1
Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#211
Gửi vào 29/07/2011 - 03:08
NHÀ NGOẠI CẢM NGUYỄN THỊ NGUYỆN
Ngoại cảm là một khả năng đặc biệt của con người. Người có khả năng ngoại cảm không sử dụng những giác quan bình thường, mà là khả năng cảm nhận bằng giác quan thứ sáu rõ ràng và liên tục hơn những người thường như khả năng nói chuyện với người chết, khả năng theo dõi con người, tiên đoán tương lai, biết được quá khứ của một thực thể nào đó. Theo phân loại của Wikipedia Tiếng Việt, nguyên nhân, nguồn cơn của ngoại cảm chia thành ba dạng: Ngoại cảm bẩm sinh (tức là sinh ra đã có khả năng ngoại cảm); Ngoại cảm hình thành sau khi phải trải qua một biến cố ngoại cảnh: chấn thương, bệnh tật.. Ngoại cảm có do rèn luyện theo những phương pháp đặc biệt.
Báo chí rất ít khi nhắc đến nguồn cơn bà Nguyễn Thị Nguyện, nhà 12, ngách 45, ngõ 6, đường Phương Mai, Đống Đa Hà Nội, trở thành nhà ngoại cảm như thế nào. Tuy nhiên, bà Nguyện được ông Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc UIA đảm bảo về chất lượng với khả năng tìm mộ chính xác đến 70%, Báo có đăng tải một bài viết về quá trình tìm mộ tận bên kia biên giới của bà Nguyễn Thị Nguyện. Theo đó gia đình ông Tập là người Việt Nam, nhưng họ đã có thời gian sống ở Mông Tự, Vân Nam Trung Quốc. Lúc bà Tập mất, ông Tập chôn cất vợ nơi đất khách quê người và đưa các con trở về cố hương làm ăn sinh sống. Đến năm 1945 ông Tập mất.
Tháng 7-2000 các con ông Tập là bà Khánh và ông Niên đến nhờ bà Nguyện tìm mộ giúp. Sau khi nghe kể lại một vài chi tiết về nơi chôn cất của bà Tập ở Mông Tự, Vân Nam, bà Nguyện bắt đầu vẽ sơ đồ. Sau nhiều ngày ở Vân Nam, cầm cuốn băng ghi âm có những lời hướng dẫn tỉ mỉ của bà Nguyện, gia đình bà Khánh đã tìm được mộ của mẹ và xây mới khang trang. Như vậy sau nhiều năm day dứt, các con của ông Tập cũng đã tìm lại được ngôi mộ của mẹ mình nhờ vào khả năng ngoại cảm của bà Nguyện. Câu chuyện bà Nguyễn Thị Nguyện nhờ khả năng ngoại cảm đã tìm được chính xác cả người sống thất lạc gia đình gần sáu mươi năm do báo của Liên hiệp khoa học công nghệ Tin học ứng dụng (UIA) đăng tải, đã khiến dư luận cả nước xôn xao trong suốt một thời gian dài.
Theo đó ông Vũ Đức Thật, sáu mươi lăm tuổi, trú tại Trung Thịnh, Trường Thịnh, Ứng Hoà Hà Tây, đã bày tỏ nỗi xúc động của mình khi tìm lại được người em trai mất tích từ năm 1945 mà gia đình ông tưởng không bao giờ còn được gặp lại. Ông Thật kể, năm Ất Dậu 1945, nạn đói đã cướp đi cha và hai người trong số năm anh chị em nhà ông. Ông Thật và người chị gái phải đi làm thuê, ở đợ mỗi người một phương. Ba tháng sau khi cha mất, trên đường đưa người em út đi tha phương cầu thực kiếm miếng ăn, mẹ ông qua đời và người em út khi đó khoảng bốn tuổi cũng mất tích luôn. Sau chiến tranh, qua nhiều năm tìm kiếm gia đình hầu như đã hết hy vọng.
Gặp được bà Nguyễn Thị Nguyện, ông Thật đã tỏ ý mong muốn bà tìm mộ người em út và mẹ mình để người sống được yên lòng. Tuy nhiên, bà Nguyện cho biết, người em trai của ông chưa chết: "Em trai ông hiện nay vẫn còn sống. Cô Nguyện nhắc lại từng lời rất rõ ràng. Năm 1945 đi cùng bà mẹ, khi bà chết có người đã bế đi theo hướng Cao Bằng, Lạng Sơn". ông Thật tâm sự. Bằng khả năng ngoại cảm của bà Nguyện, sau nhiều ngày dẫn lối chỉ đường ông Thật đã tìm được người em trai sau nhiều năm xa cách.
Linh hồn giả vẫn tìm thấy mộ thật. Vào năm 2007, phóng viên Bạch Ngân đã từng có một cuộc gặp gỡ vô cùng thú vị với bà Nguyễn Thị Nguyện để tận mục sở thị khả năng ngoại cảm của bà. Với vai trò là người thân đi tìm mộ của chú mình là Nguyễn Văn Bùi, sinh năm 1948 sau bốn mươi năm thất lạc. Sau nhiều ngày chờ đợi, chầu chực tại nhà bà Nguyện, cuối cùng phóng viên cũng gặp được bà. Với cách xưng hô mày tao kiểu chợ búa, bà Nguyện chỉ hỏi mỗi tên tuổi năm mất của người đã khuất, thế rồi bà tuôn ra một tràng dài mô tả hình dáng người chú mà phóng viên muốn tìm.
"Chú mày nếu như tả ngày xưa, thì về dáng chú mày là người cao, gầy, chứ không phải là mập mạp, mặt hơi quắt, nét đi hơi vội vã. Đấy là tả về chú. Chú mày thì nói là tài, một là biết ngâm thơ, hai là biết thổi sáo. Đấy là nói về chú. Nếu như nói thời kỳ trước kia của chú mày mất, là có một người bạn chôn cho và sau này có một người bạn báo lại là chú mày đã mất. Chú mày bấy giờ thì là người biết mọi việc về kinh tế chứ không phải là chú mày không biết. Nhưng chú mày có mắc một cái sai. Cho nên nói về ốm chết thì không đúng, chú mày hoàn toàn không bị ốm chết. Nhưng sau này, người ta nói là ốm chết vì không ai biết được tung tích của chú”. Bà Nguyện nói với phóng viên như thế.
Sau đó, với một loạt hướng dẫn, bà Nguyện đã chỉ cho phóng viên tới một ngôi mộ ở thật ở nghĩ trang Yên Kỳ, Ba Vì, Hà Tây cũ. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là phóng viên Bạch Ngân không có ông chú nào thất lạc tên Bùi cả. Cái tên đó là do phóng viên tự nghĩ ra. Phải chăng, nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện đã có một khả năng siêu phàm, không chỉ nói chuyện được với người chết trong cõi âm để tìm mộ, mà còn nói chuyện được với cả linh hồn chưa từng có trên đời và vẫn mang lại được cho những linh hồn giả đấy một bộ hài cốt thật.
Mẫn Chi
Ngoại cảm là một khả năng đặc biệt của con người. Người có khả năng ngoại cảm không sử dụng những giác quan bình thường, mà là khả năng cảm nhận bằng giác quan thứ sáu rõ ràng và liên tục hơn những người thường như khả năng nói chuyện với người chết, khả năng theo dõi con người, tiên đoán tương lai, biết được quá khứ của một thực thể nào đó. Theo phân loại của Wikipedia Tiếng Việt, nguyên nhân, nguồn cơn của ngoại cảm chia thành ba dạng: Ngoại cảm bẩm sinh (tức là sinh ra đã có khả năng ngoại cảm); Ngoại cảm hình thành sau khi phải trải qua một biến cố ngoại cảnh: chấn thương, bệnh tật.. Ngoại cảm có do rèn luyện theo những phương pháp đặc biệt.
Báo chí rất ít khi nhắc đến nguồn cơn bà Nguyễn Thị Nguyện, nhà 12, ngách 45, ngõ 6, đường Phương Mai, Đống Đa Hà Nội, trở thành nhà ngoại cảm như thế nào. Tuy nhiên, bà Nguyện được ông Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc UIA đảm bảo về chất lượng với khả năng tìm mộ chính xác đến 70%, Báo có đăng tải một bài viết về quá trình tìm mộ tận bên kia biên giới của bà Nguyễn Thị Nguyện. Theo đó gia đình ông Tập là người Việt Nam, nhưng họ đã có thời gian sống ở Mông Tự, Vân Nam Trung Quốc. Lúc bà Tập mất, ông Tập chôn cất vợ nơi đất khách quê người và đưa các con trở về cố hương làm ăn sinh sống. Đến năm 1945 ông Tập mất.
Tháng 7-2000 các con ông Tập là bà Khánh và ông Niên đến nhờ bà Nguyện tìm mộ giúp. Sau khi nghe kể lại một vài chi tiết về nơi chôn cất của bà Tập ở Mông Tự, Vân Nam, bà Nguyện bắt đầu vẽ sơ đồ. Sau nhiều ngày ở Vân Nam, cầm cuốn băng ghi âm có những lời hướng dẫn tỉ mỉ của bà Nguyện, gia đình bà Khánh đã tìm được mộ của mẹ và xây mới khang trang. Như vậy sau nhiều năm day dứt, các con của ông Tập cũng đã tìm lại được ngôi mộ của mẹ mình nhờ vào khả năng ngoại cảm của bà Nguyện. Câu chuyện bà Nguyễn Thị Nguyện nhờ khả năng ngoại cảm đã tìm được chính xác cả người sống thất lạc gia đình gần sáu mươi năm do báo của Liên hiệp khoa học công nghệ Tin học ứng dụng (UIA) đăng tải, đã khiến dư luận cả nước xôn xao trong suốt một thời gian dài.
Theo đó ông Vũ Đức Thật, sáu mươi lăm tuổi, trú tại Trung Thịnh, Trường Thịnh, Ứng Hoà Hà Tây, đã bày tỏ nỗi xúc động của mình khi tìm lại được người em trai mất tích từ năm 1945 mà gia đình ông tưởng không bao giờ còn được gặp lại. Ông Thật kể, năm Ất Dậu 1945, nạn đói đã cướp đi cha và hai người trong số năm anh chị em nhà ông. Ông Thật và người chị gái phải đi làm thuê, ở đợ mỗi người một phương. Ba tháng sau khi cha mất, trên đường đưa người em út đi tha phương cầu thực kiếm miếng ăn, mẹ ông qua đời và người em út khi đó khoảng bốn tuổi cũng mất tích luôn. Sau chiến tranh, qua nhiều năm tìm kiếm gia đình hầu như đã hết hy vọng.
Gặp được bà Nguyễn Thị Nguyện, ông Thật đã tỏ ý mong muốn bà tìm mộ người em út và mẹ mình để người sống được yên lòng. Tuy nhiên, bà Nguyện cho biết, người em trai của ông chưa chết: "Em trai ông hiện nay vẫn còn sống. Cô Nguyện nhắc lại từng lời rất rõ ràng. Năm 1945 đi cùng bà mẹ, khi bà chết có người đã bế đi theo hướng Cao Bằng, Lạng Sơn". ông Thật tâm sự. Bằng khả năng ngoại cảm của bà Nguyện, sau nhiều ngày dẫn lối chỉ đường ông Thật đã tìm được người em trai sau nhiều năm xa cách.
Linh hồn giả vẫn tìm thấy mộ thật. Vào năm 2007, phóng viên Bạch Ngân đã từng có một cuộc gặp gỡ vô cùng thú vị với bà Nguyễn Thị Nguyện để tận mục sở thị khả năng ngoại cảm của bà. Với vai trò là người thân đi tìm mộ của chú mình là Nguyễn Văn Bùi, sinh năm 1948 sau bốn mươi năm thất lạc. Sau nhiều ngày chờ đợi, chầu chực tại nhà bà Nguyện, cuối cùng phóng viên cũng gặp được bà. Với cách xưng hô mày tao kiểu chợ búa, bà Nguyện chỉ hỏi mỗi tên tuổi năm mất của người đã khuất, thế rồi bà tuôn ra một tràng dài mô tả hình dáng người chú mà phóng viên muốn tìm.
"Chú mày nếu như tả ngày xưa, thì về dáng chú mày là người cao, gầy, chứ không phải là mập mạp, mặt hơi quắt, nét đi hơi vội vã. Đấy là tả về chú. Chú mày thì nói là tài, một là biết ngâm thơ, hai là biết thổi sáo. Đấy là nói về chú. Nếu như nói thời kỳ trước kia của chú mày mất, là có một người bạn chôn cho và sau này có một người bạn báo lại là chú mày đã mất. Chú mày bấy giờ thì là người biết mọi việc về kinh tế chứ không phải là chú mày không biết. Nhưng chú mày có mắc một cái sai. Cho nên nói về ốm chết thì không đúng, chú mày hoàn toàn không bị ốm chết. Nhưng sau này, người ta nói là ốm chết vì không ai biết được tung tích của chú”. Bà Nguyện nói với phóng viên như thế.
Sau đó, với một loạt hướng dẫn, bà Nguyện đã chỉ cho phóng viên tới một ngôi mộ ở thật ở nghĩ trang Yên Kỳ, Ba Vì, Hà Tây cũ. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là phóng viên Bạch Ngân không có ông chú nào thất lạc tên Bùi cả. Cái tên đó là do phóng viên tự nghĩ ra. Phải chăng, nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện đã có một khả năng siêu phàm, không chỉ nói chuyện được với người chết trong cõi âm để tìm mộ, mà còn nói chuyện được với cả linh hồn chưa từng có trên đời và vẫn mang lại được cho những linh hồn giả đấy một bộ hài cốt thật.
Mẫn Chi
#212
Gửi vào 01/08/2011 - 21:04
VUA BÙA NGẢI XỨ MƯỜNG
Gia đình nào mâu thuẫn không hòa thuận đều tìm đến cụ. Gần sáu mươi năm nay cụ Hà Xuân Nhã, bảy mươi tám tuổi ở xóm Cá, thị trấn Tân Sơn, Phú Thọ, đã trở thành thầy "phù thủy" chuyên làm nèm (bùa ngải) để giúp cho mọi người yêu thương, gắn bó với nhau. Cụ Nhã bảo, đó là việc làm phúc, làm đức cho mọi người, khả năng đến đâu làm đến đó.
Hà hơi vào quần áo
Biết chúng tôi muốn đến để tìm hiểu về bùa ngải, cụ Nhã bảo:
- Tôi làm nèm giúp cho nhiều người dưới Hà Nội, Hà Tây, Hưng Yên lên đây. Từ bùa yêu, vợ chồng bỏ nhau, bùa giải quyết mâu thuẫn giữa các gia đình... tôi đều làm được hết. Con gái, con trai yêu nhau, định lấy nhau nhưng bị gia đình một bên không ưng thuận đến tôi làm cho cả hai gia đình đều gật đầu.
Cụ Nhã vẫn còn nhớ đôi vợ chồng Thảo và Ly ở Sơn Tây, Hà Nội. Hai người đã tâm đầu ý hợp nhưng bên gia đình nhà cô bé Ly cương quyết không đồng ý với lý do hai người không hợp tuổi nhau. Hai người tìm đến nhà cụ Nhã vừa mếu vừa khóc. Cụ bảo với Thảo đưa cho cụ chiếc áo của Ly, đồng thời đốt ba nén nhang, một đĩa trầu, ba lá xé thành sáu miếng và hai quả cau được đặt lên bàn thờ để khấn tổ tiên.
Cụ Nhã cho biết, lễ khấn tổ tiên cần trầu cau, xin phép hai người vợ lẽ của bố cụ (hai bà là sư phụ của cụ Nhã). Nếu sư phụ đồng ý mới cho làm. Đồng thời cụ gieo quẻ âm dương lên cái đĩa, nếu âm dương mà được làm nèm mới hiệu nghiệm.
Cụ Nhã cầm cả hai cái áo của cả hai người trên tay, miệng vừa lẩm bẩm vừa hà hơi lên toàn bộ chiếc áo, vừa đọc "thần chú". Hơn một tháng sau, vợ chồng Thảo lên cảm ơn cụ Nhã ríu rít, vì gia đình cô dâu đã đồng ý ngày tổ chức hôn lễ.
Hòa giải đánh nhau là khó nhất
Cụ Nhã khăng khăng khẳng định, nèm hòa giải là khó nhất, bởi mình không biết nguyên nhân vì đâu mà họ lại mâu thuẫn như thế. Làm được nhưng để hiệu nghiệm thì chưa cao bằng các loại nèm khác. Và thời gian để đảm bảo hiệu nghiệm cho loại nèm này thường ngắn.
Ở xóm Cá có gia đình anh Hà Văn Năm và anh Hà Văn Bình hay mâu thuẫn với nhau. Hai nhà sống sát vách nhau, nhưng rất hay cạnh khóe. Nếu gia đình bên nào có chó sổng xích sang đi vệ sinh, nhà bên kia sẵn sàng vác gậy đuổi đánh.
Thấy thế cụ Nhã liền ra tay để giúp cho hai gia đình được hòa thuận. Cụ nhờ người đến giếng nước nhà anh Năm múc một chén nước lã, mang về nhà mình đặt lên bàn thờ làm lễ. Sau đó, cụ nhờ người đó đổ chén nước đó vào giếng nước nhà anh Bình, vào thời điểm nào cũng được miễn là không được gia đình nào biết.
Cụ Nhã đặt tên cho chén nước đó là "chén nước thương nhau" để cho hai gia đình giải hòa với nhau. Cụ Nhã bảo, tính khí con người ta cũng xuất phát từ nguồn nước sinh sống mà ra cả. Nếu một bên sống có tình có lý, hòa hợp với bên kia rồi thì tự ắt hai bên sẽ tự hòa giải với nhau.
Thế rồi "chén nước nghĩa tình" của cụ Nhã cũng bắt đầu có hiệu nghiệm khi hai gia đình anh Năm và anh Bình từ chỗ không nhìn mặt nhau, chỉ hai tuần sau đã hỏi han nhau.
Không bao giờ làm điều xấu
Cụ Nhã bảo:
- Tôi đã học nèm từ năm hơn hai mươi tuổi. Nay gần tám mươi tuổi rồi nhưng chưa bao giờ tôi làm điều xấu cả. Trước khi tôi học làm nèm, hai sự phụ của tôi đồng thời là hai người mẹ kế có dặn dò: Tối kỵ làm điều xấu, nếu phạm vào các điều đó dần sẽ tự mất hiệu nghiệm.
Khi làm cho mọi người cụ không đỏi hỏi về mặt vật chất, chủ yếu là tấm lòng thành của họ. Người cân cam, gói kẹo đến làm lễ cũng xong. Làm nèm cho rất nhiều người nhưng cụ nhớ mãi một người phụ nữ ở Hà Nội biếu cụ bốn hộp sữa, hai cân đường và 200.000đ. Cụ Nhã bảo cụ đã chữa cho chồng cô gái khỏi "bệnh" ngoại tình. Đó là lần cụ được "lại quả" nhiều nhất.
Hiện chưa có khảo cứu khoa học nào về bùa ngải. Các nhà nghiên cứu cho rằng, những người đi xin bùa thường có ý thức giải quyết những vướng mắc của mình. Bùa chỉ giúp họ củng cố niềm tin để hòa giải với vợ (chồng) hay hàng xóm, hoặc quyết tâm hơn trong công việc mà thôi.
Do vậy, nên nhìn nhận bùa ngải dưới góc độ văn hóa dân gian với tư cách là một hiện tượng, tồn tại từ rất lâu trong đời sống của bà con dân tộc và loại trừ các quan điểm mê tín, dị đoan.
Đức Lợi
Gia đình nào mâu thuẫn không hòa thuận đều tìm đến cụ. Gần sáu mươi năm nay cụ Hà Xuân Nhã, bảy mươi tám tuổi ở xóm Cá, thị trấn Tân Sơn, Phú Thọ, đã trở thành thầy "phù thủy" chuyên làm nèm (bùa ngải) để giúp cho mọi người yêu thương, gắn bó với nhau. Cụ Nhã bảo, đó là việc làm phúc, làm đức cho mọi người, khả năng đến đâu làm đến đó.
Hà hơi vào quần áo
Biết chúng tôi muốn đến để tìm hiểu về bùa ngải, cụ Nhã bảo:
- Tôi làm nèm giúp cho nhiều người dưới Hà Nội, Hà Tây, Hưng Yên lên đây. Từ bùa yêu, vợ chồng bỏ nhau, bùa giải quyết mâu thuẫn giữa các gia đình... tôi đều làm được hết. Con gái, con trai yêu nhau, định lấy nhau nhưng bị gia đình một bên không ưng thuận đến tôi làm cho cả hai gia đình đều gật đầu.
Cụ Nhã vẫn còn nhớ đôi vợ chồng Thảo và Ly ở Sơn Tây, Hà Nội. Hai người đã tâm đầu ý hợp nhưng bên gia đình nhà cô bé Ly cương quyết không đồng ý với lý do hai người không hợp tuổi nhau. Hai người tìm đến nhà cụ Nhã vừa mếu vừa khóc. Cụ bảo với Thảo đưa cho cụ chiếc áo của Ly, đồng thời đốt ba nén nhang, một đĩa trầu, ba lá xé thành sáu miếng và hai quả cau được đặt lên bàn thờ để khấn tổ tiên.
Cụ Nhã cho biết, lễ khấn tổ tiên cần trầu cau, xin phép hai người vợ lẽ của bố cụ (hai bà là sư phụ của cụ Nhã). Nếu sư phụ đồng ý mới cho làm. Đồng thời cụ gieo quẻ âm dương lên cái đĩa, nếu âm dương mà được làm nèm mới hiệu nghiệm.
Cụ Nhã cầm cả hai cái áo của cả hai người trên tay, miệng vừa lẩm bẩm vừa hà hơi lên toàn bộ chiếc áo, vừa đọc "thần chú". Hơn một tháng sau, vợ chồng Thảo lên cảm ơn cụ Nhã ríu rít, vì gia đình cô dâu đã đồng ý ngày tổ chức hôn lễ.
Hòa giải đánh nhau là khó nhất
Cụ Nhã khăng khăng khẳng định, nèm hòa giải là khó nhất, bởi mình không biết nguyên nhân vì đâu mà họ lại mâu thuẫn như thế. Làm được nhưng để hiệu nghiệm thì chưa cao bằng các loại nèm khác. Và thời gian để đảm bảo hiệu nghiệm cho loại nèm này thường ngắn.
Ở xóm Cá có gia đình anh Hà Văn Năm và anh Hà Văn Bình hay mâu thuẫn với nhau. Hai nhà sống sát vách nhau, nhưng rất hay cạnh khóe. Nếu gia đình bên nào có chó sổng xích sang đi vệ sinh, nhà bên kia sẵn sàng vác gậy đuổi đánh.
Thấy thế cụ Nhã liền ra tay để giúp cho hai gia đình được hòa thuận. Cụ nhờ người đến giếng nước nhà anh Năm múc một chén nước lã, mang về nhà mình đặt lên bàn thờ làm lễ. Sau đó, cụ nhờ người đó đổ chén nước đó vào giếng nước nhà anh Bình, vào thời điểm nào cũng được miễn là không được gia đình nào biết.
Cụ Nhã đặt tên cho chén nước đó là "chén nước thương nhau" để cho hai gia đình giải hòa với nhau. Cụ Nhã bảo, tính khí con người ta cũng xuất phát từ nguồn nước sinh sống mà ra cả. Nếu một bên sống có tình có lý, hòa hợp với bên kia rồi thì tự ắt hai bên sẽ tự hòa giải với nhau.
Thế rồi "chén nước nghĩa tình" của cụ Nhã cũng bắt đầu có hiệu nghiệm khi hai gia đình anh Năm và anh Bình từ chỗ không nhìn mặt nhau, chỉ hai tuần sau đã hỏi han nhau.
Không bao giờ làm điều xấu
Cụ Nhã bảo:
- Tôi đã học nèm từ năm hơn hai mươi tuổi. Nay gần tám mươi tuổi rồi nhưng chưa bao giờ tôi làm điều xấu cả. Trước khi tôi học làm nèm, hai sự phụ của tôi đồng thời là hai người mẹ kế có dặn dò: Tối kỵ làm điều xấu, nếu phạm vào các điều đó dần sẽ tự mất hiệu nghiệm.
Khi làm cho mọi người cụ không đỏi hỏi về mặt vật chất, chủ yếu là tấm lòng thành của họ. Người cân cam, gói kẹo đến làm lễ cũng xong. Làm nèm cho rất nhiều người nhưng cụ nhớ mãi một người phụ nữ ở Hà Nội biếu cụ bốn hộp sữa, hai cân đường và 200.000đ. Cụ Nhã bảo cụ đã chữa cho chồng cô gái khỏi "bệnh" ngoại tình. Đó là lần cụ được "lại quả" nhiều nhất.
Hiện chưa có khảo cứu khoa học nào về bùa ngải. Các nhà nghiên cứu cho rằng, những người đi xin bùa thường có ý thức giải quyết những vướng mắc của mình. Bùa chỉ giúp họ củng cố niềm tin để hòa giải với vợ (chồng) hay hàng xóm, hoặc quyết tâm hơn trong công việc mà thôi.
Do vậy, nên nhìn nhận bùa ngải dưới góc độ văn hóa dân gian với tư cách là một hiện tượng, tồn tại từ rất lâu trong đời sống của bà con dân tộc và loại trừ các quan điểm mê tín, dị đoan.
Đức Lợi
#213
Gửi vào 01/08/2011 - 21:06
BULGARIA XÂY TƯỢNG ĐÀI NHÀ TIÊN TRI VANGA
Nhà tiên tri mù Vanga
“Một con người phi thường, một vị thiên sứ làm cầu nối giữa chúng sinh và các Đấng tối cao. Một vị thánh cam chịu đọa đày vì Đạo”. Đó là những dòng chữ viết về nhà tiên tri nổi tiếng của Bulgaria, bà Vanga, nhân sinh nhật lần thứ 100 của bà.
Vanga 1911-1996 sinh ra ở làng Strumitsa, ngày nay thuộc Cộng hòa Macedonia, nhưng phần lớn thời gian bà sống ở làng Rupite, gần Petrich, phía Tây Nam Bulgaria.
Vangeliya Gushterova, hay còn gọi là Vanga (hoặc Baba Vanga), được cả thế giới biết đến như một nhà tiên tri mù của Bungary. Bà có quyền năng chữa lành bệnh bằng cỏ cây, hay các phương pháp thần bí, và còn là người đã dự đoán chính xác một số sự kiện chính trị lớn trên thế giới.
Vanga định cư tại Petrich, Bulgaria, vào năm 1930, nơi đầu tiên bà được biết đến với lời dự báo sự khởi đầu của Thế chiến thứ II. Tại đây, nhà vua Boris III đã tới để hỏi bà về tình hình đất nước. Dù nhận được lời khuyên, nếu Bulgaria tham gia cuộc chiến này họ sẽ phải gánh chịu hậu quả, nhưng các chính trị gia Bungari đã không lắng nghe và đã theo phe của Hitler. Kết cục họ bị đánh bại và chịu sự chiếm đóng của Liên Xô.
Vua Boris III còn đến tìm đến Vanga trong hai lần khác. Một lần trong năm 1942, bà đã nói với nhà vua rằng ông sẽ chết ngày 28-08-1943; một lần trong năm 1943, bà nói mình nhìn thấy một lá cờ đỏ treo trên cung điện Sofia. Và sự thật y như lời bà nói, vua Boris III chết đúng ngày 28-08, còn Bulgaria trở thành một nước XHCN.
Sau năm 1942 Vanga gặp nhiều rắc rối với chính quyền khi bị buộc tội hoạt động mê tín dị đoan. Mùa thu năm 1952, bà tiên tri Stalin sẽ đi vào cõi vĩnh hằng và bà đã bị bỏ tù bởi lời dự đoán này.
Đến năm 1970, chính quyền Bungari vẫn tiếp tục hạn chế ảnh hưởng của Vanga. Trong một lần kiểm tra nhà bà, họ tìm thấy hơn chín mươi ngàn tiền Bungari, đó là một khoản tiền lớn tại đất nước XHCN; mặc dù không bị bỏ tù như lần trước nhưng bà bị bêu rếu là một người phụ nử ích kỷ và ham gây mất lòng.
Dù vậy, cũng có nhiều quan chức cao cấp trong nhà nước Bungari đã bảo vệ Vanga. Nhiều người dân Bulgaria còn nhớ câu chuyện một quan chức bị mất chiếc cặp với các tài liệu quan trọng, mặc dù đã dốc hết sức nhưng cảnh sát không thể tìm thấy nó, họ cầu cứu tời bà và ngay lập tức vật hoàn khổ chủ. Sau cuộc tìm kiếm thành công, bà nhận được lá thư tỏ lòng biết ơn từ phía chính quyền.
Bằng nhiều nổ lực của con gái Thủ tướng Todor Zhivkov, cô Lyudmila Zhivkova, Vanga được xem như một nhân viên nhà nước không chính thức. Lyudmila yêu thích khoa huyền bí học và rất nhiều lần Vanga tiên tri cho cô, hai người trở thành những người bạn thân thiết.
Đầu năm 1979, Vanga nói với Lyudmila Zhivkova, cô sẽ chết trong một tai nạn xe hơi và bà có nhiều cố gắng giúp Lyudmila vượt qua thảm kịch. Kết quả dù Zhivkova sống sót khỏi tai nạn xe, nhưng đã qua đời chỉ hai năm sau đó.
Đến năm 1987, khi Todor Zhivkov vẫn còn nắm chính quyền, Vanga dự đoán sẽ có thay đổi lớn cho đất nước trong thời gian tới. Bà nói Bulgaria sẽ sớm có một nhà lãnh đạo, một nhà khoa học nổi tiếng, người không ủng hộ của học thuyết của Lenin. Đúng lời bà, năm 1992, ông Zhelyu Zhelev lên nắm chính quyền.
Ngoài ra bà Vanga đoán đúng các sự kiện khác như: cái chết của Hitler; giải tán khối hiệp ước Warsaw; bất ổn chính trị ở Lebanon; sự chiến thắng của ông Thánh Ấn Độ – Indira Gandhi; tan rã của Liên Bang Xô Viết; chế độ độc tài Anastasio Somoza sụp đổ ở Nicaragua năm 1979; cái chết của Thủ tướng Bulgaria năm 2001-2005; tàu hạt nhân Kursk của Nga bị chìm năm 1990; cuộc tấn công khủng bố 11-9; và các sự kiện liên quan tới Nga, Trung Quốc, và Ấn Độ.
Trong số báo xuất bản ngày Thứ hai, tờ Pravda của Nga đã thống kê và cho biết, có khoảng 70% của những lời tiên tri của Vanga đã trở thành sự thật. Tờ này cũng đề cập tới lời dự đoán sai của bà, Liên Xô can thiệp vào Chile trong cuộc Chiến tranh lạnh.
Cũng vào hôm Thứ hai, dường như để chứng minh Vanga nổi tiếng thời còn Liên Bang Xô Viết, các phương tiện truyền thông Nga đã phát nhiều bộ phim nói về Vanga còn nhiều hơn truyền thông Bungari.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây trên mạng internet đã xuất hiện nhiều ấn phẩm có nguồn gốc từ truyền thông Nga và Ucraina mạo nhận lời dự đoán của Vanga như, xảy ra chiến tranh thế giới lần ba, ngày tận thế…các nhà nghiên cứu Vanga của Bungari đã nhiều lần bác bỏ các dự đoán này.
Một số lời tiên tri khác của Baba Vanga dự kiến sẽ trở thành sự thật như, việc hình thành một liên minh của các quốc gia Balkan, sáng chế ra phương pháp chữa trị ung thư và AIDS, và vàng mất giá trị.
Ghi nhận công sức của bà trong việc chữa lành thể xác và tâm hồn của nhiều người, các nhóm nghiên cứu Vanga và cơ quan Nhà nước Bungari đang chuẩn bị kế hoạch long trọng để tưởng nhớ về con người đầy bí ẩn này.
Bảo tàng Petrich sẽ tổ chức một nghi lễ truyền phép đặc biệt để tôn vinh bà. Các cơ quan Chính phủ Bungari như, Bộ giao thông vận tải, Bộ CNTT và truyền thông đã cung cấp một con tem bưu chính đặc biệt.
Tuy còn nhiều tranh cãi về ngày sinh của nhà tiên tri Vanga, ngày 31-01 hay 03-10, nhưng việc xây dựng tượng đài cho bà sắp hoàn thành. Dự kiến tượng đài Vanga được đặt tại làng Rupite, nơi bà dành phần lớn thời gian trong cuộc đời sinh sống ở đây.
Novinite, Standart News, Pravda
Nhà tiên tri mù Vanga
“Một con người phi thường, một vị thiên sứ làm cầu nối giữa chúng sinh và các Đấng tối cao. Một vị thánh cam chịu đọa đày vì Đạo”. Đó là những dòng chữ viết về nhà tiên tri nổi tiếng của Bulgaria, bà Vanga, nhân sinh nhật lần thứ 100 của bà.
Vanga 1911-1996 sinh ra ở làng Strumitsa, ngày nay thuộc Cộng hòa Macedonia, nhưng phần lớn thời gian bà sống ở làng Rupite, gần Petrich, phía Tây Nam Bulgaria.
Vangeliya Gushterova, hay còn gọi là Vanga (hoặc Baba Vanga), được cả thế giới biết đến như một nhà tiên tri mù của Bungary. Bà có quyền năng chữa lành bệnh bằng cỏ cây, hay các phương pháp thần bí, và còn là người đã dự đoán chính xác một số sự kiện chính trị lớn trên thế giới.
Vanga định cư tại Petrich, Bulgaria, vào năm 1930, nơi đầu tiên bà được biết đến với lời dự báo sự khởi đầu của Thế chiến thứ II. Tại đây, nhà vua Boris III đã tới để hỏi bà về tình hình đất nước. Dù nhận được lời khuyên, nếu Bulgaria tham gia cuộc chiến này họ sẽ phải gánh chịu hậu quả, nhưng các chính trị gia Bungari đã không lắng nghe và đã theo phe của Hitler. Kết cục họ bị đánh bại và chịu sự chiếm đóng của Liên Xô.
Vua Boris III còn đến tìm đến Vanga trong hai lần khác. Một lần trong năm 1942, bà đã nói với nhà vua rằng ông sẽ chết ngày 28-08-1943; một lần trong năm 1943, bà nói mình nhìn thấy một lá cờ đỏ treo trên cung điện Sofia. Và sự thật y như lời bà nói, vua Boris III chết đúng ngày 28-08, còn Bulgaria trở thành một nước XHCN.
Sau năm 1942 Vanga gặp nhiều rắc rối với chính quyền khi bị buộc tội hoạt động mê tín dị đoan. Mùa thu năm 1952, bà tiên tri Stalin sẽ đi vào cõi vĩnh hằng và bà đã bị bỏ tù bởi lời dự đoán này.
Đến năm 1970, chính quyền Bungari vẫn tiếp tục hạn chế ảnh hưởng của Vanga. Trong một lần kiểm tra nhà bà, họ tìm thấy hơn chín mươi ngàn tiền Bungari, đó là một khoản tiền lớn tại đất nước XHCN; mặc dù không bị bỏ tù như lần trước nhưng bà bị bêu rếu là một người phụ nử ích kỷ và ham gây mất lòng.
Dù vậy, cũng có nhiều quan chức cao cấp trong nhà nước Bungari đã bảo vệ Vanga. Nhiều người dân Bulgaria còn nhớ câu chuyện một quan chức bị mất chiếc cặp với các tài liệu quan trọng, mặc dù đã dốc hết sức nhưng cảnh sát không thể tìm thấy nó, họ cầu cứu tời bà và ngay lập tức vật hoàn khổ chủ. Sau cuộc tìm kiếm thành công, bà nhận được lá thư tỏ lòng biết ơn từ phía chính quyền.
Bằng nhiều nổ lực của con gái Thủ tướng Todor Zhivkov, cô Lyudmila Zhivkova, Vanga được xem như một nhân viên nhà nước không chính thức. Lyudmila yêu thích khoa huyền bí học và rất nhiều lần Vanga tiên tri cho cô, hai người trở thành những người bạn thân thiết.
Đầu năm 1979, Vanga nói với Lyudmila Zhivkova, cô sẽ chết trong một tai nạn xe hơi và bà có nhiều cố gắng giúp Lyudmila vượt qua thảm kịch. Kết quả dù Zhivkova sống sót khỏi tai nạn xe, nhưng đã qua đời chỉ hai năm sau đó.
Đến năm 1987, khi Todor Zhivkov vẫn còn nắm chính quyền, Vanga dự đoán sẽ có thay đổi lớn cho đất nước trong thời gian tới. Bà nói Bulgaria sẽ sớm có một nhà lãnh đạo, một nhà khoa học nổi tiếng, người không ủng hộ của học thuyết của Lenin. Đúng lời bà, năm 1992, ông Zhelyu Zhelev lên nắm chính quyền.
Ngoài ra bà Vanga đoán đúng các sự kiện khác như: cái chết của Hitler; giải tán khối hiệp ước Warsaw; bất ổn chính trị ở Lebanon; sự chiến thắng của ông Thánh Ấn Độ – Indira Gandhi; tan rã của Liên Bang Xô Viết; chế độ độc tài Anastasio Somoza sụp đổ ở Nicaragua năm 1979; cái chết của Thủ tướng Bulgaria năm 2001-2005; tàu hạt nhân Kursk của Nga bị chìm năm 1990; cuộc tấn công khủng bố 11-9; và các sự kiện liên quan tới Nga, Trung Quốc, và Ấn Độ.
Trong số báo xuất bản ngày Thứ hai, tờ Pravda của Nga đã thống kê và cho biết, có khoảng 70% của những lời tiên tri của Vanga đã trở thành sự thật. Tờ này cũng đề cập tới lời dự đoán sai của bà, Liên Xô can thiệp vào Chile trong cuộc Chiến tranh lạnh.
Cũng vào hôm Thứ hai, dường như để chứng minh Vanga nổi tiếng thời còn Liên Bang Xô Viết, các phương tiện truyền thông Nga đã phát nhiều bộ phim nói về Vanga còn nhiều hơn truyền thông Bungari.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây trên mạng internet đã xuất hiện nhiều ấn phẩm có nguồn gốc từ truyền thông Nga và Ucraina mạo nhận lời dự đoán của Vanga như, xảy ra chiến tranh thế giới lần ba, ngày tận thế…các nhà nghiên cứu Vanga của Bungari đã nhiều lần bác bỏ các dự đoán này.
Một số lời tiên tri khác của Baba Vanga dự kiến sẽ trở thành sự thật như, việc hình thành một liên minh của các quốc gia Balkan, sáng chế ra phương pháp chữa trị ung thư và AIDS, và vàng mất giá trị.
Ghi nhận công sức của bà trong việc chữa lành thể xác và tâm hồn của nhiều người, các nhóm nghiên cứu Vanga và cơ quan Nhà nước Bungari đang chuẩn bị kế hoạch long trọng để tưởng nhớ về con người đầy bí ẩn này.
Bảo tàng Petrich sẽ tổ chức một nghi lễ truyền phép đặc biệt để tôn vinh bà. Các cơ quan Chính phủ Bungari như, Bộ giao thông vận tải, Bộ CNTT và truyền thông đã cung cấp một con tem bưu chính đặc biệt.
Tuy còn nhiều tranh cãi về ngày sinh của nhà tiên tri Vanga, ngày 31-01 hay 03-10, nhưng việc xây dựng tượng đài cho bà sắp hoàn thành. Dự kiến tượng đài Vanga được đặt tại làng Rupite, nơi bà dành phần lớn thời gian trong cuộc đời sinh sống ở đây.
Novinite, Standart News, Pravda
#214
Gửi vào 01/08/2011 - 21:09
BỎ NHÀ RA KHÁCH SẠN Ở VÌ THẤY MA DẠO CHƠI
Một cặp vợ chồng trung tuổi người Pháp, đã buộc phải rời bỏ ngôi nhà mơ ước của mình ở thị trấn Cheshire của Anh, vì sợ...ma. Jean Marc Mariole nhạc sỹ người Pháp, và Charlotte một cựu người mẫu, bị phen hoảng hồn khi nhìn thấy một vệt sáng tròn “lượn lờ” trong tổ ấm của họ.
Ngôi nhà “ma” ở Cheshire, Anh.
Họ bất ngờ nghe thấy âm thanh như tiếng vạc kêu trong đêm tối và nhìn thấy cả chòm sáng di chuyển đầy bí ẩn. Sau khi xem lại đoạn camera, họ càng chắc chắn, những gì mình chứng kiến không phải là ảo giác. Tất cả diễn ra như một cảnh trong bộ phim kinh dị. Nỗi sợ hãi và ám ảnh khiến họ buộc phải rời bỏ căn nhà mơ ước, và chi ba ngàn bảng để thuê một căn hộ trong khách sạn gần đó.
Bóng “ma” bí ẩn lượn lờ trong ngôi nhà tối.
Bà Charlotte cho biết, có tới hai vụ tự tử xảy ra gần ngôi nhà, và bà ngờ rằng, hồn ma đang “dạo chơi” quanh khu vực đó.
- Tôi thực sự đã rất hoảng sợ. Cửa chính đóng chặt sau lưng tôi, cửa sổ cũng đã đóng. Rõ ràng, không thể có gió trong nhà tôi được. Ấy thế mà, rèm cửa cứ bị thổi tung lên. Bà Charlotte kể.
Thậm chí, có lần, vợ chồng bà còn nhìn thấy khăn phủ bàn, ga trải giường và nhiều vật dụng khác trong nhà bay lơ lửng trong giây lát, trước khi trở lại vị trí cũ. Được biết, ông Mariole và bà Charlotte còn có ý định bay tới Pháp để chạy trốn nỗi ám ảnh này.
Thu Thảo
Một cặp vợ chồng trung tuổi người Pháp, đã buộc phải rời bỏ ngôi nhà mơ ước của mình ở thị trấn Cheshire của Anh, vì sợ...ma. Jean Marc Mariole nhạc sỹ người Pháp, và Charlotte một cựu người mẫu, bị phen hoảng hồn khi nhìn thấy một vệt sáng tròn “lượn lờ” trong tổ ấm của họ.
Ngôi nhà “ma” ở Cheshire, Anh.
Họ bất ngờ nghe thấy âm thanh như tiếng vạc kêu trong đêm tối và nhìn thấy cả chòm sáng di chuyển đầy bí ẩn. Sau khi xem lại đoạn camera, họ càng chắc chắn, những gì mình chứng kiến không phải là ảo giác. Tất cả diễn ra như một cảnh trong bộ phim kinh dị. Nỗi sợ hãi và ám ảnh khiến họ buộc phải rời bỏ căn nhà mơ ước, và chi ba ngàn bảng để thuê một căn hộ trong khách sạn gần đó.
Bóng “ma” bí ẩn lượn lờ trong ngôi nhà tối.
Bà Charlotte cho biết, có tới hai vụ tự tử xảy ra gần ngôi nhà, và bà ngờ rằng, hồn ma đang “dạo chơi” quanh khu vực đó.
- Tôi thực sự đã rất hoảng sợ. Cửa chính đóng chặt sau lưng tôi, cửa sổ cũng đã đóng. Rõ ràng, không thể có gió trong nhà tôi được. Ấy thế mà, rèm cửa cứ bị thổi tung lên. Bà Charlotte kể.
Thậm chí, có lần, vợ chồng bà còn nhìn thấy khăn phủ bàn, ga trải giường và nhiều vật dụng khác trong nhà bay lơ lửng trong giây lát, trước khi trở lại vị trí cũ. Được biết, ông Mariole và bà Charlotte còn có ý định bay tới Pháp để chạy trốn nỗi ám ảnh này.
Thu Thảo
#215
Gửi vào 01/08/2011 - 21:12
CÂY BỒ ĐỀ CÓ MA
Những ngày qua, người dân thành phố Huế xôn xao bởi tin đồn, cây bồ đề hàng trăm năm tuổi trên ngã ba đường Lê Duẩn, cắt đường Nguyễn Trãi có ma. Tại cây bồ đề, có một am thờ và rất nhiều lư hương cùng di ảnh. Người dân các nơi thường đến đây cúng bái cho những vong hồn chết đường, chết sông...
Theo những người thường chạy xe ôm ở gần gốc cây này cho biết rằng: Họ từng chứng kiến tận mắt ngay giữa ban ngày, thấy một người bà dắt hai đứa trẻ, không biết là con hay cháu, đi ra giữa sông Hương. Cũng có người cho biết hàng đêm đều có các tiếng rên rỉ, kêu than nơi gốc cây. Thậm chí, nhiều người khi qua đoạn đường này vào gần sáng, thường thấy tiếng hét rồi có ánh sáng lóe lên, khiến họ lạnh gáy choáng váng rồi té ngã.
Người dân ở khu vực trên truyền tai nhau câu chuyện: cách đây không lâu người ta thấy có một người phụ nữ ngoài năm mươi tuổi, đang cùng hai đứa con nhỏ ngồi dưới gốc cây bồ đề này một lúc, thì tự dưng thả hai đứa con và bơi qua sông Hương một mình trong lúc nước rất lớn.
Sau đó người ta phải đi tìm thì gặp chị ở bên kia sông đang ngồi trong một quán nước. Khi được hỏi thì người phụ nữ này không hề biết gì cả mà hơn nữa cũng chưa bao giờ biết bơi. Nhiều người cho rằng đây là do ma nhập. Không những thế, nhiều đêm người ta còn thấy có người phụ nữ ngồi ru con dưới gốc cây bồ đề.
Trưa 30-10-09, thời điểm được xem là giờ ma hay nhập, chúng tôi đã gặp trực tiếp những người dân quanh cây bồ đề để tìm hiểu chuyện cây này xuất hiện ma quái. Vợ chồng bác Lê Văn Thái ở khu định cư Kim Long, Thành Phố Huế, đã bán nước mía ở đây mấy chục năm cho biết:
- Chuyện ma xuất hiện ở đây kể mấy ngày cho hết. Chỉ cần đến gốc cây tè bậy một cái mà xem không bị ma bóp cổ mới là chuyện lạ. Chuyện nhiều người bị ma ám ở đây xuất hiện nhiều lắm rồi.
Bác Lê Văn Ái ở Kim Long cũng kể:
- Ba năm về trước có hai mẹ con bán vé số nghỉ trưa ở đây, rồi thằng bé tè vào gốc cây sau đó thì phát điên, phát dại ngày nào cũng đến đây la hét. Về sau mẹ nó phải cúng mất mấy ngày mới khỏi.
Thường Dân
Những ngày qua, người dân thành phố Huế xôn xao bởi tin đồn, cây bồ đề hàng trăm năm tuổi trên ngã ba đường Lê Duẩn, cắt đường Nguyễn Trãi có ma. Tại cây bồ đề, có một am thờ và rất nhiều lư hương cùng di ảnh. Người dân các nơi thường đến đây cúng bái cho những vong hồn chết đường, chết sông...
Theo những người thường chạy xe ôm ở gần gốc cây này cho biết rằng: Họ từng chứng kiến tận mắt ngay giữa ban ngày, thấy một người bà dắt hai đứa trẻ, không biết là con hay cháu, đi ra giữa sông Hương. Cũng có người cho biết hàng đêm đều có các tiếng rên rỉ, kêu than nơi gốc cây. Thậm chí, nhiều người khi qua đoạn đường này vào gần sáng, thường thấy tiếng hét rồi có ánh sáng lóe lên, khiến họ lạnh gáy choáng váng rồi té ngã.
Người dân ở khu vực trên truyền tai nhau câu chuyện: cách đây không lâu người ta thấy có một người phụ nữ ngoài năm mươi tuổi, đang cùng hai đứa con nhỏ ngồi dưới gốc cây bồ đề này một lúc, thì tự dưng thả hai đứa con và bơi qua sông Hương một mình trong lúc nước rất lớn.
Sau đó người ta phải đi tìm thì gặp chị ở bên kia sông đang ngồi trong một quán nước. Khi được hỏi thì người phụ nữ này không hề biết gì cả mà hơn nữa cũng chưa bao giờ biết bơi. Nhiều người cho rằng đây là do ma nhập. Không những thế, nhiều đêm người ta còn thấy có người phụ nữ ngồi ru con dưới gốc cây bồ đề.
Trưa 30-10-09, thời điểm được xem là giờ ma hay nhập, chúng tôi đã gặp trực tiếp những người dân quanh cây bồ đề để tìm hiểu chuyện cây này xuất hiện ma quái. Vợ chồng bác Lê Văn Thái ở khu định cư Kim Long, Thành Phố Huế, đã bán nước mía ở đây mấy chục năm cho biết:
- Chuyện ma xuất hiện ở đây kể mấy ngày cho hết. Chỉ cần đến gốc cây tè bậy một cái mà xem không bị ma bóp cổ mới là chuyện lạ. Chuyện nhiều người bị ma ám ở đây xuất hiện nhiều lắm rồi.
Bác Lê Văn Ái ở Kim Long cũng kể:
- Ba năm về trước có hai mẹ con bán vé số nghỉ trưa ở đây, rồi thằng bé tè vào gốc cây sau đó thì phát điên, phát dại ngày nào cũng đến đây la hét. Về sau mẹ nó phải cúng mất mấy ngày mới khỏi.
Thường Dân
#216
Gửi vào 01/08/2011 - 21:14
TRUYỆN ĐÃ XẢY RA CHO GIA ĐÌNH CHERNISKE
Truyện xảy ra cho gia đình Cherniske ở Kagel Canyon, California. Dựa theo lời kể của cô con gái trong gia đình. Đây là lời kể của cô:
- Gia đình tôi dọn về một căn nhà lớn hai tầng ở Kagel Canyon, California. Điều làm tôi vui mừng nhất là được một phòng riêng và có thể nuôi một chú chó, Bo. Bố mẹ thường hay vắng nhà và đêm đó, lần đầu tiên tôi và Bo nghe tiếng trẻ nít khóc.
Tiếng khóc văng vẳng đưa đến tai tôi. Bo đang nằm giữa phòng khách liền cụp tai xuống, chạy đến bên tôi. Tôi đi lùng khắp nhà nhưng chẳng thấy trẻ nít nào... và tiếng khóc dường như lớn hơn, âm thanh vang dội từ một góc của phòng khách. Tôi đến xem cũng chẳng thấy gì. Khi bố mẹ và các anh chị về, tôi kể lại tiếng khóc thì ai nấy đều chế nhạo, cho rằng tôi bịa đặt.
Sau đó ít lâu, chị tôi ghé chơi và ở lại nhà một mình, vào buổi tối nọ khi đang giặt đồ thì nghe tiếng trẻ nít khóc. Chị cũng chạy vào nhà và cũng như tôi chẳng tìm thấy trẻ nít nào.
Sau lần ấy thì đến phiên mẹ tôi và người bạn, lúc ấy tôi đến nhà người bạn chơi, bố tôi đi khỏi. Hai người phụ nữ đang ngồi trò chuyện ở phòng khách, thì tiếng khóc trẻ nít vọng tới. Mẹ và Barb chạy đến góc phòng thì tiếng khóc lớn hơn, và khi ngồi lên cái ghế nệm để ở góc đó, thì tiếng khóc lại vang lớn hơn nữa...
Mẹ tôi và Barb rất sợ, khi bố tôi về thì mẹ tôi và Barb kể lại câu chuyện, và bảo bố tôi phải lần xuống tầng dưới, và cuối cùng thì theo lời Barb và mẹ tôi thì bố tôi đào sâu xuống đất...và giật bắn người khi bắt gặp một bộ xương trẻ nít.
Sau khi tôi về nhà, nghe kể lại rằng: Sau khi thông báo cho nhà chức trách, thì nhân viên điều tra về những vụ chết bất thường (tai nạn) đến đem bộ xương đi. Sau đó, họ cho biết bộ xương đó đã được chôn khoảng vào thế kỷ thứ mười tám...Sau khi bộ xương được đem đi thì nhà tôi yên ổn, không còn bao giờ nghe tiếng trẻ khóc mỗi đêm nữa.
NHDT
Truyện xảy ra cho gia đình Cherniske ở Kagel Canyon, California. Dựa theo lời kể của cô con gái trong gia đình. Đây là lời kể của cô:
- Gia đình tôi dọn về một căn nhà lớn hai tầng ở Kagel Canyon, California. Điều làm tôi vui mừng nhất là được một phòng riêng và có thể nuôi một chú chó, Bo. Bố mẹ thường hay vắng nhà và đêm đó, lần đầu tiên tôi và Bo nghe tiếng trẻ nít khóc.
Tiếng khóc văng vẳng đưa đến tai tôi. Bo đang nằm giữa phòng khách liền cụp tai xuống, chạy đến bên tôi. Tôi đi lùng khắp nhà nhưng chẳng thấy trẻ nít nào... và tiếng khóc dường như lớn hơn, âm thanh vang dội từ một góc của phòng khách. Tôi đến xem cũng chẳng thấy gì. Khi bố mẹ và các anh chị về, tôi kể lại tiếng khóc thì ai nấy đều chế nhạo, cho rằng tôi bịa đặt.
Sau đó ít lâu, chị tôi ghé chơi và ở lại nhà một mình, vào buổi tối nọ khi đang giặt đồ thì nghe tiếng trẻ nít khóc. Chị cũng chạy vào nhà và cũng như tôi chẳng tìm thấy trẻ nít nào.
Sau lần ấy thì đến phiên mẹ tôi và người bạn, lúc ấy tôi đến nhà người bạn chơi, bố tôi đi khỏi. Hai người phụ nữ đang ngồi trò chuyện ở phòng khách, thì tiếng khóc trẻ nít vọng tới. Mẹ và Barb chạy đến góc phòng thì tiếng khóc lớn hơn, và khi ngồi lên cái ghế nệm để ở góc đó, thì tiếng khóc lại vang lớn hơn nữa...
Mẹ tôi và Barb rất sợ, khi bố tôi về thì mẹ tôi và Barb kể lại câu chuyện, và bảo bố tôi phải lần xuống tầng dưới, và cuối cùng thì theo lời Barb và mẹ tôi thì bố tôi đào sâu xuống đất...và giật bắn người khi bắt gặp một bộ xương trẻ nít.
Sau khi tôi về nhà, nghe kể lại rằng: Sau khi thông báo cho nhà chức trách, thì nhân viên điều tra về những vụ chết bất thường (tai nạn) đến đem bộ xương đi. Sau đó, họ cho biết bộ xương đó đã được chôn khoảng vào thế kỷ thứ mười tám...Sau khi bộ xương được đem đi thì nhà tôi yên ổn, không còn bao giờ nghe tiếng trẻ khóc mỗi đêm nữa.
NHDT
#217
Gửi vào 01/08/2011 - 21:19
BÉ BỐN TUỔI KỂ CHUYỆN GẶP NGƯỜI THÂN ĐÃ MẤT
Colton Burpo, bốn tuổi, hầu như đã chết vì vỡ ruột thừa, cho biết, đã lên tới thiên đường và gặp người chị đã mất mà cậu chưa bao giờ được nghe nói tới.
Câu chuyện lạ thường của Colton Burpo được kể sau khi bé suýt chết. Colton được chuẩn đoán nhầm là bị cảm trong khi gia đình Burpo sống ở Imperial, Nebraska (Mỹ) đang trên đường tới Colorado. Vào thời điểm họ trở về nhà, Colton ốm rất nặng và phải phẫu thuật khẩn cấp hai lần.
Trong khi bé Colton đang ở trong phòng mổ, cha mẹ em là Todd và Sonya đã cầu nguyện nhưng đều tin rằng sắp mất cậu con trai yêu quý. Tuy nhiên, Colton đã sớm phục hồi và sau đó kể cho cha mẹ nghe chuyện cậu gặp người chị mà mẹ cậu đã sảy thai một năm trước khi cậu chào đời.
Colton kể:
- Chị giống hệt con và bắt đầu ôm con, nói rằng rất vui khi đón một người trong gia đình lên đây. Chị nói, chị không có tên và chưa bao giờ được đặt tên. Chị mong mỏi được gặp mẹ và cha trên thiên đường.
Cậu bé cũng mô tả với bố mẹ, vốn đang rất kinh ngạc, rằng cậu đã nhìn thấy họ cầu nguyện. Cha của Colton, bốn mươi mốt tuổi nói:
- Tôi nhìn con trong gương và bé nói, các thiên thần đang hát cho tôi nghe. Tôi nhìn và bé trông như đã chết rồi.
Colton Burpo còn nói, bé đã gặp ông nội, Pop, người đã qua đời hơn ba mươi năm trước. Tuy nhiên, cậu bé không nhận ra Pop trong bức ảnh được chụp trước khi ông chết, mà nhận ra ông trong bức ảnh khi còn trẻ. Theo Colton, trí tưởng tượng của bé rất phong phú khi thời gian trôi qua. Colton kể:
- Cháu nhớ Chúa Jesus, có những con đường vàng và rất nhiều màu sắc. Cháu ngồi trên lòng Chúa và cảm thấy an toàn. Chúa là người to nhất ở thiên đường, ông có thể nắm trọn thế giới trong bàn tay.
Colton kể còn được thoáng chứng kiến cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác. Khi được hỏi, thiên đường trông như thế nào, Colton có những mô tả đặc biệt.
- Giống như các màu của cầu vồng, một nơi nhiều màu sắc đẹp. Cánh cửa thiên đường làm bằng vàng và trên đó có nhiều ngọc trai. Nó không bao giờ tối, luôn sáng choang. Ai cũng có cánh và có thể bay, trừ Chúa Jesus. Ai cũng mặc áo dài trắng, trên đầu có ánh sáng.
Colton thậm chí còn mô tả cuộc gặp với John the Baptist dù không hiểu ông này là ai. Colton chưa được nghe nói về John the Baptist ở trường học Chủ nhật.
Gia đình Burpo đã viết một cuốn sách về những gì đã xảy ra với Colton, hiện đã mười một tuổi, để chia sẻ những câu chuyện của bé về thiên đường. Colton hiện cũng giống như những bé mười một tuổi khác, cậu thích nhạc, đấu vật và cầu Chúa, người mà cậu mô tả rằng có thể nắm trọn trái đất trong bàn tay. Cuốn sách mô tả cuộc gặp với người thân trên thiên đường không phải là ý định của cậu bé, nhưng Colton nói, đã cầu Chúa cho một câu trả lời.
- Cầu xin Chúa, nếu thật sự là người. Con không biết xuất bản cuốn sách như thế nào. Nếu Chúa muốn hãy gửi những người ở nhà xuất bản đến với con.
Và đại diện nhà xuất bản tới thật. Cho đến giờ, nửa triệu cuốn sách đã được in.
Daily Mail
Colton Burpo, bốn tuổi, hầu như đã chết vì vỡ ruột thừa, cho biết, đã lên tới thiên đường và gặp người chị đã mất mà cậu chưa bao giờ được nghe nói tới.
Câu chuyện lạ thường của Colton Burpo được kể sau khi bé suýt chết. Colton được chuẩn đoán nhầm là bị cảm trong khi gia đình Burpo sống ở Imperial, Nebraska (Mỹ) đang trên đường tới Colorado. Vào thời điểm họ trở về nhà, Colton ốm rất nặng và phải phẫu thuật khẩn cấp hai lần.
Trong khi bé Colton đang ở trong phòng mổ, cha mẹ em là Todd và Sonya đã cầu nguyện nhưng đều tin rằng sắp mất cậu con trai yêu quý. Tuy nhiên, Colton đã sớm phục hồi và sau đó kể cho cha mẹ nghe chuyện cậu gặp người chị mà mẹ cậu đã sảy thai một năm trước khi cậu chào đời.
Colton kể:
- Chị giống hệt con và bắt đầu ôm con, nói rằng rất vui khi đón một người trong gia đình lên đây. Chị nói, chị không có tên và chưa bao giờ được đặt tên. Chị mong mỏi được gặp mẹ và cha trên thiên đường.
Cậu bé cũng mô tả với bố mẹ, vốn đang rất kinh ngạc, rằng cậu đã nhìn thấy họ cầu nguyện. Cha của Colton, bốn mươi mốt tuổi nói:
- Tôi nhìn con trong gương và bé nói, các thiên thần đang hát cho tôi nghe. Tôi nhìn và bé trông như đã chết rồi.
Colton Burpo còn nói, bé đã gặp ông nội, Pop, người đã qua đời hơn ba mươi năm trước. Tuy nhiên, cậu bé không nhận ra Pop trong bức ảnh được chụp trước khi ông chết, mà nhận ra ông trong bức ảnh khi còn trẻ. Theo Colton, trí tưởng tượng của bé rất phong phú khi thời gian trôi qua. Colton kể:
- Cháu nhớ Chúa Jesus, có những con đường vàng và rất nhiều màu sắc. Cháu ngồi trên lòng Chúa và cảm thấy an toàn. Chúa là người to nhất ở thiên đường, ông có thể nắm trọn thế giới trong bàn tay.
Colton kể còn được thoáng chứng kiến cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác. Khi được hỏi, thiên đường trông như thế nào, Colton có những mô tả đặc biệt.
- Giống như các màu của cầu vồng, một nơi nhiều màu sắc đẹp. Cánh cửa thiên đường làm bằng vàng và trên đó có nhiều ngọc trai. Nó không bao giờ tối, luôn sáng choang. Ai cũng có cánh và có thể bay, trừ Chúa Jesus. Ai cũng mặc áo dài trắng, trên đầu có ánh sáng.
Colton thậm chí còn mô tả cuộc gặp với John the Baptist dù không hiểu ông này là ai. Colton chưa được nghe nói về John the Baptist ở trường học Chủ nhật.
Gia đình Burpo đã viết một cuốn sách về những gì đã xảy ra với Colton, hiện đã mười một tuổi, để chia sẻ những câu chuyện của bé về thiên đường. Colton hiện cũng giống như những bé mười một tuổi khác, cậu thích nhạc, đấu vật và cầu Chúa, người mà cậu mô tả rằng có thể nắm trọn trái đất trong bàn tay. Cuốn sách mô tả cuộc gặp với người thân trên thiên đường không phải là ý định của cậu bé, nhưng Colton nói, đã cầu Chúa cho một câu trả lời.
- Cầu xin Chúa, nếu thật sự là người. Con không biết xuất bản cuốn sách như thế nào. Nếu Chúa muốn hãy gửi những người ở nhà xuất bản đến với con.
Và đại diện nhà xuất bản tới thật. Cho đến giờ, nửa triệu cuốn sách đã được in.
Daily Mail
#218
Gửi vào 01/08/2011 - 21:22
THÁP RÙA HỒ GƯƠM NGUYÊN LÀ MỘT NGÔI MỘ
Tháp rùa giữa Hồ Hoàn Kiếm là hình ảnh quá quen thuộc với người Việt Nam, nhưng chắc không nhiều người biết rằng, nguyên tòa tháp này được xây lên với chức năng như một ngôi mộ. Tháp Rùa là tên gọi nôm na của người dân để gọi ngọn tháp ba tầng, nằm trên gò Rùa giữa hồ Hoàn Kiếm. Từ thời vua Lê Thánh Tông, trên gò Rùa đã có điếu đài làm nơi cho nhà Vua ra câu cá, ngâm vịnh thơ ca.
Sang thời Lê Trung Hưng, chúa Trịnh lại dựng đình tả vọng trên đó. Song trước khi Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh, đã cho phá bỏ tất cả những gì họ Trịnh dựng lên. Đình tả vọng vì thế cũng bị phá bỏ không thương tiếc. Rồi mấy chục năm binh hỏa, gò rùa chỉ nằm trơ giữa hồ Hoàn Kiếm.
Sau khi quân Pháp chiếm thành Hà Nội, dân vùng quanh hồ Hoàn Kiếm xiêu tán cả. Bấy giờ, bá hộ Kim (Nguyễn Ngọc Kim) là người làm trung gian liên lạc giữa dân bản xứ với chính quyền thực dân. Y thấy gò Rùa nằm giữa hồ là một huyệt đất đẹp, nghĩ rằng đó là huyệt có thể phát bá vương, nên bá hộ Kim âm mưu đặt mộ cha mẹ mình vào đó.
Năm 1886, bá hộ Kim xin phép chính quyền thực dân và xây lên gò Rùa một tòa tháp ba tầng. Ban đầu tòa tháp này mang tên là tháp bá hộ Kim. Kiến trúc của nó là sự kết hợp hai nền kiến trúc đông tây. Hai tầng dưới trổ các cửa theo kiểu cửa vòm của nhà thờ phương tây. Còn tầng trên cùng lại làm mái kiểu truyền thống, với đầu đao và lưỡng long trầu nhật.
Đánh giá về tháp Rùa, từ điển Địa danh lịch sử Việt Nam viết: tháp Rùa không có giá trị về mặt kiến trúc. Còn từ điển mở Wikipedia thì cho rằng, đó là một sự kết hợp thất bại hai nền kiến trúc đông tây.
Tháp rùa xây xong, bá hộ Kim tổ chức khánh thành linh đình và đem cốt cha mình ra đặt vào đó. Chuyện đặt hài cốt cha mẹ bá hộ Kim cũng có nhiều câu chuyện ly kỳ. Nhà văn Băng Sơn kể ra một câu chuyện trong một bài ký về hồ Gươm rằng:
- Hôm táng, đêm tối nhá nhem, đám thợ sau khi hoàn thành công việc lẻn trở lại vứt cốt ông lão xuống hồ.
Còn cố giáo sư Sử học Trần Quốc Vượng thì kể rằng:
- Bá Kim chờ đến đêm mới lẻn đem cốt bố ông ta ra tháp đặt. Có người rình ông ta vừa quay vào thì lập tức ra đào vứt đâu không ai biết.
Việc bá hộ Kim vì chơi với chính quyền thực dân, mới dám ngang nhiên xây tháp đặt cốt cha mẹ giữa trung tâm đất Hà thành ngàn năm văn hiến, đã có một kết cục theo đúng logic của văn hóa Việt. Đó là những thứ chỉ vì mục đích cá nhân thì không trường tồn được. Câu chuyện đó đã diễn ra từ hơn trăm năm trước.
Còn giờ đây, tháp bá hộ Kim ngày nào đã được mang tên Tháp Rùa và trở thành một điểm chiêm ngưỡng du lịch giữa lòng thủ đô. Dưới con mắt nghệ thuật thì tháp Rùa không đẹp chút nào, vì nó là một sự kết hợp vụng về. Nhưng những câu chuyện về kết cục của việc đặt cốt cha bá hộ Kim, thì như một thang thuốc để người Hà thành đắp lành vết thương.
Vì bá hộ Kim được chính quyền thực dân bảo hộ, nên người ta không thể đập phéng cái tháp đi được. Song từ những anh thợ nề trong câu chuyện của nhà văn Băng Sơn, hay một người dân thường nào đó trong vùng, đã bí mật vứt tro cốt bố bá hộ Kim đi, đều thể hiện rằng mọi người dân Việt đều hiên ngang bất khuất.
Tầm nhìn
Tháp rùa giữa Hồ Hoàn Kiếm là hình ảnh quá quen thuộc với người Việt Nam, nhưng chắc không nhiều người biết rằng, nguyên tòa tháp này được xây lên với chức năng như một ngôi mộ. Tháp Rùa là tên gọi nôm na của người dân để gọi ngọn tháp ba tầng, nằm trên gò Rùa giữa hồ Hoàn Kiếm. Từ thời vua Lê Thánh Tông, trên gò Rùa đã có điếu đài làm nơi cho nhà Vua ra câu cá, ngâm vịnh thơ ca.
Sang thời Lê Trung Hưng, chúa Trịnh lại dựng đình tả vọng trên đó. Song trước khi Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh, đã cho phá bỏ tất cả những gì họ Trịnh dựng lên. Đình tả vọng vì thế cũng bị phá bỏ không thương tiếc. Rồi mấy chục năm binh hỏa, gò rùa chỉ nằm trơ giữa hồ Hoàn Kiếm.
Sau khi quân Pháp chiếm thành Hà Nội, dân vùng quanh hồ Hoàn Kiếm xiêu tán cả. Bấy giờ, bá hộ Kim (Nguyễn Ngọc Kim) là người làm trung gian liên lạc giữa dân bản xứ với chính quyền thực dân. Y thấy gò Rùa nằm giữa hồ là một huyệt đất đẹp, nghĩ rằng đó là huyệt có thể phát bá vương, nên bá hộ Kim âm mưu đặt mộ cha mẹ mình vào đó.
Năm 1886, bá hộ Kim xin phép chính quyền thực dân và xây lên gò Rùa một tòa tháp ba tầng. Ban đầu tòa tháp này mang tên là tháp bá hộ Kim. Kiến trúc của nó là sự kết hợp hai nền kiến trúc đông tây. Hai tầng dưới trổ các cửa theo kiểu cửa vòm của nhà thờ phương tây. Còn tầng trên cùng lại làm mái kiểu truyền thống, với đầu đao và lưỡng long trầu nhật.
Đánh giá về tháp Rùa, từ điển Địa danh lịch sử Việt Nam viết: tháp Rùa không có giá trị về mặt kiến trúc. Còn từ điển mở Wikipedia thì cho rằng, đó là một sự kết hợp thất bại hai nền kiến trúc đông tây.
Tháp rùa xây xong, bá hộ Kim tổ chức khánh thành linh đình và đem cốt cha mình ra đặt vào đó. Chuyện đặt hài cốt cha mẹ bá hộ Kim cũng có nhiều câu chuyện ly kỳ. Nhà văn Băng Sơn kể ra một câu chuyện trong một bài ký về hồ Gươm rằng:
- Hôm táng, đêm tối nhá nhem, đám thợ sau khi hoàn thành công việc lẻn trở lại vứt cốt ông lão xuống hồ.
Còn cố giáo sư Sử học Trần Quốc Vượng thì kể rằng:
- Bá Kim chờ đến đêm mới lẻn đem cốt bố ông ta ra tháp đặt. Có người rình ông ta vừa quay vào thì lập tức ra đào vứt đâu không ai biết.
Việc bá hộ Kim vì chơi với chính quyền thực dân, mới dám ngang nhiên xây tháp đặt cốt cha mẹ giữa trung tâm đất Hà thành ngàn năm văn hiến, đã có một kết cục theo đúng logic của văn hóa Việt. Đó là những thứ chỉ vì mục đích cá nhân thì không trường tồn được. Câu chuyện đó đã diễn ra từ hơn trăm năm trước.
Còn giờ đây, tháp bá hộ Kim ngày nào đã được mang tên Tháp Rùa và trở thành một điểm chiêm ngưỡng du lịch giữa lòng thủ đô. Dưới con mắt nghệ thuật thì tháp Rùa không đẹp chút nào, vì nó là một sự kết hợp vụng về. Nhưng những câu chuyện về kết cục của việc đặt cốt cha bá hộ Kim, thì như một thang thuốc để người Hà thành đắp lành vết thương.
Vì bá hộ Kim được chính quyền thực dân bảo hộ, nên người ta không thể đập phéng cái tháp đi được. Song từ những anh thợ nề trong câu chuyện của nhà văn Băng Sơn, hay một người dân thường nào đó trong vùng, đã bí mật vứt tro cốt bố bá hộ Kim đi, đều thể hiện rằng mọi người dân Việt đều hiên ngang bất khuất.
Tầm nhìn
#219
Gửi vào 01/08/2011 - 21:25
GIẾNG TIÊN LÀNG CHIỀNG
Các cụ cao niên trong làng kể rằng, cái giếng này đột ngột xuất hiện sau một đêm mưa bão và người đào giếng là Long Vương. Vậy nên từ khi hình thành đến nay, không biết trải qua bao nhiêu đời người, nước trong giếng không bao giờ cạn. Từ bao đời nay, hàng trăm người dân thôn Chiềng hai (xã Lương Sơn, Bảo Yên, Lào Cai) vẫn sống nhờ cái giếng đó.
Sự hình thành kỳ lạ.
Ở tuổi bảy mươi sáu, Cụ Hoàng Văn Tu là người nhiều tuổi nhất nhì của thôn Chiềng hai vừa dẫn chúng tôi ra thăm giếng vừa kể: Không biết giếng hình thành từ khi nào, ngay từ nhỏ cụ đã thấy một cái giếng như bây giờ. Cái giếng là nơi cung cấp nguồn nước cho hàng chục ha ruộng vườn và cung cấp nước sinh hoạt cho hàng chục hộ dân xung quanh.
Cách đây khoảng ba mươi năm mạch nước của giếng tiên lúc nào cũng phun lên như đang sôi sùng sục, nhiều người cho đó là long mạch. Qua thời gian, mạch nước không còn nhiều như trước nữa nhưng chưa bao giờ người dân thôn Chiềng hai thiếu nước sinh hoạt cũng như phục vụ tưới tiêu.
Ông Hoàng Văn Khanh, già làng thôn Chiềng hai nhớ lại:
- Khi tôi sinh ra đã được nghe cụ tôi kể rằng, vào một buổi chiều, có người lạ xuất hiện và đến ngôi nhà ở gần giếng tiên bây giờ hỏi thăm có thấy con trâu trắng nào lạc đến đến đây không? Chủ nhân của ngôi nhà trả lời rằng, cách đây ít hôm ngôi nhà ở cuối làng có thấy một con trâu trắng. Nghe vậy rồi để trả ơn người mách bảo, người đến tìm trâu đã nói với chủ nhà vừa hỏi cho một điều ước, muốn thứ gì thì sẽ cho thứ đó.
Sau một hồi suy nghĩ người chủ nhà nói: Ở đây quanh năm khô hạn, không có nước, lại mỗi mình bà sống ở đây ngày ngày đang đói khát, bà chỉ mong sao có đủ nước uống, cơm ăn. Vậy là người đến tìm trâu trắng dặn bà cụ tối nay nếu thấy sấm chớp, mưa gió thì cụ đừng ra ngoài, ngày mai cụ sẽ có được điều mà cụ muốn.
Sau khi người đi tìm trâu về nhà, trời cũng đã sẩm tối. Bỗng chốc trời tối đen như mực, sét đánh ầm ầm, trời mưa rất to, chẳng mấy chốc nước suối dâng cao ngùn ngụt khiến cả đồi cây và đầm lầy chìm trong biển nước. Bà chủ nhà gần giếng nước bây giờ nghe theo lời người đi tìm trâu không ra khỏi nhà đêm hôm đó.
Sáng hôm sau, bà ra phía hiên nhà thì thấy xuất hiện một cái giếng nước trong vắt, mạch nước sùng sục tuôn ra trong khe đá, xung quanh giếng nước được xếp đá kè, phía ngoài đường vào có một khối đá rất vuông vắn rộng hơn 1m, phía bên trên là hai cái mẹt rất to đựng tằm đang đến độ nhả tơ.
Bà cụ mang hai mẹt tằm về nuôi được vài ngày, khi chúng nhả tơ thì hầu hết số tằm đó biến thành những đồng bạc trắng. Giếng tiên ngày nay hình thành từ đó, cũng từ đó đến nay nguồn nước không bao giờ ngừng chảy. Không biết qua bao nhiêu đời người, họ truyền tai nhau rằng con trâu trắng đó là của Long Vương, người đến tìm trâu chính là "sứ giả" mà Long Vương sai đến.
Đông ấm, hè mát.
Nhiều cụ cao niên trong thôn Chiềng hai nhắc nhở với con cháu rằng, giếng tiên là nơi linh thiêng, tôn nghiêm, không được làm bẩn. Khi chúng tôi có mặt tại giếng tiên thời tiết đang là mùa đông, trên mặt nước bốc khói nghi ngút, rất ấm.
Một người dân thôn Chiềng hai đi làm về vào giếng uống nước khoe với chúng tôi, giếng nước này là cái bình nóng lạnh của làng, vào mùa đông thì ấm, có thể múc nước về tắm luôn được, nhưng mùa hè lại rất mát, lấy quả vùi dưới lớp cát của giếng, một lúc sau mang lên ăn thì như để trong tủ lạnh.
Hầu hết các cánh đồng trong xã Lương Sơn đều dẫn nước từ suối vào trồng lúa hai vụ, thường xuyên thiếu nước vào mùa hạn, nhiều diện tích phải bỏ hoang hoặc chuyển đổi sang cây trồng khác nhưng riêng cánh đồng mà giếng tiên tưới thì không bao giờ hạn hán, vào mùa đông nguồn nước ấm nên lúa nước phát triển rất tốt, vậy nên năng suất bao giờ cũng cao hơn những cánh đồng khác.
Ông Khanh cho biết thêm: Giếng tiên trước đây được bao quanh bởi những rừng cây rậm rạp, nhiều người lạ đến thăm giếng, do trong một không gian âm u, thỉnh thoảng trong rừng cây có tiếng cây gẫy, đổ dẫn đến giật mình, sau khi về thường bị ốm, phải làm lễ mới khỏi.
Nhưng ngày nay do dân số trong thôn ngày một tăng, số người vào giếng ngày càng nhiều, xung quanh giếng đã được phát quang nên những việc như trước đây ít xảy ra hơn. Tuy nhiên, người lạ đến thăm giếng vẫn cần tuân thủ các quy tắc của làng.
Trần Hòa
Các cụ cao niên trong làng kể rằng, cái giếng này đột ngột xuất hiện sau một đêm mưa bão và người đào giếng là Long Vương. Vậy nên từ khi hình thành đến nay, không biết trải qua bao nhiêu đời người, nước trong giếng không bao giờ cạn. Từ bao đời nay, hàng trăm người dân thôn Chiềng hai (xã Lương Sơn, Bảo Yên, Lào Cai) vẫn sống nhờ cái giếng đó.
Sự hình thành kỳ lạ.
Ở tuổi bảy mươi sáu, Cụ Hoàng Văn Tu là người nhiều tuổi nhất nhì của thôn Chiềng hai vừa dẫn chúng tôi ra thăm giếng vừa kể: Không biết giếng hình thành từ khi nào, ngay từ nhỏ cụ đã thấy một cái giếng như bây giờ. Cái giếng là nơi cung cấp nguồn nước cho hàng chục ha ruộng vườn và cung cấp nước sinh hoạt cho hàng chục hộ dân xung quanh.
Cách đây khoảng ba mươi năm mạch nước của giếng tiên lúc nào cũng phun lên như đang sôi sùng sục, nhiều người cho đó là long mạch. Qua thời gian, mạch nước không còn nhiều như trước nữa nhưng chưa bao giờ người dân thôn Chiềng hai thiếu nước sinh hoạt cũng như phục vụ tưới tiêu.
Ông Hoàng Văn Khanh, già làng thôn Chiềng hai nhớ lại:
- Khi tôi sinh ra đã được nghe cụ tôi kể rằng, vào một buổi chiều, có người lạ xuất hiện và đến ngôi nhà ở gần giếng tiên bây giờ hỏi thăm có thấy con trâu trắng nào lạc đến đến đây không? Chủ nhân của ngôi nhà trả lời rằng, cách đây ít hôm ngôi nhà ở cuối làng có thấy một con trâu trắng. Nghe vậy rồi để trả ơn người mách bảo, người đến tìm trâu đã nói với chủ nhà vừa hỏi cho một điều ước, muốn thứ gì thì sẽ cho thứ đó.
Sau một hồi suy nghĩ người chủ nhà nói: Ở đây quanh năm khô hạn, không có nước, lại mỗi mình bà sống ở đây ngày ngày đang đói khát, bà chỉ mong sao có đủ nước uống, cơm ăn. Vậy là người đến tìm trâu trắng dặn bà cụ tối nay nếu thấy sấm chớp, mưa gió thì cụ đừng ra ngoài, ngày mai cụ sẽ có được điều mà cụ muốn.
Sau khi người đi tìm trâu về nhà, trời cũng đã sẩm tối. Bỗng chốc trời tối đen như mực, sét đánh ầm ầm, trời mưa rất to, chẳng mấy chốc nước suối dâng cao ngùn ngụt khiến cả đồi cây và đầm lầy chìm trong biển nước. Bà chủ nhà gần giếng nước bây giờ nghe theo lời người đi tìm trâu không ra khỏi nhà đêm hôm đó.
Sáng hôm sau, bà ra phía hiên nhà thì thấy xuất hiện một cái giếng nước trong vắt, mạch nước sùng sục tuôn ra trong khe đá, xung quanh giếng nước được xếp đá kè, phía ngoài đường vào có một khối đá rất vuông vắn rộng hơn 1m, phía bên trên là hai cái mẹt rất to đựng tằm đang đến độ nhả tơ.
Bà cụ mang hai mẹt tằm về nuôi được vài ngày, khi chúng nhả tơ thì hầu hết số tằm đó biến thành những đồng bạc trắng. Giếng tiên ngày nay hình thành từ đó, cũng từ đó đến nay nguồn nước không bao giờ ngừng chảy. Không biết qua bao nhiêu đời người, họ truyền tai nhau rằng con trâu trắng đó là của Long Vương, người đến tìm trâu chính là "sứ giả" mà Long Vương sai đến.
Đông ấm, hè mát.
Nhiều cụ cao niên trong thôn Chiềng hai nhắc nhở với con cháu rằng, giếng tiên là nơi linh thiêng, tôn nghiêm, không được làm bẩn. Khi chúng tôi có mặt tại giếng tiên thời tiết đang là mùa đông, trên mặt nước bốc khói nghi ngút, rất ấm.
Một người dân thôn Chiềng hai đi làm về vào giếng uống nước khoe với chúng tôi, giếng nước này là cái bình nóng lạnh của làng, vào mùa đông thì ấm, có thể múc nước về tắm luôn được, nhưng mùa hè lại rất mát, lấy quả vùi dưới lớp cát của giếng, một lúc sau mang lên ăn thì như để trong tủ lạnh.
Hầu hết các cánh đồng trong xã Lương Sơn đều dẫn nước từ suối vào trồng lúa hai vụ, thường xuyên thiếu nước vào mùa hạn, nhiều diện tích phải bỏ hoang hoặc chuyển đổi sang cây trồng khác nhưng riêng cánh đồng mà giếng tiên tưới thì không bao giờ hạn hán, vào mùa đông nguồn nước ấm nên lúa nước phát triển rất tốt, vậy nên năng suất bao giờ cũng cao hơn những cánh đồng khác.
Ông Khanh cho biết thêm: Giếng tiên trước đây được bao quanh bởi những rừng cây rậm rạp, nhiều người lạ đến thăm giếng, do trong một không gian âm u, thỉnh thoảng trong rừng cây có tiếng cây gẫy, đổ dẫn đến giật mình, sau khi về thường bị ốm, phải làm lễ mới khỏi.
Nhưng ngày nay do dân số trong thôn ngày một tăng, số người vào giếng ngày càng nhiều, xung quanh giếng đã được phát quang nên những việc như trước đây ít xảy ra hơn. Tuy nhiên, người lạ đến thăm giếng vẫn cần tuân thủ các quy tắc của làng.
Trần Hòa
#220
Gửi vào 01/08/2011 - 21:28
NGƯỜI KỸ SƯ HOA KỲ FRANK M. BALK
Ðây là một trường hợp lạ lùng về một người con đi tìm người cha từ tiền kiếp. Nguyên Frank M. Balk đã nhiều đêm nằm mộng, thấy một người đến bên giường lay gọi bảo rằng hãy tìm đến quốc gia có tên là Việt Nam, để tìm gặp người cha tiền kiếp của mình, hiện đang là một nhà sư trụ trì tại một ngôi chùa ở đó.
Lúc đầu không tin nhưng sau đó, viên kỹ sư này cảm thấy có một điều gì đó cần phải tìm hiểu, nên cuối cùng quyết định xin được công tác ở Việt Nam. Lúc ấy là năm 1958 thời Ông Ngô Ðình Diệm. Sau mỗi lần nghỉ phép ông này tìm đến các ngôi chùa ở miền Nam, để mong gặp người cha tiền kiếp một cách bất ngờ và may mắn nào đó.
Một hôm tình cờ đến một ngôi chùa nằm trên ngọn đồi, đó là chùa Hải Ðức, người kỹ sư này bỗng gặp sư Phước Huệ đang ngồi tụng kinh trước bàn thờ Phật. Ðiều kỳ lạ là gương mặt vị sư già, lại giống gương mặt người kỹ sư Hoa Kỳ như hai giọt nước.
Cuộc hội diện ly kỳ này đã xảy ra đúng vào lúc 4 giờ 30 chiều ngày 27 tháng 4 năm 1958. Viên kỹ sư Hoa Kỳ Frank M. Balk đã nhận sư Phước Huệ là cha mình, hai cha con đã chụp chung một bức ảnh kỷ niệm, và hiện bức ảnh này được treo thờ tại hai ngôi chùa có cùng tên Hải Ðức, một ở Nha Trang, một ở Huế.
Tamlinh
Ðây là một trường hợp lạ lùng về một người con đi tìm người cha từ tiền kiếp. Nguyên Frank M. Balk đã nhiều đêm nằm mộng, thấy một người đến bên giường lay gọi bảo rằng hãy tìm đến quốc gia có tên là Việt Nam, để tìm gặp người cha tiền kiếp của mình, hiện đang là một nhà sư trụ trì tại một ngôi chùa ở đó.
Lúc đầu không tin nhưng sau đó, viên kỹ sư này cảm thấy có một điều gì đó cần phải tìm hiểu, nên cuối cùng quyết định xin được công tác ở Việt Nam. Lúc ấy là năm 1958 thời Ông Ngô Ðình Diệm. Sau mỗi lần nghỉ phép ông này tìm đến các ngôi chùa ở miền Nam, để mong gặp người cha tiền kiếp một cách bất ngờ và may mắn nào đó.
Một hôm tình cờ đến một ngôi chùa nằm trên ngọn đồi, đó là chùa Hải Ðức, người kỹ sư này bỗng gặp sư Phước Huệ đang ngồi tụng kinh trước bàn thờ Phật. Ðiều kỳ lạ là gương mặt vị sư già, lại giống gương mặt người kỹ sư Hoa Kỳ như hai giọt nước.
Cuộc hội diện ly kỳ này đã xảy ra đúng vào lúc 4 giờ 30 chiều ngày 27 tháng 4 năm 1958. Viên kỹ sư Hoa Kỳ Frank M. Balk đã nhận sư Phước Huệ là cha mình, hai cha con đã chụp chung một bức ảnh kỷ niệm, và hiện bức ảnh này được treo thờ tại hai ngôi chùa có cùng tên Hải Ðức, một ở Nha Trang, một ở Huế.
Tamlinh
#221
Gửi vào 02/08/2011 - 08:55
NHỮNG TÁC PHẨM TỪ THẾ GIỚI BÊN KIA
Từ một phụ nữ nội trợ ít học, Pearl Curran, Mỹ, đã trở thành văn sĩ nổi tiếng với hàng chục tác phẩm giá trị. Đặc biệt bà khẳng định mình không viết nên các áng văn, thơ ấy mà chỉ chép lại lời "đọc" của một phụ nữ từ hai thế kỷ trước.
Suốt thời thơ ấu, Pearl L. Pollard tên hồi con gái của Pearl Curran 1883-1937, chỉ là cô bé có trí thông minh ở mức trung bình, không có năng khiếu hay sở thích nào đặc biệt và khá thờ ơ với chuyện học hành. Năm mười bốn tuổi, ngượng với bạn bè vì phải học lại một lớp nên Pearl Curran bỏ dở chương trình trung học và xin đi làm.
Mười năm sau bà kết hôn và bắt đầu một cuộc sống khép kín, buồn tẻ của người nội trợ trong một gia đình nghèo thuộc tầng lớp lao động. Những người quen biết với Curran không bao giờ thấy bà nói chuyện văn chương, cũng chưa hề thấy người phụ nữ này có lấy một cuốn sách trong nhà. Mọi thứ cứ thế bình lặng trôi đi trong nhiều năm.
Cho đến một ngày tháng 7-1913, mấy người hàng xóm ghé chơi mang theo một chiếc bảng cầu cơ, loại bảng gồm các chữ cái, các ký tự khác và một mũi tên được cho là có thể chuyển tải thông tin từ thế giới bên kia. Pearl Curran vừa đặt tay vào thì mũi tên bắt đầu dịch chuyển giữa các con chữ trên bảng và một thông điệp dần hiện ra. Đó là tên một phụ nữ: Patience Worth.
Tò mò, Pearl Curran và những người hàng xóm tiếp tục đặt các câu hỏi cho Patience Worth qua bảng cầu cơ. Patience Worth cho biết bà là một phụ nữ đã sống ở Dorsetshire, Anh, năm 1649 hoặc 1694 sau đó di cư sang Mỹ và bị thổ dân da đỏ ở đó sát hại.
Từ sau buổi cầu cơ, Pearl Curran bỗng nhiên trở thành một con người khác. Trong vòng chín năm tiếp theo, bà bước hẳn vào lĩnh vực văn chương và liên tiếp cho ra đời nhiều bộ tiểu thuyết, một số truyện ngắn và hàng trăm bài thơ. Nhiều tác phẩm trong số này được giới phê bình đánh giá khá cao và thu hút được sự chú ý của độc giả vì giá trị nghệ thuật và tư tưởng.
Nhưng điều khiến người ta ngạc nhiên hơn cả là Pearl Curran khẳng định mình không phải là người viết nên những tác phẩm này. Tất cả những gì bà làm chỉ là chép lại từng câu chữ được Patience Worth "đọc" cho nghe trong đầu hay qua bảng cầu cơ.
Khá nhiều học giả hồi đó tin vào giải thích này vì theo họ, với trình độ học vấn và hiểu biết của Pearl Curran thì sáng tác là điều không tưởng. Hơn nữa phân tích ngôn ngữ dùng trong các tác phẩm của bà, khoảng 90% là thuộc hệ Anglo-Saxon và 10% là tiếng Pháp cổ được dùng từ thế kỷ mười bảy trở về trước. Làm sao một bà nội trợ chưa học hết trung học, suốt ngày chỉ ru rú trong nhà và chẳng bao giờ sờ đến sách vở như Pearl Curran, lại có thể sử dụng thứ ngôn ngữ này.
Từ sau năm 1922 số lượng các tác phẩm mà Pearl Curran cho ra đời ngày càng ít đi. Theo lời bà thì Patience Worth cũng không còn đọc tiếp cho bà chép nữa. Cho đến năm 1937 khi Pearl Curran qua đời thì việc đó ngừng hẳn. Patience Worth cũng không xuất hiện nữa, dù cũng có người thử dùng bảng cầu cơ để liên lạc.
Nhiều thập kỷ sau đó, người ta vẫn còn tranh cãi về tính trung thực trong câu chuyện về Patience Worth. Một số người vẫn tin rằng thực sự có một linh hồn như vậy tồn tại và nó đã liên hệ với Pearl Curran bằng sợi dây tâm linh để thực hiện giấc mơ văn chương còn dang dở lúc sinh thời. Ngược lại nhiều người khác cho đó chỉ là một màn kịch để tiếp thị sách.
ST
Từ một phụ nữ nội trợ ít học, Pearl Curran, Mỹ, đã trở thành văn sĩ nổi tiếng với hàng chục tác phẩm giá trị. Đặc biệt bà khẳng định mình không viết nên các áng văn, thơ ấy mà chỉ chép lại lời "đọc" của một phụ nữ từ hai thế kỷ trước.
Suốt thời thơ ấu, Pearl L. Pollard tên hồi con gái của Pearl Curran 1883-1937, chỉ là cô bé có trí thông minh ở mức trung bình, không có năng khiếu hay sở thích nào đặc biệt và khá thờ ơ với chuyện học hành. Năm mười bốn tuổi, ngượng với bạn bè vì phải học lại một lớp nên Pearl Curran bỏ dở chương trình trung học và xin đi làm.
Mười năm sau bà kết hôn và bắt đầu một cuộc sống khép kín, buồn tẻ của người nội trợ trong một gia đình nghèo thuộc tầng lớp lao động. Những người quen biết với Curran không bao giờ thấy bà nói chuyện văn chương, cũng chưa hề thấy người phụ nữ này có lấy một cuốn sách trong nhà. Mọi thứ cứ thế bình lặng trôi đi trong nhiều năm.
Cho đến một ngày tháng 7-1913, mấy người hàng xóm ghé chơi mang theo một chiếc bảng cầu cơ, loại bảng gồm các chữ cái, các ký tự khác và một mũi tên được cho là có thể chuyển tải thông tin từ thế giới bên kia. Pearl Curran vừa đặt tay vào thì mũi tên bắt đầu dịch chuyển giữa các con chữ trên bảng và một thông điệp dần hiện ra. Đó là tên một phụ nữ: Patience Worth.
Tò mò, Pearl Curran và những người hàng xóm tiếp tục đặt các câu hỏi cho Patience Worth qua bảng cầu cơ. Patience Worth cho biết bà là một phụ nữ đã sống ở Dorsetshire, Anh, năm 1649 hoặc 1694 sau đó di cư sang Mỹ và bị thổ dân da đỏ ở đó sát hại.
Từ sau buổi cầu cơ, Pearl Curran bỗng nhiên trở thành một con người khác. Trong vòng chín năm tiếp theo, bà bước hẳn vào lĩnh vực văn chương và liên tiếp cho ra đời nhiều bộ tiểu thuyết, một số truyện ngắn và hàng trăm bài thơ. Nhiều tác phẩm trong số này được giới phê bình đánh giá khá cao và thu hút được sự chú ý của độc giả vì giá trị nghệ thuật và tư tưởng.
Nhưng điều khiến người ta ngạc nhiên hơn cả là Pearl Curran khẳng định mình không phải là người viết nên những tác phẩm này. Tất cả những gì bà làm chỉ là chép lại từng câu chữ được Patience Worth "đọc" cho nghe trong đầu hay qua bảng cầu cơ.
Khá nhiều học giả hồi đó tin vào giải thích này vì theo họ, với trình độ học vấn và hiểu biết của Pearl Curran thì sáng tác là điều không tưởng. Hơn nữa phân tích ngôn ngữ dùng trong các tác phẩm của bà, khoảng 90% là thuộc hệ Anglo-Saxon và 10% là tiếng Pháp cổ được dùng từ thế kỷ mười bảy trở về trước. Làm sao một bà nội trợ chưa học hết trung học, suốt ngày chỉ ru rú trong nhà và chẳng bao giờ sờ đến sách vở như Pearl Curran, lại có thể sử dụng thứ ngôn ngữ này.
Từ sau năm 1922 số lượng các tác phẩm mà Pearl Curran cho ra đời ngày càng ít đi. Theo lời bà thì Patience Worth cũng không còn đọc tiếp cho bà chép nữa. Cho đến năm 1937 khi Pearl Curran qua đời thì việc đó ngừng hẳn. Patience Worth cũng không xuất hiện nữa, dù cũng có người thử dùng bảng cầu cơ để liên lạc.
Nhiều thập kỷ sau đó, người ta vẫn còn tranh cãi về tính trung thực trong câu chuyện về Patience Worth. Một số người vẫn tin rằng thực sự có một linh hồn như vậy tồn tại và nó đã liên hệ với Pearl Curran bằng sợi dây tâm linh để thực hiện giấc mơ văn chương còn dang dở lúc sinh thời. Ngược lại nhiều người khác cho đó chỉ là một màn kịch để tiếp thị sách.
ST
#222
Gửi vào 02/08/2011 - 10:14
CHUYỆN KHÓ TIN VỀ MA HÚT
Ông Lường Văn Hối đã khuất núi ngót chục năm. Ông là người Xinh Mun, hay còn gọi là Puộc, một dân tộc hiền lành, thuở trước chuyên đi ở cho các nhà giàu trong vùng Sông Mã. Trong cõi Tây Bắc mù sương ẩn chứa đầy rẫy những điều khó hiểu, thần bí đến hoang đường. Và trong số những câu chuyện khó tin ấy có cách chữa bệnh, cứu người lạ lùng của ông Vì Văn Cán, sống ở bản Pá Công, xã Huổi Một, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Chỉ bằng một ống tre nhỏ, lão dị nhân miền sơn cước ấy có thể hút tất cả các dị vật xâm nhập ngoài ý muốn vào cơ thể người, như bị trúng đạn, kim đâm, hóc xương, hay dính độc. Người dân gọi ông là ma hút.
Khi quân Pháp tiến lên vùng Tây Bắc, ông Hối bị bắt đi làm lính dõng, rồi theo gót giầy xâm lược của thực dân sang vùng Thượng Lào đóng quân. Tại đây ông đã được một thầy phù thủy người Xinh Mun ở vùng đất ấy truyền cho bài chú khấn ma, đặc trị những chứng tai ương hiểm nghèo. Trước đây, súng kíp là loại vũ khí phổ biến của người dân vùng Tây Bắc và cũng bởi sự phổ biến đó, mà tai nạn do loại hoả lực này gây ra cũng rất nhiều. Và vì bài chú hút dị vật mà ông Hối học được đã có đất để phát huy công dụng.
Theo những người trong gia đình ông Hối thì hơn năm mươi năm chữa bệnh, ông đã làm lành vết thương cho hàng ngàn người mà không hề lấy một đồng tiền, cắc bạc nào của người bệnh. Chính vì vậy cho đến khi nhắm mắt xuôi tay ông vẫn nghèo rớt mùng tơi. Ông Hối mất phương pháp chữa bệnh độc đáo đó được truyền lại cho người duy nhất, là ông Vì Văn Cán con rể ông Hối. Đến giờ truyền nhân ấy cũng đã chữa bệnh cứu người được hơn chục năm ròng. Ông Cán vẫn nhớ như in những ngày khổ luyện khi học nghề lạ ấy từ bố vợ mình.
Năm 1987 khi biết mình không còn sống được bao lâu nữa, ông Hối đã chọn mặt gửi vàng truyền nghề cho những người mà mình tin tưởng. Ba người được học là ông Cán và hai người cháu ruột của mình. Trong suốt ba năm cứ vào buổi tối là họ phải học những bài cúng gọi là Rẹt Phi, đọc liền mạch không được đứt hơi và phải kiêng ăn thịt các loại chim, thịt khỉ và ba ba. Sau vài tháng, hai người cháu không chịu nổi sự kiêng khem rối rắm trên nên đã bỏ cuộc. Ông Cán vẫn kiên trì theo học. Truyền vừa hết mọi bí quyết cho con rể, thì ngay ngày hôm đó ông Hối qua đời.
Theo như ông Cán, ngoài việc học thuộc những bài cúng và kiêng cữ đủ ba năm, ông còn phải lập một mâm thờ, ngay cạnh chỗ nằm ngủ của mình, cùng hai bộ bàn thờ khác, một để dưới gầm nhà sàn, một treo trên vách tường. Mâm thờ gồm có gạo nếp, một bát nước được hòa với tổ của con tò vò, bên trong bỏ ba hào bạc hoa xòe. Ngoài ra trong mâm thờ này còn đặt hai mét vải đỏ, một chiếc khăn Piêu và lúc nào cũng phải có hai quả trứng. Mỗi khi ông Cán chữa bệnh thì phải thắp hương ở cả ba bàn thờ.
Ông bảo, làm như vậy là để bảo với con ma nhập vào mình để giúp mọi người. Khi đó, ông có thể nhìn rõ mọi vật nằm sâu trong cơ thể, tìm đường vào của chúng và nhanh chóng hút ra. Trong lúc thực hiện món công phu này, ông Cán có thể cho nến cháy ở trong mồm, dùng lưỡi liếm vào lưỡi dao đã được hơ đỏ mà không hề hấn gì. Chứng kiến ông Cán chữa bệnh cho chị Tòng Thị Hạnh bản Lệ, xã Hua La, thị xã Sơn La, chúng tôi không khỏi trầm trồ, kinh ngạc. Nó như một trò ảo thuật có một không hai.
Chị Hạnh bị viêm gai thị giác, đã chữa ở cả bệnh viện địa phương lẫn Trung ương mà bệnh chẳng lành. Cuối cùng chị đã tìm đến ông Vì Văn Cán nhờ giúp đỡ. Buổi chữa bệnh độc đáo ấy còn có sự chứng kiến của ông Lường Văn Cấu, nguyên là phó trưởng công an huyện Sông Mã, bản Pá Công. Để chữa căn bệnh đau mắt của chị Hạnh, ông Cán dúi con dao chẻ củi vào bếp lửa đang cháy bùng bùng. Xong việc đó, ông thắp ba nén hương và khấn những câu Rẹt Phi bằng tiếng Xinh Mun. Vừa khấn ông vừa đốt nến và nhúng ba chiếc lá cỏ lát vào bát nước màu đen có hòa tổ tò vò. Giơ cây nến đang cháy lên ngang mặt, ông thu hết thần lực của mình vào chỗ đau của chị Hạnh.
Nhẹ nhàng dùng lá cỏ lát quét vào vết thương của người bệnh. Qua lời phiên dịch của ông Cấu, thì việc ông Cán dùng nến soi cũng không khác gì chụp X quang ở bệnh viện. Nhanh thoăn thoắt ông Cán lấy chiếc ống hút bằng nứa, đặt lên chỗ đau trên đôi mắt chị Hạnh và bắt đầu pha chữa bệnh lạ lùng của mình. Cứ hai lần hút vào thì lại một lần ông thả những thứ gọi là chất độc ấy vào một chén rượu trắng. Khi chuyển sang mắt phải chị Hạnh, ông Cán lại cho cây nến đang cháy dở vào miệng mình, khua khua mấy vòng trong họng rồi lại tiếp tục y như với mắt trái.
Đang hút độc thì ông Cán ra hiệu cho người nhà xuống bếp cầm con dao nung trong than hồng khi nãy lên. Giơ con dao nung đỏ trước mặt, ông Cán thản nhiên thè lưỡi liếm ngon lành như đứa trẻ mút kem. Những tiếng xèo xèo phát ra khiến nhiều người sởn da gà. Liếm dao nung đỏ xong, ông Cán phả hơi nóng vào mặt chị Hạnh. Theo như lời ông Cán nói thì đây là thuốc giảm đau với người bị vết thương kín, và là cách cầm máu với những người có vết thương hở.
Màn chữa bệnh của ông Cán kết thúc khi ông cắm lưỡi dao vào bát nước trong mâm thờ. Chị Hạnh bảo mỗi lần được hút như vậy thì đỡ hơn hẳn. Trước đây khi chưa nhờ ông Cán chữa trị, ngày nào chị cũng phải uống thuốc giảm đau mới ngủ được. Từ hôm sử dụng liệu pháp lạ lùng này, chị đã không phải dùng thuốc nữa. Cũng cách chữa bệnh kiểu trên, ông Cán đã cứu giúp nhiều người qua cơn hoạn nạn. Anh Lường Văn Táo, hai mươi hai tuổi, hiện là dân quân xã Huổi Một, Sông Mã là một ví dụ. Đầu tháng bảy trong lúc đi rừng, súng săn bị cướp cò khiến anh bị thương nặng. Hơn bốn chục mảnh đạn chì nhỏ li ti găm sâu trong đùi phải.
Trong khi đợi người nhà thuê xe đi ra bệnh viện tỉnh Sơn La, để các bác sỹ đóng đinh, bắt vít cho đoạn xương bị gẫy, anh Táo đã được ông Cán hút ra mười bảy mảnh đạn. Số còn lại đợi khi nào chỗ xương gẫy lành hẳn thì phẫu thuật tiếp. Em của anh Táo là Lường Văn Tài giờ cũng coi ông Cán là ân nhân. Ồng Lường Văn Tài, hiện là Trưởng bản Pá Công kể, trong một lần chỉnh lại súng kíp, ông đã vô tình để súng nổ, đạn găm chi chít vào chân con trai mình. Như nhiều người khác ông vội vã nhờ ông Cán hút đạn ra. Đến nay đã tám năm vết thương của con trai ông đã không còn vết dấu.
Theo bà Lò Thị Giáng Hương. Trưởng phòng Y tế huyện Sông Mã, phương pháp chữa bệnh độc đáo của bố con ông Cán đã tồn tại từ rất lâu rồi. Chính người thân của bà Hương cũng nhờ cách chữa bệnh trên mà qua cơn bĩ cực. Trường hợp thứ nhất bị kim máy khâu đâm vào tay. Mẩu kim đó chạy theo mạch máu, cách chỗ đâm khoảng bảy cm, bệnh viện huyện đã gắp nhiều lần nhưng không thành. Trường hợp thứ hai là anh Lò Văn Khâm ở huyện Mai Sơn. Chụp phim, các bác sĩ thấy trong cơ thể ông Khâm có nhiều mảnh đạn. Sau khi được ông Cán xử lý, chụp chiếu lại thì không còn một mảnh đạn nào.
Phương pháp chữa bệnh độc đáo của ông Vì Văn Cán là rất lạ. Theo ông Khánh, ngành y tế tại địa phương cần nhanh chóng kiểm chứng cách chữa bệnh trên bằng các phương pháp khoa học. Nếu xét thấy việc chữa bệnh trên là tích cực thì cần có chính sách hỗ trợ, bảo tồn tránh thất truyền. Còn theo kỹ sư Nguyễn Việt Hà, thì loại bỏ những yếu tố bổ trợ mang màu sắc dị đoan như thắp hương, niệm chú, thì việc dùng ống tre, nứa để hút được những vật đã nằm sâu trong cơ thể là có cơ sở khoa học. Kỹ sư Hà cho biết, lực hút chân không từ ống hút kết hợp với áp lực máu trong cơ thể người bệnh hoàn toàn có thể lấy được vật thể lạ ra ngoài.
ST
Ông Lường Văn Hối đã khuất núi ngót chục năm. Ông là người Xinh Mun, hay còn gọi là Puộc, một dân tộc hiền lành, thuở trước chuyên đi ở cho các nhà giàu trong vùng Sông Mã. Trong cõi Tây Bắc mù sương ẩn chứa đầy rẫy những điều khó hiểu, thần bí đến hoang đường. Và trong số những câu chuyện khó tin ấy có cách chữa bệnh, cứu người lạ lùng của ông Vì Văn Cán, sống ở bản Pá Công, xã Huổi Một, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Chỉ bằng một ống tre nhỏ, lão dị nhân miền sơn cước ấy có thể hút tất cả các dị vật xâm nhập ngoài ý muốn vào cơ thể người, như bị trúng đạn, kim đâm, hóc xương, hay dính độc. Người dân gọi ông là ma hút.
Khi quân Pháp tiến lên vùng Tây Bắc, ông Hối bị bắt đi làm lính dõng, rồi theo gót giầy xâm lược của thực dân sang vùng Thượng Lào đóng quân. Tại đây ông đã được một thầy phù thủy người Xinh Mun ở vùng đất ấy truyền cho bài chú khấn ma, đặc trị những chứng tai ương hiểm nghèo. Trước đây, súng kíp là loại vũ khí phổ biến của người dân vùng Tây Bắc và cũng bởi sự phổ biến đó, mà tai nạn do loại hoả lực này gây ra cũng rất nhiều. Và vì bài chú hút dị vật mà ông Hối học được đã có đất để phát huy công dụng.
Theo những người trong gia đình ông Hối thì hơn năm mươi năm chữa bệnh, ông đã làm lành vết thương cho hàng ngàn người mà không hề lấy một đồng tiền, cắc bạc nào của người bệnh. Chính vì vậy cho đến khi nhắm mắt xuôi tay ông vẫn nghèo rớt mùng tơi. Ông Hối mất phương pháp chữa bệnh độc đáo đó được truyền lại cho người duy nhất, là ông Vì Văn Cán con rể ông Hối. Đến giờ truyền nhân ấy cũng đã chữa bệnh cứu người được hơn chục năm ròng. Ông Cán vẫn nhớ như in những ngày khổ luyện khi học nghề lạ ấy từ bố vợ mình.
Năm 1987 khi biết mình không còn sống được bao lâu nữa, ông Hối đã chọn mặt gửi vàng truyền nghề cho những người mà mình tin tưởng. Ba người được học là ông Cán và hai người cháu ruột của mình. Trong suốt ba năm cứ vào buổi tối là họ phải học những bài cúng gọi là Rẹt Phi, đọc liền mạch không được đứt hơi và phải kiêng ăn thịt các loại chim, thịt khỉ và ba ba. Sau vài tháng, hai người cháu không chịu nổi sự kiêng khem rối rắm trên nên đã bỏ cuộc. Ông Cán vẫn kiên trì theo học. Truyền vừa hết mọi bí quyết cho con rể, thì ngay ngày hôm đó ông Hối qua đời.
Theo như ông Cán, ngoài việc học thuộc những bài cúng và kiêng cữ đủ ba năm, ông còn phải lập một mâm thờ, ngay cạnh chỗ nằm ngủ của mình, cùng hai bộ bàn thờ khác, một để dưới gầm nhà sàn, một treo trên vách tường. Mâm thờ gồm có gạo nếp, một bát nước được hòa với tổ của con tò vò, bên trong bỏ ba hào bạc hoa xòe. Ngoài ra trong mâm thờ này còn đặt hai mét vải đỏ, một chiếc khăn Piêu và lúc nào cũng phải có hai quả trứng. Mỗi khi ông Cán chữa bệnh thì phải thắp hương ở cả ba bàn thờ.
Ông bảo, làm như vậy là để bảo với con ma nhập vào mình để giúp mọi người. Khi đó, ông có thể nhìn rõ mọi vật nằm sâu trong cơ thể, tìm đường vào của chúng và nhanh chóng hút ra. Trong lúc thực hiện món công phu này, ông Cán có thể cho nến cháy ở trong mồm, dùng lưỡi liếm vào lưỡi dao đã được hơ đỏ mà không hề hấn gì. Chứng kiến ông Cán chữa bệnh cho chị Tòng Thị Hạnh bản Lệ, xã Hua La, thị xã Sơn La, chúng tôi không khỏi trầm trồ, kinh ngạc. Nó như một trò ảo thuật có một không hai.
Chị Hạnh bị viêm gai thị giác, đã chữa ở cả bệnh viện địa phương lẫn Trung ương mà bệnh chẳng lành. Cuối cùng chị đã tìm đến ông Vì Văn Cán nhờ giúp đỡ. Buổi chữa bệnh độc đáo ấy còn có sự chứng kiến của ông Lường Văn Cấu, nguyên là phó trưởng công an huyện Sông Mã, bản Pá Công. Để chữa căn bệnh đau mắt của chị Hạnh, ông Cán dúi con dao chẻ củi vào bếp lửa đang cháy bùng bùng. Xong việc đó, ông thắp ba nén hương và khấn những câu Rẹt Phi bằng tiếng Xinh Mun. Vừa khấn ông vừa đốt nến và nhúng ba chiếc lá cỏ lát vào bát nước màu đen có hòa tổ tò vò. Giơ cây nến đang cháy lên ngang mặt, ông thu hết thần lực của mình vào chỗ đau của chị Hạnh.
Nhẹ nhàng dùng lá cỏ lát quét vào vết thương của người bệnh. Qua lời phiên dịch của ông Cấu, thì việc ông Cán dùng nến soi cũng không khác gì chụp X quang ở bệnh viện. Nhanh thoăn thoắt ông Cán lấy chiếc ống hút bằng nứa, đặt lên chỗ đau trên đôi mắt chị Hạnh và bắt đầu pha chữa bệnh lạ lùng của mình. Cứ hai lần hút vào thì lại một lần ông thả những thứ gọi là chất độc ấy vào một chén rượu trắng. Khi chuyển sang mắt phải chị Hạnh, ông Cán lại cho cây nến đang cháy dở vào miệng mình, khua khua mấy vòng trong họng rồi lại tiếp tục y như với mắt trái.
Đang hút độc thì ông Cán ra hiệu cho người nhà xuống bếp cầm con dao nung trong than hồng khi nãy lên. Giơ con dao nung đỏ trước mặt, ông Cán thản nhiên thè lưỡi liếm ngon lành như đứa trẻ mút kem. Những tiếng xèo xèo phát ra khiến nhiều người sởn da gà. Liếm dao nung đỏ xong, ông Cán phả hơi nóng vào mặt chị Hạnh. Theo như lời ông Cán nói thì đây là thuốc giảm đau với người bị vết thương kín, và là cách cầm máu với những người có vết thương hở.
Màn chữa bệnh của ông Cán kết thúc khi ông cắm lưỡi dao vào bát nước trong mâm thờ. Chị Hạnh bảo mỗi lần được hút như vậy thì đỡ hơn hẳn. Trước đây khi chưa nhờ ông Cán chữa trị, ngày nào chị cũng phải uống thuốc giảm đau mới ngủ được. Từ hôm sử dụng liệu pháp lạ lùng này, chị đã không phải dùng thuốc nữa. Cũng cách chữa bệnh kiểu trên, ông Cán đã cứu giúp nhiều người qua cơn hoạn nạn. Anh Lường Văn Táo, hai mươi hai tuổi, hiện là dân quân xã Huổi Một, Sông Mã là một ví dụ. Đầu tháng bảy trong lúc đi rừng, súng săn bị cướp cò khiến anh bị thương nặng. Hơn bốn chục mảnh đạn chì nhỏ li ti găm sâu trong đùi phải.
Trong khi đợi người nhà thuê xe đi ra bệnh viện tỉnh Sơn La, để các bác sỹ đóng đinh, bắt vít cho đoạn xương bị gẫy, anh Táo đã được ông Cán hút ra mười bảy mảnh đạn. Số còn lại đợi khi nào chỗ xương gẫy lành hẳn thì phẫu thuật tiếp. Em của anh Táo là Lường Văn Tài giờ cũng coi ông Cán là ân nhân. Ồng Lường Văn Tài, hiện là Trưởng bản Pá Công kể, trong một lần chỉnh lại súng kíp, ông đã vô tình để súng nổ, đạn găm chi chít vào chân con trai mình. Như nhiều người khác ông vội vã nhờ ông Cán hút đạn ra. Đến nay đã tám năm vết thương của con trai ông đã không còn vết dấu.
Theo bà Lò Thị Giáng Hương. Trưởng phòng Y tế huyện Sông Mã, phương pháp chữa bệnh độc đáo của bố con ông Cán đã tồn tại từ rất lâu rồi. Chính người thân của bà Hương cũng nhờ cách chữa bệnh trên mà qua cơn bĩ cực. Trường hợp thứ nhất bị kim máy khâu đâm vào tay. Mẩu kim đó chạy theo mạch máu, cách chỗ đâm khoảng bảy cm, bệnh viện huyện đã gắp nhiều lần nhưng không thành. Trường hợp thứ hai là anh Lò Văn Khâm ở huyện Mai Sơn. Chụp phim, các bác sĩ thấy trong cơ thể ông Khâm có nhiều mảnh đạn. Sau khi được ông Cán xử lý, chụp chiếu lại thì không còn một mảnh đạn nào.
Phương pháp chữa bệnh độc đáo của ông Vì Văn Cán là rất lạ. Theo ông Khánh, ngành y tế tại địa phương cần nhanh chóng kiểm chứng cách chữa bệnh trên bằng các phương pháp khoa học. Nếu xét thấy việc chữa bệnh trên là tích cực thì cần có chính sách hỗ trợ, bảo tồn tránh thất truyền. Còn theo kỹ sư Nguyễn Việt Hà, thì loại bỏ những yếu tố bổ trợ mang màu sắc dị đoan như thắp hương, niệm chú, thì việc dùng ống tre, nứa để hút được những vật đã nằm sâu trong cơ thể là có cơ sở khoa học. Kỹ sư Hà cho biết, lực hút chân không từ ống hút kết hợp với áp lực máu trong cơ thể người bệnh hoàn toàn có thể lấy được vật thể lạ ra ngoài.
ST
#223
Gửi vào 02/08/2011 - 10:24
ĐIỆN SINH HỌC NĂNG LƯỢNG KỲ BÍ CỦA CON NGƯỜI
Một nông dân Nhật phát hiện xác đứa trẻ chết đuối. Anh định vùng chạy nhưng cái xác đã vùng dậy, quờ lấy anh ta khiến anh ngã xuống chết. Các nhà khoa học giải thích, không phải ma quỷ mà chính điện sinh học đã gây hiện tượng trên. Mỗi cơ thể con người là hàng tỷ tế bào, mỗi tế bào là một chiếc pin sống. Chỉ có điều các pin này hết sức nhỏ, nên điện của chúng tạo ra vô cùng yếu. Có những điều con người cho là kỳ lạ, nhưng lại xuất phát từ nguồn điện sinh học đang tồn tại trong cơ thể con người.
Có rất nhiều câu chuyện liên quan đến dòng điện sống ở con người mà cho đến nay, nhiều người vẫn cho là do một thế lực siêu nhiên nào đó, và các nhà khoa học luôn đi tìm cách lý giải. Hiện tượng quỷ nhập tràng là một ví dụ, thực ra đây chỉ là một cách nói dân gian huyền bí làm câu chuyện trở nên ly kỳ. Ở tỉnh Togshiga, Nhật Bản vào năm 1974, một người nông dân đã phát hiện xác đứa trẻ bị chết đuối trôi dạt vào bờ. Một nhân chứng thuật lại, khi nhìn thấy xác chết, dường như có một điều gì đó rất lạ làm người nông dân đó hoảng sợ định vùng chạy, nhưng cái xác lại vùng dậy, quờ lấy anh ta rồi không thấy anh ta trở dậy.
Câu chuyện tưởng chừng như chỉ có trong các cuốn truyện kinh dị, hù dọa những người yếu tim, nhưng lại được giải thích một cách khoa học. Vì quá sợ khi nhìn thấy xác chết, não người nông dân đã phóng ra một nguồn điện rất mạnh truyền xuống chân, chân anh chạm vào xác chết, vốn là một chất dẫn điện và dòng điện này truyền xuống đất ẩm rồi quay trở lại, xuyên qua xác chết trở lại cơ thể người đàn ông. Như vậy là nguồn điện đã đóng mạch, xác chết giẫy mạnh bám lấy chân người nông dân khiến anh ta phát hoảng bỏ chạy, đồng thời kéo cái xác đi một đoạn. Người nông dân này không bị ma bắt như người ta thêu dệt, mà bị đứng tim và chết do quá sợ.
Tương tự như vậy, vào mùa xuân năm 1957 ở Ba Lan, một sinh viên tên là Mangecki có hẹn với cô bạn gái vào lúc sáu giờ tối, nhưng do làm việc căng thẳng nên anh đã ngủ quên. Trong giấc ngủ chập chờn, anh được thông báo về cái chết của người bạn gái. Sự thật là một chiếc ôtô lao nhanh đã cán ngang qua người một cô gái đi sang đường đúng vào giờ hẹn. Theo các nhà khoa học, trong trường hợp này, khi cô gái chết, não của cô đã phóng ra một làn sóng điện và não của Mangecki như một chiếc TV thu tín hiệu chuyển thành thông tin đến với anh.
Điện sinh học không chỉ tồn tại trong cơ thể con người mà nó còn có trong một số loài động vật, điển hình là ở cá đuối. Trên lưng cá đuối có sẵn hai nguồn điện sống, có thể phát ra nguồn điện mạnh đến 720 vôn để săn mồi. Chúng săn tìm những con cá khác mà không cần đến gần con mồi. Trong mỗi người chúng ta có một dòng điện sống. Mỗi tế bào chính là một chiếc pin, nhưng nguồn điện này lại quá yếu nên con người không bị điện giật. Đặc biệt ở não bộ, nơi điều khiển mọi hoạt động của cơ thể con người, số lượng tế bào nhiều và tập trung hơn bất kỳ bộ phận nào. Nó là nhà máy phát điện mạnh nhất.
Các nhà khoa học đã đo được trong mỗi tế bào não có một dòng điện khoảng chín mươi milivôn, và với mười lăm đến mười tám tỷ tế bào não, ta sẽ có một dòng điện cực mạnh. Trong mỗi con mắt của một người bình thường cũng có tới một trăm ba mươi triệu tế bào. Ở bộ não mỗi một cử động nhìn, nghe hay suy nghĩ của con người được não bộ tiếp nhận và xử lý, thông qua hàng triệu các xung động điện từ của các tế bào thần kinh. Bộ não là nơi duy nhất không sản sinh thêm các tế bào thần kinh nào, mà chúng mất đi theo tuổi tác.
Theo các nhà khoa học của Nga, thông thường các tế bào não hay tế bào thần kinh được sắp xếp theo một trật tự nhất định và điều khiển mọi hoạt động bình thường của con người. Nếu ở người nào các tế bào đó bị sắp xếp lộn xộn, các pin yếu kết hợp lại và phóng điện ra ngoài, thì người đó sẽ có khả năng đặc biệt. Chẳng hạn như một người Italy có khả năng làm mọi vật bốc cháy, hay như một em bé nam châm ở Nga có khả năng hút các đồ vật bằng sắt. Các nhà khoa học cho rằng, xung quanh những người này luôn xuất hiện một trường điện từ rất mạnh được điều khiển từ bộ não. Khi muốn thì khả năng đặc biệt mới bộc lộ, còn bình thường họ không có gì khác biệt với chúng ta.
Nhà bác học Faraday từng nói:
- Cho dù điện vật lý có hấp dẫn bao nhiêu thì cũng chẳng thể nào so được với sức cuốn hút kỳ diệu của điện sinh học, điện trong cơ thể ta.
Hiện nay ở các bệnh viện đã có máy để ghi lại điện tim hay điện não. Khi nghiên cứu tác động của trường điện từ tự nhiên đối với bộ não, giáo sư Hyland thuộc Đại học Coventry (Tây Ban Nha) cho rằng, những thay đổi về điện não đo được ở người, chứng tỏ sức khỏe của con người bị tác động của dòng điện tự nhiên. Nó làm não bộ mất cân bằng về một số chất sinh hóa, giống như những người say rượu và ngăn cản quá trình sản xuất melatonin, một hoóc môn chống ung thư ở người. Những thay đổi của dòng điện sinh học trong cơ thể, hay những biến đổi về trường điện từ của bộ não, cũng có thể đang báo hiệu một bệnh cảnh lâm sàng nào đó, đặc biệt là các bệnh về thần kinh.
Bác sĩ T.Sharma ở Học viện tâm thần London Anh, cho biết, việc chữa bệnh mất trí nhớ bằng phương pháp sốc điện đã cho kết quả khả quan. Gần 2.800 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp này trong vòng ba tháng, 80% trong số họ cho biết tình trạng bệnh được cải thiện. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng phương pháp trên sẽ tiêu diệt các tế bào thần kinh của não bộ. Thực tế là người ta đã kết hợp giữa dòng điện tự nhiên của cơ thể với dòng điện từ bên ngoài và tác động vào các tế bào thần kinh.
Các nhà khoa học đã thí nghiệm trên những người bị thương tổn não bộ. Họ dùng một dòng điện yếu kích thích nhiều vùng trên não để tìm ra những điểm điều khiển các hoạt động khác nhau của con người, có thể là vùng trí nhớ, vùng sợ hãi, hay vùng làm con người vui vẻ... Bằng phương pháp này, các bác sĩ có thể chữa được những căn bệnh liên quan đến tâm thần.
ST
Một nông dân Nhật phát hiện xác đứa trẻ chết đuối. Anh định vùng chạy nhưng cái xác đã vùng dậy, quờ lấy anh ta khiến anh ngã xuống chết. Các nhà khoa học giải thích, không phải ma quỷ mà chính điện sinh học đã gây hiện tượng trên. Mỗi cơ thể con người là hàng tỷ tế bào, mỗi tế bào là một chiếc pin sống. Chỉ có điều các pin này hết sức nhỏ, nên điện của chúng tạo ra vô cùng yếu. Có những điều con người cho là kỳ lạ, nhưng lại xuất phát từ nguồn điện sinh học đang tồn tại trong cơ thể con người.
Có rất nhiều câu chuyện liên quan đến dòng điện sống ở con người mà cho đến nay, nhiều người vẫn cho là do một thế lực siêu nhiên nào đó, và các nhà khoa học luôn đi tìm cách lý giải. Hiện tượng quỷ nhập tràng là một ví dụ, thực ra đây chỉ là một cách nói dân gian huyền bí làm câu chuyện trở nên ly kỳ. Ở tỉnh Togshiga, Nhật Bản vào năm 1974, một người nông dân đã phát hiện xác đứa trẻ bị chết đuối trôi dạt vào bờ. Một nhân chứng thuật lại, khi nhìn thấy xác chết, dường như có một điều gì đó rất lạ làm người nông dân đó hoảng sợ định vùng chạy, nhưng cái xác lại vùng dậy, quờ lấy anh ta rồi không thấy anh ta trở dậy.
Câu chuyện tưởng chừng như chỉ có trong các cuốn truyện kinh dị, hù dọa những người yếu tim, nhưng lại được giải thích một cách khoa học. Vì quá sợ khi nhìn thấy xác chết, não người nông dân đã phóng ra một nguồn điện rất mạnh truyền xuống chân, chân anh chạm vào xác chết, vốn là một chất dẫn điện và dòng điện này truyền xuống đất ẩm rồi quay trở lại, xuyên qua xác chết trở lại cơ thể người đàn ông. Như vậy là nguồn điện đã đóng mạch, xác chết giẫy mạnh bám lấy chân người nông dân khiến anh ta phát hoảng bỏ chạy, đồng thời kéo cái xác đi một đoạn. Người nông dân này không bị ma bắt như người ta thêu dệt, mà bị đứng tim và chết do quá sợ.
Tương tự như vậy, vào mùa xuân năm 1957 ở Ba Lan, một sinh viên tên là Mangecki có hẹn với cô bạn gái vào lúc sáu giờ tối, nhưng do làm việc căng thẳng nên anh đã ngủ quên. Trong giấc ngủ chập chờn, anh được thông báo về cái chết của người bạn gái. Sự thật là một chiếc ôtô lao nhanh đã cán ngang qua người một cô gái đi sang đường đúng vào giờ hẹn. Theo các nhà khoa học, trong trường hợp này, khi cô gái chết, não của cô đã phóng ra một làn sóng điện và não của Mangecki như một chiếc TV thu tín hiệu chuyển thành thông tin đến với anh.
Điện sinh học không chỉ tồn tại trong cơ thể con người mà nó còn có trong một số loài động vật, điển hình là ở cá đuối. Trên lưng cá đuối có sẵn hai nguồn điện sống, có thể phát ra nguồn điện mạnh đến 720 vôn để săn mồi. Chúng săn tìm những con cá khác mà không cần đến gần con mồi. Trong mỗi người chúng ta có một dòng điện sống. Mỗi tế bào chính là một chiếc pin, nhưng nguồn điện này lại quá yếu nên con người không bị điện giật. Đặc biệt ở não bộ, nơi điều khiển mọi hoạt động của cơ thể con người, số lượng tế bào nhiều và tập trung hơn bất kỳ bộ phận nào. Nó là nhà máy phát điện mạnh nhất.
Các nhà khoa học đã đo được trong mỗi tế bào não có một dòng điện khoảng chín mươi milivôn, và với mười lăm đến mười tám tỷ tế bào não, ta sẽ có một dòng điện cực mạnh. Trong mỗi con mắt của một người bình thường cũng có tới một trăm ba mươi triệu tế bào. Ở bộ não mỗi một cử động nhìn, nghe hay suy nghĩ của con người được não bộ tiếp nhận và xử lý, thông qua hàng triệu các xung động điện từ của các tế bào thần kinh. Bộ não là nơi duy nhất không sản sinh thêm các tế bào thần kinh nào, mà chúng mất đi theo tuổi tác.
Theo các nhà khoa học của Nga, thông thường các tế bào não hay tế bào thần kinh được sắp xếp theo một trật tự nhất định và điều khiển mọi hoạt động bình thường của con người. Nếu ở người nào các tế bào đó bị sắp xếp lộn xộn, các pin yếu kết hợp lại và phóng điện ra ngoài, thì người đó sẽ có khả năng đặc biệt. Chẳng hạn như một người Italy có khả năng làm mọi vật bốc cháy, hay như một em bé nam châm ở Nga có khả năng hút các đồ vật bằng sắt. Các nhà khoa học cho rằng, xung quanh những người này luôn xuất hiện một trường điện từ rất mạnh được điều khiển từ bộ não. Khi muốn thì khả năng đặc biệt mới bộc lộ, còn bình thường họ không có gì khác biệt với chúng ta.
Nhà bác học Faraday từng nói:
- Cho dù điện vật lý có hấp dẫn bao nhiêu thì cũng chẳng thể nào so được với sức cuốn hút kỳ diệu của điện sinh học, điện trong cơ thể ta.
Hiện nay ở các bệnh viện đã có máy để ghi lại điện tim hay điện não. Khi nghiên cứu tác động của trường điện từ tự nhiên đối với bộ não, giáo sư Hyland thuộc Đại học Coventry (Tây Ban Nha) cho rằng, những thay đổi về điện não đo được ở người, chứng tỏ sức khỏe của con người bị tác động của dòng điện tự nhiên. Nó làm não bộ mất cân bằng về một số chất sinh hóa, giống như những người say rượu và ngăn cản quá trình sản xuất melatonin, một hoóc môn chống ung thư ở người. Những thay đổi của dòng điện sinh học trong cơ thể, hay những biến đổi về trường điện từ của bộ não, cũng có thể đang báo hiệu một bệnh cảnh lâm sàng nào đó, đặc biệt là các bệnh về thần kinh.
Bác sĩ T.Sharma ở Học viện tâm thần London Anh, cho biết, việc chữa bệnh mất trí nhớ bằng phương pháp sốc điện đã cho kết quả khả quan. Gần 2.800 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp này trong vòng ba tháng, 80% trong số họ cho biết tình trạng bệnh được cải thiện. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng phương pháp trên sẽ tiêu diệt các tế bào thần kinh của não bộ. Thực tế là người ta đã kết hợp giữa dòng điện tự nhiên của cơ thể với dòng điện từ bên ngoài và tác động vào các tế bào thần kinh.
Các nhà khoa học đã thí nghiệm trên những người bị thương tổn não bộ. Họ dùng một dòng điện yếu kích thích nhiều vùng trên não để tìm ra những điểm điều khiển các hoạt động khác nhau của con người, có thể là vùng trí nhớ, vùng sợ hãi, hay vùng làm con người vui vẻ... Bằng phương pháp này, các bác sĩ có thể chữa được những căn bệnh liên quan đến tâm thần.
ST
#224
Gửi vào 02/08/2011 - 10:46
TÌM HIỂU NHỮNG CẤU TRÚC TÂM LINH
TRONG CƠ THỂ CON NGƯỜI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN BỆNH TẬT.
I. NGUYÊN NHÂN BỆNH
Theo y học hiện đại, nhờ vào những xét nghiệm y khoa trong việc khám và chẩn bệnh, chúng ta mới biết được nguyên nhân hầu tìm ra cách chữa trị có hiệu quả. Tuy nhiên đa số các bệnh đều là tổn thương thực thể, có những kết quả xét nghiệm bất bình thường so với tiêu chuẩn mẫu mực. Ngược lại, có những bệnh không tìm ra được nguyên nhân vì các kết quả xét nghiệm y học đều bình thường, trong trường hợp ấy chúng ta không rõ nguyên nhân, cho là bệnh tâm lý thần kinh. Nếu không biết cách chữa, một thời gian sau có biến chứng làm tổn thương thực thể rõ ràng, lúc đó việc chữa trị lại khó khăn hơn.
Đối với y học phương đông, tìm nguyên nhân bệnh không dựa vào kết quả xét nghiệm y khoa bằng máy móc dụng cụ, mà dựa vào quy luật khí hóa ngũ hành của tạng phủ (nguồn gốc của dịch y đạo), giống như dựa vào bảng tiêu chuẩn mẫu mực của Tây y, để so sánh giữa hai tình trạng khỏe và bệnh. Khí hóa ngũ hành của tạng phủ là những biến đổi trong cơ thể tạo ra những chu kỳ tuần hoàn của các cơ quan hô hấp, tuần hoàn tim mạch, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục, hệ miễn nhiễm, hệ nội tiết, hệ thần kinh... thông qua các tạng phủ và các chức năng riêng mà nó đảm nhận.
Khi tất cả các sự biến đổi trong con người được điều hòa tốt, gọi là sự khí hóa chính thường, thì con người được khỏe mạnh, còn sự khí hóa bất thường làm mất quân bình sự khí hóa chung của tổng thể thì con người bị bệnh, do đó phải truy tìm nguyên nhân. Có hai nguyên nhân chính là nguyên nhân bên ngoài cơ thể và nguyên nhân bên trong cơ thể.
Nguyên nhân bên ngoài gồm nguyên nhân chủ quan như va chạm tổn thương, môi trường sống và làm việc, do ăn uống, ngủ nghỉ không đúng cách... Nguyên nhân khách quan ảnh hưởng do sự tuần hoàn của vũ trụ tác động bởi mặt trời và nước biển tạo ra khí hậu, thời tiết, mùa màng, cây cỏ, vạn vật để nuôi dưỡng con người bị khác thường không phù hợp. Đó là do ảnh hưởng khí hóa của vũ trụ.
Nguyên nhân bên trong là sự khí hóa của tiểu vũ trụ để nuôi dưỡng tế bào, tác động bởi hai yếu tố tâm, thận. Tâm thuộc hỏa giống như mặt trời, Thận thuộc thủy giống như nước biển. Tim mạch và hơi thở tạo ra nhiệt năng tác động lên thận, tạo ra sự tuần hoàn bên trong gọi là sự khí hóa tạng phủ. Vũ trụ và tiểu vũ trụ tạo ra sự tuần hoàn đều đặn nhờ vào sự biến đổi của hai yếu tố thủy, hỏa để khí hóa, do đó đông y gọi là thiên nhân đồng nhất thể. Dù do nguyên nhân nào làm cho sự khí hóa bất thường sẽ không nuôi dưỡng tế bào, mà còn làm hại tế bào gây ra bệnh tật.
Đông tây y cùng quan điểm, nhưng tây y tìm nguyên nhân qua xét nghiệm, đông y tìm nguyên nhân theo khí hóa. Theo đông y, có bốn loại khí hóa bất thường gây ra bệnh gọi là sự tắc tuần hoàn.
1. Tắc tuần hoàn khí: Không bị tổn thương thực thể, xét nghiệm không thấy, nhưng vẫn có hậu quả của nó như mạch đập đều nhưng mạnh hơn hay yếu hơn, chỗ mạnh hơn, chỗ yếu hơn khi bắt mạch.. làm cho nhức đầu, chóng mặt, đau nhức phong tê thấp, chậm tiêu hóa, mệt mỏi.. chỗ đau không nhất định..
2. Tắc tuần hoàn huyết: Có tổn thương thực thể, đau nhức một chỗ cố định như huyết tụ, máu bầm, sung huyết não, tắc nghẽn mạch, huyết khô hóa vôi làm thoái hóa xương khớp..
3. Tắc tuần hoàn tiêu hóa: Thức ăn chứa lâu trong bao tử và đường ruột do tiêu hóa chậm sẽ hóa nhịêt độc gây táo bón, tiêu chảy, loét bao tử, tiểu đường, hoặc phát sinh vi khuẩn, sán lãi, vi trùng.. thấm vào máu thành bệnh nhiễm trùng..
4. Tắc tuần hoàn tâm sinh lý: Do thói quen, phong tục tập quán về ăn, mặc, ngủ, nghỉ, tư duy, cố chấp, bảo thủ, thành kiến, tánh tình vui, buồn, giận, lo sợ, xúc động, tích cực, tiêu cực, tánh khí bất thường có ảnh hưởng đến sức khỏe, như vui quá làm thần kinh hưng phấn tim mạch sẽ đập mạnh, vui quá hóa điên dại mất lý trí, buồn hay thở dài hại phổi. Giận quá làm cơ gân co rút hại gan, tục ngữ có câu giận bầm gan tím ruột, lo quá ăn mất ngon hại tỳ vị, sợ quá hại thận ảnh hưởng thần kinh..
Tắc tuần hoàn tâm sinh lý cũng không xét nghiệm được trực tiếp, chỉ khi nào do tình trạng bệnh kéo dài làm tắc tuần hoàn, chuyển từ tắc khí sang tắc huyết làm tổn thương thực thể mới xét nghiệm được. mỗi khác có liên quan đến cấu trúc tâm linh trong cơ thể, nó tác động vào cấu trúc vật chất ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Cho nên phương pháp chữa bệnh của đông y liên kết được cả hai phần vô hình và hữu hình, qua sự khí hóa ngũ hành của tạng phủ.
II: CẤU TRÚC VẬT CHẤT VÀ TÂM LINH
Ở mỗi con người chúng ta ai cũng có hai phần cấu trúc hữu hình và vô hình. Phần cấu trúc hữu hình là cơ thể vật chất tạo ra hình hài cơ thể nam nữ với đầy đủ các cơ quan tạng phủ do các tế bào hòa hợp lại. Phần cấu trúc vô hình là cấu trúc tâm linh, trong đó có một phần là tâm tánh khí tạo ra nét đặc thù của cá tính mỗi người do gène (DNA) mà khoa học đã chứng minh được, còn phần quan trọng nhất là thứ lớp của cấu trúc tâm linh hiện diện vô hình trong cơ thể, chúng ta cảm nhận được mà khoa học chưa chứng minh được.
Chúng ta hãy xét nghiệm các trường hợp sau đây để có thể hình dung ra được các thứ lớp của cấu trúc theo quan niệm đông y. Đó là chìa khóa tìm hiểu sự khí hóa của tạng phủ trong việc chữa bệnh:
1. Thể Xác: Khi cơ thể không còn sự sống, mất sự hiện diện của các thể tâm linh, thân xác nằm bất động không còn thở, chúng ta gọi là xác chết, đó là phần cấu trúc vật chất.
2. Thể Phách: Khi con người hôn mê bất tỉnh, thân bất động, chỉ còn hơi thở để duy trì sự sống (trong trường hợp hôn mê sâu = coma), đông y gọi là còn thể phách. Đông y nói "Phế tàng phách" là phần tâm linh vô hình cư trú ở phổi chỉ huy chức năng hoạt động của phổi, giúp phổi thở để duy trì sinh mạng thông qua sự tuần hoàn của khí.
3. Thể Vía: Thể vía chỉ huy mọi cử động cơ học, là phần tâm linh vô hình cư trú ở tiểu não sau gáy, khi bị va chạm tổn thương, hay say rượu, trúng độc hôn mê, đứt mạch máu não làm tê liệt, cử động sẽ bị giới hạn mất kiểm soát như ý muốn.
4. Thể Hồn: Thể hồn chỉ huy mạng lưới gân cơ, thần kinh, làm co rút hoặc thư giãn khiến cho cơ thể biết đau hoặc không đau. Đông y nói "Gan tàng hồn" là phần tâm linh vô hình cư trú ở gan, có nhiệm vụ giúp gan hoạt động theo chức năng của nó. Khi mất cảm giác, vô tri, là thể hồn đã rời thể xác. Còn đau đớn quá sức chịu đựng làm thể hồn bị tổn thương kêu la thảm thiết như trường hợp ung thư hành hạ đau đớn, mà thực thể gan không bị tổn thương, thể hồn bị tổn thương sinh ra ác mộng.
5. Thể Thần: Thể thần chỉ huy tình cảm, hệ thống tim mạch, hệ thống tuần hoàn huyết làm cho da thịt hồng hào, mặt tươi tỉnh hoặc mặt mày mất sắc, mất thần như ngây dại, hoảng hốt. Đông y nói "Tâm tàng thần" là phần tâm linh vô hình cư trú tại tâm, giúp cho tâm hoạt động theo chức năng của nó về hệ tuần hoàn tim mạch và thần kinh... Khi bị tổn thương thì tim mạch nhảy loạn, thần sắc thay đổi, dễ xúc động, quá khích động như điên khùng hoặc quá bi quan, nói năng cười khóc bất thường.
6. Thể Ý: Thể ý chỉ huy sự diễn đạt của tư tưởng, tập trung hoặc mất tập trung, biết phân biệt tốt xấu, ưa thích hay không ưa thích, tính quả quyết hay do dự.. qua sự tiết hormone như truyền một tín hiệu có ảnh hưởng đến các cơ quan, phối hợp sự nói năng và cử chỉ phù họp với ý muốn. Đông y nói "Tỳ tàng ý" là phần tâm linh vô hình cư trú tại lá lách. Khi thể ý bị tổn thương sẽ mất đi sự quyết đoán, không ham muốn, không thích cử động nói năng và ăn uống nữa, mặc dù thực thể của lá lách không bị tổn thương.
7. Thể Chí: Thể chí chỉ huy sự hoạt động của bộ não, ẩn tàng sức mạnh ý chí, lý tưởng của thể xác và tinh thần, bao gồm phần tiên thiên và hậu thiên, phần tiên thiên là những dữ liệu tích lũy từ những kiếp trước, đem vào bộ nhớ của não khi sinh ra, và những gène (chủng tử) của cha mẹ, phần hậu thiên do sự nuôi dưỡng về vật chất và tinh thần và sự học hỏi kinh nghiệm thu thập được trong gia đình, nhà trường và xã hội. Đông y nói "Thận tàng chí" là phần tâm linh vô hình cư trú ở thận, về tinh thần, nó làm cho con người phát triển hay không phát triển phần hạ trí như thông minh hay đần độn, nhớ dai hay mau quên, có ý chí sáng tạo hay ỷ lại...
Về thể xác, nó điều hòa chức năng thận biến hóa các chất bổ dưỡng chuyển thành khí huyết, sinh tinh tủy, nuôi xương, bổ não, duy trì và phát triển, sản xuất tế bào mới thay thế tế bào cũ. Thể chí mạnh, duy trì được sự minh mẫn, trẻ trung, kéo dài tuổi thọ. Khi thận không bị tổn thương thực thể mà bị bệnh mất trí nhớ, mất ký ức phải nghĩ ngay đến phần hạ trí bị tổn thương do thể chí.
8. Thể Trí: Thể trí gồm hai phần, phần hạ trí và thượng trí. Thể trí cư trú ở não làm cho não phát triển.
a. Thể Hạ Trí: Do con người khi phát triển đã học hỏi, tích lũy được những kinh nghiệm và khi sử dụng những kiến thức ấy thì cũng mới chỉ chiếm tối đa 7-8% tế bào não trong mọi sinh hoạt thường ngày.
b. Thể Thượng Trí: Các thần đồng, các nhà bác học, các bậc thiền sư, kỳ nhân.. đã sử dụng được các phần tế bào não vượt ngoài giới hạn 8% so với những người khác. Những kiến thức hiểu biết này đặc biệt không ai có, nó khác lạ mới mẻ, chúng ta gọi nó là thể thượng trí. Trong bộ óc chúng ta, hơn 90% tế bào não còn lại là những băng đĩa còn bỏ trống chưa chứa dữ kiện nào. Nó dành sẵn cho con người ghi thêm những kết quả, những kinh nghiệm đã tìm tòi phát minh được ở đời này, hoặc để ghi nhận được những điều mới lạ học hỏi được ở các cõi thiền định, hoặc trong những giấc mơ có ý thức khi ao ước tìm tòi phát minh một điều gì.
Phần còn lại là những băng đĩa đã ghi đầy những kinh nghiệm trong quá khứ nhiều đời tích lũy được, nhưng những dữ kiện ấy đem vào thân xác đời này bị vô minh che lấp, nên không có khả năng khai mở được hết mà chỉ sử dụng được một phần nào, chúng ta gọi là bẩm sinh để trở thành các kỳ nhân, thần đồng, các nhà khoa học, mỹ thuật, nghệ thuật. Còn thông thường khi chúng ta có một vấn đề khó giải quyết, qua một đêm yên tĩnh nghỉ ngơi, tự nhiên sáng dậy đã tìm được cách giải quyết, người đời gọi là thông minh Thể thượng trí, được khai mở qua phương pháp tập thiền, tập khai mở luân xa như yoga, hoặc do sau tai nạn bị chấn thương sọ não...
Khi sử dụng được thể thượng trí, nó dẫn ta vào không gian bốn chiều như thân xác ở một chỗ, mà thể hồn đi vào không gian khác, không gian quá khứ để thấy biết những hoạt động của tiền kiếp, hay không gian tương lai ở những cảnh giới khác để học hỏi, tìm tòi. Sau này trở thành một nhà phát minh như các nhà khoa học, hoặc trở thành nhà tiên tri.. còn đối với những người thỉnh thoảng mới xuất hiện thể thượng trí, khi có khi không, người ta gọi là linh tính, giác quan thứ sáu..
Bẩy thể tâm linh vô hình cư trú trong một cơ thể vật chất, có liên quan hai chiều nhờ vào thể thần thông, qua hệ thần kinh và các màng lưới thần kinh. Tất cả đều điều khiển chức năng hoạt động của tạng phủ, vừa nuôi dưỡng bảo vệ tạng phủ theo một quy luật tuần hoàn chung gọi là sự khí hóa ngũ hành.
ST
TRONG CƠ THỂ CON NGƯỜI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN BỆNH TẬT.
I. NGUYÊN NHÂN BỆNH
Theo y học hiện đại, nhờ vào những xét nghiệm y khoa trong việc khám và chẩn bệnh, chúng ta mới biết được nguyên nhân hầu tìm ra cách chữa trị có hiệu quả. Tuy nhiên đa số các bệnh đều là tổn thương thực thể, có những kết quả xét nghiệm bất bình thường so với tiêu chuẩn mẫu mực. Ngược lại, có những bệnh không tìm ra được nguyên nhân vì các kết quả xét nghiệm y học đều bình thường, trong trường hợp ấy chúng ta không rõ nguyên nhân, cho là bệnh tâm lý thần kinh. Nếu không biết cách chữa, một thời gian sau có biến chứng làm tổn thương thực thể rõ ràng, lúc đó việc chữa trị lại khó khăn hơn.
Đối với y học phương đông, tìm nguyên nhân bệnh không dựa vào kết quả xét nghiệm y khoa bằng máy móc dụng cụ, mà dựa vào quy luật khí hóa ngũ hành của tạng phủ (nguồn gốc của dịch y đạo), giống như dựa vào bảng tiêu chuẩn mẫu mực của Tây y, để so sánh giữa hai tình trạng khỏe và bệnh. Khí hóa ngũ hành của tạng phủ là những biến đổi trong cơ thể tạo ra những chu kỳ tuần hoàn của các cơ quan hô hấp, tuần hoàn tim mạch, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục, hệ miễn nhiễm, hệ nội tiết, hệ thần kinh... thông qua các tạng phủ và các chức năng riêng mà nó đảm nhận.
Khi tất cả các sự biến đổi trong con người được điều hòa tốt, gọi là sự khí hóa chính thường, thì con người được khỏe mạnh, còn sự khí hóa bất thường làm mất quân bình sự khí hóa chung của tổng thể thì con người bị bệnh, do đó phải truy tìm nguyên nhân. Có hai nguyên nhân chính là nguyên nhân bên ngoài cơ thể và nguyên nhân bên trong cơ thể.
Nguyên nhân bên ngoài gồm nguyên nhân chủ quan như va chạm tổn thương, môi trường sống và làm việc, do ăn uống, ngủ nghỉ không đúng cách... Nguyên nhân khách quan ảnh hưởng do sự tuần hoàn của vũ trụ tác động bởi mặt trời và nước biển tạo ra khí hậu, thời tiết, mùa màng, cây cỏ, vạn vật để nuôi dưỡng con người bị khác thường không phù hợp. Đó là do ảnh hưởng khí hóa của vũ trụ.
Nguyên nhân bên trong là sự khí hóa của tiểu vũ trụ để nuôi dưỡng tế bào, tác động bởi hai yếu tố tâm, thận. Tâm thuộc hỏa giống như mặt trời, Thận thuộc thủy giống như nước biển. Tim mạch và hơi thở tạo ra nhiệt năng tác động lên thận, tạo ra sự tuần hoàn bên trong gọi là sự khí hóa tạng phủ. Vũ trụ và tiểu vũ trụ tạo ra sự tuần hoàn đều đặn nhờ vào sự biến đổi của hai yếu tố thủy, hỏa để khí hóa, do đó đông y gọi là thiên nhân đồng nhất thể. Dù do nguyên nhân nào làm cho sự khí hóa bất thường sẽ không nuôi dưỡng tế bào, mà còn làm hại tế bào gây ra bệnh tật.
Đông tây y cùng quan điểm, nhưng tây y tìm nguyên nhân qua xét nghiệm, đông y tìm nguyên nhân theo khí hóa. Theo đông y, có bốn loại khí hóa bất thường gây ra bệnh gọi là sự tắc tuần hoàn.
1. Tắc tuần hoàn khí: Không bị tổn thương thực thể, xét nghiệm không thấy, nhưng vẫn có hậu quả của nó như mạch đập đều nhưng mạnh hơn hay yếu hơn, chỗ mạnh hơn, chỗ yếu hơn khi bắt mạch.. làm cho nhức đầu, chóng mặt, đau nhức phong tê thấp, chậm tiêu hóa, mệt mỏi.. chỗ đau không nhất định..
2. Tắc tuần hoàn huyết: Có tổn thương thực thể, đau nhức một chỗ cố định như huyết tụ, máu bầm, sung huyết não, tắc nghẽn mạch, huyết khô hóa vôi làm thoái hóa xương khớp..
3. Tắc tuần hoàn tiêu hóa: Thức ăn chứa lâu trong bao tử và đường ruột do tiêu hóa chậm sẽ hóa nhịêt độc gây táo bón, tiêu chảy, loét bao tử, tiểu đường, hoặc phát sinh vi khuẩn, sán lãi, vi trùng.. thấm vào máu thành bệnh nhiễm trùng..
4. Tắc tuần hoàn tâm sinh lý: Do thói quen, phong tục tập quán về ăn, mặc, ngủ, nghỉ, tư duy, cố chấp, bảo thủ, thành kiến, tánh tình vui, buồn, giận, lo sợ, xúc động, tích cực, tiêu cực, tánh khí bất thường có ảnh hưởng đến sức khỏe, như vui quá làm thần kinh hưng phấn tim mạch sẽ đập mạnh, vui quá hóa điên dại mất lý trí, buồn hay thở dài hại phổi. Giận quá làm cơ gân co rút hại gan, tục ngữ có câu giận bầm gan tím ruột, lo quá ăn mất ngon hại tỳ vị, sợ quá hại thận ảnh hưởng thần kinh..
Tắc tuần hoàn tâm sinh lý cũng không xét nghiệm được trực tiếp, chỉ khi nào do tình trạng bệnh kéo dài làm tắc tuần hoàn, chuyển từ tắc khí sang tắc huyết làm tổn thương thực thể mới xét nghiệm được. mỗi khác có liên quan đến cấu trúc tâm linh trong cơ thể, nó tác động vào cấu trúc vật chất ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Cho nên phương pháp chữa bệnh của đông y liên kết được cả hai phần vô hình và hữu hình, qua sự khí hóa ngũ hành của tạng phủ.
II: CẤU TRÚC VẬT CHẤT VÀ TÂM LINH
Ở mỗi con người chúng ta ai cũng có hai phần cấu trúc hữu hình và vô hình. Phần cấu trúc hữu hình là cơ thể vật chất tạo ra hình hài cơ thể nam nữ với đầy đủ các cơ quan tạng phủ do các tế bào hòa hợp lại. Phần cấu trúc vô hình là cấu trúc tâm linh, trong đó có một phần là tâm tánh khí tạo ra nét đặc thù của cá tính mỗi người do gène (DNA) mà khoa học đã chứng minh được, còn phần quan trọng nhất là thứ lớp của cấu trúc tâm linh hiện diện vô hình trong cơ thể, chúng ta cảm nhận được mà khoa học chưa chứng minh được.
Chúng ta hãy xét nghiệm các trường hợp sau đây để có thể hình dung ra được các thứ lớp của cấu trúc theo quan niệm đông y. Đó là chìa khóa tìm hiểu sự khí hóa của tạng phủ trong việc chữa bệnh:
1. Thể Xác: Khi cơ thể không còn sự sống, mất sự hiện diện của các thể tâm linh, thân xác nằm bất động không còn thở, chúng ta gọi là xác chết, đó là phần cấu trúc vật chất.
2. Thể Phách: Khi con người hôn mê bất tỉnh, thân bất động, chỉ còn hơi thở để duy trì sự sống (trong trường hợp hôn mê sâu = coma), đông y gọi là còn thể phách. Đông y nói "Phế tàng phách" là phần tâm linh vô hình cư trú ở phổi chỉ huy chức năng hoạt động của phổi, giúp phổi thở để duy trì sinh mạng thông qua sự tuần hoàn của khí.
3. Thể Vía: Thể vía chỉ huy mọi cử động cơ học, là phần tâm linh vô hình cư trú ở tiểu não sau gáy, khi bị va chạm tổn thương, hay say rượu, trúng độc hôn mê, đứt mạch máu não làm tê liệt, cử động sẽ bị giới hạn mất kiểm soát như ý muốn.
4. Thể Hồn: Thể hồn chỉ huy mạng lưới gân cơ, thần kinh, làm co rút hoặc thư giãn khiến cho cơ thể biết đau hoặc không đau. Đông y nói "Gan tàng hồn" là phần tâm linh vô hình cư trú ở gan, có nhiệm vụ giúp gan hoạt động theo chức năng của nó. Khi mất cảm giác, vô tri, là thể hồn đã rời thể xác. Còn đau đớn quá sức chịu đựng làm thể hồn bị tổn thương kêu la thảm thiết như trường hợp ung thư hành hạ đau đớn, mà thực thể gan không bị tổn thương, thể hồn bị tổn thương sinh ra ác mộng.
5. Thể Thần: Thể thần chỉ huy tình cảm, hệ thống tim mạch, hệ thống tuần hoàn huyết làm cho da thịt hồng hào, mặt tươi tỉnh hoặc mặt mày mất sắc, mất thần như ngây dại, hoảng hốt. Đông y nói "Tâm tàng thần" là phần tâm linh vô hình cư trú tại tâm, giúp cho tâm hoạt động theo chức năng của nó về hệ tuần hoàn tim mạch và thần kinh... Khi bị tổn thương thì tim mạch nhảy loạn, thần sắc thay đổi, dễ xúc động, quá khích động như điên khùng hoặc quá bi quan, nói năng cười khóc bất thường.
6. Thể Ý: Thể ý chỉ huy sự diễn đạt của tư tưởng, tập trung hoặc mất tập trung, biết phân biệt tốt xấu, ưa thích hay không ưa thích, tính quả quyết hay do dự.. qua sự tiết hormone như truyền một tín hiệu có ảnh hưởng đến các cơ quan, phối hợp sự nói năng và cử chỉ phù họp với ý muốn. Đông y nói "Tỳ tàng ý" là phần tâm linh vô hình cư trú tại lá lách. Khi thể ý bị tổn thương sẽ mất đi sự quyết đoán, không ham muốn, không thích cử động nói năng và ăn uống nữa, mặc dù thực thể của lá lách không bị tổn thương.
7. Thể Chí: Thể chí chỉ huy sự hoạt động của bộ não, ẩn tàng sức mạnh ý chí, lý tưởng của thể xác và tinh thần, bao gồm phần tiên thiên và hậu thiên, phần tiên thiên là những dữ liệu tích lũy từ những kiếp trước, đem vào bộ nhớ của não khi sinh ra, và những gène (chủng tử) của cha mẹ, phần hậu thiên do sự nuôi dưỡng về vật chất và tinh thần và sự học hỏi kinh nghiệm thu thập được trong gia đình, nhà trường và xã hội. Đông y nói "Thận tàng chí" là phần tâm linh vô hình cư trú ở thận, về tinh thần, nó làm cho con người phát triển hay không phát triển phần hạ trí như thông minh hay đần độn, nhớ dai hay mau quên, có ý chí sáng tạo hay ỷ lại...
Về thể xác, nó điều hòa chức năng thận biến hóa các chất bổ dưỡng chuyển thành khí huyết, sinh tinh tủy, nuôi xương, bổ não, duy trì và phát triển, sản xuất tế bào mới thay thế tế bào cũ. Thể chí mạnh, duy trì được sự minh mẫn, trẻ trung, kéo dài tuổi thọ. Khi thận không bị tổn thương thực thể mà bị bệnh mất trí nhớ, mất ký ức phải nghĩ ngay đến phần hạ trí bị tổn thương do thể chí.
8. Thể Trí: Thể trí gồm hai phần, phần hạ trí và thượng trí. Thể trí cư trú ở não làm cho não phát triển.
a. Thể Hạ Trí: Do con người khi phát triển đã học hỏi, tích lũy được những kinh nghiệm và khi sử dụng những kiến thức ấy thì cũng mới chỉ chiếm tối đa 7-8% tế bào não trong mọi sinh hoạt thường ngày.
b. Thể Thượng Trí: Các thần đồng, các nhà bác học, các bậc thiền sư, kỳ nhân.. đã sử dụng được các phần tế bào não vượt ngoài giới hạn 8% so với những người khác. Những kiến thức hiểu biết này đặc biệt không ai có, nó khác lạ mới mẻ, chúng ta gọi nó là thể thượng trí. Trong bộ óc chúng ta, hơn 90% tế bào não còn lại là những băng đĩa còn bỏ trống chưa chứa dữ kiện nào. Nó dành sẵn cho con người ghi thêm những kết quả, những kinh nghiệm đã tìm tòi phát minh được ở đời này, hoặc để ghi nhận được những điều mới lạ học hỏi được ở các cõi thiền định, hoặc trong những giấc mơ có ý thức khi ao ước tìm tòi phát minh một điều gì.
Phần còn lại là những băng đĩa đã ghi đầy những kinh nghiệm trong quá khứ nhiều đời tích lũy được, nhưng những dữ kiện ấy đem vào thân xác đời này bị vô minh che lấp, nên không có khả năng khai mở được hết mà chỉ sử dụng được một phần nào, chúng ta gọi là bẩm sinh để trở thành các kỳ nhân, thần đồng, các nhà khoa học, mỹ thuật, nghệ thuật. Còn thông thường khi chúng ta có một vấn đề khó giải quyết, qua một đêm yên tĩnh nghỉ ngơi, tự nhiên sáng dậy đã tìm được cách giải quyết, người đời gọi là thông minh Thể thượng trí, được khai mở qua phương pháp tập thiền, tập khai mở luân xa như yoga, hoặc do sau tai nạn bị chấn thương sọ não...
Khi sử dụng được thể thượng trí, nó dẫn ta vào không gian bốn chiều như thân xác ở một chỗ, mà thể hồn đi vào không gian khác, không gian quá khứ để thấy biết những hoạt động của tiền kiếp, hay không gian tương lai ở những cảnh giới khác để học hỏi, tìm tòi. Sau này trở thành một nhà phát minh như các nhà khoa học, hoặc trở thành nhà tiên tri.. còn đối với những người thỉnh thoảng mới xuất hiện thể thượng trí, khi có khi không, người ta gọi là linh tính, giác quan thứ sáu..
Bẩy thể tâm linh vô hình cư trú trong một cơ thể vật chất, có liên quan hai chiều nhờ vào thể thần thông, qua hệ thần kinh và các màng lưới thần kinh. Tất cả đều điều khiển chức năng hoạt động của tạng phủ, vừa nuôi dưỡng bảo vệ tạng phủ theo một quy luật tuần hoàn chung gọi là sự khí hóa ngũ hành.
ST
#225
Gửi vào 04/08/2011 - 07:46
PHƯƠNG PHÁP NHÌN THẤY HÀO QUANG CON NGƯỜI
(TRÌNH ĐỘ CĂN BẢN).
A. HÀO QUANG CON NGƯỜI.
Hào quang của con người là một vòng khí quang điện từ sinh học "Bio-electromagnetic engergy" được tỏa ra chung quanh thân thể của con người, nó có hình quả trứng và được một nhà khoa học gia người Nga tên là Semyon Kirlian phát hiện, chụp được và ghi nhận vòng hào quang nầy một cách dể dàng lên phim ảnh và đặt tên cho nó là Bioplasmic energy.
Huyền Bí Học Tây Phương gọi vòng hào quang nầy là thể phách "Etheric double" nó có thể được pha trộn và là chất dẩn của các thể vía, thể trí và các thể cao hơn của con người, tùy theo mục đích xử dụng của nhà Huyền Bí Gia. Những màu sắc và cường độ sáng tối của vòng hào quang nầy có thể cho ta biết được tình trạng sức khỏe, bệnh tật, tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của mỗi người, những tư tưởng và ký ức của con người cũng được ghi giử trong vòng hào quang nầy.
Hào quang của con người, bên Huyền Học Đông Phương còn gọi là Ánh Sáng hay Khí. Chi. Ánh Sáng nầy gồm có Ánh Sáng bên ngoài cơ thể và Ánh Sáng bên trong cơ thể hay gọi là Ngoại Khí và Nội Khí. Ánh Sáng bên trong hình thành tùy theo trình độ tu tập mà có những tên gọi khác nhau như: Tuệ Quang. Bản Tính Linh Quang. Đàm Quang. Xá Lợi Tử. Mâu Ni Châu.
Những Thầy Bói hay Thầy Thuốc Đông y có trình độ tu tập cao, có thể nhìn thấy màu sắc và cường độ cũng như những thông tin cất giử trong vòng hào quang nầy, mà chẩn đoán hay tiên liệu những trạng huống liên quan đến tương lai vận mạng, hay tình trạng sức khỏe bệnh tật của con người, mà cho toa thuốc trị bệnh hay đề nghị những cách hóa giải những tai ách, có thể xảy đến cho con người.
Nên cái hay của Đông Phương là Phòng Bệnh Hơn Trị Bệnh. Trị Bệnh Từ Gốc Hơn Trị Bệnh Từ Ngọn, vì khi nhìn thấy hào quang vùng nào của cơ thể đổi màu ra đen kệch, hay vòng hào quang bị yếu hay rách thủng, thì mau cho thuốc hay tập luyện cơ thể để tăng cường sinh lực trở lại tốt, chớ không đợi cho bệnh ảnh hưởng đến cơ thể xác thịt mà hiển hiện ra ngoài, mắt thường có thể thấy được, rồi mới chẩn trị theo Tây Y là đã quá trể rồi vậy.
HAI NHẬN XÉT SAI LẦM KHI NHÌN HÀO QUANG CON NGƯỜI.
1. Khi ta định thần và thư thả nhìn lên bầu trời xanh trong ngày quang đảng, thì ta thấy nhiều đốm sáng lấp lánh trên nền trời, có nhiều nhà ngoại cảm cho đó là sinh lực khí prana đang bay trên bầu trời, nhưng với người bình thường nhìn thấy nó thì thật ra không phải đó là sinh lực khí prana. Mà thật ra đó là những phản xạ quang học của những phân tử nước, phân tán di động trên vỏng mạc mắt hay những mảnh vụn của những tế bào chết li ti, đang di động đóng ở ngoài vỏng mạc mà tạo ra ảo giác nầy.
2. Hình ảnh do ảo giác hậu di ảnh của mắt tạo ra: thí dụ như khi bạn cầm một tờ card giấy màu cam chói, "Fluorecent orange" đưa lên ngang mắt và đặt nó ở một khoảng cách như khi đọc sách, dưới một nguồn ánh sáng chói, bạn hảy nhìn chăm chú vào tờ giấy màu nầy trong năm phút, sau đó bạn dời tờ giấy màu nầy ra khỏi tầm mắt của bạn. Thì tức khắc bạn sẻ nhìn thấy những đốm sáng mờ màu xanh lá cây, hình chử nhật, đang bay chập chờn ttrước mắt bạn như những bóng ma vậy, thì đây chỉ là do ảnh hưởng hậu di ảnh của quang học ảnh hưởng lên mắt trong bất cứ lúc nào. Khi bạn nhìn chăm chú một vật gì trong một khoảng thời gian lâu vậy.
Mật Tông đả lợi dụng những ảnh hưởng hậu di ảnh nầy, cho những bài tập quán tưởng linh ảnh Bổn Tôn, trong những buổi tu tập quán tưởng của mình. Tu tập nhìn hào quang bên ngoài của con người dể dàng hơn là tu tập nhìn hào quang bên trong tâm khảm, vì tư tưởng, ý tưởng của con người dể dao động như mặt nước dợn sóng nên gọi là tâm khảm, và khảm có biểu tượng học trong bát quái là quẻ Khảm, là nét vạch liền nằm giửa ở hai vạch đứt, trên và dưới, tượng trưng cho Nước. Thủy, nên gọi là Tâm Thủy hay Tâm Khảm là vậy.
B. CÁCH NHÌN HÀO QUANG - TRÌNH ĐỘ CĂN BẢN.
1. CÁCH NHÌN HÀO QUANG CỦA HAI BÀN TAY.
Buổi tối bạn vào trong phòng, tắt đèn và chỉ để ánh sáng đèn đường chiếu sáng qua màn cửa sổ hay chỉ để đèn ngoài hành lang, ánh sáng mờ chỉ đủ rọi xuyên qua kẹt cửa phòng mà thôi. Xong bạn nằm xuống giường, bạn đưa hai bàn tay duổi thẳng các ngón tay ra và đưa ngang trước mắt bạn. Bạn có thể chà sát hai tay vào nhau cho đến nóng trước khi nhìn cũng được, hoặc trước đó bạn ngâm hai bàn tay vào chậu nước ấm trước khi thực tập. Kế đến bạn nhìn thẳng chăm chú định thần vào hai bàn tay nầy, xuyên qua đêm tối dưới ánh sáng mờ bạn sẻ thấy chung quanh các ngón tay, sẻ có một lớp ánh sáng mờ đục đang bao quanh nó, hay một lớp hơi trong suốt đang hừng hực tỏa ra ngoài các ngón tay, như bóng nóng của mặt đường bốc lên trong ngày nắng nóng, hay bóng trắng suốt của hơi xăng bốc ra khi bạn đổ xăng cho chiếc xe của bạn vậy.
Tiếp đến bạn đưa hai tay lên bức tường trong phòng và từ từ di động các ngón của hai bàn tay lại gần nhau, khi chúng gần đụng vào nhau, thì bạn sẻ trông thấy một luồng hào quang có màu xanh hay màu đỏ xuất hiện ở các đầu ngón tay... bạn có thể thí nghiệm với mổi ngón tay của hai bàn tay với cùng cách trên. Khi bạn từ từ di động hai bàn tay ra xa, thì bạn sẻ thấy những luồng ánh sáng nối liền những ngón của hai bàn tay, hiện ra như những luồng điện nẹt ra từ những ngón tay của hai bàn tay vậy. Tiếp đến bạn từ từ hít vào đếm chậm chậm hai nhịp, sau đó ngưng thở hai nhịp và tưởng tượng năng lực của bạn gia tăng, thì ánh sáng của các ngón tay sẻ sáng thêm lên trong đêm tối, sau đó bạn thở ra hai nhịp và tiếp tục thí nghiệm như thế với cách thở nhịp nầy..
Bạn có thể tăng nhịp thở lên từ hai đến sau, bảy nhịp thở chậm tùy theo trình độ và khả năng hít thở của mổi người, chú ý đừng cưởng ép quá sức sẻ sinh ra chóng mặt, ói mửa không tốt cho sức khõe, sau khi tập xong bạn hít thở bình thường, bạn chỉ hít thở theo nhịp thở chậm nầy, khi bạn muốn thí nghiệm thay đổi cường độ hào quang của bạn mà thôi. Bạn có thể tìm nhiều tờ giấy màu A4 khác nhau, lần lượt đặt lên bàn và đặt bàn tay bạn lên đó, và bạn nhìn vào nó với cách trên, đương nhiên với ánh sáng có cường độ mạnh hơn và dịu hơn trong phòng vào ban ngày, thì có những màu của những tờ giấy nầy, thích hợp với bạn và bạn có thể dể nhìn thấy hào quang của mình hơn là những màu khác.
2. CÁCH NHÌN HÀO QUANG CỦA CƠ THỂ.
Đầu tiên bạn vào phòng riêng, nếu được hảy để quần áo trên người ra hay chỉ mặt quần đùi trên người và đứng trước một tấm kiếng có thể trông thấy toàn thân, đàng sau bạn là một bức tường màu trắng, hay có dán một tấm giấy to có màu thích hợp, để có thể dể dàng nhận ra hào quang của bạn, như bạn đả thực tập cho bàn tay và đã chọn được màu thích hợp cho mình. Sau đó bạn hít ba hơi chậm dài sâu, trong lúc hít vào bạn hãy tưỡng tượng bạn hít một nguồn ánh sáng trắng chạy vào hai mủi, và tỏa sáng ra đều toàn cơ thể bạn, để làm mạnh vòng hào quang của cơ thể. Kế đến bạn hãy dùng sức mạnh nhắm và nhíu hai mắt lại cho thật mạnh trong vài phút, sau đó thả ra và mở mắt ra và bạn cảm thắy hai mắt bạn dể chịu và thoải mái, bạn làm như thế vài lần.
Kế đến bạn thư thả thả mở mắt ra, và nhìn chăm chú vào kiếng có phản ảnh cơ thể bạn trong đó, đầu tiên bạn nhìn trên khoảng không gian vài phân ở trên đầu và ở dưới chân bạn được phản ảnh trong mặt kiếng, bạn để cho mắt bạn được tự nhiên điều chỉnh theo vòng biên của cơ thể, từ đầu đến vai và bạn nhìn toàn bộ ven biên vòng ngoài cơ thể của bạn. Sau một hồi lâu khoảng năm phút, có thể đầu tiên bạn sẻ nhìn thấy một màu khí hơi trong suốt như nước di động mập mờ hiện ra chung quanh cơ thể bạn, tập một thời gian sau, bạn có thể thấy nó trở nên màu xám mờ và cuối cùng trông thấy một màu trắng đục bao quanh cơ thể bạn.
Nhờ thực tập thường xuyên, khi bạn đả trông thấy được một vòng hào quang có màu trắng đục hiện ra bao quanh cơ thể bạn, thì lúc đó bạn đả thành công trong việc nhìn hào quang bên ngoài cơ thể ở trình độ sơ cấp rồi vậy. Tiếp đến bạn tập nhìn hào quang với quần áo trên người và bạn tập nhìn cơ thể bạn trong gương, khi nào bạn thấy hào quang hiện ra rỏ ràng và cố định chung quanh bạn với quần áo bình thường trên người, thì lúc nầy bạn có thể tập nhìn hào quang cho người khác. Bắt đầu nhìn hào quang của bàn tay người khác giống phương pháp nêu trong mục một, sau khi thành công thì tập nhìn phần đầu của người khác, sau đó nhìn từng phần khác cơ thể của người khác, rồi mới đi đến nhìn hào quang toàn thân.
C. TÂM PHÁP CHO CÁCH NHÌN HÀO QUANG.
1. Hào quang cần nhìn bằng tâm nhản, cặp mắt bên trong, bạn không thể nhìn hào quang bằng cặp mắt của xác thịt, nếu bạn chỉ dùng riêng cặp mắt xác thịt mà nhìn hào quang thì bạn sẻ thất bại. Nhiều người không thể trông thấy hào quang vì họ dùng sức mạnh cưởng bức làm căng thẳng cặp mắt thịt của họ để nhìn hào quang, nên khi muốn nhìn thấy hào quang thì bạn cần phối hợp tâm nhản và nhục nhản, tức cặp mắt ngoại cảm bên trong và cặp mắt thịt bên ngoài. Thì lúc đó cặp mắt thịt sẻ nhìn thấy xác thân của bạn, và tâm nhản của bạn sẻ nhìn thấy hào quang của bạn, hai hình ảnh nầy sẻ nhập lại làm một, và sẻ cho bạn nhìn thấy hào quang toàn vẹn của con người, đồng thời bạn cũng có thể nhìn thấy hào quang thân thể của bạn và người khác nửa.
2. Đừng cố nhìn hào quang bằng cách trợn trừng căng thẳng mắt thịt mà nhìn nó, vì khi bạn nhìn như thế thị giác ngoại cảm của bạn sẻ bị nghẹt và bị cản trở, vô tình bạn đả kéo thị giác của bạn đi ra ngoài phạm vi trung tâm cảm ứng ngoại cảm thị giác của bạn. Nên khi nhìn hào quang của một người thì bạn cần buông thả mắt, nhìn xuyên qua người đó, nhìn khoảng không cách xa gần trên đầu cổ hay vai của người đó, bạn buông thả mắt tự nhiên, để mắt từ từ tự điểu chỉnh để được rơi vào tầm thị giác của ngoại cảm, và làm cho tâm nhản hiển lộ, từ đó bạn có thể nhìn được hào quang một cách tự nhiên.
Sau khi thành công và nhờ thực tập thường xuyên, bạn dần dần phát triển tập đến nhìn màu sắc hào quang của con người, đương nhiên đây là qua giai đoạn tu tập nhìn hào quang ở lảnh vực của trình độ trung và cao cấp. Gồm có xem màu sắc hào quang, cảm nhận hào quang, đụng chạm, tiếp xúc với hào quang của người và vật hay nơi chốn bằng hào quang, linh cảm và khí cảm của mình..tập phóng hào quang, tập đưa các linh thể vào hào quang cho những mục đích bảo vệ, phòng ngự, tấn công hay trị bệnh..
Những thông tin trên chỉ có tính cách tham khảo và giải trí, các bạn đừng quá tin tưởng vào đó, mọi bất trắc xảy ra hoàn toàn do người tập chịu hết trách nhiệm.
ÁNH SÁNG–T2
(TRÌNH ĐỘ CĂN BẢN).
A. HÀO QUANG CON NGƯỜI.
Hào quang của con người là một vòng khí quang điện từ sinh học "Bio-electromagnetic engergy" được tỏa ra chung quanh thân thể của con người, nó có hình quả trứng và được một nhà khoa học gia người Nga tên là Semyon Kirlian phát hiện, chụp được và ghi nhận vòng hào quang nầy một cách dể dàng lên phim ảnh và đặt tên cho nó là Bioplasmic energy.
Huyền Bí Học Tây Phương gọi vòng hào quang nầy là thể phách "Etheric double" nó có thể được pha trộn và là chất dẩn của các thể vía, thể trí và các thể cao hơn của con người, tùy theo mục đích xử dụng của nhà Huyền Bí Gia. Những màu sắc và cường độ sáng tối của vòng hào quang nầy có thể cho ta biết được tình trạng sức khỏe, bệnh tật, tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của mỗi người, những tư tưởng và ký ức của con người cũng được ghi giử trong vòng hào quang nầy.
Hào quang của con người, bên Huyền Học Đông Phương còn gọi là Ánh Sáng hay Khí. Chi. Ánh Sáng nầy gồm có Ánh Sáng bên ngoài cơ thể và Ánh Sáng bên trong cơ thể hay gọi là Ngoại Khí và Nội Khí. Ánh Sáng bên trong hình thành tùy theo trình độ tu tập mà có những tên gọi khác nhau như: Tuệ Quang. Bản Tính Linh Quang. Đàm Quang. Xá Lợi Tử. Mâu Ni Châu.
Những Thầy Bói hay Thầy Thuốc Đông y có trình độ tu tập cao, có thể nhìn thấy màu sắc và cường độ cũng như những thông tin cất giử trong vòng hào quang nầy, mà chẩn đoán hay tiên liệu những trạng huống liên quan đến tương lai vận mạng, hay tình trạng sức khỏe bệnh tật của con người, mà cho toa thuốc trị bệnh hay đề nghị những cách hóa giải những tai ách, có thể xảy đến cho con người.
Nên cái hay của Đông Phương là Phòng Bệnh Hơn Trị Bệnh. Trị Bệnh Từ Gốc Hơn Trị Bệnh Từ Ngọn, vì khi nhìn thấy hào quang vùng nào của cơ thể đổi màu ra đen kệch, hay vòng hào quang bị yếu hay rách thủng, thì mau cho thuốc hay tập luyện cơ thể để tăng cường sinh lực trở lại tốt, chớ không đợi cho bệnh ảnh hưởng đến cơ thể xác thịt mà hiển hiện ra ngoài, mắt thường có thể thấy được, rồi mới chẩn trị theo Tây Y là đã quá trể rồi vậy.
HAI NHẬN XÉT SAI LẦM KHI NHÌN HÀO QUANG CON NGƯỜI.
1. Khi ta định thần và thư thả nhìn lên bầu trời xanh trong ngày quang đảng, thì ta thấy nhiều đốm sáng lấp lánh trên nền trời, có nhiều nhà ngoại cảm cho đó là sinh lực khí prana đang bay trên bầu trời, nhưng với người bình thường nhìn thấy nó thì thật ra không phải đó là sinh lực khí prana. Mà thật ra đó là những phản xạ quang học của những phân tử nước, phân tán di động trên vỏng mạc mắt hay những mảnh vụn của những tế bào chết li ti, đang di động đóng ở ngoài vỏng mạc mà tạo ra ảo giác nầy.
2. Hình ảnh do ảo giác hậu di ảnh của mắt tạo ra: thí dụ như khi bạn cầm một tờ card giấy màu cam chói, "Fluorecent orange" đưa lên ngang mắt và đặt nó ở một khoảng cách như khi đọc sách, dưới một nguồn ánh sáng chói, bạn hảy nhìn chăm chú vào tờ giấy màu nầy trong năm phút, sau đó bạn dời tờ giấy màu nầy ra khỏi tầm mắt của bạn. Thì tức khắc bạn sẻ nhìn thấy những đốm sáng mờ màu xanh lá cây, hình chử nhật, đang bay chập chờn ttrước mắt bạn như những bóng ma vậy, thì đây chỉ là do ảnh hưởng hậu di ảnh của quang học ảnh hưởng lên mắt trong bất cứ lúc nào. Khi bạn nhìn chăm chú một vật gì trong một khoảng thời gian lâu vậy.
Mật Tông đả lợi dụng những ảnh hưởng hậu di ảnh nầy, cho những bài tập quán tưởng linh ảnh Bổn Tôn, trong những buổi tu tập quán tưởng của mình. Tu tập nhìn hào quang bên ngoài của con người dể dàng hơn là tu tập nhìn hào quang bên trong tâm khảm, vì tư tưởng, ý tưởng của con người dể dao động như mặt nước dợn sóng nên gọi là tâm khảm, và khảm có biểu tượng học trong bát quái là quẻ Khảm, là nét vạch liền nằm giửa ở hai vạch đứt, trên và dưới, tượng trưng cho Nước. Thủy, nên gọi là Tâm Thủy hay Tâm Khảm là vậy.
B. CÁCH NHÌN HÀO QUANG - TRÌNH ĐỘ CĂN BẢN.
1. CÁCH NHÌN HÀO QUANG CỦA HAI BÀN TAY.
Buổi tối bạn vào trong phòng, tắt đèn và chỉ để ánh sáng đèn đường chiếu sáng qua màn cửa sổ hay chỉ để đèn ngoài hành lang, ánh sáng mờ chỉ đủ rọi xuyên qua kẹt cửa phòng mà thôi. Xong bạn nằm xuống giường, bạn đưa hai bàn tay duổi thẳng các ngón tay ra và đưa ngang trước mắt bạn. Bạn có thể chà sát hai tay vào nhau cho đến nóng trước khi nhìn cũng được, hoặc trước đó bạn ngâm hai bàn tay vào chậu nước ấm trước khi thực tập. Kế đến bạn nhìn thẳng chăm chú định thần vào hai bàn tay nầy, xuyên qua đêm tối dưới ánh sáng mờ bạn sẻ thấy chung quanh các ngón tay, sẻ có một lớp ánh sáng mờ đục đang bao quanh nó, hay một lớp hơi trong suốt đang hừng hực tỏa ra ngoài các ngón tay, như bóng nóng của mặt đường bốc lên trong ngày nắng nóng, hay bóng trắng suốt của hơi xăng bốc ra khi bạn đổ xăng cho chiếc xe của bạn vậy.
Tiếp đến bạn đưa hai tay lên bức tường trong phòng và từ từ di động các ngón của hai bàn tay lại gần nhau, khi chúng gần đụng vào nhau, thì bạn sẻ trông thấy một luồng hào quang có màu xanh hay màu đỏ xuất hiện ở các đầu ngón tay... bạn có thể thí nghiệm với mổi ngón tay của hai bàn tay với cùng cách trên. Khi bạn từ từ di động hai bàn tay ra xa, thì bạn sẻ thấy những luồng ánh sáng nối liền những ngón của hai bàn tay, hiện ra như những luồng điện nẹt ra từ những ngón tay của hai bàn tay vậy. Tiếp đến bạn từ từ hít vào đếm chậm chậm hai nhịp, sau đó ngưng thở hai nhịp và tưởng tượng năng lực của bạn gia tăng, thì ánh sáng của các ngón tay sẻ sáng thêm lên trong đêm tối, sau đó bạn thở ra hai nhịp và tiếp tục thí nghiệm như thế với cách thở nhịp nầy..
Bạn có thể tăng nhịp thở lên từ hai đến sau, bảy nhịp thở chậm tùy theo trình độ và khả năng hít thở của mổi người, chú ý đừng cưởng ép quá sức sẻ sinh ra chóng mặt, ói mửa không tốt cho sức khõe, sau khi tập xong bạn hít thở bình thường, bạn chỉ hít thở theo nhịp thở chậm nầy, khi bạn muốn thí nghiệm thay đổi cường độ hào quang của bạn mà thôi. Bạn có thể tìm nhiều tờ giấy màu A4 khác nhau, lần lượt đặt lên bàn và đặt bàn tay bạn lên đó, và bạn nhìn vào nó với cách trên, đương nhiên với ánh sáng có cường độ mạnh hơn và dịu hơn trong phòng vào ban ngày, thì có những màu của những tờ giấy nầy, thích hợp với bạn và bạn có thể dể nhìn thấy hào quang của mình hơn là những màu khác.
2. CÁCH NHÌN HÀO QUANG CỦA CƠ THỂ.
Đầu tiên bạn vào phòng riêng, nếu được hảy để quần áo trên người ra hay chỉ mặt quần đùi trên người và đứng trước một tấm kiếng có thể trông thấy toàn thân, đàng sau bạn là một bức tường màu trắng, hay có dán một tấm giấy to có màu thích hợp, để có thể dể dàng nhận ra hào quang của bạn, như bạn đả thực tập cho bàn tay và đã chọn được màu thích hợp cho mình. Sau đó bạn hít ba hơi chậm dài sâu, trong lúc hít vào bạn hãy tưỡng tượng bạn hít một nguồn ánh sáng trắng chạy vào hai mủi, và tỏa sáng ra đều toàn cơ thể bạn, để làm mạnh vòng hào quang của cơ thể. Kế đến bạn hãy dùng sức mạnh nhắm và nhíu hai mắt lại cho thật mạnh trong vài phút, sau đó thả ra và mở mắt ra và bạn cảm thắy hai mắt bạn dể chịu và thoải mái, bạn làm như thế vài lần.
Kế đến bạn thư thả thả mở mắt ra, và nhìn chăm chú vào kiếng có phản ảnh cơ thể bạn trong đó, đầu tiên bạn nhìn trên khoảng không gian vài phân ở trên đầu và ở dưới chân bạn được phản ảnh trong mặt kiếng, bạn để cho mắt bạn được tự nhiên điều chỉnh theo vòng biên của cơ thể, từ đầu đến vai và bạn nhìn toàn bộ ven biên vòng ngoài cơ thể của bạn. Sau một hồi lâu khoảng năm phút, có thể đầu tiên bạn sẻ nhìn thấy một màu khí hơi trong suốt như nước di động mập mờ hiện ra chung quanh cơ thể bạn, tập một thời gian sau, bạn có thể thấy nó trở nên màu xám mờ và cuối cùng trông thấy một màu trắng đục bao quanh cơ thể bạn.
Nhờ thực tập thường xuyên, khi bạn đả trông thấy được một vòng hào quang có màu trắng đục hiện ra bao quanh cơ thể bạn, thì lúc đó bạn đả thành công trong việc nhìn hào quang bên ngoài cơ thể ở trình độ sơ cấp rồi vậy. Tiếp đến bạn tập nhìn hào quang với quần áo trên người và bạn tập nhìn cơ thể bạn trong gương, khi nào bạn thấy hào quang hiện ra rỏ ràng và cố định chung quanh bạn với quần áo bình thường trên người, thì lúc nầy bạn có thể tập nhìn hào quang cho người khác. Bắt đầu nhìn hào quang của bàn tay người khác giống phương pháp nêu trong mục một, sau khi thành công thì tập nhìn phần đầu của người khác, sau đó nhìn từng phần khác cơ thể của người khác, rồi mới đi đến nhìn hào quang toàn thân.
C. TÂM PHÁP CHO CÁCH NHÌN HÀO QUANG.
1. Hào quang cần nhìn bằng tâm nhản, cặp mắt bên trong, bạn không thể nhìn hào quang bằng cặp mắt của xác thịt, nếu bạn chỉ dùng riêng cặp mắt xác thịt mà nhìn hào quang thì bạn sẻ thất bại. Nhiều người không thể trông thấy hào quang vì họ dùng sức mạnh cưởng bức làm căng thẳng cặp mắt thịt của họ để nhìn hào quang, nên khi muốn nhìn thấy hào quang thì bạn cần phối hợp tâm nhản và nhục nhản, tức cặp mắt ngoại cảm bên trong và cặp mắt thịt bên ngoài. Thì lúc đó cặp mắt thịt sẻ nhìn thấy xác thân của bạn, và tâm nhản của bạn sẻ nhìn thấy hào quang của bạn, hai hình ảnh nầy sẻ nhập lại làm một, và sẻ cho bạn nhìn thấy hào quang toàn vẹn của con người, đồng thời bạn cũng có thể nhìn thấy hào quang thân thể của bạn và người khác nửa.
2. Đừng cố nhìn hào quang bằng cách trợn trừng căng thẳng mắt thịt mà nhìn nó, vì khi bạn nhìn như thế thị giác ngoại cảm của bạn sẻ bị nghẹt và bị cản trở, vô tình bạn đả kéo thị giác của bạn đi ra ngoài phạm vi trung tâm cảm ứng ngoại cảm thị giác của bạn. Nên khi nhìn hào quang của một người thì bạn cần buông thả mắt, nhìn xuyên qua người đó, nhìn khoảng không cách xa gần trên đầu cổ hay vai của người đó, bạn buông thả mắt tự nhiên, để mắt từ từ tự điểu chỉnh để được rơi vào tầm thị giác của ngoại cảm, và làm cho tâm nhản hiển lộ, từ đó bạn có thể nhìn được hào quang một cách tự nhiên.
Sau khi thành công và nhờ thực tập thường xuyên, bạn dần dần phát triển tập đến nhìn màu sắc hào quang của con người, đương nhiên đây là qua giai đoạn tu tập nhìn hào quang ở lảnh vực của trình độ trung và cao cấp. Gồm có xem màu sắc hào quang, cảm nhận hào quang, đụng chạm, tiếp xúc với hào quang của người và vật hay nơi chốn bằng hào quang, linh cảm và khí cảm của mình..tập phóng hào quang, tập đưa các linh thể vào hào quang cho những mục đích bảo vệ, phòng ngự, tấn công hay trị bệnh..
Những thông tin trên chỉ có tính cách tham khảo và giải trí, các bạn đừng quá tin tưởng vào đó, mọi bất trắc xảy ra hoàn toàn do người tập chịu hết trách nhiệm.
ÁNH SÁNG–T2
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Xem Tử Vi - huyền "Học" - vọc phương pháp |
Gặp Gỡ - Giao Lưu | Vung |
|
|
|
những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
||
Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
|
|
Suy nghĩ với hỗn hợp nhiều môn huyền học cho lá số VNXHCN |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Huyền Cơ Phú - 玄機賦 - Ode to Mysticism - Huyền Không Tứ Bộ |
Địa Lý Phong Thủy | QuanLySo |
|
||
Kho ebook 1000 cuốn sách huyền học pdf |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | QuanLySo |
|
14 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 14 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |