái Vệ, hiện làm trưởng sở ở phủ lỵ. Bảo với đồng loại ngươi rằng ta rất lấy làm hân hạnh được đổi ngôi vị với bất cứ một người nào trong bọn họ. Chỉ cần cho ta được bơi lội và bơi lội mãi thôi.
Con cá bỏ đi một lát rồi trở lại với một người đầu như đầu cá, người này cỡi trên một con Oa Oa, các bác biết đó, giống vật có bốn chân, sống dưới nước nhưng có thể trèo cây được, khi người ta bắt nó hay giết nó, nó kêu như tiếng trẻ con khóc vậy. Người đầu cá này tới với một đoàn tùy tùng độ mười hai con cá cùng một loại, y đọc chiếu chỉ của vua Thủy Tề. Các bác hãy tin tôi đi, chiếu đã được thảo bằng lối văn xuôi diễm lệ, chiếu đó bắt đầu như sau:
"Con người, một sinh vật trên đất có những lề lối khác biệt với thủy tộc. Chừng nào con người còn giữ hình thể của mình, y không thể tiến bộ mau lẹ ở dưới nước được. Trưởng sở Thái Vệ có một tâm hồn cao cả và sâu sắc, đã đi tìm sự thư thái và siêu thoát ở một đời sống. Tự do bất mãn và buồn phiền vì những công việc quan, y mơ tưởng đến lạch sông, đáy hồ nước trong xanh mát mẻ, mơ tưởng tới thú tự do và tháng ngày vô tận cùng các trò du hí ở thủy quốc chúng ta. Ước vọng trở thành thần dân thủy tộc của y từ đây được chấp thuận. Y sẽ được làm một con cá chép nâu và được phái tới Đông Hồ làm nơi cư ngụ thường nhật.
Than ôi! Đời sống của thủy tộc ở sông và biển có vô vàn sự cám dỗ và cạm bẩy. Có kẻ đã ngốc nghếch cản phá tàu bè, có kẻ vì thiếu từng trải và không kiềm chế nổi lòng mình đã bị mắc bẩy, bị bắt bởi đủ các loại dụng cụ của loài người. Không có ở đâu chân lý được rõ ràng bằng dưới nước rằng sự thận trọng là sự bảo đảm tốt nhất cho một đời sống lâu dài. Chúc cho ngươi cư xử khéo léo và đường hoàng, hợp với phong độ cao cả của loài thủy tộc mà ngươi được may mắn làm một thần dân mới. Ngươi hãy làm một con cá khôn ngoan!"
Vừa nghe chiếu chỉ tôi vừa thấy mình biến đổi thành một con cá, mình tôi được phủ một lớp vẩy đẹp óng ánh. Sung sướng với sự thay đổi đó, tôi bơi lội ung dung thoải mái, ngoi lên mặt nước rồi lặn xuống tùy theo ý thích với sự cử động nhẹ nhàng của những vây của tôi. Tôi ngoi ra sông, tôi thám hiểm tất cả những hang hốc ở bờ và mọi nguồn, mọi suối nhưng bao giờ tối đến tôi cũng trở về hồ. Tuy vậy một ngày kia, tôi bị đói ghê gớm không thể kiếm được thức gì ăn. Tôi nhìn thấy Triệu Cao quăng cần câu xuống và đợi bắt tôi. Trông con mồi ngon lành cám dỗ quá, hai mang tôi cứ việc chảy rãi ra. Tôi rõ ràng đó là một vật ghê gớm mà tôi rất sợ không dám đụng vào, nhưng tôi cảm thấy đó chính là thứ tôi cần, và tôi không thể tưởng tượng thứ gì khoái hơn nó được đối với miệng tôi. Rồi thì tôi nghĩ tới những lời căn dặn cẩn trọng và tôi bỏ đi, với một sự kiềm chế lớn lao tôi bơi đi nơi khác.
Nhưng một cái đói kinh khủng vò xé lòng tôi, và tôi không thể chịu đựng được nữa. Tôi tự nhủ lòng:
"Mình biết Triệu Cao và lão ta cũng biết mình. Chắc lão không dám giết mình đâu. Nếu bị bắt mình sẽ bảo lão mang mình về phủ đường!"
Tôi quay trở lại đớp ngay lấy con mồi và tôi bị tóm cổ, tất nhiên vậy. Tôi chống cự và vùng vẫy nhưng Triệu Cao lôi tôi lên môi dưới tôi đẫm máu, thế là tôi đành chịu. Khi lão ta sắp nâng tôi lên tôi kêu:
- Triệu Cao, Triệu Cao, nghe ta đây! Ta là Thái Vệ, trưởng sở đây! Nhà ngươi sẽ bị tội về việc này đó!
Triệu Cao không nghe thấy lời nói của tôi, lão luồn một sợi dây gai vào mép tôi và quăng tôi vào một cái thùng có phủ bèo.
Tôi nằm đó chờ đợi. Một lát sau hình như để đáp lại lời cầu khẩn của tôi, Chương từ phủ đường của ta tới. Tôi nghe thấy câu chuyện trong đó Triệu Cao từ chối không bán cho Chương con cá lớn. Vậy mà y cũng nhìn thấy tôi, lôi tôi ra khỏi cái thùng, tôi bị xách tòn teng bởi sợi dây thật là nguy hiểm.
- Chương, sao mi dám như vậy. Ta là chủ của mi đây. Ta là trưởng sở Thái đây, ta chỉ nhất thời đội lốt cá thôi. Lại đây bái yết ta đi!
Nhưng Chương không nghe lời tôi, hoặc là có nghe thấy mà cố lờ đi. Tôi gào to thất thanh lên, vùng vẫy lăn lộn mãi nhưng tất cả đều vô hiệu quả. Khi tôi vào cổng tôi thấy các viên chức đang đánh cờ gần cửa lớn, tôi kêu lớn lên gọi họ, nói cho họ biết tôi là ai. Tôi lại bị lờ đi. Một viên chức trong bọn họ reo lên:
- A ha! Đẹp đẽ biết bao! Nó phải cân tới ba cân rưỡi.
Các bạn hãy tưởng tượng xem tôi uất ức như thế nào! Trong sảnh đường tôi nhìn thấy các bác, như tôi đã kể lại một khắc trước đây. Chương trình với các bác về việc Triệu Cao giấu cá lớn, toan bán nguyên cá nhỏ thế nào, rồi Bạch cáu quá đá một cái thật mạnh vào lão ta, các bác đều khoái trá vì con cá lớn.
- Đem nó vào cho thằng bếp. Bảo nó làm một dĩa gỏi cá chép thật ngon, cho hành, cho nấm, và trộn chút rượu nhé!
Tôi tưởng như là Bạch nói câu đó. Tôi bảo với tất cả các bác:
- Các bạn đồng liêu ơi đợi một chút đã. Nghe lời tôi đây. Thật là cả một sự lầm lẫn. Tôi là Thái đây. Các bác phải biết tôi chứ. Các bác không thể giết tôi được. Sao các bác lại tàn ác như vậy được?
Tôi cứ phản đối hoài cãi hoài. Tôi thấy cãi cũng vô ích vì các bác đều điếc cả. Tôi nhìn các bác với cặp mắt van lơn cầu khẩn, miệng tôi há ra cầu xin tha thiết:
- Hành, nấm và một chút rượu trộn! Sao cái lũ quỷ quái vô lương tâm này nỡ đối xử với bạn của họ như vậy!
Tôi tự nghĩ thế nhưng tôi không thể làm gì được cả. Rồi Chương xách tôi vào bếp. Thằng đầu bếp trợn to mắt ra mà nhìn tôi. Mặt nó tươi lên khi nó mài con dao và đặt tôi lên cái thớt.
- Hoàng Triết Lương! Mi là tên bếp của ta! Chớ có giết ta! Ta xin mi đó!
Hoàng Triết Lương nắm chặt lấy mình tôi. Tôi thấy ánh dao sáng loáng sắp bổ xuống đầu tôi. Phập, lưỡi dao đã hạ xuống và vừa lúc đó tôi tỉnh dậy. Nghe chuyện đó bạn bè của Thái rất xúc động và càng kinh dị hơn, vì những điều mà chàng nói với họ đều đúng sự thật từng chi tiết một. Có người nói rằng họ nhìn thấy miệng con cá động đậy, nhưng không ai nghe thấy một lời nào cả. Từ đó trở đi Thái hoàn toàn bình phục và bạn bè của chàng mãi cho tới già, không dám ăn thịt cá chép nữa
Lâm Ngữ Đường
Thái, người trên bốn mươi, làm một chức sở trưởng sở tại Phủ đường Khiêm Chương ở Tứ Xuyên. Phủ quan là một người họ Chu, đồng liêu với ông ta là hai viên phụ tá Lê và Bạch. Mùa thu năm 758 Thái bị ốm kịch liệt. Chàng bị sốt rét kinh khủng, gia đình chàng tốn công chạy thầy, chạy thuốc cũng đều vô ích. Tới ngày thứ bảy chàng mê man bất tỉnh, nằm trở như vậy hàng bao nhiêu ngày. Bè bạn và gia đình cầm chắc là chàng sẽ chết. Mới đầu chàng thấy khát và còn nói được đòi nước uống, về sau chàng mê man thiêm thiếp không ăn uống được gì cả. Chàng cứ ngủ li bì cho tới ngày thứ hai mươi, thì bổng nhiên chàng ngáp một cái và ngồi dậy.
Chàng hỏi vợ:
- Ta ngủ được bao lâu rồỉ?
- Độ ba tuần.
- Phải, chắc là lâu như vậy. Nàng đi tìm các bạn đồng liêu của ta, bảo họ rằng ta đã khỏi bệnh rồi. Hỏi xem họ có ăn gỏi cá chép vào giờ khắc này không. Nếu có ăn bảo họ phải bỏ bữa ăn ngay. Ta có việc muốn bàn với họ. Gọi thằng hầu Chương tới phủ đường. Ta muốn gặp cả nó nữa.
Tên hầu được phái tới phủ đường. Nó thấy quả thật các quan chức đương dùng cơm trưa, và có một đĩa gỏi cá chép nóng hổi khói lên nghi ngút. Tên hầu đưa thư cho mấy ông đó và mọi người đồng ý đến nhà Thái, họ sung sướng nghe tin bạn đã khỏi bệnh.
Thái hỏi:
- Có phải các bác đã sai thằng hầu Chương mua cá không?
- Có, chúng tôi sai nó.
Thái ngoảnh lại nhìn Chương và hỏi nó:
- Có phải nhà người đã mua cá ở nhà lão chài Triệu Cao, và có phải lão ta từ chối không bán cho nhà ngươi con cá lớn không? Đừng ngắt lời ta Nhà ngươi thấy con cá chép lớn giấu trong cái thùng nhỏ có phủ bèo, rồi nhà ngươi mua con cá, nhưng nổi giận vì lão chài đã nói dối nên bắt lão đi theo. Khi nhà ngươi đi vào phủ đường, người viên chức thu thuế ngồi ở phía tây đương đánh cờ. Đúng vậy không? Rồi nhà ngươi đi lên sảnh đường, nhà ngươi trông thấy Chu Phủ quan và Lê Phụ tá đương đánh bài, còn Bạch thì đương ngồi xem miệng bỏm bẻm nhai lê. Nhà ngươi trình với Bạch về lão chài, rồi Bạch đá cho lão ta một cái lăn chiêng xuống sân. Rồi thì nhà ngươi mang cá xuống bếp, tên đầu bếp Hoàng Triết Lương mổ nó làm bữa trưa. Có phải đúng là sự việc xảy ra như vậy không?
Mọi người hỏi Chương và ai nấy hỏi lại lẫn nhau, và thấy rằng mọi chi tiết đều đúng vậy. Kinh ngạc quá họ hỏi Thái làm cách nào mà biết hết được như vậy, và đây là câu chuyện ông ta kể cho các bạn nghe:
- Khi tôi bị ốm tôi sốt nóng kinh khủng, như các bác biết. Không chịu được cơn nóng dữ dội, tôi mê man đi, nhưng cái cảm giác nóng sốt vẫn còn và tôi tự hỏi làm cách nào cho bớt nóng đi. Tôi nghĩ đến việc đi dạo chơi trên một bờ sông tuyệt đẹp, rồi cầm một cây trượng và ra đi.
Vừa ra khỏi thành là tôi đã thấy ngay không khí mát mẻ hơn lên, tôi cảm thấy dễ chịu ngay tức thì. Tôi thấy khí nóng từ các mái nhà bốc lên và tôi thấy khoan khoái đã bỏ xa chúng ở lại phía sau mình. Tôi đi về phía chân đồi, nơi đó Đông Hồ nối liền với sông. Tới bờ hồ nghỉ ngơi trên bờ dưới cây dương liễu. Non nước xanh lơ sao mà quyến rũ thế. Một cơn gió nam nhẹ nhàng thổi qua mặt nước làm cho nước gợn lên như vẩy cá, do đó tôi có thể theo dõi rõ ràng cử động và phương hướng của gió nam trên mặt hồ. Cảnh vật đều im lặng và bình thản. Bổng tôi ao ước được tắm một cái. Tôi quen thói bơi lội như một đứa trẻ con, nhưng từ lâu lắm tôi không tắm ở trong hồ. Tôi bỏ y phục và nhào xuống nước, tôi có cảm giác mát rượi khi nước bao bọc thân mình và chân tay tôi. Tôi ngụp lặn xuống nước nhiều lần thấy khoan khoái vô cùng.
Tôi chỉ còn nhớ là lúc đó tôi nghĩ rằng:
"Thương thay cho Bạch cho Lê và Chu và tất cả bè bạn, cả ngày chúi mũi trong công đường. Ước gì ta được hóa thành con cá một lát, để khỏi lôi thôi vướng víu trát với niêm, với công văn tài liệu. Ta sẽ khoan khoái chừng nào nếu mà ta hóa thành con cá bơi ngày, bơi đêm với nước, chung quanh ta chỉ thấy nước thôi".
Một con cá bơi tới chân ta lúc đó nói ngay rằng:
- Tôi tưởng điều đó dễ làm lắm. Ông có thể hóa cá suốt đời như tôi đây, nếu ông muốn vậy. Tôi có thể giúp ông việc đó được chăng?
- Nếu ngươi có lòng tốt như vậy, ta lấy làm cảm kích vô cùng. Tên ta là Thái Vệ, hiện làm trưởng sở ở phủ lỵ. Bảo với đồng loại ngươi rằng ta rất lấy làm hân hạnh được đổi ngôi vị với bất cứ một người nào trong bọn họ. Chỉ cần cho ta được bơi lội và bơi lội mãi thôi.
Con cá bỏ đi một lát rồi trở lại với một người đầu như đầu cá, người này cỡi trên một con Oa Oa, các bác biết đó, giống vật có bốn chân, sống dưới nước nhưng có thể trèo cây được, khi người ta bắt nó hay giết nó, nó kêu như tiếng trẻ con khóc vậy. Người đầu cá này tới với một đoàn tùy tùng độ mười hai con cá cùng một loại, y đọc chiếu chỉ của vua Thủy Tề. Các bác hãy tin tôi đi, chiếu đã được thảo bằng lối văn xuôi diễm lệ, chiếu đó bắt đầu như sau:
"Con người, một sinh vật trên đất có những lề lối khác biệt với thủy tộc. Chừng nào con người còn giữ hình thể của mình, y không thể tiến bộ mau lẹ ở dưới nước được. Trưởng sở Thái Vệ có một tâm hồn cao cả và sâu sắc, đã đi tìm sự thư thái và siêu thoát ở một đời sống. Tự do bất mãn và buồn phiền vì những công việc quan, y mơ tưởng đến lạch sông, đáy hồ nước trong xanh mát mẻ, mơ tưởng tới thú tự do và tháng ngày vô tận cùng các trò du hí ở thủy quốc chúng ta. Ước vọng trở thành thần dân thủy tộc của y từ đây được chấp thuận. Y sẽ được làm một con cá chép nâu và được phái tới Đông Hồ làm nơi cư ngụ thường nhật.
Than ôi! Đời sống của thủy tộc ở sông và biển có vô vàn sự cám dỗ và cạm bẩy. Có kẻ đã ngốc nghếch cản phá tàu bè, có kẻ vì thiếu từng trải và không kiềm chế nổi lòng mình đã bị mắc bẩy, bị bắt bởi đủ các loại dụng cụ của loài người. Không có ở đâu chân lý được rõ ràng bằng dưới nước rằng sự thận trọng là sự bảo đảm tốt nhất cho một đời sống lâu dài. Chúc cho ngươi cư xử khéo léo và đường hoàng, hợp với phong độ cao cả của loài thủy tộc mà ngươi được may mắn làm một thần dân mới. Ngươi hãy làm một con cá khôn ngoan!"
Vừa nghe chiếu chỉ tôi vừa thấy mình biến đổi thành một con cá, mình tôi được phủ một lớp vẩy đẹp óng ánh. Sung sướng với sự thay đổi đó, tôi bơi lội ung dung thoải mái, ngoi lên mặt nước rồi lặn xuống tùy theo ý thích với sự cử động nhẹ nhàng của những vây của tôi. Tôi ngoi ra sông, tôi thám hiểm tất cả những hang hốc ở bờ và mọi nguồn, mọi suối nhưng bao giờ tối đến tôi cũng trở về hồ. Tuy vậy một ngày kia, tôi bị đói ghê gớm không thể kiếm được thức gì ăn. Tôi nhìn thấy Triệu Cao quăng cần câu xuống và đợi bắt tôi. Trông con mồi ngon lành cám dỗ quá, hai mang tôi cứ việc chảy rãi ra. Tôi rõ ràng đó là một vật ghê gớm mà tôi rất sợ không dám đụng vào, nhưng tôi cảm thấy đó chính là thứ tôi cần, và tôi không thể tưởng tượng thứ gì khoái hơn nó được đối với miệng tôi. Rồi thì tôi nghĩ tới những lời căn dặn cẩn trọng và tôi bỏ đi, với một sự kiềm chế lớn lao tôi bơi đi nơi khác.
Nhưng một cái đói kinh khủng vò xé lòng tôi, và tôi không thể chịu đựng được nữa. Tôi tự nhủ lòng:
"Mình biết Triệu Cao và lão ta cũng biết mình. Chắc lão không dám giết mình đâu. Nếu bị bắt mình sẽ bảo lão mang mình về phủ đường!"
Tôi quay trở lại đớp ngay lấy con mồi và tôi bị tóm cổ, tất nhiên vậy. Tôi chống cự và vùng vẫy nhưng Triệu Cao lôi tôi lên môi dưới tôi đẫm máu, thế là tôi đành chịu. Khi lão ta sắp nâng tôi lên tôi kêu:
- Triệu Cao, Triệu Cao, nghe ta đây! Ta là Thái Vệ, trưởng sở đây! Nhà ngươi sẽ bị tội về việc này đó!
Triệu Cao không nghe thấy lời nói của tôi, lão luồn một sợi dây gai vào mép tôi và quăng tôi vào một cái thùng có phủ bèo.
Tôi nằm đó chờ đợi. Một lát sau hình như để đáp lại lời cầu khẩn của tôi, Chương từ phủ đường của ta tới. Tôi nghe thấy câu chuyện trong đó Triệu Cao từ chối không bán cho Chương con cá lớn. Vậy mà y cũng nhìn thấy tôi, lôi tôi ra khỏi cái thùng, tôi bị xách tòn teng bởi sợi dây thật là nguy hiểm.
- Chương, sao mi dám như vậy. Ta là chủ của mi đây. Ta là trưởng sở Thái đây, ta chỉ nhất thời đội lốt cá thôi. Lại đây bái yết ta đi!
Nhưng Chương không nghe lời tôi, hoặc là có nghe thấy mà cố lờ đi. Tôi gào to thất thanh lên, vùng vẫy lăn lộn mãi nhưng tất cả đều vô hiệu quả. Khi tôi vào cổng tôi thấy các viên chức đang đánh cờ gần cửa lớn, tôi kêu lớn lên gọi họ, nói cho họ biết tôi là ai. Tôi lại bị lờ đi. Một viên chức trong bọn họ reo lên:
- A ha! Đẹp đẽ biết bao! Nó phải cân tới ba cân rưỡi.
Các bạn hãy tưởng tượng xem tôi uất ức như thế nào! Trong sảnh đường tôi nhìn thấy các bác, như tôi đã kể lại một khắc trước đây. Chương trình với các bác về việc Triệu Cao giấu cá lớn, toan bán nguyên cá nhỏ thế nào, rồi Bạch cáu quá đá một cái thật mạnh vào lão ta, các bác đều khoái trá vì con cá lớn.
- Đem nó vào cho thằng bếp. Bảo nó làm một dĩa gỏi cá chép thật ngon, cho hành, cho nấm, và trộn chút rượu nhé!
Tôi tưởng như là Bạch nói câu đó. Tôi bảo với tất cả các bác:
- Các bạn đồng liêu ơi đợi một chút đã. Nghe lời tôi đây. Thật là cả một sự lầm lẫn. Tôi là Thái đây. Các bác phải biết tôi chứ. Các bác không thể giết tôi được. Sao các bác lại tàn ác như vậy được?
Tôi cứ phản đối hoài cãi hoài. Tôi thấy cãi cũng vô ích vì các bác đều điếc cả. Tôi nhìn các bác với cặp mắt van lơn cầu khẩn, miệng tôi há ra cầu xin tha thiết:
- Hành, nấm và một chút rượu trộn! Sao cái lũ quỷ quái vô lương tâm này nỡ đối xử với bạn của họ như vậy!
Tôi tự nghĩ thế nhưng tôi không thể làm gì được cả. Rồi Chương xách tôi vào bếp. Thằng đầu bếp trợn to mắt ra mà nhìn tôi. Mặt nó tươi lên khi nó mài con dao và đặt tôi lên cái thớt.
- Hoàng Triết Lương! Mi là tên bếp của ta! Chớ có giết ta! Ta xin mi đó!
Hoàng Triết Lương nắm chặt lấy mình tôi. Tôi thấy ánh dao sáng loáng sắp bổ xuống đầu tôi. Phập, lưỡi dao đã hạ xuống và vừa lúc đó tôi tỉnh dậy. Nghe chuyện đó bạn bè của Thái rất xúc động và càng kinh dị hơn, vì những điều mà chàng nói với họ đều đúng sự thật từng chi tiết một. Có người nói rằng họ nhìn thấy miệng con cá động đậy, nhưng không ai nghe thấy một lời nào cả. Từ đó trở đi Thái hoàn toàn bình phục và bạn bè của chàng mãi cho tới già, không dám ăn thịt cá chép nữa
Lâm Ngữ Đường
#187
Gửi vào 13/07/2011 - 13:57
ĐÔNG Y SĨ NGUYỄN QUỐC CƯỜNG KỂ CHUYỆN MA
VW: Thưa Bác sĩ Nguyễn Đức Cường, là một nhà khoa học anh tin có ma không?
NĐC: Có chứ.
VW: Theo khoa học có một cách lý giải khác về... ma, anh nghĩ sao?
NĐC: Cách lý giải của khoa học cũng đi đến kết luận là có một thế giới khác. Khoa học cũng chẳng chứng minh được sự lý giải đó. Một điều rõ ràng là trong đời tôi, gặp ma một lần rồi, tôi chứng kiến mà cũng bị ma phá. Nhưng tôi không sợ. Bởi vì tôi suy nghĩ là mai mốt mình chết mình cũng thành ma.
VW: Thế nào là một thế giới khác gọi là... ma?
NĐC: Thế giới đó và họ sẽ là bạn mình có gì phải sợ họ. Thường thường mình sợ cái gì không thấy, nhưng khi nghĩ ra là mình sẽ thành cái đó có gì đâu phải sợ. Nhưng nếu họ phá mình xin họ đừng phá.
VW: Xin anh bắt đầu câu chuyện của mình?
NĐC: Hồi đó tôi đóng quân ở đồn Phước Hòa ở tiểu khu Bình Dương, năm 1973-74 gì đó. Đồn này ngày xưa là của Pháp. Bọn Pháp ngày xưa chuyên hà hiếp dân lành giết người vô tội. Tương truyền vùng đó hồn ma oan cũng nhiều. Theo người trong vùng kể lại có những cô gái bị bắt vào đồn và bị giết. Sau đó các hồn ma bóng quế hiện lên. Tôi nghe thôi thật sự chưa thấy bao giờ. Tôi là sĩ quan phải đi tuần còn lính chỉ gác theo giờ. Thí dụ lính gác từ một giờ tới ba giờ, từ ba giờ tới năm giờ. Một hôm tôi đi tuần về phòng ngủ là ba giờ sáng. Hôm đó trong phòng có ba sĩ quan ngủ. Tôi, một ông Đại úy với một ông Thiếu úy. Ba giường khác nhau.
Tự nhiên giường của tôi khi vô nằm nó rung dữ dội lắm. Giường bằng gỗ của ván thùng đạn đóng không chắc lắm, kiểu như cái sạp, giống như mình vác thùng đạn ra mình đập rồi mình đóng lại thành giường, trải pông sô lên, rồi trải mền lên nằm cho êm vậy thôi. Nếu dùng tay lắc, nó vẫn lắc, nhưng thật sự nó không thể nào lắc mạnh được tại nó cũng cứng. Khi tôi lên nằm, nó rung… rung ở biên độ khoảng một tấc, tức là nó đi tới đi lui khoảng một tấc! Mông mình chạy tới chạy lui...
VW: Wow, coi chừng có người lắc thì sao?
NĐC: Đúng. Ngay lúc đó tôi không nghĩ là ma. Tôi quay lại thấy ông Đại úy ngủ, ngáy. Còn bạn Thiếu úy có thể chọc mình. Tôi nói: "Ê Đào ngày mai tôi phải tỉnh, phái đoàn thanh tra tới đó, để tôi ngủ chớ, bây giờ là ba giờ rồi...” Khi nói thế mà cái giường vẫn rung. Đến lúc đó tôi ngồi dậy, định lấy tay tính đánh qua chân nó, tôi thấy giường nó cách giường tôi hai tấc. Chân nó vẫn nằm trong mùng làm sao nó đạp mình được? Và cái giường… vẫn rung!
VW: Rồi sao?
NĐC: Lúc đó tôi lại nghĩ là đặc công VC, đôi khi họ xâm nhập vô được đồn núp trong phòng, canh giết mình. Phản ứng đầu tiên là chụp cây súng ở dưới gối, chỉa súng vô trong gầm giường liền. Tôi không thấy gì hết, lấy đèn pin rọi lúc đó tôi mới nói một câu: “Thôi nhe, hồn ma nào mà đi ngang đây, muốn gì nói cho tôi biết, tôi cúng. Không nên làm như thế, tụi tôi cũng là những người lính thôi...”
VW: Sau khi anh nói giường có rung nữa không?
NĐC: Lạ lùng, tôi vừa vái khấn xong, giường lập tức yên lặng hết rung. Sau đó ngủ êm tới sáng.
VW: Ghê quá. Ngoài chuyện rung giường ra có ai trong đồn bị nhát nữa không?
NĐC: Trước đó một ngày tức là đêm hôm trước, một người lính ngủ ở hành lang bên ngoài phòng, tên là Hai kể lại... Người lính đó đang ngủ, nghe một người kêu Hai rất là lớn. Ông ta tưởng là ông Đại úy ở trong phòng của tôi gọi, ổng quay ra bị tát cái “bốp”. Cái tát rất là mạnh, sáng hôm sau còn thấy năm vết hằn đỏ ở trên má. Ổng nói là hôm qua bị ma nó đập.
VW: Anh có thấy dấu tay hay kể lại?
NĐC: Có dấu tay luôn mà. Nhưng tôi cũng hỏi đùa:
- Thấy dấu tay nhưng nhiều khi Linh bạn mầy nó đánh mầy làm sao?
Ỗng bảo:
- Không! cái mùng em đâu có bị tung ra đâu, nếu mà tát em một cái thì cái mùng phải tung ra, nếu mà người nào đánh cái mùng phải tung ra, em vẫn nằm trong mùng, cái mùng vẫn giắt đàng hoàng. Đêm hôm sau nữa đó, ông Thiếu úy Huế ở phòng bên cạnh đang vừa mới ngủ, nghe kêu Huế rất lớn. Ỗng giựt mình ngồi dậy, ở cách cửa phòng ổng có một trạm gác, người lính đang ngồi ở đó ổng mới tới hỏi, hồi nảy tới giờ thấy ai kêu không. Người lính đó nói là không.
VW: Đó là giọng nữ hay nam?
NĐC: Giọng một người đàn ông.
VW: Ngày hôm sau nữa giường của anh bị rung. Ba đêm liên tục hiện tượng ma xảy ra. Về phương diện khoa học anh có nghĩ rằng tại sao ma xảy ra cho người này mà không xảy ra cho người khác?
NĐC: Có thể gọi tạm là sự thích hợp hoặc đôi khi người đó có duyên gì đó. Có những người không bao giờ thấy, có những người thấy thường xuyên. Không phải là do sợ hay không sợ mà thấy đâu.
VW: Qua Mỹ anh có gặp ma không?
NĐC: Tôi có nghe một người bạn kể chuyện. Hai vợ chồng anh là Phật tử thuần thành tối nào cũng tụng Kinh. Họ ở San José. Anh thuê căn nhà. Phone reng, anh nhấc phone lên nghe một tràng cười quái đản, tưởng bị phá cúp phone. Ngày hôm sau lại cũng nghe tiếng phone, vợ anh nhấc lên lại cũng nghe một tràng cười quái đản giống như là ma quái, lại cúp phone. Sau cùng đêm hôm đó phone reng mấy lần, họ rút power đi mà nó vẫn reng. Đó là một hiện tượng.
Buổi sáng đó tôi đi chợ về, anh bạn đi làm tôi khóa cửa lại, tôi xách cái giỏ tự nhiên đi vô cái giỏ bị níu lại, tôi nghĩ là quai giỏ vướng vào nắm cửa, tôi quay lại thấy giỏ đâu có vướng vào nắm cửa vẫn bị níu lại, một lát sau mới để cho tôi đi được, cái giỏ bị đứng ở chỗ đó không có vướng vào cái gì cả, cái giỏ vẫn đeo ở tay mà vẫn không đi được, đi như có cái gì níu lại cái giỏ.
VW: Anh nghĩ sao con đường Euclid, anh có nghĩ vùng đất có bị ma không?
NĐC: Hình như là có, tôi chưa trực tiếp chứng kiến nhưng mà nghe nhiều người nói, tôi nghĩ phải có người ta mới nói chớ ai tưởng tượng chuyện đó làm gì.
VW: Đi ngang qua con đường đó anh thấy có rờn rợn không?
NĐC: Tôi không có cảm giác đó, nhưng mà nếu mình có rờn rợn tại vì mình nghĩ đến những câu chuyện người ta nói thôi, nghe cả mười năm nay rồi.
VW: Nếu cho anh ngủ một đêm ở căn nhà đó anh dám ngủ không?
NĐC: Không (cười). Khi thách thức người sống và người chết cũng vậy, đều có thể gây một điều không tốt cho mình, không nên, vậy thôi. Chớ không phải vì sợ.
ST
VW: Thưa Bác sĩ Nguyễn Đức Cường, là một nhà khoa học anh tin có ma không?
NĐC: Có chứ.
VW: Theo khoa học có một cách lý giải khác về... ma, anh nghĩ sao?
NĐC: Cách lý giải của khoa học cũng đi đến kết luận là có một thế giới khác. Khoa học cũng chẳng chứng minh được sự lý giải đó. Một điều rõ ràng là trong đời tôi, gặp ma một lần rồi, tôi chứng kiến mà cũng bị ma phá. Nhưng tôi không sợ. Bởi vì tôi suy nghĩ là mai mốt mình chết mình cũng thành ma.
VW: Thế nào là một thế giới khác gọi là... ma?
NĐC: Thế giới đó và họ sẽ là bạn mình có gì phải sợ họ. Thường thường mình sợ cái gì không thấy, nhưng khi nghĩ ra là mình sẽ thành cái đó có gì đâu phải sợ. Nhưng nếu họ phá mình xin họ đừng phá.
VW: Xin anh bắt đầu câu chuyện của mình?
NĐC: Hồi đó tôi đóng quân ở đồn Phước Hòa ở tiểu khu Bình Dương, năm 1973-74 gì đó. Đồn này ngày xưa là của Pháp. Bọn Pháp ngày xưa chuyên hà hiếp dân lành giết người vô tội. Tương truyền vùng đó hồn ma oan cũng nhiều. Theo người trong vùng kể lại có những cô gái bị bắt vào đồn và bị giết. Sau đó các hồn ma bóng quế hiện lên. Tôi nghe thôi thật sự chưa thấy bao giờ. Tôi là sĩ quan phải đi tuần còn lính chỉ gác theo giờ. Thí dụ lính gác từ một giờ tới ba giờ, từ ba giờ tới năm giờ. Một hôm tôi đi tuần về phòng ngủ là ba giờ sáng. Hôm đó trong phòng có ba sĩ quan ngủ. Tôi, một ông Đại úy với một ông Thiếu úy. Ba giường khác nhau.
Tự nhiên giường của tôi khi vô nằm nó rung dữ dội lắm. Giường bằng gỗ của ván thùng đạn đóng không chắc lắm, kiểu như cái sạp, giống như mình vác thùng đạn ra mình đập rồi mình đóng lại thành giường, trải pông sô lên, rồi trải mền lên nằm cho êm vậy thôi. Nếu dùng tay lắc, nó vẫn lắc, nhưng thật sự nó không thể nào lắc mạnh được tại nó cũng cứng. Khi tôi lên nằm, nó rung… rung ở biên độ khoảng một tấc, tức là nó đi tới đi lui khoảng một tấc! Mông mình chạy tới chạy lui...
VW: Wow, coi chừng có người lắc thì sao?
NĐC: Đúng. Ngay lúc đó tôi không nghĩ là ma. Tôi quay lại thấy ông Đại úy ngủ, ngáy. Còn bạn Thiếu úy có thể chọc mình. Tôi nói: "Ê Đào ngày mai tôi phải tỉnh, phái đoàn thanh tra tới đó, để tôi ngủ chớ, bây giờ là ba giờ rồi...” Khi nói thế mà cái giường vẫn rung. Đến lúc đó tôi ngồi dậy, định lấy tay tính đánh qua chân nó, tôi thấy giường nó cách giường tôi hai tấc. Chân nó vẫn nằm trong mùng làm sao nó đạp mình được? Và cái giường… vẫn rung!
VW: Rồi sao?
NĐC: Lúc đó tôi lại nghĩ là đặc công VC, đôi khi họ xâm nhập vô được đồn núp trong phòng, canh giết mình. Phản ứng đầu tiên là chụp cây súng ở dưới gối, chỉa súng vô trong gầm giường liền. Tôi không thấy gì hết, lấy đèn pin rọi lúc đó tôi mới nói một câu: “Thôi nhe, hồn ma nào mà đi ngang đây, muốn gì nói cho tôi biết, tôi cúng. Không nên làm như thế, tụi tôi cũng là những người lính thôi...”
VW: Sau khi anh nói giường có rung nữa không?
NĐC: Lạ lùng, tôi vừa vái khấn xong, giường lập tức yên lặng hết rung. Sau đó ngủ êm tới sáng.
VW: Ghê quá. Ngoài chuyện rung giường ra có ai trong đồn bị nhát nữa không?
NĐC: Trước đó một ngày tức là đêm hôm trước, một người lính ngủ ở hành lang bên ngoài phòng, tên là Hai kể lại... Người lính đó đang ngủ, nghe một người kêu Hai rất là lớn. Ông ta tưởng là ông Đại úy ở trong phòng của tôi gọi, ổng quay ra bị tát cái “bốp”. Cái tát rất là mạnh, sáng hôm sau còn thấy năm vết hằn đỏ ở trên má. Ổng nói là hôm qua bị ma nó đập.
VW: Anh có thấy dấu tay hay kể lại?
NĐC: Có dấu tay luôn mà. Nhưng tôi cũng hỏi đùa:
- Thấy dấu tay nhưng nhiều khi Linh bạn mầy nó đánh mầy làm sao?
Ỗng bảo:
- Không! cái mùng em đâu có bị tung ra đâu, nếu mà tát em một cái thì cái mùng phải tung ra, nếu mà người nào đánh cái mùng phải tung ra, em vẫn nằm trong mùng, cái mùng vẫn giắt đàng hoàng. Đêm hôm sau nữa đó, ông Thiếu úy Huế ở phòng bên cạnh đang vừa mới ngủ, nghe kêu Huế rất lớn. Ỗng giựt mình ngồi dậy, ở cách cửa phòng ổng có một trạm gác, người lính đang ngồi ở đó ổng mới tới hỏi, hồi nảy tới giờ thấy ai kêu không. Người lính đó nói là không.
VW: Đó là giọng nữ hay nam?
NĐC: Giọng một người đàn ông.
VW: Ngày hôm sau nữa giường của anh bị rung. Ba đêm liên tục hiện tượng ma xảy ra. Về phương diện khoa học anh có nghĩ rằng tại sao ma xảy ra cho người này mà không xảy ra cho người khác?
NĐC: Có thể gọi tạm là sự thích hợp hoặc đôi khi người đó có duyên gì đó. Có những người không bao giờ thấy, có những người thấy thường xuyên. Không phải là do sợ hay không sợ mà thấy đâu.
VW: Qua Mỹ anh có gặp ma không?
NĐC: Tôi có nghe một người bạn kể chuyện. Hai vợ chồng anh là Phật tử thuần thành tối nào cũng tụng Kinh. Họ ở San José. Anh thuê căn nhà. Phone reng, anh nhấc phone lên nghe một tràng cười quái đản, tưởng bị phá cúp phone. Ngày hôm sau lại cũng nghe tiếng phone, vợ anh nhấc lên lại cũng nghe một tràng cười quái đản giống như là ma quái, lại cúp phone. Sau cùng đêm hôm đó phone reng mấy lần, họ rút power đi mà nó vẫn reng. Đó là một hiện tượng.
Buổi sáng đó tôi đi chợ về, anh bạn đi làm tôi khóa cửa lại, tôi xách cái giỏ tự nhiên đi vô cái giỏ bị níu lại, tôi nghĩ là quai giỏ vướng vào nắm cửa, tôi quay lại thấy giỏ đâu có vướng vào nắm cửa vẫn bị níu lại, một lát sau mới để cho tôi đi được, cái giỏ bị đứng ở chỗ đó không có vướng vào cái gì cả, cái giỏ vẫn đeo ở tay mà vẫn không đi được, đi như có cái gì níu lại cái giỏ.
VW: Anh nghĩ sao con đường Euclid, anh có nghĩ vùng đất có bị ma không?
NĐC: Hình như là có, tôi chưa trực tiếp chứng kiến nhưng mà nghe nhiều người nói, tôi nghĩ phải có người ta mới nói chớ ai tưởng tượng chuyện đó làm gì.
VW: Đi ngang qua con đường đó anh thấy có rờn rợn không?
NĐC: Tôi không có cảm giác đó, nhưng mà nếu mình có rờn rợn tại vì mình nghĩ đến những câu chuyện người ta nói thôi, nghe cả mười năm nay rồi.
VW: Nếu cho anh ngủ một đêm ở căn nhà đó anh dám ngủ không?
NĐC: Không (cười). Khi thách thức người sống và người chết cũng vậy, đều có thể gây một điều không tốt cho mình, không nên, vậy thôi. Chớ không phải vì sợ.
ST
#188
Gửi vào 15/07/2011 - 05:17
SỰ KIỆN TƯỢNG ĐỨC MẸ THUỘC GIÁO XỨ BẠCH LÂM
Hạt Gia Kiệm. Giáo Phận Xuân Lộc. Kể từ ngày thứ tư 9-7-08. Tượng đài Đức Mẹ ngay bên hông nhà thờ Bạch Lâm, hằng ngày và đặc biệt là hằng đêm đã tỏ hiện nhiều dấu lạ bất thường, kéo dài nhiều tuần lễ và đã có hàng chục ngàn người đứng chật như nêm tại khuôn viên nhà thờ được chứng kiến. Trong khi chờ đợi ý kiến của giáo hội địa phương. Chúng con đã cố gắng thu thập những tin tức khả tín và xin được chia sẻ một số trong rất nhiều thông tin chi tiết có liên quan. Mục đích để tránh việc kẻ xấu phao thêm những tin tức không đúng, và cũng để tránh những điều bất cập hoặc thái quá trong dư luận thiếu khách quan từ nhiều hướng.
Chi tiết khởi sự được ghi nhận là do một số các trẻ em đi dự giờ kinh chiều, đã nhìn thấy Đức Mẹ vẫy gọi các em đến gần, sau đó Đức Mẹ đã trang nghiêm quay mặt hướng về nhà thờ, mà cụ thể là phía Nhà Tạm của nhà thờ. Địa điểm đài Đức Mẹ ở phía đầu và song song với nhà thờ, dấu lạ này được ghi nhận là kéo dài khoảng mười lăm giây. Những ngày sau đó cũng có nhiều người nhìn thấy Đức Mẹ quay mặt về phía nhà thờ. Từ đó đến nay liên tiếp mỗi đêm có hàng chục ngàn giáo dân xa gần, đã tề tựu về đài Đức Mẹ để cầu nguyện và phần đông đều đã được nhìn xem tận mắt những dấu lạ như:
Cỗ tràng hạt trên tay Đức Mẹ đã phát sáng liên tục trong suốt thời gian qua cả ngày lẫn đêm. Người ta nhìn thấy những hạt màu đỏ, xanh, vàng, trắng chói lòa chiếu sáng lấp lánh, từ các hạt của chuỗi và cả Thánh giá, hiện tượng giống hệt có nguồn sáng phát ra từ bên trong. Rất tiếc vào lúc sáu giờ sáng ngày 21-7-08. Giáo quyền địa phương đã thu giữ chuỗi tràng hạt này. Tuy nhiên điều đáng chú ý là sau đó, giáo dân đã tự ý làm một chuỗi hoa tươi để trang điểm cho mẹ, thay cho chuỗi hạt đã bị lấy đi, và lạ lùng thay chuỗi hoa tươi này vẫn tiếp tục phát sáng.
Hiện tượng phát sáng còn xẩy ra tại vị trí Trái Tim Đức Mẹ, nhiều người còn hạnh phúc được nhìn thấy hình ảnh hai thiên thần chầu bên cạnh Trái Tim Đức Mẹ. Khuôn mặt Đức Mẹ có những lúc biến đổi, người ta đã nhận ra chính khuôn mặt Đức Mẹ cũng được phát sáng một cách kỳ diệu, chẳng những là thay đổi màu sắc khuôn mặt, khăn trùm đầu mà còn là toàn diện khuôn mặt sáng rực. Thay đổi hoàn toàn so với tượng nguyên thủy rất xấu, vì tượng được làm đơn giản và đã trên mười lăm năm phơi nắng phơi mưa bị sói mòn. Biến đổi về sắc diện cũng như về nét mặt của tượng Đức Mẹ, trở nên giống như người thật hoặc trông như bức tượng khác vậy.
Thời gian xảy ra thường vào ban đêm, có khi một giờ đêm, hai giờ đêm, có khi là ba giờ sáng đôi khi cả ban ngày. Khuôn mặt của mẹ trở nên sống động và vô cùng xinh đẹp khó tả. Có khi chớp mắt, có khi mở mắt rất to thấy rõ cả con ngươi long lanh như mắt người thật vậy, tượng nguyên thủy có mắt u sầu và chỉ có nửa con ngươi, có khi khóc nước mắt chảy xuống tới cổ và nước mắt cũng sáng lóng lánh.
Ấn tượng và cảm động nhất có lẽ là trong đêm thứ tư ngày 23-7-08. Đức Mẹ đã khóc chảy máu mắt. Có hàng ngàn người nhìn thấy giọt nước mắt rơi xuống và nhiều lần đồng thanh la lớn trong một khuôn viên khá rộng của nhà thờ Bạch Lâm giữa đêm khuya. Khi xảy ra các dấu lạ, những ai may mắn hiện diện tại đây đều có thể nhìn thấy được tỏ tường. Nhiều người đã chụp hình và quay video.
ST
Hạt Gia Kiệm. Giáo Phận Xuân Lộc. Kể từ ngày thứ tư 9-7-08. Tượng đài Đức Mẹ ngay bên hông nhà thờ Bạch Lâm, hằng ngày và đặc biệt là hằng đêm đã tỏ hiện nhiều dấu lạ bất thường, kéo dài nhiều tuần lễ và đã có hàng chục ngàn người đứng chật như nêm tại khuôn viên nhà thờ được chứng kiến. Trong khi chờ đợi ý kiến của giáo hội địa phương. Chúng con đã cố gắng thu thập những tin tức khả tín và xin được chia sẻ một số trong rất nhiều thông tin chi tiết có liên quan. Mục đích để tránh việc kẻ xấu phao thêm những tin tức không đúng, và cũng để tránh những điều bất cập hoặc thái quá trong dư luận thiếu khách quan từ nhiều hướng.
Chi tiết khởi sự được ghi nhận là do một số các trẻ em đi dự giờ kinh chiều, đã nhìn thấy Đức Mẹ vẫy gọi các em đến gần, sau đó Đức Mẹ đã trang nghiêm quay mặt hướng về nhà thờ, mà cụ thể là phía Nhà Tạm của nhà thờ. Địa điểm đài Đức Mẹ ở phía đầu và song song với nhà thờ, dấu lạ này được ghi nhận là kéo dài khoảng mười lăm giây. Những ngày sau đó cũng có nhiều người nhìn thấy Đức Mẹ quay mặt về phía nhà thờ. Từ đó đến nay liên tiếp mỗi đêm có hàng chục ngàn giáo dân xa gần, đã tề tựu về đài Đức Mẹ để cầu nguyện và phần đông đều đã được nhìn xem tận mắt những dấu lạ như:
Cỗ tràng hạt trên tay Đức Mẹ đã phát sáng liên tục trong suốt thời gian qua cả ngày lẫn đêm. Người ta nhìn thấy những hạt màu đỏ, xanh, vàng, trắng chói lòa chiếu sáng lấp lánh, từ các hạt của chuỗi và cả Thánh giá, hiện tượng giống hệt có nguồn sáng phát ra từ bên trong. Rất tiếc vào lúc sáu giờ sáng ngày 21-7-08. Giáo quyền địa phương đã thu giữ chuỗi tràng hạt này. Tuy nhiên điều đáng chú ý là sau đó, giáo dân đã tự ý làm một chuỗi hoa tươi để trang điểm cho mẹ, thay cho chuỗi hạt đã bị lấy đi, và lạ lùng thay chuỗi hoa tươi này vẫn tiếp tục phát sáng.
Hiện tượng phát sáng còn xẩy ra tại vị trí Trái Tim Đức Mẹ, nhiều người còn hạnh phúc được nhìn thấy hình ảnh hai thiên thần chầu bên cạnh Trái Tim Đức Mẹ. Khuôn mặt Đức Mẹ có những lúc biến đổi, người ta đã nhận ra chính khuôn mặt Đức Mẹ cũng được phát sáng một cách kỳ diệu, chẳng những là thay đổi màu sắc khuôn mặt, khăn trùm đầu mà còn là toàn diện khuôn mặt sáng rực. Thay đổi hoàn toàn so với tượng nguyên thủy rất xấu, vì tượng được làm đơn giản và đã trên mười lăm năm phơi nắng phơi mưa bị sói mòn. Biến đổi về sắc diện cũng như về nét mặt của tượng Đức Mẹ, trở nên giống như người thật hoặc trông như bức tượng khác vậy.
Thời gian xảy ra thường vào ban đêm, có khi một giờ đêm, hai giờ đêm, có khi là ba giờ sáng đôi khi cả ban ngày. Khuôn mặt của mẹ trở nên sống động và vô cùng xinh đẹp khó tả. Có khi chớp mắt, có khi mở mắt rất to thấy rõ cả con ngươi long lanh như mắt người thật vậy, tượng nguyên thủy có mắt u sầu và chỉ có nửa con ngươi, có khi khóc nước mắt chảy xuống tới cổ và nước mắt cũng sáng lóng lánh.
Ấn tượng và cảm động nhất có lẽ là trong đêm thứ tư ngày 23-7-08. Đức Mẹ đã khóc chảy máu mắt. Có hàng ngàn người nhìn thấy giọt nước mắt rơi xuống và nhiều lần đồng thanh la lớn trong một khuôn viên khá rộng của nhà thờ Bạch Lâm giữa đêm khuya. Khi xảy ra các dấu lạ, những ai may mắn hiện diện tại đây đều có thể nhìn thấy được tỏ tường. Nhiều người đã chụp hình và quay video.
ST
#189
Gửi vào 15/07/2011 - 06:28
BÍ MẬT CỦA MỘT CÂU KINH PHẬT
Vừa rồi, chúng tôi, những người bạn chí thân từ thời còn đi học ở Việt Nam trước 1975, rủ nhau qua Canada thăm mấy ông bạn khác. Chúng tôi đến thành phố Montreal vào mùa hè nên không lạnh lắm. Ở Mỹ hay Canada, nhà cửa, cách sinh hoạt không khác nhau mấy. Và việc đi thăm bạn bè thì cũng chẳng có gì đáng kể ra đây nếu không có một câu chuyện, mà nếu bạn nghe được, chắc cũng sẽ ngạc nhiên, đặt nhiều câu hỏi.
Chuyện hơi dài dòng, xin bạn kiên nhẫn. Chúng tôi gồm ba cặp vợ chồng, được gia đình người bạn tiếp đón rất thân tình. Ông ta còn gọi các bạn khác ở gần đó, kéo đến, nên buổi họp mặt thật đông vui. Khi bữa cơm gia đình đã mãn, các bà lo dọn dẹp chén bát để pha trà và các ông đang chuyện trò sôi nổi, thì ông bạn chủ nhà đổi đề tài: “Có một chuyện thực, xảy ra ở Việt Nam, khoảng năm 1982. Một chuyện kỳ lạ mà bà chị tôi vừa là người trong cuộc vừa là nhân chứng. Lúc còn ở Việt Nam, chị tôi dấu kín vì sợ đến tai công an thì sẽ bị tra hỏi, có thể bị tù cũng nên. Nay chị tôi đến xứ tự do, sẽ kể thoải mái. Trong câu chuyện, có gì thắc mắc, xin cứ hỏi chị tôi”.
Người chị của chủ nhà, đang ngồi với các bà, được yêu cầu kể chuyện. Chị ta xin phép vài phút để lên lầu, lát sau đi xuống, tay cầm một phong bì đặt trước mặt và bắt đầu kể. Mọi người yên lặng, lắng nghe.
- “Gia đình tôi, sau bảy lăm (1975), chỉ còn đàn bà vì đàn ông đều vô tù cải tạo hết cả. Khoảng năm tám mươi (1980), chúng tôi được móc nối để vượt biên nhưng vẫn phải chờ ít nhất một người đàn ông đi tù cải tạo về mới quyết định được. Năm đó, cậu em tôi được thả về, chúng tôi báo cho người tổ chức, họ bảo, có một chuyến, phải đi ngay. Từ Sài Gòn chúng tôi đón xe về Cà Mau dự đám cưới. Đám cưới thật nhưng ăn cưới chỉ là cái cớ. Dân địa phương thấy người lạ từ Sài Gòn về ăn cưới thì biết ngay, nhưng rình bắt là công việc của công an. Thế nên, ai cũng chờ đợi màn thứ hai là khuya nay, công an sẽ phục ở bãi đáp để tóm gọn quí vị quan khách nầy. Trò nầy xảy ra thường xuyên, nhưng họ không biết rằng vụ vượt biên nầy lại do chính công an địa phương đứng ra tổ chức, nên tối đó quí vị công an với các viên chức xã ấp có nhiệm vụ phải nốc rượu cho thật say, để sáng ra, ai cũng không biết gì cả!
Khuya đó, chúng tôi bị gọi dậy, cấp tốc lên đường. Từ nhà ra biển chỉ vài cây số. Trời quá tối. Chúng tôi âm thầm theo người trước mặt, đi vòng vèo trên các con đường đất. Trong bóng đêm tối đen, thỉnh thoảng, bên đường lại có một toán chui ra nhập bọn, tôi đoán, cả đoàn chúng tôi, ít ra cũng hơn trăm người. Mặc dù đã được dặn trước là khi xuống thuyền phải tuyệt đối yên lặng và trật tự, không được chen lấn cãi cọ, nhưng khi thấy mấy chiếc tắc xi (thuyền nhỏ đưa ra thuyền lớn), người ta ùa nhau lội xuống nước, tranh nhau leo lên thuyền. Cậu em tôi đi trước, tay bồng hai đứa con, vợ nó níu lưng đi sau, tôi níu áo cô ta để khỏi lạc nhau. Chỗ bãi đó toàn sình, ngập đến đầu gối khiến ai nấy bì bõm mãi mà chưa đến thuyền. Cậu em tôi phải kéo hai người đàn bà chúng tôi phía sau nên càng vướng víu, chậm chạp. Mọi người như những bóng ma âm thầm, chen nhau leo lên thuyền.
Khi cậu em tôi bỏ được hai đứa nhỏ lên thuyền, đẩy được vợ nó lên, đến lượt tôi thì bỗng có tiếng súng, tiếng la hét:
- “Tất cả đứng yên! Đưa hai tay lên. Ai bỏ chạy sẽ bị bắn bỏ”.
Tôi thấy ánh đèn pin loang loáng cách chỗ chúng tôi vài trăm thước. Chủ thuyền vội đẩy thuyền ra. Cậu em tôi chỉ kịp níu lấy be thuyền, người vẫn còn ở dưới nước. Tôi và khoảng vài chục người đành đứng nhìn mấy chiếc thuyền lẫn vào bóng tối, mờ dần ngoài biển khơi. Lúc đó tiếng súng và tiếng hô hoán “Đứng yên! Bỏ chạy bắn bỏ” càng như gần hơn khiến mọi người vội chạy ngược về phía bờ. Như đã dặn trước:
- “Khi bị bể, phải chạy tránh xa ánh đèn của công an, trốn cho kỹ, chờ vài hôm, yên tĩnh mới tìm cách ra lộ đón xe về”.
Vậy là mạnh ai nấy chạy. Tôi bương đại lên bờ, chạy ngược hướng tiếng súng. Vừa chạy vừa run, miệng niệm: “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát”. Cứ nhắm mắt, nhắm mũi chạy đại, vấp mô đất hay gốc cây té xuống thì vùng dậy chạy tiếp. Lúc đầu hình như có người cùng chạy với tôi, quay lại thì không thấy ai cả! Tôi chạy độ nửa tiếng, thấy đã xa, vừa hoàn hồn thì hai chân rã rời, nhấc không lên. Tôi ngồi đại xuống đất, thở dốc. Lúc đó khoảng một giờ sáng. Tôi nhìn quanh. Một bên là biển đen sì, rì rào tiếng sóng, một bên là bờ rừng, với hàng cây là những khối đen, cao hơn đầu người, trông như những con ác thú đang chờ mồi. Tôi đoán, có lẽ công an rình bắt một vụ vượt biên khác, cách chúng tôi vài ba trăm mét, chủ thuyền tưởng bị bể, nên bỏ chạy, vì thế mọi người mới chạy thoát.
Từ lúc lên xe ở Sài Gòn đến khi về Cà Mau, tôi hoàn toàn không biết mình đang ở đâu? Bây giờ ngồi bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, chung quanh tối mù, tôi tự hỏi mình sẽ làm gì, hay phải ngồi như thế nầy cho đến sáng? Lúc nãy, chạy, người toát mồ hôi, bây giờ, gió biển thổi vào, tôi lạnh run cầm cập. Tôi thầm ước cho công an đến bắt mình, có người cùng bị bắt với nhau cũng yên tâm, rồi sau đó muốn ra sao thì ra! Cái xách nhỏ trên vai tôi vẫn còn. Tôi tìm chai nước lạnh, uống mấy ngụm. Trong xách chỉ có vài chai nước lạnh, mấy viên thuốc say sóng, mấy hộp sữa đặc, cái khăn nhỏ, một mớ đô la và vàng cùng quyển kinh Phật. Không hiểu sao, trong lúc hoảng loạn mà tôi còn giữ được cái xách?
Đang ngồi rầu rĩ, bỗng nhiên, tôi thấy từ xa, có ánh đèn thấp thoáng, có lẽ là đèn dầu hôi, loại thường thấy ở thôn quê, cách tôi hơn một cây sốâ. Tôi mừng rỡ, quên cả mệt, đứng lên, nhắm ánh đèn mà đi. Tôi đi như chạy, té lên, té xuống, mà không thấy đau, cứ nhắm ánh đèn bương tới, vì sợ người ta tắt đèn thì không biết làm sao tìm đến. Độ nửa giờ sau, tôi đến nơi. Đó là một nhà lá, cửa mở, một cây đèn bão, (loại đèn để đi trong gió mà không sợ tắt) đặt trên một chiếc ghế nhỏ, để ngay trước cửa, nhờ vậy mà từ hướng bên trái ngôi nhà, tôi vẫn thấy được.
Khi đến trước cửa, tôi kêu lên:
- “Có ai trong nhà không? Cho tôi vào với”.
Có tiếng đàn ông nói lớn:
- “Vào đi! Đừng sợ!”.
Khi bước vô cửa tôi mới nhận ra là có một người đàn ông đang ngồi hút thuốc lào, cạnh một cái bàn để giữa nhà. Người đàn ông đứng lên, ra đem cây đèn bão và chiếc ghế vào. Nghe giọng lơ lớ, với cách dùng chữ, tôi đoán ông ta là người Bắc giả giọng Nam. Tôi bước vào nhà. Nhà không rộng lắm nhưng đặt ba nơi ba chiếc giường rộng, có trải chiếu tươm tất. Ông ta chỉ chiếc ghế:
- “Ngồi đấy đi!”.
Tôi nói cám ơn, vì áo quần dính sình, không dám ngồi, sợ dơ ghế. Ông ta bảo, giọng bình thản như việc nầy đã từng xảy ra nhiều lần:
- “Thế thì đi tắm đi! Tôi có sẵn áo quần của bà xã tôi, thay tạm. Áo quần bẩn thì giặt đi, phơi ra ngoài gió, sáng mai khô ngay, thay trả lại cho tôi, rồi tôi sẽ đưa ra bến xe, đón xe về Sài Gòn”.
Nghe nói sáng mai đón xe về Sài Gòn, tôi mừng quính, không ngờ mình may mắn gặp được cứu tinh. Tôi thấy có cảm tình với người đàn ông tử tế đó, định nói lời cám ơn, nhưng nhìn thấy hai con mắt của ông ta, tôi rùng mình khiếp sợ. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, mặt sạm nắng, hai gò má cao, tóc ngắn, chân tay gân guốc ... nghĩa là ông ta đúng là một nông dân, chỉ đôi mắt là khủng khiếp. Tuy đèn dầu tù mù nhưng đôi mắt vẫn ánh lên những tia sáng lạnh lẽo, vừa uy quyền, tàn nhẫn vừa như giễu cợt. Tôi sợ quá, cảm tưởng như mình là con chuột đã bị con mèo chộp được trong móng vuốt nhưng vẫn giữ đấy chờ con mồi chết khiếp mới từ từ thưởng thức. Thấy tôi đứng bất động vì sợ, ông ta cười, giọng dịu dàng nhưng vẫn uy quyền, như ra lệnh:
- “Tôi không hại cô đâu. Cô đừng sợ. Tôi nghe tiếng súng nổ là biết ngay vượt biên bị bể nên thắp đèn lên để ai chạy thoát thì đến đây tá túc, sáng mai tôi lấy thuyền đưa ra bến xe về nhà. Tôi đã cứu hàng mấy trăm người rồi. Ai cũng về nhà an toàn. Đừng sợ. Để tôi lấy áo quần cho cô thay tạm. Hôm nay vợ tôi ra chợ thăm đứa con gái, sáng mai, tôi đưa đi, nhân tiện đón vợ tôi về. Đói bụng thì có cơm nguội trong nồi với con cá khô trong bếp, lấy ra mà ăn”.
Ông ta nói nhỏ nhẹ, từ tốn nhưng tôi vẫn sợ, răm rắp theo lệnh. Ông ta vào buồng đem ra một bộ đồ đàn bà màu đen, trao cho tôi rồi thắp một cây đèn cầy, chỉ lối đi ra sau chái nhà:
- “Có cái phòng tắm sau kia. Sẵn nước với khăn lau. Tắm xong, mặc tạm, còn bộ đồ bẩn thì giặt đi, phơi lên, sáng mai khô, mặc vào, trả lại bộ đồ cho vợ tôi”.
Tôi riu ríu cầm áo quần và cây đèn cầy, ra nhà sau, vào phòng tắm, đóng cửa lại, gắn cây đèn sáp lên bệ, xây lưng về phía đèn, cởi đồ ra, dội nước. Tôi làm một cách vô thức, như bị thôi miên bởi cặp mắt của ông ta, tôi đoán, đang nhìn tôi qua khe hở của vách phòng. Tôi tắm qua loa, mặc áo quần vào. Còn nửa thùng nước, tôi đổ ra cái thau nhỏ sẵn đó, vò bộ đồ dính sình rồi treo lên một sợi dây kẽm trong phòng tắm. Khi tôi lên nhà trên thì ông ta chỉ cái giường, có giăng sẵn mùng:
- “Cô ngủ trên giường nầy. Tôi ngủ trong phòng. Ngủ đi cho khỏe, đừng sợ mà thao thức. Mai đi sớm”.
Tôi nói:
- “Dạ. Cám ơn!” rồi chui vô mùng. Ông ta tắt đèn, đi vào buồng.
Tôi nằm trên giường, mắt mở thao láo, không dám ngủ. Có chiếc mền mỏng, tôi lấy quấn chặt quanh người rồi nằm lắng nghe, không biết chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi chỉ mong được ông ta tịch thu hết số đô la và vàng tôi mang theo rồi tha cho tôi về nhà. Tôi cứ lẩm nhẩm niệm Quán Thế Âm, cầu Phật Bà cứu khổ cứu nạn. Trong đêm tối, tất cả im lặng, chỉ có tiếng sóng biển rì rầm nghe như tiếng xe chạy rất xa. Bấy giờ tôi mới thấy người rã rời, vừa mỏi vừa đau ê ẩm khắp nơi, nhất là những chỗ bị mô đất hay gốc cây đập mạnh vào khi tôi chạy bị ngã. Suy nghĩ miên man, tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng. Vừa xếp mùng, mền xong thì ông ta từ trong buồng bước ra.
- “Ngủ có được không?”.
- “Dạ. Đi mệt quá nên ngủ say một giấc đến sáng”.
Tôi nói mà không dám nhìn ông ta, sợ thấy đôi mắt kinh khiếp đó.
- “Cô thay đồ rồi chúng ta đi ngay. Tôi chở cô ra bến xe ngoài chợ, họ sẽ đưa cô lên bến xe tỉnh, đón xe về Sài Gòn. Cô viết vào miếng giấy trên bàn kia, tên họ địa chỉ của cô. Tôi cần biết về cô để sau nầy dễ xác nhận”.
Tôi ra sau nhà, thay đồ, đem bộ đồ của vợ ông ta để trên giường, đến chỗ cái bàn, viết tên họ, địa chỉ vào miếng giấy. Ông ta chỉ cái xách nhỏ của tôi “Đừng quên cái xách tay”. Tôi thấy quyển kinh của tôi để ra ngoài nhưng không dám lấy bỏ vào xách, mà làm như không thấy, chỉ vơ vội cái xách, cầm đi theo ông ta. Ra ngoài sân, tôi mới biết, trước nhà là một con sông rất rộng, có lẽ là cửa sông, còn biển thì nằm bên trái căn nhà, cách một cây số. Nhà ông ta nằm giữa một vùng hoàn toàn hoang vắng, chung quanh là sình lầy với cây đước, vẹt, sú gì đó mọc mênh mông, chạy đến mút mắt. Tôi không hiểu vì sao vợ chồng ông ta lại đem nhau ra ở chỗ nầy? Không ruộng vườn, không thuyền bè đánh cá, không có người chung quanh, ngay đến con chim cũng không thấy bay qua. Có chăng là mấy con cua còng gì đó nằm trên mặt sình dương mắt nhìn tôi. Con đường từ nhà ra bến sông được đắp cao, có lẽ là lối duy nhất đưa ông ta ra chiếc thuyền, đến với xã hội loài người.
Ông ta xuống thuyền, tôi bước theo. Nhờ mấy miếng bê tông làm thành tam cấp nên tôi xuống thuyền không khó khăn lắm. Chiếc thuyền nhỏ, dài khoảng sáu, bảy mét, rộng hơn hai mét, gắn máy đuôi tôm. Ông ta tháo dây cột thuyền, giật máy, đưa thuyền ra giữa giòng sông.
Chiếc thuyền chạy giữa hai bờ rừng vắng vẻ, hoang vu. Một lúc thật lâu thì xa xa thấp thoáng mấy mái nhà sau hàng dừa nước, rồi vài chiếc thuyền xuất hiện, chạy ngược chiều. Thuyền ghé vào một bến đò, có nhà cửa, quán ăn, một chợ thôn quê nhỏ và một bến xe lam (xe Lambretta, ba bánh dùng chở khách). Ông ta cột chuyền, ra dấu cho tôi cùng lên bờ. Mọi người thấy ông ta thì cúi đầu chào vẻ kính cẩn và sợ hãi. Ông ta không thèm nhìn ai, đi thẳng đến chiếc xe lam, nói gì đấy với người chủ xe. Người chủ xe khúm núm gật đầu, miệng dạ nhịp, rồi đến nói với tôi:
- “Mời cô lên xe. Xe chạy ngay bây giờ”.
Ông ân nhân không để ý đến lời cám ơn của tôi, cũng không nói với ai tiếng nào, xuống thuyền, giật máy, quay thuyền ra giữa giòng. Khi ngồi trong xe lam, tôi thấy mọi người đang tò mò nhìn tôi với vẻ sợ hãi rồi thì thầm với nhau gì đấy. Ông xe lam nổ máy, chở một mình tôi, vòng vèo trên đường đất trong xóm rồi đưa xe ra đường lớn, chạy vào thành phố. Ông ta chạy thẳng đến bến xe khách, ngừng cạnh một xe đầy khách, mời tôi xuống, đưa tôi đến ông tài xế, thì thầm với ông ta. Ông tài xế mời tôi lên ngồi ghế trước. Tôi lục trong xách nhỏ, thấy gói đô la và vàng còn nguyên, lấy ra một mớ tiền Việt đưa trả cho hai người, nhưng ai cũng khoát tay.
- “Anh Năm dặn rõ là ảnh sẽ trả tiền xe cho cô, chúng tôi đâu dám nhận”.
Chiều hôm đó, tôi về đến nhà.
Khoảng một tháng sau, người tổ chức đến gặp tôi, báo tin là mọi người đến đảo an toàn, thân nhân sẽ gửi thư sau. Ông ta hỏi tôi rất tỉ mỉ về vụ những người không kịp lên thuyền, tôi kể lại sự việc. Ông ta bảo những người kẹt lại đã bị công an bắt, chỉ thiếu hai gia đình, gồm bốn người, không có tin tức. Hai gia đình nầy thì tôi biết, họ là thương gia xuất nhập cảng trước bảy lăm, rất giàu. Trước khi đi, họ đã bán nhà, vì tin chắc sẽ đi lọt, như vậy, họ ôm của cải theo (vàng và đô la), phải nhiều lắm.
Chuyến vượt biển lần đó khiến tôi sợ quá, không dám nghĩ đến, ai rủ đi cũng lắc đầu.
Khoảng một năm sau, tôi nhận được một lá thư, tên người gửi lạ hoắc. Tôi hoàn toàn không biết ai đã gửi đến.
Chị ta cầm lá thư đưa lên “Mấy năm sau, chồng tôi đi tù về. Chúng tôi qua Mỹ theo diện HO. Vợ chồng tôi qua Canada ở chơi với gia đình cậu em. Gần mười năm mà tôi vẫn còn giữ lá thư nầy. Để tôi đọc cho quí vị nghe:
- “Gửi bà H. (là tên tôi). Bà còn nhớ, lần vượt biển ở Cà Mau, bị bể và bà được tôi cho trọ qua đêm, hôm sau đưa ra bến xe, về thành phố H-C-M. Tôi biết bà thắc mắc. Tôi là ai? Tại sao lại ở nơi vắng vẻ? Tôi sinh sống bằng cách nào?
Tôi cho bà rõ. Tôi là công an, có nhiệm vụ ở đó để đón lỏng những người vượt biên bị bể chạy thoát được. Công an chúng tôi làm nhà cách nhau một vài cây số, dọc bờ biển, nơi thường có bến bãi vượt biên, có thuyền con đón ra thuyền lớn. Như vậy, khi công an đến bắt vượt biên, người nào chạy thoát cũng chỉ quanh quẩn đâu đấy, thấy đèn là tìm đến, thế là nộp mạng cho chúng tôi. Tôi bảo rằng có vợ ở chung nhưng thật ra, vợ con tôi đều ở ngoài Bắc, tôi vào đây công tác đã được bốn năm, khi nào ổn định sẽ đưa gia đình vào thành phố H-C-M, vì chẳng ai có thể ở nơi hoang vắng nầy.
Mỗi công an chúng tôi đã chuẩn bị sẵn các tiện nghi, nước nôi, lương thực, giường chiếu để đón những người vượt biên tìm đến nhờ cứu giúp. Tôi cho ăn uống, ngủ lại, sáng hôm sau, cho họ xuống thuyền, nói là chở ra bến xe để họ về nhà, nhưng kỳ thực, thuyền đi được nửa đường là bị công an chận bắt. Tôi cũng bị bắt để không ai nghi ngờ.
Thông thường, nếu nhiều người tìm đến thì tôi bảo họ, có gì đem theo nên kê rõ, nhất là tiền bạc, quí kim, để tránh chuyện lấy cắp của nhau. Nếu chỉ một người thì tôi chờ lúc người đó đi tắm sẽ lục xách tay, kiểm tra những gì đem theo. Tôi còn rình nhìn lúc họ đi tắm, cởi đồ ra, sẽ thấy những gì họ lận theo người?
Tôi không bao giờ lấy của ai bất cứ gì, nên khi giải giao họ (đưa lên thuyền để bị công an chận bắt), công an chấp pháp lấy lời khai, sẽ thấy rằng tôi rất trong sạch. Tôi từng được công an tỉnh và trung ương biểu dương nhiều lần về thành tích chận bắt người vượt biên cũng như tinh thần chí công vô tư, không tơ hào đến của cải, vật chất của người bị bắt. Nhưng không ai biết rằng, hễ người nào đem nhiều đô la, vàng ngọc, hột xoàn là tôi thủ tiêu, chôn xác trong rừng. Tôi đào sẵn những cái hố, muốn giết ai, khuya đó, tôi lận súng trong người, bảo họ đi theo tôi để tôi chỉ đường mà đi ra đường chính đón xe về. Vào rừng, tôi bắn chết, đạp xuống hố, hôm sau ra lấp đất lại. Không người nào thoát khỏi tay tôi, vì chung quanh toàn sình lầy, có bỏ chạy một quãng là ngập người dưới sình, tôi chỉ rọi đèn pin, đi tìm và bắn họ rất dễ dàng.
Tôi có nói bao nhiêu người bị tôi thủ tiêu với bà cũng chỉ làm bà kinh hoàng chứ chẳng ích lợi gì. Tất cả của cải cướp được, tôi đưa cho vợ tôi đem về quê chôn giấu. Hột xoàn, đô la, vàng ngọc, châu báu ... Nghĩa là vợ chồng tôi rất giàu. Vợ tôi bảo, có thể bỏ vốn lập những công ty, mua máy móc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu hoặc mua nhà cửa ở Hà Nội hay thành phố H-C-M cũng không hết của. Dĩ nhiên gia đình tôi ngoài Bắc vẫn sống đạm bạc như bao nhiêu người khác, để tránh bị nghi ngờ. Tôi dự định sẽ làm thêm vài năm, kiếm một số tiền vàng nữa rồi xin ra khỏi ngành.Tính ra, tôi ở đó đã được bốn năm, cho đến cái đêm bà tìm đến nạp mạng cho tôi.
Như mọi khi, lúc bà đi tắm, tôi rình xem bà cởi đồ (để biết của cải lận theo người) rồi lên kiểm tra xách tay của bà. Tôi thấy trong xách có nhiều vàng và đô la. Như vậy, số phận của bà đã được tôi quyết định. Bà sẽ bị tôi thủ tiêu. Trong lúc lục xét xách tay tôi thấy có một quyển kinh, khổ lớn hơn những quyển kinh khác, mà những người vượt biên khác thường đem theo. Quyển kinh lớn đó khiến tôi tò mò. Theo thông lệ, tất cả kinh Phật của những người vượt biên, tôi giữ lại, khi nào lên tỉnh, tôi tặng cho người bạn đang trụ trì một ngôi chùa lớn, gần chợ. Anh ta là công an, đi tu là công tác, vẫn lãnh lương công an. Tôi tặng các quyển kinh Phật cho chùa để ai đến lễ chùa mà “thỉnh” những kinh đó thì biết ngay, người đó sẽ vượt biên và chúng tôi theo dõi. Vì tò mò và vì nghiệp vụ, tôi mở quyển kinh của bà ra, để sát ngọn đèn cho dễ đọc. Tôi đọc một cách tình cờ, một câu kinh nằm ngay giữa trang kinh. Chỉ một câu thôi. Câu duy nhất đó khiến tôi lạnh toát người vì kinh sợ. Tôi sợ đến choáng váng, muốn té xỉu, đến độ ngồi chết lặng một lúc thật lâu. Tối đó, tôi không ngủ được.
Hiện nay tôi đã ra khỏi ngành công an. Tôi đã đi tu ở một vùng núi miền Tây Nguyên, rất hẻo lánh, xa hẳn phố phường, làng xóm. Ngôi chùa nhỏ được cất bên góc núi. Rất xa, dưới chân núi, cách nơi tôi ở, thấp thoáng những nhà sàn của những người thuộc sắc tộc thiểu số. Mỗi buổi sáng, tôi lạy Phật, tụng kinh, rồi lên đồi cuốc đất, trồng khoai sắn, rau quả. Buổi tối tôi lại tụng kinh và suy ngẫm lời Phật dạy. Tôi bảo với vợ tôi là tôi làm nhiệm vụ trên giao, không nên gặp nhau nhiều, thỉnh thoảng lên tiếp tế lương thực mà thôi. Của cải mà tôi kiếm được (vợ tôi đang giữ), tôi dặn, nên trích ra một phần, khi nào có thiên tai bão lụt thì đem cứu giúp người hoạn nạn, giúp bà con, bạn bè khi họ cần, giúp các người già lão, bịnh tật, không nơi nương tựa, giúp các trại mồ côi, các trại cùi hủi ...
Tôi viết để bà rõ, nay tôi đã chọn con đường khác. Tôi chỉ muốn biến mất trên thế gian, nhưng còn các con tôi? Chúng là nguồn sống của tôi. Tôi lo sợ cho chúng ...Nếu bà là một Phật tử, xin bà đến chùa, cùng góp lời cầu xin Phật Tổ cho tôi sớm tìm được con đường giải thoát.Chúc bà sức khỏe.” Chị đàn bà giơ lá thư lên và nói:
- “Thư chỉ viết thế thôi”.
Chúng tôi hỏi:
- “Chị có nhớ mình mang theo quyển kinh Phật tên gì không?”.
- “Đúng ra, lúc nào tôi cũng để sẵn quyển kinh “Quán Thế Âm Bồ Tát” trên bàn thờ, hễ hô “đi!” là tôi chỉ việc bỏ vô xách tay và lên đường. Hôm đó, cô em dâu tôi đây, lại lấy quyển kinh đó trước, tôi vội quá, mở tủ kinh Phật của ba tôi để gần đó, vơ đại một quyển, nghĩ rằng “Phật nào cũng là Phật, vị nào cũng phù hộ, độ trì cho chúng sinh tai qua nạn khỏi”. Ba tôi, khi còn sinh thời, tu tại gia, nghiên cứu kinh Phật. Ngoài chữ Việt, ông cụ còn biết chữ Hán, chữ Nôm nên thỉnh rất nhiều kinh về nghiên cứu. Thế nên, đến bây giờ tôi cũng không biết mình đã mang theo quyển kinh nào khi vượt biên. Điều tôi tin chắc rằng. Chính quyển kinh đó đã cứu mạng tôi và câu kinh trong đó, như một lời phán của Đức Phật hoặc đấng Hộ Pháp, bảo thẳng với kẻ ác hãy ngừng tay lại. Lời phán đó phải có uy lực mạnh mẽ đến nỗi một kẻ giết người phải khiếp đảm”.
Trong bọn chúng tôi, chẳng ai là đệ tử nhà Phật mặc dầu, thỉnh thoảng có đi chùa lạy Phật, tụng kinh trong những ngày lễ, tết. Chúng tôi hỏi nhau rồi phán đoán đủ thứ. Câu “buông đao thành Phật” quá tầm thường, chẳng làm ai động tâm. Muốn biết bí mật của câu kinh đó, chỉ còn cách đi hỏi các nhà sư thì họa may.
Vì bị câu chuyện trên ám ảnh, nên trên đường từ Canada về lại miền Đông Bắc nước Mỹ, chúng tôi quyết định, ghé vào một ngôi chùa của sư PT để thăm và hỏi cho ra lẽ. Sư trạc tuổi chúng tôi, là chỗ quen biết nên rất thân tình. Sư PT xuất gia từ lúc mười một tuổi tại chùa Diệu Đế ở Huế. Vượt biên qua Mỹ, sư học và tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Tuy còn trẻ, nhưng sư PT thông hiểu Phật pháp và có một cuộc sống rất đạo hạnh.
Trưa hôm đó, chúng tôi được sư khoản đãi cơm chay. Trong lúc thọ trai, chúng tôi kể lại câu chuyện trên cho sư nghe và hỏi sư có biết câu kinh nào đã khiến một người vô thần phải buông đao giết người và đi tu không? Nhà sư suy nghĩ một lúc và nói:
- “Nếu lý luận theo Phật pháp thuần túy ở đây thì không thích hợp với một người cộng sản. Họ đã được dạy căm thù và được huấn luyện cách giết người, nên dù có cả một bầy quỉ dữ từ địa ngục chui lên, hay hàng nghìn Đức Phật hiện ra thuyết pháp, chưa chắc ông công an nầy phải sợ mà ngưng tay. Ông ta chẳng thù hận gì những người vượt biên, nhưng giết họ để cướp của, ông ta làm thản nhiên như người đồ tể giết heo, giết bò. Mục đích là để có nhiều tiền của cho con cái được sung sướng. Cán bộ cộng sản thường bảo nhau:
- “Hi sinh đời bố, cũng cố đời con” là thế. Kinh Phật chỉ nói về cái nghiệp và cái quả. Ai làm nấy chịu. Nhưng người Việt mình lại có câu “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Cha mẹ thương con cháu thì ăn ở nhân đức, để phước cho chúng. Con cháu, nhớ ơn đó mà thờ phụng các vị một cách thành tâm. Đó là “Đạo Thờ Ông Bà”. Ông công an cộng sản nầy thì làm ngược lại, nên ông ta bị ám ảnh bởi việc ác của mình, “quả báo nhãn tiền”, con cháu sẽ lãnh đủ. Có thể, con cái ông ta bị đâm chém hay bị giết chóc sao đó, khiến ông ta nghĩ rằng “Mình giết người ta thì con mình bị người ta giết” nên ông ta sợ. “Nhưng Phật đâu có dạy về chuyện quả báo cho đời con cháu mà ông ta, khi đọc một câu nào đó trong kinh Phật lại sợ hãi đến nỗi phải bỏ nghề, đi tu?”.
“Đa số những người vượt biên đều đem theo người là kinh A Di Đà hoặc Bạch Y Thần Chú, coi như có Thần Phật hộ trì bên cạnh. Khi gặp chuyện hiểm nguy thì niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát” chỉ đọc tới đọc lui câu đó thôi, coi như tiếng kêu cứu, các vị Bồ Tát sẽ ra tay tế độ, giúp cho tai qua nạn khỏi. Những quyển kinh mà ông ta tịch thu, không nhất thiết đều giống nhau. Có thể người đàn bà kia đã mang một quyển kinh khác. Hơn nữa ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ, không có gì giải trí ngoài việc đọc các quyển kinh Phật, quả thật, ông ta đang bước về hướng của giải thoát.
Chính cái ý niệm muốn giải thoát khiến ông ta bỏ nghề, và câu kinh Phật kia chỉ như vật xúc tác, như cái nút điện mà ông ta đang mò mẫm trong bóng tối, đã bật sáng, cho ông ta thấy được con đường phải đi. Mỗi người là Phật chưa thành là vậy. Con người dù độc ác, mê muội đến đâu, cũng còn le lói một chút ánh sáng của lương tri. Đúng ra, phải gọi ông ta là “ông đạo” chứ không phải là “ông sư”. Vì ngoài việc nghiên cứu, tụng niệm kinh Phật, sư, sãi phải có thầy giảng giải, hướng dẫn trên đường tu tập. “Giả dụ như ông công an đó đến xin thọ giáo với thầy. Thầy sẽ giảng những gì cho một người vô thần như ông ta hiểu về Phật pháp?”.
Nhà sư cười:
- “Thoát được “tham, sân, si” là tự giải thoát rồi.
Chính tôi phải học ông ta, làm cách nào đã bỏ được chữ “tham”? Chữ “tham” đơn giản, thường tình thôi, không cần phải triết lý xa vời. Tiền của vô tay dồi dào, dễ dàng như vậy mà lại bỏ hết, mấy ai làm được?
Còn hai chữ “sân, si”, bản thân tôi như đang nằm trong cái rọ, không biết bao giờ mới thoát ra! Ông ta là thầy tôi mới đúng”.
- “Thầy có thể đoán được câu kinh nào nằm trong quyển kinh nào, đã khiến ông ta phải sợ mà đi tu không?”.
Nhà sư lắc đầu:
- “Chỉ riêng ông ta biết được mà thôi. Có thể chỉ một câu tình cờ, bình thường nào đó ông ta đọc được nhưng giải thích đúng những băn khoăn, thắc mắc, sợ hãi bấy lâu của ông ta, nó đánh động lương tâm ông ta, hướng dẫn ông ta tìm con đường giải thoát. Xưa kia, lục tổ Huệ năng chỉ nghe một câu trong kinh Kim Cang liền ngộ được đạo”.
- “Nhưng nhất định phải có một câu kinh nào đó. Thầy thử nhớ xem sao?”.
Nhà sư lắc đầu:
- “Bị hỏi thình lình, tôi không nhớ ra ngay. Hay là thế nầy. Bây giờ mời quí vị ra vườn sau chùa uống trà, ngắm hoa. Tôi xin được ít phút tập trung tư tưởng, họa may sẽ nhớ được điều gì chăng? Mục đích không phải tìm hiểu mà chỉ như trò chuyện cho vui vậy thôi. Tôi không đủ trình độ để giải thích câu chuyện kỳ lạ nầy”.
Nhà sư lên chánh điện. Chúng tôi ra sau chùa, vừa chuyện trò vừa lang thang ngắm hoa cảnh.
Có tiếng chuông ngân vang từ chánh điện, rồi tất cả yên lặng. Có lẽ nhà sư đang lễ Phật và trầm tư ...
Độ một giờ sau, nhà sư xuất hiện ở ngưỡng cửa với nụ cười. Sư tiến đến, ngồi xuống với chúng tôi ở một bàn nhỏ dưới gốc cây. Chúng tôi vội hỏi:
- “Tìm được câu kinh nào chưa thầy?”.
Sư lắc đầu và cười:
- “Kinh Phật chẳng có câu nào hăm dọa người ta, bắt người ta phải đi tu cả! Để nói về cái nghiệp báo thì kinh Thủy Sám Pháp có nói nhiều, nhưng tôi chỉ nhớ chính xác được vài câu ở các quyển kinh khác, chẳng hạn, trong kinh Đề Bà Đạt Ma (Devadata-suta) có câu:
- “Những việc ác mà ngươi đã phạm, không phải là tại cha ngươi, không phải tại mẹ ngươi, không phải tại thầy, chủ ngươi. Chính một mình ngươi đã phạm, và một mình ngươi phải chịu quả báo”.
Trong kinh Pháp Cú (Damma-pada) cũng có câu:
- “Dẫu rằng ngươi chạy lên trời cao, ẩn dưới biển sâu, trốn trong núi thẳm, không có nơi nào mà ngươi tránh khỏi cái quả ghê gớm về tội ác của ngươi”...
Nói xong nhà sư lộ vẻ bối rối.
- “Rất tiếc, vì sự vô minh của tôi mà câu kinh đó vẫn còn là một bí ẩn. Xin lỗi đã làm quí vị thất vọng. Theo tôi nghĩ, sự thống hối của ông ta quá thành khẩn, đã cảm động đến đức Phật, và Ngài đã ra tay tế độ, đã khai ngộ cho ông ta. Nhưng phải là người thật thành khẩn thì đức Phật mới làm được việc đó”.
Phạm Thành Châu
Vừa rồi, chúng tôi, những người bạn chí thân từ thời còn đi học ở Việt Nam trước 1975, rủ nhau qua Canada thăm mấy ông bạn khác. Chúng tôi đến thành phố Montreal vào mùa hè nên không lạnh lắm. Ở Mỹ hay Canada, nhà cửa, cách sinh hoạt không khác nhau mấy. Và việc đi thăm bạn bè thì cũng chẳng có gì đáng kể ra đây nếu không có một câu chuyện, mà nếu bạn nghe được, chắc cũng sẽ ngạc nhiên, đặt nhiều câu hỏi.
Chuyện hơi dài dòng, xin bạn kiên nhẫn. Chúng tôi gồm ba cặp vợ chồng, được gia đình người bạn tiếp đón rất thân tình. Ông ta còn gọi các bạn khác ở gần đó, kéo đến, nên buổi họp mặt thật đông vui. Khi bữa cơm gia đình đã mãn, các bà lo dọn dẹp chén bát để pha trà và các ông đang chuyện trò sôi nổi, thì ông bạn chủ nhà đổi đề tài: “Có một chuyện thực, xảy ra ở Việt Nam, khoảng năm 1982. Một chuyện kỳ lạ mà bà chị tôi vừa là người trong cuộc vừa là nhân chứng. Lúc còn ở Việt Nam, chị tôi dấu kín vì sợ đến tai công an thì sẽ bị tra hỏi, có thể bị tù cũng nên. Nay chị tôi đến xứ tự do, sẽ kể thoải mái. Trong câu chuyện, có gì thắc mắc, xin cứ hỏi chị tôi”.
Người chị của chủ nhà, đang ngồi với các bà, được yêu cầu kể chuyện. Chị ta xin phép vài phút để lên lầu, lát sau đi xuống, tay cầm một phong bì đặt trước mặt và bắt đầu kể. Mọi người yên lặng, lắng nghe.
- “Gia đình tôi, sau bảy lăm (1975), chỉ còn đàn bà vì đàn ông đều vô tù cải tạo hết cả. Khoảng năm tám mươi (1980), chúng tôi được móc nối để vượt biên nhưng vẫn phải chờ ít nhất một người đàn ông đi tù cải tạo về mới quyết định được. Năm đó, cậu em tôi được thả về, chúng tôi báo cho người tổ chức, họ bảo, có một chuyến, phải đi ngay. Từ Sài Gòn chúng tôi đón xe về Cà Mau dự đám cưới. Đám cưới thật nhưng ăn cưới chỉ là cái cớ. Dân địa phương thấy người lạ từ Sài Gòn về ăn cưới thì biết ngay, nhưng rình bắt là công việc của công an. Thế nên, ai cũng chờ đợi màn thứ hai là khuya nay, công an sẽ phục ở bãi đáp để tóm gọn quí vị quan khách nầy. Trò nầy xảy ra thường xuyên, nhưng họ không biết rằng vụ vượt biên nầy lại do chính công an địa phương đứng ra tổ chức, nên tối đó quí vị công an với các viên chức xã ấp có nhiệm vụ phải nốc rượu cho thật say, để sáng ra, ai cũng không biết gì cả!
Khuya đó, chúng tôi bị gọi dậy, cấp tốc lên đường. Từ nhà ra biển chỉ vài cây số. Trời quá tối. Chúng tôi âm thầm theo người trước mặt, đi vòng vèo trên các con đường đất. Trong bóng đêm tối đen, thỉnh thoảng, bên đường lại có một toán chui ra nhập bọn, tôi đoán, cả đoàn chúng tôi, ít ra cũng hơn trăm người. Mặc dù đã được dặn trước là khi xuống thuyền phải tuyệt đối yên lặng và trật tự, không được chen lấn cãi cọ, nhưng khi thấy mấy chiếc tắc xi (thuyền nhỏ đưa ra thuyền lớn), người ta ùa nhau lội xuống nước, tranh nhau leo lên thuyền. Cậu em tôi đi trước, tay bồng hai đứa con, vợ nó níu lưng đi sau, tôi níu áo cô ta để khỏi lạc nhau. Chỗ bãi đó toàn sình, ngập đến đầu gối khiến ai nấy bì bõm mãi mà chưa đến thuyền. Cậu em tôi phải kéo hai người đàn bà chúng tôi phía sau nên càng vướng víu, chậm chạp. Mọi người như những bóng ma âm thầm, chen nhau leo lên thuyền.
Khi cậu em tôi bỏ được hai đứa nhỏ lên thuyền, đẩy được vợ nó lên, đến lượt tôi thì bỗng có tiếng súng, tiếng la hét:
- “Tất cả đứng yên! Đưa hai tay lên. Ai bỏ chạy sẽ bị bắn bỏ”.
Tôi thấy ánh đèn pin loang loáng cách chỗ chúng tôi vài trăm thước. Chủ thuyền vội đẩy thuyền ra. Cậu em tôi chỉ kịp níu lấy be thuyền, người vẫn còn ở dưới nước. Tôi và khoảng vài chục người đành đứng nhìn mấy chiếc thuyền lẫn vào bóng tối, mờ dần ngoài biển khơi. Lúc đó tiếng súng và tiếng hô hoán “Đứng yên! Bỏ chạy bắn bỏ” càng như gần hơn khiến mọi người vội chạy ngược về phía bờ. Như đã dặn trước:
- “Khi bị bể, phải chạy tránh xa ánh đèn của công an, trốn cho kỹ, chờ vài hôm, yên tĩnh mới tìm cách ra lộ đón xe về”.
Vậy là mạnh ai nấy chạy. Tôi bương đại lên bờ, chạy ngược hướng tiếng súng. Vừa chạy vừa run, miệng niệm: “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát”. Cứ nhắm mắt, nhắm mũi chạy đại, vấp mô đất hay gốc cây té xuống thì vùng dậy chạy tiếp. Lúc đầu hình như có người cùng chạy với tôi, quay lại thì không thấy ai cả! Tôi chạy độ nửa tiếng, thấy đã xa, vừa hoàn hồn thì hai chân rã rời, nhấc không lên. Tôi ngồi đại xuống đất, thở dốc. Lúc đó khoảng một giờ sáng. Tôi nhìn quanh. Một bên là biển đen sì, rì rào tiếng sóng, một bên là bờ rừng, với hàng cây là những khối đen, cao hơn đầu người, trông như những con ác thú đang chờ mồi. Tôi đoán, có lẽ công an rình bắt một vụ vượt biên khác, cách chúng tôi vài ba trăm mét, chủ thuyền tưởng bị bể, nên bỏ chạy, vì thế mọi người mới chạy thoát.
Từ lúc lên xe ở Sài Gòn đến khi về Cà Mau, tôi hoàn toàn không biết mình đang ở đâu? Bây giờ ngồi bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, chung quanh tối mù, tôi tự hỏi mình sẽ làm gì, hay phải ngồi như thế nầy cho đến sáng? Lúc nãy, chạy, người toát mồ hôi, bây giờ, gió biển thổi vào, tôi lạnh run cầm cập. Tôi thầm ước cho công an đến bắt mình, có người cùng bị bắt với nhau cũng yên tâm, rồi sau đó muốn ra sao thì ra! Cái xách nhỏ trên vai tôi vẫn còn. Tôi tìm chai nước lạnh, uống mấy ngụm. Trong xách chỉ có vài chai nước lạnh, mấy viên thuốc say sóng, mấy hộp sữa đặc, cái khăn nhỏ, một mớ đô la và vàng cùng quyển kinh Phật. Không hiểu sao, trong lúc hoảng loạn mà tôi còn giữ được cái xách?
Đang ngồi rầu rĩ, bỗng nhiên, tôi thấy từ xa, có ánh đèn thấp thoáng, có lẽ là đèn dầu hôi, loại thường thấy ở thôn quê, cách tôi hơn một cây sốâ. Tôi mừng rỡ, quên cả mệt, đứng lên, nhắm ánh đèn mà đi. Tôi đi như chạy, té lên, té xuống, mà không thấy đau, cứ nhắm ánh đèn bương tới, vì sợ người ta tắt đèn thì không biết làm sao tìm đến. Độ nửa giờ sau, tôi đến nơi. Đó là một nhà lá, cửa mở, một cây đèn bão, (loại đèn để đi trong gió mà không sợ tắt) đặt trên một chiếc ghế nhỏ, để ngay trước cửa, nhờ vậy mà từ hướng bên trái ngôi nhà, tôi vẫn thấy được.
Khi đến trước cửa, tôi kêu lên:
- “Có ai trong nhà không? Cho tôi vào với”.
Có tiếng đàn ông nói lớn:
- “Vào đi! Đừng sợ!”.
Khi bước vô cửa tôi mới nhận ra là có một người đàn ông đang ngồi hút thuốc lào, cạnh một cái bàn để giữa nhà. Người đàn ông đứng lên, ra đem cây đèn bão và chiếc ghế vào. Nghe giọng lơ lớ, với cách dùng chữ, tôi đoán ông ta là người Bắc giả giọng Nam. Tôi bước vào nhà. Nhà không rộng lắm nhưng đặt ba nơi ba chiếc giường rộng, có trải chiếu tươm tất. Ông ta chỉ chiếc ghế:
- “Ngồi đấy đi!”.
Tôi nói cám ơn, vì áo quần dính sình, không dám ngồi, sợ dơ ghế. Ông ta bảo, giọng bình thản như việc nầy đã từng xảy ra nhiều lần:
- “Thế thì đi tắm đi! Tôi có sẵn áo quần của bà xã tôi, thay tạm. Áo quần bẩn thì giặt đi, phơi ra ngoài gió, sáng mai khô ngay, thay trả lại cho tôi, rồi tôi sẽ đưa ra bến xe, đón xe về Sài Gòn”.
Nghe nói sáng mai đón xe về Sài Gòn, tôi mừng quính, không ngờ mình may mắn gặp được cứu tinh. Tôi thấy có cảm tình với người đàn ông tử tế đó, định nói lời cám ơn, nhưng nhìn thấy hai con mắt của ông ta, tôi rùng mình khiếp sợ. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, mặt sạm nắng, hai gò má cao, tóc ngắn, chân tay gân guốc ... nghĩa là ông ta đúng là một nông dân, chỉ đôi mắt là khủng khiếp. Tuy đèn dầu tù mù nhưng đôi mắt vẫn ánh lên những tia sáng lạnh lẽo, vừa uy quyền, tàn nhẫn vừa như giễu cợt. Tôi sợ quá, cảm tưởng như mình là con chuột đã bị con mèo chộp được trong móng vuốt nhưng vẫn giữ đấy chờ con mồi chết khiếp mới từ từ thưởng thức. Thấy tôi đứng bất động vì sợ, ông ta cười, giọng dịu dàng nhưng vẫn uy quyền, như ra lệnh:
- “Tôi không hại cô đâu. Cô đừng sợ. Tôi nghe tiếng súng nổ là biết ngay vượt biên bị bể nên thắp đèn lên để ai chạy thoát thì đến đây tá túc, sáng mai tôi lấy thuyền đưa ra bến xe về nhà. Tôi đã cứu hàng mấy trăm người rồi. Ai cũng về nhà an toàn. Đừng sợ. Để tôi lấy áo quần cho cô thay tạm. Hôm nay vợ tôi ra chợ thăm đứa con gái, sáng mai, tôi đưa đi, nhân tiện đón vợ tôi về. Đói bụng thì có cơm nguội trong nồi với con cá khô trong bếp, lấy ra mà ăn”.
Ông ta nói nhỏ nhẹ, từ tốn nhưng tôi vẫn sợ, răm rắp theo lệnh. Ông ta vào buồng đem ra một bộ đồ đàn bà màu đen, trao cho tôi rồi thắp một cây đèn cầy, chỉ lối đi ra sau chái nhà:
- “Có cái phòng tắm sau kia. Sẵn nước với khăn lau. Tắm xong, mặc tạm, còn bộ đồ bẩn thì giặt đi, phơi lên, sáng mai khô, mặc vào, trả lại bộ đồ cho vợ tôi”.
Tôi riu ríu cầm áo quần và cây đèn cầy, ra nhà sau, vào phòng tắm, đóng cửa lại, gắn cây đèn sáp lên bệ, xây lưng về phía đèn, cởi đồ ra, dội nước. Tôi làm một cách vô thức, như bị thôi miên bởi cặp mắt của ông ta, tôi đoán, đang nhìn tôi qua khe hở của vách phòng. Tôi tắm qua loa, mặc áo quần vào. Còn nửa thùng nước, tôi đổ ra cái thau nhỏ sẵn đó, vò bộ đồ dính sình rồi treo lên một sợi dây kẽm trong phòng tắm. Khi tôi lên nhà trên thì ông ta chỉ cái giường, có giăng sẵn mùng:
- “Cô ngủ trên giường nầy. Tôi ngủ trong phòng. Ngủ đi cho khỏe, đừng sợ mà thao thức. Mai đi sớm”.
Tôi nói:
- “Dạ. Cám ơn!” rồi chui vô mùng. Ông ta tắt đèn, đi vào buồng.
Tôi nằm trên giường, mắt mở thao láo, không dám ngủ. Có chiếc mền mỏng, tôi lấy quấn chặt quanh người rồi nằm lắng nghe, không biết chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi chỉ mong được ông ta tịch thu hết số đô la và vàng tôi mang theo rồi tha cho tôi về nhà. Tôi cứ lẩm nhẩm niệm Quán Thế Âm, cầu Phật Bà cứu khổ cứu nạn. Trong đêm tối, tất cả im lặng, chỉ có tiếng sóng biển rì rầm nghe như tiếng xe chạy rất xa. Bấy giờ tôi mới thấy người rã rời, vừa mỏi vừa đau ê ẩm khắp nơi, nhất là những chỗ bị mô đất hay gốc cây đập mạnh vào khi tôi chạy bị ngã. Suy nghĩ miên man, tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng. Vừa xếp mùng, mền xong thì ông ta từ trong buồng bước ra.
- “Ngủ có được không?”.
- “Dạ. Đi mệt quá nên ngủ say một giấc đến sáng”.
Tôi nói mà không dám nhìn ông ta, sợ thấy đôi mắt kinh khiếp đó.
- “Cô thay đồ rồi chúng ta đi ngay. Tôi chở cô ra bến xe ngoài chợ, họ sẽ đưa cô lên bến xe tỉnh, đón xe về Sài Gòn. Cô viết vào miếng giấy trên bàn kia, tên họ địa chỉ của cô. Tôi cần biết về cô để sau nầy dễ xác nhận”.
Tôi ra sau nhà, thay đồ, đem bộ đồ của vợ ông ta để trên giường, đến chỗ cái bàn, viết tên họ, địa chỉ vào miếng giấy. Ông ta chỉ cái xách nhỏ của tôi “Đừng quên cái xách tay”. Tôi thấy quyển kinh của tôi để ra ngoài nhưng không dám lấy bỏ vào xách, mà làm như không thấy, chỉ vơ vội cái xách, cầm đi theo ông ta. Ra ngoài sân, tôi mới biết, trước nhà là một con sông rất rộng, có lẽ là cửa sông, còn biển thì nằm bên trái căn nhà, cách một cây số. Nhà ông ta nằm giữa một vùng hoàn toàn hoang vắng, chung quanh là sình lầy với cây đước, vẹt, sú gì đó mọc mênh mông, chạy đến mút mắt. Tôi không hiểu vì sao vợ chồng ông ta lại đem nhau ra ở chỗ nầy? Không ruộng vườn, không thuyền bè đánh cá, không có người chung quanh, ngay đến con chim cũng không thấy bay qua. Có chăng là mấy con cua còng gì đó nằm trên mặt sình dương mắt nhìn tôi. Con đường từ nhà ra bến sông được đắp cao, có lẽ là lối duy nhất đưa ông ta ra chiếc thuyền, đến với xã hội loài người.
Ông ta xuống thuyền, tôi bước theo. Nhờ mấy miếng bê tông làm thành tam cấp nên tôi xuống thuyền không khó khăn lắm. Chiếc thuyền nhỏ, dài khoảng sáu, bảy mét, rộng hơn hai mét, gắn máy đuôi tôm. Ông ta tháo dây cột thuyền, giật máy, đưa thuyền ra giữa giòng sông.
Chiếc thuyền chạy giữa hai bờ rừng vắng vẻ, hoang vu. Một lúc thật lâu thì xa xa thấp thoáng mấy mái nhà sau hàng dừa nước, rồi vài chiếc thuyền xuất hiện, chạy ngược chiều. Thuyền ghé vào một bến đò, có nhà cửa, quán ăn, một chợ thôn quê nhỏ và một bến xe lam (xe Lambretta, ba bánh dùng chở khách). Ông ta cột chuyền, ra dấu cho tôi cùng lên bờ. Mọi người thấy ông ta thì cúi đầu chào vẻ kính cẩn và sợ hãi. Ông ta không thèm nhìn ai, đi thẳng đến chiếc xe lam, nói gì đấy với người chủ xe. Người chủ xe khúm núm gật đầu, miệng dạ nhịp, rồi đến nói với tôi:
- “Mời cô lên xe. Xe chạy ngay bây giờ”.
Ông ân nhân không để ý đến lời cám ơn của tôi, cũng không nói với ai tiếng nào, xuống thuyền, giật máy, quay thuyền ra giữa giòng. Khi ngồi trong xe lam, tôi thấy mọi người đang tò mò nhìn tôi với vẻ sợ hãi rồi thì thầm với nhau gì đấy. Ông xe lam nổ máy, chở một mình tôi, vòng vèo trên đường đất trong xóm rồi đưa xe ra đường lớn, chạy vào thành phố. Ông ta chạy thẳng đến bến xe khách, ngừng cạnh một xe đầy khách, mời tôi xuống, đưa tôi đến ông tài xế, thì thầm với ông ta. Ông tài xế mời tôi lên ngồi ghế trước. Tôi lục trong xách nhỏ, thấy gói đô la và vàng còn nguyên, lấy ra một mớ tiền Việt đưa trả cho hai người, nhưng ai cũng khoát tay.
- “Anh Năm dặn rõ là ảnh sẽ trả tiền xe cho cô, chúng tôi đâu dám nhận”.
Chiều hôm đó, tôi về đến nhà.
Khoảng một tháng sau, người tổ chức đến gặp tôi, báo tin là mọi người đến đảo an toàn, thân nhân sẽ gửi thư sau. Ông ta hỏi tôi rất tỉ mỉ về vụ những người không kịp lên thuyền, tôi kể lại sự việc. Ông ta bảo những người kẹt lại đã bị công an bắt, chỉ thiếu hai gia đình, gồm bốn người, không có tin tức. Hai gia đình nầy thì tôi biết, họ là thương gia xuất nhập cảng trước bảy lăm, rất giàu. Trước khi đi, họ đã bán nhà, vì tin chắc sẽ đi lọt, như vậy, họ ôm của cải theo (vàng và đô la), phải nhiều lắm.
Chuyến vượt biển lần đó khiến tôi sợ quá, không dám nghĩ đến, ai rủ đi cũng lắc đầu.
Khoảng một năm sau, tôi nhận được một lá thư, tên người gửi lạ hoắc. Tôi hoàn toàn không biết ai đã gửi đến.
Chị ta cầm lá thư đưa lên “Mấy năm sau, chồng tôi đi tù về. Chúng tôi qua Mỹ theo diện HO. Vợ chồng tôi qua Canada ở chơi với gia đình cậu em. Gần mười năm mà tôi vẫn còn giữ lá thư nầy. Để tôi đọc cho quí vị nghe:
- “Gửi bà H. (là tên tôi). Bà còn nhớ, lần vượt biển ở Cà Mau, bị bể và bà được tôi cho trọ qua đêm, hôm sau đưa ra bến xe, về thành phố H-C-M. Tôi biết bà thắc mắc. Tôi là ai? Tại sao lại ở nơi vắng vẻ? Tôi sinh sống bằng cách nào?
Tôi cho bà rõ. Tôi là công an, có nhiệm vụ ở đó để đón lỏng những người vượt biên bị bể chạy thoát được. Công an chúng tôi làm nhà cách nhau một vài cây số, dọc bờ biển, nơi thường có bến bãi vượt biên, có thuyền con đón ra thuyền lớn. Như vậy, khi công an đến bắt vượt biên, người nào chạy thoát cũng chỉ quanh quẩn đâu đấy, thấy đèn là tìm đến, thế là nộp mạng cho chúng tôi. Tôi bảo rằng có vợ ở chung nhưng thật ra, vợ con tôi đều ở ngoài Bắc, tôi vào đây công tác đã được bốn năm, khi nào ổn định sẽ đưa gia đình vào thành phố H-C-M, vì chẳng ai có thể ở nơi hoang vắng nầy.
Mỗi công an chúng tôi đã chuẩn bị sẵn các tiện nghi, nước nôi, lương thực, giường chiếu để đón những người vượt biên tìm đến nhờ cứu giúp. Tôi cho ăn uống, ngủ lại, sáng hôm sau, cho họ xuống thuyền, nói là chở ra bến xe để họ về nhà, nhưng kỳ thực, thuyền đi được nửa đường là bị công an chận bắt. Tôi cũng bị bắt để không ai nghi ngờ.
Thông thường, nếu nhiều người tìm đến thì tôi bảo họ, có gì đem theo nên kê rõ, nhất là tiền bạc, quí kim, để tránh chuyện lấy cắp của nhau. Nếu chỉ một người thì tôi chờ lúc người đó đi tắm sẽ lục xách tay, kiểm tra những gì đem theo. Tôi còn rình nhìn lúc họ đi tắm, cởi đồ ra, sẽ thấy những gì họ lận theo người?
Tôi không bao giờ lấy của ai bất cứ gì, nên khi giải giao họ (đưa lên thuyền để bị công an chận bắt), công an chấp pháp lấy lời khai, sẽ thấy rằng tôi rất trong sạch. Tôi từng được công an tỉnh và trung ương biểu dương nhiều lần về thành tích chận bắt người vượt biên cũng như tinh thần chí công vô tư, không tơ hào đến của cải, vật chất của người bị bắt. Nhưng không ai biết rằng, hễ người nào đem nhiều đô la, vàng ngọc, hột xoàn là tôi thủ tiêu, chôn xác trong rừng. Tôi đào sẵn những cái hố, muốn giết ai, khuya đó, tôi lận súng trong người, bảo họ đi theo tôi để tôi chỉ đường mà đi ra đường chính đón xe về. Vào rừng, tôi bắn chết, đạp xuống hố, hôm sau ra lấp đất lại. Không người nào thoát khỏi tay tôi, vì chung quanh toàn sình lầy, có bỏ chạy một quãng là ngập người dưới sình, tôi chỉ rọi đèn pin, đi tìm và bắn họ rất dễ dàng.
Tôi có nói bao nhiêu người bị tôi thủ tiêu với bà cũng chỉ làm bà kinh hoàng chứ chẳng ích lợi gì. Tất cả của cải cướp được, tôi đưa cho vợ tôi đem về quê chôn giấu. Hột xoàn, đô la, vàng ngọc, châu báu ... Nghĩa là vợ chồng tôi rất giàu. Vợ tôi bảo, có thể bỏ vốn lập những công ty, mua máy móc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu hoặc mua nhà cửa ở Hà Nội hay thành phố H-C-M cũng không hết của. Dĩ nhiên gia đình tôi ngoài Bắc vẫn sống đạm bạc như bao nhiêu người khác, để tránh bị nghi ngờ. Tôi dự định sẽ làm thêm vài năm, kiếm một số tiền vàng nữa rồi xin ra khỏi ngành.Tính ra, tôi ở đó đã được bốn năm, cho đến cái đêm bà tìm đến nạp mạng cho tôi.
Như mọi khi, lúc bà đi tắm, tôi rình xem bà cởi đồ (để biết của cải lận theo người) rồi lên kiểm tra xách tay của bà. Tôi thấy trong xách có nhiều vàng và đô la. Như vậy, số phận của bà đã được tôi quyết định. Bà sẽ bị tôi thủ tiêu. Trong lúc lục xét xách tay tôi thấy có một quyển kinh, khổ lớn hơn những quyển kinh khác, mà những người vượt biên khác thường đem theo. Quyển kinh lớn đó khiến tôi tò mò. Theo thông lệ, tất cả kinh Phật của những người vượt biên, tôi giữ lại, khi nào lên tỉnh, tôi tặng cho người bạn đang trụ trì một ngôi chùa lớn, gần chợ. Anh ta là công an, đi tu là công tác, vẫn lãnh lương công an. Tôi tặng các quyển kinh Phật cho chùa để ai đến lễ chùa mà “thỉnh” những kinh đó thì biết ngay, người đó sẽ vượt biên và chúng tôi theo dõi. Vì tò mò và vì nghiệp vụ, tôi mở quyển kinh của bà ra, để sát ngọn đèn cho dễ đọc. Tôi đọc một cách tình cờ, một câu kinh nằm ngay giữa trang kinh. Chỉ một câu thôi. Câu duy nhất đó khiến tôi lạnh toát người vì kinh sợ. Tôi sợ đến choáng váng, muốn té xỉu, đến độ ngồi chết lặng một lúc thật lâu. Tối đó, tôi không ngủ được.
Hiện nay tôi đã ra khỏi ngành công an. Tôi đã đi tu ở một vùng núi miền Tây Nguyên, rất hẻo lánh, xa hẳn phố phường, làng xóm. Ngôi chùa nhỏ được cất bên góc núi. Rất xa, dưới chân núi, cách nơi tôi ở, thấp thoáng những nhà sàn của những người thuộc sắc tộc thiểu số. Mỗi buổi sáng, tôi lạy Phật, tụng kinh, rồi lên đồi cuốc đất, trồng khoai sắn, rau quả. Buổi tối tôi lại tụng kinh và suy ngẫm lời Phật dạy. Tôi bảo với vợ tôi là tôi làm nhiệm vụ trên giao, không nên gặp nhau nhiều, thỉnh thoảng lên tiếp tế lương thực mà thôi. Của cải mà tôi kiếm được (vợ tôi đang giữ), tôi dặn, nên trích ra một phần, khi nào có thiên tai bão lụt thì đem cứu giúp người hoạn nạn, giúp bà con, bạn bè khi họ cần, giúp các người già lão, bịnh tật, không nơi nương tựa, giúp các trại mồ côi, các trại cùi hủi ...
Tôi viết để bà rõ, nay tôi đã chọn con đường khác. Tôi chỉ muốn biến mất trên thế gian, nhưng còn các con tôi? Chúng là nguồn sống của tôi. Tôi lo sợ cho chúng ...Nếu bà là một Phật tử, xin bà đến chùa, cùng góp lời cầu xin Phật Tổ cho tôi sớm tìm được con đường giải thoát.Chúc bà sức khỏe.” Chị đàn bà giơ lá thư lên và nói:
- “Thư chỉ viết thế thôi”.
Chúng tôi hỏi:
- “Chị có nhớ mình mang theo quyển kinh Phật tên gì không?”.
- “Đúng ra, lúc nào tôi cũng để sẵn quyển kinh “Quán Thế Âm Bồ Tát” trên bàn thờ, hễ hô “đi!” là tôi chỉ việc bỏ vô xách tay và lên đường. Hôm đó, cô em dâu tôi đây, lại lấy quyển kinh đó trước, tôi vội quá, mở tủ kinh Phật của ba tôi để gần đó, vơ đại một quyển, nghĩ rằng “Phật nào cũng là Phật, vị nào cũng phù hộ, độ trì cho chúng sinh tai qua nạn khỏi”. Ba tôi, khi còn sinh thời, tu tại gia, nghiên cứu kinh Phật. Ngoài chữ Việt, ông cụ còn biết chữ Hán, chữ Nôm nên thỉnh rất nhiều kinh về nghiên cứu. Thế nên, đến bây giờ tôi cũng không biết mình đã mang theo quyển kinh nào khi vượt biên. Điều tôi tin chắc rằng. Chính quyển kinh đó đã cứu mạng tôi và câu kinh trong đó, như một lời phán của Đức Phật hoặc đấng Hộ Pháp, bảo thẳng với kẻ ác hãy ngừng tay lại. Lời phán đó phải có uy lực mạnh mẽ đến nỗi một kẻ giết người phải khiếp đảm”.
Trong bọn chúng tôi, chẳng ai là đệ tử nhà Phật mặc dầu, thỉnh thoảng có đi chùa lạy Phật, tụng kinh trong những ngày lễ, tết. Chúng tôi hỏi nhau rồi phán đoán đủ thứ. Câu “buông đao thành Phật” quá tầm thường, chẳng làm ai động tâm. Muốn biết bí mật của câu kinh đó, chỉ còn cách đi hỏi các nhà sư thì họa may.
Vì bị câu chuyện trên ám ảnh, nên trên đường từ Canada về lại miền Đông Bắc nước Mỹ, chúng tôi quyết định, ghé vào một ngôi chùa của sư PT để thăm và hỏi cho ra lẽ. Sư trạc tuổi chúng tôi, là chỗ quen biết nên rất thân tình. Sư PT xuất gia từ lúc mười một tuổi tại chùa Diệu Đế ở Huế. Vượt biên qua Mỹ, sư học và tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Tuy còn trẻ, nhưng sư PT thông hiểu Phật pháp và có một cuộc sống rất đạo hạnh.
Trưa hôm đó, chúng tôi được sư khoản đãi cơm chay. Trong lúc thọ trai, chúng tôi kể lại câu chuyện trên cho sư nghe và hỏi sư có biết câu kinh nào đã khiến một người vô thần phải buông đao giết người và đi tu không? Nhà sư suy nghĩ một lúc và nói:
- “Nếu lý luận theo Phật pháp thuần túy ở đây thì không thích hợp với một người cộng sản. Họ đã được dạy căm thù và được huấn luyện cách giết người, nên dù có cả một bầy quỉ dữ từ địa ngục chui lên, hay hàng nghìn Đức Phật hiện ra thuyết pháp, chưa chắc ông công an nầy phải sợ mà ngưng tay. Ông ta chẳng thù hận gì những người vượt biên, nhưng giết họ để cướp của, ông ta làm thản nhiên như người đồ tể giết heo, giết bò. Mục đích là để có nhiều tiền của cho con cái được sung sướng. Cán bộ cộng sản thường bảo nhau:
- “Hi sinh đời bố, cũng cố đời con” là thế. Kinh Phật chỉ nói về cái nghiệp và cái quả. Ai làm nấy chịu. Nhưng người Việt mình lại có câu “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Cha mẹ thương con cháu thì ăn ở nhân đức, để phước cho chúng. Con cháu, nhớ ơn đó mà thờ phụng các vị một cách thành tâm. Đó là “Đạo Thờ Ông Bà”. Ông công an cộng sản nầy thì làm ngược lại, nên ông ta bị ám ảnh bởi việc ác của mình, “quả báo nhãn tiền”, con cháu sẽ lãnh đủ. Có thể, con cái ông ta bị đâm chém hay bị giết chóc sao đó, khiến ông ta nghĩ rằng “Mình giết người ta thì con mình bị người ta giết” nên ông ta sợ. “Nhưng Phật đâu có dạy về chuyện quả báo cho đời con cháu mà ông ta, khi đọc một câu nào đó trong kinh Phật lại sợ hãi đến nỗi phải bỏ nghề, đi tu?”.
“Đa số những người vượt biên đều đem theo người là kinh A Di Đà hoặc Bạch Y Thần Chú, coi như có Thần Phật hộ trì bên cạnh. Khi gặp chuyện hiểm nguy thì niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát” chỉ đọc tới đọc lui câu đó thôi, coi như tiếng kêu cứu, các vị Bồ Tát sẽ ra tay tế độ, giúp cho tai qua nạn khỏi. Những quyển kinh mà ông ta tịch thu, không nhất thiết đều giống nhau. Có thể người đàn bà kia đã mang một quyển kinh khác. Hơn nữa ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ, không có gì giải trí ngoài việc đọc các quyển kinh Phật, quả thật, ông ta đang bước về hướng của giải thoát.
Chính cái ý niệm muốn giải thoát khiến ông ta bỏ nghề, và câu kinh Phật kia chỉ như vật xúc tác, như cái nút điện mà ông ta đang mò mẫm trong bóng tối, đã bật sáng, cho ông ta thấy được con đường phải đi. Mỗi người là Phật chưa thành là vậy. Con người dù độc ác, mê muội đến đâu, cũng còn le lói một chút ánh sáng của lương tri. Đúng ra, phải gọi ông ta là “ông đạo” chứ không phải là “ông sư”. Vì ngoài việc nghiên cứu, tụng niệm kinh Phật, sư, sãi phải có thầy giảng giải, hướng dẫn trên đường tu tập. “Giả dụ như ông công an đó đến xin thọ giáo với thầy. Thầy sẽ giảng những gì cho một người vô thần như ông ta hiểu về Phật pháp?”.
Nhà sư cười:
- “Thoát được “tham, sân, si” là tự giải thoát rồi.
Chính tôi phải học ông ta, làm cách nào đã bỏ được chữ “tham”? Chữ “tham” đơn giản, thường tình thôi, không cần phải triết lý xa vời. Tiền của vô tay dồi dào, dễ dàng như vậy mà lại bỏ hết, mấy ai làm được?
Còn hai chữ “sân, si”, bản thân tôi như đang nằm trong cái rọ, không biết bao giờ mới thoát ra! Ông ta là thầy tôi mới đúng”.
- “Thầy có thể đoán được câu kinh nào nằm trong quyển kinh nào, đã khiến ông ta phải sợ mà đi tu không?”.
Nhà sư lắc đầu:
- “Chỉ riêng ông ta biết được mà thôi. Có thể chỉ một câu tình cờ, bình thường nào đó ông ta đọc được nhưng giải thích đúng những băn khoăn, thắc mắc, sợ hãi bấy lâu của ông ta, nó đánh động lương tâm ông ta, hướng dẫn ông ta tìm con đường giải thoát. Xưa kia, lục tổ Huệ năng chỉ nghe một câu trong kinh Kim Cang liền ngộ được đạo”.
- “Nhưng nhất định phải có một câu kinh nào đó. Thầy thử nhớ xem sao?”.
Nhà sư lắc đầu:
- “Bị hỏi thình lình, tôi không nhớ ra ngay. Hay là thế nầy. Bây giờ mời quí vị ra vườn sau chùa uống trà, ngắm hoa. Tôi xin được ít phút tập trung tư tưởng, họa may sẽ nhớ được điều gì chăng? Mục đích không phải tìm hiểu mà chỉ như trò chuyện cho vui vậy thôi. Tôi không đủ trình độ để giải thích câu chuyện kỳ lạ nầy”.
Nhà sư lên chánh điện. Chúng tôi ra sau chùa, vừa chuyện trò vừa lang thang ngắm hoa cảnh.
Có tiếng chuông ngân vang từ chánh điện, rồi tất cả yên lặng. Có lẽ nhà sư đang lễ Phật và trầm tư ...
Độ một giờ sau, nhà sư xuất hiện ở ngưỡng cửa với nụ cười. Sư tiến đến, ngồi xuống với chúng tôi ở một bàn nhỏ dưới gốc cây. Chúng tôi vội hỏi:
- “Tìm được câu kinh nào chưa thầy?”.
Sư lắc đầu và cười:
- “Kinh Phật chẳng có câu nào hăm dọa người ta, bắt người ta phải đi tu cả! Để nói về cái nghiệp báo thì kinh Thủy Sám Pháp có nói nhiều, nhưng tôi chỉ nhớ chính xác được vài câu ở các quyển kinh khác, chẳng hạn, trong kinh Đề Bà Đạt Ma (Devadata-suta) có câu:
- “Những việc ác mà ngươi đã phạm, không phải là tại cha ngươi, không phải tại mẹ ngươi, không phải tại thầy, chủ ngươi. Chính một mình ngươi đã phạm, và một mình ngươi phải chịu quả báo”.
Trong kinh Pháp Cú (Damma-pada) cũng có câu:
- “Dẫu rằng ngươi chạy lên trời cao, ẩn dưới biển sâu, trốn trong núi thẳm, không có nơi nào mà ngươi tránh khỏi cái quả ghê gớm về tội ác của ngươi”...
Nói xong nhà sư lộ vẻ bối rối.
- “Rất tiếc, vì sự vô minh của tôi mà câu kinh đó vẫn còn là một bí ẩn. Xin lỗi đã làm quí vị thất vọng. Theo tôi nghĩ, sự thống hối của ông ta quá thành khẩn, đã cảm động đến đức Phật, và Ngài đã ra tay tế độ, đã khai ngộ cho ông ta. Nhưng phải là người thật thành khẩn thì đức Phật mới làm được việc đó”.
Phạm Thành Châu
#190
Gửi vào 18/07/2011 - 07:54
VỤ TRỪ QUỶ TẠI PIACENZA
Một buổi chiều đầu tháng 5 năm 1920, Cha Pier Paolo Veronesi, Linh Mục dòng Phanxicô, đang thu dọn phòng thánh nhà thờ Santa Maria di Campagna, thì một phụ nữ trẻ tuổi bước vào. Bà xin Cha ban phép lành. Cha mau mắn nhận lời. Nhưng Cha ngạc nhiên khi bà tỏ ý muốn nói chuyện với Cha. Bà mang nét mặt buồn ảo não. Bà thổ lộ:
- Nhiều lúc một sức mạnh vô hình xâm chiếm con, khiến toàn thân con bị rúng động kích thích. Con múa nhảy hàng giờ hoặc hát những bản Opéra con chưa từng nghe và chưa từng hát. Hoặc con lớn tiếng giảng thuyết cho một cử tọa vô hình. Con múa, hát và nói cho đến khi kiệt sức thì ngã quỵ. Đôi lúc con muốn dùng răng cắn xé tan tành tất cả vật dụng áo quần con thấy trước mắt. Ngoài ra con có thể tiết lộ những chuyện xảy ra rất xa xôi trong quá khứ và không ai biết... Quả thật cuộc sống con trở thành hỏa ngục. Con có hai con nhỏ nhưng con chỉ mong chết, bởi vì chết tức là được giải thoát khỏi sức mạnh vô hình đang xâm chiếm thân xác con.
Với tư cách Linh Mục tuyên úy bệnh viện tâm thần, Cha Pier Paolo nghĩ ngay: người đứng trước mặt mình mắc chứng loạn thần kinh. Đó cũng là điều các bác sĩ nói với bà. Nhưng không ai có thể chữa bà khỏi chứng bệnh khủng khiếp. Thất vọng trước các khả năng khoa học, bà tìm đến với Thiên Chúa. Bà năng cầu nguyện nơi các nhà thờ, mặc dầu tận thâm tâm rất ghê sợ và xin các Linh Mục ban phép lành. Sau mỗi lần lãnh phép lành bà có thể sống yên hàn trong vài ngày.
Cha Pier Paolo hiền từ nói với bà:
- Bà cứ đến mỗi khi bà muốn. Nếu tôi vắng mặt vẫn có Linh Mục thường trực tại đây.
Được khích lệ bà trở lại xin Cha Pier Paolo ban phép lành mấy ngày sau đó. Đang lúc Cha ban phép lành cho bà nơi bàn thờ dâng kính Đức Mẹ, bà bỗng lên cơn. Bà thay đổi dáng điệu và khuôn mặt trở nên xấu xí ghê sợ. Bà cất cao giọng hát một bài hát nổi tiếng. Giọng bà mạnh mẽ vang xa đến nỗi lũ trẻ đang chơi ngoài nhà thờ vội kéo vào nghe bà hát. Hát xong bà lại nói một thứ ngôn ngữ xa lạ với giọng thật đanh thép. Tiếng hát và tiếng nói của bà lôi kéo sự chú ý của Cha Apollinaire, Linh Mục cùng dòng Phanxicô.
Cha Apollinaire thấy ngay phụ nữ này bị quỷ ám. Chiều đến Cha đem nhận xét nói với bạn. Dĩ nhiên Cha Pier Paolo kịch liệt phản đối. Nhưng vì không an tâm Cha đem câu chuyện trình bày với Đức Giám Mục giáo phận: Đức Cha Pellizzari. Sau khi nghe Đức Cha nói ngay:
- Xin Cha làm phép trừ quỷ.
Cha Pier Paolo hoảng hốt từ chối:
- Xin Đức Cha chỉ định Linh Mục khác. Vì con nghe nói trong các vụ trừ tà, ma quỷ thường chống lại vị Linh Mục và tuyên bố đủ điều hầu làm sỉ nhục ngài.
Đức Giám Mục mỉm cười đáp:
- Cha an tâm, đâu có ai thèm tin lời quỷ nói. Cha không biết ma quỷ là thần dối trá hay sao?
Vì không thể trốn tránh Cha Pier Paolo đành vâng lời. Cha bắt đầu cầu nguyện và sống chay tịnh. Cha đoán trước cuộc chiến chống lại quỷ dữ sẽ rất cam go. Buổi trừ quỷ đầu tiên diễn ra lúc hai giờ chiều ngày 21-5-1920. Tên quỷ sau khi bị ép buộc xưng thú danh tánh đã nói rõ lý do tại sao nó ám vào người đàn bà. Nhưng quỷ không chịu rời bà. Tên quỷ nhập vào bà là do ông phù thủy yểm bà, bằng cách cho bà ăn một miếng thịt heo muối ướp trong ly rượu trắng, cách đó bảy năm: ngày 23-4-1913.
Sau buổi trừ quỷ đầu tiên còn thêm mười hai buổi trừ quỷ khác nữa. Trận chiến quyết liệt cuối cùng diễn ra vào ngày 23-6. Sau hơn một tháng áp dụng các nghi thức trừ quỷ của Giáo Hội Công Giáo Roma. Tên quỷ ra khỏi phụ nữ khi bà nôn ra không biết bao đồ dơ nhớp, trong đó có miếng thịt heo muối to bằng viên kẹo với bảy cái sừng. Người đàn bà được giải thoát khỏi sự ám hại của ma quỷ, nhờ quyền lực của Thiên Chúa và nhất là nhờ quyền lực của Nữ Trinh Rất Thánh Maria, qua trung gian vị Linh Mục và nghi thức trừ quỷ của Giáo Hội Công Giáo Roma.
ST
Một buổi chiều đầu tháng 5 năm 1920, Cha Pier Paolo Veronesi, Linh Mục dòng Phanxicô, đang thu dọn phòng thánh nhà thờ Santa Maria di Campagna, thì một phụ nữ trẻ tuổi bước vào. Bà xin Cha ban phép lành. Cha mau mắn nhận lời. Nhưng Cha ngạc nhiên khi bà tỏ ý muốn nói chuyện với Cha. Bà mang nét mặt buồn ảo não. Bà thổ lộ:
- Nhiều lúc một sức mạnh vô hình xâm chiếm con, khiến toàn thân con bị rúng động kích thích. Con múa nhảy hàng giờ hoặc hát những bản Opéra con chưa từng nghe và chưa từng hát. Hoặc con lớn tiếng giảng thuyết cho một cử tọa vô hình. Con múa, hát và nói cho đến khi kiệt sức thì ngã quỵ. Đôi lúc con muốn dùng răng cắn xé tan tành tất cả vật dụng áo quần con thấy trước mắt. Ngoài ra con có thể tiết lộ những chuyện xảy ra rất xa xôi trong quá khứ và không ai biết... Quả thật cuộc sống con trở thành hỏa ngục. Con có hai con nhỏ nhưng con chỉ mong chết, bởi vì chết tức là được giải thoát khỏi sức mạnh vô hình đang xâm chiếm thân xác con.
Với tư cách Linh Mục tuyên úy bệnh viện tâm thần, Cha Pier Paolo nghĩ ngay: người đứng trước mặt mình mắc chứng loạn thần kinh. Đó cũng là điều các bác sĩ nói với bà. Nhưng không ai có thể chữa bà khỏi chứng bệnh khủng khiếp. Thất vọng trước các khả năng khoa học, bà tìm đến với Thiên Chúa. Bà năng cầu nguyện nơi các nhà thờ, mặc dầu tận thâm tâm rất ghê sợ và xin các Linh Mục ban phép lành. Sau mỗi lần lãnh phép lành bà có thể sống yên hàn trong vài ngày.
Cha Pier Paolo hiền từ nói với bà:
- Bà cứ đến mỗi khi bà muốn. Nếu tôi vắng mặt vẫn có Linh Mục thường trực tại đây.
Được khích lệ bà trở lại xin Cha Pier Paolo ban phép lành mấy ngày sau đó. Đang lúc Cha ban phép lành cho bà nơi bàn thờ dâng kính Đức Mẹ, bà bỗng lên cơn. Bà thay đổi dáng điệu và khuôn mặt trở nên xấu xí ghê sợ. Bà cất cao giọng hát một bài hát nổi tiếng. Giọng bà mạnh mẽ vang xa đến nỗi lũ trẻ đang chơi ngoài nhà thờ vội kéo vào nghe bà hát. Hát xong bà lại nói một thứ ngôn ngữ xa lạ với giọng thật đanh thép. Tiếng hát và tiếng nói của bà lôi kéo sự chú ý của Cha Apollinaire, Linh Mục cùng dòng Phanxicô.
Cha Apollinaire thấy ngay phụ nữ này bị quỷ ám. Chiều đến Cha đem nhận xét nói với bạn. Dĩ nhiên Cha Pier Paolo kịch liệt phản đối. Nhưng vì không an tâm Cha đem câu chuyện trình bày với Đức Giám Mục giáo phận: Đức Cha Pellizzari. Sau khi nghe Đức Cha nói ngay:
- Xin Cha làm phép trừ quỷ.
Cha Pier Paolo hoảng hốt từ chối:
- Xin Đức Cha chỉ định Linh Mục khác. Vì con nghe nói trong các vụ trừ tà, ma quỷ thường chống lại vị Linh Mục và tuyên bố đủ điều hầu làm sỉ nhục ngài.
Đức Giám Mục mỉm cười đáp:
- Cha an tâm, đâu có ai thèm tin lời quỷ nói. Cha không biết ma quỷ là thần dối trá hay sao?
Vì không thể trốn tránh Cha Pier Paolo đành vâng lời. Cha bắt đầu cầu nguyện và sống chay tịnh. Cha đoán trước cuộc chiến chống lại quỷ dữ sẽ rất cam go. Buổi trừ quỷ đầu tiên diễn ra lúc hai giờ chiều ngày 21-5-1920. Tên quỷ sau khi bị ép buộc xưng thú danh tánh đã nói rõ lý do tại sao nó ám vào người đàn bà. Nhưng quỷ không chịu rời bà. Tên quỷ nhập vào bà là do ông phù thủy yểm bà, bằng cách cho bà ăn một miếng thịt heo muối ướp trong ly rượu trắng, cách đó bảy năm: ngày 23-4-1913.
Sau buổi trừ quỷ đầu tiên còn thêm mười hai buổi trừ quỷ khác nữa. Trận chiến quyết liệt cuối cùng diễn ra vào ngày 23-6. Sau hơn một tháng áp dụng các nghi thức trừ quỷ của Giáo Hội Công Giáo Roma. Tên quỷ ra khỏi phụ nữ khi bà nôn ra không biết bao đồ dơ nhớp, trong đó có miếng thịt heo muối to bằng viên kẹo với bảy cái sừng. Người đàn bà được giải thoát khỏi sự ám hại của ma quỷ, nhờ quyền lực của Thiên Chúa và nhất là nhờ quyền lực của Nữ Trinh Rất Thánh Maria, qua trung gian vị Linh Mục và nghi thức trừ quỷ của Giáo Hội Công Giáo Roma.
ST
#191
Gửi vào 18/07/2011 - 08:10
THẠCH ANH - VIÊN ĐÁ CỦA CÁC NHÀ TIÊN TRI
Từ thời xa xưa thạch anh đã được coi là thứ đá mầu nhiệm. Các nhà trường sinh học cho rằng nó giúp con người giao tiếp với vũ trụ và với thế giới siêu nhiên, giúp biết quá khứ và tương lai. Thạch anh được gọi là băng tinh không tan thành nước, trông trong suốt như pha lê, có một đặc tính đáng chú ý: Nó bao giờ cũng mát lạnh khi ta cầm lên tay. Bởi vậy từ xưa, để kiểm tra xem là đồ thật hay đồ giả, thợ kim hoàn thường áp nó vào má xem có lạnh không.
Ngoài ra các nhà trường sinh học còn cho rằng thạch anh là một thứ đá trực cảm và cực nhạy, có khả năng giúp con người giao tiếp với vũ trụ, với thế giới siêu nhiên. Những viên đá thạch anh tuyệt đẹp cho phép nhìn thấy cái vô hình, biết được cái chưa biết, thực hiện cuộc du hành lý thú vào quá khứ và tương lai. Hồi cuối thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi, việc dùng viên đá thạch anh để bói, đã trở thành cái mốt thực thụ ở nước Anh. Đối với một số người nhiệt tình, việc bói này đã mang lại kết quả mỹ mãn và do đó đã trở thành một nghề ăn nên làm ra.
Trong số các thầy bói lừng danh có một người Anh tên là Fon Burg. Một loạt vụ việc rắc rối mà Fon Burg khám phá ra nhờ viên đá thạch anh đã làm cho tên ông ta nổi như cồn.
NHÀ TIÊN TRI NỔI TIẾNG
Vào những năm 1940 ở Mỹ xuất hiện một nhà nữ tiên tri nổi tiếng tên là Jane Dickson, nguyên họ là Pinkert. Ngay từ lúc mới năm tuổi, Jane đã biểu diễn cho người thân xem khả năng siêu phàm của mình: Tiên đoán những sự kiện tương lai, các món quà mà khách đem đến, cái chết của những người thân thích...Năm lên tám tuổi, Jane đã nhận được một món quà có tính chất định đoạt số phận sau này của em. Sự kiện đáng nhớ này xảy ra trong ngôi nhà của một bà thầy bói người Digan nổi tiếng, mà mẹ Jane dẫn cô bé đến để nhờ tư vấn. Bà Digan xem bàn tay Jane rồi phán:
- Cô con gái của bà sẽ trở thành một nhà tiên tri vĩ đại.
Sau đó bà ta đưa cho cô bé viên đá thạch anh:
- Cháu nhìn thấy gì trong viên đá này?
Jane chăm chú nhìn vào giữa viên đá và bắt đầu miêu tả một địa điểm chưa hề quen biết:
- Một dải bờ hoang dã lởm chởm đá sóng biển nhấp nhô.
- Đấy là quê hương của ta. Ta tặng cháu viên đá này. Bà thầy bói Digan nói.
Jane đã tư vấn ít nhất hai lần cho tổng thống Mỹ Roosevelt. Trong cuộc gặp lần thứ nhất vào tháng 11-1944, Roosevelt bị liệt hai chân phải ngồi trong xe đẩy hỏi:
- Xin cô hãy nói thẳng cho tôi biết liệu tôi còn sống được bao lâu nữa để kết thúc công việc đã bắt đầu?
Jane không thể né tránh câu trả lời:
- Nửa năm nữa thưa ngài tổng thống, mà thậm chí có thể ít hơn.
Sau cuộc gặp đó được năm tháng, Roosevelt qua đời. Cuối năm 1956, Jane đã tiên đoán rằng sau chừng bảy năm nữa, người kế nhiệm thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru sẽ có họ bắt đầu bằng chữ “S”. Lần này viên đá thạch anh cũng bộc lộ khả năng mầu nhiệm của nó: Tháng 6-1964 sau khi Nehru qua đời, Lal Bahadur Shatri đã trở thành thủ tướng Ấn Độ.
Jane cũng nói trước về việc John Kenedy sẽ trở thành tổng thống Mỹ năm năm trước khi việc đó xảy ra. Bà không chỉ miêu tả cho một nhà báo Mỹ thấy ngoại hình của vị tổng thống tương lai, mái tóc dày màu hạt dẻ và đôi mắt xanh, mà còn nói rằng kẻ giết ông ta là một người có cái tên bắt đầu bằng chữ “O” hoặc chữ “Q”. Tháng 12-1966, Jane báo cho vợ của người phụ trách bộ phận điều khiển các chuyến bay vũ trụ có người lái biết rằng, cái chết đang đe dọa các nhà du hành vũ trụ chuẩn bị bay lên mặt trăng:
- Trên sàn quả tên lửa có một cái gì đó rất lạ, nó mỏng trông giống như lá kim loại. Nếu có một dụng cụ nào đó rơi vào nó hoặc có ai đó lấy gót giày dẫm lên thì ắt sẽ xảy ra tai họa. Ở phía dưới sàn tôi nhìn thấy một cuộn dây điện rối tung. Cái chết đang đe dọa các nhà du hành vũ trụ. Tôi cảm thấy rằng linh hồn của họ đang lìa khỏi xác nóng hổi trong những cuộn khói...
Một tháng sau khi tập luyện trong con tàu vũ trụ “Apollon-1” ba nhà du hành vũ trụ Mỹ đã bị thiêu sống. Jane Dickson đã nhiều lần nói rằng sự tiên đoán đến với bà bằng những con đường khác nhau, đôi khi là do tiếp xúc với một đồ vật mà người nào đó chạm vào, đôi khi do nguồn tin "từ trên cao". Nhưng đặc biệt Jane rất coi trọng việc nhìn vào viên đá thạch anh của mình. Bà cho rằng bằng cách khác thì khó mà có được một “bức tranh” chi tiết. Jane Dickson mất năm 1997 và đã mang theo sang thế giới bên kia sự bí ẩn đối với các nhà khoa học.
Sự quan tâm đến những hình ảnh hiện ra trên viên đá thạch anh vào những năm gần đây lại dấy lên mạnh mẽ. Một loạt thí nghiệm do các nhà khoa học và bác sĩ tâm lý nổi tiếng của Mỹ tiến hành cho thấy, những hình ảnh hiện lên trên viên đá thạch anh là có thật chứ không là phải là bịa đặt. Những sự việc hiện tượng thu nhận được trong các cuộc thí nghiệm với con người cụ thể, càng củng cố quan điểm cho rằng thạch anh có một số tính năng thông tin đặc biệt, mà khoa học rồi đây sẽ phải khám phá.
SKĐS
Từ thời xa xưa thạch anh đã được coi là thứ đá mầu nhiệm. Các nhà trường sinh học cho rằng nó giúp con người giao tiếp với vũ trụ và với thế giới siêu nhiên, giúp biết quá khứ và tương lai. Thạch anh được gọi là băng tinh không tan thành nước, trông trong suốt như pha lê, có một đặc tính đáng chú ý: Nó bao giờ cũng mát lạnh khi ta cầm lên tay. Bởi vậy từ xưa, để kiểm tra xem là đồ thật hay đồ giả, thợ kim hoàn thường áp nó vào má xem có lạnh không.
Ngoài ra các nhà trường sinh học còn cho rằng thạch anh là một thứ đá trực cảm và cực nhạy, có khả năng giúp con người giao tiếp với vũ trụ, với thế giới siêu nhiên. Những viên đá thạch anh tuyệt đẹp cho phép nhìn thấy cái vô hình, biết được cái chưa biết, thực hiện cuộc du hành lý thú vào quá khứ và tương lai. Hồi cuối thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi, việc dùng viên đá thạch anh để bói, đã trở thành cái mốt thực thụ ở nước Anh. Đối với một số người nhiệt tình, việc bói này đã mang lại kết quả mỹ mãn và do đó đã trở thành một nghề ăn nên làm ra.
Trong số các thầy bói lừng danh có một người Anh tên là Fon Burg. Một loạt vụ việc rắc rối mà Fon Burg khám phá ra nhờ viên đá thạch anh đã làm cho tên ông ta nổi như cồn.
NHÀ TIÊN TRI NỔI TIẾNG
Vào những năm 1940 ở Mỹ xuất hiện một nhà nữ tiên tri nổi tiếng tên là Jane Dickson, nguyên họ là Pinkert. Ngay từ lúc mới năm tuổi, Jane đã biểu diễn cho người thân xem khả năng siêu phàm của mình: Tiên đoán những sự kiện tương lai, các món quà mà khách đem đến, cái chết của những người thân thích...Năm lên tám tuổi, Jane đã nhận được một món quà có tính chất định đoạt số phận sau này của em. Sự kiện đáng nhớ này xảy ra trong ngôi nhà của một bà thầy bói người Digan nổi tiếng, mà mẹ Jane dẫn cô bé đến để nhờ tư vấn. Bà Digan xem bàn tay Jane rồi phán:
- Cô con gái của bà sẽ trở thành một nhà tiên tri vĩ đại.
Sau đó bà ta đưa cho cô bé viên đá thạch anh:
- Cháu nhìn thấy gì trong viên đá này?
Jane chăm chú nhìn vào giữa viên đá và bắt đầu miêu tả một địa điểm chưa hề quen biết:
- Một dải bờ hoang dã lởm chởm đá sóng biển nhấp nhô.
- Đấy là quê hương của ta. Ta tặng cháu viên đá này. Bà thầy bói Digan nói.
Jane đã tư vấn ít nhất hai lần cho tổng thống Mỹ Roosevelt. Trong cuộc gặp lần thứ nhất vào tháng 11-1944, Roosevelt bị liệt hai chân phải ngồi trong xe đẩy hỏi:
- Xin cô hãy nói thẳng cho tôi biết liệu tôi còn sống được bao lâu nữa để kết thúc công việc đã bắt đầu?
Jane không thể né tránh câu trả lời:
- Nửa năm nữa thưa ngài tổng thống, mà thậm chí có thể ít hơn.
Sau cuộc gặp đó được năm tháng, Roosevelt qua đời. Cuối năm 1956, Jane đã tiên đoán rằng sau chừng bảy năm nữa, người kế nhiệm thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru sẽ có họ bắt đầu bằng chữ “S”. Lần này viên đá thạch anh cũng bộc lộ khả năng mầu nhiệm của nó: Tháng 6-1964 sau khi Nehru qua đời, Lal Bahadur Shatri đã trở thành thủ tướng Ấn Độ.
Jane cũng nói trước về việc John Kenedy sẽ trở thành tổng thống Mỹ năm năm trước khi việc đó xảy ra. Bà không chỉ miêu tả cho một nhà báo Mỹ thấy ngoại hình của vị tổng thống tương lai, mái tóc dày màu hạt dẻ và đôi mắt xanh, mà còn nói rằng kẻ giết ông ta là một người có cái tên bắt đầu bằng chữ “O” hoặc chữ “Q”. Tháng 12-1966, Jane báo cho vợ của người phụ trách bộ phận điều khiển các chuyến bay vũ trụ có người lái biết rằng, cái chết đang đe dọa các nhà du hành vũ trụ chuẩn bị bay lên mặt trăng:
- Trên sàn quả tên lửa có một cái gì đó rất lạ, nó mỏng trông giống như lá kim loại. Nếu có một dụng cụ nào đó rơi vào nó hoặc có ai đó lấy gót giày dẫm lên thì ắt sẽ xảy ra tai họa. Ở phía dưới sàn tôi nhìn thấy một cuộn dây điện rối tung. Cái chết đang đe dọa các nhà du hành vũ trụ. Tôi cảm thấy rằng linh hồn của họ đang lìa khỏi xác nóng hổi trong những cuộn khói...
Một tháng sau khi tập luyện trong con tàu vũ trụ “Apollon-1” ba nhà du hành vũ trụ Mỹ đã bị thiêu sống. Jane Dickson đã nhiều lần nói rằng sự tiên đoán đến với bà bằng những con đường khác nhau, đôi khi là do tiếp xúc với một đồ vật mà người nào đó chạm vào, đôi khi do nguồn tin "từ trên cao". Nhưng đặc biệt Jane rất coi trọng việc nhìn vào viên đá thạch anh của mình. Bà cho rằng bằng cách khác thì khó mà có được một “bức tranh” chi tiết. Jane Dickson mất năm 1997 và đã mang theo sang thế giới bên kia sự bí ẩn đối với các nhà khoa học.
Sự quan tâm đến những hình ảnh hiện ra trên viên đá thạch anh vào những năm gần đây lại dấy lên mạnh mẽ. Một loạt thí nghiệm do các nhà khoa học và bác sĩ tâm lý nổi tiếng của Mỹ tiến hành cho thấy, những hình ảnh hiện lên trên viên đá thạch anh là có thật chứ không là phải là bịa đặt. Những sự việc hiện tượng thu nhận được trong các cuộc thí nghiệm với con người cụ thể, càng củng cố quan điểm cho rằng thạch anh có một số tính năng thông tin đặc biệt, mà khoa học rồi đây sẽ phải khám phá.
SKĐS
#192
Gửi vào 18/07/2011 - 08:16
BÍ ẨN VỀ NGÀY THỨ SÁU ĐEN TỐI
Thứ sáu ngày 13 một sự kết hợp giữa ngày được coi là thiếu may mắn nhất trong tuần (thứ sáu) và ngày xấu nhất trong tháng (ngày 13). Mê tín dị đoan? Không hẳn vậy, bởi theo khảo sát của một câu lạc bộ lái xe tại Đức, số vụ tai nạn giao thông trong ngày này tăng tới 60% so với thông thường. Ở các nước phương Tây, từ xa xưa thứ sáu được coi là ngày thiếu may mắn nhất trong tuần. Còn hiện nay thì sao? Có nhiều bằng chứng cho thấy, đây là ngày thường xảy ra những chuyện rủi ro.
Các chuyên gia của nhiều công ty bảo hiểm, nơi lưu giữ các số liệu về những vụ tai nạn, quả quyết rằng thứ sáu chính là ngày xảy ra nhiều thảm kịch nhất trong tuần. Và không chỉ người Cơ đốc mà cả các tín đồ Hồi giáo cũng tin vào sự kém may mắn của ngày thứ sáu, do vậy phần lớn họ không thích làm việc gì quan trọng vào ngày này. Trong khi đó, số 13 được nhiều người coi là số xấu nhất. Các nước phương Tây thì tránh sử dụng con số "xui xẻo" này khi đặt tên cho đường phố hay tòa nhà.
Bạn cũng không thể tìm thấy chỗ ngồi số 13 trên máy bay hay cabin số 13 trên tàu thủy. Và nếu thứ sáu trùng với ngày 13, người ta gọi đó là "ngày thứ sáu đen tối". Khi đó, nguy cơ tai họa sẽ tăng gấp bội... đến hiện thực. Thật không may đó không hẳn là chuyện đùa hay lòng tin mù quáng. Các bác sĩ phẫu thuật cố không thực hiện bất kỳ một ca mổ quan trọng nào vào thứ sáu ngày 13. Họ cho rằng sự rủi ro trong phẫu thuật tăng gấp đôi vào ngày này.
Thứ sáu ngày 13 cũng là ngày vô cùng xui xẻo cho rất nhiều nhân vật nổi tiếng. Tay gangster Mỹ nổi tiếng Al Capone bị bắt và bị kết án tù vào thứ sáu ngày 13. Ca sĩ nhạc rap Tupac Shakur bị bắn ở Las Vegas và lìa đời sáu ngày sau đó, vào đúng thứ sáu ngày 13...Hai năm trước, một câu lạc bộ lái xe của Đức đã công bố những số liệu về các vụ tai nạn xe hơi. Kết quả nghiên cứu qua nhiều năm quan sát cho thấy số vụ tai nạn tăng lên tới 60% vào "ngày thứ sáu đen tối".
Đó có lẽ là lý do để các tín đồ Hồi giáo coi ngày thứ sáu là ngày xuất hành tồi tệ nhất. Phần lớn các công ty lữ hành của phương Tây tôn trọng nguyên tắc không tổ chức những chuyến du lịch bắt đầu vào ngày thứ sáu. Các nhân viên cảnh sát cho biết, các vụ cướp bóc giết người và nhiều loại tội phạm khác xảy ra thường xuyên hơn vào ngày thứ sáu so với bất kỳ ngày nào khác trong tuần.
Trong khi đó, vào "ngày thứ sáu đen tối" một số người bình thường lại có hành vi hết sức bất thường. Chẳng hạn một nhóm người giàu có ở Philadelphia Mỹ, quyết định thành lập một câu lạc bộ có tên gọi "Thứ sáu ngày 13" và chỉ gặp nhau vào "ngày thứ sáu đen tối". Lúc đầu họ có một bữa ăn tối hoành tráng, sau đó họ đập tan những chiếc gương lớn thành từng mảnh, vãi ra khắp nơi, rồi giương những chiếc ô trong phòng, thả mèo đen ra và hành động như những kẻ hóa rồ.
Giải thích cho hiện tượng này, một số chuyên gia nghiên cứu các hiện tượng dị thường cho biết, con người luôn có cảm giác hoảng sợ đối với một số ngày nhất định. Theo họ lịch phản ánh dòng chảy của thời gian và chứa đựng thông tin về chu trình của cường độ năng lượng vũ trụ vốn có mối quan hệ chặt chẽ với trái đất. Mỗi nền văn minh đều có thể tạo ra lịch của riêng mình sau khi đạt đến một trình độ phát triển nhất định.
Trải qua nhiều thế kỷ con người đã học được kinh nghiệm phải đặc biệt thận trọng, trong thời điểm năng lượng vũ trụ đạt được cường độ cao nhất. Theo quy luật, chúng mang tới năng lượng âm và thường gây ra tai nạn máy bay, chết chóc, tình trạng rối loạn...
ST
Thứ sáu ngày 13 một sự kết hợp giữa ngày được coi là thiếu may mắn nhất trong tuần (thứ sáu) và ngày xấu nhất trong tháng (ngày 13). Mê tín dị đoan? Không hẳn vậy, bởi theo khảo sát của một câu lạc bộ lái xe tại Đức, số vụ tai nạn giao thông trong ngày này tăng tới 60% so với thông thường. Ở các nước phương Tây, từ xa xưa thứ sáu được coi là ngày thiếu may mắn nhất trong tuần. Còn hiện nay thì sao? Có nhiều bằng chứng cho thấy, đây là ngày thường xảy ra những chuyện rủi ro.
Các chuyên gia của nhiều công ty bảo hiểm, nơi lưu giữ các số liệu về những vụ tai nạn, quả quyết rằng thứ sáu chính là ngày xảy ra nhiều thảm kịch nhất trong tuần. Và không chỉ người Cơ đốc mà cả các tín đồ Hồi giáo cũng tin vào sự kém may mắn của ngày thứ sáu, do vậy phần lớn họ không thích làm việc gì quan trọng vào ngày này. Trong khi đó, số 13 được nhiều người coi là số xấu nhất. Các nước phương Tây thì tránh sử dụng con số "xui xẻo" này khi đặt tên cho đường phố hay tòa nhà.
Bạn cũng không thể tìm thấy chỗ ngồi số 13 trên máy bay hay cabin số 13 trên tàu thủy. Và nếu thứ sáu trùng với ngày 13, người ta gọi đó là "ngày thứ sáu đen tối". Khi đó, nguy cơ tai họa sẽ tăng gấp bội... đến hiện thực. Thật không may đó không hẳn là chuyện đùa hay lòng tin mù quáng. Các bác sĩ phẫu thuật cố không thực hiện bất kỳ một ca mổ quan trọng nào vào thứ sáu ngày 13. Họ cho rằng sự rủi ro trong phẫu thuật tăng gấp đôi vào ngày này.
Thứ sáu ngày 13 cũng là ngày vô cùng xui xẻo cho rất nhiều nhân vật nổi tiếng. Tay gangster Mỹ nổi tiếng Al Capone bị bắt và bị kết án tù vào thứ sáu ngày 13. Ca sĩ nhạc rap Tupac Shakur bị bắn ở Las Vegas và lìa đời sáu ngày sau đó, vào đúng thứ sáu ngày 13...Hai năm trước, một câu lạc bộ lái xe của Đức đã công bố những số liệu về các vụ tai nạn xe hơi. Kết quả nghiên cứu qua nhiều năm quan sát cho thấy số vụ tai nạn tăng lên tới 60% vào "ngày thứ sáu đen tối".
Đó có lẽ là lý do để các tín đồ Hồi giáo coi ngày thứ sáu là ngày xuất hành tồi tệ nhất. Phần lớn các công ty lữ hành của phương Tây tôn trọng nguyên tắc không tổ chức những chuyến du lịch bắt đầu vào ngày thứ sáu. Các nhân viên cảnh sát cho biết, các vụ cướp bóc giết người và nhiều loại tội phạm khác xảy ra thường xuyên hơn vào ngày thứ sáu so với bất kỳ ngày nào khác trong tuần.
Trong khi đó, vào "ngày thứ sáu đen tối" một số người bình thường lại có hành vi hết sức bất thường. Chẳng hạn một nhóm người giàu có ở Philadelphia Mỹ, quyết định thành lập một câu lạc bộ có tên gọi "Thứ sáu ngày 13" và chỉ gặp nhau vào "ngày thứ sáu đen tối". Lúc đầu họ có một bữa ăn tối hoành tráng, sau đó họ đập tan những chiếc gương lớn thành từng mảnh, vãi ra khắp nơi, rồi giương những chiếc ô trong phòng, thả mèo đen ra và hành động như những kẻ hóa rồ.
Giải thích cho hiện tượng này, một số chuyên gia nghiên cứu các hiện tượng dị thường cho biết, con người luôn có cảm giác hoảng sợ đối với một số ngày nhất định. Theo họ lịch phản ánh dòng chảy của thời gian và chứa đựng thông tin về chu trình của cường độ năng lượng vũ trụ vốn có mối quan hệ chặt chẽ với trái đất. Mỗi nền văn minh đều có thể tạo ra lịch của riêng mình sau khi đạt đến một trình độ phát triển nhất định.
Trải qua nhiều thế kỷ con người đã học được kinh nghiệm phải đặc biệt thận trọng, trong thời điểm năng lượng vũ trụ đạt được cường độ cao nhất. Theo quy luật, chúng mang tới năng lượng âm và thường gây ra tai nạn máy bay, chết chóc, tình trạng rối loạn...
ST
#193
Gửi vào 18/07/2011 - 08:57
QUỶ GROSSLOR QUÁI VẬT ĂN LINH HỒN
Câu chuyện này đã xảy ra mười chín năm về trước, nhưng nó vẫn ẩn hiện trong tâm trí tôi như sự việc mới xảy ra ngày hôm qua...Ðó là một buổi sáng mùa hè, khi bóng tối từ từ lui dần nhường chỗ cho ánh bình minh đang chiếu rạng khắp nơi, tôi và Paul người bạn thân nhất, sau khi ăn sáng xong cùng rủ nhau vào khu rừng cạnh nông trại của bà nội bạn ấy để thám hiểm.
Khu rừng này nằm ở phía Tây Nam thuộc tiểu bang Missouri Hoa Kỳ, không cách xa ngọn núi Ozark lắm. Ðịa thế của nó là một vùng đồi núi mọc dầy đặc những cây xanh to lớn. Tuy thuộc tiểu bang Missouri nhưng nó chạy dài đến tận thành phố Kansas, đó là một nơi được nhiều người biết đến vì nó có tới một trăm, không phải, một ngàn cái hang động. Chúng tôi đi cách nông trại vài cây số về hướng Tây, chỉ có Thượng Ðế mới biết đất đai này thuộc về ai khi chúng tôi tìm thấy một cái chòi cũ đổ nát.
Cái chòi này bề ngang khoảng sáu thước và bề dài không hơn tám thước, nó chỉ còn lại ba bức tường, mái nhà thì đổ xuống dọc theo bức tường sụp, dù vậy quý vị vẫn có thể đi vào bên trong từ cửa trước, nhưng chỉ đi được vài thước mà thôi. Là những thiếu niên mười hai tuổi có tánh hiếu kỳ, chúng tôi chỉ làm có bấy nhiêu...Nhìn từ những phương hướng khác nhau thì nó giống như một cái lều hoặc cái chòi, được dựng lên bởi một người nào đó bị lạc đường, hoặc một người chán đời muốn sống ẩn cư, vì nó trông rất là thô sơ với những khúc gỗ dài ngắn không đều nhau, được ghép lại bằng một lớp bùn khô.
Bên trong chòi ngoài dấu vết của một cái lò củi và một cái đầu giường làm bằng tay, hầu như bị che khuất nằm ở một góc, còn mọi thứ khác đều bị che lấp bởi mái nhà sụp đổ tạo thành một bức tường chắn ngang không cho chúng tôi dò xét thêm. Chúng tôi lục lọi một hồi chung quanh nơi có nhiều nhánh cây non và đá sỏi nằm rải rác xung quanh cái sàn đầy bụi cát, vì đã lâu không ai đến đây ở nên mọi thứ hầu như đã tàn phai theo năm tháng.
Xem không thấy gì đặc biệt, với lại rời nông trại từ sáng sớm đi bộ và leo núi đã mệt nhọc rồi bây giờ thấy cái bụng cồn cào, vì vậy chúng tôi đành rời cái chòi nhỏ để trở về nông trại ăn trưa và nghỉ ngơi sau đó sẽ thám hiểm tiếp. Khi rời căn nhà chòi chúng tôi đi vòng ra sau và rất ngạc nhiên khi thấy những dấu hiệu kỳ lạ khắc lên những khúc gỗ trên bức tường phía sau; những dấu hiệu lạ lùng đó đa số đều bị thời tiết tàn phá nên khó mà nhận ra được là ám tự gì.
Nhìn thật kỹ thì quý vị vẫn có thể thấy được vài hình vẽ như cái khuôn, được nối tiếp bằng nhiều dấu chấm giống như toán hình học, những hình không tương xứng. Có vài dấu hiệu đối với chúng tôi thì giống như là những chữ Phạn ngữ vào thời xa xưa, thật ra thì cũng không giống lắm. Rất tiếc tôi không còn nhớ rõ để vẽ ra làm thí dụ. Chúng tôi dò thám xa hơn thì thấy cách đó khoảng sáu thước, từ bức tường sau căn nhà chòi, chúng tôi thấy một tấm ván lớn gần mục nát, hình như nó được đậy trên một cái lỗ. Chúng tôi vội đến đó cúi xuống khảo sát gần hơn.
Nơi đây chúng tôi lại thấy những dấu hiệu, giống như dấu hiệu viết trên bức tường sau, vẽ tràn lan trên tấm ván gỗ đó. Nó bị thời tiết phá hủy nên khó mà nhận ra được là chữ gì. Tôi lấy ngón tay trỏ thử nhấn mạnh quanh bìa miếng gỗ, lúc đó chúng tôi cảm giác lành lạnh hình như không khí đang thoát ra ngoài theo những chỗ hở mà tôi đã làm.
- Tao chắc rằng đây là một cái nắp đậy lối vào của một hang động. Tôi nói.
Paul vội tiếp lời:
- Chúng ta thử xem.
Nói xong bạn ấy liền đứng dậy tìm những cục đá lớn nhỏ chất đầy trên tấm ván, sau đó bạn ấy lấy một tảng đá thật lớn giơ cao hơn đầu, rồi liệng thật mạnh xuống ngay chính giữa, làm tấm ván gỗ nát ra thành nhiều mảnh để lộ ra một cái lỗ lớn; chúng tôi có thể nói đó là lối vào của một hang động. Chúng tôi rụt rè thò cái đầu vào hang động để xem chiều sâu của nó là bao nhiêu. Chúng tôi lấy làm thích thú lẫn ngạc nhiên thấy rằng, đầu dốc hơi nghiêng nằm trong bóng tối không có sâu lắm và có thể đi vào được.
Vui mừng vì sự thám hiểm tìm kiếm của chính chúng tôi về cái hang động này, nên chúng tôi bàn tính phải nhanh chân trở về nông trại để lấy đèn bin, dây nhợ và đem theo một mớ đồ ăn trưa. Trên đường trở về nhà, chúng tôi bàn thảo với nhau rằng nếu bị bắt quả tang trong khi lấy những vật dụng đó, thì không nên nói sự thật cho mọi người biết. Paul thận trọng nói:
- Ba mẹ của chúng ta sẽ không để cho chúng ta chui vào hang động thám hiểm một mình đâu, nếu không có người giám sát coi chừng chúng ta.
Tôi gật đầu đồng ý. Chúng tôi chạy thật nhanh, nhanh đến nỗi chúng tôi trở về nông trại chưa đầy một tiếng đồng hồ. Mặt trời lúc đó ngay trên đỉnh đầu và rất nóng vì đang cuối hè. Về đến nơi, thay vì đem theo đồ ăn trưa, chúng tôi đổi ý ăn cơm trưa tại nhà. Chúng tôi ăn thật nhanh rồi gom vội những vật dụng cần thiết, may thay không có ai thấy sau đó chúng tôi bay ra khỏi nhà trong tích tắc.
Chúng tôi mang theo hai cây đèn bin, một cuộn dây thừng rắn chắc dài khoảng ba mươi lăm thước, và một bình nước uống rồi đi thẳng vào rừng sâu. Vì vị trí căn chòi này không nằm trên bản đồ nên chúng tôi phải đi quanh co để định hướng, cuối cùng trèo lên đỉnh của một ngọn đồi thấp chúng tôi mới nhìn thấy cái chòi đổ nát và miệng của hang động. Lần này chúng tôi có cảm giác bất an, hình như có gì đó không được bình thường, không khí chung quanh có mùi hôi hám rất là khó ngửi.
Chúng tôi dừng lại xem xét những dấu hiệu lạ lùng trên bức tường một vài giây trước khi đi vào hang động; thật khó mà biết được những dấu tích bí ẩn này tượng trưng cho cái gì hoặc có ý nghĩa gì. Mặc kệ cái cảm giác khó chịu từ lúc đầu bao quanh, Paul và tôi cũng không để cho sự yếu đuối của mình cản trở cuộc thám hiểm sâu vào hang động.
Chúng tôi cột một đầu dây trong một thân cây khô gần miệng hang động vài thước, còn đầu kia thì bỏ xuống lỗ hang, vì là người đã tìm được nhiều hang động trong vùng hơn tôi, nên Paul dành đi trước để rọi đường. Paul bò đến gần miệng hang và bám lấy sợi dây từ từ bò vào hang động. Vừa bò bạn ấy vừa bấm sáng đèn bin rọi xuống dưới hang, lúc đó chúng tôi mới biết rằng cái hang động này còn đi xuống sâu nữa để rồi chìm khuất trong bóng tối.
Ðứng trên miệng hang dõi mắt nhìn theo bạn ấy, tôi đợi chờ bạn ấy báo hiệu rằng trong hang động rất là an toàn có thể xuống. Chưa đầy ba mươi giây sau, tôi nghe vang lên một tiếng la kinh hãi của Paul theo sau là một tiếng “bụp”.
- Chuyện gì? Tôi la lớn.
- Ồ, không có gì. Tao nghĩ đi xuống tí nữa thì sẽ tới cuối hang nhưng bất ngờ hết dây tao bị rơi thẳng xuống dốc, may mắn thay chỉ rơi khoảng một thước. Bạn ấy trả lời.
- Bây giờ mày có thể xuống được rồi, đi từ từ thôi và coi chừng cái chỗ rơi thẳng xuống đó.
Mặc dù không thấy dễ chịu lắm, tôi cũng nắm sợi dây và bắt đầu đi xuống vào trong hang tối. Ðến hết sợi dây tôi từ từ thả mình nhẹ nhàng rơi xuống đất. Khi đứng ở dưới an toàn tôi mới nhìn lên cái miệng hang nhỏ xíu cao khoảng mười ba thước mà chúng tôi vừa chui vào. Sau đó tôi nhìn ở phía trước con đường hầm của hang động, giống như một cái mạch mỏ than đá chỉ trừ là nó lấp lánh với măng đá và chuông đá.
Tôi thấy bên trong hang này chiều cao khoảng hai thước và chiều ngang gần ba thước, nó rất ẩm ướt nhưng không thấy có nước đọng lại, đó có nghĩa là nó còn đi xuống sâu hơn nữa. Cẩn thận bước qua chướng ngại do sự hình thành của hang động tạo ra, chúng tôi đi sâu vào hang động. Ðường hầm dẫn xuống sâu và sâu hơn như cái vực thẳm. Càng đi xuống sâu vào lòng đất, tôi càng kinh ngạc bởi thiếu vắng sự hiện hữu của những côn trùng và động vật.
Cho dù trong hang động nhỏ, quý vị vẫn có thể tìm thấy phân của côn trùng hoặc những cái màng nhện, nhưng trong hang động này thì hoàn toàn không thấy dấu tích của bất cứ sự sống nào. Còn một điều kỳ lạ nữa mà chúng tôi để ý đến là càng đi xuống sâu hơn, thì nhiệt độ lại càng ấm áp hơn thay vì càng ngày càng lạnh hơn. Quý vị cũng biết cho dù chỉ có vài thước dưới lòng đất, thì nhiệt độ cũng đã xuống thấp khoảng mười đến mười lăm độ rồi, nhưng nhiệt độ trong hang động này lại ấm áp lạ thường và không khí dường như bị tù hãm và nặng nề.
Chúng tôi tiếp tục đi xuống qua cái đường hầm dài giống như một cầu thang xoắn ốc, không có bậc thang cho đến khi nó nhỏ hẹp lại và thẳng dốc hơn. Từ lúc đầu chúng tôi không cần dùng dây hay dụng cụ an toàn nào, thì bây giờ chúng tôi phải cẩn thận để ý nhiều hơn. Tại điểm này chúng tôi đã ở dưới lòng đất gần sáu chục thước, nhưng không có một dấu hiệu nào cho thấy ở dưới này còn hang động khác để thám hiểm thêm. “Thật ra, cái hang động này cũng đáng để thám hiểm lắm” tôi nghĩ như vậy.
Sau mười lăm phút hơn liên tục đi xuống, Paul và tôi cuối cùng đã đến đáy của đường hầm xoắn ốc, đến tận cùng rồi. Ðó có thể là hết cuộc thám hiểm nếu chúng tôi không thấy một cái lỗ nhỏ gần mặt đất. Nó cao khoảng 1/2 thước và chiều ngang khoảng 1/3 thước. Paul nằm dài xuống mặt đất, lấy đèn bin rọi vào trong lỗ rồi chui cái đầu vào.
- Hay quá. Bạn ấy nói với một giọng vui mừng. Có một thành hốc khác. Tao nghĩ chúng ta có thể chui qua cái lỗ này. Ðể tao thử xem.
Bạn ấy chui vào cái lỗ thân mình trườn tới rồi uốn qua uốn lại như con rắn, cuối cùng cũng qua được. Biết rằng chỉ ốm hơn Paul một tí ti như vậy thì tôi sẽ không gặp nhiều khó khăn. Sau những cái uốn qua uốn lại, tôi đã qua được. Vừa phủi bụi từ quần áo xuống tôi vừa đứng thẳng lên chiếu đèn bin chung quanh xem xét. Cái thành hốc này có một cảm giác kỳ quái lắm, dù vậy chúng tôi cũng không thấy có gì khác thường hết.
Trần thành hốc cao ít nhất mười thước và riêng cái phòng ốc này đường kính có lẽ rộng từ mười hai đến mười lăm thước. Ở trên tường hoặc dưới đất tại đây tương đối nhẵn, trần nhà và cái sàn đều không dính một chút bụi bậm. Người ta có thể đoán cái phòng ốc này là cái lỗ rỗng của một cái giếng nước trong lòng đất, nhưng vẫn giữ khô ráo từ lúc nước rút xuống. Chúng tôi rọi đèn bin lên tường tìm kiếm đến khi tôi ra ý kiến hãy tắt đèn để xem nó thật sự tối đến đâu, đó là một sự thích thú để làm trong hang động, vì không có bóng tối nào có thể so sánh được.
Quý vị có thể tưởng tượng sự sửng sốt của chúng tôi khi chúng tôi tắt đèn, mà vẫn có thể thấy mặt của nhau trong cái hang hoàn toàn đen tối không? Không có bất cứ một nguồn ánh sáng nào mà toàn bộ phòng ốc lại tỏa sáng một màu đỏ. Bức tường có vẻ chiếu sáng và sống động một màu đỏ đậm và sáng hơn với mỗi thời khắc trôi qua, dường như chúng tôi đang đánh thức nó dậy từ một giấc ngủ ngàn năm.
Chúng tôi mở đèn bin lên và bắt đầu kiếm chung quanh phòng để tìm ra manh mối vì sao bức tường lại phát ra ánh sáng kỳ lạ như vậy. Xa trong một góc phòng, ánh đèn bin của tôi phát hiện một hiện tượng vô cùng rùng rợn. Tôi thấy cái gì đó trông giống những khúc xương khô trong bộ quần áo rách rưới, nằm chung quanh một cái sọ vỡ; và gần đó cách khoảng nửa thước lại có một cái sọ khác, cái sọ này được chẻ cẩn thận ra làm đôi và cũng nằm cạnh những khúc xương vụn nhưng nhỏ hơn.
Trong đống này tôi thấy cái gì đó như miếng vải len viền áo, của một đứa bé gái hoặc áo đầm của phụ nữ. Paul cũng để ý đến những gì mà tôi đang chăm chú nhìn mà cả hai đều không thể tưởng tượng được. Vừa dự định đến gần hơn để nhìn cho kỹ, bỗng nhiên tôi nghe một tiếng nói làm ớn lạnh đến tận xương tủy. Tôi rõ ràng nghe một tiếng con gái nói thầm thì trong tai.
- Ði ra!
Tiếp theo tiếng nói như thúc giục.
- Chạy đi!
Tôi sợ quá nhìn Paul và bạn ấy cũng đã nghe thấy, lúc đó chúng tôi lùi dần gần đến lỗ ra của phòng ốc. Bỗng dưng cái sàn rung chuyển và một tiếng kêu vo ve bắt đầu vang dội cả phòng ốc. Tôi quá kinh hãi chạy thụt lùi lại, Paul nhanh chân chạy theo. Mặt đất rung động thật mạnh, tôi sợ đó là dấu hiệu của sự động đất và cái phòng ốc này sẽ sập xuống chôn vùi chúng tôi. Tôi đã chạy đến lỗ ra của phòng ốc mà nó bây giờ trông nhỏ xíu không khác cái lỗ con chuột nhũi, tôi chui vào cái lỗ trườn tới và uốn qua uốn lại. Ở phía sau tôi nghe Paul hối thúc, khép hai chân lại tôi lấy cùi chỏ chống thân mình cố gắng đẩy về phía trước.
Sau khi trở ra con đường hầm, tôi quay người lại giúp Paul. Bạn ấy gắng sức trườn tới nhưng cũng không thể chui qua nhanh được. Nếu không hiểu biết, tôi còn tưởng cái lỗ đó nó teo lại trước cặp mắt của tôi nữa. Paul cứ gắng sức và gắng sức chui ra nhưng vẫn không qua lọt. Tôi vội liệng cái đèn bin xuống đất rồi lấy hai tay kéo bạn ấy.
- Ouch!
Bạn ấy la lớn. Tôi nghĩ có lẽ mình kéo mạnh quá nên Paul đau, nhưng bạn ấy nhìn tôi với cặp mắt sợ hãi với giọng nói run run:
- Có gì đó nắm chân của tao! Có gì đó nắm chân tao! Kéo mạnh lên.
Bạn ấy hét. Dồn hết sức tôi kéo mạnh một lần nữa, cuối cùng bạn ấy cũng qua được. Khi đôi chân của bạn ấy vừa ra khỏi lỗ thì tôi nhận thấy, từ ánh đèn bin tôi đã liệng dưới đất có dấu giống như dấu tay, một bàn tay mà không giống một bàn tay, in trên bắp đùi của bạn ấy. Nó có hình thù lồi lõm của một bàn tay quá cỡ hoặc là bàn chân không có móng. Nó gần giống như một cái bóng trong suốt. Ðó là tất cả những gì mà tôi trông thấy bởi vì khi Paul vừa ra khỏi lỗ, bạn ấy đứng dậy chạy thật nhanh và tôi cũng quay đầu chạy theo, bỏ cả cái đèn bin của tôi ở đó.
Tại vì Paul vẫn còn đèn pin nên tôi lên tiếng Paul hãy chờ tôi với, nghe tôi kêu bạn ấy chạy hơi chậm lại vừa đủ để tôi bắt kịp. Chỉ trong chốc lát tiếng vo ve ngân lên càng lớn và lớn hơn, ánh sáng từ cái phòng ốc bên dưới bắt đầu chiếu sáng con đường hầm; từ phía sau chúng tôi có một mùi hôi bắt đầu bao trùm lấy chúng tôi. Nó thúi đến nỗi chúng tôi muốn chết nghẹt luôn. Chúng tôi té lên té xuống ra sức chạy càng nhanh càng tốt. Tác dụng xoắn ốc của đường hầm làm mất hướng và nỗi khiếp sợ bắt đầu xâm chiếm lấy chúng tôi.
Nếu Paul không bị té hay đụng đầu thì tôi lại bị, lối thoát dẫn đến mặt đất có vẻ dài vô tận. Chúng tôi đã quẹo và trèo lên nhiều lần, thay vì cái ánh sáng từ bên dưới phải rời xa ở đằng sau chúng tôi, nhưng nó lại càng ngày càng gần hơn sáng hơn, chiếu sáng cả đường hầm bên dưới một màu đỏ như máu. Cuối cùng chúng tôi đã đến đường hầm dài và thẳng hơn, cũng là nơi dẫn đến rìa dốc cuối của lối ra hang động.
Paul và tôi cố lấy sức chạy nhanh để lấy khoảng cách xa giữa chúng tôi và ánh sáng bên dưới và hầu như để chạy trốn mùi hôi, nhưng tiếng vo ve vẫn càng ngày càng lớn trong một mức độ cao hơn như là tiếng còi hụ của đoàn tàu xe lửa. Paul và tôi đến rìa dốc cùng một lúc, nhưng cả hai chúng tôi đều bàng hoàng vì không thấy ánh sáng chiếu vào từ cửa hang, tất cả đều chìm trong bóng tối. Chúng tôi chỉ ở trong hang khoảng ba mươi phút thôi, có nghĩa bây giờ bên ngoài vẫn còn là buổi trưa, nhưng sao chúng tôi không thấy ánh mặt trời rọi vào.
Paul rọi đèn bin lên nơi cái lỗ hang mà chúng tôi đã chui vào làm chúng tôi sợ run cả người... sợi dây đã biến mất và miệng hang đã bị lấp lại bằng một tấm ván gỗ mà trước đây đã đậy. Paul và tôi cùng nhảy lên dốc và bắt đầu lê cái thân về phía cửa hang. Nó không có dốc lắm nhưng cứ leo lên được hơn 1/2 thước thì chúng tôi lại bị tuột xuống 1/4 thước, vì vậy mà hơi chậm. Ánh sáng bên dưới lại bắt đầu xâm lấn chúng tôi, tiếng vo ve vang dội hơn và vẫn còn ở mức độ cao. Chúng tôi cuối cùng đã đến cửa hang và bắt đầu tìm cách để thoát ra ngoài. Chúng tôi đẩy và đẩy cái tấm gỗ nhưng nặng quá chúng tôi đành chịu thua.
Không còn cách nào khác chúng tôi đành la lớn để cầu cứu, vừa la chúng tôi vừa lấy tay đập mạnh trên tấm ván gỗ. Ánh sáng bên dưới hình như đã đến cái dốc cuối và nó đang lao về phía chúng tôi với một vận tốc nhanh như chớp. Chúng tôi vừa bịt mắt lại vì ánh sáng chói lòa vừa la thật lớn muốn bể phổi. Tự nhiên tức thì ánh sáng bỗng mờ dần và biến mất trong bóng tối, giống như nó rút từ trần nhà xuống sàn như một cơn sóng nước; tiếng vo ve chợt tắt hẳn và mùi hôi cũng tiêu mất, lúc đó chỉ còn lại tiếng thở nặng nề của hai đứa chúng tôi mà thôi.
- Cái .. gì... vậy...?
Tôi hỏi và cố gắng lấy lại hơi thở đã mất vì sợ hãi.
- Tao không biết. Hãy tìm cách ra khỏi đây đi.
Paul trả lời rồi bạn ấy chiếu đèn bin vòng quanh bìa cái nắp gỗ, để tìm xem có gì để chúng tôi có thể dùng làm một điểm bắt đầu không. Sau đó hai đứa chúng tôi lại đập lên tấm ván gỗ. Rồi không dấu hiệu cảnh cáo hay báo trước, chúng tôi bỗng nghe rầm bên dưới, theo sau là một tiếng mà đã đem cho tôi ác mộng đến ngày hôm nay, một tiếng ùn ục rợn người đang dâng lên đường hầm như vũ bão.
Ðèn bin của Paul chợt tắt và chúng tôi bị chìm vào trong bóng tối hoàn toàn tăm tối. Tiếng ùn ục càng ngày càng đến gần, bây giờ chúng tôi quá độ kinh sợ để mà la lên. Tôi nhớ là mình đã dựa sát vào tường đá toàn thân đơ cứng vì sợ hãi. Tôi không thể nói không thể cựa quậy không thể thấy, mà chỉ biết im lặng để lắng nghe trong khi tiếng ùn ục bắt đầu chuyển thành như một tiếng hú, khi nó bay lên đường hầm hướng về phía chúng tôi giống như một chiếc xe lửa điện chạy 100 km/giờ.
Không khí bừng nóng cùng với một cơn gió rít xoáy mạnh chung quanh chúng tôi xen lẫn với tiếng kêu gào của một đứa con gái ngay trong tai tôi. Trong lúc tôi như muốn xỉu vì quá sợ, thì cảm thấy có gì đó hơi cứng lao nhanh qua chúng tôi, rồi phóng vào nắp gỗ như một viên đạn pháo vô hình. Những mảnh gỗ bể rớt xuống và ánh sáng mặt trời tràn vào làm hiện rõ khuôn mặt sợ sệt của chúng tôi. Như đọc được tư tưởng của nhau, chúng tôi phóng khỏi hang động, tôi trước sau đó đến Paul. Chúng tôi nhanh nhẩu đứng dậy phủi hết lớp bụi bậm dính quần áo.
Không biết là nên chạy hay ngã quỵ, chúng tôi nhìn nhau đợi chờ xem ai hành động trước, thì một người đàn ông mặc áo len đi vòng ra từ cửa trước căn chòi, tóc ông ấy dài và bù xù, trên khuôn mặt cằn cỗi của ông có nhiều nếp nhăn ngang dọc. Ðôi chân muốn chạy nhưng đầu óc lại bất đồng, có gì đó về người đàn ông này đã làm chúng tôi ở lại, cái gì đó không đe dọa mà lại rất an lành. Ông ta bước từng bước chầm chậm đến chúng tôi, trong khi tiếng rú cứ lớn dần như thể nó đang từ hang động bay vút ra ngoài, lượn một vòng chung quanh những thân cây ở gần đó để trở lại thanh toán chúng tôi.
Chúng tôi nghe tiếng cây gẫy răng rắc trong khoảng cách như là nó đang ủi tất cả những gì cản đường nó. Một lần nữa chúng tôi lại đứng chết trân trong sợ hãi, yếu sức để ngăn chận cái gì đó đang bay nhanh về hướng mình. Lúc này người đàn ông với vẻ mặt lo âu khi vừa mới xuất hiện, bây giờ đã biến thành một vẻ mặt cương quyết như sắt đá, ông ta giơ cao hai cánh tay lên trời và bắt đầu đọc lẩm bẩm vài câu ngôn ngữ gì đó, mà chúng tôi không thể nhận ra hay hiểu được.
Tiếng hú càng ngày càng lớn vang vọng cả núi đồi. Giờ đây chúng tôi mới thấy được một cái bóng màu đen, giống như một cụm mây đen như nhọ nồi nhưng chưa đủ để kết thành một khối đặc. Nó bay xuống đồi làm gẫy rạp những cây cối nhỏ ở giữa nó như là những cây diêm quẹt nằm trong hộp. Ông già hốc hác liền bước tới chận đứng con đường của nó tiến về phía chúng tôi, rồi ông ta tiếp tục lẩm bẩm những ngôn ngữ kỳ lạ. Lúc này những lời ông đọc dường như vang xa và dội lại xuyên qua rừng núi như tiếng hú của một con sói. Quái vật dường như chậm lại và nếu có chân nó đang lùi bước.
Ánh sáng lại bắt đầu phát ra từ lối vào hang động, nhưng lần này không phải là màu đỏ như máu chúng tôi đã thấy khi trong hang động, mà là một ánh sáng màu trắng, nó chói sáng đến nỗi chúng tôi không thể nhìn thẳng vào nó được. Hình như quái vật đang chống cự lại cái ánh sáng này nhưng thất bại, nó đã bị lôi xuống lỗ và thét lên một tiếng nghe điếc tai để kháng cự. Ánh sáng chói loà đó dường như bao trùm con quái vật và đưa nó về trong lòng đất sâu. Tiếng la rên rỉ đã lặng yên, ánh sáng rút xuống sâu trong hang động cùng với tù nhân của nó rất nhanh cũng như khi xuất hiện.
Bàng hoàng với những gì không thể tưởng được làm chúng tôi sửng sốt chỉ biết đứng nhìn chăm chú vào ông già. Sau khi ánh sáng cùng quái vật rút xuống hang động, ông ta mới đi tới cái miệng hang rồi vẫy tay một cái thì tấm gỗ đậy bị bể lại một lần nữa thành nguyên vẹn. Những dấu hiệu mà chúng tôi thấy trước đó bây giờ lại từ từ hiện ra như mới được khắc lên trên tấm ván. Sau khi làm xong nhiệm vụ, ông già mới chú ý đến chúng tôi và hỏi chúng tôi có bị thương tích không. Paul và tôi cùng xem xét thân thể, ngoại trừ trầy da đầu gối và khuỷu tay ra chúng tôi chỉ bị dơ quần áo vì đất cát với mồ hôi nhỏ giọt, vì vậy chúng tôi chỉ gật đầu mà không nói gì.
- Hai đứa đã gần tiêu tại đây rồi. Ông già nói.
- Ai?... Ý tôi là... Cái gì đó? Paul nói lắp bắp.
- Nó ác, dữ tợn và bất diệt. Các con có thể gọi nó là yêu ma hay ác quỷ. Ông ta ngừng khoảng một chốc rồi tiếp.
- Nó là cả hai mà không phải cả hai. Ông ta nói với một giọng trầm xuống.
- Ðiều quan trọng là nó không thể ăn nữa, nó càng mạnh mẽ hơn nếu nó ăn được.
Nói đến đây gương mặt ông già bỗng trở nên âu sầu, ông ta đi qua mặt chúng tôi bước về hướng căn chòi đến cái bức tường hậu hướng vách với cửa vào hang động. Ông ta tụng vài câu ngôn ngữ lạ kỳ và những dấu hiệu như biến mất bây giờ lại xuất hiện, nhìn rất mới như vừa được khắc lên. Sau đó ông ta đi vòng ra đằng trước chòi rồi biến mất.
Paul và tôi nhìn nhau không nói một lời nào, rồi cùng chạy theo ông già vòng ra đằng trước căn chòi sụp, để hỏi ông già thêm vài thông tin. Chúng tôi càng ngạc nhiên hơn khi không tìm thấy dấu vết gì cả, chỉ vài giây thôi sao ông già lại đi nhanh thế, ông ta chắc chắn không có vào trong chòi để ẩn núp. Chúng tôi gọi lớn chạy vòng quanh căn chòi, chạy cả lên trên đồi để nhìn xem ông ta có chạy trốn không, nhưng cũng không thấy bóng dáng ông ta đâu hết. Lạ thật sao không có dấu chân cũng không nghe tiếng chân đi, dường như ông ấy đã biến mất như làn khói mỏng manh.
Bây giờ với tình trạng ngỡ ngàng và bối rối, chúng tôi lại trở vào căn chòi để xác định rằng ông ta không có trốn ở trong đó. Lần này chúng tôi đẩy cái mái nhà bị sụp đổ để tìm kiếm và chúng tôi đã tìm được...Một cái xác cứng đơ gần như mục rã hết của một người đàn ông mặc đồ giống hệt như ông già đã giúp chúng tôi chỉ vài phút trước đây. Trong lòng bàn tay của xác chết, chúng tôi thấy có một tấm hình trắng đen cũ rích, nằm trong một cái khung bể sậm màu.
Paul nhẹ nhàng lấy tấm hình đó từ tay của thi thể rồi đưa lên nơi có ánh nắng rọi vào. Trong hình là một người đàn ông khỏe mạnh, có lẽ đó là hình dáng của ông ta lúc còn trẻ đã cùng với người vợ và đứa con gái, đứng chụp trước một nông trại sang trọng trông họ rất là hạnh phúc. Paul để tấm hình lại chỗ cũ. Lúc đó chúng tôi để ý thấy cái gì đó nằm gần chân giường, tôi cúi xuống phủi lớp bụi bám ở trên mới biết đó là một quyển sách. Tôi cầm lên và mở ra xem từng trang. Đó là một quyển nhật ký.
- Tao chắc rằng mình sẽ tìm được những câu trả lời ở trong đây. Tôi vừa nói vừa kẹp nó vào nách.
- Thôi chúng ta hãy rời khỏi chỗ này ngay đi.
- Tao cũng nghĩ vậy! Paul nói.
Chúng tôi lại lấy tay đẩy những thứ đồ nằm chắn đường để vạch lối đi ra. Sau khi rời khỏi căn nhà chòi chúng tôi chạy một mạch về nông trại như những con ong bay nhanh về tổ, và con đường về nhà lần này sao chúng tôi thấy dài vô tận. Chúng tôi hai đứa không nói một câu gì trên con đường về, mỗi đứa đều ngẫm nghĩ và ước luợng những sự việc vừa mới trải qua. Vừa đến nông trại chúng tôi vội tắm cho sạch sẽ bằng cái vòi nước ở sau vườn rồi chúng tôi vào trong nhà uống vài ly nước lạnh, lúc đó chúng tôi mới biết rằng không có đứa nào đem bi đong đựng nước về.
Cho đến hôm nay tôi vẫn không biết việc gì đã xảy ra cho những bình nước uống và sợi dây thừng! Có thể nó bị rớt đâu đó trong đường hầm khi chúng tôi trên đường tìm cách thoát thân. Khi cảm thấy khỏe khoắn và tương đối an toàn, chúng tôi mới lấy cuốn nhật ký cũ gần rách nát đem lên một căn phòng trống trên lầu và bắt đầu đọc từng trang. Hầu hết những sự việc trong quyển nhật ký này đều nói về hang động và gì đó ở dưới lòng đất mà chúng tôi không hiểu vào thời đó.
Những trang sách đều ghi đầy những ý nghĩ rối loạn và vắn tắt, còn chữ viết thì khỏi nói rất khó đọc. Cho đến vài năm sau này đọc đi đọc lại nhiều lần, thì tôi mới có thể hiểu được một chút ít về sự việc đã xảy ra chung quanh hang động. Từ đó tôi mới biết rằng: Vào cuối năm 1890 ông cùng vợ và đứa con gái đã dọn đến vùng đồi núi xây một căn nhà thật đẹp. Họ sinh sống bằng nghề chăn nuôi và trồng hoa màu trên mảnh đất mà họ làm chủ.
Có một ngày đứa con gái đi vào rừng để thám hiểm cùng với người bạn ở cạnh nhà... Ðây chỉ là một cuộc thám hiểm bình thường thôi bởi vì theo ông ta ghi chép, đứa con gái của ông ta thà là phiêu lưu mạo hiểm, luôn luôn vào rừng để thám hiểm, nếu không đi hướng này thì con gái của ông cũng đi hướng kia chứ không chịu ở nhà. Từ khi bị té trật chân không tự một mình về nhà đã làm mọi người lo lắng đổ xô đi tìm, mới thấy cô con gái ngồi ở dưới một gốc cây trong rừng, từ đó thì ba mẹ cô gái bắt buộc cô ta muốn vào rừng thì phải rủ thêm một người nữa cùng đi, nếu không thì cô không thể vào rừng được.
Và vào một ngày mùa thu, khi cả khu rừng nhuộm một màu vàng úa, cô bé cùng một người bạn gái đã vào rừng thám hiểm và không bao giờ trở ra nữa. Tối hôm đó ông ta và vợ cùng với gia đình người bạn gái tìm kiếm khắp khu rừng; cho đến cả ngày hôm sau, cảnh sát trưởng cùng những nhân viên đều chia nhau đi tìm, và những gia đình hàng xóm cũng góp tay trong việc tìm kiếm. Mặc dù tất cả mọi người kiếm tìm khắp nơi nhưng hai cô con gái vẫn biệt tích.
Hai tuần trôi qua không thể chịu được, ông ta cùng với người vợ tiếp tục lục soát từng con đường mòn đến từng hang động chung quanh nơi ở của họ. Trong lúc tìm kiếm, họ đã khám phá ra lối vào của một hang động mà từ trước đến giờ không ai biết nó hiện hữu. Lo sợ cho đứa con gái cũng đã khám ra cái hang động này nên họ quyết định đi vào để xem. Vào hang động được hơn một thước, người mẹ tìm được sợi vải cột tóc thường ngày của đứa con gái dính đầy máu khô. Ðiên cuồng và mất trí với nỗi đau thương, người mẹ bắt đầu chạy xuống sâu hơn nữa.
Người đàn ông từ từ đi khập khiễng vì bị bong gân mắt cá chân khi mới bước chân vào hang động, vì vậy mà khó có thể thuyết phục người vợ dừng lại đợi chờ ông ta. Ông ta khuyên răn người vợ nên trở về nhà để kéo thêm người đến giúp. Mặc ông ta có khẩn thiết van xin bà hãy trở lại, nhưng người vợ vì quá nóng lòng tìm con nên bà ta cứ cắm đầu chạy xuống hang động tối đen, bà ta vừa chạy vừa gào thét tên đứa con gái của bà. Biết rằng chân mình bị trật không thể nào vào sâu trong hang động được, nên ông ta đành ở lại cạnh lối vào hang, để chờ đợi và lắng nghe tiếng vợ của ông ra hiệu hoặc trở lại với những gì mà bà ta tìm được.
Đó là lần cuối cùng mà ông thấy vợ của mình còn sống. Ông ta nghe được tiếng vợ mình kêu tên của đứa con gái Emily, lập đi lập lại nhiều lần, và từ từ nhỏ dần khi bà ta xuống sâu dưới hang động. Rồi không một dấu hiệu báo trước có điều không may xảy ra, ông ta bỗng nghe vợ ông ta thét lên một tiếng kinh hoàng. Nhắm mắt lại trong nỗi buồn tuyệt vọng, nghĩ rằng vợ ông đã tìm thấy thân xác nhỏ bé của con gái mình nên ông gọi vọng vào, nhưng không một tiếng đáp lại. Vào lúc đó ông mới nếm được những gì mà tôi và Paul đã chịu đựng.
Những gì ông ta cảm nhận và chứng kiến cũng giống những gì chúng tôi đã kinh nghiệm được, bắt đầu như là một trận động đất rung chuyển. Ông ta gọi vợ hãy trở lên vì sợ bà ta bị chôn vùi nhưng không một tiếng trả lời. Sau đó ông nghe thấy tiếng vo ve càng ngày càng lớn vang lên, tiếng kêu lạ kỳ không phải người. Sợ đó có thể là dã thú nên ông cố gắng bò ra ngoài. Ông vội vã rời xa hang động đến núp sau một thân cây ngay dưới chân đồi gần đó. Ông ta nghe cái tiếng rú càng ngày càng lớn và thấy một ánh sáng màu đỏ chiếu ra từ hang động, khi ánh sáng đỏ tan mất thì một cái bóng đen phóng ra khỏi hang như một viên pháo đại bác.
Cái bóng đen bay lên không khoảng hai mươi thước rồi quay trở về, hình như nó đang cầm gì đó. Khi nó đáp xuống đất ông ta thấy cánh tay đã bị xé ra, máu loang miếng vải màu xanh rách nát từ chiếc áo đầm vợ ông mặc. Cái bóng đen tiếp tục ăn...Ông ta viết rằng, khi quái vật dính đầy máu thì nó trở nên cứng rắn hơn. Biết rằng quái vật vừa mới giết vợ mình và cả đứa con gái cùng người bạn, ông nhè nhẹ lén đi ra sau ngọn đồi, rồi chạy nhanh một mạch về nhà mặc cho chân mình sưng lên và đau buốt. Oán hận và tức giận với sự đau buồn, ông phóng nhanh vào nhà chụp ngay cây súng, nhét thật nhiều bao đạn vào trong túi áo và bỏ đạn vào khẩu súng rồi lên đạn.
Để trả thù ông bắt đầu chạy trở lại chỗ ẩn núp gần chân núi nhưng không thấy bóng con quái vật đâu. Ông ta cẩn thận bò từ từ đến nơi xảy ra cảnh hãi hùng gần cửa hang. Đau lòng tận cùng ông quỵ xuống và bắt đầu khóc như mưa. Ông ta đứng dậy giơ cao cây súng rồi kêu lớn để con quái vật ra ngoài. Ông la lớn xuống hang, ông hét lớn vào thinh không, ông gào thét điên cuồng. Chẳng bao lâu con quái vật xuất hiện. Tiếng hú vang dội trên đồi sau lưng ông là con quái vật, bây giờ gần như rắn chắc hơn. Ông diễn tả con quái vật: Nó là một con vật màu đen có một lớp da dầy, mỗi lần nó di chuyển có một làn khói đen bay theo giống như cục than đen đang cháy bị dội nước lăn long lóc xuống đồi.
Cặp mắt của nó màu đỏ như hai cái dùi nóng. Con quái vật lao đến ông, đôi tay của nó dang rộng với móng vuốt nhọn hoắc như dao lưỡi liềm sẵn sàng cắt ông ra làm hai khúc. Ông bình tĩnh cầm súng nhắm và chờ đợi đến phút cuối cùng khi ông cảm thấy hơi thở nóng bỏng phà vào mặt lúc đó ông mới bóp cò. Cái thân trên của con quái vật nổ tung thành một đám bụi đen nhưng thân dưới của nó vẫn còn tiếp tục tiến tới vật mạnh ông xuống đất. Nhưng từ từ nó biến thành đám bụi đen không có trọng lượng rơi xuống như đống tro tàn. Cuối cùng ông đã có thể đứng dậy. Ông lấy lại hơi thở rồi nhìn chung quanh, bỗng một luồng gió không biết từ đâu thổi đến rất mạnh mẽ, nó là một lực hút từ sau lưng ông kéo theo không khí chung quanh rồi thổi qua ông.
Ông gắng sức chạy nhanh đến núp sau một thân cây nhỏ trong khi những đống bụi đen của con quái vật một lần nữa lại tụ hợp thành một cái bóng mờ nhạt, nó từ từ tiến về phía hang động. Ông lại nhắm vào nó bắn thêm một lần nữa trước khi nó khuất dạng, nhưng viên đạn của ông đã bay xuyên qua đám bụi đen trúng vào thành vách của lối vào hang động. Nó không còn cứng rắn nữa, giờ đây nó chỉ là một đám mây đen. Ông chạy đến cửa hang nhìn xuống, trong hang tăm tối ông nghe một tiếng rên rỉ yếu ớt rồi lặng thinh. Ông quay lại đi khập khễnh về nhà.
Dựa trên nhật ký, ông có đến thăm viếng gia đình cha mẹ người bạn của đứa con gái và đã giải thích cặn kẽ những sự việc đã xảy ra. Sau đó họ cùng nhau đến hang động lấy những thân cây gỗ hoặc những tàng cây chết, bỏ đầy xuống lỗ để ngăn chặn bất cứ "cái gì" muốn xuống hoặc ra ngoài hang, cho đến khi một công trình xây cất chắc chắn hơn được dựng lên. Theo sau là chi tiết về những đám tang, rồi việc bàn thảo về cuộc xây dựng cái gì đó cứng rắn để đậy lối vào hang động, và vì sao không một ai tin ông về con quái vật chỉ có bóng thôi. Mọi người trong thị xã đều nghĩ rằng ông ta bị mất trí vì thấy vợ chết một cách hãi hùng, cũng vì vậy ông đã lẫn tránh những người chung quanh và xa lánh cả xã hội.
Nhưng ông ta lúc nào cũng quyết tâm điều tra xem "cái gì" ở trong hang. Ông nghiên cứu các sách vở trong thư viện của thị xã, xem tất cả các sách thời Trung Cổ, sách Thánh Kinh, kể cả những sách thần thoại, nhưng ông không tìm thấy được một chút gì diễn tả giống như ông đã nhìn thấy và kinh nghiệm được. Cho đến một ngày mùa đông, vài tháng sau khi ông ta nghe có người gõ cửa đó là lúc ông tìm được câu trả lời. Nhật ký của ông ghi lại rằng một người Mỹ da đỏ địa phương, có cha mẹ đã ở lại đó khi bộ lạc Arapaho bị đuổi để đến vùng đất dành riêng cho người da đỏ, tại Oklahoma đã nghe được câu chuyện của ông.
Ông này đã xác nhận và biết về nguồn gốc của con quái vật; đó là một truyền thuyết được truyền từ đời này sang đời khác trong lạc bộ của ông ta, và họ đã sống chung quanh trên vùng đất này cả ngàn năm. Họ gọi con quái vật đó là Grosslor, nghĩa là con ăn linh hồn: con quái vật này có năng lực phi thường, nó nằm lì dưới hang qua nhiều thập niên và nó chỉ ra ngoài để ăn thịt hay linh hồn của con người, sau đó lại trở về một giấc ngủ dài. Những người gọi là Shamans, đã giữ bùa và những câu thần chú trong một thời gian khá lâu, để kiềm chế con ăn linh hồn trong sự kiểm soát và giới hạn năng lực của nó, bắt nó phải ngưng hoạt động hàng trăm năm.
Không may việc dời đi của bộ lạc Arapaho, đã làm con quái vật ấy lấy lại lực lượng và nó bị đánh thức bởi đứa con gái của ông và người bạn khi chui vào hang động. Với sự hiểu biết trong tay ông đi đến tiểu bang Oklahoma, hy vọng có thể bàn thảo với những người vẫn còn biết bùa chú để kiềm chế con quái vật. Khi đến Oklahoma ông được một người đàn ông tên là Hache hi, là một người không những có thể thuật lại từng chi tiết về con ăn linh hồn, mà còn biết được những câu thần chú đã truyền xuống từ ông nội của ông ta. Hiển nhiên, người dùng những bùa phép này sẽ bị trói buộc với con quái vật trong một phương pháp được sắp đặt sẵn, cho dù đến chết cả hai vẫn không ngừng vật lộn và chống chọi nhau.
Linh hồn của người dùng bùa phép sẽ tồn tại sau khi chết để chế ngự con quái vật, và sợi dây đời sống của người Shamans sẽ tiếp tục nếu cần thiết để giữ cho linh hồn sống động trên cõi giới hiện hữu này; vì không có sự duy trì thì linh hồn sẽ từ từ tan biến và qua bên cõi giới khác, lúc đó không còn gì tồn tại để kiềm chế con ăn linh hồn. Gia đình của ông đã đi về bên kia thế giới, ở trong vùng lại không có ai tin câu chuyện ông kể, vì vậy ông quyết định rời bỏ căn nhà đã một lần cùng vợ con sinh sống hạnh phúc để một mình đi vào rừng và dựng lên một căn chòi thô sơ gần cửa hang của con quái vật.
Ông sinh sống ở đó và thường xuyên làm bùa phép đọc thần chú, và ngăn ngừa những người muốn vào hang động. Ông ta quyết tâm dành hết cuộc đời của mình để bảo vệ khu vực này không cho con quái vật lộng hành nữa. Vì không có ai tiếp nối coi chừng sau khi ông lìa đời, nên ông đã khắc những dấu hiệu bùa chú trên tấm gỗ đậy hang, và trên vách tường sau căn chòi đối diện cửa hang, ông hy vọng rằng nó sẽ giúp giữ linh hồn ông lại sau khi chết cũng như có thể kiềm chế con quái vật trong ngục tù của nó.
Mặc dù tôi và Paul đã phá vỡ tấm ván gỗ đậy hang và bùa phép đã khắc trên đó, nhưng vẫn còn đủ năng lực để ông trở lại cõi giới hiện hữu này để kiềm chế con quái vật một lần nữa, sau đó những dấu hiệu bùa phép lại hiện lên tươi mới và rõ ràng hơn...Sau khi đọc nhật ký và hiểu rõ nguồn gốc của những sự việc đã xảy ra, tôi và Paul cảm thấy rất an toàn khi trở lại nơi đây để thám hiểm thêm, và chúng tôi đã tìm thấy cách căn chòi không xa, có hai tấm bia đá không tên, có lẽ đó là hai tấm bia đá để kỷ niệm vợ và con gái ông, nằm trên khu đất mà chúng tôi nghĩ rằng đó là căn nhà hạnh phúc, mà ông già đã ở giờ đây chỉ còn trơ trọi lại mấy cái chân nền.
Chúng tôi không bao giờ kể chuyện này cho người khác nghe, vì ai mà tin chúng tôi chứ? Cho đến ngày hôm nay tôi vẫn có nhiều nghi vấn chưa được giải đáp. Thí dụ như là con vật đó từ đâu đến? Nó là một con quái vật thiên nhiên của địa cầu, một con ác quỷ, một người ngoại tinh hay là một con quái vật thời tiền sử? Tại sao con quái vật kia không giết chúng tôi khi chúng tôi bị kẹt ở trong hang... có thể nó không đủ năng lực chăng? Điều kỳ lạ làm tôi đau đầu nhất là tiếng nói của đứa con gái. Có lẽ đó là hồn ma của cô gái con ông già?
Tôi biết rằng trên Địa Cầu này vẫn còn nhiều thứ để cho chúng ta khám phá và tìm hiểu. Có phải thể xác thì vô thường còn linh hồn mới là trường tồn không?
Jeff Gibbs USA
Câu chuyện này đã xảy ra mười chín năm về trước, nhưng nó vẫn ẩn hiện trong tâm trí tôi như sự việc mới xảy ra ngày hôm qua...Ðó là một buổi sáng mùa hè, khi bóng tối từ từ lui dần nhường chỗ cho ánh bình minh đang chiếu rạng khắp nơi, tôi và Paul người bạn thân nhất, sau khi ăn sáng xong cùng rủ nhau vào khu rừng cạnh nông trại của bà nội bạn ấy để thám hiểm.
Khu rừng này nằm ở phía Tây Nam thuộc tiểu bang Missouri Hoa Kỳ, không cách xa ngọn núi Ozark lắm. Ðịa thế của nó là một vùng đồi núi mọc dầy đặc những cây xanh to lớn. Tuy thuộc tiểu bang Missouri nhưng nó chạy dài đến tận thành phố Kansas, đó là một nơi được nhiều người biết đến vì nó có tới một trăm, không phải, một ngàn cái hang động. Chúng tôi đi cách nông trại vài cây số về hướng Tây, chỉ có Thượng Ðế mới biết đất đai này thuộc về ai khi chúng tôi tìm thấy một cái chòi cũ đổ nát.
Cái chòi này bề ngang khoảng sáu thước và bề dài không hơn tám thước, nó chỉ còn lại ba bức tường, mái nhà thì đổ xuống dọc theo bức tường sụp, dù vậy quý vị vẫn có thể đi vào bên trong từ cửa trước, nhưng chỉ đi được vài thước mà thôi. Là những thiếu niên mười hai tuổi có tánh hiếu kỳ, chúng tôi chỉ làm có bấy nhiêu...Nhìn từ những phương hướng khác nhau thì nó giống như một cái lều hoặc cái chòi, được dựng lên bởi một người nào đó bị lạc đường, hoặc một người chán đời muốn sống ẩn cư, vì nó trông rất là thô sơ với những khúc gỗ dài ngắn không đều nhau, được ghép lại bằng một lớp bùn khô.
Bên trong chòi ngoài dấu vết của một cái lò củi và một cái đầu giường làm bằng tay, hầu như bị che khuất nằm ở một góc, còn mọi thứ khác đều bị che lấp bởi mái nhà sụp đổ tạo thành một bức tường chắn ngang không cho chúng tôi dò xét thêm. Chúng tôi lục lọi một hồi chung quanh nơi có nhiều nhánh cây non và đá sỏi nằm rải rác xung quanh cái sàn đầy bụi cát, vì đã lâu không ai đến đây ở nên mọi thứ hầu như đã tàn phai theo năm tháng.
Xem không thấy gì đặc biệt, với lại rời nông trại từ sáng sớm đi bộ và leo núi đã mệt nhọc rồi bây giờ thấy cái bụng cồn cào, vì vậy chúng tôi đành rời cái chòi nhỏ để trở về nông trại ăn trưa và nghỉ ngơi sau đó sẽ thám hiểm tiếp. Khi rời căn nhà chòi chúng tôi đi vòng ra sau và rất ngạc nhiên khi thấy những dấu hiệu kỳ lạ khắc lên những khúc gỗ trên bức tường phía sau; những dấu hiệu lạ lùng đó đa số đều bị thời tiết tàn phá nên khó mà nhận ra được là ám tự gì.
Nhìn thật kỹ thì quý vị vẫn có thể thấy được vài hình vẽ như cái khuôn, được nối tiếp bằng nhiều dấu chấm giống như toán hình học, những hình không tương xứng. Có vài dấu hiệu đối với chúng tôi thì giống như là những chữ Phạn ngữ vào thời xa xưa, thật ra thì cũng không giống lắm. Rất tiếc tôi không còn nhớ rõ để vẽ ra làm thí dụ. Chúng tôi dò thám xa hơn thì thấy cách đó khoảng sáu thước, từ bức tường sau căn nhà chòi, chúng tôi thấy một tấm ván lớn gần mục nát, hình như nó được đậy trên một cái lỗ. Chúng tôi vội đến đó cúi xuống khảo sát gần hơn.
Nơi đây chúng tôi lại thấy những dấu hiệu, giống như dấu hiệu viết trên bức tường sau, vẽ tràn lan trên tấm ván gỗ đó. Nó bị thời tiết phá hủy nên khó mà nhận ra được là chữ gì. Tôi lấy ngón tay trỏ thử nhấn mạnh quanh bìa miếng gỗ, lúc đó chúng tôi cảm giác lành lạnh hình như không khí đang thoát ra ngoài theo những chỗ hở mà tôi đã làm.
- Tao chắc rằng đây là một cái nắp đậy lối vào của một hang động. Tôi nói.
Paul vội tiếp lời:
- Chúng ta thử xem.
Nói xong bạn ấy liền đứng dậy tìm những cục đá lớn nhỏ chất đầy trên tấm ván, sau đó bạn ấy lấy một tảng đá thật lớn giơ cao hơn đầu, rồi liệng thật mạnh xuống ngay chính giữa, làm tấm ván gỗ nát ra thành nhiều mảnh để lộ ra một cái lỗ lớn; chúng tôi có thể nói đó là lối vào của một hang động. Chúng tôi rụt rè thò cái đầu vào hang động để xem chiều sâu của nó là bao nhiêu. Chúng tôi lấy làm thích thú lẫn ngạc nhiên thấy rằng, đầu dốc hơi nghiêng nằm trong bóng tối không có sâu lắm và có thể đi vào được.
Vui mừng vì sự thám hiểm tìm kiếm của chính chúng tôi về cái hang động này, nên chúng tôi bàn tính phải nhanh chân trở về nông trại để lấy đèn bin, dây nhợ và đem theo một mớ đồ ăn trưa. Trên đường trở về nhà, chúng tôi bàn thảo với nhau rằng nếu bị bắt quả tang trong khi lấy những vật dụng đó, thì không nên nói sự thật cho mọi người biết. Paul thận trọng nói:
- Ba mẹ của chúng ta sẽ không để cho chúng ta chui vào hang động thám hiểm một mình đâu, nếu không có người giám sát coi chừng chúng ta.
Tôi gật đầu đồng ý. Chúng tôi chạy thật nhanh, nhanh đến nỗi chúng tôi trở về nông trại chưa đầy một tiếng đồng hồ. Mặt trời lúc đó ngay trên đỉnh đầu và rất nóng vì đang cuối hè. Về đến nơi, thay vì đem theo đồ ăn trưa, chúng tôi đổi ý ăn cơm trưa tại nhà. Chúng tôi ăn thật nhanh rồi gom vội những vật dụng cần thiết, may thay không có ai thấy sau đó chúng tôi bay ra khỏi nhà trong tích tắc.
Chúng tôi mang theo hai cây đèn bin, một cuộn dây thừng rắn chắc dài khoảng ba mươi lăm thước, và một bình nước uống rồi đi thẳng vào rừng sâu. Vì vị trí căn chòi này không nằm trên bản đồ nên chúng tôi phải đi quanh co để định hướng, cuối cùng trèo lên đỉnh của một ngọn đồi thấp chúng tôi mới nhìn thấy cái chòi đổ nát và miệng của hang động. Lần này chúng tôi có cảm giác bất an, hình như có gì đó không được bình thường, không khí chung quanh có mùi hôi hám rất là khó ngửi.
Chúng tôi dừng lại xem xét những dấu hiệu lạ lùng trên bức tường một vài giây trước khi đi vào hang động; thật khó mà biết được những dấu tích bí ẩn này tượng trưng cho cái gì hoặc có ý nghĩa gì. Mặc kệ cái cảm giác khó chịu từ lúc đầu bao quanh, Paul và tôi cũng không để cho sự yếu đuối của mình cản trở cuộc thám hiểm sâu vào hang động.
Chúng tôi cột một đầu dây trong một thân cây khô gần miệng hang động vài thước, còn đầu kia thì bỏ xuống lỗ hang, vì là người đã tìm được nhiều hang động trong vùng hơn tôi, nên Paul dành đi trước để rọi đường. Paul bò đến gần miệng hang và bám lấy sợi dây từ từ bò vào hang động. Vừa bò bạn ấy vừa bấm sáng đèn bin rọi xuống dưới hang, lúc đó chúng tôi mới biết rằng cái hang động này còn đi xuống sâu nữa để rồi chìm khuất trong bóng tối.
Ðứng trên miệng hang dõi mắt nhìn theo bạn ấy, tôi đợi chờ bạn ấy báo hiệu rằng trong hang động rất là an toàn có thể xuống. Chưa đầy ba mươi giây sau, tôi nghe vang lên một tiếng la kinh hãi của Paul theo sau là một tiếng “bụp”.
- Chuyện gì? Tôi la lớn.
- Ồ, không có gì. Tao nghĩ đi xuống tí nữa thì sẽ tới cuối hang nhưng bất ngờ hết dây tao bị rơi thẳng xuống dốc, may mắn thay chỉ rơi khoảng một thước. Bạn ấy trả lời.
- Bây giờ mày có thể xuống được rồi, đi từ từ thôi và coi chừng cái chỗ rơi thẳng xuống đó.
Mặc dù không thấy dễ chịu lắm, tôi cũng nắm sợi dây và bắt đầu đi xuống vào trong hang tối. Ðến hết sợi dây tôi từ từ thả mình nhẹ nhàng rơi xuống đất. Khi đứng ở dưới an toàn tôi mới nhìn lên cái miệng hang nhỏ xíu cao khoảng mười ba thước mà chúng tôi vừa chui vào. Sau đó tôi nhìn ở phía trước con đường hầm của hang động, giống như một cái mạch mỏ than đá chỉ trừ là nó lấp lánh với măng đá và chuông đá.
Tôi thấy bên trong hang này chiều cao khoảng hai thước và chiều ngang gần ba thước, nó rất ẩm ướt nhưng không thấy có nước đọng lại, đó có nghĩa là nó còn đi xuống sâu hơn nữa. Cẩn thận bước qua chướng ngại do sự hình thành của hang động tạo ra, chúng tôi đi sâu vào hang động. Ðường hầm dẫn xuống sâu và sâu hơn như cái vực thẳm. Càng đi xuống sâu vào lòng đất, tôi càng kinh ngạc bởi thiếu vắng sự hiện hữu của những côn trùng và động vật.
Cho dù trong hang động nhỏ, quý vị vẫn có thể tìm thấy phân của côn trùng hoặc những cái màng nhện, nhưng trong hang động này thì hoàn toàn không thấy dấu tích của bất cứ sự sống nào. Còn một điều kỳ lạ nữa mà chúng tôi để ý đến là càng đi xuống sâu hơn, thì nhiệt độ lại càng ấm áp hơn thay vì càng ngày càng lạnh hơn. Quý vị cũng biết cho dù chỉ có vài thước dưới lòng đất, thì nhiệt độ cũng đã xuống thấp khoảng mười đến mười lăm độ rồi, nhưng nhiệt độ trong hang động này lại ấm áp lạ thường và không khí dường như bị tù hãm và nặng nề.
Chúng tôi tiếp tục đi xuống qua cái đường hầm dài giống như một cầu thang xoắn ốc, không có bậc thang cho đến khi nó nhỏ hẹp lại và thẳng dốc hơn. Từ lúc đầu chúng tôi không cần dùng dây hay dụng cụ an toàn nào, thì bây giờ chúng tôi phải cẩn thận để ý nhiều hơn. Tại điểm này chúng tôi đã ở dưới lòng đất gần sáu chục thước, nhưng không có một dấu hiệu nào cho thấy ở dưới này còn hang động khác để thám hiểm thêm. “Thật ra, cái hang động này cũng đáng để thám hiểm lắm” tôi nghĩ như vậy.
Sau mười lăm phút hơn liên tục đi xuống, Paul và tôi cuối cùng đã đến đáy của đường hầm xoắn ốc, đến tận cùng rồi. Ðó có thể là hết cuộc thám hiểm nếu chúng tôi không thấy một cái lỗ nhỏ gần mặt đất. Nó cao khoảng 1/2 thước và chiều ngang khoảng 1/3 thước. Paul nằm dài xuống mặt đất, lấy đèn bin rọi vào trong lỗ rồi chui cái đầu vào.
- Hay quá. Bạn ấy nói với một giọng vui mừng. Có một thành hốc khác. Tao nghĩ chúng ta có thể chui qua cái lỗ này. Ðể tao thử xem.
Bạn ấy chui vào cái lỗ thân mình trườn tới rồi uốn qua uốn lại như con rắn, cuối cùng cũng qua được. Biết rằng chỉ ốm hơn Paul một tí ti như vậy thì tôi sẽ không gặp nhiều khó khăn. Sau những cái uốn qua uốn lại, tôi đã qua được. Vừa phủi bụi từ quần áo xuống tôi vừa đứng thẳng lên chiếu đèn bin chung quanh xem xét. Cái thành hốc này có một cảm giác kỳ quái lắm, dù vậy chúng tôi cũng không thấy có gì khác thường hết.
Trần thành hốc cao ít nhất mười thước và riêng cái phòng ốc này đường kính có lẽ rộng từ mười hai đến mười lăm thước. Ở trên tường hoặc dưới đất tại đây tương đối nhẵn, trần nhà và cái sàn đều không dính một chút bụi bậm. Người ta có thể đoán cái phòng ốc này là cái lỗ rỗng của một cái giếng nước trong lòng đất, nhưng vẫn giữ khô ráo từ lúc nước rút xuống. Chúng tôi rọi đèn bin lên tường tìm kiếm đến khi tôi ra ý kiến hãy tắt đèn để xem nó thật sự tối đến đâu, đó là một sự thích thú để làm trong hang động, vì không có bóng tối nào có thể so sánh được.
Quý vị có thể tưởng tượng sự sửng sốt của chúng tôi khi chúng tôi tắt đèn, mà vẫn có thể thấy mặt của nhau trong cái hang hoàn toàn đen tối không? Không có bất cứ một nguồn ánh sáng nào mà toàn bộ phòng ốc lại tỏa sáng một màu đỏ. Bức tường có vẻ chiếu sáng và sống động một màu đỏ đậm và sáng hơn với mỗi thời khắc trôi qua, dường như chúng tôi đang đánh thức nó dậy từ một giấc ngủ ngàn năm.
Chúng tôi mở đèn bin lên và bắt đầu kiếm chung quanh phòng để tìm ra manh mối vì sao bức tường lại phát ra ánh sáng kỳ lạ như vậy. Xa trong một góc phòng, ánh đèn bin của tôi phát hiện một hiện tượng vô cùng rùng rợn. Tôi thấy cái gì đó trông giống những khúc xương khô trong bộ quần áo rách rưới, nằm chung quanh một cái sọ vỡ; và gần đó cách khoảng nửa thước lại có một cái sọ khác, cái sọ này được chẻ cẩn thận ra làm đôi và cũng nằm cạnh những khúc xương vụn nhưng nhỏ hơn.
Trong đống này tôi thấy cái gì đó như miếng vải len viền áo, của một đứa bé gái hoặc áo đầm của phụ nữ. Paul cũng để ý đến những gì mà tôi đang chăm chú nhìn mà cả hai đều không thể tưởng tượng được. Vừa dự định đến gần hơn để nhìn cho kỹ, bỗng nhiên tôi nghe một tiếng nói làm ớn lạnh đến tận xương tủy. Tôi rõ ràng nghe một tiếng con gái nói thầm thì trong tai.
- Ði ra!
Tiếp theo tiếng nói như thúc giục.
- Chạy đi!
Tôi sợ quá nhìn Paul và bạn ấy cũng đã nghe thấy, lúc đó chúng tôi lùi dần gần đến lỗ ra của phòng ốc. Bỗng dưng cái sàn rung chuyển và một tiếng kêu vo ve bắt đầu vang dội cả phòng ốc. Tôi quá kinh hãi chạy thụt lùi lại, Paul nhanh chân chạy theo. Mặt đất rung động thật mạnh, tôi sợ đó là dấu hiệu của sự động đất và cái phòng ốc này sẽ sập xuống chôn vùi chúng tôi. Tôi đã chạy đến lỗ ra của phòng ốc mà nó bây giờ trông nhỏ xíu không khác cái lỗ con chuột nhũi, tôi chui vào cái lỗ trườn tới và uốn qua uốn lại. Ở phía sau tôi nghe Paul hối thúc, khép hai chân lại tôi lấy cùi chỏ chống thân mình cố gắng đẩy về phía trước.
Sau khi trở ra con đường hầm, tôi quay người lại giúp Paul. Bạn ấy gắng sức trườn tới nhưng cũng không thể chui qua nhanh được. Nếu không hiểu biết, tôi còn tưởng cái lỗ đó nó teo lại trước cặp mắt của tôi nữa. Paul cứ gắng sức và gắng sức chui ra nhưng vẫn không qua lọt. Tôi vội liệng cái đèn bin xuống đất rồi lấy hai tay kéo bạn ấy.
- Ouch!
Bạn ấy la lớn. Tôi nghĩ có lẽ mình kéo mạnh quá nên Paul đau, nhưng bạn ấy nhìn tôi với cặp mắt sợ hãi với giọng nói run run:
- Có gì đó nắm chân của tao! Có gì đó nắm chân tao! Kéo mạnh lên.
Bạn ấy hét. Dồn hết sức tôi kéo mạnh một lần nữa, cuối cùng bạn ấy cũng qua được. Khi đôi chân của bạn ấy vừa ra khỏi lỗ thì tôi nhận thấy, từ ánh đèn bin tôi đã liệng dưới đất có dấu giống như dấu tay, một bàn tay mà không giống một bàn tay, in trên bắp đùi của bạn ấy. Nó có hình thù lồi lõm của một bàn tay quá cỡ hoặc là bàn chân không có móng. Nó gần giống như một cái bóng trong suốt. Ðó là tất cả những gì mà tôi trông thấy bởi vì khi Paul vừa ra khỏi lỗ, bạn ấy đứng dậy chạy thật nhanh và tôi cũng quay đầu chạy theo, bỏ cả cái đèn bin của tôi ở đó.
Tại vì Paul vẫn còn đèn pin nên tôi lên tiếng Paul hãy chờ tôi với, nghe tôi kêu bạn ấy chạy hơi chậm lại vừa đủ để tôi bắt kịp. Chỉ trong chốc lát tiếng vo ve ngân lên càng lớn và lớn hơn, ánh sáng từ cái phòng ốc bên dưới bắt đầu chiếu sáng con đường hầm; từ phía sau chúng tôi có một mùi hôi bắt đầu bao trùm lấy chúng tôi. Nó thúi đến nỗi chúng tôi muốn chết nghẹt luôn. Chúng tôi té lên té xuống ra sức chạy càng nhanh càng tốt. Tác dụng xoắn ốc của đường hầm làm mất hướng và nỗi khiếp sợ bắt đầu xâm chiếm lấy chúng tôi.
Nếu Paul không bị té hay đụng đầu thì tôi lại bị, lối thoát dẫn đến mặt đất có vẻ dài vô tận. Chúng tôi đã quẹo và trèo lên nhiều lần, thay vì cái ánh sáng từ bên dưới phải rời xa ở đằng sau chúng tôi, nhưng nó lại càng ngày càng gần hơn sáng hơn, chiếu sáng cả đường hầm bên dưới một màu đỏ như máu. Cuối cùng chúng tôi đã đến đường hầm dài và thẳng hơn, cũng là nơi dẫn đến rìa dốc cuối của lối ra hang động.
Paul và tôi cố lấy sức chạy nhanh để lấy khoảng cách xa giữa chúng tôi và ánh sáng bên dưới và hầu như để chạy trốn mùi hôi, nhưng tiếng vo ve vẫn càng ngày càng lớn trong một mức độ cao hơn như là tiếng còi hụ của đoàn tàu xe lửa. Paul và tôi đến rìa dốc cùng một lúc, nhưng cả hai chúng tôi đều bàng hoàng vì không thấy ánh sáng chiếu vào từ cửa hang, tất cả đều chìm trong bóng tối. Chúng tôi chỉ ở trong hang khoảng ba mươi phút thôi, có nghĩa bây giờ bên ngoài vẫn còn là buổi trưa, nhưng sao chúng tôi không thấy ánh mặt trời rọi vào.
Paul rọi đèn bin lên nơi cái lỗ hang mà chúng tôi đã chui vào làm chúng tôi sợ run cả người... sợi dây đã biến mất và miệng hang đã bị lấp lại bằng một tấm ván gỗ mà trước đây đã đậy. Paul và tôi cùng nhảy lên dốc và bắt đầu lê cái thân về phía cửa hang. Nó không có dốc lắm nhưng cứ leo lên được hơn 1/2 thước thì chúng tôi lại bị tuột xuống 1/4 thước, vì vậy mà hơi chậm. Ánh sáng bên dưới lại bắt đầu xâm lấn chúng tôi, tiếng vo ve vang dội hơn và vẫn còn ở mức độ cao. Chúng tôi cuối cùng đã đến cửa hang và bắt đầu tìm cách để thoát ra ngoài. Chúng tôi đẩy và đẩy cái tấm gỗ nhưng nặng quá chúng tôi đành chịu thua.
Không còn cách nào khác chúng tôi đành la lớn để cầu cứu, vừa la chúng tôi vừa lấy tay đập mạnh trên tấm ván gỗ. Ánh sáng bên dưới hình như đã đến cái dốc cuối và nó đang lao về phía chúng tôi với một vận tốc nhanh như chớp. Chúng tôi vừa bịt mắt lại vì ánh sáng chói lòa vừa la thật lớn muốn bể phổi. Tự nhiên tức thì ánh sáng bỗng mờ dần và biến mất trong bóng tối, giống như nó rút từ trần nhà xuống sàn như một cơn sóng nước; tiếng vo ve chợt tắt hẳn và mùi hôi cũng tiêu mất, lúc đó chỉ còn lại tiếng thở nặng nề của hai đứa chúng tôi mà thôi.
- Cái .. gì... vậy...?
Tôi hỏi và cố gắng lấy lại hơi thở đã mất vì sợ hãi.
- Tao không biết. Hãy tìm cách ra khỏi đây đi.
Paul trả lời rồi bạn ấy chiếu đèn bin vòng quanh bìa cái nắp gỗ, để tìm xem có gì để chúng tôi có thể dùng làm một điểm bắt đầu không. Sau đó hai đứa chúng tôi lại đập lên tấm ván gỗ. Rồi không dấu hiệu cảnh cáo hay báo trước, chúng tôi bỗng nghe rầm bên dưới, theo sau là một tiếng mà đã đem cho tôi ác mộng đến ngày hôm nay, một tiếng ùn ục rợn người đang dâng lên đường hầm như vũ bão.
Ðèn bin của Paul chợt tắt và chúng tôi bị chìm vào trong bóng tối hoàn toàn tăm tối. Tiếng ùn ục càng ngày càng đến gần, bây giờ chúng tôi quá độ kinh sợ để mà la lên. Tôi nhớ là mình đã dựa sát vào tường đá toàn thân đơ cứng vì sợ hãi. Tôi không thể nói không thể cựa quậy không thể thấy, mà chỉ biết im lặng để lắng nghe trong khi tiếng ùn ục bắt đầu chuyển thành như một tiếng hú, khi nó bay lên đường hầm hướng về phía chúng tôi giống như một chiếc xe lửa điện chạy 100 km/giờ.
Không khí bừng nóng cùng với một cơn gió rít xoáy mạnh chung quanh chúng tôi xen lẫn với tiếng kêu gào của một đứa con gái ngay trong tai tôi. Trong lúc tôi như muốn xỉu vì quá sợ, thì cảm thấy có gì đó hơi cứng lao nhanh qua chúng tôi, rồi phóng vào nắp gỗ như một viên đạn pháo vô hình. Những mảnh gỗ bể rớt xuống và ánh sáng mặt trời tràn vào làm hiện rõ khuôn mặt sợ sệt của chúng tôi. Như đọc được tư tưởng của nhau, chúng tôi phóng khỏi hang động, tôi trước sau đó đến Paul. Chúng tôi nhanh nhẩu đứng dậy phủi hết lớp bụi bậm dính quần áo.
Không biết là nên chạy hay ngã quỵ, chúng tôi nhìn nhau đợi chờ xem ai hành động trước, thì một người đàn ông mặc áo len đi vòng ra từ cửa trước căn chòi, tóc ông ấy dài và bù xù, trên khuôn mặt cằn cỗi của ông có nhiều nếp nhăn ngang dọc. Ðôi chân muốn chạy nhưng đầu óc lại bất đồng, có gì đó về người đàn ông này đã làm chúng tôi ở lại, cái gì đó không đe dọa mà lại rất an lành. Ông ta bước từng bước chầm chậm đến chúng tôi, trong khi tiếng rú cứ lớn dần như thể nó đang từ hang động bay vút ra ngoài, lượn một vòng chung quanh những thân cây ở gần đó để trở lại thanh toán chúng tôi.
Chúng tôi nghe tiếng cây gẫy răng rắc trong khoảng cách như là nó đang ủi tất cả những gì cản đường nó. Một lần nữa chúng tôi lại đứng chết trân trong sợ hãi, yếu sức để ngăn chận cái gì đó đang bay nhanh về hướng mình. Lúc này người đàn ông với vẻ mặt lo âu khi vừa mới xuất hiện, bây giờ đã biến thành một vẻ mặt cương quyết như sắt đá, ông ta giơ cao hai cánh tay lên trời và bắt đầu đọc lẩm bẩm vài câu ngôn ngữ gì đó, mà chúng tôi không thể nhận ra hay hiểu được.
Tiếng hú càng ngày càng lớn vang vọng cả núi đồi. Giờ đây chúng tôi mới thấy được một cái bóng màu đen, giống như một cụm mây đen như nhọ nồi nhưng chưa đủ để kết thành một khối đặc. Nó bay xuống đồi làm gẫy rạp những cây cối nhỏ ở giữa nó như là những cây diêm quẹt nằm trong hộp. Ông già hốc hác liền bước tới chận đứng con đường của nó tiến về phía chúng tôi, rồi ông ta tiếp tục lẩm bẩm những ngôn ngữ kỳ lạ. Lúc này những lời ông đọc dường như vang xa và dội lại xuyên qua rừng núi như tiếng hú của một con sói. Quái vật dường như chậm lại và nếu có chân nó đang lùi bước.
Ánh sáng lại bắt đầu phát ra từ lối vào hang động, nhưng lần này không phải là màu đỏ như máu chúng tôi đã thấy khi trong hang động, mà là một ánh sáng màu trắng, nó chói sáng đến nỗi chúng tôi không thể nhìn thẳng vào nó được. Hình như quái vật đang chống cự lại cái ánh sáng này nhưng thất bại, nó đã bị lôi xuống lỗ và thét lên một tiếng nghe điếc tai để kháng cự. Ánh sáng chói loà đó dường như bao trùm con quái vật và đưa nó về trong lòng đất sâu. Tiếng la rên rỉ đã lặng yên, ánh sáng rút xuống sâu trong hang động cùng với tù nhân của nó rất nhanh cũng như khi xuất hiện.
Bàng hoàng với những gì không thể tưởng được làm chúng tôi sửng sốt chỉ biết đứng nhìn chăm chú vào ông già. Sau khi ánh sáng cùng quái vật rút xuống hang động, ông ta mới đi tới cái miệng hang rồi vẫy tay một cái thì tấm gỗ đậy bị bể lại một lần nữa thành nguyên vẹn. Những dấu hiệu mà chúng tôi thấy trước đó bây giờ lại từ từ hiện ra như mới được khắc lên trên tấm ván. Sau khi làm xong nhiệm vụ, ông già mới chú ý đến chúng tôi và hỏi chúng tôi có bị thương tích không. Paul và tôi cùng xem xét thân thể, ngoại trừ trầy da đầu gối và khuỷu tay ra chúng tôi chỉ bị dơ quần áo vì đất cát với mồ hôi nhỏ giọt, vì vậy chúng tôi chỉ gật đầu mà không nói gì.
- Hai đứa đã gần tiêu tại đây rồi. Ông già nói.
- Ai?... Ý tôi là... Cái gì đó? Paul nói lắp bắp.
- Nó ác, dữ tợn và bất diệt. Các con có thể gọi nó là yêu ma hay ác quỷ. Ông ta ngừng khoảng một chốc rồi tiếp.
- Nó là cả hai mà không phải cả hai. Ông ta nói với một giọng trầm xuống.
- Ðiều quan trọng là nó không thể ăn nữa, nó càng mạnh mẽ hơn nếu nó ăn được.
Nói đến đây gương mặt ông già bỗng trở nên âu sầu, ông ta đi qua mặt chúng tôi bước về hướng căn chòi đến cái bức tường hậu hướng vách với cửa vào hang động. Ông ta tụng vài câu ngôn ngữ lạ kỳ và những dấu hiệu như biến mất bây giờ lại xuất hiện, nhìn rất mới như vừa được khắc lên. Sau đó ông ta đi vòng ra đằng trước chòi rồi biến mất.
Paul và tôi nhìn nhau không nói một lời nào, rồi cùng chạy theo ông già vòng ra đằng trước căn chòi sụp, để hỏi ông già thêm vài thông tin. Chúng tôi càng ngạc nhiên hơn khi không tìm thấy dấu vết gì cả, chỉ vài giây thôi sao ông già lại đi nhanh thế, ông ta chắc chắn không có vào trong chòi để ẩn núp. Chúng tôi gọi lớn chạy vòng quanh căn chòi, chạy cả lên trên đồi để nhìn xem ông ta có chạy trốn không, nhưng cũng không thấy bóng dáng ông ta đâu hết. Lạ thật sao không có dấu chân cũng không nghe tiếng chân đi, dường như ông ấy đã biến mất như làn khói mỏng manh.
Bây giờ với tình trạng ngỡ ngàng và bối rối, chúng tôi lại trở vào căn chòi để xác định rằng ông ta không có trốn ở trong đó. Lần này chúng tôi đẩy cái mái nhà bị sụp đổ để tìm kiếm và chúng tôi đã tìm được...Một cái xác cứng đơ gần như mục rã hết của một người đàn ông mặc đồ giống hệt như ông già đã giúp chúng tôi chỉ vài phút trước đây. Trong lòng bàn tay của xác chết, chúng tôi thấy có một tấm hình trắng đen cũ rích, nằm trong một cái khung bể sậm màu.
Paul nhẹ nhàng lấy tấm hình đó từ tay của thi thể rồi đưa lên nơi có ánh nắng rọi vào. Trong hình là một người đàn ông khỏe mạnh, có lẽ đó là hình dáng của ông ta lúc còn trẻ đã cùng với người vợ và đứa con gái, đứng chụp trước một nông trại sang trọng trông họ rất là hạnh phúc. Paul để tấm hình lại chỗ cũ. Lúc đó chúng tôi để ý thấy cái gì đó nằm gần chân giường, tôi cúi xuống phủi lớp bụi bám ở trên mới biết đó là một quyển sách. Tôi cầm lên và mở ra xem từng trang. Đó là một quyển nhật ký.
- Tao chắc rằng mình sẽ tìm được những câu trả lời ở trong đây. Tôi vừa nói vừa kẹp nó vào nách.
- Thôi chúng ta hãy rời khỏi chỗ này ngay đi.
- Tao cũng nghĩ vậy! Paul nói.
Chúng tôi lại lấy tay đẩy những thứ đồ nằm chắn đường để vạch lối đi ra. Sau khi rời khỏi căn nhà chòi chúng tôi chạy một mạch về nông trại như những con ong bay nhanh về tổ, và con đường về nhà lần này sao chúng tôi thấy dài vô tận. Chúng tôi hai đứa không nói một câu gì trên con đường về, mỗi đứa đều ngẫm nghĩ và ước luợng những sự việc vừa mới trải qua. Vừa đến nông trại chúng tôi vội tắm cho sạch sẽ bằng cái vòi nước ở sau vườn rồi chúng tôi vào trong nhà uống vài ly nước lạnh, lúc đó chúng tôi mới biết rằng không có đứa nào đem bi đong đựng nước về.
Cho đến hôm nay tôi vẫn không biết việc gì đã xảy ra cho những bình nước uống và sợi dây thừng! Có thể nó bị rớt đâu đó trong đường hầm khi chúng tôi trên đường tìm cách thoát thân. Khi cảm thấy khỏe khoắn và tương đối an toàn, chúng tôi mới lấy cuốn nhật ký cũ gần rách nát đem lên một căn phòng trống trên lầu và bắt đầu đọc từng trang. Hầu hết những sự việc trong quyển nhật ký này đều nói về hang động và gì đó ở dưới lòng đất mà chúng tôi không hiểu vào thời đó.
Những trang sách đều ghi đầy những ý nghĩ rối loạn và vắn tắt, còn chữ viết thì khỏi nói rất khó đọc. Cho đến vài năm sau này đọc đi đọc lại nhiều lần, thì tôi mới có thể hiểu được một chút ít về sự việc đã xảy ra chung quanh hang động. Từ đó tôi mới biết rằng: Vào cuối năm 1890 ông cùng vợ và đứa con gái đã dọn đến vùng đồi núi xây một căn nhà thật đẹp. Họ sinh sống bằng nghề chăn nuôi và trồng hoa màu trên mảnh đất mà họ làm chủ.
Có một ngày đứa con gái đi vào rừng để thám hiểm cùng với người bạn ở cạnh nhà... Ðây chỉ là một cuộc thám hiểm bình thường thôi bởi vì theo ông ta ghi chép, đứa con gái của ông ta thà là phiêu lưu mạo hiểm, luôn luôn vào rừng để thám hiểm, nếu không đi hướng này thì con gái của ông cũng đi hướng kia chứ không chịu ở nhà. Từ khi bị té trật chân không tự một mình về nhà đã làm mọi người lo lắng đổ xô đi tìm, mới thấy cô con gái ngồi ở dưới một gốc cây trong rừng, từ đó thì ba mẹ cô gái bắt buộc cô ta muốn vào rừng thì phải rủ thêm một người nữa cùng đi, nếu không thì cô không thể vào rừng được.
Và vào một ngày mùa thu, khi cả khu rừng nhuộm một màu vàng úa, cô bé cùng một người bạn gái đã vào rừng thám hiểm và không bao giờ trở ra nữa. Tối hôm đó ông ta và vợ cùng với gia đình người bạn gái tìm kiếm khắp khu rừng; cho đến cả ngày hôm sau, cảnh sát trưởng cùng những nhân viên đều chia nhau đi tìm, và những gia đình hàng xóm cũng góp tay trong việc tìm kiếm. Mặc dù tất cả mọi người kiếm tìm khắp nơi nhưng hai cô con gái vẫn biệt tích.
Hai tuần trôi qua không thể chịu được, ông ta cùng với người vợ tiếp tục lục soát từng con đường mòn đến từng hang động chung quanh nơi ở của họ. Trong lúc tìm kiếm, họ đã khám phá ra lối vào của một hang động mà từ trước đến giờ không ai biết nó hiện hữu. Lo sợ cho đứa con gái cũng đã khám ra cái hang động này nên họ quyết định đi vào để xem. Vào hang động được hơn một thước, người mẹ tìm được sợi vải cột tóc thường ngày của đứa con gái dính đầy máu khô. Ðiên cuồng và mất trí với nỗi đau thương, người mẹ bắt đầu chạy xuống sâu hơn nữa.
Người đàn ông từ từ đi khập khiễng vì bị bong gân mắt cá chân khi mới bước chân vào hang động, vì vậy mà khó có thể thuyết phục người vợ dừng lại đợi chờ ông ta. Ông ta khuyên răn người vợ nên trở về nhà để kéo thêm người đến giúp. Mặc ông ta có khẩn thiết van xin bà hãy trở lại, nhưng người vợ vì quá nóng lòng tìm con nên bà ta cứ cắm đầu chạy xuống hang động tối đen, bà ta vừa chạy vừa gào thét tên đứa con gái của bà. Biết rằng chân mình bị trật không thể nào vào sâu trong hang động được, nên ông ta đành ở lại cạnh lối vào hang, để chờ đợi và lắng nghe tiếng vợ của ông ra hiệu hoặc trở lại với những gì mà bà ta tìm được.
Đó là lần cuối cùng mà ông thấy vợ của mình còn sống. Ông ta nghe được tiếng vợ mình kêu tên của đứa con gái Emily, lập đi lập lại nhiều lần, và từ từ nhỏ dần khi bà ta xuống sâu dưới hang động. Rồi không một dấu hiệu báo trước có điều không may xảy ra, ông ta bỗng nghe vợ ông ta thét lên một tiếng kinh hoàng. Nhắm mắt lại trong nỗi buồn tuyệt vọng, nghĩ rằng vợ ông đã tìm thấy thân xác nhỏ bé của con gái mình nên ông gọi vọng vào, nhưng không một tiếng đáp lại. Vào lúc đó ông mới nếm được những gì mà tôi và Paul đã chịu đựng.
Những gì ông ta cảm nhận và chứng kiến cũng giống những gì chúng tôi đã kinh nghiệm được, bắt đầu như là một trận động đất rung chuyển. Ông ta gọi vợ hãy trở lên vì sợ bà ta bị chôn vùi nhưng không một tiếng trả lời. Sau đó ông nghe thấy tiếng vo ve càng ngày càng lớn vang lên, tiếng kêu lạ kỳ không phải người. Sợ đó có thể là dã thú nên ông cố gắng bò ra ngoài. Ông vội vã rời xa hang động đến núp sau một thân cây ngay dưới chân đồi gần đó. Ông ta nghe cái tiếng rú càng ngày càng lớn và thấy một ánh sáng màu đỏ chiếu ra từ hang động, khi ánh sáng đỏ tan mất thì một cái bóng đen phóng ra khỏi hang như một viên pháo đại bác.
Cái bóng đen bay lên không khoảng hai mươi thước rồi quay trở về, hình như nó đang cầm gì đó. Khi nó đáp xuống đất ông ta thấy cánh tay đã bị xé ra, máu loang miếng vải màu xanh rách nát từ chiếc áo đầm vợ ông mặc. Cái bóng đen tiếp tục ăn...Ông ta viết rằng, khi quái vật dính đầy máu thì nó trở nên cứng rắn hơn. Biết rằng quái vật vừa mới giết vợ mình và cả đứa con gái cùng người bạn, ông nhè nhẹ lén đi ra sau ngọn đồi, rồi chạy nhanh một mạch về nhà mặc cho chân mình sưng lên và đau buốt. Oán hận và tức giận với sự đau buồn, ông phóng nhanh vào nhà chụp ngay cây súng, nhét thật nhiều bao đạn vào trong túi áo và bỏ đạn vào khẩu súng rồi lên đạn.
Để trả thù ông bắt đầu chạy trở lại chỗ ẩn núp gần chân núi nhưng không thấy bóng con quái vật đâu. Ông ta cẩn thận bò từ từ đến nơi xảy ra cảnh hãi hùng gần cửa hang. Đau lòng tận cùng ông quỵ xuống và bắt đầu khóc như mưa. Ông ta đứng dậy giơ cao cây súng rồi kêu lớn để con quái vật ra ngoài. Ông la lớn xuống hang, ông hét lớn vào thinh không, ông gào thét điên cuồng. Chẳng bao lâu con quái vật xuất hiện. Tiếng hú vang dội trên đồi sau lưng ông là con quái vật, bây giờ gần như rắn chắc hơn. Ông diễn tả con quái vật: Nó là một con vật màu đen có một lớp da dầy, mỗi lần nó di chuyển có một làn khói đen bay theo giống như cục than đen đang cháy bị dội nước lăn long lóc xuống đồi.
Cặp mắt của nó màu đỏ như hai cái dùi nóng. Con quái vật lao đến ông, đôi tay của nó dang rộng với móng vuốt nhọn hoắc như dao lưỡi liềm sẵn sàng cắt ông ra làm hai khúc. Ông bình tĩnh cầm súng nhắm và chờ đợi đến phút cuối cùng khi ông cảm thấy hơi thở nóng bỏng phà vào mặt lúc đó ông mới bóp cò. Cái thân trên của con quái vật nổ tung thành một đám bụi đen nhưng thân dưới của nó vẫn còn tiếp tục tiến tới vật mạnh ông xuống đất. Nhưng từ từ nó biến thành đám bụi đen không có trọng lượng rơi xuống như đống tro tàn. Cuối cùng ông đã có thể đứng dậy. Ông lấy lại hơi thở rồi nhìn chung quanh, bỗng một luồng gió không biết từ đâu thổi đến rất mạnh mẽ, nó là một lực hút từ sau lưng ông kéo theo không khí chung quanh rồi thổi qua ông.
Ông gắng sức chạy nhanh đến núp sau một thân cây nhỏ trong khi những đống bụi đen của con quái vật một lần nữa lại tụ hợp thành một cái bóng mờ nhạt, nó từ từ tiến về phía hang động. Ông lại nhắm vào nó bắn thêm một lần nữa trước khi nó khuất dạng, nhưng viên đạn của ông đã bay xuyên qua đám bụi đen trúng vào thành vách của lối vào hang động. Nó không còn cứng rắn nữa, giờ đây nó chỉ là một đám mây đen. Ông chạy đến cửa hang nhìn xuống, trong hang tăm tối ông nghe một tiếng rên rỉ yếu ớt rồi lặng thinh. Ông quay lại đi khập khễnh về nhà.
Dựa trên nhật ký, ông có đến thăm viếng gia đình cha mẹ người bạn của đứa con gái và đã giải thích cặn kẽ những sự việc đã xảy ra. Sau đó họ cùng nhau đến hang động lấy những thân cây gỗ hoặc những tàng cây chết, bỏ đầy xuống lỗ để ngăn chặn bất cứ "cái gì" muốn xuống hoặc ra ngoài hang, cho đến khi một công trình xây cất chắc chắn hơn được dựng lên. Theo sau là chi tiết về những đám tang, rồi việc bàn thảo về cuộc xây dựng cái gì đó cứng rắn để đậy lối vào hang động, và vì sao không một ai tin ông về con quái vật chỉ có bóng thôi. Mọi người trong thị xã đều nghĩ rằng ông ta bị mất trí vì thấy vợ chết một cách hãi hùng, cũng vì vậy ông đã lẫn tránh những người chung quanh và xa lánh cả xã hội.
Nhưng ông ta lúc nào cũng quyết tâm điều tra xem "cái gì" ở trong hang. Ông nghiên cứu các sách vở trong thư viện của thị xã, xem tất cả các sách thời Trung Cổ, sách Thánh Kinh, kể cả những sách thần thoại, nhưng ông không tìm thấy được một chút gì diễn tả giống như ông đã nhìn thấy và kinh nghiệm được. Cho đến một ngày mùa đông, vài tháng sau khi ông ta nghe có người gõ cửa đó là lúc ông tìm được câu trả lời. Nhật ký của ông ghi lại rằng một người Mỹ da đỏ địa phương, có cha mẹ đã ở lại đó khi bộ lạc Arapaho bị đuổi để đến vùng đất dành riêng cho người da đỏ, tại Oklahoma đã nghe được câu chuyện của ông.
Ông này đã xác nhận và biết về nguồn gốc của con quái vật; đó là một truyền thuyết được truyền từ đời này sang đời khác trong lạc bộ của ông ta, và họ đã sống chung quanh trên vùng đất này cả ngàn năm. Họ gọi con quái vật đó là Grosslor, nghĩa là con ăn linh hồn: con quái vật này có năng lực phi thường, nó nằm lì dưới hang qua nhiều thập niên và nó chỉ ra ngoài để ăn thịt hay linh hồn của con người, sau đó lại trở về một giấc ngủ dài. Những người gọi là Shamans, đã giữ bùa và những câu thần chú trong một thời gian khá lâu, để kiềm chế con ăn linh hồn trong sự kiểm soát và giới hạn năng lực của nó, bắt nó phải ngưng hoạt động hàng trăm năm.
Không may việc dời đi của bộ lạc Arapaho, đã làm con quái vật ấy lấy lại lực lượng và nó bị đánh thức bởi đứa con gái của ông và người bạn khi chui vào hang động. Với sự hiểu biết trong tay ông đi đến tiểu bang Oklahoma, hy vọng có thể bàn thảo với những người vẫn còn biết bùa chú để kiềm chế con quái vật. Khi đến Oklahoma ông được một người đàn ông tên là Hache hi, là một người không những có thể thuật lại từng chi tiết về con ăn linh hồn, mà còn biết được những câu thần chú đã truyền xuống từ ông nội của ông ta. Hiển nhiên, người dùng những bùa phép này sẽ bị trói buộc với con quái vật trong một phương pháp được sắp đặt sẵn, cho dù đến chết cả hai vẫn không ngừng vật lộn và chống chọi nhau.
Linh hồn của người dùng bùa phép sẽ tồn tại sau khi chết để chế ngự con quái vật, và sợi dây đời sống của người Shamans sẽ tiếp tục nếu cần thiết để giữ cho linh hồn sống động trên cõi giới hiện hữu này; vì không có sự duy trì thì linh hồn sẽ từ từ tan biến và qua bên cõi giới khác, lúc đó không còn gì tồn tại để kiềm chế con ăn linh hồn. Gia đình của ông đã đi về bên kia thế giới, ở trong vùng lại không có ai tin câu chuyện ông kể, vì vậy ông quyết định rời bỏ căn nhà đã một lần cùng vợ con sinh sống hạnh phúc để một mình đi vào rừng và dựng lên một căn chòi thô sơ gần cửa hang của con quái vật.
Ông sinh sống ở đó và thường xuyên làm bùa phép đọc thần chú, và ngăn ngừa những người muốn vào hang động. Ông ta quyết tâm dành hết cuộc đời của mình để bảo vệ khu vực này không cho con quái vật lộng hành nữa. Vì không có ai tiếp nối coi chừng sau khi ông lìa đời, nên ông đã khắc những dấu hiệu bùa chú trên tấm gỗ đậy hang, và trên vách tường sau căn chòi đối diện cửa hang, ông hy vọng rằng nó sẽ giúp giữ linh hồn ông lại sau khi chết cũng như có thể kiềm chế con quái vật trong ngục tù của nó.
Mặc dù tôi và Paul đã phá vỡ tấm ván gỗ đậy hang và bùa phép đã khắc trên đó, nhưng vẫn còn đủ năng lực để ông trở lại cõi giới hiện hữu này để kiềm chế con quái vật một lần nữa, sau đó những dấu hiệu bùa phép lại hiện lên tươi mới và rõ ràng hơn...Sau khi đọc nhật ký và hiểu rõ nguồn gốc của những sự việc đã xảy ra, tôi và Paul cảm thấy rất an toàn khi trở lại nơi đây để thám hiểm thêm, và chúng tôi đã tìm thấy cách căn chòi không xa, có hai tấm bia đá không tên, có lẽ đó là hai tấm bia đá để kỷ niệm vợ và con gái ông, nằm trên khu đất mà chúng tôi nghĩ rằng đó là căn nhà hạnh phúc, mà ông già đã ở giờ đây chỉ còn trơ trọi lại mấy cái chân nền.
Chúng tôi không bao giờ kể chuyện này cho người khác nghe, vì ai mà tin chúng tôi chứ? Cho đến ngày hôm nay tôi vẫn có nhiều nghi vấn chưa được giải đáp. Thí dụ như là con vật đó từ đâu đến? Nó là một con quái vật thiên nhiên của địa cầu, một con ác quỷ, một người ngoại tinh hay là một con quái vật thời tiền sử? Tại sao con quái vật kia không giết chúng tôi khi chúng tôi bị kẹt ở trong hang... có thể nó không đủ năng lực chăng? Điều kỳ lạ làm tôi đau đầu nhất là tiếng nói của đứa con gái. Có lẽ đó là hồn ma của cô gái con ông già?
Tôi biết rằng trên Địa Cầu này vẫn còn nhiều thứ để cho chúng ta khám phá và tìm hiểu. Có phải thể xác thì vô thường còn linh hồn mới là trường tồn không?
Jeff Gibbs USA
#194
Gửi vào 21/07/2011 - 07:33
VÀI ĐỊA ĐIỂM CÓ MA BÍ ẨN Ở SÀI GÒN
Nơi đầu tiên tôi nói đến là nghe những lời kể của một số người làm trong khu này là khách sạn công đoàn, ngoài Thanh Đa quận Bình Thạnh và khi tôi mới xuống thi Đại Học vào năm 2001, cũng ở chính trong khu dãy nhà này nhìn cũ kỹ hoang tàn lắm dù phía trước có cả một Hotel mới xây, nhưng phía trong chổ chúng tôi ở thì hoàn toàn trái ngược. Dãy nhà xây trước năm 1975, căn nào cũng cũ kỹ nên bọn chúng tôi chọn ngay một căn lầu một đối diện sân Tenis, phía trước gần ngay cửa sổ phòng khách là những tán lá cây của cây Lekima.
Vì cả đám mới xuống Thành Phố nên chưa rành rọt đi thuê phòng mà đi theo sự hướng dẫn và sắp đặt của Mẹ thằng bạn trong đám của chúng tôi, vì Mẹ nó đi xuống học Đại Học tại chức. Căn nhà quá cũ, nó gồm có ba phòng ngũ và một phòng khách, bọn chúng tôi có bốn người nhưng thằng bạn tôi nó ở chung phòng với Mẹ nó rồi, nên còn lại là ba thằng tôi ngủ một phòng và một phòng thì bỏ trống. Đứa nào cũng mới xuống và đi học nên sáng rạng mắt ra thì đi học, có khi chiều mới về mà thôi vì xa quá xa nơi tụi tôi đi học, mà có về thì cũng không dám lên phòng một mình nữa, hic! vì sự ẩm ướt lành lạnh rùng rợn của khu dãy nhà đó, phía trước mở cửa sổ ra thì thoáng mát quang đãng nhìn khách vào chơi Tenis.
Nhưng phía sau thì đối diện với một khu nhà khác, cũ kỹ và hoang vắng không ai ở cả nên ít khi nào tụi tôi mở cửa sổ ra, sự việc đối với bọn tôi thì cũng bình thường, vẫn tiếp tục diễn ra hàng ngày đi học rồi về. Tuy nhiên có người đã chứng kiến và gặp điều không bình thường liên tục, đó là Mẹ thằng bạn chúng tôi dù chỉ ở mới có hơn một tháng, tôi thì ở nơi này đúng ba tháng. Chúng tôi hay gọi Mẹ nó là cô Út, nên cho tôi thay tên từ người kể. Cô Út lúc đầu không nói gì nhưng vẻ mặt của cô hàng ngày không còn vui như bình thường khi chúng tôi xuống ở chung, làm cho chúng nghi ngại không biết có phải chúng tôi ăn ở không vừa lòng hay là chúng tôi làm gì đó mích lòng cô?
Nên chúng tôi mới gặng hỏi thằng bạn tôi là sao cứ thấy Mẹ mày không còn vui như mới khi xuống ở vậy? Và tụi tôi nhờ nó ráng hỏi thử xem là có vấn đề gì, nhưng cuối cùng cô Út cũng không nói gì hết, và cho mãi đến gần tháng thứ ba là khi tôi chuẩn bị dọn đi, thì cô Út mới kể ra những điều lạ lùng mà cô Út đã chứng kiến cho cả bọn tôi nghe, sự thể như sau: Cô Út kể với vẻ mặt nghiêm trọng nên chúng tôi im lặng nghe lời kể của cô. Cô Út nói khi cả nhà dọn vào ở khoảng một tuần thì Cô bắt đầu gặp những điều bí ẩn. Cô nói bọn tôi đi học cả ngày còn Cô thì học sát bên, nên hay về nhà nghĩ ngơi buổi trưa, vì thế liên tiếp Cô thấy những điều kỳ dị.
Khi đang nằm ngủ thì thấy một người đàn ông đi từ cây Lekima đi thẳng qua lan can và vào phòng Cô, đây là lầu một mà đi kiểu này là bay rồi hic! Ông ta vào và cố giữ chặt tay cô và ghìm xuống, cô càng chống cự lại thì càng bị nặng hơn giống như một sức mạnh vô hình vậy. Cô nói mồ hôi cô đổ ra giống như là mới tập thể dục xong vậy đó và sự việc kết thúc khi vô tình thằng bạn tôi về đi ăn cơm chung với cô Út, sự việc liên tục xảy ra đối với cô Út dù vậy Cô không dám nói với bọn tôi vì sợ chúng tôi lo lắng, Cô kể thêm không những ban ngày cứ mỗi lần ngã lưng ra nghĩ là bị, mà cả ban đêm có chúng tôi ở nhà cũng thế.
Hèn chi chúng tôi thấy Cô nói chú Bảo vệ cho bẻ nhánh xương rồng về treo trước cửa phòng, là tôi đã nghi rồi nhưng tôi không dám hỏi thêm gì, vì tôi cũng đã biết chuyện thường nhà nào treo xương rồng là để khắc ma quỷ đến quấy phá. Cô nói thêm có lần ngồi ăn cơm chung với chúng tôi lúc đó mới chỉ sáu giờ chiều hơn, chúng tôi ngồi xoay lưng vào trong, còn cô thì ngồi đối diện với cửa sổ có nhánh Lekima đưa vào lan can, Cô thấy một bóng người đen thui đi từ nhánh cây đó vào thẳng lan can và rẽ vào phòng Cô.
Cô kinh hoảng mà không dám la lên nên bọn tôi không biết, giờ Cô kể tụi tôi mới biết. Cô đã chứng kiến những điều khác thường đó nhiều đến nổi có lần Cô đã đổ bệnh, chúng tôi cứ nghĩ Cô bị bệnh cảm thường, hèn chi thỉnh thoảng một vài đêm khi chúng tôi ngủ, nghe tiếng gõ cửa phòng nhưng không ai lên tiếng mà chỉ nghe tiếng gõ cửa khô khốc thôi. Thường bọn tôi ngủ là thằng nào cũng làm biếng cả, nếu mấy chú Bảo Vệ có lên tìm việc gì đó, thì mấy chú sẽ lên tiếng, hoặc bạn bè có đến ngủ ké thì tụi nó cũng la ầm ầm, với lại đối diện phòng tôi ở chỉ có một gia đình thường chẳng có nói hay giao tiếp gì với nhau, trên lầu toàn nhà trống không, do đó giờ tụi tôi mới biết căn nhà chúng tôi ở đã bị ma phá.
Dù có treo nhánh xương rồng trước nhà nhưng hồn ma này không theo lối đó hiện về, mà theo hướng từ cây Lekima ngay lan can lầu một của phòng cô Út, nên cô Út đã chứng kiến và thấy hết. Khi biết hết tất cả và do điều kiện đi học khác nhau địa điểm không tiện, nên chúng tôi phải chia ra ở chứ không ở chung nữa, trước khi đi chúng tôi ghé phòng Bảo Vệ chào và kể cho mấy người ở đó nghe, thì thấy mấy ổng bình thường và im re, nhưng có chú kia lên tiếng nói:
- Tụi bây chưa gặp đó chứ tao thì thấy hoài à! tao hay thấy hồn ma đó lãng vãng khu cầu thang và ngay cây Lekima, chính căn nhà tụi bây ở đó.
Tụi tôi nghe xong điếng luôn vì có những đêm tôi đi chơi về khuya và lên phòng thì đi ngang cây Lekima và lên cầu thang đó mới ghê chứ, ổng còn nói thêm hồn ma đó chính là người coi và quản lý các khâu xây dựng trong tất cả các khu nhà đó. Hôm đó không biết ổng lên lầu đứng coi công nhân xây dựng thế nào mà trợt chân té xuống đất chết ngay tại chổ, nên giờ đây ổng hay hiện về đi loanh quanh tất cả khu nhà giống như người ta đi kiểm tra vậy đó. Thế mà chúng tôi ở ngay chổ đó, mà trong phòng không bao giờ thắp được cây nhang, nên ổng cứ vào phá hoài.
Đây là một câu chuyện hoàn toàn có thật không thêm không bớt bất cứ điều gì, là người trong cuộc và cũng chính ở nơi này trong thời ngắn, những điều xảy ra thật là huyền bí, với tôi những gì mà tôi đã nghe và chứng kiến đều thuộc về Tâm Linh.
Nơi kế tiếp cũng qua lời kể của mọi người đó là: Trong khu Bắc Hải có căn nhà nhỏ nhưng vẫn sống bình thường dưới lầu, còn nguyên căn lầu trên thì không ai có thể sống được. Chủ nhà đã nhiều lần cho sinh viên thuê ở trọ nhưng không người nào ở quá một ngày một đêm, cho đến thời điểm đó vẫn không ai dám mướn và chủ nhà vẫn sinh hoạt bình thường dưới nhà, còn căn lầu trên coi như dành cho người cõi âm.
Mọi người chung quanh nói lầu trên có cô gái trẻ treo cổ tự tử nhưng vong hồn không được siêu thoát nên ở luôn trong đó, nghe mà hãi quá. Lúc trước tôi có sống tại 81 CT Cư Xá Bẳc Hải và trong nhà tôi có ma thật đó. Hiện tại nhà này hai bác tôi ở và cho sinh viên thuê ở nhà sau. Lúc đó tôi còn nhỏ và có thấy bóng người đi trong nhà nhiều lần lắm, trong nhà tôi có một người anh hay bị ma đè. Có lần bốn người đánh không lại anh ta. Tôi qua Mỹ hai mươi năm rồi, năm 1999 hai bác tôi đưa anh tôi đi lên chùa trên Đồng Nai để trừ ma. Năm 2000 tôi có về Việt Nam và thấy anh tôi hết bệnh nhưng trong nhà vẫn còn khí ma.
anhnokia
Nơi đầu tiên tôi nói đến là nghe những lời kể của một số người làm trong khu này là khách sạn công đoàn, ngoài Thanh Đa quận Bình Thạnh và khi tôi mới xuống thi Đại Học vào năm 2001, cũng ở chính trong khu dãy nhà này nhìn cũ kỹ hoang tàn lắm dù phía trước có cả một Hotel mới xây, nhưng phía trong chổ chúng tôi ở thì hoàn toàn trái ngược. Dãy nhà xây trước năm 1975, căn nào cũng cũ kỹ nên bọn chúng tôi chọn ngay một căn lầu một đối diện sân Tenis, phía trước gần ngay cửa sổ phòng khách là những tán lá cây của cây Lekima.
Vì cả đám mới xuống Thành Phố nên chưa rành rọt đi thuê phòng mà đi theo sự hướng dẫn và sắp đặt của Mẹ thằng bạn trong đám của chúng tôi, vì Mẹ nó đi xuống học Đại Học tại chức. Căn nhà quá cũ, nó gồm có ba phòng ngũ và một phòng khách, bọn chúng tôi có bốn người nhưng thằng bạn tôi nó ở chung phòng với Mẹ nó rồi, nên còn lại là ba thằng tôi ngủ một phòng và một phòng thì bỏ trống. Đứa nào cũng mới xuống và đi học nên sáng rạng mắt ra thì đi học, có khi chiều mới về mà thôi vì xa quá xa nơi tụi tôi đi học, mà có về thì cũng không dám lên phòng một mình nữa, hic! vì sự ẩm ướt lành lạnh rùng rợn của khu dãy nhà đó, phía trước mở cửa sổ ra thì thoáng mát quang đãng nhìn khách vào chơi Tenis.
Nhưng phía sau thì đối diện với một khu nhà khác, cũ kỹ và hoang vắng không ai ở cả nên ít khi nào tụi tôi mở cửa sổ ra, sự việc đối với bọn tôi thì cũng bình thường, vẫn tiếp tục diễn ra hàng ngày đi học rồi về. Tuy nhiên có người đã chứng kiến và gặp điều không bình thường liên tục, đó là Mẹ thằng bạn chúng tôi dù chỉ ở mới có hơn một tháng, tôi thì ở nơi này đúng ba tháng. Chúng tôi hay gọi Mẹ nó là cô Út, nên cho tôi thay tên từ người kể. Cô Út lúc đầu không nói gì nhưng vẻ mặt của cô hàng ngày không còn vui như bình thường khi chúng tôi xuống ở chung, làm cho chúng nghi ngại không biết có phải chúng tôi ăn ở không vừa lòng hay là chúng tôi làm gì đó mích lòng cô?
Nên chúng tôi mới gặng hỏi thằng bạn tôi là sao cứ thấy Mẹ mày không còn vui như mới khi xuống ở vậy? Và tụi tôi nhờ nó ráng hỏi thử xem là có vấn đề gì, nhưng cuối cùng cô Út cũng không nói gì hết, và cho mãi đến gần tháng thứ ba là khi tôi chuẩn bị dọn đi, thì cô Út mới kể ra những điều lạ lùng mà cô Út đã chứng kiến cho cả bọn tôi nghe, sự thể như sau: Cô Út kể với vẻ mặt nghiêm trọng nên chúng tôi im lặng nghe lời kể của cô. Cô Út nói khi cả nhà dọn vào ở khoảng một tuần thì Cô bắt đầu gặp những điều bí ẩn. Cô nói bọn tôi đi học cả ngày còn Cô thì học sát bên, nên hay về nhà nghĩ ngơi buổi trưa, vì thế liên tiếp Cô thấy những điều kỳ dị.
Khi đang nằm ngủ thì thấy một người đàn ông đi từ cây Lekima đi thẳng qua lan can và vào phòng Cô, đây là lầu một mà đi kiểu này là bay rồi hic! Ông ta vào và cố giữ chặt tay cô và ghìm xuống, cô càng chống cự lại thì càng bị nặng hơn giống như một sức mạnh vô hình vậy. Cô nói mồ hôi cô đổ ra giống như là mới tập thể dục xong vậy đó và sự việc kết thúc khi vô tình thằng bạn tôi về đi ăn cơm chung với cô Út, sự việc liên tục xảy ra đối với cô Út dù vậy Cô không dám nói với bọn tôi vì sợ chúng tôi lo lắng, Cô kể thêm không những ban ngày cứ mỗi lần ngã lưng ra nghĩ là bị, mà cả ban đêm có chúng tôi ở nhà cũng thế.
Hèn chi chúng tôi thấy Cô nói chú Bảo vệ cho bẻ nhánh xương rồng về treo trước cửa phòng, là tôi đã nghi rồi nhưng tôi không dám hỏi thêm gì, vì tôi cũng đã biết chuyện thường nhà nào treo xương rồng là để khắc ma quỷ đến quấy phá. Cô nói thêm có lần ngồi ăn cơm chung với chúng tôi lúc đó mới chỉ sáu giờ chiều hơn, chúng tôi ngồi xoay lưng vào trong, còn cô thì ngồi đối diện với cửa sổ có nhánh Lekima đưa vào lan can, Cô thấy một bóng người đen thui đi từ nhánh cây đó vào thẳng lan can và rẽ vào phòng Cô.
Cô kinh hoảng mà không dám la lên nên bọn tôi không biết, giờ Cô kể tụi tôi mới biết. Cô đã chứng kiến những điều khác thường đó nhiều đến nổi có lần Cô đã đổ bệnh, chúng tôi cứ nghĩ Cô bị bệnh cảm thường, hèn chi thỉnh thoảng một vài đêm khi chúng tôi ngủ, nghe tiếng gõ cửa phòng nhưng không ai lên tiếng mà chỉ nghe tiếng gõ cửa khô khốc thôi. Thường bọn tôi ngủ là thằng nào cũng làm biếng cả, nếu mấy chú Bảo Vệ có lên tìm việc gì đó, thì mấy chú sẽ lên tiếng, hoặc bạn bè có đến ngủ ké thì tụi nó cũng la ầm ầm, với lại đối diện phòng tôi ở chỉ có một gia đình thường chẳng có nói hay giao tiếp gì với nhau, trên lầu toàn nhà trống không, do đó giờ tụi tôi mới biết căn nhà chúng tôi ở đã bị ma phá.
Dù có treo nhánh xương rồng trước nhà nhưng hồn ma này không theo lối đó hiện về, mà theo hướng từ cây Lekima ngay lan can lầu một của phòng cô Út, nên cô Út đã chứng kiến và thấy hết. Khi biết hết tất cả và do điều kiện đi học khác nhau địa điểm không tiện, nên chúng tôi phải chia ra ở chứ không ở chung nữa, trước khi đi chúng tôi ghé phòng Bảo Vệ chào và kể cho mấy người ở đó nghe, thì thấy mấy ổng bình thường và im re, nhưng có chú kia lên tiếng nói:
- Tụi bây chưa gặp đó chứ tao thì thấy hoài à! tao hay thấy hồn ma đó lãng vãng khu cầu thang và ngay cây Lekima, chính căn nhà tụi bây ở đó.
Tụi tôi nghe xong điếng luôn vì có những đêm tôi đi chơi về khuya và lên phòng thì đi ngang cây Lekima và lên cầu thang đó mới ghê chứ, ổng còn nói thêm hồn ma đó chính là người coi và quản lý các khâu xây dựng trong tất cả các khu nhà đó. Hôm đó không biết ổng lên lầu đứng coi công nhân xây dựng thế nào mà trợt chân té xuống đất chết ngay tại chổ, nên giờ đây ổng hay hiện về đi loanh quanh tất cả khu nhà giống như người ta đi kiểm tra vậy đó. Thế mà chúng tôi ở ngay chổ đó, mà trong phòng không bao giờ thắp được cây nhang, nên ổng cứ vào phá hoài.
Đây là một câu chuyện hoàn toàn có thật không thêm không bớt bất cứ điều gì, là người trong cuộc và cũng chính ở nơi này trong thời ngắn, những điều xảy ra thật là huyền bí, với tôi những gì mà tôi đã nghe và chứng kiến đều thuộc về Tâm Linh.
Nơi kế tiếp cũng qua lời kể của mọi người đó là: Trong khu Bắc Hải có căn nhà nhỏ nhưng vẫn sống bình thường dưới lầu, còn nguyên căn lầu trên thì không ai có thể sống được. Chủ nhà đã nhiều lần cho sinh viên thuê ở trọ nhưng không người nào ở quá một ngày một đêm, cho đến thời điểm đó vẫn không ai dám mướn và chủ nhà vẫn sinh hoạt bình thường dưới nhà, còn căn lầu trên coi như dành cho người cõi âm.
Mọi người chung quanh nói lầu trên có cô gái trẻ treo cổ tự tử nhưng vong hồn không được siêu thoát nên ở luôn trong đó, nghe mà hãi quá. Lúc trước tôi có sống tại 81 CT Cư Xá Bẳc Hải và trong nhà tôi có ma thật đó. Hiện tại nhà này hai bác tôi ở và cho sinh viên thuê ở nhà sau. Lúc đó tôi còn nhỏ và có thấy bóng người đi trong nhà nhiều lần lắm, trong nhà tôi có một người anh hay bị ma đè. Có lần bốn người đánh không lại anh ta. Tôi qua Mỹ hai mươi năm rồi, năm 1999 hai bác tôi đưa anh tôi đi lên chùa trên Đồng Nai để trừ ma. Năm 2000 tôi có về Việt Nam và thấy anh tôi hết bệnh nhưng trong nhà vẫn còn khí ma.
anhnokia
#195
Gửi vào 21/07/2011 - 07:58
NGÔI MỘ ĐỨNG TRONG CĂN NHÀ HOANG
Câu chuyện của tôi bắt đầu cách đây khoảng hai mươi năm, khi đó tôi được khoảng năm, sáu tuổi. Xóm tôi sống nằm gần chợ Hòa Hưng, tại đó có một ngôi nhà xưa cũ cách nhà tôi ba căn. Ngôi nhà hình như được xây dựng cách đây mấy chục năm, ông chủ nhà cũng đã chết khi tôi còn ẳm ngửa. Đó là vào khoảng năm 1983, căn nhà bỏ hoang lâu lâu vợ con ông ấy cũng có về quét dọn chứ họ không ở vì đã có căn nhà khác.
Chuyện sẽ không có gì đáng nói nếu như ở cái sân trước nhà ấy, được xây bằng những cột bê tông cách nhau hơn một mét, nối nhau bằng mấy ống nhựa tròn nhìn như cầu thang. Cái sân ấy khoảng tám mét vuông, có một ngôi mộ mà là mộ đứng. Nghĩa là người chết không được chôn sâu xuống ba tấc đất như bình thường, quan tài dựng đứng rồi xây mộ nhìn như cây bút chì thật to vậy.
Ngôi mộ này có từ thời Pháp thuộc, người chôn trong đó tôi được nghe kể là lính chết trận. Ngày đó bọn trẻ con xóm tôi chiều chiều hay ra bên hông nhà ấy để chơi, cũng có khi buổi trưa nắng, có đám còn vào tận sân nhà ấy để chơi nhà chòi. Tôi lúc ấy thằng nhóc sáu tuổi, cũng cảm thấy ngôi mộ ấy bình thường thôi. Nhưng buổi tối nọ khoảng tám giờ tối, khi người nhà sai đi mua nước đá về uống, lúc về ngang qua nhà ấy tôi đi gần lại, cạ cánh tay phải lên những thanh nhựa nằm ngang ấy cho mát tay. Đến khi sắp rút tay ra thì hỡi ôi...Tôi không tài nào rút tay mình ra được!
Lúc ấy tôi thoáng nghĩ tay mình đâu có bị kẹt, làm sao mà lại cứng đớ thế này? Nhưng khi định thần lại thì tôi cảm thấy rằng cổ tay đang bị nắm chặt lại, rất chặt. Nhưng nhìn chẳng thấy bàn tay nào nắm cả? Hiểu rằng bị “người” nắm, theo quán tính tôi ngước nhìn lên thì bắt găp..một khuôn mặt đang nhìn tôi chăm chăm rất dữ tợn. Dù dùng hết sức nhưng vẫn không thể nào đẫy ra được, tôi la lớn gọi bố, thì mẹ tôi trong nhà kêu: ”Ơi!” một tiếng.
Tức thì không còn bị nắm nữa, khiến tôi mất thăng bằng ngả ngửa ra, cục nước đá trong ca rớt ra ngoài luôn. Lồm cồm ngồi dậy cầm cục nước đá chạy nhanh về nhà. Căn nhà đó sau này đã đổi chủ xây thành ngôi nhà bề thế, còn cái mộ đứng chắc cũng đã được cải táng rồi. Còn khuôn mặt mà tôi vẫn nhớ đến tận bây giờ, các bạn hãy tưởng tượng như khi đem cái hộp sọ người chụp hình, rồi bạn cầm phim đen lên xem...Vâng, tôi thấy như thế đấy các bạn ạ.
Người ta có câu: "Trăm nghe không bằng một thấy".
Đây là câu chuyện của chính tôi, từ ngày đó tôi tin chết không phải là hết!
ST
Câu chuyện của tôi bắt đầu cách đây khoảng hai mươi năm, khi đó tôi được khoảng năm, sáu tuổi. Xóm tôi sống nằm gần chợ Hòa Hưng, tại đó có một ngôi nhà xưa cũ cách nhà tôi ba căn. Ngôi nhà hình như được xây dựng cách đây mấy chục năm, ông chủ nhà cũng đã chết khi tôi còn ẳm ngửa. Đó là vào khoảng năm 1983, căn nhà bỏ hoang lâu lâu vợ con ông ấy cũng có về quét dọn chứ họ không ở vì đã có căn nhà khác.
Chuyện sẽ không có gì đáng nói nếu như ở cái sân trước nhà ấy, được xây bằng những cột bê tông cách nhau hơn một mét, nối nhau bằng mấy ống nhựa tròn nhìn như cầu thang. Cái sân ấy khoảng tám mét vuông, có một ngôi mộ mà là mộ đứng. Nghĩa là người chết không được chôn sâu xuống ba tấc đất như bình thường, quan tài dựng đứng rồi xây mộ nhìn như cây bút chì thật to vậy.
Ngôi mộ này có từ thời Pháp thuộc, người chôn trong đó tôi được nghe kể là lính chết trận. Ngày đó bọn trẻ con xóm tôi chiều chiều hay ra bên hông nhà ấy để chơi, cũng có khi buổi trưa nắng, có đám còn vào tận sân nhà ấy để chơi nhà chòi. Tôi lúc ấy thằng nhóc sáu tuổi, cũng cảm thấy ngôi mộ ấy bình thường thôi. Nhưng buổi tối nọ khoảng tám giờ tối, khi người nhà sai đi mua nước đá về uống, lúc về ngang qua nhà ấy tôi đi gần lại, cạ cánh tay phải lên những thanh nhựa nằm ngang ấy cho mát tay. Đến khi sắp rút tay ra thì hỡi ôi...Tôi không tài nào rút tay mình ra được!
Lúc ấy tôi thoáng nghĩ tay mình đâu có bị kẹt, làm sao mà lại cứng đớ thế này? Nhưng khi định thần lại thì tôi cảm thấy rằng cổ tay đang bị nắm chặt lại, rất chặt. Nhưng nhìn chẳng thấy bàn tay nào nắm cả? Hiểu rằng bị “người” nắm, theo quán tính tôi ngước nhìn lên thì bắt găp..một khuôn mặt đang nhìn tôi chăm chăm rất dữ tợn. Dù dùng hết sức nhưng vẫn không thể nào đẫy ra được, tôi la lớn gọi bố, thì mẹ tôi trong nhà kêu: ”Ơi!” một tiếng.
Tức thì không còn bị nắm nữa, khiến tôi mất thăng bằng ngả ngửa ra, cục nước đá trong ca rớt ra ngoài luôn. Lồm cồm ngồi dậy cầm cục nước đá chạy nhanh về nhà. Căn nhà đó sau này đã đổi chủ xây thành ngôi nhà bề thế, còn cái mộ đứng chắc cũng đã được cải táng rồi. Còn khuôn mặt mà tôi vẫn nhớ đến tận bây giờ, các bạn hãy tưởng tượng như khi đem cái hộp sọ người chụp hình, rồi bạn cầm phim đen lên xem...Vâng, tôi thấy như thế đấy các bạn ạ.
Người ta có câu: "Trăm nghe không bằng một thấy".
Đây là câu chuyện của chính tôi, từ ngày đó tôi tin chết không phải là hết!
ST
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
||
Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
|
|
Xem Tử Vi - huyền "Học" - vọc phương pháp |
Gặp Gỡ - Giao Lưu | Vung |
|
|
|
Suy nghĩ với hỗn hợp nhiều môn huyền học cho lá số VNXHCN |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Huyền Cơ Phú - 玄機賦 - Ode to Mysticism - Huyền Không Tứ Bộ |
Địa Lý Phong Thủy | QuanLySo |
|
||
Kho ebook 1000 cuốn sách huyền học pdf |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | QuanLySo |
|
22 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 22 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |