1
Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#151
Gửi vào 28/06/2011 - 22:59
THẾ GIỚI MA QUÁI TRONG NGHỆ THUẬT PHÙ TANG
Trên thế giới, mỗi nền văn minh, mỗi dân tộc đều đầy dẫy những truyện tích, những thần thoại về thế giới siêu hình, không thực để giúp cho người dân có một ý niệm về nguồn gốc, giống giòng cũng như để giải thích các hiện tượng thiên nhiên và siêu nhiên mà trong thời khai quốc trí óc của người dân không thể hiểu nổi. Thần thoại Hy Lạp đã có mặt trên các lãnh vực văn chương, thi phú, ca kịch… các truyện cổ tích của Anderson, Aesop, anh em nhà Grimms…đã thấm sâu vào tâm hồn của người dân Âu Tây. Đông phương lại còn phong phú hơn nhiều và điều tác giả muốn giới thiệu với các độc giả trong bài này là sắc thái đa dạng, đầy dân tộc tính của nền văn minh Phù Tang.
Tại quê hương của con cháu Thái Dương Thần nữ, truyền thuyết cho rằng có đến tám triệu vị thần cai quản thiên đường và hạ giới, bất cứ chỗ nào cũng có thần: thần sông, thần núi, thần cây, thần nhà, thần bếp… Thiên nhiên giữ một nhiệm vụ quan trọng trong đời sống, con người phải hòa hợp với thiên nhiên (nghệ thuật cắm hoa, làm vườn, trồng cây cảnh…). Thiên nhiên có năng lực kỳ bí giúp con người chống lại ma quỉ, biến cải được vận số…
Tín ngưỡng chính của Nhật là Phật giáo, theo đạo Phật của người Nhật thì thế giới siêu hình gồm ba giới được phân định rõ ràng: giới Thần Tiên ngự tại thiên đàng và giới thần tiên cai quản hai giới khác là thế giới loài người và thế giới người chết. Ngoài ba giới này còn một giới khác chưa được xếp hạng, chỗ ở không rõ rệt: Đó là giới của những linh hồn vừa chết. Những linh hồn này hãy còn vương vấn thế giới người sống và phải qua một thời gian dài mới siêu thoát để nhập vào giới người chết thực thụ, lúc này tổ tiên sẽ chăm lo cho con cháu các gia đình đời sau.
Trong thời gian mới chết, linh hồn hãy còn quanh quẩn bên cạnh gia đình người thân, do đó gia đình phải chăm lo cúng tế, cầu nguyện cho người chết được siêu thoát. Những hồn nào không được chăm sóc sẽ dễ dàng thành ma quái khuấy phá gia đình và người chung quanh. Ngoài ảnh hưởng Phật giáo, Lão giáo cũng lan tràn từ Trung Hoa sang nên dân Nhật có những tin tưởng từa tựa như dân Tàu: Con người có thể tu tiên trên các non cao và biến thành trường sinh bất lão. Từ đấy các ngọn núi cao cũng trở thành những thánh địa thiêng liêng.
Ngoài ra dân Nhật cũng tin rằng bất kỳ con vật hay cây cối, đồ vật mà sống lâu năm cũng có linh tánh, biết tu luyện và có quyền phép, tùy theo cá tính có thể biến thành thần hay yêu tinh ma quái. Điểm đặc biệt của văn minh Nhật chúng tôi nhắc tới ở đây không phải là tín ngưỡng, huyền thoại hay truyện tích của dân Nhật mà chỉ muốn đề cập khái lược đến thế giới ma quái trong phạm vi nghệ thuật hội họa, điêu khắc Phù tang. Khác với Trung Hoa hay Việt Nam các truyện yêu ma chỉ truyền tụng trong dân gian, qua văn chương bình dân hoặc các sách truyện đọc giải trí, còn tại Nhật, truyện ma quỉ cũng là một thứ giáo huấn răn đời và được xem trọng, được đưa vào cả hội họa, điêu khắc, ca kịch cổ truyền (Kabuki).
Bài này chỉ giới hạn đưa ra một số tranh vẽ minh họa các truyện ma, đặc biệt về phái nữ. Theo cổ tục, đàn bà Nhật được xem là cấp thấp nhất trong gia đình, người phụ nữ sinh ra chỉ để hầu chồng, chăm sóc con và chẳng có một tí quyền hành gì trong gia đình. Như để phản đối một cách tiêu cực, phụ nữ khi chết lại biến thành ma nhiều hơn cả. Từ đó một số nhận vật ma nữ nổi tiếng đã gợi hứng cho các nghệ sĩ qua nét bút, nét dao và được làm sống lại trong các vở kịch Kabuki. Khởi đầu trong thời kỳ Edo 1600-1867, các ma nữ thường được diễn tả với mái tóc dài buông xõa, quần áo rộng trên thân thể mảnh mai. Phần trên thì rõ ràng nhưng hạ chi thì mờ ảo. Một trong những bức họa này, nổi tiếng nhất là tấm tranh lụa của Okyo nhan đề “The Ghost of Oyuki”.
Truyện kể rằng họa sĩ Okyo có một người bạn gái rất đẹp làm nghề Geisha, cô này mất đi lúc còn rất trẻ, ông thương tiếc vô cùng và một đêm kia Okyo nằm mơ thấy cô hiện về đứng bên cạnh giuờng. Để nhớ mãi bóng ma thân yêu, hôm sau ông đã vẽ lại chân dung nàng với những nét bút vừa mạnh bạo vừa uyển chuyển để tạo nên một bức vẽ để đời. Mối tương quan giữa sự chịu đựng của người đàn bà khi còn sống và phản ứng của hồn ma lúc chết thường tương ứng với nhau. Người sống chịu đau khổ bao nhiêu thì lúc chết lại phản ứng mạnh bạo bấy nhiêu. Ngưới có bạo lực bao nhiêu thì sau này lại trở nên yếu đuối bấy nhiêu. Trên con đường nối liền Tokyo và Kyoto có một phiến đá nổi danh được gọi là “Hòn Đá Khóc”. Tương truyền xưa có một phụ nữ đang mang thai đi từ nhà tại Nissaka đến Kanaya để gặp chồng sau nhiều tháng xa cách. Bà bị một tên cướp giết chết. Máu bà bắn tung tóe trên tảng đá bên cạnh và từ đó tảng đá trở thành chỗ trú ẩn cho linh hồn bà.
Cũng từ đó về sau, mỗi đêm đều có tiếng kêu than vọng ra từ tảng đá. Đến khi chồng bà về thăm nhà đi ngang qua tảng đá, bà hiện ra kể lể sự tình và nói rằng nhờ thần linh phù trợ, đứa trẻ bà mang trong bụng đã được sanh ra và nuôi sống bằng mật hoa. Nay bà mang con giao cho chồng và sẽ giúp đỡ chồng trong việc truy tầm tung tích kẻ thù. Họa sĩ Kuniyoshi đã vẽ lại cảnh hai vợ chồng gặp nhau, hồn người vợ hiện ra từ tảng đá, người chồng tay ôm con. Bối cảnh là mặt trăng lưỡi liềm bên tàng cây cao tỏa ánh sáng mờ trong đêm tối, cây cỏ nghiêng ngả trong cơn gió mạnh thổi qua. Hồn ma dường như đan trong khoảng không, bóng dáng như thắp sáng bên trong.
Cái trong suốt của bóng ma cũng như ngọn lửa là khuôn mẫu thường được dùng trong kỹ thuật vẽ tranh Nhật. Đôi lông mày người chồng nhíu lại tượng trưng cho sự đau khổ của ông, tuy thế thân hình ông hơi ngả về phía sau cho thấy ông cũng có phần nào sợ sệt trước bóng ma. Ngọn lửa được tô hai màu xanh đỏ hòa hợp với màu áo bào xanh của người chồng và áo đỏ của đứa trẻ tạo nên vẻ linh động, bi thảm trên nền đen. Đấy là câu chuyện cho thấy khía cạnh thụ động của người đàn bà Nhật. Một khía cạnh luân lý khác là “gieo gió, gặt bão”, cái “gặt bão” này có thể chỉ là trừng phạt về tinh thần mà cũng có thể là trừng phạt thể xác.
Một thí dụ cho sự trừng phạt tinh thần là truyện “Hồn Ma Okiku”. Samurai Aoyama có một cô tớ xinh đẹp tên Okiku, ông ta rất thích cô và muốn cô làm nhân tình của ông nhưng cô chối từ. Aoyama bèn lập kế: ông có 10 chiếc dĩa sứ chạm vàng rất quí bèn giao cho Okiku cất giữ; nhân lúc cô tớ sơ ý, ông lấy trộm bớt một cái dĩa đi và sau đó ra lệnh cho cô mang tất cả 10 dĩa tới cho ông kiểm lại. Làm mất đi một dĩa, cô tớ sợ hãi và Aoyama bèn hứa sẽ không bỏ tù cô nếu cô bằng lòng làm nhân tình của ông. Cô gái lại từ chối! Aoyama giận dữ bèn giết Okiku và ném thây xuống giếng. Sau đó hồn cô gái mỗi đêm lại hiện lên đứng bên bờ giếng rền rĩ đếm từ một đến chín rồi rú lên một tiếng não lòng.
Bị khuấy phá bởi tiếng than mỗi đêm khiến Aoyama không sao ngủ được, cuối cùng một người hàng xóm của ông biết trừ tà bằng lòng giúp đỡ để cho hồn Okiku được siêu thoát. Nửa đêm, ông thầy rình bên giếng, khi hồn ma xuất hiện và đếm từ một đến chín thì ông ta hét to “Mười”, hồn ma rú lên một tiếng và từ đó không còn xuất hiện nữa. Họa sĩ Tsukioka Yosh toshi 1839-1892, đã lấy đề tài này vẽ một bức họa với bóng ma buồn bã đứng cạnh bờ giếng lồng trong khung cảnh đầy cành liễu rũ trên đầu và cỏ mọc lưa thưa dưới chân làm tăng vẻ hoang vắng cô tịch của khu vườn bỏ hoang.
Qua thân hình trong suốt của bóng ma chúng ta còn thấy thấp thoáng bóng thành giếng và cả các nhánh cỏ nữa. Tranh được tô bằng những mầu thật nhạt nhòa khiến cho người thưởng lãm có cảm giác thê lương buồn. Ngoài ra câu chuyện này còn có một kết cục khác mà trong đó việc trả oán mang tính cách bạo động hơn: hồn ma Okiku đã treo ngược đầu ông chủ trên chiếc giếng ông đã ném xác nàng. Họa sĩ Toyohara Kunichika đã vẽ bức bình phong mô tả vở kịch kabuki trình diễn chuyện này. Kiểu bình phong ba tấm dọc này là một trong những kiểu rất hiếm trong nghệ thuật Nhật cổ. Kết cấu bức tranh khiến người thưởng ngoạn phải đưa mắt nhìn từ dưới lên trên: từ anh chàng samurai ngạc nhiên đến chiếc dù bị kéo ngược lên rồi cuối cùng là bóng ma của Okiku, đi kèm theo hồn ma bao giờ cũng có một ngọn lửa.
Bức ảnh trong bình phong này được coi là biểu tượng của hình ảnh của Aoyama bị cô tớ gái treo ngược đầu trên bờ giếng. Một câu chuyện ma khác mang tính chất tàn bạo hơn cũng là đề tài cho các kịch tác gia và các họa sĩ, đó là chuyện “Hồn Ma Oiwa”. Câu chuyện này mang đủ kịch tính: một tên độc ác, một người đàn bà đẹp đau khổ, những cảnh giết chóc, sự trả thù dai dẳng. Lyemon là một kiếm sĩ lỡ vận chưa tìm được minh chủ, anh cưới người vợ xinh đẹp tên Oiwa, anh phải nuôi sống gia đình qua ngày bằng nghề làm dù. Cảnh sống không sung túc như lòng mong muốn đã giết lần mòn tình yêu của anh đối với vợ.
Nhà láng giềng có cô cháu gái muốn nhận anh làm rể, ông cụ xúi anh cho vợ anh uống thuốc độc khi Oiwa đang bệnh. Tuy nhiên, thuốc lại phát tác chậm khiến Iyemon thất vọng tưởng thuốc không công hiệu và tìm cách hành hạ vợ nhiều hơn. Oiwa có một người đầy tớ già trung thành, Kohei, ông ta mang một tấm gương lại cho nàng soi thấy sự biến hình của mình do thuốc độc. Quá phẫn uất vì sự phản bội của chồng cùng với tác động của thuốc, Oiwa đã qua đời. Phát giác rằng Kohei biết rõ hành vi độc ác của mình, Iyemon đã giết luôn người đầy tớ. Anh ta đem xác vợ và xác Kohei đóng vào hai mặt của cánh cửa gỗ rồi đem thả xuống sông cho trôi đi mất tích.
Tưởng rằng mối họa không còn nữa, Iyemon bèn cưới cô gái nhà bên, ngày cưới khi giở tấm khăn phủ trên đầu cô dâu, Iyemon trông thấy gương mặt bất thường của Oiwa đang nhìn mình. Iyemon vội rút gươm chém đôi gương mặt đó, nhìn kỹ lại hóa ra anh đã chém người vợ mới cưới của mình. Hoảng sợ, anh ta chạy ra cửa toan sang báo tin cho ông nội cô vợ thì gặp ngay người đầy tớ Kohei chận đường. Một lần nữa anh ta vung kiếm lên chém và lần này thì chính ông nội cô gái bị anh giết chết. Iyemon thấy rằng dù đi đến đâu anh cũng vẫn bị hồn ma theo ám ảnh: khi ngồi câu cá bên bờ sông, cần câu anh mắc phải tấm gỗ, kéo lên hóa ra cánh cửa mang xác vợ và người đầy tớ.
Trốn vào rừng sâu, anh vẫn bị ám ảnh bởi cặp mắt oán hờn, khuôn mặt biến đổi xấu xa của vợ. Cuối cùng sự trừng phạt tinh thần đã biến thành trừng phạt thể xác: người anh vợ đã tìm đến và kết liễu tính mạng của Iyemon. Shunkosai Hokushu (1808-1832) đã vẽ chân dung bóng ma Oiwa một cách rất đặc thù với khuôn mặt dị thường, mái tóc lơ thơ, một mắt bị sưng húp và sụp xuống (dưới ảnh hưởng thuốc). Phần dưới chiếc áo bào mờ nhạt trong khi phần trên đậm nét cho ta cảm tưởng bóng ma không trọng lượng đang bay là đà trên mặt đất. Họa sĩ đã cố ý pha mầu trên của bức tranh đậm để kéo tia nhìn của người thưởng ngoạn lên cao làm cho cảm tưởng vẻ nhẹ nhàng của bóng ma tăng thêm. Ngoài ra màu đen còn biểu hiện cho số phận tăm tối của Oiwa.
Một bức họa khác cũng lấy đề tài Oiwa: họa sĩ Shunkosai Hokuei đã vẽ chiếc lồng đèn bắt cháy giống hình ảnh Oiwa. Người chồng quay lại thủ thế khi chiếc đèn lồng đong đưa trên đầu anh ta. Phông của tranh màu sậm đen khiến sự biến dạng của chiếc lồng đèn thành bóng ma Oiwa trở nên ghê rợn hơn. Bóng ma Oiwa còn gợi hứng cho Utagawa Kuniyoshi sáng tác bức tranh “Núi Rắn” với cảnh Iyemon trốn trong căn chòi nhỏ ở vùng núi xa xôi. Tại đây anh ta kinh hoảng thấy các giây leo, bìm bìm chung quanh mình hóa thành các con rắn oằn oại.
Những bông hoa dại màu vàng trổ qua vách đá đều mang hình dáng con mắt oán thù kết tội, làn khói xám và đen bốc từ bếp lửa (phía trái) biến dạng thành những lọn tóc dài bao quanh chiếc lồng đèn bốc cháy thành hình khuôn mặt Oiwa. Iyemon ngồi nghiêng về phía sau như tránh né, sợ sệt. Giờ phút cuối cùng đã điểm, người anh vợ đã giết Iyemon để trả thù cho em gái và những người khác. Trong các truyện về ma phái nữ, câu chuyện hồn ma Oiwa đã được đưa vào nghệ thuật nhiều nhất. Các tuồng Kabuki lấy cốt truyện này và thêm thắt nhiều chi tiết, cho đến bây giờ tại Nhật, tuồng này thỉnh thoảng vẫn được diễn lại.
Hoàng Dung
Trên thế giới, mỗi nền văn minh, mỗi dân tộc đều đầy dẫy những truyện tích, những thần thoại về thế giới siêu hình, không thực để giúp cho người dân có một ý niệm về nguồn gốc, giống giòng cũng như để giải thích các hiện tượng thiên nhiên và siêu nhiên mà trong thời khai quốc trí óc của người dân không thể hiểu nổi. Thần thoại Hy Lạp đã có mặt trên các lãnh vực văn chương, thi phú, ca kịch… các truyện cổ tích của Anderson, Aesop, anh em nhà Grimms…đã thấm sâu vào tâm hồn của người dân Âu Tây. Đông phương lại còn phong phú hơn nhiều và điều tác giả muốn giới thiệu với các độc giả trong bài này là sắc thái đa dạng, đầy dân tộc tính của nền văn minh Phù Tang.
Tại quê hương của con cháu Thái Dương Thần nữ, truyền thuyết cho rằng có đến tám triệu vị thần cai quản thiên đường và hạ giới, bất cứ chỗ nào cũng có thần: thần sông, thần núi, thần cây, thần nhà, thần bếp… Thiên nhiên giữ một nhiệm vụ quan trọng trong đời sống, con người phải hòa hợp với thiên nhiên (nghệ thuật cắm hoa, làm vườn, trồng cây cảnh…). Thiên nhiên có năng lực kỳ bí giúp con người chống lại ma quỉ, biến cải được vận số…
Tín ngưỡng chính của Nhật là Phật giáo, theo đạo Phật của người Nhật thì thế giới siêu hình gồm ba giới được phân định rõ ràng: giới Thần Tiên ngự tại thiên đàng và giới thần tiên cai quản hai giới khác là thế giới loài người và thế giới người chết. Ngoài ba giới này còn một giới khác chưa được xếp hạng, chỗ ở không rõ rệt: Đó là giới của những linh hồn vừa chết. Những linh hồn này hãy còn vương vấn thế giới người sống và phải qua một thời gian dài mới siêu thoát để nhập vào giới người chết thực thụ, lúc này tổ tiên sẽ chăm lo cho con cháu các gia đình đời sau.
Trong thời gian mới chết, linh hồn hãy còn quanh quẩn bên cạnh gia đình người thân, do đó gia đình phải chăm lo cúng tế, cầu nguyện cho người chết được siêu thoát. Những hồn nào không được chăm sóc sẽ dễ dàng thành ma quái khuấy phá gia đình và người chung quanh. Ngoài ảnh hưởng Phật giáo, Lão giáo cũng lan tràn từ Trung Hoa sang nên dân Nhật có những tin tưởng từa tựa như dân Tàu: Con người có thể tu tiên trên các non cao và biến thành trường sinh bất lão. Từ đấy các ngọn núi cao cũng trở thành những thánh địa thiêng liêng.
Ngoài ra dân Nhật cũng tin rằng bất kỳ con vật hay cây cối, đồ vật mà sống lâu năm cũng có linh tánh, biết tu luyện và có quyền phép, tùy theo cá tính có thể biến thành thần hay yêu tinh ma quái. Điểm đặc biệt của văn minh Nhật chúng tôi nhắc tới ở đây không phải là tín ngưỡng, huyền thoại hay truyện tích của dân Nhật mà chỉ muốn đề cập khái lược đến thế giới ma quái trong phạm vi nghệ thuật hội họa, điêu khắc Phù tang. Khác với Trung Hoa hay Việt Nam các truyện yêu ma chỉ truyền tụng trong dân gian, qua văn chương bình dân hoặc các sách truyện đọc giải trí, còn tại Nhật, truyện ma quỉ cũng là một thứ giáo huấn răn đời và được xem trọng, được đưa vào cả hội họa, điêu khắc, ca kịch cổ truyền (Kabuki).
Bài này chỉ giới hạn đưa ra một số tranh vẽ minh họa các truyện ma, đặc biệt về phái nữ. Theo cổ tục, đàn bà Nhật được xem là cấp thấp nhất trong gia đình, người phụ nữ sinh ra chỉ để hầu chồng, chăm sóc con và chẳng có một tí quyền hành gì trong gia đình. Như để phản đối một cách tiêu cực, phụ nữ khi chết lại biến thành ma nhiều hơn cả. Từ đó một số nhận vật ma nữ nổi tiếng đã gợi hứng cho các nghệ sĩ qua nét bút, nét dao và được làm sống lại trong các vở kịch Kabuki. Khởi đầu trong thời kỳ Edo 1600-1867, các ma nữ thường được diễn tả với mái tóc dài buông xõa, quần áo rộng trên thân thể mảnh mai. Phần trên thì rõ ràng nhưng hạ chi thì mờ ảo. Một trong những bức họa này, nổi tiếng nhất là tấm tranh lụa của Okyo nhan đề “The Ghost of Oyuki”.
Truyện kể rằng họa sĩ Okyo có một người bạn gái rất đẹp làm nghề Geisha, cô này mất đi lúc còn rất trẻ, ông thương tiếc vô cùng và một đêm kia Okyo nằm mơ thấy cô hiện về đứng bên cạnh giuờng. Để nhớ mãi bóng ma thân yêu, hôm sau ông đã vẽ lại chân dung nàng với những nét bút vừa mạnh bạo vừa uyển chuyển để tạo nên một bức vẽ để đời. Mối tương quan giữa sự chịu đựng của người đàn bà khi còn sống và phản ứng của hồn ma lúc chết thường tương ứng với nhau. Người sống chịu đau khổ bao nhiêu thì lúc chết lại phản ứng mạnh bạo bấy nhiêu. Ngưới có bạo lực bao nhiêu thì sau này lại trở nên yếu đuối bấy nhiêu. Trên con đường nối liền Tokyo và Kyoto có một phiến đá nổi danh được gọi là “Hòn Đá Khóc”. Tương truyền xưa có một phụ nữ đang mang thai đi từ nhà tại Nissaka đến Kanaya để gặp chồng sau nhiều tháng xa cách. Bà bị một tên cướp giết chết. Máu bà bắn tung tóe trên tảng đá bên cạnh và từ đó tảng đá trở thành chỗ trú ẩn cho linh hồn bà.
Cũng từ đó về sau, mỗi đêm đều có tiếng kêu than vọng ra từ tảng đá. Đến khi chồng bà về thăm nhà đi ngang qua tảng đá, bà hiện ra kể lể sự tình và nói rằng nhờ thần linh phù trợ, đứa trẻ bà mang trong bụng đã được sanh ra và nuôi sống bằng mật hoa. Nay bà mang con giao cho chồng và sẽ giúp đỡ chồng trong việc truy tầm tung tích kẻ thù. Họa sĩ Kuniyoshi đã vẽ lại cảnh hai vợ chồng gặp nhau, hồn người vợ hiện ra từ tảng đá, người chồng tay ôm con. Bối cảnh là mặt trăng lưỡi liềm bên tàng cây cao tỏa ánh sáng mờ trong đêm tối, cây cỏ nghiêng ngả trong cơn gió mạnh thổi qua. Hồn ma dường như đan trong khoảng không, bóng dáng như thắp sáng bên trong.
Cái trong suốt của bóng ma cũng như ngọn lửa là khuôn mẫu thường được dùng trong kỹ thuật vẽ tranh Nhật. Đôi lông mày người chồng nhíu lại tượng trưng cho sự đau khổ của ông, tuy thế thân hình ông hơi ngả về phía sau cho thấy ông cũng có phần nào sợ sệt trước bóng ma. Ngọn lửa được tô hai màu xanh đỏ hòa hợp với màu áo bào xanh của người chồng và áo đỏ của đứa trẻ tạo nên vẻ linh động, bi thảm trên nền đen. Đấy là câu chuyện cho thấy khía cạnh thụ động của người đàn bà Nhật. Một khía cạnh luân lý khác là “gieo gió, gặt bão”, cái “gặt bão” này có thể chỉ là trừng phạt về tinh thần mà cũng có thể là trừng phạt thể xác.
Một thí dụ cho sự trừng phạt tinh thần là truyện “Hồn Ma Okiku”. Samurai Aoyama có một cô tớ xinh đẹp tên Okiku, ông ta rất thích cô và muốn cô làm nhân tình của ông nhưng cô chối từ. Aoyama bèn lập kế: ông có 10 chiếc dĩa sứ chạm vàng rất quí bèn giao cho Okiku cất giữ; nhân lúc cô tớ sơ ý, ông lấy trộm bớt một cái dĩa đi và sau đó ra lệnh cho cô mang tất cả 10 dĩa tới cho ông kiểm lại. Làm mất đi một dĩa, cô tớ sợ hãi và Aoyama bèn hứa sẽ không bỏ tù cô nếu cô bằng lòng làm nhân tình của ông. Cô gái lại từ chối! Aoyama giận dữ bèn giết Okiku và ném thây xuống giếng. Sau đó hồn cô gái mỗi đêm lại hiện lên đứng bên bờ giếng rền rĩ đếm từ một đến chín rồi rú lên một tiếng não lòng.
Bị khuấy phá bởi tiếng than mỗi đêm khiến Aoyama không sao ngủ được, cuối cùng một người hàng xóm của ông biết trừ tà bằng lòng giúp đỡ để cho hồn Okiku được siêu thoát. Nửa đêm, ông thầy rình bên giếng, khi hồn ma xuất hiện và đếm từ một đến chín thì ông ta hét to “Mười”, hồn ma rú lên một tiếng và từ đó không còn xuất hiện nữa. Họa sĩ Tsukioka Yosh toshi 1839-1892, đã lấy đề tài này vẽ một bức họa với bóng ma buồn bã đứng cạnh bờ giếng lồng trong khung cảnh đầy cành liễu rũ trên đầu và cỏ mọc lưa thưa dưới chân làm tăng vẻ hoang vắng cô tịch của khu vườn bỏ hoang.
Qua thân hình trong suốt của bóng ma chúng ta còn thấy thấp thoáng bóng thành giếng và cả các nhánh cỏ nữa. Tranh được tô bằng những mầu thật nhạt nhòa khiến cho người thưởng lãm có cảm giác thê lương buồn. Ngoài ra câu chuyện này còn có một kết cục khác mà trong đó việc trả oán mang tính cách bạo động hơn: hồn ma Okiku đã treo ngược đầu ông chủ trên chiếc giếng ông đã ném xác nàng. Họa sĩ Toyohara Kunichika đã vẽ bức bình phong mô tả vở kịch kabuki trình diễn chuyện này. Kiểu bình phong ba tấm dọc này là một trong những kiểu rất hiếm trong nghệ thuật Nhật cổ. Kết cấu bức tranh khiến người thưởng ngoạn phải đưa mắt nhìn từ dưới lên trên: từ anh chàng samurai ngạc nhiên đến chiếc dù bị kéo ngược lên rồi cuối cùng là bóng ma của Okiku, đi kèm theo hồn ma bao giờ cũng có một ngọn lửa.
Bức ảnh trong bình phong này được coi là biểu tượng của hình ảnh của Aoyama bị cô tớ gái treo ngược đầu trên bờ giếng. Một câu chuyện ma khác mang tính chất tàn bạo hơn cũng là đề tài cho các kịch tác gia và các họa sĩ, đó là chuyện “Hồn Ma Oiwa”. Câu chuyện này mang đủ kịch tính: một tên độc ác, một người đàn bà đẹp đau khổ, những cảnh giết chóc, sự trả thù dai dẳng. Lyemon là một kiếm sĩ lỡ vận chưa tìm được minh chủ, anh cưới người vợ xinh đẹp tên Oiwa, anh phải nuôi sống gia đình qua ngày bằng nghề làm dù. Cảnh sống không sung túc như lòng mong muốn đã giết lần mòn tình yêu của anh đối với vợ.
Nhà láng giềng có cô cháu gái muốn nhận anh làm rể, ông cụ xúi anh cho vợ anh uống thuốc độc khi Oiwa đang bệnh. Tuy nhiên, thuốc lại phát tác chậm khiến Iyemon thất vọng tưởng thuốc không công hiệu và tìm cách hành hạ vợ nhiều hơn. Oiwa có một người đầy tớ già trung thành, Kohei, ông ta mang một tấm gương lại cho nàng soi thấy sự biến hình của mình do thuốc độc. Quá phẫn uất vì sự phản bội của chồng cùng với tác động của thuốc, Oiwa đã qua đời. Phát giác rằng Kohei biết rõ hành vi độc ác của mình, Iyemon đã giết luôn người đầy tớ. Anh ta đem xác vợ và xác Kohei đóng vào hai mặt của cánh cửa gỗ rồi đem thả xuống sông cho trôi đi mất tích.
Tưởng rằng mối họa không còn nữa, Iyemon bèn cưới cô gái nhà bên, ngày cưới khi giở tấm khăn phủ trên đầu cô dâu, Iyemon trông thấy gương mặt bất thường của Oiwa đang nhìn mình. Iyemon vội rút gươm chém đôi gương mặt đó, nhìn kỹ lại hóa ra anh đã chém người vợ mới cưới của mình. Hoảng sợ, anh ta chạy ra cửa toan sang báo tin cho ông nội cô vợ thì gặp ngay người đầy tớ Kohei chận đường. Một lần nữa anh ta vung kiếm lên chém và lần này thì chính ông nội cô gái bị anh giết chết. Iyemon thấy rằng dù đi đến đâu anh cũng vẫn bị hồn ma theo ám ảnh: khi ngồi câu cá bên bờ sông, cần câu anh mắc phải tấm gỗ, kéo lên hóa ra cánh cửa mang xác vợ và người đầy tớ.
Trốn vào rừng sâu, anh vẫn bị ám ảnh bởi cặp mắt oán hờn, khuôn mặt biến đổi xấu xa của vợ. Cuối cùng sự trừng phạt tinh thần đã biến thành trừng phạt thể xác: người anh vợ đã tìm đến và kết liễu tính mạng của Iyemon. Shunkosai Hokushu (1808-1832) đã vẽ chân dung bóng ma Oiwa một cách rất đặc thù với khuôn mặt dị thường, mái tóc lơ thơ, một mắt bị sưng húp và sụp xuống (dưới ảnh hưởng thuốc). Phần dưới chiếc áo bào mờ nhạt trong khi phần trên đậm nét cho ta cảm tưởng bóng ma không trọng lượng đang bay là đà trên mặt đất. Họa sĩ đã cố ý pha mầu trên của bức tranh đậm để kéo tia nhìn của người thưởng ngoạn lên cao làm cho cảm tưởng vẻ nhẹ nhàng của bóng ma tăng thêm. Ngoài ra màu đen còn biểu hiện cho số phận tăm tối của Oiwa.
Một bức họa khác cũng lấy đề tài Oiwa: họa sĩ Shunkosai Hokuei đã vẽ chiếc lồng đèn bắt cháy giống hình ảnh Oiwa. Người chồng quay lại thủ thế khi chiếc đèn lồng đong đưa trên đầu anh ta. Phông của tranh màu sậm đen khiến sự biến dạng của chiếc lồng đèn thành bóng ma Oiwa trở nên ghê rợn hơn. Bóng ma Oiwa còn gợi hứng cho Utagawa Kuniyoshi sáng tác bức tranh “Núi Rắn” với cảnh Iyemon trốn trong căn chòi nhỏ ở vùng núi xa xôi. Tại đây anh ta kinh hoảng thấy các giây leo, bìm bìm chung quanh mình hóa thành các con rắn oằn oại.
Những bông hoa dại màu vàng trổ qua vách đá đều mang hình dáng con mắt oán thù kết tội, làn khói xám và đen bốc từ bếp lửa (phía trái) biến dạng thành những lọn tóc dài bao quanh chiếc lồng đèn bốc cháy thành hình khuôn mặt Oiwa. Iyemon ngồi nghiêng về phía sau như tránh né, sợ sệt. Giờ phút cuối cùng đã điểm, người anh vợ đã giết Iyemon để trả thù cho em gái và những người khác. Trong các truyện về ma phái nữ, câu chuyện hồn ma Oiwa đã được đưa vào nghệ thuật nhiều nhất. Các tuồng Kabuki lấy cốt truyện này và thêm thắt nhiều chi tiết, cho đến bây giờ tại Nhật, tuồng này thỉnh thoảng vẫn được diễn lại.
Hoàng Dung
#152
Gửi vào 28/06/2011 - 23:09
TRUYỆN THỦ HUỒN
Ngày xưa ở đất Gia Định có một người tên là Thủ Huồn. Hắn xuất thân làm thơ lại trong các Nha các Ty. Sau hơn hai mươi năm luồn lọt chức quyền, hắn đã làm cho biết bao gia đình tan nát, biết bao người bị oan uổng, do đó hắn đã vơ vét được rất nhiều tiền của. Vợ hắn chết sớm lại không có con, nên tiền bạc của hắn không biết tiêu vào đâu cho hết. Ngoài số chôn cất hắn đem tiền tậu ruộng, làm nhà nhiều vô số kể. Ruộng đồng của hắn cò bay thẳng cánh, mỗi mùa thu hoạch cả hàng nghìn hàng vạn giạ lúa.
Khi thấy cuộc sống quá thừa thãi, hắn bèn thôi việc về nhà sống một cuộc đời trưởng giả. Một hôm có người mách cho Thủ Huồn biết, chợ Mạnh Ma ở Quảng Yên là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau. Muốn vậy người sống phải chờ đến mồng một tháng sáu, mang một món hàng vào chợ hồi nửa đêm mà đi tìm. Thủ Huồn là người rất yêu vợ. Tuy vợ chết đã ngoài mười năm nhưng hắn vẫn không lúc nào quên. Hắn bèn giao nhà lại cho người bà con, rồi làm một chuyến du lịch ra Bắc, đến Quảng Yên, mong gặp lại mặt vợ cho thỏa lòng thương nhớ. Khi gặp vợ Thủ Huồn không dám hỏi vì thấy vợ ăn mặc rất đài các.
Sau cùng người đàn bà ấy cũng nhận ra được, hắn mừng quá vội dắt vợ ra một chỗ, kể cho vợ nghe cảnh sống của mình từ lâu nay. Hắn liền hỏi vợ:
- Bà lâu nay làm gì?
- Tôi làm vú nuôi trong cung vua. Cuộc đời của tôi không có gì đáng phàn nàn. Tôi có một gian nhà riêng trong hoàng cung, cái ăn cái mặc được chu cấp đầy đủ.
- Tôi nhớ bà quá. Tôi muốn theo bà xuống dưới ấy ít lâu có được không?
- Đi theo tôi thì cũng được, nhưng chỉ trong vài ngày là cùng, nếu quá hạn sẽ nguy hiểm.
Thủ Huồn và vợ cùng đi. Qua mấy dặm đường tối mịt, chả mấy chốc đã đến cõi âm. Hắn rùng mình khi lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào thành nội, qua những tên quỷ gác cổng có những bộ mặt gớm ghiếc. Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng vào được trót lọt. Đến một gian nhà thấp vợ bảo chồng:
- Đây là nhà bếp, đằng kia là nhà ngục, trước mặt là cung hoàng hậu, chỗ tôi túc trực hàng ngày. Qua khỏi đấy là cung vua.
- Ông cứ ẩn tạm trong buồng vắng này, vì không thể lên buồng tôi trên kia được, tôi sẽ kiếm cách cho ông đi xem một vài chỗ, nhưng rồi phải về ngay.
Chiều hôm đó, người vợ về trao cho Thủ Huồn một mảnh giấy phép của Diêm Vương và nói:
- Bây giờ ông có thể đi được rồi. Nhưng phải nhớ là không được vào cung vua và cung hoàng hậu, còn những nơi khác thì mình cứ việc đi xem cho thỏa thích.
Hắn lượn mấy vòng chung quanh nhà bếp rồi sẵn đó bước đến nhà ngục. Chưa lọt khỏi cổng mà những tiếng kêu khóc, tiếng la thét ở phía trong làm cho hắn bồn chồn. Qua mấy phòng chuyên mổ bụng, móc mắt, cắt tay... hắn thấy đây quả là nơi hành hạ tội nhân kinh khủng, đúng như lời đồn ở trên trần thế. Sau cái bàn xẻo thịt là cả một kho gông, trong đó có một cái gông đặc biệt: nó vừa to vừa dài, làm bằng những thanh gỗ nặng như sắt. Thủ Huồn lân la hỏi lão cai ngục:
- Thứ gông to này để làm gì vậy?
- Để chờ một thằng rất ác nghiệt xuống đây. Tất cả các cái gông trong này đều đã có chủ cả, cứ xem gông to hay gông nhỏ thì biết tội ác của từng người ngay.
Thủ Huồn lại hỏi:
- Thế cái thằng sẽ đeo cái gông vừa to vừa dài đó là ai vậy?
Lão cai ngục thủng thỉnh giở một cuốn sách vừa to vừa dầy, chỉ vào một hàng chữ rồi đọc:
- Hắn là Võ Thủ Hoằng, tức là Thủ Huồn, người ở Đại Nam quốc, Gia Định tỉnh, Phúc Chính huyện...
Nghe vậy Thủ Huồn giật mình mặt xám ngắt, nhưng hắn vẫn cố giữ vẻ mặt điềm tĩnh hỏi thêm:
- Thế nào? Hắn có tội gì?
Lão cai ngục mắt vẫn không rời cuốn sách:
- Khi làm thơ lại, hắn bẻ mặt ra trái, làm bao nhiêu việc oan khốc đến nỗi tội ác của hắn đen kín cả mấy trang giấy đây…
Lão cai ngục nói tiếp:
- Nghe tôi đọc này: Năm Ất Sửu, hắn sửa hai chữ “ngộ sát” thành “cố sát” làm hai mẹ con Thị Nhàn bị án chết, để cho người anh họ chiếm đoạt gia tài, việc này Thủ Huồn được hối lộ mười nén vàng, mười nén bạc và một trăm quan tiền. Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lai ở thôn Bình Ca bị hai mươi năm tội đồ, chỉ vì trong nhà có cái áo vải vàng, để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng. Năm...
Nghe đến đó thì Thủ Huồn tái mặt, không ngờ mỗi một cái cất tay động chân của mình trên dương trần kia, dưới này đều rõ mồn một. Hắn ngắt lời đánh trống lảng:
- Thế vợ hắn có cùng đeo gông với hắn không hở ông?
- Ồ! Ai làm người ấy chịu chớ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt đã xuống đây rồi.
Thủ Huồn lại hỏi gặng:
- Ví như nếu hắn muốn hối cải thì phải làm thế nào?
Lão cai ngục đáp:
- Đã vay thì phải trả! Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải cướp giật được đó bố thí và cúng lễ cho hết đi thì may ra...
Từ biệt lão cai ngục và những hình cụ khủng khiếp, Thủ Huồn không còn bụng dạ nào để đi xem nơi khác nữa. Vợ thấy chồng đòi về, liền đưa chồng ra khỏi hoàng cung của Diêm Vương và ra khỏi mấy dặm đường tối tăm mù mịt của âm phủ. Lúc chia tay, hắn bảo vợ:
- Tôi về trang trải công nợ, có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống, bà nhớ lên chợ đón nghe.
Về tới Gia Định, Thủ Huồn mạnh tay bố thí. Hắn cho gọi những người nghèo khó trong vùng lại, phát cho họ tiền, lúa… rồi đem ruộng đất của mình cúng cho làng cho chùa, chia cho họ hàng thôn xóm. Hắn mời hầu hết các sư sãi ở các chùa trong vùng tới nhà mình làm lễ cúng, tốn kém kể cả tiền vạn. Người ta lấy làm lạ không hiểu tại sao một tay riết róng như hắn bây giờ trở nên hào phóng một cách lạ thường như vậy. Ai xin gì được nấy. Có những người trước đây chửi hắn, bây giờ lại đâm ra thương hại hắn. Họ thường kháo với nhau:
- Thứ của vô nhân bất nghĩa ấy không trước thì sau thế nào cũng đội nón ra đi mà thôi.
- Có lẽ vì hắn không con, biết để của cũng chả được gì nên hắn làm cho vợi bớt đi ấy mà.
Thủ Huồn có nghe rất nhiều lời đàm tiếu về mình, nhưng hắn chẳng nói gì cả, cứ việc vung của làm phúc không tiếc tay. Cứ thế sau ba năm, Thủ Huồn đã tiêu tán hết ba phần tư cơ nghiệp. Nhớ lại lời hẹn, hắn lại khăn gói ra Bắc tìm đến chợ Mạnh Ma. Hắn dỗ khéo được vợ cho hắn xuống thăm cõi âm thêm một lần nữa. Khi trở lại nhà ngục, Thủ Huồn thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lão cai ngục vẫn là lão cai ngục trước kia. Cách bố trí y hệt như xưa, cũng có nơi mổ bụng, nơi móc mắt, nơi cắt tay...Duy chỗ để gông thì có ít nhiều thay đổi. Bên cạnh những cái vẫn còn nguyên hình như xưa thì lại có những cái trước bé nay đã lớn lên, có cái trước lớn nay nhỏ hẳn đi. Đặc biệt cái gông của hắn đã nhỏ hẳn đi ít nhiều, tuy vẫn còn to và dài hơn các thứ gông thường một tí. Hắn lân la hỏi lão cai ngục:
- Cái gông để ở nơi này trước kia tôi nhớ hình như to lắm thì phải?
- Đúng đấy! Lão đáp.
- Có lẽ gần đây ở trên dương thế thằng cha ấy đã biết chuộc lỗi nên cái gông ấy đã nhỏ lại bớt. Nếu hắn gắng hơn nữa thì rồi sẽ có phúc lớn.
Thủ Huồn lại lên đất, trở về Gia Định. Hắn lại làm tiếp công việc bố thí và cúng bái. Lần này hắn bán hết tất cả những gì còn sót lại kể cả nhà hắn ở. Hắn đến Biên Hòa dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật, rồi xuôi Đồng Nai để làm một việc nghĩa cuối cùng. Hồi đó ở ngã ba sông Đồng Nai và sông Gia Định việc đi lại rất bất tiện. Vì lòng sông rộng và nước chảy rất xiết. Cũng vì thế mà bên kia sông Đồng Nai người ta còn ngần ngại chưa dám di cư sang bên này để sinh cơ lập nghiệp.
Thủ Huồn quyết định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn trên bè có nhà ở, có đủ chỗ nghỉ có sẵn nồi niêu, đồ dùng và tiền gạo. Những thứ ấy hắn sắm sửa đầy đủ trên bè dùng để tiếp rước những người qua lại, nhất là những người nghèo khó. Hễ ai lỡ đường đến đấy thì hắn cho họ trú ngụ tại bè của mình, kẻ năm ba ngày, người một đôi tháng mà không lấy tiền, giúp họ vốn liếng sang sông mà lập nghiệp. Thủ Huồn làm công việc đó một cách sốt sắng để giúp người cùng khổ, mãi cho đến ngày xuống âm phủ thật sự.
Sau đó khá lâu, có lần một ông vua tên là Đạo Quang bên Trung Quốc tức là con của Gia Khánh. lúc mới lên ngôi có cho sứ sang Việt Nam hỏi lai lịch một người ở Gia Định. Số là khi nhà vua mới sinh, người ta thấy trong lòng bàn tay vua có mấy chữ: “Đại Nam, Gia Định, Thủ Hoằng”, nên nhà vua cần biết rõ gốc gác Thủ Hoằng là ai. Sứ giả tìm đến nơi và đi hỏi gốc tích thì biết rằng Thủ Hoằng chính là Thủ Huồn ngày trước. Khi biết rõ lai lịch Thủ Huồn, vua Trung Quốc mừng lắm, liền cúng vào ngôi chùa Biên Hòa ba pho tượng vàng.
Do việc đó mà người ta bảo Thủ Huồn nhờ thành thực hối lỗi, chẳng những làm tiêu mất cái gông chờ hắn ở cõi âm, mà còn được Diêm Vương cho đi đầu thai làm vua bên Trung Quốc. Ngày nay ở Biên Hòa có một ngôi chùa cổ còn mang tên là Chùa Thủ Huồn để nhớ đến gốc tích này. Chỗ ngã ba sông Đồng Nai và Gia Định còn gọi là sông Nhà Bè để kỷ niệm lòng tốt của Thủ Huồn, đối với khách bộ hành Nam Bắc đi qua con sông đó, do vậy mà nay vẫn còn có câu hát ru: Nhà Bè nước chảy chia hai. Ai về Gia Định Đồng Nai thì về. Hiện nay ở Biên Hòa Đồng Nai vẫn còn ngôi chùa Thủ Huồn này. Không biết là có đổi tên gì mới không.
ST
Ngày xưa ở đất Gia Định có một người tên là Thủ Huồn. Hắn xuất thân làm thơ lại trong các Nha các Ty. Sau hơn hai mươi năm luồn lọt chức quyền, hắn đã làm cho biết bao gia đình tan nát, biết bao người bị oan uổng, do đó hắn đã vơ vét được rất nhiều tiền của. Vợ hắn chết sớm lại không có con, nên tiền bạc của hắn không biết tiêu vào đâu cho hết. Ngoài số chôn cất hắn đem tiền tậu ruộng, làm nhà nhiều vô số kể. Ruộng đồng của hắn cò bay thẳng cánh, mỗi mùa thu hoạch cả hàng nghìn hàng vạn giạ lúa.
Khi thấy cuộc sống quá thừa thãi, hắn bèn thôi việc về nhà sống một cuộc đời trưởng giả. Một hôm có người mách cho Thủ Huồn biết, chợ Mạnh Ma ở Quảng Yên là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau. Muốn vậy người sống phải chờ đến mồng một tháng sáu, mang một món hàng vào chợ hồi nửa đêm mà đi tìm. Thủ Huồn là người rất yêu vợ. Tuy vợ chết đã ngoài mười năm nhưng hắn vẫn không lúc nào quên. Hắn bèn giao nhà lại cho người bà con, rồi làm một chuyến du lịch ra Bắc, đến Quảng Yên, mong gặp lại mặt vợ cho thỏa lòng thương nhớ. Khi gặp vợ Thủ Huồn không dám hỏi vì thấy vợ ăn mặc rất đài các.
Sau cùng người đàn bà ấy cũng nhận ra được, hắn mừng quá vội dắt vợ ra một chỗ, kể cho vợ nghe cảnh sống của mình từ lâu nay. Hắn liền hỏi vợ:
- Bà lâu nay làm gì?
- Tôi làm vú nuôi trong cung vua. Cuộc đời của tôi không có gì đáng phàn nàn. Tôi có một gian nhà riêng trong hoàng cung, cái ăn cái mặc được chu cấp đầy đủ.
- Tôi nhớ bà quá. Tôi muốn theo bà xuống dưới ấy ít lâu có được không?
- Đi theo tôi thì cũng được, nhưng chỉ trong vài ngày là cùng, nếu quá hạn sẽ nguy hiểm.
Thủ Huồn và vợ cùng đi. Qua mấy dặm đường tối mịt, chả mấy chốc đã đến cõi âm. Hắn rùng mình khi lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào thành nội, qua những tên quỷ gác cổng có những bộ mặt gớm ghiếc. Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng vào được trót lọt. Đến một gian nhà thấp vợ bảo chồng:
- Đây là nhà bếp, đằng kia là nhà ngục, trước mặt là cung hoàng hậu, chỗ tôi túc trực hàng ngày. Qua khỏi đấy là cung vua.
- Ông cứ ẩn tạm trong buồng vắng này, vì không thể lên buồng tôi trên kia được, tôi sẽ kiếm cách cho ông đi xem một vài chỗ, nhưng rồi phải về ngay.
Chiều hôm đó, người vợ về trao cho Thủ Huồn một mảnh giấy phép của Diêm Vương và nói:
- Bây giờ ông có thể đi được rồi. Nhưng phải nhớ là không được vào cung vua và cung hoàng hậu, còn những nơi khác thì mình cứ việc đi xem cho thỏa thích.
Hắn lượn mấy vòng chung quanh nhà bếp rồi sẵn đó bước đến nhà ngục. Chưa lọt khỏi cổng mà những tiếng kêu khóc, tiếng la thét ở phía trong làm cho hắn bồn chồn. Qua mấy phòng chuyên mổ bụng, móc mắt, cắt tay... hắn thấy đây quả là nơi hành hạ tội nhân kinh khủng, đúng như lời đồn ở trên trần thế. Sau cái bàn xẻo thịt là cả một kho gông, trong đó có một cái gông đặc biệt: nó vừa to vừa dài, làm bằng những thanh gỗ nặng như sắt. Thủ Huồn lân la hỏi lão cai ngục:
- Thứ gông to này để làm gì vậy?
- Để chờ một thằng rất ác nghiệt xuống đây. Tất cả các cái gông trong này đều đã có chủ cả, cứ xem gông to hay gông nhỏ thì biết tội ác của từng người ngay.
Thủ Huồn lại hỏi:
- Thế cái thằng sẽ đeo cái gông vừa to vừa dài đó là ai vậy?
Lão cai ngục thủng thỉnh giở một cuốn sách vừa to vừa dầy, chỉ vào một hàng chữ rồi đọc:
- Hắn là Võ Thủ Hoằng, tức là Thủ Huồn, người ở Đại Nam quốc, Gia Định tỉnh, Phúc Chính huyện...
Nghe vậy Thủ Huồn giật mình mặt xám ngắt, nhưng hắn vẫn cố giữ vẻ mặt điềm tĩnh hỏi thêm:
- Thế nào? Hắn có tội gì?
Lão cai ngục mắt vẫn không rời cuốn sách:
- Khi làm thơ lại, hắn bẻ mặt ra trái, làm bao nhiêu việc oan khốc đến nỗi tội ác của hắn đen kín cả mấy trang giấy đây…
Lão cai ngục nói tiếp:
- Nghe tôi đọc này: Năm Ất Sửu, hắn sửa hai chữ “ngộ sát” thành “cố sát” làm hai mẹ con Thị Nhàn bị án chết, để cho người anh họ chiếm đoạt gia tài, việc này Thủ Huồn được hối lộ mười nén vàng, mười nén bạc và một trăm quan tiền. Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lai ở thôn Bình Ca bị hai mươi năm tội đồ, chỉ vì trong nhà có cái áo vải vàng, để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng. Năm...
Nghe đến đó thì Thủ Huồn tái mặt, không ngờ mỗi một cái cất tay động chân của mình trên dương trần kia, dưới này đều rõ mồn một. Hắn ngắt lời đánh trống lảng:
- Thế vợ hắn có cùng đeo gông với hắn không hở ông?
- Ồ! Ai làm người ấy chịu chớ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt đã xuống đây rồi.
Thủ Huồn lại hỏi gặng:
- Ví như nếu hắn muốn hối cải thì phải làm thế nào?
Lão cai ngục đáp:
- Đã vay thì phải trả! Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải cướp giật được đó bố thí và cúng lễ cho hết đi thì may ra...
Từ biệt lão cai ngục và những hình cụ khủng khiếp, Thủ Huồn không còn bụng dạ nào để đi xem nơi khác nữa. Vợ thấy chồng đòi về, liền đưa chồng ra khỏi hoàng cung của Diêm Vương và ra khỏi mấy dặm đường tối tăm mù mịt của âm phủ. Lúc chia tay, hắn bảo vợ:
- Tôi về trang trải công nợ, có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống, bà nhớ lên chợ đón nghe.
Về tới Gia Định, Thủ Huồn mạnh tay bố thí. Hắn cho gọi những người nghèo khó trong vùng lại, phát cho họ tiền, lúa… rồi đem ruộng đất của mình cúng cho làng cho chùa, chia cho họ hàng thôn xóm. Hắn mời hầu hết các sư sãi ở các chùa trong vùng tới nhà mình làm lễ cúng, tốn kém kể cả tiền vạn. Người ta lấy làm lạ không hiểu tại sao một tay riết róng như hắn bây giờ trở nên hào phóng một cách lạ thường như vậy. Ai xin gì được nấy. Có những người trước đây chửi hắn, bây giờ lại đâm ra thương hại hắn. Họ thường kháo với nhau:
- Thứ của vô nhân bất nghĩa ấy không trước thì sau thế nào cũng đội nón ra đi mà thôi.
- Có lẽ vì hắn không con, biết để của cũng chả được gì nên hắn làm cho vợi bớt đi ấy mà.
Thủ Huồn có nghe rất nhiều lời đàm tiếu về mình, nhưng hắn chẳng nói gì cả, cứ việc vung của làm phúc không tiếc tay. Cứ thế sau ba năm, Thủ Huồn đã tiêu tán hết ba phần tư cơ nghiệp. Nhớ lại lời hẹn, hắn lại khăn gói ra Bắc tìm đến chợ Mạnh Ma. Hắn dỗ khéo được vợ cho hắn xuống thăm cõi âm thêm một lần nữa. Khi trở lại nhà ngục, Thủ Huồn thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lão cai ngục vẫn là lão cai ngục trước kia. Cách bố trí y hệt như xưa, cũng có nơi mổ bụng, nơi móc mắt, nơi cắt tay...Duy chỗ để gông thì có ít nhiều thay đổi. Bên cạnh những cái vẫn còn nguyên hình như xưa thì lại có những cái trước bé nay đã lớn lên, có cái trước lớn nay nhỏ hẳn đi. Đặc biệt cái gông của hắn đã nhỏ hẳn đi ít nhiều, tuy vẫn còn to và dài hơn các thứ gông thường một tí. Hắn lân la hỏi lão cai ngục:
- Cái gông để ở nơi này trước kia tôi nhớ hình như to lắm thì phải?
- Đúng đấy! Lão đáp.
- Có lẽ gần đây ở trên dương thế thằng cha ấy đã biết chuộc lỗi nên cái gông ấy đã nhỏ lại bớt. Nếu hắn gắng hơn nữa thì rồi sẽ có phúc lớn.
Thủ Huồn lại lên đất, trở về Gia Định. Hắn lại làm tiếp công việc bố thí và cúng bái. Lần này hắn bán hết tất cả những gì còn sót lại kể cả nhà hắn ở. Hắn đến Biên Hòa dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật, rồi xuôi Đồng Nai để làm một việc nghĩa cuối cùng. Hồi đó ở ngã ba sông Đồng Nai và sông Gia Định việc đi lại rất bất tiện. Vì lòng sông rộng và nước chảy rất xiết. Cũng vì thế mà bên kia sông Đồng Nai người ta còn ngần ngại chưa dám di cư sang bên này để sinh cơ lập nghiệp.
Thủ Huồn quyết định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn trên bè có nhà ở, có đủ chỗ nghỉ có sẵn nồi niêu, đồ dùng và tiền gạo. Những thứ ấy hắn sắm sửa đầy đủ trên bè dùng để tiếp rước những người qua lại, nhất là những người nghèo khó. Hễ ai lỡ đường đến đấy thì hắn cho họ trú ngụ tại bè của mình, kẻ năm ba ngày, người một đôi tháng mà không lấy tiền, giúp họ vốn liếng sang sông mà lập nghiệp. Thủ Huồn làm công việc đó một cách sốt sắng để giúp người cùng khổ, mãi cho đến ngày xuống âm phủ thật sự.
Sau đó khá lâu, có lần một ông vua tên là Đạo Quang bên Trung Quốc tức là con của Gia Khánh. lúc mới lên ngôi có cho sứ sang Việt Nam hỏi lai lịch một người ở Gia Định. Số là khi nhà vua mới sinh, người ta thấy trong lòng bàn tay vua có mấy chữ: “Đại Nam, Gia Định, Thủ Hoằng”, nên nhà vua cần biết rõ gốc gác Thủ Hoằng là ai. Sứ giả tìm đến nơi và đi hỏi gốc tích thì biết rằng Thủ Hoằng chính là Thủ Huồn ngày trước. Khi biết rõ lai lịch Thủ Huồn, vua Trung Quốc mừng lắm, liền cúng vào ngôi chùa Biên Hòa ba pho tượng vàng.
Do việc đó mà người ta bảo Thủ Huồn nhờ thành thực hối lỗi, chẳng những làm tiêu mất cái gông chờ hắn ở cõi âm, mà còn được Diêm Vương cho đi đầu thai làm vua bên Trung Quốc. Ngày nay ở Biên Hòa có một ngôi chùa cổ còn mang tên là Chùa Thủ Huồn để nhớ đến gốc tích này. Chỗ ngã ba sông Đồng Nai và Gia Định còn gọi là sông Nhà Bè để kỷ niệm lòng tốt của Thủ Huồn, đối với khách bộ hành Nam Bắc đi qua con sông đó, do vậy mà nay vẫn còn có câu hát ru: Nhà Bè nước chảy chia hai. Ai về Gia Định Đồng Nai thì về. Hiện nay ở Biên Hòa Đồng Nai vẫn còn ngôi chùa Thủ Huồn này. Không biết là có đổi tên gì mới không.
ST
#153
Gửi vào 29/06/2011 - 03:17
CÁI MIẾU BÊN ĐƯỜNG
Tôi tin là mỗi người chúng ta đều khác nhau về thể chất, tinh thần và tâm linh. Do vậy mỗi người đều có những kinh nghiệm về siêu nhiên không giống nhau và đặc thù. Có những người gặp những chuyện lạ vài lần, có người cả đời chả bao giờ gặp cả. Vấn đề tin hay không tin về siêu nhiên cũng bắt đầu từ đây mà ra cả.
Chuyện xẩy ra khoảng năm 1960 tới 1965 ở Sài Gòn khi ba tôi làm cho môt trường trung học công lập. Trong thời gian mùa hè, có ba giáo sư trẻ phải đi coi thi và chấm thi ớ miền Trung khoảng hai tuần. Tới tỉnh đó, họ thấy môt cái miếu thờ một nhân vật nào đó mà họ không biết tên. Họ bàn tán, phê bình đây chỉ là chuyện hoang đường, láo lếu, bậy bạ rồi bỏ đi.
Ban đêm ba người về phòng ngủ. Phòng ngủ rộng có ba cái giường, có mùng và có một cái rương ở cuối phòng đế ai muốn sử dụng thì dùng. Khi ba người tắt đèn đi ngủ, thì tự nhiên có một bóng đèn màu đỏ không sáng lắm, cứ đi quanh lơ lửng từng mùng một chậm chậm, làm ai cũng sợ xanh máu mặt.
Một người can đảm bật đèn lên, thì bóng đèn đỏ biến mất ngay trong cái rương ở cuối phòng, nắp rương bật mở tung ra không hiểu tại sao. Ba người cứ để đèn sáng như vậy tới sáng và dĩ nhiên không ai ngủ được cả. Sáng hôm sau, cả ba người phải ra cái miếu xin tạ tội, khấn vái xin được tha. Điều lạ là mấy tối sau, không có chuyện gì xấy ra cả. Đây là chuyện có thật mà tôi biết được từ ba tôi khi tôi ở trung học.
trung khôi
Tôi tin là mỗi người chúng ta đều khác nhau về thể chất, tinh thần và tâm linh. Do vậy mỗi người đều có những kinh nghiệm về siêu nhiên không giống nhau và đặc thù. Có những người gặp những chuyện lạ vài lần, có người cả đời chả bao giờ gặp cả. Vấn đề tin hay không tin về siêu nhiên cũng bắt đầu từ đây mà ra cả.
Chuyện xẩy ra khoảng năm 1960 tới 1965 ở Sài Gòn khi ba tôi làm cho môt trường trung học công lập. Trong thời gian mùa hè, có ba giáo sư trẻ phải đi coi thi và chấm thi ớ miền Trung khoảng hai tuần. Tới tỉnh đó, họ thấy môt cái miếu thờ một nhân vật nào đó mà họ không biết tên. Họ bàn tán, phê bình đây chỉ là chuyện hoang đường, láo lếu, bậy bạ rồi bỏ đi.
Ban đêm ba người về phòng ngủ. Phòng ngủ rộng có ba cái giường, có mùng và có một cái rương ở cuối phòng đế ai muốn sử dụng thì dùng. Khi ba người tắt đèn đi ngủ, thì tự nhiên có một bóng đèn màu đỏ không sáng lắm, cứ đi quanh lơ lửng từng mùng một chậm chậm, làm ai cũng sợ xanh máu mặt.
Một người can đảm bật đèn lên, thì bóng đèn đỏ biến mất ngay trong cái rương ở cuối phòng, nắp rương bật mở tung ra không hiểu tại sao. Ba người cứ để đèn sáng như vậy tới sáng và dĩ nhiên không ai ngủ được cả. Sáng hôm sau, cả ba người phải ra cái miếu xin tạ tội, khấn vái xin được tha. Điều lạ là mấy tối sau, không có chuyện gì xấy ra cả. Đây là chuyện có thật mà tôi biết được từ ba tôi khi tôi ở trung học.
trung khôi
#154
Gửi vào 29/06/2011 - 03:37
TÔI ĐÃ TỪNG THẤY MA
Sinh lão bệnh tử là quy luật tất yếu của đời sống con người mà không ai tránh khỏi được. Trong nhân gian, ma được người xưa dùng để chỉ linh hồn người đã khuất, sống vất vưởng đâu đó mà chưa được siêu thoát. Điều nghịch lý rằng hầu hết ai cũng rất sợ ma nhưng lại rất thích tụ tập kể chuyện ma, có thể vì họ tò mò hoặc thích cái cảm giác vừa ớn lạnh vừa an toàn, mặc dù điều đó có thể gây cho họ nỗi sợ hãi tột độ khi không còn ai bên cạnh. Có rất nhiều người không tin rằng trên đời này chẳng có ma cỏ, đơn giản vì họ chỉ tin những điều họ thấy, và ma chỉ là trí tưởng tượng phong phú của con người.
Các nhà khoa học lại càng không tin, bởi vì thói quen của họ làm gì cũng cần phải có sự chứng minh, nhưng linh hồn con người lại thuộc lĩnh vực tâm linh thì họ biết chứng minh bằng cách gì, định luật nào có thể giải thích? Quả táo rơi xuống mặt đất do có trọng lực hút nó xuống, nhưng khi bàn ghế di chuyển mà không có lực gì đẩy hoặc hút, họ lại bảo rằng điều đó là phi khoa học và chỉ là trò ảo thuật rẻ tiền, thế mới biết khi con người càng sợ họ lại càng phản bác những điều rất hiển nhiên, mà họ thật sự không muốn chấp nhận. Vậy thì làm sao để chứng minh rằng trên đời này có ma? Ai sẽ chỉ cho bạn về điều đó? Trước khi bước vào lĩnh vực đầy thử thách này, tôi chắc rằng bạn sẽ rất thích thú khi nghe câu chuyện của Tôi, tác giả bài viết này vì tôi đã vài lần thấy ma và quỷ, tất nhiên bạn có thể không tin vì đến lúc này bạn chưa thấy.
Tôi sinh ra trong một khu xóm gần chợ đầm Nha Trang, vào thời điểm đó thì ở Nha Trang ma rất nhiều, rất lộng hành, ngay cả buổi sáng cũng có người bị ma nhát, do đó khi nhắc đến ma thì chúng tôi xem việc đó là hiển nhiên và chẳng có gì phải phàn nàn. Ma thì có thật đấy nhưng không phải ai cũng được diện kiến, các bạn hãy cùng tôi trải nghiệm những câu chuyện mà tôi đã từng đối mặt:
1. Vào giữa năm 2006, tôi có đăng ký lớp dò bài buổi tối trên trường để thi tốt nghiệp, bình thường tôi tới hơi trễ một chút, nhưng hôm đó vì lý do cá nhân nên đến sớm hơn một tiếng, 5h30 là trường đuổi học sinh về hết. Chỉ còn lại hai người trực ban ở dưới. 6h15 trời tối thui, lúc đó tôi cũng chẳng nghĩ gì nên lên phòng ôn bài trước, lúc này mặc dù đèn phòng rất sáng nhưng tôi thấy có cái gì đó không ổn, có lẽ do gió mạnh làm cái cây bàng kế bên cửa sổ đung đưa đầy ma quái ghê rợn. Nhìn sang đối diện thấy học sinh Hàn Thuyên ngồi học bài, vì Phú Nhuận với Hàn Thuyên nằm sát nhau, tôi ra ban công đứng hóng mát.
Tôi cảm giác như có cái gì đó không bình thường nhưng không hiểu là cái gì, chỉ thấy rằng rất lạnh lẽo. Các bạn biết không, tôi chết đứng sững sờ khi thấy cái bóng trắng không đầu, chính xác hơn là cái áo dài mà nữ sinh hay mặc, nhưng lại mất đầu đang lơ lửng cách tôi chừng năm mươi mét cùng hành lang. Quá bất ngờ, chân tôi cứng đờ muốn chạy mà không được, miệng thì thở không ra hơi. Thật sự rất khủng khiếp nếu bạn ở trong trường hợp của tôi. Tôi ở trạng thái kinh hãi được một lúc, thì nó từ từ biến mất như chưa bao giờ xuất hiện. Lúc này tôi mới biết mình đã thấy cái gì và nhanh chân dọt lẹ xuống dưới. Tôi đi bộ về nhà ngay lập tức. Quá khủng khiếp!
2. Năm 2001 nhà tôi tiến hành sửa nhà, bạn biết đó, khi làm việc đó thì gây phiền phức cho người sống nhưng kể cả người đã chết vẫn cảm thấy không hài lòng, nên sau khi mọi việc xong xuôi, những chuyện lạ đã xuất hiện mà trước đây chưa bao giờ có. Buổi tối khi mọi người đã ngủ hết, má tôi nghe ngoài cầu thang có tiếng chân người chạy, má tôi sợ quá tưởng ăn trộm nên kêu mọi người dậy để kiểm tra, mất mười lăm phút mà chẳng phát hiện đạo tặc nào cả, nên mọi người mau chóng trở về vị trí cũ tiếp tục cùng nhau lên mây.
Hầu như đêm nào sự việc ấy lại tiếp diễn, nếu thức trắng đêm theo dõi thì chẳng có gì xảy ra cả. Rồi ở lầu trên cùng không người ở, cứ nghe tiếng xì xào nói chuyện của con người hay tiếng bàn ghế di chuyển vào lúc khuya. Tôi còn nhớ rất rõ, khi đó là buổi chiều tháng bảy lúc trời mưa tầm tã, tôi ở nhà một mình xem tivi. Mọi việc xảy ra bình thường vào ba mươi phút đầu, cho đến khi cánh cửa trước phòng từ từ mở ra, "két...két két..." thật sự rùng rợn. Tôi nghĩ có thể là do gió mạnh nên đó là điều tự nhiên, vì khóa bấm cửa hư nên tôi lót cái khăn chặn lại. Được một lúc thì cảnh cửa chết tiệt ấy lại mở ra như lúc nãy, lúc này tôi bắt đầu sợ.
Ngoài hành lang cầu thang mặc dù trời mưa rất lớn, tiếng mưa át cả tiếng tivi nhưng tôi nghe rất rõ tiếng chân người chạy, chạy lên rồi lại chạy xuống. Tôi bắt đầu hoảng sợ tột độ khi vòi nước bắt đầu chảy như có người mở. Trời ơi điều đó thật quá sức chịu đựng với một cậu bé chỉ mười ba tuổi. Theo lý thuyết trên phim ma thì nhân vật sẽ tìm một cái mền nào đó trùm lại mà trốn, thật nực cười nhảm nhí. Mặc dù vậy tôi vẫn còn can đảm mở tung cửa và chạy thoát khỏi căn nhà chết tiệt đó. Sau này tôi mới biết căn phòng đó có một cô gái treo cổ tự tử vì bị cha mẹ ngăn cấm chuyện tình yêu, biết đâu chừng khi đó người đó ở cạnh bên mà tôi nào hay biết?
Ma có hình dáng như thế nào? Tôi nghĩ đó là câu hỏi mà chúng ta thường quan tâm nhất. Thật ra ma thì có rất nhiều trạng thái khác nhau không nhất định, tùy theo năng lực tâm linh của linh hồn sau khi chết và tâm thức trước khi chết. Đa số là màn khói trắng di động. Tại sao cùng một thời điểm và không gian chỉ có tôi thấy ma, còn bạn thì không? Như đã nói ở trên đó là chuyện nhân quả nợ nần kiếp trước, còn bạn không dính dáng gì cả nên sẽ không thấy. Theo các nhà nghiên cứu thì có những sự dao động rất nhỏ, mà mắt người không thể ghi nhận được, bạn có thấy được những hạt bụi nhỏ li ti đang bay trong không khí không?
Ma có nói được không? Tai người chỉ nghe những rung động rất nhỏ <20 HZ, vì ma không có cuống họng và lưỡi như lúc còn sống nên họ cố gắng thế nào đi nữa, chúng ta cũng không thể nghe được. Với những linh hồn tâm linh cao hơn, họ có thể truyền ý nghĩ vào người khác, cho nên bạn đừng ngạc nhiên khi có những ý nghĩ lạ xuất hiện trong đầu. Ma nhập vào người sống được không? Trên thực tế thì con người có đến bảy giác quan, giác quan cuối đều tồn tại trong mỗi chúng ta, không như cái thứ sáu chỉ có ở vài người. Và nó sẽ mở ra khi chúng ta rơi vào trạng thái ngủ sâu, không còn sự tác động bộ não suy nghĩ. Trong giấc mơ ta mơ thấy những người lạ mặt, vì họ có thể là người thân ở kiếp trước đến thăm ta.
Ở những người có hệ thần kinh thiếu ổn định, dễ bị ma tác động và chi phối làm bậy. Bạn sẽ rất bất ngờ khi biết rằng, một chàng trai vốn rất hiền lành hòa đồng với mọi người, lại mang án giết người chỉ vì vài đồng bạc lẻ, thực ra là do hồn ma tác động vào lòng tham tiềm ẩn trong anh ta, để rửa mối thù kiếp trước. Nhân quả đời đời cứ như bánh xe quay mãi không bao giờ dừng. MA không nhập vào được người sống nhưng lại có thể gây tác động tích cực đến tính cách nạn nhân. Tại sao bạn sợ ma? Nhắc đến ma ai cũng phải sợ, nhưng bạn phải nghĩ thoáng một chút, ma cũng từng là con người trước đây, có người tốt lẫn kẻ xấu. Trăm năm trước người ta cũng rất sợ ma, và giờ này những người đó là gì? trăm năm sau bạn cũng sẽ giống họ, vậy thì bạn sợ cái gì? Sợ nhìn thấy khuôn mặt ma kinh tởm hay sợ bị ma hại?
Từ nhỏ tôi rất sợ ma, sau này lớn khôn tôi lại suy nghĩ như trên nên bớt sợ hơn. Liệu mai này bạn có sợ hãi trước linh hồn người thân về thăm bạn hay không? Trong nhà tôi là người đi ngủ sau cùng, tắt hết đèn rồi đi lên cầu thang. Cảm giác khi đó như có người đang nhìn tôi trong bóng đêm và sẵn sàng tấn công nếu có thể, tôi đấu tranh rằng mình sẽ không chạy mà cứ bình tĩnh đi lên và suy nghĩ chuyện khác, mọi việc trôi qua nhẹ nhàng. TÔI ĐÃ THẮNG ĐƯỢC NỖI SỢ HÃI. Ma sợ điều gì? Ánh sáng, nhiệt độ và con người. Nếu như bạn phát hiện được căn nhà nào đó có ma, hãy bật hết đèn trắng và cho nhiều người cư trú, thời gian sau sẽ hết nhưng hậu quả dành cho người đề xướng cũng rất ghê rợn, ma sẽ trả thù khi họ đang ở thì bạn lại đến phá. Bạn làm gì khi bị ma quỷ quấy rối? Hãy dọn đến chỗ khác phù hợp với bạn, đừng nên thử đối đầu với họ không lại thiệt thân.
LỜI KHUYÊN DÀNH CHO BẠN:
- Phải biết rõ căn nhà bạn sắp cư trú. Nếu có người tự tử hay bên dưới còn quan tài thì phải từ biệt ngay.
- Khi đi thăm mộ tuyệt đối không được có ý nghĩ "cô ấy đẹp thế chết thật uổng", "thật tội nghiệp cho anh ấy"... phá phách những ngôi mộ xung quanh.. Linh hồn đó sẽ theo bạn suốt cuộc đời, và nhẹ thì chuyện tình duyên của bạn sẽ lận đận trắc trở, nặng thì bạn sẽ mất mạng vì những tai nạn bất ngờ vì có người cõi âm phá.
- Không nên uống rượu bia hay các chất kích thích. Bạn đang tạo cơ hội cho các vong linh mượn dao trả thù.
- Đừng bắt chước người ta làm chuyện ngu xuẩn là cúng cô hồn. Bạn đang rước vong linh nhí vào nhà mình. Thường thì họ rất thích nghịch ngợm và phá phách gây cảnh cãi lộn hay đánh nhau.
- Khi đi qua con đường vắng, nếu thấy bóng người ngoắt tay xin đi nhờ, tuyệt đối không được dừng xe lại mà phải đi luôn, nếu không bạn sẽ trở thành kẻ thế mạng cho vong linh xấu số.
- Không được sửa nhà với bất cứ giá nào khi đang làm ăn tốt.
Phi Phong
Sinh lão bệnh tử là quy luật tất yếu của đời sống con người mà không ai tránh khỏi được. Trong nhân gian, ma được người xưa dùng để chỉ linh hồn người đã khuất, sống vất vưởng đâu đó mà chưa được siêu thoát. Điều nghịch lý rằng hầu hết ai cũng rất sợ ma nhưng lại rất thích tụ tập kể chuyện ma, có thể vì họ tò mò hoặc thích cái cảm giác vừa ớn lạnh vừa an toàn, mặc dù điều đó có thể gây cho họ nỗi sợ hãi tột độ khi không còn ai bên cạnh. Có rất nhiều người không tin rằng trên đời này chẳng có ma cỏ, đơn giản vì họ chỉ tin những điều họ thấy, và ma chỉ là trí tưởng tượng phong phú của con người.
Các nhà khoa học lại càng không tin, bởi vì thói quen của họ làm gì cũng cần phải có sự chứng minh, nhưng linh hồn con người lại thuộc lĩnh vực tâm linh thì họ biết chứng minh bằng cách gì, định luật nào có thể giải thích? Quả táo rơi xuống mặt đất do có trọng lực hút nó xuống, nhưng khi bàn ghế di chuyển mà không có lực gì đẩy hoặc hút, họ lại bảo rằng điều đó là phi khoa học và chỉ là trò ảo thuật rẻ tiền, thế mới biết khi con người càng sợ họ lại càng phản bác những điều rất hiển nhiên, mà họ thật sự không muốn chấp nhận. Vậy thì làm sao để chứng minh rằng trên đời này có ma? Ai sẽ chỉ cho bạn về điều đó? Trước khi bước vào lĩnh vực đầy thử thách này, tôi chắc rằng bạn sẽ rất thích thú khi nghe câu chuyện của Tôi, tác giả bài viết này vì tôi đã vài lần thấy ma và quỷ, tất nhiên bạn có thể không tin vì đến lúc này bạn chưa thấy.
Tôi sinh ra trong một khu xóm gần chợ đầm Nha Trang, vào thời điểm đó thì ở Nha Trang ma rất nhiều, rất lộng hành, ngay cả buổi sáng cũng có người bị ma nhát, do đó khi nhắc đến ma thì chúng tôi xem việc đó là hiển nhiên và chẳng có gì phải phàn nàn. Ma thì có thật đấy nhưng không phải ai cũng được diện kiến, các bạn hãy cùng tôi trải nghiệm những câu chuyện mà tôi đã từng đối mặt:
1. Vào giữa năm 2006, tôi có đăng ký lớp dò bài buổi tối trên trường để thi tốt nghiệp, bình thường tôi tới hơi trễ một chút, nhưng hôm đó vì lý do cá nhân nên đến sớm hơn một tiếng, 5h30 là trường đuổi học sinh về hết. Chỉ còn lại hai người trực ban ở dưới. 6h15 trời tối thui, lúc đó tôi cũng chẳng nghĩ gì nên lên phòng ôn bài trước, lúc này mặc dù đèn phòng rất sáng nhưng tôi thấy có cái gì đó không ổn, có lẽ do gió mạnh làm cái cây bàng kế bên cửa sổ đung đưa đầy ma quái ghê rợn. Nhìn sang đối diện thấy học sinh Hàn Thuyên ngồi học bài, vì Phú Nhuận với Hàn Thuyên nằm sát nhau, tôi ra ban công đứng hóng mát.
Tôi cảm giác như có cái gì đó không bình thường nhưng không hiểu là cái gì, chỉ thấy rằng rất lạnh lẽo. Các bạn biết không, tôi chết đứng sững sờ khi thấy cái bóng trắng không đầu, chính xác hơn là cái áo dài mà nữ sinh hay mặc, nhưng lại mất đầu đang lơ lửng cách tôi chừng năm mươi mét cùng hành lang. Quá bất ngờ, chân tôi cứng đờ muốn chạy mà không được, miệng thì thở không ra hơi. Thật sự rất khủng khiếp nếu bạn ở trong trường hợp của tôi. Tôi ở trạng thái kinh hãi được một lúc, thì nó từ từ biến mất như chưa bao giờ xuất hiện. Lúc này tôi mới biết mình đã thấy cái gì và nhanh chân dọt lẹ xuống dưới. Tôi đi bộ về nhà ngay lập tức. Quá khủng khiếp!
2. Năm 2001 nhà tôi tiến hành sửa nhà, bạn biết đó, khi làm việc đó thì gây phiền phức cho người sống nhưng kể cả người đã chết vẫn cảm thấy không hài lòng, nên sau khi mọi việc xong xuôi, những chuyện lạ đã xuất hiện mà trước đây chưa bao giờ có. Buổi tối khi mọi người đã ngủ hết, má tôi nghe ngoài cầu thang có tiếng chân người chạy, má tôi sợ quá tưởng ăn trộm nên kêu mọi người dậy để kiểm tra, mất mười lăm phút mà chẳng phát hiện đạo tặc nào cả, nên mọi người mau chóng trở về vị trí cũ tiếp tục cùng nhau lên mây.
Hầu như đêm nào sự việc ấy lại tiếp diễn, nếu thức trắng đêm theo dõi thì chẳng có gì xảy ra cả. Rồi ở lầu trên cùng không người ở, cứ nghe tiếng xì xào nói chuyện của con người hay tiếng bàn ghế di chuyển vào lúc khuya. Tôi còn nhớ rất rõ, khi đó là buổi chiều tháng bảy lúc trời mưa tầm tã, tôi ở nhà một mình xem tivi. Mọi việc xảy ra bình thường vào ba mươi phút đầu, cho đến khi cánh cửa trước phòng từ từ mở ra, "két...két két..." thật sự rùng rợn. Tôi nghĩ có thể là do gió mạnh nên đó là điều tự nhiên, vì khóa bấm cửa hư nên tôi lót cái khăn chặn lại. Được một lúc thì cảnh cửa chết tiệt ấy lại mở ra như lúc nãy, lúc này tôi bắt đầu sợ.
Ngoài hành lang cầu thang mặc dù trời mưa rất lớn, tiếng mưa át cả tiếng tivi nhưng tôi nghe rất rõ tiếng chân người chạy, chạy lên rồi lại chạy xuống. Tôi bắt đầu hoảng sợ tột độ khi vòi nước bắt đầu chảy như có người mở. Trời ơi điều đó thật quá sức chịu đựng với một cậu bé chỉ mười ba tuổi. Theo lý thuyết trên phim ma thì nhân vật sẽ tìm một cái mền nào đó trùm lại mà trốn, thật nực cười nhảm nhí. Mặc dù vậy tôi vẫn còn can đảm mở tung cửa và chạy thoát khỏi căn nhà chết tiệt đó. Sau này tôi mới biết căn phòng đó có một cô gái treo cổ tự tử vì bị cha mẹ ngăn cấm chuyện tình yêu, biết đâu chừng khi đó người đó ở cạnh bên mà tôi nào hay biết?
Ma có hình dáng như thế nào? Tôi nghĩ đó là câu hỏi mà chúng ta thường quan tâm nhất. Thật ra ma thì có rất nhiều trạng thái khác nhau không nhất định, tùy theo năng lực tâm linh của linh hồn sau khi chết và tâm thức trước khi chết. Đa số là màn khói trắng di động. Tại sao cùng một thời điểm và không gian chỉ có tôi thấy ma, còn bạn thì không? Như đã nói ở trên đó là chuyện nhân quả nợ nần kiếp trước, còn bạn không dính dáng gì cả nên sẽ không thấy. Theo các nhà nghiên cứu thì có những sự dao động rất nhỏ, mà mắt người không thể ghi nhận được, bạn có thấy được những hạt bụi nhỏ li ti đang bay trong không khí không?
Ma có nói được không? Tai người chỉ nghe những rung động rất nhỏ <20 HZ, vì ma không có cuống họng và lưỡi như lúc còn sống nên họ cố gắng thế nào đi nữa, chúng ta cũng không thể nghe được. Với những linh hồn tâm linh cao hơn, họ có thể truyền ý nghĩ vào người khác, cho nên bạn đừng ngạc nhiên khi có những ý nghĩ lạ xuất hiện trong đầu. Ma nhập vào người sống được không? Trên thực tế thì con người có đến bảy giác quan, giác quan cuối đều tồn tại trong mỗi chúng ta, không như cái thứ sáu chỉ có ở vài người. Và nó sẽ mở ra khi chúng ta rơi vào trạng thái ngủ sâu, không còn sự tác động bộ não suy nghĩ. Trong giấc mơ ta mơ thấy những người lạ mặt, vì họ có thể là người thân ở kiếp trước đến thăm ta.
Ở những người có hệ thần kinh thiếu ổn định, dễ bị ma tác động và chi phối làm bậy. Bạn sẽ rất bất ngờ khi biết rằng, một chàng trai vốn rất hiền lành hòa đồng với mọi người, lại mang án giết người chỉ vì vài đồng bạc lẻ, thực ra là do hồn ma tác động vào lòng tham tiềm ẩn trong anh ta, để rửa mối thù kiếp trước. Nhân quả đời đời cứ như bánh xe quay mãi không bao giờ dừng. MA không nhập vào được người sống nhưng lại có thể gây tác động tích cực đến tính cách nạn nhân. Tại sao bạn sợ ma? Nhắc đến ma ai cũng phải sợ, nhưng bạn phải nghĩ thoáng một chút, ma cũng từng là con người trước đây, có người tốt lẫn kẻ xấu. Trăm năm trước người ta cũng rất sợ ma, và giờ này những người đó là gì? trăm năm sau bạn cũng sẽ giống họ, vậy thì bạn sợ cái gì? Sợ nhìn thấy khuôn mặt ma kinh tởm hay sợ bị ma hại?
Từ nhỏ tôi rất sợ ma, sau này lớn khôn tôi lại suy nghĩ như trên nên bớt sợ hơn. Liệu mai này bạn có sợ hãi trước linh hồn người thân về thăm bạn hay không? Trong nhà tôi là người đi ngủ sau cùng, tắt hết đèn rồi đi lên cầu thang. Cảm giác khi đó như có người đang nhìn tôi trong bóng đêm và sẵn sàng tấn công nếu có thể, tôi đấu tranh rằng mình sẽ không chạy mà cứ bình tĩnh đi lên và suy nghĩ chuyện khác, mọi việc trôi qua nhẹ nhàng. TÔI ĐÃ THẮNG ĐƯỢC NỖI SỢ HÃI. Ma sợ điều gì? Ánh sáng, nhiệt độ và con người. Nếu như bạn phát hiện được căn nhà nào đó có ma, hãy bật hết đèn trắng và cho nhiều người cư trú, thời gian sau sẽ hết nhưng hậu quả dành cho người đề xướng cũng rất ghê rợn, ma sẽ trả thù khi họ đang ở thì bạn lại đến phá. Bạn làm gì khi bị ma quỷ quấy rối? Hãy dọn đến chỗ khác phù hợp với bạn, đừng nên thử đối đầu với họ không lại thiệt thân.
LỜI KHUYÊN DÀNH CHO BẠN:
- Phải biết rõ căn nhà bạn sắp cư trú. Nếu có người tự tử hay bên dưới còn quan tài thì phải từ biệt ngay.
- Khi đi thăm mộ tuyệt đối không được có ý nghĩ "cô ấy đẹp thế chết thật uổng", "thật tội nghiệp cho anh ấy"... phá phách những ngôi mộ xung quanh.. Linh hồn đó sẽ theo bạn suốt cuộc đời, và nhẹ thì chuyện tình duyên của bạn sẽ lận đận trắc trở, nặng thì bạn sẽ mất mạng vì những tai nạn bất ngờ vì có người cõi âm phá.
- Không nên uống rượu bia hay các chất kích thích. Bạn đang tạo cơ hội cho các vong linh mượn dao trả thù.
- Đừng bắt chước người ta làm chuyện ngu xuẩn là cúng cô hồn. Bạn đang rước vong linh nhí vào nhà mình. Thường thì họ rất thích nghịch ngợm và phá phách gây cảnh cãi lộn hay đánh nhau.
- Khi đi qua con đường vắng, nếu thấy bóng người ngoắt tay xin đi nhờ, tuyệt đối không được dừng xe lại mà phải đi luôn, nếu không bạn sẽ trở thành kẻ thế mạng cho vong linh xấu số.
- Không được sửa nhà với bất cứ giá nào khi đang làm ăn tốt.
Phi Phong
#155
Gửi vào 29/06/2011 - 03:40
BÓNG TRẮNG TRÊN CÂY VÚ SỮA
Đây là chuyện thật khi tôi còn bé ở tại Cần Thơ.
Lúc tôi lên chín tuổi gia đình tôi sống trong một khu dành riêng cho gia đình lính của QLVNCH ở tại Cần Thơ. Những gia đình lính này sống ở các căn hộ chung trong những dãy nhà dài lợp ngói đỏ do người Pháp để lại. Mỗi dãy có chừng mười căn hộ, giống như town house bên Mỹ vậy. Nhà tôi ở căn giữa và sau nhà có một cây vú sữa cao và đã già. Gần đó cũng có một vài cây bả đậu, một loại cây to có lá giống như lá đa, thân cây có nhiều gai, và có trái tròn hơi dẹp to như quả banh tennis, và mấy cây me to mọc gần.
Cây vú sữa sau nhà tôi thân chia làm hai từ ngay gốc nên trông giống như là hai cây mọc cùng một chổ. Vì cây đã già cỗi nên có nhiều nhánh bị khô trơ trụi không có lá nào. Tới mùa vú sữa thì nó chỉ cho được vài chục trái nho nhỏ thôi nhưng rất ngọt. Bố tôi làm một cái chuồng to nuôi mấy con gà ở ngay dưới gốc cây vú sữa này. Vì những người đàn ông sống trong khu này đều là lính, nên họ thường có nhiều đêm phải đi về khuya vì bị trực đêm, hay gác ở chung quanh trại lính kế bên đó. Lũ trẻ chúng tôi thì ban đêm nhiều lắm thì chơi tới khoảng chín giờ tối là cùng, ở một vườn chơi trẻ em được xây trong khu này. Gia đình tôi sống ở đó cả năm trời và thấy rất là an toàn vì chung quanh có hàng rào bao bọc.
Một chiều Chủ Nhật khi anh em tôi đang ngồi ăn đậu phụng luộc ở nhà thì có một bà bạn của mẹ tôi ở nhà gần đó qua chơi. Bà ngồi nói chuyện trời mây mưa nắng một hồi rồi cuối cùng bà ta hỏi mẹ tôi hay có ai trong gia đình tôi thấy hay nghe gì không? Mẹ tôi trả lời không có gì lạ cả và hỏi lại bà ta có gì mà bà tỏ vẻ lấm lét thế. Bà ta mới bắt đầu kể là đã có nhiều người đàn ông đi làm về khuya, thấy có một cái bóng trắng đu đưa tòn teng trên cây vú sữa sau nhà tôi. Họ nói rằng cái bóng đó leo lên tụt xuống ở thân cây, và phóng từ cành này qua cành khác nhẹ nhàng như một con vượn vậy.
Có người còn thấy nó đứng trên cái chuồng gà ở ngay gốc cây nữa. Có ông còn quả quyết là thấy nó phóng từ cây vú sữa qua cây me gần đó như là bay là là trên không vậy đó. Mẹ con tôi nghe bà ta kể chuyện cũng xanh cả mặt tuy là không biết đó có đúng là sự thật không nữa. Bà ấy hỏi nhà tôi có ai nghe hay thấy gì về cái bóng trắng trên cây vú sữa không? Mẹ tôi cố moi móc trí nhớ và trả lời là thấy thì chưa ai trong gia đình tôi thấy cả, nhưng thỉnh thoảng trong đêm có nghe tiếng các con gà kêu to tán loạn như hoảng hốt lên thôi.
Mẹ tôi nói thỉnh thoảng bố tôi có ra xem coi có phải ăn trộm bắt gà, hay mấy con chồn mò quanh chuồng gà không, nhưng bố tôi cũng không thấy có gì khác lạ cả. Chiều đó khi bố tôi đi chơi về, mẹ đã kể chuyện này cho bố tôi nghe nhưng ông gạt phăng đi, và cho đó là chuyện nhảm nhí của mấy bà ngồi lê đôi mách. Tuy thế mẹ con tôi thì rất sợ nên không có ai dám đi chơi khuya nữa cả. Tôi thì chỉ đi nhiều lắm là bảy giờ tối là đã có mặt ở nhà rồi.
Câu chuyện cái bóng trắng ở cây vú sữa sau nhà tôi được đồn đại lan truyền trong cả khu vực này, nên tối đến phía vùng sau dãy nhà của gia đình tôi rất vắng, vì mấy bà và các đứa trẻ như tôi sợ bị gặp cái bóng trắng này, mặc dù họ nói là cái bóng này chỉ xuất hiện sau nửa đêm thôi. Chừng nửa năm sau đó bố tôi theo đơn vị di chuyển đi tỉnh Bạc Liêu, nên tôi chưa có dịp được thấy cái bóng trắng này lần nào. Thật tình mà nói lúc đó tôi còn nhỏ và rất sợ ma. nên dù có cho vàng thì tôi cũng chẳng dám thức mà ra rình xem cái bóng trắng đó đâu!
ST
Đây là chuyện thật khi tôi còn bé ở tại Cần Thơ.
Lúc tôi lên chín tuổi gia đình tôi sống trong một khu dành riêng cho gia đình lính của QLVNCH ở tại Cần Thơ. Những gia đình lính này sống ở các căn hộ chung trong những dãy nhà dài lợp ngói đỏ do người Pháp để lại. Mỗi dãy có chừng mười căn hộ, giống như town house bên Mỹ vậy. Nhà tôi ở căn giữa và sau nhà có một cây vú sữa cao và đã già. Gần đó cũng có một vài cây bả đậu, một loại cây to có lá giống như lá đa, thân cây có nhiều gai, và có trái tròn hơi dẹp to như quả banh tennis, và mấy cây me to mọc gần.
Cây vú sữa sau nhà tôi thân chia làm hai từ ngay gốc nên trông giống như là hai cây mọc cùng một chổ. Vì cây đã già cỗi nên có nhiều nhánh bị khô trơ trụi không có lá nào. Tới mùa vú sữa thì nó chỉ cho được vài chục trái nho nhỏ thôi nhưng rất ngọt. Bố tôi làm một cái chuồng to nuôi mấy con gà ở ngay dưới gốc cây vú sữa này. Vì những người đàn ông sống trong khu này đều là lính, nên họ thường có nhiều đêm phải đi về khuya vì bị trực đêm, hay gác ở chung quanh trại lính kế bên đó. Lũ trẻ chúng tôi thì ban đêm nhiều lắm thì chơi tới khoảng chín giờ tối là cùng, ở một vườn chơi trẻ em được xây trong khu này. Gia đình tôi sống ở đó cả năm trời và thấy rất là an toàn vì chung quanh có hàng rào bao bọc.
Một chiều Chủ Nhật khi anh em tôi đang ngồi ăn đậu phụng luộc ở nhà thì có một bà bạn của mẹ tôi ở nhà gần đó qua chơi. Bà ngồi nói chuyện trời mây mưa nắng một hồi rồi cuối cùng bà ta hỏi mẹ tôi hay có ai trong gia đình tôi thấy hay nghe gì không? Mẹ tôi trả lời không có gì lạ cả và hỏi lại bà ta có gì mà bà tỏ vẻ lấm lét thế. Bà ta mới bắt đầu kể là đã có nhiều người đàn ông đi làm về khuya, thấy có một cái bóng trắng đu đưa tòn teng trên cây vú sữa sau nhà tôi. Họ nói rằng cái bóng đó leo lên tụt xuống ở thân cây, và phóng từ cành này qua cành khác nhẹ nhàng như một con vượn vậy.
Có người còn thấy nó đứng trên cái chuồng gà ở ngay gốc cây nữa. Có ông còn quả quyết là thấy nó phóng từ cây vú sữa qua cây me gần đó như là bay là là trên không vậy đó. Mẹ con tôi nghe bà ta kể chuyện cũng xanh cả mặt tuy là không biết đó có đúng là sự thật không nữa. Bà ấy hỏi nhà tôi có ai nghe hay thấy gì về cái bóng trắng trên cây vú sữa không? Mẹ tôi cố moi móc trí nhớ và trả lời là thấy thì chưa ai trong gia đình tôi thấy cả, nhưng thỉnh thoảng trong đêm có nghe tiếng các con gà kêu to tán loạn như hoảng hốt lên thôi.
Mẹ tôi nói thỉnh thoảng bố tôi có ra xem coi có phải ăn trộm bắt gà, hay mấy con chồn mò quanh chuồng gà không, nhưng bố tôi cũng không thấy có gì khác lạ cả. Chiều đó khi bố tôi đi chơi về, mẹ đã kể chuyện này cho bố tôi nghe nhưng ông gạt phăng đi, và cho đó là chuyện nhảm nhí của mấy bà ngồi lê đôi mách. Tuy thế mẹ con tôi thì rất sợ nên không có ai dám đi chơi khuya nữa cả. Tôi thì chỉ đi nhiều lắm là bảy giờ tối là đã có mặt ở nhà rồi.
Câu chuyện cái bóng trắng ở cây vú sữa sau nhà tôi được đồn đại lan truyền trong cả khu vực này, nên tối đến phía vùng sau dãy nhà của gia đình tôi rất vắng, vì mấy bà và các đứa trẻ như tôi sợ bị gặp cái bóng trắng này, mặc dù họ nói là cái bóng này chỉ xuất hiện sau nửa đêm thôi. Chừng nửa năm sau đó bố tôi theo đơn vị di chuyển đi tỉnh Bạc Liêu, nên tôi chưa có dịp được thấy cái bóng trắng này lần nào. Thật tình mà nói lúc đó tôi còn nhỏ và rất sợ ma. nên dù có cho vàng thì tôi cũng chẳng dám thức mà ra rình xem cái bóng trắng đó đâu!
ST
#156
Gửi vào 29/06/2011 - 03:47
HÀI CỐT DƯỚI NỀN NHÀ
Viết theo lời kể của một người quen, người này trước sống ở khu nhà thờ Hầm Q 10. Saigon.
Trước năm bảy mươi lăm, ai ở quận mười của Saigon cũng biết đến khu nhà thờ Hầm. Bạn cứ chạy xe tới ngã ba đường Lữ Gia và đường Dương Công Trừng, góc trường đua Phú Thọ rồi quẹo phải đi về cuối đường Dương Công Trừng là sẽ thấy nhà thờ này. Chung quanh khu nhà thờ Hầm này là chổ ở của những gia đình nghèo. Những căn nhà xấu xí, vá lắp bởi những tấm ván, và lợp tôn cũ là hình ảnh điển hình cho khu này.
Gần nhà thờ Hầm có một nghĩa địa rất xưa. Có lẽ vùng này ngày xưa là ngoại ô của Saigon và họ dùng mảnh đất này để làm nơi chôn cất những người chết trong thành phố. Vào thập niên sáu mươi dân lao động cũng như những người lính và công chức nghèo, vì không có tiền để mua nhà, nên đã chiếm đất của cái nghĩa địa cổ này và làm nhà trên đó. Nếu bạn vào thăm những căn nhà này, bạn sẽ thấy ớn lạnh vì những ngôi mồ cũ bằng đá ong đen vẫn còn nằm sờ sờ trong nhà. Nhiều nhà may hơn thì cất trên những ngôi mộ bằng đất hay gạch, nên chủ nhà đã san bằng những ngôi mộ này, để trong nhà có thêm diện tích trong sinh hoạt gia đình.
Sau bảy mươi lăm nhiều người chủ của những ngôi nhà này đã bán chúng để đi, vì muốn về quê làm ăn hay bị ép đi kinh tế mới. Nhiều chủ mới không hề biết là nền nhà mình vẫn còn những bộ xương chôn phía dưới. Trong thập niên chín mươi đa số các nhà ở khu này đều được xây lên thành những căn nhà gạch khang trang hơn, và nhà cửa khu này cũng lên giá như những khu khác trong Thành Phố Saigon. Gia đình Dũng mua một căn nhà ở khu này vào năm 1997. Căn nhà khá rộng và có hai tầng. Tầng dưới có một phòng khách một phòng ngủ, một nhà bếp nhỏ và phòng tắm. Trên lầu có ba phòng ngủ và một cái nhà tắm nhỏ. Căn nhà nằm ngay mặt tiền của một con hẻm rộng nên mẹ Dũng mở cửa tiệm bán tạp hoá ngay ở nhà.
Bố Dũng làm việc cho một công ty nước ngoài được sáu chục đô một tháng. Số tiền này không đủ chi phí cho gia đình nên cái quán của mẹ là nguồn sống chính cho gia đình. Dũng chiếm phòng đầu trên lầu cho mình, còn hai phòng kia cho hai đứa em gái. Dũng có một cái tủ đứng cao bằng gổ bằng lăng để đựng quần áo, một cái giường nệm đơn, và một chiếc bàn học nhỏ để ở góc phòng. Ở nhà này được mấy năm, Dũng hầu như quen thuộc hết với các tiếng động trong nhà. Từ tiếng kêu ken két của cái cửa sắt chính, đến cái kẻo kẹt của cánh cửa sổ khi chúng được đóng vào hay mở ra. Ngay cả cái cánh cửa tủ quần áo mỗi khi đóng mở cũng kêu lên tiếng kèn kẹt đặc biệt của nó.
Một tối kia khoảng mười đêm, Dũng đang ngồi trông tiệm cho mẹ, mắt lơ đảng nhìn ra đường vắng hoe vì đang mưa. Dũng bổng chú ý tới một đứa bé chừng năm, sáu tuổi đang lửng thửng đi vào ngỏ hẻm. Nhờ ánh đèn điện bắt dọc theo con hẻm, Dũng nhận thấy đứa bé mặc một bộ đồ trắng. Người nó ướt sủng vì chẳng đội hay che gì trên đầu cả. Tay nó cầm mấy cái bong bóng bay xanh đỏ và thỉnh thoảng thả lên giật xuống có vẻ thích thú lắm. Dũng rất ngạc nhiên vì giờ này đã khuya mà thằng bé nhỏ xíu con ai vẫn đầu trần lang thang trên đường một mình. Khi đi ngang cửa tiệm, thằng bé liếc mắt nhìn Dũng. Cái nhìn như có thần, như có ánh lạnh làm Dũng rùng cả người. Dũng vội quay đầu đi để tránh cái nhìn giá băng đó. Khi quay lại thì quái lạ! Đứa bé đã biệt tăm. Dũng chạy ra cửa nhìn về hai phía đường hẻm.
Không một bóng người. Thằng bé không thể đi nhanh đến thế được. Dũng vội vàng kéo cửa sắt đóng cửa tiệm rồi chạy lên lầu. Về đến phòng mà Dũng vẫn cảm thấy hơi lạnh chạy rờn rợn sau lưng mình! Cuối năm đó Dũng lên mười bảy, gần Noel nhà cô của Dũng tổ chức đám cưới cho con trai trưởng của cô, nên gia đình Dũng được mời tham dự cả nhà. Dũng là thanh niên mới lớn lại có tính hơi mắc cở nên một mực đòi ở nhà. Vả lại Dũng vừa làm quen được một bạn gái ở trường, nên cũng muốn lợi dụng lúc mọi người vắng nhà để gọi điện thoại nói chuyện với bạn.
Khi mọi người đã đi dự tiệc hết, Dũng ngồi ở nhà trước để coi tiệm và coi tivi. Khoảng 9:30 đêm Dũng đóng cửa sớm và bấm điện thoại gọi cô bạn gái. Hai người nói chuyện với nhau hết chuyện học hành đến chuyện phim ảnh, rồi tới cả chuyện bạn bè của nhau. Khoảng 10:30 bổng Dũng nghe tiếng cửa tủ trên phòng mình mở ra kêu kẻo kẹt. Dũng hơi ơn ớn vì biết chắc là có ai đó đang mở tủ, vì cánh cửa tủ rất chặt không thể tự nó mở bung ra được. Dũng thuộc lòng từng tiếng động trong nhà, nên biết ngay đó là tiếng mở tủ của mình. Không biết có ai lẻn vào nhà không? Chắc là không rồi vì khi đi bố Dũng đã soát hết các cửa nẻo và đóng chúng lại hết rồi. Mà biết đâu tên trộm lẻn vào nhà từ hồi chiều thì sao?
Tiếng kẻo kẹt lại vang lên như là cánh cửa tủ đang được đóng lại. Dũng vội nói với cô bạn là mình nghe có tiếng lạ trên phòng. Cô bạn cười vang trong điện thoại và chọc quê Dũng nhát gan, nên tưởng tượng vậy thôi. Mọi sự yên ắng trở lại. Dũng thấy yên tâm và tiếp tục chuyện trò. Khoảng mười lăm phút sau, có tiếng động thùm thụp nổi lên trên phòng như ai đó đang nhẩy trên cái giường của Dũng. Lần này Dũng lạnh cả xương sống, miệng lấp bấp nói với cô bạn là có ai đang phá phách trong phòng mình. Nghe giọng Dũng có vẻ run run và nghiêm trọng, nên cô bạn không dám giởn nữa, bảo Dũng lên đó coi có ai hay chỉ là con mèo thôi? Dũng ậm ừ cho xong và nói sẽ gặp lại ngày hôm sau rồi cúp máy.
Tuy nói là sẽ lên coi nhưng Dũng sợ rúm người chỉ dám đứng ở dưới nhà nghe ngóng. Tiếng nhẩy vẫn liên tục và rồi có tiếng "bịch" như ai đó nhẩy xuống sàn nhà. Bất chợt một giọng cười khanh khách của một đứa bé trai vang lên. Dũng xanh cả mặt mày phi một mạch ra mở cửa và chạy qua nhà bác Tư hàng xóm. Dũng đập vào cửa thình thịch cầu cứu. Bác Tư mắt nhắm mắt mở hé cửa hỏi có việc gì. Dũng không dám nói thật ý mình nghĩ, mà chỉ nói là có ai lẻn vào nhà mình. Bác Tư xách theo con dao phay cùng với Dũng qua nhà. Dũng chỉ lên lầu và lủi vào góc nhà đứng chứ không dám lên. Bác Tư nắm tay Dũng kéo lên theo mình.
Dũng bật đèn trên lầu và thấy cánh cửa phòng mình mở toang. Hai người bước vào trong thấy tấm khăn trải trên giường nhàu rối, còn gối thì văng xuống sàn nhà. Cánh cửa tủ lại bị mở tung ra và quần áo trong đó đều bị kéo xuống đáy tủ. Dũng là người ngăn nắp và nhớ rỏ là mình đã trải khăn giường gọn ghẻ mỗi khi thức dậy, tủ và cửa phòng đều được đóng mỗi khi rời phòng. Chắc chắn là có ai phá trong này vì Dũng nghe rỏ ràng có tiếng động và tiếng cười. Bác Tư nói Dũng đi xem lại các cửa ngỏ trong nhà. Tất cả đều vẫn được đóng kín. Bác Tư nói chắc tiếng động là do mèo hay chuột gây ra thôi. Bác Tư ra về và Dũng năn nỉ bác ấy cho vào nhà của bác ngồi đợi bố mẹ mình đi ăn cưới về.
Bố mẹ Dũng rất ngạc nhiên và hỏi duyên cớ khi thấy Dũng không ở nhà mình, mà lại sang nhà bác Tư đợi. Dũng bèn kể sơ câu chuyện cho mọi người nghe, và tối đó Dũng nằm ngủ ở dưới phòng khách chứ chẳng dám trở lên phòng mình. Mẹ Dũng là đàn bà nên cũng rất sợ, bà lại nghe nói vùng này xưa kia là nghĩa địa nên càng nghi ngờ hơn. Hôm sau bà nhờ người coi trong nhà và họ khám phá ra một ngôi một còn dưới nền. Bố mẹ Dũng bèn thuê họ đào lên và đúng như Dũng đoán: Đó là hài cốt của một đứa bé chừng năm, sáu tuổi. Bố mẹ Dũng nhờ hỏa thiêu hài cốt và gửi tro vào một ngôi chùa. Từ đó về sau nhà không nghe tiếng động nào lạ thường nữa. Dũng cũng không hề gặp lại đứa bé trong mưa lần nào nữa. Nhưng Dũng tin là khu vực này vẫn còn nhiều hồn ma lảng vảng vì vẫn còn nhiều ngôi mộ bị nhà xây cất lên trên.
ST
Viết theo lời kể của một người quen, người này trước sống ở khu nhà thờ Hầm Q 10. Saigon.
Trước năm bảy mươi lăm, ai ở quận mười của Saigon cũng biết đến khu nhà thờ Hầm. Bạn cứ chạy xe tới ngã ba đường Lữ Gia và đường Dương Công Trừng, góc trường đua Phú Thọ rồi quẹo phải đi về cuối đường Dương Công Trừng là sẽ thấy nhà thờ này. Chung quanh khu nhà thờ Hầm này là chổ ở của những gia đình nghèo. Những căn nhà xấu xí, vá lắp bởi những tấm ván, và lợp tôn cũ là hình ảnh điển hình cho khu này.
Gần nhà thờ Hầm có một nghĩa địa rất xưa. Có lẽ vùng này ngày xưa là ngoại ô của Saigon và họ dùng mảnh đất này để làm nơi chôn cất những người chết trong thành phố. Vào thập niên sáu mươi dân lao động cũng như những người lính và công chức nghèo, vì không có tiền để mua nhà, nên đã chiếm đất của cái nghĩa địa cổ này và làm nhà trên đó. Nếu bạn vào thăm những căn nhà này, bạn sẽ thấy ớn lạnh vì những ngôi mồ cũ bằng đá ong đen vẫn còn nằm sờ sờ trong nhà. Nhiều nhà may hơn thì cất trên những ngôi mộ bằng đất hay gạch, nên chủ nhà đã san bằng những ngôi mộ này, để trong nhà có thêm diện tích trong sinh hoạt gia đình.
Sau bảy mươi lăm nhiều người chủ của những ngôi nhà này đã bán chúng để đi, vì muốn về quê làm ăn hay bị ép đi kinh tế mới. Nhiều chủ mới không hề biết là nền nhà mình vẫn còn những bộ xương chôn phía dưới. Trong thập niên chín mươi đa số các nhà ở khu này đều được xây lên thành những căn nhà gạch khang trang hơn, và nhà cửa khu này cũng lên giá như những khu khác trong Thành Phố Saigon. Gia đình Dũng mua một căn nhà ở khu này vào năm 1997. Căn nhà khá rộng và có hai tầng. Tầng dưới có một phòng khách một phòng ngủ, một nhà bếp nhỏ và phòng tắm. Trên lầu có ba phòng ngủ và một cái nhà tắm nhỏ. Căn nhà nằm ngay mặt tiền của một con hẻm rộng nên mẹ Dũng mở cửa tiệm bán tạp hoá ngay ở nhà.
Bố Dũng làm việc cho một công ty nước ngoài được sáu chục đô một tháng. Số tiền này không đủ chi phí cho gia đình nên cái quán của mẹ là nguồn sống chính cho gia đình. Dũng chiếm phòng đầu trên lầu cho mình, còn hai phòng kia cho hai đứa em gái. Dũng có một cái tủ đứng cao bằng gổ bằng lăng để đựng quần áo, một cái giường nệm đơn, và một chiếc bàn học nhỏ để ở góc phòng. Ở nhà này được mấy năm, Dũng hầu như quen thuộc hết với các tiếng động trong nhà. Từ tiếng kêu ken két của cái cửa sắt chính, đến cái kẻo kẹt của cánh cửa sổ khi chúng được đóng vào hay mở ra. Ngay cả cái cánh cửa tủ quần áo mỗi khi đóng mở cũng kêu lên tiếng kèn kẹt đặc biệt của nó.
Một tối kia khoảng mười đêm, Dũng đang ngồi trông tiệm cho mẹ, mắt lơ đảng nhìn ra đường vắng hoe vì đang mưa. Dũng bổng chú ý tới một đứa bé chừng năm, sáu tuổi đang lửng thửng đi vào ngỏ hẻm. Nhờ ánh đèn điện bắt dọc theo con hẻm, Dũng nhận thấy đứa bé mặc một bộ đồ trắng. Người nó ướt sủng vì chẳng đội hay che gì trên đầu cả. Tay nó cầm mấy cái bong bóng bay xanh đỏ và thỉnh thoảng thả lên giật xuống có vẻ thích thú lắm. Dũng rất ngạc nhiên vì giờ này đã khuya mà thằng bé nhỏ xíu con ai vẫn đầu trần lang thang trên đường một mình. Khi đi ngang cửa tiệm, thằng bé liếc mắt nhìn Dũng. Cái nhìn như có thần, như có ánh lạnh làm Dũng rùng cả người. Dũng vội quay đầu đi để tránh cái nhìn giá băng đó. Khi quay lại thì quái lạ! Đứa bé đã biệt tăm. Dũng chạy ra cửa nhìn về hai phía đường hẻm.
Không một bóng người. Thằng bé không thể đi nhanh đến thế được. Dũng vội vàng kéo cửa sắt đóng cửa tiệm rồi chạy lên lầu. Về đến phòng mà Dũng vẫn cảm thấy hơi lạnh chạy rờn rợn sau lưng mình! Cuối năm đó Dũng lên mười bảy, gần Noel nhà cô của Dũng tổ chức đám cưới cho con trai trưởng của cô, nên gia đình Dũng được mời tham dự cả nhà. Dũng là thanh niên mới lớn lại có tính hơi mắc cở nên một mực đòi ở nhà. Vả lại Dũng vừa làm quen được một bạn gái ở trường, nên cũng muốn lợi dụng lúc mọi người vắng nhà để gọi điện thoại nói chuyện với bạn.
Khi mọi người đã đi dự tiệc hết, Dũng ngồi ở nhà trước để coi tiệm và coi tivi. Khoảng 9:30 đêm Dũng đóng cửa sớm và bấm điện thoại gọi cô bạn gái. Hai người nói chuyện với nhau hết chuyện học hành đến chuyện phim ảnh, rồi tới cả chuyện bạn bè của nhau. Khoảng 10:30 bổng Dũng nghe tiếng cửa tủ trên phòng mình mở ra kêu kẻo kẹt. Dũng hơi ơn ớn vì biết chắc là có ai đó đang mở tủ, vì cánh cửa tủ rất chặt không thể tự nó mở bung ra được. Dũng thuộc lòng từng tiếng động trong nhà, nên biết ngay đó là tiếng mở tủ của mình. Không biết có ai lẻn vào nhà không? Chắc là không rồi vì khi đi bố Dũng đã soát hết các cửa nẻo và đóng chúng lại hết rồi. Mà biết đâu tên trộm lẻn vào nhà từ hồi chiều thì sao?
Tiếng kẻo kẹt lại vang lên như là cánh cửa tủ đang được đóng lại. Dũng vội nói với cô bạn là mình nghe có tiếng lạ trên phòng. Cô bạn cười vang trong điện thoại và chọc quê Dũng nhát gan, nên tưởng tượng vậy thôi. Mọi sự yên ắng trở lại. Dũng thấy yên tâm và tiếp tục chuyện trò. Khoảng mười lăm phút sau, có tiếng động thùm thụp nổi lên trên phòng như ai đó đang nhẩy trên cái giường của Dũng. Lần này Dũng lạnh cả xương sống, miệng lấp bấp nói với cô bạn là có ai đang phá phách trong phòng mình. Nghe giọng Dũng có vẻ run run và nghiêm trọng, nên cô bạn không dám giởn nữa, bảo Dũng lên đó coi có ai hay chỉ là con mèo thôi? Dũng ậm ừ cho xong và nói sẽ gặp lại ngày hôm sau rồi cúp máy.
Tuy nói là sẽ lên coi nhưng Dũng sợ rúm người chỉ dám đứng ở dưới nhà nghe ngóng. Tiếng nhẩy vẫn liên tục và rồi có tiếng "bịch" như ai đó nhẩy xuống sàn nhà. Bất chợt một giọng cười khanh khách của một đứa bé trai vang lên. Dũng xanh cả mặt mày phi một mạch ra mở cửa và chạy qua nhà bác Tư hàng xóm. Dũng đập vào cửa thình thịch cầu cứu. Bác Tư mắt nhắm mắt mở hé cửa hỏi có việc gì. Dũng không dám nói thật ý mình nghĩ, mà chỉ nói là có ai lẻn vào nhà mình. Bác Tư xách theo con dao phay cùng với Dũng qua nhà. Dũng chỉ lên lầu và lủi vào góc nhà đứng chứ không dám lên. Bác Tư nắm tay Dũng kéo lên theo mình.
Dũng bật đèn trên lầu và thấy cánh cửa phòng mình mở toang. Hai người bước vào trong thấy tấm khăn trải trên giường nhàu rối, còn gối thì văng xuống sàn nhà. Cánh cửa tủ lại bị mở tung ra và quần áo trong đó đều bị kéo xuống đáy tủ. Dũng là người ngăn nắp và nhớ rỏ là mình đã trải khăn giường gọn ghẻ mỗi khi thức dậy, tủ và cửa phòng đều được đóng mỗi khi rời phòng. Chắc chắn là có ai phá trong này vì Dũng nghe rỏ ràng có tiếng động và tiếng cười. Bác Tư nói Dũng đi xem lại các cửa ngỏ trong nhà. Tất cả đều vẫn được đóng kín. Bác Tư nói chắc tiếng động là do mèo hay chuột gây ra thôi. Bác Tư ra về và Dũng năn nỉ bác ấy cho vào nhà của bác ngồi đợi bố mẹ mình đi ăn cưới về.
Bố mẹ Dũng rất ngạc nhiên và hỏi duyên cớ khi thấy Dũng không ở nhà mình, mà lại sang nhà bác Tư đợi. Dũng bèn kể sơ câu chuyện cho mọi người nghe, và tối đó Dũng nằm ngủ ở dưới phòng khách chứ chẳng dám trở lên phòng mình. Mẹ Dũng là đàn bà nên cũng rất sợ, bà lại nghe nói vùng này xưa kia là nghĩa địa nên càng nghi ngờ hơn. Hôm sau bà nhờ người coi trong nhà và họ khám phá ra một ngôi một còn dưới nền. Bố mẹ Dũng bèn thuê họ đào lên và đúng như Dũng đoán: Đó là hài cốt của một đứa bé chừng năm, sáu tuổi. Bố mẹ Dũng nhờ hỏa thiêu hài cốt và gửi tro vào một ngôi chùa. Từ đó về sau nhà không nghe tiếng động nào lạ thường nữa. Dũng cũng không hề gặp lại đứa bé trong mưa lần nào nữa. Nhưng Dũng tin là khu vực này vẫn còn nhiều hồn ma lảng vảng vì vẫn còn nhiều ngôi mộ bị nhà xây cất lên trên.
ST
#157
Gửi vào 29/06/2011 - 03:52
BÓNG NGƯỜI DƯỚI GỐC CÂY
Hồi tôi còn là một thiếu niên, tôi rất thích đọc các truyện thám hiểm đăng trong báo Tuổi Hoa và rất mê các nhân vật trong truyện. Vì thế một hôm trong kỳ nghỉ hè, thằng bạn thân rủ tôi về bác Hai nó ở dưới quê nó chơi, tôi vội năn nỉ bố mẹ cả mấy ngày để được phép theo bạn về quê nó chơi một tuần. Thế là tôi cùng gia đình thằng bạn khăn gói về một làng quê ở Gò Công và có thể cùng nó thám hiểm vùng đồng quê mà tôi chỉ biết qua sách báo.
Tôi sống ở thành phố từ lúc nhỏ nên rất háo hức được xem thấy cảnh đồng quê. Những cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay, những lũy tre bao quanh làng, những con trâu nằm nhơi lại cỏ đều làm tôi thích thú ngắm nhìn không chán mắt. Chiều chiều lại được cùng những đứa trẻ quê cùng trang lứa dẫn đi chơi thả diều, bắt dế thật không còn gì thích thú bằng. Tôi quên khuấy tất cả những gì ở thành phố để tận hưởng những thú vui mới lạ này.
Chiều ngày thứ ba, tôi và thằng bạn khám phá ra một cái chòi nhỏ tuốt sâu phía sau vườn. Cái chòi này chắc là để những người hái trái cây nghỉ trưa ăn uống. Chúng tôi rất thích thú khi khám phá ra cái chòi này. Tối đó sau khi ăn cơm xong, thằng bạn và tôi xin người lớn cho phép ra ngủ ở cái chòi đó đêm nay. Lúc đầu mọi người không cho, xong thấy chúng tôi nài nỉ quá và bác Hai nói vùng này yên lắm chắc không sao đâu thì mọi người mới cho phép chúng tôi ra đó ngủ trong đêm.
Đêm đó có trăng non nên cảnh vật mờ mờ, tuy không thấy rỏ như ban ngày nhưng chúng tôi cũng có thể quan sát được cảnh vật chung quanh. Cái chòi có hai cửa sổ, một hướng vào phía nhà bác Hai, còn cái kia hướng ra ruộng và có thể trông thấy một cái cây cao mọc trên một cái gò lớn cách vườn của bác Hai chừng hơn một trăm thước. Chúng tôi ngồi trên cái sạp trong chòi, đốt một ngọn đèn dầu và chơi cờ cá ngựa, chán rồi chơi cờ nhảy. Bất ngờ tôi lơ đảng đưa mắt nhìn ra ngoài ruộng, tôi giật mình vì thấy một bóng người đi đi lại lại dưới cái gốc cây ở cái gò ngoài ruộng. Tôi vội khều thằng bạn và chỉ cho nó thấy cái bóng kia. Chúng tôi là những đứa gan dạ nên chẳng nghĩ ngợi hay lo sợ về cái bóng đó cả.
Bạn tôi lại cho rằng có lẽ đó là anh con bác Hai của nó ra đó chơi cũng nên. Chúng tôi đua nhau réo tên anh họ của bạn tôi với hy vọng là anh ấy nghe và biết chúng tôi đang ở trong chòi này. Nhưng mặc cho chúng tôi kêu réo cái bóng đó làm như không nghe thấy gì và vẫn tiếp tục đi tới đi lui như cũ dưới cái gốc cây đó. Chúng tôi gọi mãi không được nên quay lại chơi cờ tiếp và ăn các thứ trái cây mà chúng tôi mang theo từ nhà bác Hai ra. Tới khoảng chín giờ tối, lúc sắp sửa đi ngủ tôi nhìn ra, và trời đất ơi! Cái mà tôi nhìn thấy làm tôi xanh cả mặt và lưng tôi chạy dài từng làn hơi lạnh.
Tôi ú ớ tính chỉ cho thằng bạn tôi nhưng thấy nó cũng đang há hốc mồn kinh hãi nhìn về cái cây phía ngoài ruộng. Cái bóng người mà chúng tôi thấy lúc trước vẫn còn đó, mà nó không còn đi đi lại lại ở dưới gốc cây nữa mà nó đang đi lưng chừng ở giữa thân cây. Nó vẫn cứ đi đi lại lại như trước nhưng cách mặt đất chừng năm mét. Cái bóng đó đang đi trên không. Hai đứa tôi không ai bảo ai tông cửa chòi chạy tốc về nhà bác Hai. Người lớn vẫn còn ngồi chuyện trò với nhau, thấy chúng tôi cắm đầu chạy vào thì hỏi có chuyện gì vậy. Lúc chiều chúng tôi có vẻ can đảm và hăng lắm cho nên lúc này vì sợ xấu hổ nên chỉ nói dối là ngoài đó lạnh quá nên muốn ngủ trong nhà thôi.
Hôm sau, hai đứa tôi rủ thêm mấy đứa nhỏ nữa ra cái gò ngoài ruộng xem có gì lạ không? Cái gò đó bỏ hoang, cỏ và các bụi rậm mọc dầy rịt rất khó mò vào gốc cây cao to ở giữa gò! Nhưng sau khi cố gắng vạch các bụi và len lỏi vào, chúng tôi cũng tới được cái gốc cây to. Cái bóng của nó rất lớn nên dù đang trưa mà đứng ở dưới gốc chúng tôi tôi vẫn thấy lành lạnh. Cái lạnh có vẻ hơi khác thường nó làm chúng tôi rờn rợn cả người. Bổng đâu chân tôi đạp lên một vật gì như là một phiến đá. Tôi lấy tay gạt cỏ và các bụi cây nhỏ phía trên. Ồ! Té ra đó là một cái bia mộ.
Chữ trên bia đã mờ nhòa không thể đọc được. Chúng tôi gạt các bụi cây và thấy thêm ba cái bia nữa nằm gần đó. Nhưng cái cảm giác như có ai muốn xua đuổi chúng tôi ra khỏi chổ này làm chúng tôi vội rời cái gò mà không dám tìm tòi gì thêm nữa. Chúng tôi không dám ra cái chòi và cũng không dám mò ra cái gò đó nữa. Những ngày còn lại chúng tôi mãi mê chơi với các bạn bè mới ở đây nên cũng chẳng để ý gì đến cái chuyện thấy bóng người trên cây hôm trước, và chúng tôi cũng chẳng kể với ai về chuyện này. Mấy năm sau nhà thằng bạn tôi di chuyển đi tỉnh khác và chúng tôi mất liên lạc với nhau từ đó.
Bây giờ đã trưởng thành, tôi luôn mong muốn có ngày nào đó tôi được trở lại cái chốn đó để xem những ngôi mộ hoang ở dưới gốc cây tại cái gò giữa ruộng vẫn còn đó hay không. Nhưng tôi không thể thực hiện được ý định của mình vì tôi chẳng nhớ được tên của làng đó là gì, chỉ biết nó ở đâu đó tại Gò Công mà thôi. Hy vọng một ngày nào đó tôi gặp lại người bạn thuở thiếu thời thì nhất định chúng tôi sẽ cùng nhau về đó để khám phá những gì mà chúng tôi đã bỏ dở khi xưa.
ST
Hồi tôi còn là một thiếu niên, tôi rất thích đọc các truyện thám hiểm đăng trong báo Tuổi Hoa và rất mê các nhân vật trong truyện. Vì thế một hôm trong kỳ nghỉ hè, thằng bạn thân rủ tôi về bác Hai nó ở dưới quê nó chơi, tôi vội năn nỉ bố mẹ cả mấy ngày để được phép theo bạn về quê nó chơi một tuần. Thế là tôi cùng gia đình thằng bạn khăn gói về một làng quê ở Gò Công và có thể cùng nó thám hiểm vùng đồng quê mà tôi chỉ biết qua sách báo.
Tôi sống ở thành phố từ lúc nhỏ nên rất háo hức được xem thấy cảnh đồng quê. Những cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay, những lũy tre bao quanh làng, những con trâu nằm nhơi lại cỏ đều làm tôi thích thú ngắm nhìn không chán mắt. Chiều chiều lại được cùng những đứa trẻ quê cùng trang lứa dẫn đi chơi thả diều, bắt dế thật không còn gì thích thú bằng. Tôi quên khuấy tất cả những gì ở thành phố để tận hưởng những thú vui mới lạ này.
Chiều ngày thứ ba, tôi và thằng bạn khám phá ra một cái chòi nhỏ tuốt sâu phía sau vườn. Cái chòi này chắc là để những người hái trái cây nghỉ trưa ăn uống. Chúng tôi rất thích thú khi khám phá ra cái chòi này. Tối đó sau khi ăn cơm xong, thằng bạn và tôi xin người lớn cho phép ra ngủ ở cái chòi đó đêm nay. Lúc đầu mọi người không cho, xong thấy chúng tôi nài nỉ quá và bác Hai nói vùng này yên lắm chắc không sao đâu thì mọi người mới cho phép chúng tôi ra đó ngủ trong đêm.
Đêm đó có trăng non nên cảnh vật mờ mờ, tuy không thấy rỏ như ban ngày nhưng chúng tôi cũng có thể quan sát được cảnh vật chung quanh. Cái chòi có hai cửa sổ, một hướng vào phía nhà bác Hai, còn cái kia hướng ra ruộng và có thể trông thấy một cái cây cao mọc trên một cái gò lớn cách vườn của bác Hai chừng hơn một trăm thước. Chúng tôi ngồi trên cái sạp trong chòi, đốt một ngọn đèn dầu và chơi cờ cá ngựa, chán rồi chơi cờ nhảy. Bất ngờ tôi lơ đảng đưa mắt nhìn ra ngoài ruộng, tôi giật mình vì thấy một bóng người đi đi lại lại dưới cái gốc cây ở cái gò ngoài ruộng. Tôi vội khều thằng bạn và chỉ cho nó thấy cái bóng kia. Chúng tôi là những đứa gan dạ nên chẳng nghĩ ngợi hay lo sợ về cái bóng đó cả.
Bạn tôi lại cho rằng có lẽ đó là anh con bác Hai của nó ra đó chơi cũng nên. Chúng tôi đua nhau réo tên anh họ của bạn tôi với hy vọng là anh ấy nghe và biết chúng tôi đang ở trong chòi này. Nhưng mặc cho chúng tôi kêu réo cái bóng đó làm như không nghe thấy gì và vẫn tiếp tục đi tới đi lui như cũ dưới cái gốc cây đó. Chúng tôi gọi mãi không được nên quay lại chơi cờ tiếp và ăn các thứ trái cây mà chúng tôi mang theo từ nhà bác Hai ra. Tới khoảng chín giờ tối, lúc sắp sửa đi ngủ tôi nhìn ra, và trời đất ơi! Cái mà tôi nhìn thấy làm tôi xanh cả mặt và lưng tôi chạy dài từng làn hơi lạnh.
Tôi ú ớ tính chỉ cho thằng bạn tôi nhưng thấy nó cũng đang há hốc mồn kinh hãi nhìn về cái cây phía ngoài ruộng. Cái bóng người mà chúng tôi thấy lúc trước vẫn còn đó, mà nó không còn đi đi lại lại ở dưới gốc cây nữa mà nó đang đi lưng chừng ở giữa thân cây. Nó vẫn cứ đi đi lại lại như trước nhưng cách mặt đất chừng năm mét. Cái bóng đó đang đi trên không. Hai đứa tôi không ai bảo ai tông cửa chòi chạy tốc về nhà bác Hai. Người lớn vẫn còn ngồi chuyện trò với nhau, thấy chúng tôi cắm đầu chạy vào thì hỏi có chuyện gì vậy. Lúc chiều chúng tôi có vẻ can đảm và hăng lắm cho nên lúc này vì sợ xấu hổ nên chỉ nói dối là ngoài đó lạnh quá nên muốn ngủ trong nhà thôi.
Hôm sau, hai đứa tôi rủ thêm mấy đứa nhỏ nữa ra cái gò ngoài ruộng xem có gì lạ không? Cái gò đó bỏ hoang, cỏ và các bụi rậm mọc dầy rịt rất khó mò vào gốc cây cao to ở giữa gò! Nhưng sau khi cố gắng vạch các bụi và len lỏi vào, chúng tôi cũng tới được cái gốc cây to. Cái bóng của nó rất lớn nên dù đang trưa mà đứng ở dưới gốc chúng tôi tôi vẫn thấy lành lạnh. Cái lạnh có vẻ hơi khác thường nó làm chúng tôi rờn rợn cả người. Bổng đâu chân tôi đạp lên một vật gì như là một phiến đá. Tôi lấy tay gạt cỏ và các bụi cây nhỏ phía trên. Ồ! Té ra đó là một cái bia mộ.
Chữ trên bia đã mờ nhòa không thể đọc được. Chúng tôi gạt các bụi cây và thấy thêm ba cái bia nữa nằm gần đó. Nhưng cái cảm giác như có ai muốn xua đuổi chúng tôi ra khỏi chổ này làm chúng tôi vội rời cái gò mà không dám tìm tòi gì thêm nữa. Chúng tôi không dám ra cái chòi và cũng không dám mò ra cái gò đó nữa. Những ngày còn lại chúng tôi mãi mê chơi với các bạn bè mới ở đây nên cũng chẳng để ý gì đến cái chuyện thấy bóng người trên cây hôm trước, và chúng tôi cũng chẳng kể với ai về chuyện này. Mấy năm sau nhà thằng bạn tôi di chuyển đi tỉnh khác và chúng tôi mất liên lạc với nhau từ đó.
Bây giờ đã trưởng thành, tôi luôn mong muốn có ngày nào đó tôi được trở lại cái chốn đó để xem những ngôi mộ hoang ở dưới gốc cây tại cái gò giữa ruộng vẫn còn đó hay không. Nhưng tôi không thể thực hiện được ý định của mình vì tôi chẳng nhớ được tên của làng đó là gì, chỉ biết nó ở đâu đó tại Gò Công mà thôi. Hy vọng một ngày nào đó tôi gặp lại người bạn thuở thiếu thời thì nhất định chúng tôi sẽ cùng nhau về đó để khám phá những gì mà chúng tôi đã bỏ dở khi xưa.
ST
#158
Gửi vào 29/06/2011 - 03:56
BÓNG MA CÂY XOÀI
Viết theo lời kể của một người bạn ở MA.
Hồi xưa khi mẹ tôi còn bé, gia đình mẹ tôi sống ở gần một đồn điền trồng cây ăn trái rất lớn tại Long Thành. Vùng này có những vườn trồng cây ăn trái đủ loại, nào xoài, mận, chôm chôm, mít tố nữ, sầu riêng v.v. Phần bán ở dọc đường cho du khách từ Vũng Tàu về lại Sài gòn, phần thì mang xuống Saigon bỏ mối cho các chợ. Mẹ tôi thường được giao nhiệm vụ đi lượm các trái cây rụng ở trong vườn, để cho heo ăn thay rau. Vì vườn nhà không đủ trái cây rụng, nên mẹ tôi thường được bố mẹ sai đi lượm trái rụng ở đồn điền. Những người làm việc cho đồn điền hái trái cây cho chủ và làm rụng khá nhiều, họ không thu những trái cây bị rụng vì chúng thường đã bị dập không bán được, nên để chúng thúi thành phân. Bọn trẻ chung quanh thường lẻn vào thâu lượm trái rụng còn tươi về cho heo ăn.
Một chiều nọ, mẹ tôi xách cái xô đi lượm trái rụng trong đồn điền, cái xô đã được chừng hơn nửa, mẹ tôi thấy dưới gốc xoài to gần đó có nhiều trái rụng nên lại gần để lượm. Đang cắm cúi bốc các trái xoài thì mẹ tôi nghe tiếng khàn khàn gọi tên mình. Bà ngóc đầu nhìn chung quanh nhưng chẳng có một bóng người nào gần đó cả. Tiếng khàn khàn lại nổi lên ở phía trên đầu, mẹ tôi ngước nhìn lên nhưng cũng chẳng thấy ai trên cây xoài cả. Tiếng gọi thì thào như tiếng thì thầm vào tai mẹ tôi. Tiếng của một ông già thì đúng hơn vì nó khàn khàn và run run. Mẹ tôi sợ điếng hồn muốn chạy, nhưng chân như quíu lại không chạy được. Tiếng khào khào lại vang lên:
- "Đào đi, đào đi, đào ở gốc cây này đi, đào đi!"
Mẹ tôi muốn la lên nhưng tiếng nghẹn ở trong cổ, bà làm đổ cả xô trái cây xuống đất làm bắn bẩn lên đầy cả quần áo. Bà cố gắng hết sức để vươn người lên để chạy. Trong lúc quá sợ bà đâm liều, tay cầm cái xô không bà quật hết sức về phía cái vô hình kia và vuột chạy được, bỏ cái xô lại ở gốc cây. Mẹ tôi chạy một mạch về nhà, mặt không còn chút máu, ấp a ấp úng vừa khóc vừa kể cho bà ngoại tôi về chuyện xảy ra. Bà ngoại tôi đã không tin mà còn phạt mẹ tôi nhịn đói bửa cơm chiều hôm đó vì tội nói dối. Bà ngoại còn bắt mẹ tôi phải đi lấy cái xô bỏ lại ở gốc cây về. Mẹ tôi nhất định không chịu đi và đã phải chịu một trận đòn nên thân cho tội lì lợm này. Một anh lớn của mẹ đã phải đi nhặt cái xô về cho mẹ tôi. Tối đó mẹ tôi đang ngủ chung với mấy anh chị em khác, thì bà lại nghe tiếng thì thào vào tai:
- "Đào đi, đào đi, đào ở chổ gốc cây đi!"
Mẹ tôi cảm thấy hơi thở của ông già ngay trên mặt mình, bà cảm thấy lạnh run người, cố tỉnh dậy hay la lớn lên mà không được. Tiếng khàn khàn của ông già cứ rót vào tai cái câu:
- "Đào đi, đào đi.."
Cuối cùng sau khi cố gắng hết sức để vùng dậy, mẹ tôi la thất thanh lên làm cả nhà thức giấc. Mọi người hỏi chuyện gì, mẹ tôi nói là ông già hồi chiều nói thì thào vào tai mẹ tôi.
Mọi người chẳng ai tin vì trong nhà có ai nghe hay thấy gì đâu. Bà ngoại tôi còn đe là nhốt mẹ tôi vào kho chứa đồ một mình, nếu mẹ tôi còn làm rộn nhà như thế nữa. Chỉ có riêng ông nội của mẹ tôi thì ra vẻ đăm chiêu. Ông tới an ủi vổ về mẹ cho tới khi mẹ tôi ngủ thiếp trở lại. Hôm sau ông cố kêu mẹ tôi ra hè rồi thong thả kể lại chuyện về cái giọng khàn khàn, mà mẹ tôi nghe được dưới gốc xoài trong đồn điền đó. Xưa kia ông già đó là chủ của cái đồn điền to lớn này. Mọi người nghĩ là ông ta rất giàu có. Con cái ông ỷ cha mình giàu chỉ biết ăn chơi xa xỉ chứ chẳng chí thú làm ăn như cha mình. Một ngày kia ông ta chết bất đắc kỳ tử và chẳng để lại di chúc gì cả.
Các con ông không thể tìm thấy của cải tiền bạc của ông cất giấu nơi nào. Họ nghĩ là ông ta đã chôn giấu nó ở một nơi bí mật nào đó. Họ tìm tòi, lục lọi khắp nơi mà họ nghi là nơi ông già cất giấu nhưng chẳng tìm được gì. Cuối cùng họ tranh giành nhau rồi bán cái đồn điền này cho người khác để chia chác gia sản với nhau. Con cái của ông già bỏ đi xứ khác làm ăn rất lâu rồi, và người ta không biết họ lưu lạc nơi nào nữa. Mẹ tôi không biết chuyện chôn cất tiền bạc là có thật hay không, nhưng bà nghe rỏ ràng tiếng nói bảo bà hãy đào ở dưới gốc cây xoài cổ thụ đó. Ông cố tuy không tin lắm vào lời mẹ tôi nghe được, nhưng cũng rủ mẹ tôi đi tới gốc cây đó đào thử.
Lúc đầu bà không chịu đi, nhưng ông cố tôi động viên bà một lúc thì bà cũng chịu đi theo vì có ông cố tôi đi cùng. Ông tới chổ mẹ tôi chỉ và đào bới một hồi và đụng phải một vật cứng. Ông tôi moi lên một cái hộp sắt vuông mỗi cạnh chừng ba tấc. Ông cố cởi áo trùm lấy cái hộp và mang về nhà. Vào trong buồng kín ông đập khóa, và thấy bên trong có hai trăm lượng vàng và mấy xấp tiền dày cộm. Tuy thế tiền vào thời Pháp nên nay không còn giá trị gì nữa. Ông tôi nói có lẽ mẹ tôi có duyên với ông già, nên ông ta muốn cho mẹ tôi số của cải mà ông ta chôn dấu nên mới chỉ điểm cho mẹ tôi biết chổ chôn.
Gia đình mẹ tôi bèn lên chùa xin một lễ cầu siêu cho ông già, và cúng một số vàng làm việc từ thiện. Số còn lại dùng để làm vốn làm ăn. Cũng nhờ số vàng đó và cũng có lẽ nhờ sự phù trợ của ông già, mà gia đình mẹ tôi làm ăn rất nên. Sau này trở thành một gia đình có tiếng là giàu có trong vùng. Không ai trong vùng này biết được bí mật này vì mọi người trong nhà đều giữ kín miệng.
ST
Viết theo lời kể của một người bạn ở MA.
Hồi xưa khi mẹ tôi còn bé, gia đình mẹ tôi sống ở gần một đồn điền trồng cây ăn trái rất lớn tại Long Thành. Vùng này có những vườn trồng cây ăn trái đủ loại, nào xoài, mận, chôm chôm, mít tố nữ, sầu riêng v.v. Phần bán ở dọc đường cho du khách từ Vũng Tàu về lại Sài gòn, phần thì mang xuống Saigon bỏ mối cho các chợ. Mẹ tôi thường được giao nhiệm vụ đi lượm các trái cây rụng ở trong vườn, để cho heo ăn thay rau. Vì vườn nhà không đủ trái cây rụng, nên mẹ tôi thường được bố mẹ sai đi lượm trái rụng ở đồn điền. Những người làm việc cho đồn điền hái trái cây cho chủ và làm rụng khá nhiều, họ không thu những trái cây bị rụng vì chúng thường đã bị dập không bán được, nên để chúng thúi thành phân. Bọn trẻ chung quanh thường lẻn vào thâu lượm trái rụng còn tươi về cho heo ăn.
Một chiều nọ, mẹ tôi xách cái xô đi lượm trái rụng trong đồn điền, cái xô đã được chừng hơn nửa, mẹ tôi thấy dưới gốc xoài to gần đó có nhiều trái rụng nên lại gần để lượm. Đang cắm cúi bốc các trái xoài thì mẹ tôi nghe tiếng khàn khàn gọi tên mình. Bà ngóc đầu nhìn chung quanh nhưng chẳng có một bóng người nào gần đó cả. Tiếng khàn khàn lại nổi lên ở phía trên đầu, mẹ tôi ngước nhìn lên nhưng cũng chẳng thấy ai trên cây xoài cả. Tiếng gọi thì thào như tiếng thì thầm vào tai mẹ tôi. Tiếng của một ông già thì đúng hơn vì nó khàn khàn và run run. Mẹ tôi sợ điếng hồn muốn chạy, nhưng chân như quíu lại không chạy được. Tiếng khào khào lại vang lên:
- "Đào đi, đào đi, đào ở gốc cây này đi, đào đi!"
Mẹ tôi muốn la lên nhưng tiếng nghẹn ở trong cổ, bà làm đổ cả xô trái cây xuống đất làm bắn bẩn lên đầy cả quần áo. Bà cố gắng hết sức để vươn người lên để chạy. Trong lúc quá sợ bà đâm liều, tay cầm cái xô không bà quật hết sức về phía cái vô hình kia và vuột chạy được, bỏ cái xô lại ở gốc cây. Mẹ tôi chạy một mạch về nhà, mặt không còn chút máu, ấp a ấp úng vừa khóc vừa kể cho bà ngoại tôi về chuyện xảy ra. Bà ngoại tôi đã không tin mà còn phạt mẹ tôi nhịn đói bửa cơm chiều hôm đó vì tội nói dối. Bà ngoại còn bắt mẹ tôi phải đi lấy cái xô bỏ lại ở gốc cây về. Mẹ tôi nhất định không chịu đi và đã phải chịu một trận đòn nên thân cho tội lì lợm này. Một anh lớn của mẹ đã phải đi nhặt cái xô về cho mẹ tôi. Tối đó mẹ tôi đang ngủ chung với mấy anh chị em khác, thì bà lại nghe tiếng thì thào vào tai:
- "Đào đi, đào đi, đào ở chổ gốc cây đi!"
Mẹ tôi cảm thấy hơi thở của ông già ngay trên mặt mình, bà cảm thấy lạnh run người, cố tỉnh dậy hay la lớn lên mà không được. Tiếng khàn khàn của ông già cứ rót vào tai cái câu:
- "Đào đi, đào đi.."
Cuối cùng sau khi cố gắng hết sức để vùng dậy, mẹ tôi la thất thanh lên làm cả nhà thức giấc. Mọi người hỏi chuyện gì, mẹ tôi nói là ông già hồi chiều nói thì thào vào tai mẹ tôi.
Mọi người chẳng ai tin vì trong nhà có ai nghe hay thấy gì đâu. Bà ngoại tôi còn đe là nhốt mẹ tôi vào kho chứa đồ một mình, nếu mẹ tôi còn làm rộn nhà như thế nữa. Chỉ có riêng ông nội của mẹ tôi thì ra vẻ đăm chiêu. Ông tới an ủi vổ về mẹ cho tới khi mẹ tôi ngủ thiếp trở lại. Hôm sau ông cố kêu mẹ tôi ra hè rồi thong thả kể lại chuyện về cái giọng khàn khàn, mà mẹ tôi nghe được dưới gốc xoài trong đồn điền đó. Xưa kia ông già đó là chủ của cái đồn điền to lớn này. Mọi người nghĩ là ông ta rất giàu có. Con cái ông ỷ cha mình giàu chỉ biết ăn chơi xa xỉ chứ chẳng chí thú làm ăn như cha mình. Một ngày kia ông ta chết bất đắc kỳ tử và chẳng để lại di chúc gì cả.
Các con ông không thể tìm thấy của cải tiền bạc của ông cất giấu nơi nào. Họ nghĩ là ông ta đã chôn giấu nó ở một nơi bí mật nào đó. Họ tìm tòi, lục lọi khắp nơi mà họ nghi là nơi ông già cất giấu nhưng chẳng tìm được gì. Cuối cùng họ tranh giành nhau rồi bán cái đồn điền này cho người khác để chia chác gia sản với nhau. Con cái của ông già bỏ đi xứ khác làm ăn rất lâu rồi, và người ta không biết họ lưu lạc nơi nào nữa. Mẹ tôi không biết chuyện chôn cất tiền bạc là có thật hay không, nhưng bà nghe rỏ ràng tiếng nói bảo bà hãy đào ở dưới gốc cây xoài cổ thụ đó. Ông cố tuy không tin lắm vào lời mẹ tôi nghe được, nhưng cũng rủ mẹ tôi đi tới gốc cây đó đào thử.
Lúc đầu bà không chịu đi, nhưng ông cố tôi động viên bà một lúc thì bà cũng chịu đi theo vì có ông cố tôi đi cùng. Ông tới chổ mẹ tôi chỉ và đào bới một hồi và đụng phải một vật cứng. Ông tôi moi lên một cái hộp sắt vuông mỗi cạnh chừng ba tấc. Ông cố cởi áo trùm lấy cái hộp và mang về nhà. Vào trong buồng kín ông đập khóa, và thấy bên trong có hai trăm lượng vàng và mấy xấp tiền dày cộm. Tuy thế tiền vào thời Pháp nên nay không còn giá trị gì nữa. Ông tôi nói có lẽ mẹ tôi có duyên với ông già, nên ông ta muốn cho mẹ tôi số của cải mà ông ta chôn dấu nên mới chỉ điểm cho mẹ tôi biết chổ chôn.
Gia đình mẹ tôi bèn lên chùa xin một lễ cầu siêu cho ông già, và cúng một số vàng làm việc từ thiện. Số còn lại dùng để làm vốn làm ăn. Cũng nhờ số vàng đó và cũng có lẽ nhờ sự phù trợ của ông già, mà gia đình mẹ tôi làm ăn rất nên. Sau này trở thành một gia đình có tiếng là giàu có trong vùng. Không ai trong vùng này biết được bí mật này vì mọi người trong nhà đều giữ kín miệng.
ST
#159
Gửi vào 29/06/2011 - 03:59
MA TRONG KHÁCH SẠN
Chuyện có thật 100% TBM được nghe chính Duyên, em gái mình, kể lại trong dịp về Việt Nam vừa rồi. Nếu bạn nào về Việt Nam, có dịp ngủ lại Rạch Giá, hãy nhớ chọn phòng số 301 xem thử có gì xảy ra không nhe!!!
Duyên làm việc cho một công ty Thailand ở Saigon. Trong một dịp đi công tác ở Rạch Giá, cô vào đặt phòng nghỉ ở khách sạn Ngọc Hường ngay trên đường vào Thị xã Rạch Giá. Các cô tiếp tân tỏ vẻ ngần ngại một cách kỳ lạ.
- Tụi em chỉ còn một phòng duy nhất là phòng số 301 nhưng.. lớn quá lại có tới hai phòng, một mình chị ngủ e trống trải quá.
Vì trời cũng đã tối và cảm thấy phòng lớn hay nhỏ cũng không quan trọng nên cô quyết định lấy phòng số 301. Trong khi làm thủ tục cho mướn phòng, các cô tiếp tân nhìn nhau mỉm cười, trong ánh mắt như trao đổi điều gì khó hiểu.
- Tụi em ngủ ở hành lang cùng lầu, gần cầu thang. Nếu có chuyện gì chị cứ kêu tụi em nhe.
Nói xong cô tiếp tân đưa chìa khóa cho Duyên với ánh mắt ái ngại. Sau khi sửa soạn xong Duyên lên giường bắt đầu đọc sách, để dỗ giấc ngủ vốn khó khăn khi cô phải ngủ phòng lạ. mỗi lần đi công tác xa. Vừa đọc được mấy hàng thì bên ngoài trời bổng nổi gió, đập ầm ầm vào cánh cửa sổ. Vào mùa này trời đâu có khi nào mưa bao giờ. Duyên mở cửa sổ nhìn ra xem có phải trời sắp mưa thực sự không? Lạ thật trời trong trăng sáng, soi rõ những ngọn dừa đứng yên bất động. Duyên đóng cửa sổ lên giường nằm đọc sách tiếp.
Lạ thay nàng lại nghe tiếng gió rít bên ngoài, và tiếng cửa sổ như bị gió đập mạnh mặc dù đã đóng kín. Nàng thấy hơi lạ nhưng lại tập trung đọc sách. Nhưng rồi Duyên không tài nào tiếp tục tự che giấu cảm giác rùng rợn, khi từng luồng ớn lạnh cứ chạy dài từ gáy dọc theo cột xương sống xuống dưới lưng. Tiếng động kinh dị vẫn gầm rú như gào thét đáng kinh sợ. Duyên bật tung dậy chạy ra khỏi phòng về phía cầu thang. Các cô nhân viên cũng vừa trải chiếu giăng mùng chuẩn bị ngủ. Thấy Duyên họ không có vẻ gì ngạc nhiên, mà còn như biết trước người khách nhỏ nhắn xa lạ này, sẽ cần sự giúp đỡ. Duyên nói khẩn khoản:
- Mấy em ơi! phòng 301 chị thấy có cái gì đó không ổn. Có thể em nào vô ngủ chung với chị đêm nay được không? Chị sợ lắm.
Các cô nhìn nhau không nói lời nào, cũng không ai hỏi Duyên chuyện gì xảy ra. Cuối cùng một cô tình nguyện vô ngủ với Duyên. Phòng có hai giường. Cô nhân viên tên là Liên vừa giăng mùng lên là trùm mền kín bít nằm im thin thít. Duyên không đọc sách nữa. Cô nằm im lắng nghe xem có tiếng gió đập cửa nữa hay không. Quả nhiên như sự mong đợi, bốn bề đều im lặng. Duyên cảm thấy nhẹ nhõm. Nàng không còn nghĩ vớ vẩn nữa mà bắt đầu nhớ nhà, nghĩ tới đứa con không biết giờ đã ngủ ngon chưa. Bất thình lình một bàn tay nào đó nắm lấy hai chân Duyên kéo mạnh một cái về phía cuối giường.
Nàng giựt mình, rồi mau chóng trườn trở lại vị trí cũ. Cô còn chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp giải thích chuyện gì xảy ra thì lại bị kéo mạnh một cái nữa về cuối giường. Lần này nàng tốc người dậy, phóng qua giường của Liên, chui vô mền trùm kín bít. Duyên vừa nằm yên bên giường Liên, thì nghe tiếng ngáy rất to phát ra từ đâu đó. Thoạt đầu, cô nghĩ có lẽ ai đó ngáy từ phòng kế bên. Nhưng sau khi lắng nghe thật kỹ thì rõ ràng tiếng ngáy phát ra từ ngay chính chiếc giường mà cô nằm trước đó chưa đầy một phút. Duyên gọi Liên dậy thì tiếng ngáy dứt ngay. Cô vội vàng thay quần áo và thu dọn đồ rời khỏi nơi đó ngay lập tức, khi trời còn chưa sáng.
TBM
Chuyện có thật 100% TBM được nghe chính Duyên, em gái mình, kể lại trong dịp về Việt Nam vừa rồi. Nếu bạn nào về Việt Nam, có dịp ngủ lại Rạch Giá, hãy nhớ chọn phòng số 301 xem thử có gì xảy ra không nhe!!!
Duyên làm việc cho một công ty Thailand ở Saigon. Trong một dịp đi công tác ở Rạch Giá, cô vào đặt phòng nghỉ ở khách sạn Ngọc Hường ngay trên đường vào Thị xã Rạch Giá. Các cô tiếp tân tỏ vẻ ngần ngại một cách kỳ lạ.
- Tụi em chỉ còn một phòng duy nhất là phòng số 301 nhưng.. lớn quá lại có tới hai phòng, một mình chị ngủ e trống trải quá.
Vì trời cũng đã tối và cảm thấy phòng lớn hay nhỏ cũng không quan trọng nên cô quyết định lấy phòng số 301. Trong khi làm thủ tục cho mướn phòng, các cô tiếp tân nhìn nhau mỉm cười, trong ánh mắt như trao đổi điều gì khó hiểu.
- Tụi em ngủ ở hành lang cùng lầu, gần cầu thang. Nếu có chuyện gì chị cứ kêu tụi em nhe.
Nói xong cô tiếp tân đưa chìa khóa cho Duyên với ánh mắt ái ngại. Sau khi sửa soạn xong Duyên lên giường bắt đầu đọc sách, để dỗ giấc ngủ vốn khó khăn khi cô phải ngủ phòng lạ. mỗi lần đi công tác xa. Vừa đọc được mấy hàng thì bên ngoài trời bổng nổi gió, đập ầm ầm vào cánh cửa sổ. Vào mùa này trời đâu có khi nào mưa bao giờ. Duyên mở cửa sổ nhìn ra xem có phải trời sắp mưa thực sự không? Lạ thật trời trong trăng sáng, soi rõ những ngọn dừa đứng yên bất động. Duyên đóng cửa sổ lên giường nằm đọc sách tiếp.
Lạ thay nàng lại nghe tiếng gió rít bên ngoài, và tiếng cửa sổ như bị gió đập mạnh mặc dù đã đóng kín. Nàng thấy hơi lạ nhưng lại tập trung đọc sách. Nhưng rồi Duyên không tài nào tiếp tục tự che giấu cảm giác rùng rợn, khi từng luồng ớn lạnh cứ chạy dài từ gáy dọc theo cột xương sống xuống dưới lưng. Tiếng động kinh dị vẫn gầm rú như gào thét đáng kinh sợ. Duyên bật tung dậy chạy ra khỏi phòng về phía cầu thang. Các cô nhân viên cũng vừa trải chiếu giăng mùng chuẩn bị ngủ. Thấy Duyên họ không có vẻ gì ngạc nhiên, mà còn như biết trước người khách nhỏ nhắn xa lạ này, sẽ cần sự giúp đỡ. Duyên nói khẩn khoản:
- Mấy em ơi! phòng 301 chị thấy có cái gì đó không ổn. Có thể em nào vô ngủ chung với chị đêm nay được không? Chị sợ lắm.
Các cô nhìn nhau không nói lời nào, cũng không ai hỏi Duyên chuyện gì xảy ra. Cuối cùng một cô tình nguyện vô ngủ với Duyên. Phòng có hai giường. Cô nhân viên tên là Liên vừa giăng mùng lên là trùm mền kín bít nằm im thin thít. Duyên không đọc sách nữa. Cô nằm im lắng nghe xem có tiếng gió đập cửa nữa hay không. Quả nhiên như sự mong đợi, bốn bề đều im lặng. Duyên cảm thấy nhẹ nhõm. Nàng không còn nghĩ vớ vẩn nữa mà bắt đầu nhớ nhà, nghĩ tới đứa con không biết giờ đã ngủ ngon chưa. Bất thình lình một bàn tay nào đó nắm lấy hai chân Duyên kéo mạnh một cái về phía cuối giường.
Nàng giựt mình, rồi mau chóng trườn trở lại vị trí cũ. Cô còn chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp giải thích chuyện gì xảy ra thì lại bị kéo mạnh một cái nữa về cuối giường. Lần này nàng tốc người dậy, phóng qua giường của Liên, chui vô mền trùm kín bít. Duyên vừa nằm yên bên giường Liên, thì nghe tiếng ngáy rất to phát ra từ đâu đó. Thoạt đầu, cô nghĩ có lẽ ai đó ngáy từ phòng kế bên. Nhưng sau khi lắng nghe thật kỹ thì rõ ràng tiếng ngáy phát ra từ ngay chính chiếc giường mà cô nằm trước đó chưa đầy một phút. Duyên gọi Liên dậy thì tiếng ngáy dứt ngay. Cô vội vàng thay quần áo và thu dọn đồ rời khỏi nơi đó ngay lập tức, khi trời còn chưa sáng.
TBM
#160
Gửi vào 30/06/2011 - 08:01
NGƯỜI CON GÁI DỐC CẦU KIỆU
Đã một năm trôi qua kể từ ngày gia đình Thanh dọn về ở khu "xóm vắng" vùng Đakao này. Gọi là "xóm vắng" vì ở cái xóm tân lập này chỉ đếm được hơn mười nóc gia và có khoảng hai mươi lăm nhân khẩu. Vào những năm cuối thập niên bốn mươi và đầu thập niên năm mươi của thế kỷ hai mươi thì dân số thành phố Saigon Gia Định chỉ vỏn vẹn khoảng trên dưới hai trăm năm chục ngàn người. Gia đình Thanh chạy loạn chiến tranh giữa Việt Minh và quân đội Pháp từ miền Trung vào. Thật may mắn là ba của Thanh có người bạn đang là công chức ở Sở Bưu điện thành phố và, cũng đang ngụ không lâu ở cái "xóm vắng" này nên gia đình Thanh kiếm được một miếng đất nhỏ ở đây và dựng tạm một căn nhà bằng vật liệu nhẹ để phòng khi mưa nắng.
Thanh là con trai một nên ba má Thanh đã dành tất cả những gì có được đều cho một mình Thanh. Thanh đã hai mươi tuổi rồi và tuy rất thông minh nhưng việc học thì thường bị gián đoạn luôn vì chiến cuộc. Nhìn cảnh gia đình luôn thiếu trước hụt sau, Thanh cũng muốn tìm một việc làm để phụ giúp cho kinh tế gia đình khá hơn và để mẹ Thanh không phải vất vả mỗi sáng với gánh xôi nặng trĩu trên vai đi dạo khắp phố phường. Ba Thanh thì không muốn con trai mình phải lận đận và không có tương lai nên ông thường khuyên con phải cố gắng học hành cho thành đạt. Ông thường nói: "Học đến nơi đến chốn trước là ấm cho bản thân, sau là vợ con con được nhờ chứ lúc đó ba mẹ còn đâu để mà nhờ". Tuy nghe lời dạy của ba mẹ, nhưng Thanh cũng nhờ vài người bạn cùng trường tìm cho một công việc dạy kèm trẻ tại nhà.
Một ngày kia,Thanh được bạn bè giới thiệu một công việc như ý muốn là dạy kèm cho bốn em nhỏ. Ngày đầu tiên đi nói chuyện để nhận việc, Thanh không dấu nổi vẻ thất vọng khi được cho biết công việc dạy học được bắt đầu vào lúc 19h và chấm dứt lúc 22h30. Thất vọng là vì nơi mà Thanh mỗi tối phải đến ở tận ngã tư Phú Nhuận, cách nhà Thanh khoảng năm cây số hơn. Vùng đó hơi xa nhà mà lại quá vắng vẻ vì còn nhiều đồng ruộng. Thời gian mà Thanh phải đi và về vào thời điểm đó thì không làm sao có phương tiện để di chuyển được. Thấy Thanh lo lắng, ba Thanh hỏi chuyện và khi biết nguyện vọng của con thì ông nói:
- Mỗi tối ba sẽ đưa con đi và đón con về bằng xe mobilette của ba. Ba cũng cần ra ngoài một chút vào buổi tối cho khỏe người. Khi nào gia đình mình khá một chút thì sẽ sắm cho con chiếc xe đạp.
Nghe ông nói vậy Thanh cũng ậm ừ cho qua chuyện vì Thanh biết là cả ngày ông làm trong Sở Bưu điện, tối về ông cũng muốn có những giây phút bên mẹ Thanh cho bà vui vì mẹ Thanh là một tiểu thư đài các khi quen ba Thanh. Cũng vì chiến tranh nên gia đình phải tạm thời gặp khó khăn. Ngày đầu tiên nhận việc, Thanh rất vui vì bốn em mà Thanh dạy kèm đều rất ngoan. Bốn em này ở cùng một xóm và học cùng một trường công lập Võ Tánh trên đường Võ Di Nguỵ Các em rất yếu về môn toán và Việt văn. Một ngày nọ, ba của Thanh đến đón anh trễ. Thanh thả bộ ngang qua ngã tư Phú Nhuận thì Thanh để ý thấy có một xe thổ mộ, là loại xe ngựa chở khách rất thịnh hành vào thời điểm này và thường đậu ở ngã tư để đón khách. Thấy Thanh, người xà ích vội ngồi thẳng dậy và mời:
- Cậu đi xe cậu ơi.
Thanh cám ơn người xà ích và nhân tiện cũng hỏi cho biết giá cả từ đây về nhà Thanh, và Thanh hứa sẽ đi vào một dịp khác. Ba của Thanh đã đồng ý với đề nghị của Thanh là từ thứ hai đầu tuần tới, ông chỉ phải đưa Thanh bận đi mà thôi. Khi về thì Thanh sẽ về bằng xe thổ mộ. Thanh cho biết là tiền xe chỉ mất khoảng năm cắc (0,50 xu). Mỗi tháng Thanh dạy kèm từ thứ hai đến thứ sáu là năm ngày, như vậy mỗi tháng mất khoảng mười đồng tiền xẹ Tiền công kèm bốn em, mỗi em một tháng là mười lăm đồng, vị chi Thanh vẫn còn dư đến năm mươi đồng. Thấy con tính như vậy nên ba Thanh cũng tạm yên lòng. Sau một tháng dạy kèm cho bốn em. Lần đầu tiên trong đời, Thanh cầm trong tay số tiền lương mà Thanh kiếm được. Thanh đã yêu cầu mẹ từ nay không phải thức khuya dậy sớm với gánh xôi cực nhọc nữa. Thanh sẽ dựng cho mẹ một sạp báo ở đầu xóm "cho mẹ vui vì có công việc làm".
Kể từ tháng thứ hai, các em vì mến Thanh nên sau giờ học các em muốn Thanh ngồi lại để "kể đủ thứ chuyện gì mà thầy Thanh biết". Từ đó, mỗi đêm Thanh ngồi nán lại với các em thêm một giờ. Từ nơi dạy học, Thanh ra đến chỗ xe thổ mộ là mười một giờ bốn mươi phút đêm. Người xà ích không lộ một vẻ gì nôn nóng và thái độ thì cũng vẫn bình thản như mọi hôm. Đường sá vào những năm đó rất vắng vẻ. Hằng đêm, Thanh từ nơi dạy kèm đi ra đến xe thổ mộ, luôn luôn cũng chỉ có một mình Thanh chứ tuyệt nhiên không có một bóng người hay chiếc xe nào khác chạy trên đường. Nhà cửa ở khu ngã tư Phú Nhuận cũng rất ít oi và nhiều đồng ruộng. Nhà ở hai bên con đường Võ Di Nguy từ ngã tư Phú Nhuận lên đến Đakao thì im lìm then cài cửa đóng.
Cũng có đôi lúc Thanh rùng mình nghĩ vu vơ về những chuyện ma quái nhưng Thanh vội gạt đi những ý nghĩ đó. Thanh thường nhìn lén người xà ích, Thanh thấy ông ta thật bình thản nên cũng có phần yên tâm hơn và bớt suy nghĩ những điều không hay. Gọi người xà ích là ông chứ Thanh nghĩ tuổi của ông ta chỉ ngoài ba mươi. Đêm nay cũng giống như mọi đêm. Thanh ngồi quay lưng lại với người xà ích để hai chân được thòng xuống cái bàn đạp dùng để cho khách bước lên xe. Nhìn cảnh vật hai bên đường đêm nay Thanh thấy sao nó tối tăm quá, mặc dầu nó cũng như mọi đêm qua. Đèn không đủ soi sáng lắm ở hai bên đường... nhất là khoảng từ chợ Phú Nhuận lên đến cầu Kiệu. Thanh nghĩ quẩn là nếu chẳng may có một bọn cướp nào đó xông ra chận chiếc xe thổ mộ và bắt Thanh dẫn đi vào con hẻm nào đó thì cũng chẳng có ai dám đuổi theo. Cảnh sát cũng chưa chắc đã dám đuổi theo nói chi đến người dân thường. Đang miên man suy nghĩ thì đột nhiên chiếc xe thổ mộ từ từ chạy chậm lại vì có người đứng đón xe. Thanh quay đầu lại nhìn thì cũng vừa lúc người xà ích lên tiếng:
- Cô đi xe, cô ơi.
- Qua khỏi cầu Kiệu là bao nhiêu tiền hả chú?
- Dạ, mười xu cô ạ.
Thanh ngồi tránh qua một bên để người khách bước lên. Khách là một cô gái. Cô gái mặc áo dài nên cô ta cũng ngồi giống như Thanh đang ngồi để hai chân không phải bị gò cong lại như khi ngồi trong lòng xe. Thanh là một thanh niên mới lớn và rất rụt rè trong giao thiệp, nhất là với phái nữ. Tuy đang là ban đêm và trời lạnh, nhưng Thanh cảm thấy mặt nóng bừng khi Thanh liếc mắt nhìn trộm người con gái và phát giác ra nàng rất đẹp. Mùi thơm của da thịt nàng tỏa ra đã làm cho Thanh ngây ngất thêm và làm cho Thanh thêm rụt rè hơn. Người con gái thì từ khi lên xe chỉ cúi mặt xuống như tìm kiếm vật gì đó dưới lòng đường và, ôm sát chồng sách vào lòng như sợ nó bị ai đó giựt đi. Thoảng chốc, người con gái mới ngước mặt lên một chút và rồi lại nhìn xuống mặt đường. Nàng tỏ ra e thẹn khi thỉnh thoảng đụng phải người Thanh vì chiếc xe thổ mộ bị gập ghềnh bởi mặt đường không được bằng phẳng lắm. Xe vừa chạy lên giữa cầu thì người con gái quay lại nói với người xà ích:
- Ngừng ở ngay dốc đầu cầu bên kia nghe chú.
Sau khi trả tiền xong, người con gái xuống xe và thoăn thoắt bước xuống những bực thềm để đi vào xóm nhà gần đó mà Thanh nhìn theo thì không thấy một nhà nào có ánh đèn. Hôm sau, cũng đúng tại địa điểm cũ, người con gái cũng ra đón xe và người xà ích cũng nói lời mời khách như ông đã từng mời Thanh và cô gái mà Thanh đã được nghe. Hôm sau nữa là nhằm ngày thứ sáu, cuối tuần, người con gái đó cũng ra đón xe như hai hôm trước nên Thanh không biết người con gái đó ngày hôm sau và ngày sau nữa có ra đón xe không. Thanh mong sao cho mau qua hết tuần để gặp lại người con gái đó. Cả ngày Thanh cứ thắc mắc về người con gái. Nàng làm gì và từ đâu ra đón xe vào cái giờ mà trên đường không một bóng người qua lại. A, có lẽ người con gái đó cũng đi dạy kèm trẻ như Thanh chăng. Thanh để ý là nàng cũng ôm một chồng sách giống như Thanh vậy. Nàng không thể là... Thanh vội xua đuổi ý nghĩ kinh dị trong đầu và Thanh an tâm là nàng không phải là ma hiện ra để chọc ghẹo chàng.
Tối hôm thứ hai đầu tuần, bà chủ nhà mà Thanh đến dạy kèm cho biết là Thanh được về sớm hơn một giờ vì lũ trẻ mà Thanh dạy kèm được bà đưa đi đến nhà của người bạn bà chơi. Thanh thả bộ ra ngã tư Phú Nhuận. Người xà ích và chiếc xe thổ mộ chưa đến. Thời gian còn lâu mới đến giờ Thanh ra về nên Thanh thả bộ dọc theo con đường Võ Duy Nguy để nhìn ngắm các cửa tiệm. Bên cạnh trường công lập Võ Tánh là tòa nhà của Hội Đồng Xã Phú Nhuận. Xa hơn chút nữa về bên trái là rạp hát xi nê Văn Cầm. Một rạp hát nhỏ mà phía sau rạp có một số nhà tranh và còn nhiều đồng ruộng. Phía trước rạp bên kia đường là một cái đình mà Thanh không biết tên. Phía trước cái đình có một cái phông tên nước mà giờ này thì không có ai đến lấy nước nữa. Đi thêm một quãng đường nữa là đến ngôi chợ Phú Nhuận. Giờ này thì dĩ nhiên là chợ cũng không còn nhóm họp buôn bán gì.
Từ ngôi chợ hướng dài đến chân cầu Kiệu là một dãy nhà lá, nhà tôn lẫn lộn và không có căn nào có tầng lầu. Phía sau những căn nhà đó cũng là những thửa ruộng còn lênh láng nước. Bất chợt Thanh nhìn về phía xa xa nơi ba ngày qua có người con gái cũng hằng đêm cùng Thanh trên chiếc xe thổ mộ. Nơi đó hiện có vài căn nhà có đốt đèn. Thanh đoán người con gái có lẽ giờ này đang ngồi một trong những căn nhà đó. Thanh nhìn đồng hồ và vội bước nhanh về khu ngã tư Phú Nhuận. Đến nơi Thanh thấy chiếc xe thổ mộ đã đậu sẵn tự bao giờ. Người xà ích có lẽ quá mệt cho một ngày lao động nên đã nằm ngả lưng ra sàn xe. Thanh không muốn làm mất giấc ngủ mệt nhọc của người xà ích, nhưng Thanh phải giả bộ tằng hắng để người xà ích biết là Thanh đã đến vì Thanh cảm thấy lo nếu để người con gái đứng chờ xe trong một quãng đường quá vắng vẻ.
Đêm nay, với bao sự mong đợi được gặp lại người con gái cùng đi trên chiếc xe với Thanh trong mấy đêm qua thì, chiếc xe thổ mộ vẫn bình thản chạy qua nơi có người con gái đứng đón xe hằng đêm. Thanh cảm thấy một nỗi buồn man mác xâm chiếm vào tâm hồn chàng. Thanh nhìn liếc người xà ích, ông vẫn bình thản cầm cương như không để ý gì đến việc vắng bóng một người khách đêm nay. Đã một tuần lễ trôi qua. Ba mẹ Thanh không thể không lo lắng khi thấy con trai mình có vẻ bồn chồn lo lắng một điều gì. Các em nhỏ mà Thanh dạy kèm cũng "không thấy thích thú những câu chuyện mà thầy Thanh kể nữa". Những câu chuyện không đầu không đuôi và thường kết thúc bằng một câu:
- Ngày mai thầy kể tiếp.
Tối hôm nay khi Thanh vừa ra đến chiếc xe thổ mộ thì trời cũng vừa bắt đầu lâm râm mưa. Một cơn mưa nhẹ đầu mùa. Thanh bước uể oải lên xe và chàng ngồi co chân trong lòng xẹ Thanh không muốn đôi giầy mà chàng đang mang bị ướt.
- Cô đi xe, cô ơi!
Thanh như bị điện giựt, chàng ngồi thẳng dậy và ngoái cổ lại nhìn vì chàng biết chắc người xà ích mời người khách mà Thanh đang mong đợi. Người con gái bước lên xe. Nàng hơi lúng túng vì không biết phải ngồi làm sao thì Thanh đã lẹ làng ngồi tránh ra phía ngoài. Khi người xà ích chuẩn bị cho xe chạy thì cô gái lên tiếng:
- Cả tuần nay bị cảm mà bây giờ lại gặp mưa nữa...thật là xui xẻo quá!
Thanh quay lại nhìn người con gái vì Thanh không biết là nàng nói chuyện với Thanh hay với người xà ích. Người con gái đang hướng mặt về phía trước và, hình như nàng nói câu đó mà không chủ đích nói với ai. Thấy đây là cơ hội mà Thanh đã ấp ủ trong lòng cả tuần qua, và đã... hứa với lòng là Thanh sẽ mạnh dạn để được làm quen với người mà Thanh rất mong nhớ. Hít một hơi cho đầy lồng phổi, Thanh nói:
- Cô nên có một cái áo mưa.
Nói xong câu đó, Thanh thấy mình quả là không có duyên ăn nói. Chính Thanh cũng không ngờ là có một cơn mưa bất chợt như đêm nay để đem theo áo mưa thì làm sao cô gái biết trước được để mang theo cái áo mưa. Nhưng cô gái đã nở một nụ cười với Thanh và nói:
- Em... cũng không ngờ là hôm nay lại mưa.
Thanh nhìn cô gái mà trong lòng thật xao xuyến. Nàng có một nụ cười quá xinh đẹp, với một hàm răng thật trắng và thật đều đặn. Thanh muốn nói thêm một câu gì đó mà Thanh không làm sao mở miệng được. Hai tay Thanh thì cứ hết chắp vào nhau lại xoa xoa như là đang bị lạnh lắm. Sự im lặng thật dài. Chỉ có tiếng vó ngựa là gõ đều đều trên mặt đường. Phút chốc mà chiếc xe thổ mộ đã lên đỉnh cầu và đang đổ dốc. Người xà ích đang ghìm cương để chiếc xe từ từ dừng lại. Tự nhiên Thanh buột miệng:
- Cô hãy đi mau về nhà để kẻo ướt. Tôi xin được trả tiền xe đêm nay cho cô.
Một lần nữa, cô gái nhìn Thanh nở một nụ cười thật tươi và lí nhí câu cám ơn rồi bước lẹ xuống những bực thềm dẫn vào khu nhà phía xa. Có lẽ người xà ích đã nghe câu nói của Thanh với cô gái nên khi cô ta vừa xuống xe là người xà ích vẫy vẫy cái dây cương để cho con ngựa biết là nó phải tiếp tục cuộc hành trình. Ba mẹ Thanh đang ngồi chờ đón Thanh. Hai ông bà ngạc nhiên thấy Thanh bước vào nhà và vừa đi vừa huýt sáo một bài hát vui nhộn. Ba mẹ Thanh nhìn nhau và trên gương mặt của hai người cũng thật rạng rỡ như cũng đang có những niềm vui với nhau.
- Thưa cô, tôi xin phép được...
Thanh vừa đi lại trong phòng ngủ, vừa làm điệu bộ nghiêng mình về phía trước và vừa nói. Nhưng Thanh nghĩ làm như vậy không được vì khi xe thổ mộ ngừng là cô gái bước lên xe ngay trong khi Thanh vẫn đang còn ngồi trên xe thì không thể nghiêng mình được. Chẳng lẽ vừa ngồi vừa nghiêng mình. Dù sao thì cô gái cũng đã có để ý đến mình nên cô gái đã đồng ý cho mình trả tiền cuốc xe. Nghĩ vậy nên Thanh yên tâm và...hứa với lòng là sẽ mạnh dạn hơn trong lần gặp đêm mai.
- Có lẽ...cô cũng dạy kèm trẻ ở gần chỗ cô đứng đón xe?
- Đúng vậy. Sao...anh biết?
- Tôi đoán vậy thôi vì...anh cũng dạy kèm cho bốn đứa trẻ ở khu ngã tư Phú Nhuận.
Im lặng một lúc, Thanh nói về công việc của anh và hỏi cô gái:
- Anh dạy môn toán và Việt văn. Nhà... em ở...dưới đó hả?
- Dạ, xuống hết các bực thềm rồi quẹo phải và đi theo mé sông đến căn nhà cuối cùng là nhà em đó. Em sống với ba vì mẹ em mất lâu rồi. Ban ngày em đi may tới chiều mới về. Ăn cơm xong là đi đến gần chỗ mà em thường đứng đón xe để dạy kèm cho hai em bé gái học môn sử ký. Em tên là Thơm. A, tới nơi rồi. Thôi em về nhe. Hẹn anh đêm mai. Cám ơn anh đã trả tiền xe cho em. Hôm nay xin cho em được tự trả nghe.
- Không đáng bao nhiêu mà. Em cứ tự nhiên đi về nhà đi, lát nữa anh trả luôn tiền xe cho. Tên anh là Thanh.
- Cám ơn anh Thanh nhiều lắm.
Thanh thật sung sướng trong lòng biết bao. Lầu đầu tiên được làm quen với một người con gái, mà lại là người con gái đẹp nữa; và lại là người có học nữa. Như vậy là cô gái đã thật sự có cảm tình với mình nhiều lắm rồi. Thanh lại mong một ngày mau trôi qua.
- Anh Thanh đối tốt với em nhiều lắm. Em...
Người con gái ngập ngừng như có điều gì khó nói lắm. Thanh liền tiếp lời:
- Em...muốn nói gì với anh thì cứ nói, đừng ngại.
- Em muốn mời anh vào nhà em uống ly trà cho biết nhà. Nhưng em thật sự ngại quá vì nhà em quá nghèo. Em.... sợ anh không được vui.
- Được em mời đến nhà là quý lắm rồi. Gia đình anh cũng đâu phải thuộc loại giàu có sang trọng gì mà dám chê bai ai.
- Vậy anh thử hỏi xem "ông xe ngựa" có chịu chờ để đón anh về không.
Tuy làm như chỉ chú tâm vào việc điều khiển cho con ngựa chạy đúng hướng đúng đường. Nhưng khi nghe cô gái nói đến "ông xe ngựa" là ông lên tiếng ngay:
- Cô chú cứ tự nhiên. Tôi chờ bao lâu cũng được mà. Nhà tôi cũng ở gần đây thôi.
Qua dốc cầu và khi xe ngừng lại hẳn, Thanh mau mắn bước xuống trước. Thanh muốn đưa tay đỡ người con gái mà không dám. Thanh lẽo đẽo theo sau người con gái như một cái bóng. Vì đường đi quá tối nên cô gái đã vấp vào một vật gì đó nằm trên đường và ngã chúi về phía trước. Thanh mau mắn ôm ngang lưng người con gái để đỡ cho nàng khỏi té. Thân thể người con gái chạm vào tay Thanh và chuyền qua Thanh một cảm giác thật lạnh. Thanh thật ái ngại cho người con gái. Tại sao nàng lại không mang hờ theo một cái áo ấm vào ban đêm. Thanh nhớ lại mấy đêm qua, người con gái thường hay ngồi co ro và ôm sát chồng sách vào lòng như để hơi ấm không thoát ra ngoài được. Thanh nghĩ và thấy thương người con gái nhiều hơn. Anh quyết tâm sẽ tặng người con gái cái áo ấm vào đêm mai.
Đi hết một dãy nhà khoảng bảy hay tám căn gì đó thì Thanh và người con gái đến trước một căn nhà ở cuối dãy nhà mà Thanh vừa đi qua. Căn nhà khá nhỏ nhoi được bao bọc xung quanh bằng ván cây mỏng và nóc nhà lợp bằng lá. Người con gái dùng tay đẩy nhẹ cánh cửa và bước vào nhà. Trước mặt Thanh là một cái bàn nhỏ và có một cái đèn dầu cũng nhỏ xíu để bên trên. Kế bên cái đèn là một ấm đựng trà và bốn cái tách được đựng trong một cái dĩa bằng nhôm. Sau cái bàn đó là một cái giường được che bởi một tấm màn trắng rất sạch sẽ đã được kéo qua để chẹ Phía bên trái là nhà bếp. Cạnh cái bếp có mắc một cái võng và có một người đàn ông đang nằm trên đó mà Thanh đoán là ba của cô gái. Người con gái lên tiếng khi người đàn ông bỏ chân xuống khỏi cái võng như dự định đứng lên.
- Đây là anh Thanh, người đã trả tiền xe cho con mà con đã kể với ba.
Thanh không thấy được rõ mặt người đàn ông vì ánh đèn dầu không đủ soi sáng khắp căn nhà. Thanh gật đầu và lí nhí trong miệng câu chào.
- Anh ngồi xuống đó đi. Em pha trà anh uống cho ấm. Em bị lạnh quá. Em sợ bị bịnh lắm.
- Ừ, người em lạnh lắm. Em đi làm đêm mà ăn mặc như vậy dễ bị bịnh lắm đó.
- Em cũng định tới đầu tháng này em sẽ mua một cái áo lạnh thật dầy, chứ mỗi đêm cứ như vầy thì sợ sẽ không kéo dài được lâu.
Thanh nhớ lại là người con gái chỉ mới ra đón xe trong vài tuần nay thôi, chứ lúc Thanh mới nhận việc dạy kèm thì đâu có thấy người con gái này ra đón xe. Nàng nói tới đầu tháng sẽ mua áo, như vậy là nàng chờ đầu tháng có lương rồi mới mua áo. Thanh thấy thương người con gái này quá. Nàng chân thật quá. Nàng ăn nói thật tự nhiên và rất thân tình với Thanh.
- Anh uống nước đi.. cho ấm.
Vì mãi suy nghĩ nên Thanh không để ý người con gái đã rót ly nước cho Thanh tự lúc nào. Thanh bưng ly nước lên và uống cạn. Người của Thanh lúc này tự dưng nóng lên. Cái đầu thì bần thần như có đeo chì. Mắt thì nhìn cảnh vật xung quanh như mờ mờ ảo ảo. Người con gái nhìn Thanh và nói với vẻ đầy lo lắng:
- Anh Thanh có sao không? Hình như anh bị cảm rồi. Hay anh lại nằm tạm trên cái giường này để em cạo gió cho.
Nói rồi người con gái bước tới dìu Thanh lại cái giường và cởi áo của Thanh ra để cạo gió. Tỉnh dậy, Thanh thấy ba mẹ anh đang ngồi bên giường anh trong bệnh viện Tân Định. Ba mẹ Thanh cho biết là những người ở xóm dốc cầu Kiệu phát giác anh bị bất tỉnh nằm trong một nghĩa địa nhỏ gần đó và cảnh sát đã đưa anh vào đây. Thanh không biết là anh mơ hay tỉnh. Chuyện vừa qua là có thật hay chỉ là mợ Tại sao anh lại nằm bất tỉnh trong một nghĩa địa nào đó. Như vậy người con gái mà Thanh gặp gỡ là...ma ? Thật không thể tin được! Theo các truyện ma quái mà Thanh đã đọc thì...con ngựa của người xà ích sẽ có phản ứng nếu người con gái đó là ma. Thanh từ từ nhớ lại những chuyện đã xảy ra đêm hôm qua với anh. Thanh quyết định xin xuất viện sáng nay để cùng với ba Thanh đến xóm dốc cầu Kiệu tìm căn nhà của người con gái. Khi Thanh và ba của Thanh đến trước căn nhà cuối cùng bên con sông ở dốc cầu Kiệu thì Thanh nhận biết đây không phải là căn nhà mà Thanh đã đến đêm qua. Đang dáo dác tìm căn nhà mà Thanh muốn tìm thì một người đàn ông trong căn nhà cuối cùng trong xóm mà Thanh và ba Thanh đang đứng bước ra hỏi:
- ông và cậu muốn tìm ai?
- Tôi muốn tìm căn nhà của cô Thơm làm nghề may ở trong khu này.
- A, cậu là người hồi sáng đã bị bất tỉnh và nằm trong cái nghĩa địa đằng kia đó phải không? Cô Thơm thì tôi không biết. Vả lại ở đây cũng không có ai làm nghề thợ may cả. Nhưng ở chỗ cái nghĩa địa nhỏ mà cậu bị bất tỉnh đó, thì vào khoảng vài năm trước có một căn nhà của hai cha con. Người cha làm nghề chạy xe thổ mộ mướn. Người con gái thì làm nghề may, nhưng tôi không biết tên là gì vì tôi chỉ mới dọn về đây thôi. Tôi nghe những người xung quanh kể lại là có một ngày kia có một bọn lính Nhật vào đây. Vừa lúc người cha đi làm về, ông thấy vậy nên đã lấy cây rựa bửa củi ra chém tụi lính Nhật. Tụi lính đó đã bắn người cha chết liền tại chỗ. Cũng vì muốn phi tang nên tụi lính Nhật đã bắn cô gái chết luôn rồi đốt nhà. Căn nhà đang cháy dở dang thì một cơn mưa đổ xuống và dập tắt đám cháy. Người dân ở đây tìm thấy xác chết của hai cha con bị tụi lính Nhật giết nhưng chưa bị cháy hết nên đã được chôn ngay tại chỗ căn nhà đó. Sau này mấy người trong xóm qua đời, người nhà đem chôn cạnh ngay hai cái mả của hai cha con người xà ích và riết rồi thành cái nghĩa địa nhỏ.
Tháng 12 năm 1974.
Thanh hiện là một sĩ quan cao cấp còn sống độc thân của QLVNCH và là Giáo sư giảng dạy tại trường Võ Bị và trường Chiến Tranh Chính Trị tại Đà Lạt. Một đêm kia, Thanh ngồi trong một căn phòng thật kín đáo để nghiên cứu một vấn đề gì đó trong một cuốn sách mà Thanh mới nhận được hồi chiều. Đêm nay, nơi Thanh đang ngồi bị cúp điện. Người lính cận vệ đã thắp tạm cho Thanh một cây đèn cầy để anh làm việc. Trong một lúc Thanh ngẩng đầu lên. Bất chợt anh thấy có bóng một người phụ nữ hiện lên trên vách tường và di chuyển từ cuối phòng đến chỗ anh đang ngồi thì biến mất. Thanh nhìn lại phía sau xem ai đang đi đến. Anh rùng mình khi thấy tất cả cửa phòng đều đã được đóng kỹ. Bên ngoài thì tối đen vì vẫn chưa có điện và cây đèn cầy thì đang để trước mặt anh. Thanh bình tĩnh ngồi xuống và nhìn về phía vừa xuất hiện cái bóng của một người con gái để tìm câu giải thích cho cái hiện tượng vừa xảy ra. Câu giải thích mãi mãi vẫn nằm trong lòng Thanh vì anh biết rằng nếu anh có kể chuyện này ra thì cũng chẳng một ai tin câu chuyện của anh.
Phạm Văn Thuận
Đã một năm trôi qua kể từ ngày gia đình Thanh dọn về ở khu "xóm vắng" vùng Đakao này. Gọi là "xóm vắng" vì ở cái xóm tân lập này chỉ đếm được hơn mười nóc gia và có khoảng hai mươi lăm nhân khẩu. Vào những năm cuối thập niên bốn mươi và đầu thập niên năm mươi của thế kỷ hai mươi thì dân số thành phố Saigon Gia Định chỉ vỏn vẹn khoảng trên dưới hai trăm năm chục ngàn người. Gia đình Thanh chạy loạn chiến tranh giữa Việt Minh và quân đội Pháp từ miền Trung vào. Thật may mắn là ba của Thanh có người bạn đang là công chức ở Sở Bưu điện thành phố và, cũng đang ngụ không lâu ở cái "xóm vắng" này nên gia đình Thanh kiếm được một miếng đất nhỏ ở đây và dựng tạm một căn nhà bằng vật liệu nhẹ để phòng khi mưa nắng.
Thanh là con trai một nên ba má Thanh đã dành tất cả những gì có được đều cho một mình Thanh. Thanh đã hai mươi tuổi rồi và tuy rất thông minh nhưng việc học thì thường bị gián đoạn luôn vì chiến cuộc. Nhìn cảnh gia đình luôn thiếu trước hụt sau, Thanh cũng muốn tìm một việc làm để phụ giúp cho kinh tế gia đình khá hơn và để mẹ Thanh không phải vất vả mỗi sáng với gánh xôi nặng trĩu trên vai đi dạo khắp phố phường. Ba Thanh thì không muốn con trai mình phải lận đận và không có tương lai nên ông thường khuyên con phải cố gắng học hành cho thành đạt. Ông thường nói: "Học đến nơi đến chốn trước là ấm cho bản thân, sau là vợ con con được nhờ chứ lúc đó ba mẹ còn đâu để mà nhờ". Tuy nghe lời dạy của ba mẹ, nhưng Thanh cũng nhờ vài người bạn cùng trường tìm cho một công việc dạy kèm trẻ tại nhà.
Một ngày kia,Thanh được bạn bè giới thiệu một công việc như ý muốn là dạy kèm cho bốn em nhỏ. Ngày đầu tiên đi nói chuyện để nhận việc, Thanh không dấu nổi vẻ thất vọng khi được cho biết công việc dạy học được bắt đầu vào lúc 19h và chấm dứt lúc 22h30. Thất vọng là vì nơi mà Thanh mỗi tối phải đến ở tận ngã tư Phú Nhuận, cách nhà Thanh khoảng năm cây số hơn. Vùng đó hơi xa nhà mà lại quá vắng vẻ vì còn nhiều đồng ruộng. Thời gian mà Thanh phải đi và về vào thời điểm đó thì không làm sao có phương tiện để di chuyển được. Thấy Thanh lo lắng, ba Thanh hỏi chuyện và khi biết nguyện vọng của con thì ông nói:
- Mỗi tối ba sẽ đưa con đi và đón con về bằng xe mobilette của ba. Ba cũng cần ra ngoài một chút vào buổi tối cho khỏe người. Khi nào gia đình mình khá một chút thì sẽ sắm cho con chiếc xe đạp.
Nghe ông nói vậy Thanh cũng ậm ừ cho qua chuyện vì Thanh biết là cả ngày ông làm trong Sở Bưu điện, tối về ông cũng muốn có những giây phút bên mẹ Thanh cho bà vui vì mẹ Thanh là một tiểu thư đài các khi quen ba Thanh. Cũng vì chiến tranh nên gia đình phải tạm thời gặp khó khăn. Ngày đầu tiên nhận việc, Thanh rất vui vì bốn em mà Thanh dạy kèm đều rất ngoan. Bốn em này ở cùng một xóm và học cùng một trường công lập Võ Tánh trên đường Võ Di Nguỵ Các em rất yếu về môn toán và Việt văn. Một ngày nọ, ba của Thanh đến đón anh trễ. Thanh thả bộ ngang qua ngã tư Phú Nhuận thì Thanh để ý thấy có một xe thổ mộ, là loại xe ngựa chở khách rất thịnh hành vào thời điểm này và thường đậu ở ngã tư để đón khách. Thấy Thanh, người xà ích vội ngồi thẳng dậy và mời:
- Cậu đi xe cậu ơi.
Thanh cám ơn người xà ích và nhân tiện cũng hỏi cho biết giá cả từ đây về nhà Thanh, và Thanh hứa sẽ đi vào một dịp khác. Ba của Thanh đã đồng ý với đề nghị của Thanh là từ thứ hai đầu tuần tới, ông chỉ phải đưa Thanh bận đi mà thôi. Khi về thì Thanh sẽ về bằng xe thổ mộ. Thanh cho biết là tiền xe chỉ mất khoảng năm cắc (0,50 xu). Mỗi tháng Thanh dạy kèm từ thứ hai đến thứ sáu là năm ngày, như vậy mỗi tháng mất khoảng mười đồng tiền xẹ Tiền công kèm bốn em, mỗi em một tháng là mười lăm đồng, vị chi Thanh vẫn còn dư đến năm mươi đồng. Thấy con tính như vậy nên ba Thanh cũng tạm yên lòng. Sau một tháng dạy kèm cho bốn em. Lần đầu tiên trong đời, Thanh cầm trong tay số tiền lương mà Thanh kiếm được. Thanh đã yêu cầu mẹ từ nay không phải thức khuya dậy sớm với gánh xôi cực nhọc nữa. Thanh sẽ dựng cho mẹ một sạp báo ở đầu xóm "cho mẹ vui vì có công việc làm".
Kể từ tháng thứ hai, các em vì mến Thanh nên sau giờ học các em muốn Thanh ngồi lại để "kể đủ thứ chuyện gì mà thầy Thanh biết". Từ đó, mỗi đêm Thanh ngồi nán lại với các em thêm một giờ. Từ nơi dạy học, Thanh ra đến chỗ xe thổ mộ là mười một giờ bốn mươi phút đêm. Người xà ích không lộ một vẻ gì nôn nóng và thái độ thì cũng vẫn bình thản như mọi hôm. Đường sá vào những năm đó rất vắng vẻ. Hằng đêm, Thanh từ nơi dạy kèm đi ra đến xe thổ mộ, luôn luôn cũng chỉ có một mình Thanh chứ tuyệt nhiên không có một bóng người hay chiếc xe nào khác chạy trên đường. Nhà cửa ở khu ngã tư Phú Nhuận cũng rất ít oi và nhiều đồng ruộng. Nhà ở hai bên con đường Võ Di Nguy từ ngã tư Phú Nhuận lên đến Đakao thì im lìm then cài cửa đóng.
Cũng có đôi lúc Thanh rùng mình nghĩ vu vơ về những chuyện ma quái nhưng Thanh vội gạt đi những ý nghĩ đó. Thanh thường nhìn lén người xà ích, Thanh thấy ông ta thật bình thản nên cũng có phần yên tâm hơn và bớt suy nghĩ những điều không hay. Gọi người xà ích là ông chứ Thanh nghĩ tuổi của ông ta chỉ ngoài ba mươi. Đêm nay cũng giống như mọi đêm. Thanh ngồi quay lưng lại với người xà ích để hai chân được thòng xuống cái bàn đạp dùng để cho khách bước lên xe. Nhìn cảnh vật hai bên đường đêm nay Thanh thấy sao nó tối tăm quá, mặc dầu nó cũng như mọi đêm qua. Đèn không đủ soi sáng lắm ở hai bên đường... nhất là khoảng từ chợ Phú Nhuận lên đến cầu Kiệu. Thanh nghĩ quẩn là nếu chẳng may có một bọn cướp nào đó xông ra chận chiếc xe thổ mộ và bắt Thanh dẫn đi vào con hẻm nào đó thì cũng chẳng có ai dám đuổi theo. Cảnh sát cũng chưa chắc đã dám đuổi theo nói chi đến người dân thường. Đang miên man suy nghĩ thì đột nhiên chiếc xe thổ mộ từ từ chạy chậm lại vì có người đứng đón xe. Thanh quay đầu lại nhìn thì cũng vừa lúc người xà ích lên tiếng:
- Cô đi xe, cô ơi.
- Qua khỏi cầu Kiệu là bao nhiêu tiền hả chú?
- Dạ, mười xu cô ạ.
Thanh ngồi tránh qua một bên để người khách bước lên. Khách là một cô gái. Cô gái mặc áo dài nên cô ta cũng ngồi giống như Thanh đang ngồi để hai chân không phải bị gò cong lại như khi ngồi trong lòng xe. Thanh là một thanh niên mới lớn và rất rụt rè trong giao thiệp, nhất là với phái nữ. Tuy đang là ban đêm và trời lạnh, nhưng Thanh cảm thấy mặt nóng bừng khi Thanh liếc mắt nhìn trộm người con gái và phát giác ra nàng rất đẹp. Mùi thơm của da thịt nàng tỏa ra đã làm cho Thanh ngây ngất thêm và làm cho Thanh thêm rụt rè hơn. Người con gái thì từ khi lên xe chỉ cúi mặt xuống như tìm kiếm vật gì đó dưới lòng đường và, ôm sát chồng sách vào lòng như sợ nó bị ai đó giựt đi. Thoảng chốc, người con gái mới ngước mặt lên một chút và rồi lại nhìn xuống mặt đường. Nàng tỏ ra e thẹn khi thỉnh thoảng đụng phải người Thanh vì chiếc xe thổ mộ bị gập ghềnh bởi mặt đường không được bằng phẳng lắm. Xe vừa chạy lên giữa cầu thì người con gái quay lại nói với người xà ích:
- Ngừng ở ngay dốc đầu cầu bên kia nghe chú.
Sau khi trả tiền xong, người con gái xuống xe và thoăn thoắt bước xuống những bực thềm để đi vào xóm nhà gần đó mà Thanh nhìn theo thì không thấy một nhà nào có ánh đèn. Hôm sau, cũng đúng tại địa điểm cũ, người con gái cũng ra đón xe và người xà ích cũng nói lời mời khách như ông đã từng mời Thanh và cô gái mà Thanh đã được nghe. Hôm sau nữa là nhằm ngày thứ sáu, cuối tuần, người con gái đó cũng ra đón xe như hai hôm trước nên Thanh không biết người con gái đó ngày hôm sau và ngày sau nữa có ra đón xe không. Thanh mong sao cho mau qua hết tuần để gặp lại người con gái đó. Cả ngày Thanh cứ thắc mắc về người con gái. Nàng làm gì và từ đâu ra đón xe vào cái giờ mà trên đường không một bóng người qua lại. A, có lẽ người con gái đó cũng đi dạy kèm trẻ như Thanh chăng. Thanh để ý là nàng cũng ôm một chồng sách giống như Thanh vậy. Nàng không thể là... Thanh vội xua đuổi ý nghĩ kinh dị trong đầu và Thanh an tâm là nàng không phải là ma hiện ra để chọc ghẹo chàng.
Tối hôm thứ hai đầu tuần, bà chủ nhà mà Thanh đến dạy kèm cho biết là Thanh được về sớm hơn một giờ vì lũ trẻ mà Thanh dạy kèm được bà đưa đi đến nhà của người bạn bà chơi. Thanh thả bộ ra ngã tư Phú Nhuận. Người xà ích và chiếc xe thổ mộ chưa đến. Thời gian còn lâu mới đến giờ Thanh ra về nên Thanh thả bộ dọc theo con đường Võ Duy Nguy để nhìn ngắm các cửa tiệm. Bên cạnh trường công lập Võ Tánh là tòa nhà của Hội Đồng Xã Phú Nhuận. Xa hơn chút nữa về bên trái là rạp hát xi nê Văn Cầm. Một rạp hát nhỏ mà phía sau rạp có một số nhà tranh và còn nhiều đồng ruộng. Phía trước rạp bên kia đường là một cái đình mà Thanh không biết tên. Phía trước cái đình có một cái phông tên nước mà giờ này thì không có ai đến lấy nước nữa. Đi thêm một quãng đường nữa là đến ngôi chợ Phú Nhuận. Giờ này thì dĩ nhiên là chợ cũng không còn nhóm họp buôn bán gì.
Từ ngôi chợ hướng dài đến chân cầu Kiệu là một dãy nhà lá, nhà tôn lẫn lộn và không có căn nào có tầng lầu. Phía sau những căn nhà đó cũng là những thửa ruộng còn lênh láng nước. Bất chợt Thanh nhìn về phía xa xa nơi ba ngày qua có người con gái cũng hằng đêm cùng Thanh trên chiếc xe thổ mộ. Nơi đó hiện có vài căn nhà có đốt đèn. Thanh đoán người con gái có lẽ giờ này đang ngồi một trong những căn nhà đó. Thanh nhìn đồng hồ và vội bước nhanh về khu ngã tư Phú Nhuận. Đến nơi Thanh thấy chiếc xe thổ mộ đã đậu sẵn tự bao giờ. Người xà ích có lẽ quá mệt cho một ngày lao động nên đã nằm ngả lưng ra sàn xe. Thanh không muốn làm mất giấc ngủ mệt nhọc của người xà ích, nhưng Thanh phải giả bộ tằng hắng để người xà ích biết là Thanh đã đến vì Thanh cảm thấy lo nếu để người con gái đứng chờ xe trong một quãng đường quá vắng vẻ.
Đêm nay, với bao sự mong đợi được gặp lại người con gái cùng đi trên chiếc xe với Thanh trong mấy đêm qua thì, chiếc xe thổ mộ vẫn bình thản chạy qua nơi có người con gái đứng đón xe hằng đêm. Thanh cảm thấy một nỗi buồn man mác xâm chiếm vào tâm hồn chàng. Thanh nhìn liếc người xà ích, ông vẫn bình thản cầm cương như không để ý gì đến việc vắng bóng một người khách đêm nay. Đã một tuần lễ trôi qua. Ba mẹ Thanh không thể không lo lắng khi thấy con trai mình có vẻ bồn chồn lo lắng một điều gì. Các em nhỏ mà Thanh dạy kèm cũng "không thấy thích thú những câu chuyện mà thầy Thanh kể nữa". Những câu chuyện không đầu không đuôi và thường kết thúc bằng một câu:
- Ngày mai thầy kể tiếp.
Tối hôm nay khi Thanh vừa ra đến chiếc xe thổ mộ thì trời cũng vừa bắt đầu lâm râm mưa. Một cơn mưa nhẹ đầu mùa. Thanh bước uể oải lên xe và chàng ngồi co chân trong lòng xẹ Thanh không muốn đôi giầy mà chàng đang mang bị ướt.
- Cô đi xe, cô ơi!
Thanh như bị điện giựt, chàng ngồi thẳng dậy và ngoái cổ lại nhìn vì chàng biết chắc người xà ích mời người khách mà Thanh đang mong đợi. Người con gái bước lên xe. Nàng hơi lúng túng vì không biết phải ngồi làm sao thì Thanh đã lẹ làng ngồi tránh ra phía ngoài. Khi người xà ích chuẩn bị cho xe chạy thì cô gái lên tiếng:
- Cả tuần nay bị cảm mà bây giờ lại gặp mưa nữa...thật là xui xẻo quá!
Thanh quay lại nhìn người con gái vì Thanh không biết là nàng nói chuyện với Thanh hay với người xà ích. Người con gái đang hướng mặt về phía trước và, hình như nàng nói câu đó mà không chủ đích nói với ai. Thấy đây là cơ hội mà Thanh đã ấp ủ trong lòng cả tuần qua, và đã... hứa với lòng là Thanh sẽ mạnh dạn để được làm quen với người mà Thanh rất mong nhớ. Hít một hơi cho đầy lồng phổi, Thanh nói:
- Cô nên có một cái áo mưa.
Nói xong câu đó, Thanh thấy mình quả là không có duyên ăn nói. Chính Thanh cũng không ngờ là có một cơn mưa bất chợt như đêm nay để đem theo áo mưa thì làm sao cô gái biết trước được để mang theo cái áo mưa. Nhưng cô gái đã nở một nụ cười với Thanh và nói:
- Em... cũng không ngờ là hôm nay lại mưa.
Thanh nhìn cô gái mà trong lòng thật xao xuyến. Nàng có một nụ cười quá xinh đẹp, với một hàm răng thật trắng và thật đều đặn. Thanh muốn nói thêm một câu gì đó mà Thanh không làm sao mở miệng được. Hai tay Thanh thì cứ hết chắp vào nhau lại xoa xoa như là đang bị lạnh lắm. Sự im lặng thật dài. Chỉ có tiếng vó ngựa là gõ đều đều trên mặt đường. Phút chốc mà chiếc xe thổ mộ đã lên đỉnh cầu và đang đổ dốc. Người xà ích đang ghìm cương để chiếc xe từ từ dừng lại. Tự nhiên Thanh buột miệng:
- Cô hãy đi mau về nhà để kẻo ướt. Tôi xin được trả tiền xe đêm nay cho cô.
Một lần nữa, cô gái nhìn Thanh nở một nụ cười thật tươi và lí nhí câu cám ơn rồi bước lẹ xuống những bực thềm dẫn vào khu nhà phía xa. Có lẽ người xà ích đã nghe câu nói của Thanh với cô gái nên khi cô ta vừa xuống xe là người xà ích vẫy vẫy cái dây cương để cho con ngựa biết là nó phải tiếp tục cuộc hành trình. Ba mẹ Thanh đang ngồi chờ đón Thanh. Hai ông bà ngạc nhiên thấy Thanh bước vào nhà và vừa đi vừa huýt sáo một bài hát vui nhộn. Ba mẹ Thanh nhìn nhau và trên gương mặt của hai người cũng thật rạng rỡ như cũng đang có những niềm vui với nhau.
- Thưa cô, tôi xin phép được...
Thanh vừa đi lại trong phòng ngủ, vừa làm điệu bộ nghiêng mình về phía trước và vừa nói. Nhưng Thanh nghĩ làm như vậy không được vì khi xe thổ mộ ngừng là cô gái bước lên xe ngay trong khi Thanh vẫn đang còn ngồi trên xe thì không thể nghiêng mình được. Chẳng lẽ vừa ngồi vừa nghiêng mình. Dù sao thì cô gái cũng đã có để ý đến mình nên cô gái đã đồng ý cho mình trả tiền cuốc xe. Nghĩ vậy nên Thanh yên tâm và...hứa với lòng là sẽ mạnh dạn hơn trong lần gặp đêm mai.
- Có lẽ...cô cũng dạy kèm trẻ ở gần chỗ cô đứng đón xe?
- Đúng vậy. Sao...anh biết?
- Tôi đoán vậy thôi vì...anh cũng dạy kèm cho bốn đứa trẻ ở khu ngã tư Phú Nhuận.
Im lặng một lúc, Thanh nói về công việc của anh và hỏi cô gái:
- Anh dạy môn toán và Việt văn. Nhà... em ở...dưới đó hả?
- Dạ, xuống hết các bực thềm rồi quẹo phải và đi theo mé sông đến căn nhà cuối cùng là nhà em đó. Em sống với ba vì mẹ em mất lâu rồi. Ban ngày em đi may tới chiều mới về. Ăn cơm xong là đi đến gần chỗ mà em thường đứng đón xe để dạy kèm cho hai em bé gái học môn sử ký. Em tên là Thơm. A, tới nơi rồi. Thôi em về nhe. Hẹn anh đêm mai. Cám ơn anh đã trả tiền xe cho em. Hôm nay xin cho em được tự trả nghe.
- Không đáng bao nhiêu mà. Em cứ tự nhiên đi về nhà đi, lát nữa anh trả luôn tiền xe cho. Tên anh là Thanh.
- Cám ơn anh Thanh nhiều lắm.
Thanh thật sung sướng trong lòng biết bao. Lầu đầu tiên được làm quen với một người con gái, mà lại là người con gái đẹp nữa; và lại là người có học nữa. Như vậy là cô gái đã thật sự có cảm tình với mình nhiều lắm rồi. Thanh lại mong một ngày mau trôi qua.
- Anh Thanh đối tốt với em nhiều lắm. Em...
Người con gái ngập ngừng như có điều gì khó nói lắm. Thanh liền tiếp lời:
- Em...muốn nói gì với anh thì cứ nói, đừng ngại.
- Em muốn mời anh vào nhà em uống ly trà cho biết nhà. Nhưng em thật sự ngại quá vì nhà em quá nghèo. Em.... sợ anh không được vui.
- Được em mời đến nhà là quý lắm rồi. Gia đình anh cũng đâu phải thuộc loại giàu có sang trọng gì mà dám chê bai ai.
- Vậy anh thử hỏi xem "ông xe ngựa" có chịu chờ để đón anh về không.
Tuy làm như chỉ chú tâm vào việc điều khiển cho con ngựa chạy đúng hướng đúng đường. Nhưng khi nghe cô gái nói đến "ông xe ngựa" là ông lên tiếng ngay:
- Cô chú cứ tự nhiên. Tôi chờ bao lâu cũng được mà. Nhà tôi cũng ở gần đây thôi.
Qua dốc cầu và khi xe ngừng lại hẳn, Thanh mau mắn bước xuống trước. Thanh muốn đưa tay đỡ người con gái mà không dám. Thanh lẽo đẽo theo sau người con gái như một cái bóng. Vì đường đi quá tối nên cô gái đã vấp vào một vật gì đó nằm trên đường và ngã chúi về phía trước. Thanh mau mắn ôm ngang lưng người con gái để đỡ cho nàng khỏi té. Thân thể người con gái chạm vào tay Thanh và chuyền qua Thanh một cảm giác thật lạnh. Thanh thật ái ngại cho người con gái. Tại sao nàng lại không mang hờ theo một cái áo ấm vào ban đêm. Thanh nhớ lại mấy đêm qua, người con gái thường hay ngồi co ro và ôm sát chồng sách vào lòng như để hơi ấm không thoát ra ngoài được. Thanh nghĩ và thấy thương người con gái nhiều hơn. Anh quyết tâm sẽ tặng người con gái cái áo ấm vào đêm mai.
Đi hết một dãy nhà khoảng bảy hay tám căn gì đó thì Thanh và người con gái đến trước một căn nhà ở cuối dãy nhà mà Thanh vừa đi qua. Căn nhà khá nhỏ nhoi được bao bọc xung quanh bằng ván cây mỏng và nóc nhà lợp bằng lá. Người con gái dùng tay đẩy nhẹ cánh cửa và bước vào nhà. Trước mặt Thanh là một cái bàn nhỏ và có một cái đèn dầu cũng nhỏ xíu để bên trên. Kế bên cái đèn là một ấm đựng trà và bốn cái tách được đựng trong một cái dĩa bằng nhôm. Sau cái bàn đó là một cái giường được che bởi một tấm màn trắng rất sạch sẽ đã được kéo qua để chẹ Phía bên trái là nhà bếp. Cạnh cái bếp có mắc một cái võng và có một người đàn ông đang nằm trên đó mà Thanh đoán là ba của cô gái. Người con gái lên tiếng khi người đàn ông bỏ chân xuống khỏi cái võng như dự định đứng lên.
- Đây là anh Thanh, người đã trả tiền xe cho con mà con đã kể với ba.
Thanh không thấy được rõ mặt người đàn ông vì ánh đèn dầu không đủ soi sáng khắp căn nhà. Thanh gật đầu và lí nhí trong miệng câu chào.
- Anh ngồi xuống đó đi. Em pha trà anh uống cho ấm. Em bị lạnh quá. Em sợ bị bịnh lắm.
- Ừ, người em lạnh lắm. Em đi làm đêm mà ăn mặc như vậy dễ bị bịnh lắm đó.
- Em cũng định tới đầu tháng này em sẽ mua một cái áo lạnh thật dầy, chứ mỗi đêm cứ như vầy thì sợ sẽ không kéo dài được lâu.
Thanh nhớ lại là người con gái chỉ mới ra đón xe trong vài tuần nay thôi, chứ lúc Thanh mới nhận việc dạy kèm thì đâu có thấy người con gái này ra đón xe. Nàng nói tới đầu tháng sẽ mua áo, như vậy là nàng chờ đầu tháng có lương rồi mới mua áo. Thanh thấy thương người con gái này quá. Nàng chân thật quá. Nàng ăn nói thật tự nhiên và rất thân tình với Thanh.
- Anh uống nước đi.. cho ấm.
Vì mãi suy nghĩ nên Thanh không để ý người con gái đã rót ly nước cho Thanh tự lúc nào. Thanh bưng ly nước lên và uống cạn. Người của Thanh lúc này tự dưng nóng lên. Cái đầu thì bần thần như có đeo chì. Mắt thì nhìn cảnh vật xung quanh như mờ mờ ảo ảo. Người con gái nhìn Thanh và nói với vẻ đầy lo lắng:
- Anh Thanh có sao không? Hình như anh bị cảm rồi. Hay anh lại nằm tạm trên cái giường này để em cạo gió cho.
Nói rồi người con gái bước tới dìu Thanh lại cái giường và cởi áo của Thanh ra để cạo gió. Tỉnh dậy, Thanh thấy ba mẹ anh đang ngồi bên giường anh trong bệnh viện Tân Định. Ba mẹ Thanh cho biết là những người ở xóm dốc cầu Kiệu phát giác anh bị bất tỉnh nằm trong một nghĩa địa nhỏ gần đó và cảnh sát đã đưa anh vào đây. Thanh không biết là anh mơ hay tỉnh. Chuyện vừa qua là có thật hay chỉ là mợ Tại sao anh lại nằm bất tỉnh trong một nghĩa địa nào đó. Như vậy người con gái mà Thanh gặp gỡ là...ma ? Thật không thể tin được! Theo các truyện ma quái mà Thanh đã đọc thì...con ngựa của người xà ích sẽ có phản ứng nếu người con gái đó là ma. Thanh từ từ nhớ lại những chuyện đã xảy ra đêm hôm qua với anh. Thanh quyết định xin xuất viện sáng nay để cùng với ba Thanh đến xóm dốc cầu Kiệu tìm căn nhà của người con gái. Khi Thanh và ba của Thanh đến trước căn nhà cuối cùng bên con sông ở dốc cầu Kiệu thì Thanh nhận biết đây không phải là căn nhà mà Thanh đã đến đêm qua. Đang dáo dác tìm căn nhà mà Thanh muốn tìm thì một người đàn ông trong căn nhà cuối cùng trong xóm mà Thanh và ba Thanh đang đứng bước ra hỏi:
- ông và cậu muốn tìm ai?
- Tôi muốn tìm căn nhà của cô Thơm làm nghề may ở trong khu này.
- A, cậu là người hồi sáng đã bị bất tỉnh và nằm trong cái nghĩa địa đằng kia đó phải không? Cô Thơm thì tôi không biết. Vả lại ở đây cũng không có ai làm nghề thợ may cả. Nhưng ở chỗ cái nghĩa địa nhỏ mà cậu bị bất tỉnh đó, thì vào khoảng vài năm trước có một căn nhà của hai cha con. Người cha làm nghề chạy xe thổ mộ mướn. Người con gái thì làm nghề may, nhưng tôi không biết tên là gì vì tôi chỉ mới dọn về đây thôi. Tôi nghe những người xung quanh kể lại là có một ngày kia có một bọn lính Nhật vào đây. Vừa lúc người cha đi làm về, ông thấy vậy nên đã lấy cây rựa bửa củi ra chém tụi lính Nhật. Tụi lính đó đã bắn người cha chết liền tại chỗ. Cũng vì muốn phi tang nên tụi lính Nhật đã bắn cô gái chết luôn rồi đốt nhà. Căn nhà đang cháy dở dang thì một cơn mưa đổ xuống và dập tắt đám cháy. Người dân ở đây tìm thấy xác chết của hai cha con bị tụi lính Nhật giết nhưng chưa bị cháy hết nên đã được chôn ngay tại chỗ căn nhà đó. Sau này mấy người trong xóm qua đời, người nhà đem chôn cạnh ngay hai cái mả của hai cha con người xà ích và riết rồi thành cái nghĩa địa nhỏ.
Tháng 12 năm 1974.
Thanh hiện là một sĩ quan cao cấp còn sống độc thân của QLVNCH và là Giáo sư giảng dạy tại trường Võ Bị và trường Chiến Tranh Chính Trị tại Đà Lạt. Một đêm kia, Thanh ngồi trong một căn phòng thật kín đáo để nghiên cứu một vấn đề gì đó trong một cuốn sách mà Thanh mới nhận được hồi chiều. Đêm nay, nơi Thanh đang ngồi bị cúp điện. Người lính cận vệ đã thắp tạm cho Thanh một cây đèn cầy để anh làm việc. Trong một lúc Thanh ngẩng đầu lên. Bất chợt anh thấy có bóng một người phụ nữ hiện lên trên vách tường và di chuyển từ cuối phòng đến chỗ anh đang ngồi thì biến mất. Thanh nhìn lại phía sau xem ai đang đi đến. Anh rùng mình khi thấy tất cả cửa phòng đều đã được đóng kỹ. Bên ngoài thì tối đen vì vẫn chưa có điện và cây đèn cầy thì đang để trước mặt anh. Thanh bình tĩnh ngồi xuống và nhìn về phía vừa xuất hiện cái bóng của một người con gái để tìm câu giải thích cho cái hiện tượng vừa xảy ra. Câu giải thích mãi mãi vẫn nằm trong lòng Thanh vì anh biết rằng nếu anh có kể chuyện này ra thì cũng chẳng một ai tin câu chuyện của anh.
Phạm Văn Thuận
#161
Gửi vào 01/07/2011 - 04:44
NGÔI MỘ DÒNG HỌ VŨ
Ngôi mộ tổ dòng họ Vũ ở Chí Linh, Hải Dương được xây toàn đá xanh, đá trắng nguyên khối. Các đại gia họ Vũ đặt mua những loại đá này tận trong Thanh Hóa, rồi thuê ba mươi bảy thợ chạm Ninh Bình ngày đêm đục đẽo để biến những khối đá thành các hình khắc, hoặc vuông vức, xếp khít với nhau. Một dòng họ cũng rất nổi tiếng trong việc xây mộ, đó là họ Vũ, mà thủy tổ ở đất Hải Dương. Người trong họ này xây dựng mộ không khoa trương, không tầng nọ, tầng kia, không lòe loẹt xanh đỏ, song nói về mức độ tốn kém thì cũng thuộc "tốp" những ngôi mộ tiền tỉ.
Nhắc đến cái tên Trần Văn Khá thì người dân khắp huyện Chí Linh, Hải Dương đều biết. Anh Khá nổi tiếng không phải giàu có, tài năng đặc biệt gì, mà vì đã phát hiện ra ngôi mộ tổ họ Vũ, rồi bị “ma” hành làm cho khốn khổ một thời gian dài. Giờ đây, anh lại càng nổi tiếng hơn vì là người trông coi ngôi mộ đắt tiền nhất tỉnh Hải Dương. Người dân xung quanh thường tò mò tìm đến xem ngôi mộ, họ phải nhờ anh mở cổng, hỏi anh những câu chuyện xung quanh ngôi mộ này nên ai cũng biết đến anh.
Ngôi làng Kiệt Thượng, Văn An, huyện Chí Linh, Hải Dương, nằm ngay chân đê với những ngôi nhà mái ngói lúp xúp, mái bằng thấp lè tè lẫn trong những rặng tre. Ngôi mộ tổ họ Vũ nằm ngay đầu làng cạnh cánh đồng, không cao to lừng lững, nhưng sáng choang màu đá, rất sang trọng. Anh Trần Văn Khá dáng người gầy còm, hay chuyện. Nhưng khi hỏi về chuyện đào thấy ngôi mộ tổ họ Vũ ra sao thì cứ chối đây đẩy, không muốn nhắc đến nữa. Theo anh, ngôi mộ là sự ám ảnh suốt đời anh và gia đình anh cũng như cả làng Kiệt Thượng. Nó làm anh nổi tiếng, song cũng làm anh khốn đốn suốt mấy năm trời.
Cha mẹ mất đi, chỉ để lại cho anh Trần Văn Khá túp lều tranh xơ xác bên cánh đồng. Lấy vợ, anh Khá tự đóng gạch, ước nguyện xây cho mình một ngôi nhà bằng bạn bằng bè. Tuy nhiên, bảy năm trời hì hục nhào đất đóng gạch, bảy lần dựng lò đốt gạch trên mảnh vườn nhà mình thì bảy lần giông bão, sấm chớp nổi lên đùng đùng, mưa như trút nước, làm sập lò nát hết gạch. Năm 1993, chán đốt gạch, anh Khá quyết tâm đào mảnh vườn đó làm ao thả cá. Bữa ấy, có năm người nữa là anh em trong nhà tập trung đào hộ. Đang đào đất thì chạm phải vật cứng, màu trắng như phiến đá lớn. Thế nhưng, bổ ra thì thấy không phải đá mà là một loại hợp chất vôi và mật.
Nghĩ vớ được mộ cổ của người Trung Quốc, bên trong sẽ có nhiều vàng bạc nên mấy người bàn tính lấp lại, để đêm ra bới sau, chứ bới ngay lên, thấy nhiều vàng quá dân xúm lại đòi chia thì chẳng ăn thua gì. Mười hai giờ đêm hôm đó, sáu người hì hục đào bới, phá lớp hợp chất vôi và mật, bẩy tung nắp hầm mộ. Tuy nhiên một sự kiện lạ diễn ra, sáu người hì hục dùng xà beng bẩy, dùng dây thừng và đòn ráng sức khiêng, song chiếc quách vẫn không nhúc nhích, nặng như khối bê tông, chân tay ai cũng có cảm giác bủn rủn.
Sợ quá, anh Khá liền thắp hương khấn:
- Cụ cho con đưa cụ về mả của làng để cụ được siêu thoát.
Không ngờ, khấn xong mọi người xúm vào khiêng thấy không nặng như trước nữa. Bật nắp áo quan thấy nước trong vắt, thi thể cụ bà vẫn nguyên vẹn, mùi hương lan tỏa, nhưng mò mẫm mãi chỉ thấy mấy đồng trinh bằng đồng, chiếc bát con và vài món đồ tùy táng không mấy giá trị. Sáng ra anh Khá báo cáo chính quyền. Từ bấy, nhà anh Khá lúc nào cũng đông như hội, người dân khắp nơi kéo đến xem ngôi mộ hợp chất. Các nhà khoa học từ các cơ quan chuyên môn trên Hà Nội cũng về tìm hiểu cặn kẽ ngôi mộ một ngàn hai trăm năm tuổi này.
Anh Khá khẳng định, anh là người bạo dạn nhất làng từ bé đã không biết sợ tối, sợ ma. Anh kể: Hồi thanh niên, đêm nào anh cũng úp cá, soi ếch ngoài đồng, trong nghĩa địa làng. Có lần, nửa đêm ngồi trên nóc ngôi mộ mới chôn xem mặt mũi con ma thế nào, nhưng tuyệt nhiên không gặp. Anh không tin trên đời lại có ma. Thế nhưng, sau ngày đào phải ngôi mộ hợp chất, suốt ba tháng mười ngày, đêm nào cũng vậy, cứ rùng mình một cái tỉnh dậy, lại thấy hình người mặc áo trắng đứng ở đầu giường. Tay chân nhìn rõ mồn một, nhưng khuôn mặt không nhìn thấy đâu. Từ rất xa văng vẳng vọng đến câu nói:
- Mày phá nhà tao, mày trả lại nhà tao...
Lần nào anh Khá cũng kêu vợ cứu, nhưng chị vợ sợ vãi linh hồn cứ trùm chăn kín mít. Cô con gái và người chị gái cũng mấy lần sợ chết khiếp khi mơ thấy hình người mặc áo trắng lướt đi ngoài sân. Câu chuyện này là anh Khá kể, tôi thì chẳng tin chuyện có ma vì tôi chưa gặp ma bao giờ, chỉ biết rằng sau đó anh Khá trở nên lơ nga lơ ngơ, không biết gì suốt mấy tháng trời. Cả ngày anh chỉ ngồi như một khúc gỗ hiền như củ khoai, đôi mắt vô hồn không tự ăn uống, không tự vệ sinh được. Chị vợ phải chăm sóc cho anh như một đứa trẻ.
Có thời gian anh Khá tỉnh táo sợ quá bỏ vào Bình Dương sinh sống. Tuy nhiên đêm nào anh cũng dựng tóc gáy vì... thấy "ma". Không trốn được “ma” anh lại trở về, rồi nghe thầy cúng, thầy bói hướng dẫn, anh vay nóng năm triệu đồng với lãi suất 5%/tháng để xây lại mộ, xây miếu cho bà cụ. Thế nhưng xây xong rồi mà đêm vẫn gặp “ma”, thầy bói lại bảo phải đập ra xây lại anh Khá tiếp tục làm theo.
Anh Khá kể, suốt hai năm trời sau đó, ngày đêm anh thắp hương cúng khấn ngoài mộ nên mới được yên thân. Tất cả tài sản của bà cụ, từ những tấm quách mà có người trả năm triệu anh Khá chưa bán vì chê rẻ, sau khi gặp “ma” thì không dám bán nữa, đến những đồng trinh, mẩu gỗ nhỏ xíu bằng ngón tay của bà cụ anh cũng đem ra mộ chôn tất. Năm 2003, hai đại gia là Vũ H. và Võ Văn H. tìm về nhà anh Khá và bảo người dưới mộ là bà Nguyễn Thị Đức, thân mẫu của cụ Vũ Hồn, tổ nhà các anh, hiện đang thờ ở làng Mộ Trạch, Tân Hồng, Bình Giang, Hải Dương.
Hai đại gia cũng đề nghị anh Khá ra giá mảnh đất 306 m2, nơi có ngôi mộ của cụ Đức. Anh Khá bảo lúc đó đòi cả trăm triệu hai đại gia này cũng mua, nhưng nghĩ đến ngôi mộ anh đã lạnh sống lưng nên chỉ ra giá hai mươi lăm triệu đồng. Tất nhiên, hai đại gia này đồng ý ngay không một lời bớt xén. Sau ngày hôm đó, anh Khá trở thành người giám sát việc xây mộ giúp hai đại gia, nấu nướng, phục vụ ba mươi bảy thợ xây, thợ chạm khắc đá từ mãi Ninh Bình ra ăn ở, làm việc suốt một năm trời. Thỉnh thoảng cũng có từng đoàn người với xe lớn, xe bé sang trọng kéo về chật làng, song anh cũng chỉ biết họ là con cháu họ Vũ.
Ngôi mộ được xây bởi những chất liệu vĩnh cửu, gồm toàn đá xanh, đá trắng nguyên khối. Để có được loại đá đặc biệt này, các đại gia phải đặt mua tận trong Thanh Hóa, rồi từng đoàn xe trọng tải lớn rầm rập chở về Chí Linh. ba mươi bảy thợ chạm khắc lành nghề ở Ninh Bình dựng lều, ngày đêm đục đẽo chan chát để biến những khối đá thành các hình khắc, hoặc vuông vức, xếp khít với nhau. Công trình này được xây dựng chắc chắn, cẩn thận đến nỗi tường bao xung quanh cũng được đổ toàn bằng bêtông cốt thép. Riêng bốn bức tường đã ngốn hơn một ngàn bao xi măng cùng với hàng chục tấn sắt phi mười sáu. Tuy nhiên chi phí xây cả bốn bức tường đó cũng chỉ bằng cái lư hương bằng đá, hoặc một cái cột đá nguyên khối chạm trổ tinh tế nặng vài tấn.
Toàn bộ khu sinh phần là một khối đá khổng lồ, chôn xuống lòng đất 1,7m, bề mặt rộng 30m2. Để chống lún người ta đã đào sâu xuống lòng đất, đầm nện chắc chắn, sau đó đổ một lớp bê tông rộng vài chục mét vuông, rất dày làm móng, sau đó mới xây khuôn đặt hài cốt và xếp các khối đá, mỗi khối nặng 1,3 tấn khít vào nhau. Các khối đá được mài giũa kỳ công đến nỗi khi xếp vào khít chặt với nhau. Những khối đá này được phết chất kết dính là liền luôn thành một khối đá lớn. Cả khu sinh phần đã biến thành một khối đá khổng lồ nặng cả trăm tấn.
Phạm Ngọc Dương
Ngôi mộ tổ dòng họ Vũ ở Chí Linh, Hải Dương được xây toàn đá xanh, đá trắng nguyên khối. Các đại gia họ Vũ đặt mua những loại đá này tận trong Thanh Hóa, rồi thuê ba mươi bảy thợ chạm Ninh Bình ngày đêm đục đẽo để biến những khối đá thành các hình khắc, hoặc vuông vức, xếp khít với nhau. Một dòng họ cũng rất nổi tiếng trong việc xây mộ, đó là họ Vũ, mà thủy tổ ở đất Hải Dương. Người trong họ này xây dựng mộ không khoa trương, không tầng nọ, tầng kia, không lòe loẹt xanh đỏ, song nói về mức độ tốn kém thì cũng thuộc "tốp" những ngôi mộ tiền tỉ.
Nhắc đến cái tên Trần Văn Khá thì người dân khắp huyện Chí Linh, Hải Dương đều biết. Anh Khá nổi tiếng không phải giàu có, tài năng đặc biệt gì, mà vì đã phát hiện ra ngôi mộ tổ họ Vũ, rồi bị “ma” hành làm cho khốn khổ một thời gian dài. Giờ đây, anh lại càng nổi tiếng hơn vì là người trông coi ngôi mộ đắt tiền nhất tỉnh Hải Dương. Người dân xung quanh thường tò mò tìm đến xem ngôi mộ, họ phải nhờ anh mở cổng, hỏi anh những câu chuyện xung quanh ngôi mộ này nên ai cũng biết đến anh.
Ngôi làng Kiệt Thượng, Văn An, huyện Chí Linh, Hải Dương, nằm ngay chân đê với những ngôi nhà mái ngói lúp xúp, mái bằng thấp lè tè lẫn trong những rặng tre. Ngôi mộ tổ họ Vũ nằm ngay đầu làng cạnh cánh đồng, không cao to lừng lững, nhưng sáng choang màu đá, rất sang trọng. Anh Trần Văn Khá dáng người gầy còm, hay chuyện. Nhưng khi hỏi về chuyện đào thấy ngôi mộ tổ họ Vũ ra sao thì cứ chối đây đẩy, không muốn nhắc đến nữa. Theo anh, ngôi mộ là sự ám ảnh suốt đời anh và gia đình anh cũng như cả làng Kiệt Thượng. Nó làm anh nổi tiếng, song cũng làm anh khốn đốn suốt mấy năm trời.
Cha mẹ mất đi, chỉ để lại cho anh Trần Văn Khá túp lều tranh xơ xác bên cánh đồng. Lấy vợ, anh Khá tự đóng gạch, ước nguyện xây cho mình một ngôi nhà bằng bạn bằng bè. Tuy nhiên, bảy năm trời hì hục nhào đất đóng gạch, bảy lần dựng lò đốt gạch trên mảnh vườn nhà mình thì bảy lần giông bão, sấm chớp nổi lên đùng đùng, mưa như trút nước, làm sập lò nát hết gạch. Năm 1993, chán đốt gạch, anh Khá quyết tâm đào mảnh vườn đó làm ao thả cá. Bữa ấy, có năm người nữa là anh em trong nhà tập trung đào hộ. Đang đào đất thì chạm phải vật cứng, màu trắng như phiến đá lớn. Thế nhưng, bổ ra thì thấy không phải đá mà là một loại hợp chất vôi và mật.
Nghĩ vớ được mộ cổ của người Trung Quốc, bên trong sẽ có nhiều vàng bạc nên mấy người bàn tính lấp lại, để đêm ra bới sau, chứ bới ngay lên, thấy nhiều vàng quá dân xúm lại đòi chia thì chẳng ăn thua gì. Mười hai giờ đêm hôm đó, sáu người hì hục đào bới, phá lớp hợp chất vôi và mật, bẩy tung nắp hầm mộ. Tuy nhiên một sự kiện lạ diễn ra, sáu người hì hục dùng xà beng bẩy, dùng dây thừng và đòn ráng sức khiêng, song chiếc quách vẫn không nhúc nhích, nặng như khối bê tông, chân tay ai cũng có cảm giác bủn rủn.
Sợ quá, anh Khá liền thắp hương khấn:
- Cụ cho con đưa cụ về mả của làng để cụ được siêu thoát.
Không ngờ, khấn xong mọi người xúm vào khiêng thấy không nặng như trước nữa. Bật nắp áo quan thấy nước trong vắt, thi thể cụ bà vẫn nguyên vẹn, mùi hương lan tỏa, nhưng mò mẫm mãi chỉ thấy mấy đồng trinh bằng đồng, chiếc bát con và vài món đồ tùy táng không mấy giá trị. Sáng ra anh Khá báo cáo chính quyền. Từ bấy, nhà anh Khá lúc nào cũng đông như hội, người dân khắp nơi kéo đến xem ngôi mộ hợp chất. Các nhà khoa học từ các cơ quan chuyên môn trên Hà Nội cũng về tìm hiểu cặn kẽ ngôi mộ một ngàn hai trăm năm tuổi này.
Anh Khá khẳng định, anh là người bạo dạn nhất làng từ bé đã không biết sợ tối, sợ ma. Anh kể: Hồi thanh niên, đêm nào anh cũng úp cá, soi ếch ngoài đồng, trong nghĩa địa làng. Có lần, nửa đêm ngồi trên nóc ngôi mộ mới chôn xem mặt mũi con ma thế nào, nhưng tuyệt nhiên không gặp. Anh không tin trên đời lại có ma. Thế nhưng, sau ngày đào phải ngôi mộ hợp chất, suốt ba tháng mười ngày, đêm nào cũng vậy, cứ rùng mình một cái tỉnh dậy, lại thấy hình người mặc áo trắng đứng ở đầu giường. Tay chân nhìn rõ mồn một, nhưng khuôn mặt không nhìn thấy đâu. Từ rất xa văng vẳng vọng đến câu nói:
- Mày phá nhà tao, mày trả lại nhà tao...
Lần nào anh Khá cũng kêu vợ cứu, nhưng chị vợ sợ vãi linh hồn cứ trùm chăn kín mít. Cô con gái và người chị gái cũng mấy lần sợ chết khiếp khi mơ thấy hình người mặc áo trắng lướt đi ngoài sân. Câu chuyện này là anh Khá kể, tôi thì chẳng tin chuyện có ma vì tôi chưa gặp ma bao giờ, chỉ biết rằng sau đó anh Khá trở nên lơ nga lơ ngơ, không biết gì suốt mấy tháng trời. Cả ngày anh chỉ ngồi như một khúc gỗ hiền như củ khoai, đôi mắt vô hồn không tự ăn uống, không tự vệ sinh được. Chị vợ phải chăm sóc cho anh như một đứa trẻ.
Có thời gian anh Khá tỉnh táo sợ quá bỏ vào Bình Dương sinh sống. Tuy nhiên đêm nào anh cũng dựng tóc gáy vì... thấy "ma". Không trốn được “ma” anh lại trở về, rồi nghe thầy cúng, thầy bói hướng dẫn, anh vay nóng năm triệu đồng với lãi suất 5%/tháng để xây lại mộ, xây miếu cho bà cụ. Thế nhưng xây xong rồi mà đêm vẫn gặp “ma”, thầy bói lại bảo phải đập ra xây lại anh Khá tiếp tục làm theo.
Anh Khá kể, suốt hai năm trời sau đó, ngày đêm anh thắp hương cúng khấn ngoài mộ nên mới được yên thân. Tất cả tài sản của bà cụ, từ những tấm quách mà có người trả năm triệu anh Khá chưa bán vì chê rẻ, sau khi gặp “ma” thì không dám bán nữa, đến những đồng trinh, mẩu gỗ nhỏ xíu bằng ngón tay của bà cụ anh cũng đem ra mộ chôn tất. Năm 2003, hai đại gia là Vũ H. và Võ Văn H. tìm về nhà anh Khá và bảo người dưới mộ là bà Nguyễn Thị Đức, thân mẫu của cụ Vũ Hồn, tổ nhà các anh, hiện đang thờ ở làng Mộ Trạch, Tân Hồng, Bình Giang, Hải Dương.
Hai đại gia cũng đề nghị anh Khá ra giá mảnh đất 306 m2, nơi có ngôi mộ của cụ Đức. Anh Khá bảo lúc đó đòi cả trăm triệu hai đại gia này cũng mua, nhưng nghĩ đến ngôi mộ anh đã lạnh sống lưng nên chỉ ra giá hai mươi lăm triệu đồng. Tất nhiên, hai đại gia này đồng ý ngay không một lời bớt xén. Sau ngày hôm đó, anh Khá trở thành người giám sát việc xây mộ giúp hai đại gia, nấu nướng, phục vụ ba mươi bảy thợ xây, thợ chạm khắc đá từ mãi Ninh Bình ra ăn ở, làm việc suốt một năm trời. Thỉnh thoảng cũng có từng đoàn người với xe lớn, xe bé sang trọng kéo về chật làng, song anh cũng chỉ biết họ là con cháu họ Vũ.
Ngôi mộ được xây bởi những chất liệu vĩnh cửu, gồm toàn đá xanh, đá trắng nguyên khối. Để có được loại đá đặc biệt này, các đại gia phải đặt mua tận trong Thanh Hóa, rồi từng đoàn xe trọng tải lớn rầm rập chở về Chí Linh. ba mươi bảy thợ chạm khắc lành nghề ở Ninh Bình dựng lều, ngày đêm đục đẽo chan chát để biến những khối đá thành các hình khắc, hoặc vuông vức, xếp khít với nhau. Công trình này được xây dựng chắc chắn, cẩn thận đến nỗi tường bao xung quanh cũng được đổ toàn bằng bêtông cốt thép. Riêng bốn bức tường đã ngốn hơn một ngàn bao xi măng cùng với hàng chục tấn sắt phi mười sáu. Tuy nhiên chi phí xây cả bốn bức tường đó cũng chỉ bằng cái lư hương bằng đá, hoặc một cái cột đá nguyên khối chạm trổ tinh tế nặng vài tấn.
Toàn bộ khu sinh phần là một khối đá khổng lồ, chôn xuống lòng đất 1,7m, bề mặt rộng 30m2. Để chống lún người ta đã đào sâu xuống lòng đất, đầm nện chắc chắn, sau đó đổ một lớp bê tông rộng vài chục mét vuông, rất dày làm móng, sau đó mới xây khuôn đặt hài cốt và xếp các khối đá, mỗi khối nặng 1,3 tấn khít vào nhau. Các khối đá được mài giũa kỳ công đến nỗi khi xếp vào khít chặt với nhau. Những khối đá này được phết chất kết dính là liền luôn thành một khối đá lớn. Cả khu sinh phần đã biến thành một khối đá khổng lồ nặng cả trăm tấn.
Phạm Ngọc Dương
#162
Gửi vào 01/07/2011 - 05:11
BÍ ẨN CỦA LINH HỒN
Khi phải đương đầu với cuộc sống phức tạp như một mê lộ trong một vũ trụ đầy rẫy bất trắc, chúng ta thường tự hỏi bằng cách nào có thể tìm được ý nghĩa của vạn vật hiện tượng đúng như nó có. Làm sao mọi sự lại có thể gắn bó qua lại với nhau như thế? Câu trả lời do các tôn giáo đưa ra chính là linh thể, thực thể tối hậu. Một số tôn giáo, đặc biệt những tôn giáo thời cổ cho rằng linh thể được trải nghiệm trong vô số hình thái và quyền năng. Một số khác lại nói đến quyền lực thiêng liêng và phi nhân cách phổ biến trong vạn vật và quan hệ tương tác với chúng. Thông thường linh thể được nhân cách hóa thành thần linh.
Các thần linh này ẩn tàng trong vô số phương diện khác nhau của thế giới, như thần tạo ra mưa bão, thần trị bệnh... Ngoài khái luận về các vị thần, về những linh thể có quyền năng tối cao, quan niệm về sự tồn tại của linh hồn đã và đang có ảnh hưởng, chi phối đáng kể trong đời sống tâm linh của không ít người Việt. Tuy chưa được thừa nhận chính thức, nhưng cũng chưa có khoa học nào giải thích được vì sao một số người lại có khả năng "nói chuyện" với người đã chết. Và, cũng chính từ những cuộc "truyện trò, hỏi thăm..." đó, rất nhiều ngôi mộ vô danh và mất tích đã được "gọi" đúng tên, được tìm thấy dễ dàng hơn bất cứ phương tiện khoa học kỹ thuật nào. Tạm thời, người ta gọi số ít người có khả năng kì lạ này là các nhà ngoại cảm, một mặt thừa nhận tồn tại "thế giới âm", mặt lại phủ nhận, như để tránh "tiếp tay" cho những hành vi lợi dụng, thổi phồng sự việc, gây ảnh hưởng xấu.
Tương tự, câu chuyện mà người viết sắp nêu ra cũng không nhằm cổ xúy cho những kẻ đang dựa vào sự hư thực này để tuyên truyền nhảm nhí, phục vụ lợi ích cá nhân. Ngược lại, với những trải nghiệm thực tế, hy vọng sẽ giúp bạn đọc có được sự nhận định sáng suốt, không để bị sa vào chiếc bẫy của những kẻ buôn thần bán thánh. Mùa đông năm 2005, tôi theo người thân đến nhà cô đồng L (nickname" là L. Rồ) ở xã Liên Châu, huyện VT để "gọi hồn" mẹ. Đi như để giải tỏa bớt nỗi đau mất mẹ và cũng vì tò mò chứ trước nay tôi không hề tin vào chuyện hồn cốt. Mới hơn 6 giờ sáng, sương mù còn dày đặc chưa thấy rõ mặt nhau nhưng nhà cô L. đã đông cứng người đến "xếp hàng". Thấy cô L. lộ diện, anh trai tôi ra hiệu:
- Cô L. Rồ đấy! Bình thường chả biết gì đâu, số còn không biết chứ nói gì đến chữ. Thế mà lúc bị "hồn" nhập vào lại tính toán vanh vách, quy đổi từ tiền đô sang tiền Việt chả sai tẹo nào.
Tôi hờ hững nhìn cô L. Rồ ục ịch ngồi ăn sáng, lại nhìn sang người xung quanh, rồi nói với ông anh từng đạt Huy chương bạc Vật lý Quốc tế rằng:
- Dở hơi hết hay sao mà bao nhiêu người khôn ngoan lại đến chầu chực để nghe một "con rồ"?
Anh tôi không phản đối, đồng thời cũng thừa nhận cái sự "rồ" của những người được gọi là khôn đang có mặt ở đó. Đến giờ cô L. vào "làm việc", tôi chẳng hề bận tâm hay cuống quýt chen vào xem như bao người. Định bụng khi nào vãn bớt mới vào để "soi" thật kỹ cái trò "nhảm nhí" này. Một người đàn ông trung niên mặc quân phục, vai đeo quân hàm đại úy chắc cùng tâm trạng với tôi nên cũng chỉ đi lại lảng vảng ngoài sân. Đột nhiên tôi nghe cô L. rồ (lúc này đã bị hồn người chết nhập vào) gọi:
- Chú Hùng đâu? Sao chú đi đến đây rồi mà không thèm vào chào cháu một câu?
Anh đại úy giật mình bị gọi đúng tên. Vẻ chưa tin lắm, sững sờ đứng giữa sân. Người thân vội chạy ra kéo tay anh:
- Đi vào đây. Cháu nó gọi đấy. Vào chào nó một câu!
Vào nhưng chỉ chắp tay, lắp bắp máy môi chứ anh nhất định không chào cô L. Rồ là "cháu". Thấy vậy "cháu" anh tỏ vẻ dỗi hờn:
- Cháu đã gọi chú vào đến đây mà không chào cháu lấy một câu thì thôi vậy. Cháu không nói chuyện với chú nữa...!
Tôi kinh ngạc vì cô L. Rồ (đang mang hồn người chết) gọi đúng tên "chú Hùng" đang ở tít ngoài sân. Vào xem thấy các trường hợp khác cũng tương tự. Cứ "hồn" về là chào ngay người trước mặt đúng cả tên và ngôi thứ trong gia đình. Rồi "hồn" hỏi chuyện người thân như những người sống đang nói chuyện với nhau, chả chuyện gì trong gia đình mà "hồn" không biết cả. Chẳng hạn, vừa gọi "hồn" một cô bé "lên" đã hỏi ngay:
- Thím Minh! Mẹ cháu đâu mà chỉ có mình thím đi? Sao thím không gọi Thằng Thao và thằng Thắng em cháu về, đưa nó đến đây gặp cháu?
Cứ thế, "hai thím cháu” kể hết chuyện này đến chuyện khác, nhắc tên mấy chục thành viên trong gia đình, từ ông bà nội ngoại, cô dì, chú bác... không sai tên nào. Đến đoạn sắp chào nhau, "thím Minh" hỏi:
- À, mồng 10 tháng sau nhớ về ăn cưới con nhà cô Vân nhé, biết chưa?
Thì "cô cháu" cười toe toét:
- Cháu biết rồi. Nó lấy con bé bán thịt bò ở chợ chứ gì. Ừ. Con bé đấy ngoan, lấy được thím ạ.
Tôi không tin vào tai và mắt mình nữa. Người lúc sống như thế nào thì khi chết, hồn nhập vào cô L. Rồ sẽ đúng như thế. Ai điếc thì chết rồi vẫn còn điếc. Ai nghiện rượu, hay hút thuốc lào thì "hồn" về "thèm" đúng thứ ấy. Tuy nhiên, màn gọi tên và đọc số điện thoại của các "hồn" vẫn "hút hồn" thiên hạ.
Chuyện gì của người sống đều không qua được mắt "hồn". Biết nhưng chỉ để biết chứ không "can thiệp" bằng cách như nhiều người sống vẫn mong mỏi là "bóp cho nó một cái" hoặc "sao không "làm" cho nó què chân đi". Gọi "hồn" ở đây chỉ để được "trò chuyện" với người thân đã khuất chứ "hồn" không xem bói, không lên giọng dọa nạt hay vòi vĩnh thứ gì. Mà "hồn" cũng chỉ "hơn" người sống ở chỗ biết được mồ mả gia đình mình thế nào, nghĩa là "dưới âm" đang "xảy ra chuyện gì", chứ không thể "can dự" vào việc dương gian. Ai chuẩn bị gặp hạn thì "hồn" nhắc để cẩn trọng giữ gìn, không "nâng đỡ" được.
Và đây là đoạn hội thoại ngắn về cảnh hai người cháu "gọi" bà về.
- Bà ơi! Bà xem liệu cháu có phải "kê, đệm" gì không mà sao mãi chả có con thế này?
"Bà nội" cười rũ rượi nói:
- Không. Mày chả phải "kê đệm" khó lắm con ơi. Tốt nhất là mày đi thụ tinh nhân tạo.
- Biết rồi. Chuyện đấy mà bà cũng nói cho người khác nghe à. Với lại, thế thì việc gì cháu phải hỏi bà! Cô cháu ngúng nguẩy.
- Ừ. Thì bà sợ người ta làm mãi chả được khiến mày đau nên bà bảo thế, chứ mày không muốn thì thôi. Bây giờ bà bảo mày đến Bệnh viện C ấy, lên Khoa A, tầng B, vào phòng H gặp trực tiếp ông Tiến ấy, nhờ ông ấy chữa cho, chứ đừng gặp ông Thành, ông ấy chỉ làm lãnh đạo chứ không giỏi chuyên môn đâu...!
- Vâng. Thì cháu đang chữa ông Tiến rồi còn gì. Cháu hỏi xem bà có giúp được cháu không thôi, chứ nói thế thì chán chết...!
Cô L. Rồ chắc chắn không có người "phím" cho những điều ấy, nếu không phải là "hồn" người chết đã nhập vào. Mà nếu giả sử có "tay trong" đi "điều tra" trước thì chắc chắn cô cũng không nhớ được nhiều đến vậy. Bản thân cô bị rồ từ bé, một chữ bẻ đôi cũng không biết. Bỗng một hôm gặp người đi xe đạp qua, cô L. gọi:
- Ông ơi, ông về nhanh lên, nhà ông có người chết đấy!
Ông khách qua đường lẩm nhẩm chửi:
- Con rồ! Nhà người ta đang yên đang lành lại bảo có người chết!
Nhưng khi về nhà thì con gái ông mới chết do cảm đột ngột thật. Sau một vài lần "phán" tin dữ, cô L. Rồ được người dân phát hiện ra "tài" và họ tìm đến "khai thác". Cô L. không đi chơi rông nữa, bố mẹ cô lập một bàn thờ nhỏ phía ngoài cho cô "hầu chuyện" thiên hạ. Ai thích "đặt lễ" bao nhiêu thì tùy vì cô L. Rồ chả bao giờ biết tiền là gì, chỉ đặc biệt thích đi ăn cỗ mà thôi. Lâu dần cô cũng biết "thích" tiền, nhưng chỉ thích độc 2 tờ màu đỏ là 10 ngàn và 500 đồng. Đưa tờ khác là bị cô ném trả. Không gọi được "hồn" cô cũng ném tiền đi: "Trả này! Không thấy "hồn" đâu!" Bởi vậy chỉ có thiên hạ cần cô chứ cô cóc cần ai (để kiếm tiền)...!
Đến lượt nhà tôi, cô L. Rồ khấn thế này:
- Hôm nay là ngày... Con trai XYZ thương đi gọi, nhờ đi tìm mẹ là... (quay sang hỏi tên mẹ tôi, ngày mất và an táng ở đâu). Mới dở dang đến đoạn... "hồn bay bổng bay la, xin bay về nhập vào thanh đồng Đ.T.L..." thì cô L. Rồ ném luôn tiền lễ ra và nói:
- Trả này. Không "vào" cô đâu. "Vong" nhập vào người nhà rồi.
Tất nhiên, cô L hất đầu về phía tôi (lúc này đang quay cuồng, choáng váng). Tôi sợ hãi đẩy chị gái ngồi phía trước về phía cô L. Rồ như để "tránh hạn" vì chị tôi "gan to" hơn tôi rất nhiều. Chị tôi lắc lư một lúc rồi... không thấy gì nữa! Lúc biết chắc là không "gọi" được mẹ, anh em tôi buồn bã định ra về. Đang chuẩn bị ngồi lên xe, tự dưng tôi từ từ ngã đổ về phía sau, không sao đứng lên được. Tưởng tôi bị cảm, cả nhà xúm lại bế tôi vào trong nhà. Tôi không biết gì nữa.
Sau nghe mọi người kể rằng "hồn" mẹ tôi đã "nhập" vào tôi. "Mẹ" ho rũ rượi như lúc còn sống (mẹ tôi mất vì ung thư phổi). Mẹ kêu đau và lạnh... Mẹ "đòi" đúng chiếc chăn hoa mà lúc còn sống mẹ thích nhất... Sau khi mẹ "đi" toàn thân tôi lạnh toát, phải mất nửa giờ mới trở lại bình thường. Về nhà, anh em tôi mỗi người một góc ngồi khóc. Lúc sống, mẹ tôi ước ao mua bằng được chiếc vỏ chăn hoa đó. Vì là mùa hè nên mẹ chưa kịp đắp. Rồi mẹ lâm bệnh. Ở bệnh viện về, mẹ không biết mình sẽ không qua khỏi nhưng không hiểu sao mẹ đòi lấy vỏ chăn đó ra để bên cạnh chỗ mẹ nằm (trời nóng chưa thể đắp chăn được). Khi mẹ mất, anh tôi nước mắt đầm đìa ôm vỏ chăn đó ra, nhưng "các cụ" không cho để vào áo quan của mẹ vì họ sợ chăn "tràn" vào mặt mẹ, người sống kiêng kỵ như vậy.
Sau đó mẹ còn nhập vào tôi vài lần nữa, thường vào những thời điểm gia đình có chuyện, anh em tôi đang bàn bạc thì mẹ lại về, dạy bảo y như khi còn sống. Tôi rất sợ và không sao giải thích được chuyện này. Ngoài tôi ra, mẹ không thể "nhập" vào ai khác trong gia đình. Tôi cũng luôn cảm nhận được khi nào mẹ "về" hoặc mẹ đang ở cạnh tôi vì lúc ấy tự nhiên thấy quay cuồng, váng vất. Đôi khi sợ quá, tôi "ngăn" mẹ lại, nói: "Mẹ cứ yên tâm chúng con tự lo được cho mình. Mẹ đừng "vào" con kẻo hôm nay con mệt lắm..." Mẹ thương tôi nên "đi" liền, tôi cũng không chao đảo nữa, nhưng vẫn cảm thấy mẹ đang ở bên chúng tôi...
Cả tôi "tỉnh táo" (đến giờ vẫn chưa tin) và cô L. Rồ (ngày nào cũng bị người khắp nơi tìm đến mượn thân thể cho "hồn" về gặp lại người thân) đều có chung điểm giống nhau là chỉ trò chuyện với người thân chứ không "phán" gì hay vòi vĩnh người sống. Rất có thể "thế giới âm" là có thật, nhưng chỉ tồn tại song song với thế giới dương chứ không can thiệp được gì. Việc thờ cúng của người sống mang ý nghĩa biết ơn và tưởng nhớ cội nguồn. Còn lại những chuyện cầu cúng để mong được thứ này thứ kia chỉ là hoang tưởng. Nếu bản thân không tự rèn giũa và phấn đấu, thì có mời đến cả "gia tộc linh hồn" về cũng không giúp nổi.
Hà Thương
Khi phải đương đầu với cuộc sống phức tạp như một mê lộ trong một vũ trụ đầy rẫy bất trắc, chúng ta thường tự hỏi bằng cách nào có thể tìm được ý nghĩa của vạn vật hiện tượng đúng như nó có. Làm sao mọi sự lại có thể gắn bó qua lại với nhau như thế? Câu trả lời do các tôn giáo đưa ra chính là linh thể, thực thể tối hậu. Một số tôn giáo, đặc biệt những tôn giáo thời cổ cho rằng linh thể được trải nghiệm trong vô số hình thái và quyền năng. Một số khác lại nói đến quyền lực thiêng liêng và phi nhân cách phổ biến trong vạn vật và quan hệ tương tác với chúng. Thông thường linh thể được nhân cách hóa thành thần linh.
Các thần linh này ẩn tàng trong vô số phương diện khác nhau của thế giới, như thần tạo ra mưa bão, thần trị bệnh... Ngoài khái luận về các vị thần, về những linh thể có quyền năng tối cao, quan niệm về sự tồn tại của linh hồn đã và đang có ảnh hưởng, chi phối đáng kể trong đời sống tâm linh của không ít người Việt. Tuy chưa được thừa nhận chính thức, nhưng cũng chưa có khoa học nào giải thích được vì sao một số người lại có khả năng "nói chuyện" với người đã chết. Và, cũng chính từ những cuộc "truyện trò, hỏi thăm..." đó, rất nhiều ngôi mộ vô danh và mất tích đã được "gọi" đúng tên, được tìm thấy dễ dàng hơn bất cứ phương tiện khoa học kỹ thuật nào. Tạm thời, người ta gọi số ít người có khả năng kì lạ này là các nhà ngoại cảm, một mặt thừa nhận tồn tại "thế giới âm", mặt lại phủ nhận, như để tránh "tiếp tay" cho những hành vi lợi dụng, thổi phồng sự việc, gây ảnh hưởng xấu.
Tương tự, câu chuyện mà người viết sắp nêu ra cũng không nhằm cổ xúy cho những kẻ đang dựa vào sự hư thực này để tuyên truyền nhảm nhí, phục vụ lợi ích cá nhân. Ngược lại, với những trải nghiệm thực tế, hy vọng sẽ giúp bạn đọc có được sự nhận định sáng suốt, không để bị sa vào chiếc bẫy của những kẻ buôn thần bán thánh. Mùa đông năm 2005, tôi theo người thân đến nhà cô đồng L (nickname" là L. Rồ) ở xã Liên Châu, huyện VT để "gọi hồn" mẹ. Đi như để giải tỏa bớt nỗi đau mất mẹ và cũng vì tò mò chứ trước nay tôi không hề tin vào chuyện hồn cốt. Mới hơn 6 giờ sáng, sương mù còn dày đặc chưa thấy rõ mặt nhau nhưng nhà cô L. đã đông cứng người đến "xếp hàng". Thấy cô L. lộ diện, anh trai tôi ra hiệu:
- Cô L. Rồ đấy! Bình thường chả biết gì đâu, số còn không biết chứ nói gì đến chữ. Thế mà lúc bị "hồn" nhập vào lại tính toán vanh vách, quy đổi từ tiền đô sang tiền Việt chả sai tẹo nào.
Tôi hờ hững nhìn cô L. Rồ ục ịch ngồi ăn sáng, lại nhìn sang người xung quanh, rồi nói với ông anh từng đạt Huy chương bạc Vật lý Quốc tế rằng:
- Dở hơi hết hay sao mà bao nhiêu người khôn ngoan lại đến chầu chực để nghe một "con rồ"?
Anh tôi không phản đối, đồng thời cũng thừa nhận cái sự "rồ" của những người được gọi là khôn đang có mặt ở đó. Đến giờ cô L. vào "làm việc", tôi chẳng hề bận tâm hay cuống quýt chen vào xem như bao người. Định bụng khi nào vãn bớt mới vào để "soi" thật kỹ cái trò "nhảm nhí" này. Một người đàn ông trung niên mặc quân phục, vai đeo quân hàm đại úy chắc cùng tâm trạng với tôi nên cũng chỉ đi lại lảng vảng ngoài sân. Đột nhiên tôi nghe cô L. rồ (lúc này đã bị hồn người chết nhập vào) gọi:
- Chú Hùng đâu? Sao chú đi đến đây rồi mà không thèm vào chào cháu một câu?
Anh đại úy giật mình bị gọi đúng tên. Vẻ chưa tin lắm, sững sờ đứng giữa sân. Người thân vội chạy ra kéo tay anh:
- Đi vào đây. Cháu nó gọi đấy. Vào chào nó một câu!
Vào nhưng chỉ chắp tay, lắp bắp máy môi chứ anh nhất định không chào cô L. Rồ là "cháu". Thấy vậy "cháu" anh tỏ vẻ dỗi hờn:
- Cháu đã gọi chú vào đến đây mà không chào cháu lấy một câu thì thôi vậy. Cháu không nói chuyện với chú nữa...!
Tôi kinh ngạc vì cô L. Rồ (đang mang hồn người chết) gọi đúng tên "chú Hùng" đang ở tít ngoài sân. Vào xem thấy các trường hợp khác cũng tương tự. Cứ "hồn" về là chào ngay người trước mặt đúng cả tên và ngôi thứ trong gia đình. Rồi "hồn" hỏi chuyện người thân như những người sống đang nói chuyện với nhau, chả chuyện gì trong gia đình mà "hồn" không biết cả. Chẳng hạn, vừa gọi "hồn" một cô bé "lên" đã hỏi ngay:
- Thím Minh! Mẹ cháu đâu mà chỉ có mình thím đi? Sao thím không gọi Thằng Thao và thằng Thắng em cháu về, đưa nó đến đây gặp cháu?
Cứ thế, "hai thím cháu” kể hết chuyện này đến chuyện khác, nhắc tên mấy chục thành viên trong gia đình, từ ông bà nội ngoại, cô dì, chú bác... không sai tên nào. Đến đoạn sắp chào nhau, "thím Minh" hỏi:
- À, mồng 10 tháng sau nhớ về ăn cưới con nhà cô Vân nhé, biết chưa?
Thì "cô cháu" cười toe toét:
- Cháu biết rồi. Nó lấy con bé bán thịt bò ở chợ chứ gì. Ừ. Con bé đấy ngoan, lấy được thím ạ.
Tôi không tin vào tai và mắt mình nữa. Người lúc sống như thế nào thì khi chết, hồn nhập vào cô L. Rồ sẽ đúng như thế. Ai điếc thì chết rồi vẫn còn điếc. Ai nghiện rượu, hay hút thuốc lào thì "hồn" về "thèm" đúng thứ ấy. Tuy nhiên, màn gọi tên và đọc số điện thoại của các "hồn" vẫn "hút hồn" thiên hạ.
Chuyện gì của người sống đều không qua được mắt "hồn". Biết nhưng chỉ để biết chứ không "can thiệp" bằng cách như nhiều người sống vẫn mong mỏi là "bóp cho nó một cái" hoặc "sao không "làm" cho nó què chân đi". Gọi "hồn" ở đây chỉ để được "trò chuyện" với người thân đã khuất chứ "hồn" không xem bói, không lên giọng dọa nạt hay vòi vĩnh thứ gì. Mà "hồn" cũng chỉ "hơn" người sống ở chỗ biết được mồ mả gia đình mình thế nào, nghĩa là "dưới âm" đang "xảy ra chuyện gì", chứ không thể "can dự" vào việc dương gian. Ai chuẩn bị gặp hạn thì "hồn" nhắc để cẩn trọng giữ gìn, không "nâng đỡ" được.
Và đây là đoạn hội thoại ngắn về cảnh hai người cháu "gọi" bà về.
- Bà ơi! Bà xem liệu cháu có phải "kê, đệm" gì không mà sao mãi chả có con thế này?
"Bà nội" cười rũ rượi nói:
- Không. Mày chả phải "kê đệm" khó lắm con ơi. Tốt nhất là mày đi thụ tinh nhân tạo.
- Biết rồi. Chuyện đấy mà bà cũng nói cho người khác nghe à. Với lại, thế thì việc gì cháu phải hỏi bà! Cô cháu ngúng nguẩy.
- Ừ. Thì bà sợ người ta làm mãi chả được khiến mày đau nên bà bảo thế, chứ mày không muốn thì thôi. Bây giờ bà bảo mày đến Bệnh viện C ấy, lên Khoa A, tầng B, vào phòng H gặp trực tiếp ông Tiến ấy, nhờ ông ấy chữa cho, chứ đừng gặp ông Thành, ông ấy chỉ làm lãnh đạo chứ không giỏi chuyên môn đâu...!
- Vâng. Thì cháu đang chữa ông Tiến rồi còn gì. Cháu hỏi xem bà có giúp được cháu không thôi, chứ nói thế thì chán chết...!
Cô L. Rồ chắc chắn không có người "phím" cho những điều ấy, nếu không phải là "hồn" người chết đã nhập vào. Mà nếu giả sử có "tay trong" đi "điều tra" trước thì chắc chắn cô cũng không nhớ được nhiều đến vậy. Bản thân cô bị rồ từ bé, một chữ bẻ đôi cũng không biết. Bỗng một hôm gặp người đi xe đạp qua, cô L. gọi:
- Ông ơi, ông về nhanh lên, nhà ông có người chết đấy!
Ông khách qua đường lẩm nhẩm chửi:
- Con rồ! Nhà người ta đang yên đang lành lại bảo có người chết!
Nhưng khi về nhà thì con gái ông mới chết do cảm đột ngột thật. Sau một vài lần "phán" tin dữ, cô L. Rồ được người dân phát hiện ra "tài" và họ tìm đến "khai thác". Cô L. không đi chơi rông nữa, bố mẹ cô lập một bàn thờ nhỏ phía ngoài cho cô "hầu chuyện" thiên hạ. Ai thích "đặt lễ" bao nhiêu thì tùy vì cô L. Rồ chả bao giờ biết tiền là gì, chỉ đặc biệt thích đi ăn cỗ mà thôi. Lâu dần cô cũng biết "thích" tiền, nhưng chỉ thích độc 2 tờ màu đỏ là 10 ngàn và 500 đồng. Đưa tờ khác là bị cô ném trả. Không gọi được "hồn" cô cũng ném tiền đi: "Trả này! Không thấy "hồn" đâu!" Bởi vậy chỉ có thiên hạ cần cô chứ cô cóc cần ai (để kiếm tiền)...!
Đến lượt nhà tôi, cô L. Rồ khấn thế này:
- Hôm nay là ngày... Con trai XYZ thương đi gọi, nhờ đi tìm mẹ là... (quay sang hỏi tên mẹ tôi, ngày mất và an táng ở đâu). Mới dở dang đến đoạn... "hồn bay bổng bay la, xin bay về nhập vào thanh đồng Đ.T.L..." thì cô L. Rồ ném luôn tiền lễ ra và nói:
- Trả này. Không "vào" cô đâu. "Vong" nhập vào người nhà rồi.
Tất nhiên, cô L hất đầu về phía tôi (lúc này đang quay cuồng, choáng váng). Tôi sợ hãi đẩy chị gái ngồi phía trước về phía cô L. Rồ như để "tránh hạn" vì chị tôi "gan to" hơn tôi rất nhiều. Chị tôi lắc lư một lúc rồi... không thấy gì nữa! Lúc biết chắc là không "gọi" được mẹ, anh em tôi buồn bã định ra về. Đang chuẩn bị ngồi lên xe, tự dưng tôi từ từ ngã đổ về phía sau, không sao đứng lên được. Tưởng tôi bị cảm, cả nhà xúm lại bế tôi vào trong nhà. Tôi không biết gì nữa.
Sau nghe mọi người kể rằng "hồn" mẹ tôi đã "nhập" vào tôi. "Mẹ" ho rũ rượi như lúc còn sống (mẹ tôi mất vì ung thư phổi). Mẹ kêu đau và lạnh... Mẹ "đòi" đúng chiếc chăn hoa mà lúc còn sống mẹ thích nhất... Sau khi mẹ "đi" toàn thân tôi lạnh toát, phải mất nửa giờ mới trở lại bình thường. Về nhà, anh em tôi mỗi người một góc ngồi khóc. Lúc sống, mẹ tôi ước ao mua bằng được chiếc vỏ chăn hoa đó. Vì là mùa hè nên mẹ chưa kịp đắp. Rồi mẹ lâm bệnh. Ở bệnh viện về, mẹ không biết mình sẽ không qua khỏi nhưng không hiểu sao mẹ đòi lấy vỏ chăn đó ra để bên cạnh chỗ mẹ nằm (trời nóng chưa thể đắp chăn được). Khi mẹ mất, anh tôi nước mắt đầm đìa ôm vỏ chăn đó ra, nhưng "các cụ" không cho để vào áo quan của mẹ vì họ sợ chăn "tràn" vào mặt mẹ, người sống kiêng kỵ như vậy.
Sau đó mẹ còn nhập vào tôi vài lần nữa, thường vào những thời điểm gia đình có chuyện, anh em tôi đang bàn bạc thì mẹ lại về, dạy bảo y như khi còn sống. Tôi rất sợ và không sao giải thích được chuyện này. Ngoài tôi ra, mẹ không thể "nhập" vào ai khác trong gia đình. Tôi cũng luôn cảm nhận được khi nào mẹ "về" hoặc mẹ đang ở cạnh tôi vì lúc ấy tự nhiên thấy quay cuồng, váng vất. Đôi khi sợ quá, tôi "ngăn" mẹ lại, nói: "Mẹ cứ yên tâm chúng con tự lo được cho mình. Mẹ đừng "vào" con kẻo hôm nay con mệt lắm..." Mẹ thương tôi nên "đi" liền, tôi cũng không chao đảo nữa, nhưng vẫn cảm thấy mẹ đang ở bên chúng tôi...
Cả tôi "tỉnh táo" (đến giờ vẫn chưa tin) và cô L. Rồ (ngày nào cũng bị người khắp nơi tìm đến mượn thân thể cho "hồn" về gặp lại người thân) đều có chung điểm giống nhau là chỉ trò chuyện với người thân chứ không "phán" gì hay vòi vĩnh người sống. Rất có thể "thế giới âm" là có thật, nhưng chỉ tồn tại song song với thế giới dương chứ không can thiệp được gì. Việc thờ cúng của người sống mang ý nghĩa biết ơn và tưởng nhớ cội nguồn. Còn lại những chuyện cầu cúng để mong được thứ này thứ kia chỉ là hoang tưởng. Nếu bản thân không tự rèn giũa và phấn đấu, thì có mời đến cả "gia tộc linh hồn" về cũng không giúp nổi.
Hà Thương
#163
Gửi vào 01/07/2011 - 05:19
CHIẾM ĐOẠT
Sáu năm trước đây nhân kỳ nghỉ hè, tôi cùng với mẹ về thăm ông bà ngoại tôi ở Ban Mê Thuột. Gia đình của ngoại tôi sống ở cây số 5 và gia đình cậu Ba tôi ở cách đó chừng 2 cây số. Vùng này có nhiều đồn điền cafe và cao su do người Pháp trồng từ mấy chục năm trước. Nhiều người sống ở vùng này là công nhân cho các đồn điền của những người Pháp này. Mẹ tôi lập gia đình và theo chồng về Nha Trang vì bố tôi làm việc ở đó. Tôi rất thích chạy nhảy dưới các tàng cây cao su được trồng thẳng tắp bạt ngàn này. Mùa hè cũng là mùa cafe nở hoa, mùi thơm dịu dàng của hoa cafe cũng làm tôi sảng khoái lắm. Nhìn những chùm bông trắng mọc dày kịt trên các cành cafe làm ta liên tưởng đến các cành hoa anh đào ở xứ Nhật.
Tôi cũng thường tới nhà cậu Ba tôi chơi và ngủ lại ở đó. Vợ chồng cậu Ba rất dễ dãi và vui vẻ, họ chưa có con nên quý tôi lắm. Có một điều lúc đầu làm tôi hơi sợ là có nhiều sự kiện lạ xảy ra trong nhà cậu. Như có lúc cả nhà đang chơi đánh cờ cá ngựa với nhau thì tự dưng các con cờ bị hất đổ cả xuống sàn nhà. Tôi sợ xanh cả mặt nhưng cậu tôi chỉ cười rồi nói "Vui nhỉ, làm ơn xếp lại cho tôi nhờ". Thế là các con cờ lại như có cánh bay trở lại chổ cũ trên bàn. Cậu tôi trấn an tôi và mọi người lại tiếp tục chơi. Cũng có vài sự việc lạ khác xảy ra ở nhà cậu, nhưng tôi thấy mọi người tỉnh queo nên riết rồi tôi cũng coi những việc này là sự thường.
Vợ cậu nói chuyện với mẹ tôi là cậu tuy là có Đạo Thiên Chúa, nhưng hay giao du với những người Thượng làm trong cùng đồn điền và học cách giao tiếp với ma quỷ ở thế giới bên kia. Chỉ có vợ cậu và tôi tin là cậu có thể thông tin với thế giới bên kia, vì chúng tôi đã chứng kiến những sự kiện lạ thường xảy ra trong nhà, còn những người khác thì chỉ mỉm cười chứ trong lòng họ không tin chuyện đó là có thật. Một hôm Chủ Nhật mọi người rủ nhau đi chơi ở thác Trinh Nữ, sở dĩ thác này có tên này, vì cứ mỗi năm đến dịp Noel và Tết Nguyên Đán, nam thanh nữ tú rủ nhau đến thác này chơi rất đông, và một điều đáng nói là hằng năm thường có một vài cô bị trượt chân và chết ở thác này các cô này thường còn trẻ.
Khi mọi người đến thác thì cũng đã quá trưa nên cùng nhau trải bạt và dọn thức ăn ra để ăn trưa. Ở trên bờ sông có nhiều tảng đá rất to cao, trên có mọc các cây nhỏ và dây leo trông rất đẹp, có những tảng đá khổng lồ hợp với nhau thành một hang khá rộng mà người ta gọi là Hang Dơi, trong hang không khí ẩm thấp và hôi vì mùi dơi và phân của chúng. Nói chung thì cảnh vật rất hùng vĩ và đẹp. Thật ra thác nên được gọi là ghềnh thì đúng hơn, vì nó không đổ từ trên cao xuống như những thác ta thường thấy, nó chỉ là dòng nước xoáy xiết khi chảy ngang qua các tảng đá khổng lồ nằm chặn ngang qua giòng sông.
Có rất nhiều tảng đá lớn nhỏ và người gan dạ có thể nhảy từ hòn này qua hòn nọ và băng qua sông. Trên các tảng đá này rêu mọc xanh rờn và rất trơn trợt. Cũng vì ham ra các tảng đá để nhìn ngắm dòng chảy mà đã có nhiều cô trợt chân té xuống giòng nước xiết và bị cuốn chìm kẹt trong các hốc đá mà chết. Khi mọi người ăn xong và nằm nghỉ mát dưới các bóng cây, cậu tôi leo lên các tảng đá ở giữa giòng và kêu mọi người ra xem sự gan dạ của mình. Mặc cho ông bà Ngoại tôi và các người khác kêu réo cậu trở vào. Cậu vẫn nhảy thoăn thoắt từ tảng này qua tảng khác. Và rồi việc kinh hoàng đã xảy ra. Cậu tôi trượt chân té nhào xuống giòng nước. đang cuồn cuộn chảy xiết trong những tiếng kêu thất thanh của mọi người.
Không ai dám nhảy xuống để cứu vì có xuống cũng sẽ bị hút chìm theo giòng xoáy mà thôi. Ông tôi vội chạy đi kêu cứu và gần một tiếng sau trở lại với mấy người thợ lặn cát, những người này làm nghề lặn lấy cát ở dưới lòng sông lên bán. Họ lặn xuống kiếm cả gần hai tiếng mới tìm thấy xác cậu bị vướng dưới một khe đá cách thác chừng 100 mét. Ngày đi chơi hóa ra ngày đại nạn cho gia đình. Mọi người đều ủ rủ chở xác cậu về nhà để lo việc an táng. Bà ngoại và mợ tôi thì đã ngất xỉu và được chở về nhà từ trước rồi.
Ngày an táng đến và sự kiện lạ bắt đầu xảy ra ở nhà cậu Ba. Vợ cậu mặc đồ tang nhưng không biết nên chọn áo màu gì, cái màu đen hay cái màu trắng, cuối cùng mợ chọn cái màu trắng mặc và rồi đi kiếm cái nhẩn đính hôn để đeo. Mợ không tìm thấy nó trong hộp nữ trang mà mợ đã cất giữ. Mợ chạy đến nhà ông bà ngoại và nói điều này, bà ngoại nói lấy cái nhẩn của bà đeo đỡ cũng được. Khi mợ mở cái hộp nữ trang của bà ngoại thì lạ thay cái nhẩn đính hôn của mợ nằm ở trong đó. Không ai biết làm sao cái nhẫn lại nằm trong đó được.
Trong khi cử hành nghi thức chôn cất ở nghĩa trang, tôi luôn cảm thấy như có ai đó nhìn tôi từ trên cành cây cao phía trên đầu tôi. Tôi cứ ngước mắt lên nhìn để xem có ai núp trên đó không! Tuyệt nhiên không có ai trên đó cả, nhưng cái cảm giác đó vẫn bám lấy tôi suốt buổi lễ. Khi ra về mẹ hỏi tôi làm gì mà cứ nhìn lên cành cây trên đầu vậy, tôi nói là có ai núp nhìn tôi từ trên cành cây đó. Mẹ tôi chỉ buông một câu: "Mẹ biết" Sau khi mọi người ăn cơm xong ở nhà ông bà ngoại, mợ Ba xin cáo từ ra về. Khi về tới cửa nhà, mợ giật thót mình vì cái áo màu đen nằm chình ình trước ngưởng cửa như muốn nói là "cái này mới chính là cái cô nên mặc". Mợ mỉm cười và nghĩ đó là do cậu Ba làm ra! Mợ vào nhà lục các thư mà cậu mợ viết cho nhau trước khi cưới đem đi đốt hết vì sợ thấy chúng càng làm mợ đau lòng thêm.
Một hai tuần trôi qua, những sự việc nhỏ xảy ra như các thư mà cậu Ba viết cho mợ khi xưa lại xuất hiện chổ này chổ khác trong nhà, mặc dù những thư này mợ đã đốt đi từ hôm chôn cất cậu rồi. Cửa nhà được gài khóa lại nếu mợ quên khóa nó khi đi ngủ. Mợ cho đó là do cậu làm để muốn bảo vệ cho mợ thôi. Rồi thì mợ bắt đầu đi chơi với bạn bè cho khuây khỏa, nhưng cũng từ đó sự kiện xảy ra trong nhà có khác biệt hơn, không còn những việc như có tính cách tình tứ hay chăm sóc bảo vệ nữa, mà thay vào đó là những đồ vật mợ cần thì bị mất một cách bí mật, cửa phòng mở ra đập vào giữa đêm khuya, chén dĩa bị rớt vỡ rổn rảng trong nhà bếp. Mợ không ngủ yên được trong đêm vì các tiếng động này, thêm vào đó mợ luôn nghe có tiếng chân bước quanh giường mợ trong đêm.
Bữa kia mợ đang trang điểm để đi ăn đầy tháng con của một người bạn, thì phấn son đang ở trên bàn như bị ai hất bay cả xuống đất. Tức quá mợ thét lên "Có để chúng lại chổ cũ cho tôi không thì bảo" rồi mợ rời phòng. Khi quay trở vào thì các vật đã trở về chổ cũ. Rồi những sự việc bực mình như thế cứ xảy ra hàng ngày, làm cho mợ từ bực mình đâm ra sợ hãi. Mợ nghĩ có thể hồn ma phá phách mợ không phải là câu Ba! Mợ đã đoán đúng điều này, hồn ma trong nhà không phải là cậu Ba... Mợ Ba thật sự không tin là cái hồn ma trong nhà là cậu Ba, vì nếu là cậu thì làm thế nào mà cậu lại làm những điều có hại cho mợ được, vì cậu rất thương mợ mà. Mang ý nghĩ đó trong đầu, một hôm mợ quyết định tới gặp một thầy phù thủy ở buôn ALê B. Khi mới bước vào nhà sàn của thầy phù thủy, ông ta trợn mắt nói:
- Trời ơi! Cô đang trải qua một thời kỳ hải hùng trong đời cô. Chồng cô vừa chết trong vòng 3 tháng trở lại đây có đúng không?
Mợ Ba hoảng kinh vì mợ còn chưa nói cho ông ta biết mợ là ai nữa, vậy mà ông ta có vẻ nói trúng phóc những gì đang xảy ra cho mợ. Mợ trấn tỉnh rồi làm bộ hỏi lại:
- Thầy nói chuyện gì vậy?
- Tôi thấy âm khí bao phủ đầy người cô đó! Nó quyện lẫn đầy sự thất vọng, buồn rầu, và sự ganh ghét! Cô có thể để tôi tới thăm nhà cô được không?
Mợ đồng ý để ông phù thủy tới thăm nhà, và mợ rồi trở về nhà mình. Khi mở cửa nhà thì một cảnh tượng xáo trộn chưa từng thấy ở trong nhà mợ! Bàn ghế bị lật đổ, bóng đèn bị đập vỡ, trên tường nhà đầy những vết cào xước! Mợ nghĩ ra ngay là con ma trong nhà không thích việc mợ đi gặp thầy phù thủy. Nhưng là một người gan dạ, mợ không để việc này làm thay đổi điều mà mợ đã đồng ý cho thày phù thuỷ tới nhà. Hôm sau ông phù thủy tới nhà và gỏ cửa. Một giọng đàn ông trầm trầm nói tiếng Pháp mời thầy vào nhà. Thầy vào trong nhà và cảm thấy có sự hiện diện lạnh lùng của một ai đó trong nhà. Thầy ngồi đợi ở phòng khách và rồi mợ từ trong bếp bước ra. Mợ rất kinh ngạc vì thấy thầy phù thuỷ đang ngồi trên ghế! Mợ hỏi:
- Thầy đến hồi nào vậy? Tôi đâu nghe tiếng gỏ cửa của thầy đâu? Làm sao thầy vào nhà được vậy?
Thầy nói cho mợ biết các điều đã xảy ra và mợ cho thầy biết là khi cậu Ba còn sống thỉnh thoảng cậu cũng có giao lưu với hồn của một người Pháp, người Pháp này chết từ năm 1945 khi Việt Minh nổi dậy đánh chiếm chính quyền ở đây. Mợ còn cho biết thêm là cái hồn này nhiều lần yêu cầu cậu Ba cho nó được giao lưu với mợ. Mợ thường cảm thấy có ai đó nhìn. Nhưng mợ cho thầy biết là cái hồn này lâu nay đã rời nhà, khi mợ vô tình đốt một gói giấy gì đó của cậu, vì từ đó mợ không còn cảm thấy bị có ai nhìn lén nữa! Tuy thế mợ cho là cái hồn ma này cũng tử tế chứ không dữ dằn gì cả.
Nghe xong câu chuyện, thầy xin phép đi xem vòng vòng trong nhà, mợ gật đầu. Thầy đi chậm chậm vòng vòng trong nhà chừng 10 phút rồi bổng đứng khựng lại. Thầy quay lại phía mợ, mặt trắng bạch nói trong hơi thở:
- Cô phải rời nhà này càng sớm càng tốt!
- Có chuyện gì vậy thày? Làm ơn cho tôi biết đi?
- Không thể chần chờ được. Mau đến nhà tôi ngay đi rồi tôi sẽ nói cho cô nghe! Chúng ta cần phải rời căn nhà này gấp.
Khi cả hai về đến nhà thày phù thủy, thầy mới nói:
- Cô đoán đúng! Cái hồn ma trong nhà không phải là chồng cô! Nó là một người Pháp, và cũng có thêm mấy hồn ma người Thượng khác, nhưng hồn ma Pháp là kẻ cầm đầu. Ngay cả khi chồng cô còn sống cái hồn này đã có ý thích cô rồi, cũng vì thế mà nó làm cho chồng cô bị trượt chân rớt xuống thác chết để độc quyền chiếm lấy cô đó! Nó phá cô vì nó ghen tuông đó mà.
Mợ Ba nhớ lại là thời gian đầu sau khi chồng chết thì con ma đối xử với mợ rất nhả nhặn, và có vẻ chăm sóc mợ lắm. Nhưng từ khi mợ bắt đầu đi chơi với bạn bè thì nó bắt đầu trở nên hung bạo! Có lẽ nó ghen với mợ thì phải. Mợ chợt nhớ ra điều gì vội hỏi:
- Lúc ở nhà tôi có gì ghê gớm xảy ra sao tôi thấy mặt thày trắng bạch ra vậy?
- Tôi cảm thấy một luồng khí lạnh bao trùm lấy tôi và một giọng ồm ồm bằng tiếng Pháp bảo tôi là hãy để cô yên vì cô là của hắn ta, hắn còn nói là nếu tôi mà không nghe lời hắn thì hắn sẽ thanh toán tôi! Rồi hắn đuổi tôi ra khỏi nhà ngay lập tức đó. Nhưng tôi thấy tội nghiệp cô nên tôi mới khuyên cô rời nhà đó. Cô hãy nghe tôi đừng trở lại ngôi nhà đó nữa nghe chưa.
Mợ đồng ý và đêm đó mợ ngủ lại nhà của bà ngoại. Nhưng mợ cần một số quần áo và vật dụng cá nhân cho nên chiều tối đó mợ nhờ một người bạn trai tên Tài, làm cùng sở với mợ chở mợ về nhà để thu nhặt các thứ cần dùng. Khi cả hai vào trong nhà thì đồ đạc cũng lại bị lật tung lên, ngã đổ ngổn ngang. Chú Tài thấy cảnh tưởng như vậy mới hỏi lý do, mợ nói sơ sơ về hoàn cảnh của mợ! Chú ta không tin và cho là chắc có kẻ nào đó thích phá phách mợ thôi. Mợ nói đó là sự thật và nếu chú ấy muốn nghe thì mợ sẽ kể cho chú ấy nghe. Cả hai ngồi ở phòng khách và mợ bắt đầu kể đầu đuôi câu chuyện cho chú ấy nghe.
Trong khi kể thì chú Tài thường ngắt quảng và đưa ra các câu hỏi và những nhận xét của mình. Khi mợ chấm dứt câu chuyện thì đồng hồ cũng đổ 9 giờ đêm. Mợ vội vàng vơ vài thứ cần thiết và nói với chú Tài mau rời khỏi nhà. Cả hai vừa định bước ra phía cửa thì nghe có tiếng đập nhè nhẹ ở cửa, cả hai lắng nghe và tiếng đập mỗi lúc một mạnh hơn. Rồi tiếng đập như là có ai đang đấm vào cửa vậy. Chú tài lấy hết can đảm bước tới phía cửa để mở. Khi chú ấy còn cách vài bước, thì hai cánh cửa chợt như long bản lề bay về phía chú, làm chú phải nhảy lùi lại để tránh.
Nhưng cái cánh cửa không ngã xuống mà bay trở về vị trí cũ như không có gì xảy ra hết. Mặt mợ và chú Tài đều sợ đến trắng bạch cả ra, và chú ôm lấy hai tai rồi la lớn là phải rời khỏi nhà ngay lập tức. Cả hai tông cửa chạy ra ngoài, chú Tài leo lên mở khoá và đạp cho chiếc Honda nổ máy. Nhưng không biết vì quá sợ hay vì lý do nào đó mà cái xe không chịu nổ. Gió thổi vi vu lạnh buốt, không biết chú Tài thấy gì hay vì lạnh mà tay chú run lẩy bẩy, miệng chú đánh bò cạp. Cuối cùng chú ấy bật lên được một câu:
- Tôi để cô ấy một mình! Hãy cho tôi đi!
Xe bổng nổ máy và chú ấy nhảy lên xe dọt mất! Mợ Ba sợ quá cắm đầu phóng ra đường và chạy một mạch về nhà ông bà ngoại tôi. Từ đó mợ Ba không bao giờ dám bước chân về căn nhà đó nữa. Ông bà ngoại tôi là người đứng ra bán căn nhà đó. Nghe nói người chủ sau có mời một vị Linh Mục tới làm phép trừ ma cho căn nhà và họ sống yên lành trong căn nhà đó. Sau ngày đó mợ thỉnh thoảng muốn nói chuyện với chú Tài khi họ gặp nhau trong sở làm, nhưng chú ấy luôn lẫn tránh. Sau cùng chú ấy xin nghỉ và đi làm ở chổ khác để tránh việc chạm mặt mợ Ba.
Cuối cùng mợ tái giá và theo chồng về Nha Trang. Tôi cũng thỉnh thoảng đến thăm mợ vì ở cùng một thành phố! Một hôm mợ có cho tôi coi một bức thư của chú Tài trong đó chú nói là xin lỗi mợ vì đã bỏ rơi mợ lại đêm đó và đã làm ngơ không chuyện trò với mợ từ đêm xảy ra sự cố. Chú ấy nói là lúc cánh cửa long ra rồi ghép lại, thì chú ấy nghe tiếng nói cùng khắp nhà vang lên. Chúng kêu lên là mợ là của chúng và nếu chú không rời mợ, thì chúng sẽ giết chú hay làm chú trở nên điên khùng. Cũng vì sợ mà chú đã làm những điều không nên làm đối với mợ. Mợ cũng đã viết thơ trả lời và thông cảm với những điều mà chú ấy đã đối xử với mợ.
Từ khi bỏ nhà đi và sau đó căn nhà được vị Linh Mục trừ quỷ thì mợ Ba, chú Tài, và tất cả những người trong gia đình không còn bị quấy rầy bởi cái hồn ma Pháp và mấy tên đầy tớ Thượng nữa. Có lẽ Bề Trên đã đem chúng về chổ chúng phải được ở sau khi chết. Chúng đã lẩn trốn và lang thang trên trần thế cả mấy chục năm rồi.
ST
Sáu năm trước đây nhân kỳ nghỉ hè, tôi cùng với mẹ về thăm ông bà ngoại tôi ở Ban Mê Thuột. Gia đình của ngoại tôi sống ở cây số 5 và gia đình cậu Ba tôi ở cách đó chừng 2 cây số. Vùng này có nhiều đồn điền cafe và cao su do người Pháp trồng từ mấy chục năm trước. Nhiều người sống ở vùng này là công nhân cho các đồn điền của những người Pháp này. Mẹ tôi lập gia đình và theo chồng về Nha Trang vì bố tôi làm việc ở đó. Tôi rất thích chạy nhảy dưới các tàng cây cao su được trồng thẳng tắp bạt ngàn này. Mùa hè cũng là mùa cafe nở hoa, mùi thơm dịu dàng của hoa cafe cũng làm tôi sảng khoái lắm. Nhìn những chùm bông trắng mọc dày kịt trên các cành cafe làm ta liên tưởng đến các cành hoa anh đào ở xứ Nhật.
Tôi cũng thường tới nhà cậu Ba tôi chơi và ngủ lại ở đó. Vợ chồng cậu Ba rất dễ dãi và vui vẻ, họ chưa có con nên quý tôi lắm. Có một điều lúc đầu làm tôi hơi sợ là có nhiều sự kiện lạ xảy ra trong nhà cậu. Như có lúc cả nhà đang chơi đánh cờ cá ngựa với nhau thì tự dưng các con cờ bị hất đổ cả xuống sàn nhà. Tôi sợ xanh cả mặt nhưng cậu tôi chỉ cười rồi nói "Vui nhỉ, làm ơn xếp lại cho tôi nhờ". Thế là các con cờ lại như có cánh bay trở lại chổ cũ trên bàn. Cậu tôi trấn an tôi và mọi người lại tiếp tục chơi. Cũng có vài sự việc lạ khác xảy ra ở nhà cậu, nhưng tôi thấy mọi người tỉnh queo nên riết rồi tôi cũng coi những việc này là sự thường.
Vợ cậu nói chuyện với mẹ tôi là cậu tuy là có Đạo Thiên Chúa, nhưng hay giao du với những người Thượng làm trong cùng đồn điền và học cách giao tiếp với ma quỷ ở thế giới bên kia. Chỉ có vợ cậu và tôi tin là cậu có thể thông tin với thế giới bên kia, vì chúng tôi đã chứng kiến những sự kiện lạ thường xảy ra trong nhà, còn những người khác thì chỉ mỉm cười chứ trong lòng họ không tin chuyện đó là có thật. Một hôm Chủ Nhật mọi người rủ nhau đi chơi ở thác Trinh Nữ, sở dĩ thác này có tên này, vì cứ mỗi năm đến dịp Noel và Tết Nguyên Đán, nam thanh nữ tú rủ nhau đến thác này chơi rất đông, và một điều đáng nói là hằng năm thường có một vài cô bị trượt chân và chết ở thác này các cô này thường còn trẻ.
Khi mọi người đến thác thì cũng đã quá trưa nên cùng nhau trải bạt và dọn thức ăn ra để ăn trưa. Ở trên bờ sông có nhiều tảng đá rất to cao, trên có mọc các cây nhỏ và dây leo trông rất đẹp, có những tảng đá khổng lồ hợp với nhau thành một hang khá rộng mà người ta gọi là Hang Dơi, trong hang không khí ẩm thấp và hôi vì mùi dơi và phân của chúng. Nói chung thì cảnh vật rất hùng vĩ và đẹp. Thật ra thác nên được gọi là ghềnh thì đúng hơn, vì nó không đổ từ trên cao xuống như những thác ta thường thấy, nó chỉ là dòng nước xoáy xiết khi chảy ngang qua các tảng đá khổng lồ nằm chặn ngang qua giòng sông.
Có rất nhiều tảng đá lớn nhỏ và người gan dạ có thể nhảy từ hòn này qua hòn nọ và băng qua sông. Trên các tảng đá này rêu mọc xanh rờn và rất trơn trợt. Cũng vì ham ra các tảng đá để nhìn ngắm dòng chảy mà đã có nhiều cô trợt chân té xuống giòng nước xiết và bị cuốn chìm kẹt trong các hốc đá mà chết. Khi mọi người ăn xong và nằm nghỉ mát dưới các bóng cây, cậu tôi leo lên các tảng đá ở giữa giòng và kêu mọi người ra xem sự gan dạ của mình. Mặc cho ông bà Ngoại tôi và các người khác kêu réo cậu trở vào. Cậu vẫn nhảy thoăn thoắt từ tảng này qua tảng khác. Và rồi việc kinh hoàng đã xảy ra. Cậu tôi trượt chân té nhào xuống giòng nước. đang cuồn cuộn chảy xiết trong những tiếng kêu thất thanh của mọi người.
Không ai dám nhảy xuống để cứu vì có xuống cũng sẽ bị hút chìm theo giòng xoáy mà thôi. Ông tôi vội chạy đi kêu cứu và gần một tiếng sau trở lại với mấy người thợ lặn cát, những người này làm nghề lặn lấy cát ở dưới lòng sông lên bán. Họ lặn xuống kiếm cả gần hai tiếng mới tìm thấy xác cậu bị vướng dưới một khe đá cách thác chừng 100 mét. Ngày đi chơi hóa ra ngày đại nạn cho gia đình. Mọi người đều ủ rủ chở xác cậu về nhà để lo việc an táng. Bà ngoại và mợ tôi thì đã ngất xỉu và được chở về nhà từ trước rồi.
Ngày an táng đến và sự kiện lạ bắt đầu xảy ra ở nhà cậu Ba. Vợ cậu mặc đồ tang nhưng không biết nên chọn áo màu gì, cái màu đen hay cái màu trắng, cuối cùng mợ chọn cái màu trắng mặc và rồi đi kiếm cái nhẩn đính hôn để đeo. Mợ không tìm thấy nó trong hộp nữ trang mà mợ đã cất giữ. Mợ chạy đến nhà ông bà ngoại và nói điều này, bà ngoại nói lấy cái nhẩn của bà đeo đỡ cũng được. Khi mợ mở cái hộp nữ trang của bà ngoại thì lạ thay cái nhẩn đính hôn của mợ nằm ở trong đó. Không ai biết làm sao cái nhẫn lại nằm trong đó được.
Trong khi cử hành nghi thức chôn cất ở nghĩa trang, tôi luôn cảm thấy như có ai đó nhìn tôi từ trên cành cây cao phía trên đầu tôi. Tôi cứ ngước mắt lên nhìn để xem có ai núp trên đó không! Tuyệt nhiên không có ai trên đó cả, nhưng cái cảm giác đó vẫn bám lấy tôi suốt buổi lễ. Khi ra về mẹ hỏi tôi làm gì mà cứ nhìn lên cành cây trên đầu vậy, tôi nói là có ai núp nhìn tôi từ trên cành cây đó. Mẹ tôi chỉ buông một câu: "Mẹ biết" Sau khi mọi người ăn cơm xong ở nhà ông bà ngoại, mợ Ba xin cáo từ ra về. Khi về tới cửa nhà, mợ giật thót mình vì cái áo màu đen nằm chình ình trước ngưởng cửa như muốn nói là "cái này mới chính là cái cô nên mặc". Mợ mỉm cười và nghĩ đó là do cậu Ba làm ra! Mợ vào nhà lục các thư mà cậu mợ viết cho nhau trước khi cưới đem đi đốt hết vì sợ thấy chúng càng làm mợ đau lòng thêm.
Một hai tuần trôi qua, những sự việc nhỏ xảy ra như các thư mà cậu Ba viết cho mợ khi xưa lại xuất hiện chổ này chổ khác trong nhà, mặc dù những thư này mợ đã đốt đi từ hôm chôn cất cậu rồi. Cửa nhà được gài khóa lại nếu mợ quên khóa nó khi đi ngủ. Mợ cho đó là do cậu làm để muốn bảo vệ cho mợ thôi. Rồi thì mợ bắt đầu đi chơi với bạn bè cho khuây khỏa, nhưng cũng từ đó sự kiện xảy ra trong nhà có khác biệt hơn, không còn những việc như có tính cách tình tứ hay chăm sóc bảo vệ nữa, mà thay vào đó là những đồ vật mợ cần thì bị mất một cách bí mật, cửa phòng mở ra đập vào giữa đêm khuya, chén dĩa bị rớt vỡ rổn rảng trong nhà bếp. Mợ không ngủ yên được trong đêm vì các tiếng động này, thêm vào đó mợ luôn nghe có tiếng chân bước quanh giường mợ trong đêm.
Bữa kia mợ đang trang điểm để đi ăn đầy tháng con của một người bạn, thì phấn son đang ở trên bàn như bị ai hất bay cả xuống đất. Tức quá mợ thét lên "Có để chúng lại chổ cũ cho tôi không thì bảo" rồi mợ rời phòng. Khi quay trở vào thì các vật đã trở về chổ cũ. Rồi những sự việc bực mình như thế cứ xảy ra hàng ngày, làm cho mợ từ bực mình đâm ra sợ hãi. Mợ nghĩ có thể hồn ma phá phách mợ không phải là câu Ba! Mợ đã đoán đúng điều này, hồn ma trong nhà không phải là cậu Ba... Mợ Ba thật sự không tin là cái hồn ma trong nhà là cậu Ba, vì nếu là cậu thì làm thế nào mà cậu lại làm những điều có hại cho mợ được, vì cậu rất thương mợ mà. Mang ý nghĩ đó trong đầu, một hôm mợ quyết định tới gặp một thầy phù thủy ở buôn ALê B. Khi mới bước vào nhà sàn của thầy phù thủy, ông ta trợn mắt nói:
- Trời ơi! Cô đang trải qua một thời kỳ hải hùng trong đời cô. Chồng cô vừa chết trong vòng 3 tháng trở lại đây có đúng không?
Mợ Ba hoảng kinh vì mợ còn chưa nói cho ông ta biết mợ là ai nữa, vậy mà ông ta có vẻ nói trúng phóc những gì đang xảy ra cho mợ. Mợ trấn tỉnh rồi làm bộ hỏi lại:
- Thầy nói chuyện gì vậy?
- Tôi thấy âm khí bao phủ đầy người cô đó! Nó quyện lẫn đầy sự thất vọng, buồn rầu, và sự ganh ghét! Cô có thể để tôi tới thăm nhà cô được không?
Mợ đồng ý để ông phù thủy tới thăm nhà, và mợ rồi trở về nhà mình. Khi mở cửa nhà thì một cảnh tượng xáo trộn chưa từng thấy ở trong nhà mợ! Bàn ghế bị lật đổ, bóng đèn bị đập vỡ, trên tường nhà đầy những vết cào xước! Mợ nghĩ ra ngay là con ma trong nhà không thích việc mợ đi gặp thầy phù thủy. Nhưng là một người gan dạ, mợ không để việc này làm thay đổi điều mà mợ đã đồng ý cho thày phù thuỷ tới nhà. Hôm sau ông phù thủy tới nhà và gỏ cửa. Một giọng đàn ông trầm trầm nói tiếng Pháp mời thầy vào nhà. Thầy vào trong nhà và cảm thấy có sự hiện diện lạnh lùng của một ai đó trong nhà. Thầy ngồi đợi ở phòng khách và rồi mợ từ trong bếp bước ra. Mợ rất kinh ngạc vì thấy thầy phù thuỷ đang ngồi trên ghế! Mợ hỏi:
- Thầy đến hồi nào vậy? Tôi đâu nghe tiếng gỏ cửa của thầy đâu? Làm sao thầy vào nhà được vậy?
Thầy nói cho mợ biết các điều đã xảy ra và mợ cho thầy biết là khi cậu Ba còn sống thỉnh thoảng cậu cũng có giao lưu với hồn của một người Pháp, người Pháp này chết từ năm 1945 khi Việt Minh nổi dậy đánh chiếm chính quyền ở đây. Mợ còn cho biết thêm là cái hồn này nhiều lần yêu cầu cậu Ba cho nó được giao lưu với mợ. Mợ thường cảm thấy có ai đó nhìn. Nhưng mợ cho thầy biết là cái hồn này lâu nay đã rời nhà, khi mợ vô tình đốt một gói giấy gì đó của cậu, vì từ đó mợ không còn cảm thấy bị có ai nhìn lén nữa! Tuy thế mợ cho là cái hồn ma này cũng tử tế chứ không dữ dằn gì cả.
Nghe xong câu chuyện, thầy xin phép đi xem vòng vòng trong nhà, mợ gật đầu. Thầy đi chậm chậm vòng vòng trong nhà chừng 10 phút rồi bổng đứng khựng lại. Thầy quay lại phía mợ, mặt trắng bạch nói trong hơi thở:
- Cô phải rời nhà này càng sớm càng tốt!
- Có chuyện gì vậy thày? Làm ơn cho tôi biết đi?
- Không thể chần chờ được. Mau đến nhà tôi ngay đi rồi tôi sẽ nói cho cô nghe! Chúng ta cần phải rời căn nhà này gấp.
Khi cả hai về đến nhà thày phù thủy, thầy mới nói:
- Cô đoán đúng! Cái hồn ma trong nhà không phải là chồng cô! Nó là một người Pháp, và cũng có thêm mấy hồn ma người Thượng khác, nhưng hồn ma Pháp là kẻ cầm đầu. Ngay cả khi chồng cô còn sống cái hồn này đã có ý thích cô rồi, cũng vì thế mà nó làm cho chồng cô bị trượt chân rớt xuống thác chết để độc quyền chiếm lấy cô đó! Nó phá cô vì nó ghen tuông đó mà.
Mợ Ba nhớ lại là thời gian đầu sau khi chồng chết thì con ma đối xử với mợ rất nhả nhặn, và có vẻ chăm sóc mợ lắm. Nhưng từ khi mợ bắt đầu đi chơi với bạn bè thì nó bắt đầu trở nên hung bạo! Có lẽ nó ghen với mợ thì phải. Mợ chợt nhớ ra điều gì vội hỏi:
- Lúc ở nhà tôi có gì ghê gớm xảy ra sao tôi thấy mặt thày trắng bạch ra vậy?
- Tôi cảm thấy một luồng khí lạnh bao trùm lấy tôi và một giọng ồm ồm bằng tiếng Pháp bảo tôi là hãy để cô yên vì cô là của hắn ta, hắn còn nói là nếu tôi mà không nghe lời hắn thì hắn sẽ thanh toán tôi! Rồi hắn đuổi tôi ra khỏi nhà ngay lập tức đó. Nhưng tôi thấy tội nghiệp cô nên tôi mới khuyên cô rời nhà đó. Cô hãy nghe tôi đừng trở lại ngôi nhà đó nữa nghe chưa.
Mợ đồng ý và đêm đó mợ ngủ lại nhà của bà ngoại. Nhưng mợ cần một số quần áo và vật dụng cá nhân cho nên chiều tối đó mợ nhờ một người bạn trai tên Tài, làm cùng sở với mợ chở mợ về nhà để thu nhặt các thứ cần dùng. Khi cả hai vào trong nhà thì đồ đạc cũng lại bị lật tung lên, ngã đổ ngổn ngang. Chú Tài thấy cảnh tưởng như vậy mới hỏi lý do, mợ nói sơ sơ về hoàn cảnh của mợ! Chú ta không tin và cho là chắc có kẻ nào đó thích phá phách mợ thôi. Mợ nói đó là sự thật và nếu chú ấy muốn nghe thì mợ sẽ kể cho chú ấy nghe. Cả hai ngồi ở phòng khách và mợ bắt đầu kể đầu đuôi câu chuyện cho chú ấy nghe.
Trong khi kể thì chú Tài thường ngắt quảng và đưa ra các câu hỏi và những nhận xét của mình. Khi mợ chấm dứt câu chuyện thì đồng hồ cũng đổ 9 giờ đêm. Mợ vội vàng vơ vài thứ cần thiết và nói với chú Tài mau rời khỏi nhà. Cả hai vừa định bước ra phía cửa thì nghe có tiếng đập nhè nhẹ ở cửa, cả hai lắng nghe và tiếng đập mỗi lúc một mạnh hơn. Rồi tiếng đập như là có ai đang đấm vào cửa vậy. Chú tài lấy hết can đảm bước tới phía cửa để mở. Khi chú ấy còn cách vài bước, thì hai cánh cửa chợt như long bản lề bay về phía chú, làm chú phải nhảy lùi lại để tránh.
Nhưng cái cánh cửa không ngã xuống mà bay trở về vị trí cũ như không có gì xảy ra hết. Mặt mợ và chú Tài đều sợ đến trắng bạch cả ra, và chú ôm lấy hai tai rồi la lớn là phải rời khỏi nhà ngay lập tức. Cả hai tông cửa chạy ra ngoài, chú Tài leo lên mở khoá và đạp cho chiếc Honda nổ máy. Nhưng không biết vì quá sợ hay vì lý do nào đó mà cái xe không chịu nổ. Gió thổi vi vu lạnh buốt, không biết chú Tài thấy gì hay vì lạnh mà tay chú run lẩy bẩy, miệng chú đánh bò cạp. Cuối cùng chú ấy bật lên được một câu:
- Tôi để cô ấy một mình! Hãy cho tôi đi!
Xe bổng nổ máy và chú ấy nhảy lên xe dọt mất! Mợ Ba sợ quá cắm đầu phóng ra đường và chạy một mạch về nhà ông bà ngoại tôi. Từ đó mợ Ba không bao giờ dám bước chân về căn nhà đó nữa. Ông bà ngoại tôi là người đứng ra bán căn nhà đó. Nghe nói người chủ sau có mời một vị Linh Mục tới làm phép trừ ma cho căn nhà và họ sống yên lành trong căn nhà đó. Sau ngày đó mợ thỉnh thoảng muốn nói chuyện với chú Tài khi họ gặp nhau trong sở làm, nhưng chú ấy luôn lẫn tránh. Sau cùng chú ấy xin nghỉ và đi làm ở chổ khác để tránh việc chạm mặt mợ Ba.
Cuối cùng mợ tái giá và theo chồng về Nha Trang. Tôi cũng thỉnh thoảng đến thăm mợ vì ở cùng một thành phố! Một hôm mợ có cho tôi coi một bức thư của chú Tài trong đó chú nói là xin lỗi mợ vì đã bỏ rơi mợ lại đêm đó và đã làm ngơ không chuyện trò với mợ từ đêm xảy ra sự cố. Chú ấy nói là lúc cánh cửa long ra rồi ghép lại, thì chú ấy nghe tiếng nói cùng khắp nhà vang lên. Chúng kêu lên là mợ là của chúng và nếu chú không rời mợ, thì chúng sẽ giết chú hay làm chú trở nên điên khùng. Cũng vì sợ mà chú đã làm những điều không nên làm đối với mợ. Mợ cũng đã viết thơ trả lời và thông cảm với những điều mà chú ấy đã đối xử với mợ.
Từ khi bỏ nhà đi và sau đó căn nhà được vị Linh Mục trừ quỷ thì mợ Ba, chú Tài, và tất cả những người trong gia đình không còn bị quấy rầy bởi cái hồn ma Pháp và mấy tên đầy tớ Thượng nữa. Có lẽ Bề Trên đã đem chúng về chổ chúng phải được ở sau khi chết. Chúng đã lẩn trốn và lang thang trên trần thế cả mấy chục năm rồi.
ST
#164
Gửi vào 01/07/2011 - 06:04
THỊ TRẤN CỦA CỖ QUAN TÀI BÍ ẨN
Châu thổ sông Hồng là một trong những khu vực có mật độ dân số cao nhất thế giới: hàng trăm nhân khẩu trên mỗi dặm vuông, làng san sát làng, thị trấn nối tiếp thị trấn, mỗi mẫu đất hiện hữu (và không hiện hữu) đều được cấy cầy.
Lý do đó càng khiến Nội Yên là một chốn dị kỳ. Nằm ngay trung tâm châu thổ sông Hồng, cách Hà Nội đúng 50 dặm, phố huyện này gần như hoàn toàn bị bỏ hoang. Tôi đi qua Nội Yên một lần hình như vào tháng chín hay tháng mười năm 1998, và không bao giờ còn muốn trở lại.
Rời thị trấn đông đúc, phát đạt Hùng Chấn, vượt qua một con sông hẹp hôi thối, tôi kinh ngạc khi lần đầu tiên giáp mặt với sự vắng vẻ, hoang phế của đường phố Nội Yên. Toàn bộ những ngôi nhà và cửa hiệu đều đóng cửa.
Phần lớn có vẻ đã bị phá phách và hoang tàn, không người ở, một hiện tượng chưa từng nghe đến ở Việt Nam, nơi thậm chí những lô cốt xây từ thời Pháp cách đây hơn nửa thế kỷ cũng biến thành chỗ trú ngụ. Dấu hiệu duy nhất của sự sống ở Nội Yên là khoảng một tá ăn mày và người bán hàng rong, hầu như chẳng bán gì cả, tụm lại trong bóng râm trước nhà bưu điện không bao giờ mở cửa.
Trong số họ, một đứa bé khoảng mười tuổi, cố gắng đuổi theo sau xe chúng tôi, tay vẫy vẫy một nắm vé số. Chúng tôi bỏ cô gái nhỏ lại phía sau trong đám bụi mù.
Qua khỏi phố chính, tôi càng kinh ngạc hơn vì vẻ hoang phế của những cánh đồng. Suốt hàng dặm đường, không hề xuất hiện một bóng trâu bò, gà chó, hay chim chóc. Những cánh đồng bỏ hoang cho cỏ và hoa dại, cách vài thước lại có một hố đất đào xới cẩu thả. Có cả hàng trăm hố đất như vậy.
- Chỗ này trước kia là bãi chiến trường à?
Tôi hỏi tay tài xế, rồi nhận ra đó là một câu hỏi đần độn, vì thật ra tôi chưa bao giờ thấy một bãi chiến trường trong đời.
- Không.
Tay tài xế trả lời khô khốc, nhấn ga cho xe vọt nhanh. Thấy tôi có vẻ hơi bực, hắn nhanh chóng nói thêm:
- Tôi sẽ nói anh nghe về Nội Yên khi chúng ta tới thị trấn kế tiếp.
Tối đó, trong bữa ăn và sau khoảng hơn một tá chai bia Hà Nội, hắn giải thích:
- Nội Yên bị bỏ hoang cả chục năm nay. Không ai sống ở cái thị trấn đã bị yểm đó. Có nhiều giải thích, nhưng giải thích thuyết phục nhất, và vì thế có tính sự thật cao nhất, là câu chuyện về một cỗ quan tài rỗng.
- Quan tài rỗng?
- Vâng. Khoảng mười lăm năm trước, một vụ xung đột xảy ra giữa Nội Yên và Hùng Chấn, và người Hùng Chấn đã yểm đất Nội Yên, vì vậy mà ngày nay không có ai sống ở đấy.
- Xung đột vì chuyện gì?
- Tôi cũng không rõ, hình như một gã trai Nội Yên hay ai đã làm nhục một ai đấy, hay người ta thiếu tiền nhau và không chịu trả, mà cũng có thể vì Nội Yên đã thắng Hùng Chấn trong một trận bóng bằng cách hối lộ trọng tài.
Sự lờ mờ của nguyên nhân vụ xung đột khiến tôi khá bực mình, nhưng tự nhủ cũng chẳng quan trọng gì. Có quá nhiều lý do, tất cả đều giá trị, dĩ nhiên, khiến con người đi đến những quyết định trả thù nhau.
Gã tài xế nói tiếp:
- Khi vụ xung đột giữa hai làng bắt đầu, xảy ra hàng loạt những cái chết kỳ lạ ở Nội Yên. Người ta cứ lăn đùng ra chết trong khi đang làm việc hàng ngày. Như tôi đang ngồi trong quán với anh đây, không duyên cớ gì, cứ thế lăn ra đất chết không kịp ngáp.
- Có bao nhiêu cái chết kỳ lạ như thế?
- Hàng trăm!
Tôi nheo mắt nghi ngờ. Cùng lắm là bốn năm trường hợp đau tim, động kinh, hay ngộ độc. Sao người mình thích phóng đại lắm thế.
Nói về chuyện ngộ độc thực phẩm, tôi nhớ lại tối hôm đó đồ ăn cũng thật đáng sợ. Chúng tôi gọi mì, tô mì hải sản, còn gã tài xế mì gà. Cô phục vụ mỉm cười vui vẻ, vào bếp, vài phút sau trở ra với hai tô mì giống hệt nhau lõng bõng mấy miếng thịt lợn thiu thái mỏng.
Đó là chuyện thường gặp khi du lịch đến những thành phố khỉ ho cò gáy: hoặc bạn sẽ ngạc nhiên với những đặc sản địa phương giá rẻ như cho, hoặc bạn phải trả một giá cắt cổ cho những món rác rưởi.
Gã tài xế nốc cạn ly bia, bọt dính đầy hai bên mép, nói tiếp:
- Vâng, hàng trăm người chết mỗi tháng, mỗi ngày có đến hàng chục đám tang, chẳng ai chứng minh được là người ta chết vì Hùng Chấn đã bị yểm. Nhưng cũng chẳng có giải thích nào hợp lý hơn. Trước vụ xung đột, chẳng ai chết cả.
Gã tài xế tạm dừng để tìm một chai bia khác trong thùng nước đá, có lẽ là chai thứ tám hay thứ chín :
- Người Nội Yên biết là có một vụ yểm ở đây, nhưng không biết rõ yểm như thế nào, nên không tìm cách giải được. Nhưng rồi có lè vì lòng thương hại, có người ở Hùng Chấn cuối cùng mách là, người ta đã chôn một cỗ quan tài rỗng ở Nội Yên.
Vì thế mà nhiều người chết. Cỗ quan tài cần một cái xác, và chừng nào chưa có một xác chết thật cho nó, người Nội Yên cứ tiếp tục lăn ra chết.
- Thì ra có nhiều hố đất bên đường là vậy?
- Vâng, vâng. Người Nội Yên biết là có một cỗ quan tài rỗng trong vùng, nhưng không biết đích xác chỗ nào, nên họ cứ phải đào xới tung lên.
Câu chuyện của hắn cũng có lý, tôi nghĩ. Ai cũng biết để bán được hàng những khi ế ẩm, chủ nhà hòm thường chui vào ngủ bên trong một cỗ quan tài, như thể đề nghị một cái chết đến quỷ thần. Điều rõ ràng là một cỗ quan tài khi ở trên mặt đất chỉ là một cỗ quan tài, nhưng khi được chôn xuống nó cần một xác chết bên trong.
- Thế họ chẳng bao giờ tìm được cỗ quan tài à?
- Tất nhiên là không. Thế nên họ mới phải bỏ thị trấn ra đi. Bí quá, người ta thậm chí đã mời một ông sư tận Hà Nội về tìm cỗ quan tài, nhưng cũng không ăn thua. Ông sư tuyên bố cỗ quan tài lẩn tránh ông ta.
- Anh nói lẩn tránh là sao?
- Cỗ quan tài di chuyển dưới đất để tránh bị phát hiện!
- Thế mà tôi cứ tưởng cỗ quan tài mong được phát hiện, để người ta cho nó một cái xác.
Gã tài xế im lặng vài giây. Có lẽ sau cùng tôi đã bắt bí được hắn, tôi nghĩ. Nhưng rồi gã tài xế nói tiếp :
- Vâng, một cỗ quan tài giống cái, đóng bằng gỗ rẻ tiền tại nhà, một cách bí mật và vội vã, đã được chôn xuống đất, khao khát cơ thể lạnh lẽo của bất cứ đàn ông, đàn bà hay con trẻ nào, nhưng lại từ chối lời tụng kinh được trả tiền của một thầy tu giả hiệu.
- Nhưng có thể cũng chẳng có cỗ quan tài rỗng nào dưới đất cả?
- Tất nhiên phải có. Đấy là nguyên nhân khiến người ta chết.
- Nhưng không phải ai cũng bỏ đi. Tôi đã thấy cả chục người gần chỗ nhà bưu điện sáng nay. Sao những người này vẫn không chết?
Gã tài xế nhìn tôi với đôi mắt ngầu đỏ những tia máu. Lúc này hắn đã hoàn toàn say khướt và sẽ đâm xe vào bất cứ chiếc ô tô tải hay gốc cây đầu tiên nào ngay khi chúng tôi lên đường. Tôi đã biết hắn là một tay nát rượu trước khi thuê hắn, nhưng chiếc xe của hắn như một đống sắt vụn, không thể kiếm đâu rẻ hơn được. Có vẻ như chúng tôi sẽ phải chen nhau một chỗ nằm trong cỗ quan tài rỗng tối nay.
- Nghe này, tôi không hề thấy một bóng người nào ở Nội Yên sáng nay. Thậm chí chó cũng sợ phải sống trên mảnh đất bị yểm đó. Những người đã bỏ đi thậm chí không dám quay lại quá nửa ngày để chăm sóc mồ mả thân nhân. Nếu anh thấy cả chục người hôm nay thì đích thị họ là ma. Mà anh thấy họ đang làm gì?
- Xin ăn và bán hàng rong.
- Thế là rõ. Họ phải là ma, bởi vì chẳng ai điên đến nỗi lại đi ăn mày hay bán hàng rong trong một thị trấn không người.
Phan Nhiên Hạo
Châu thổ sông Hồng là một trong những khu vực có mật độ dân số cao nhất thế giới: hàng trăm nhân khẩu trên mỗi dặm vuông, làng san sát làng, thị trấn nối tiếp thị trấn, mỗi mẫu đất hiện hữu (và không hiện hữu) đều được cấy cầy.
Lý do đó càng khiến Nội Yên là một chốn dị kỳ. Nằm ngay trung tâm châu thổ sông Hồng, cách Hà Nội đúng 50 dặm, phố huyện này gần như hoàn toàn bị bỏ hoang. Tôi đi qua Nội Yên một lần hình như vào tháng chín hay tháng mười năm 1998, và không bao giờ còn muốn trở lại.
Rời thị trấn đông đúc, phát đạt Hùng Chấn, vượt qua một con sông hẹp hôi thối, tôi kinh ngạc khi lần đầu tiên giáp mặt với sự vắng vẻ, hoang phế của đường phố Nội Yên. Toàn bộ những ngôi nhà và cửa hiệu đều đóng cửa.
Phần lớn có vẻ đã bị phá phách và hoang tàn, không người ở, một hiện tượng chưa từng nghe đến ở Việt Nam, nơi thậm chí những lô cốt xây từ thời Pháp cách đây hơn nửa thế kỷ cũng biến thành chỗ trú ngụ. Dấu hiệu duy nhất của sự sống ở Nội Yên là khoảng một tá ăn mày và người bán hàng rong, hầu như chẳng bán gì cả, tụm lại trong bóng râm trước nhà bưu điện không bao giờ mở cửa.
Trong số họ, một đứa bé khoảng mười tuổi, cố gắng đuổi theo sau xe chúng tôi, tay vẫy vẫy một nắm vé số. Chúng tôi bỏ cô gái nhỏ lại phía sau trong đám bụi mù.
Qua khỏi phố chính, tôi càng kinh ngạc hơn vì vẻ hoang phế của những cánh đồng. Suốt hàng dặm đường, không hề xuất hiện một bóng trâu bò, gà chó, hay chim chóc. Những cánh đồng bỏ hoang cho cỏ và hoa dại, cách vài thước lại có một hố đất đào xới cẩu thả. Có cả hàng trăm hố đất như vậy.
- Chỗ này trước kia là bãi chiến trường à?
Tôi hỏi tay tài xế, rồi nhận ra đó là một câu hỏi đần độn, vì thật ra tôi chưa bao giờ thấy một bãi chiến trường trong đời.
- Không.
Tay tài xế trả lời khô khốc, nhấn ga cho xe vọt nhanh. Thấy tôi có vẻ hơi bực, hắn nhanh chóng nói thêm:
- Tôi sẽ nói anh nghe về Nội Yên khi chúng ta tới thị trấn kế tiếp.
Tối đó, trong bữa ăn và sau khoảng hơn một tá chai bia Hà Nội, hắn giải thích:
- Nội Yên bị bỏ hoang cả chục năm nay. Không ai sống ở cái thị trấn đã bị yểm đó. Có nhiều giải thích, nhưng giải thích thuyết phục nhất, và vì thế có tính sự thật cao nhất, là câu chuyện về một cỗ quan tài rỗng.
- Quan tài rỗng?
- Vâng. Khoảng mười lăm năm trước, một vụ xung đột xảy ra giữa Nội Yên và Hùng Chấn, và người Hùng Chấn đã yểm đất Nội Yên, vì vậy mà ngày nay không có ai sống ở đấy.
- Xung đột vì chuyện gì?
- Tôi cũng không rõ, hình như một gã trai Nội Yên hay ai đã làm nhục một ai đấy, hay người ta thiếu tiền nhau và không chịu trả, mà cũng có thể vì Nội Yên đã thắng Hùng Chấn trong một trận bóng bằng cách hối lộ trọng tài.
Sự lờ mờ của nguyên nhân vụ xung đột khiến tôi khá bực mình, nhưng tự nhủ cũng chẳng quan trọng gì. Có quá nhiều lý do, tất cả đều giá trị, dĩ nhiên, khiến con người đi đến những quyết định trả thù nhau.
Gã tài xế nói tiếp:
- Khi vụ xung đột giữa hai làng bắt đầu, xảy ra hàng loạt những cái chết kỳ lạ ở Nội Yên. Người ta cứ lăn đùng ra chết trong khi đang làm việc hàng ngày. Như tôi đang ngồi trong quán với anh đây, không duyên cớ gì, cứ thế lăn ra đất chết không kịp ngáp.
- Có bao nhiêu cái chết kỳ lạ như thế?
- Hàng trăm!
Tôi nheo mắt nghi ngờ. Cùng lắm là bốn năm trường hợp đau tim, động kinh, hay ngộ độc. Sao người mình thích phóng đại lắm thế.
Nói về chuyện ngộ độc thực phẩm, tôi nhớ lại tối hôm đó đồ ăn cũng thật đáng sợ. Chúng tôi gọi mì, tô mì hải sản, còn gã tài xế mì gà. Cô phục vụ mỉm cười vui vẻ, vào bếp, vài phút sau trở ra với hai tô mì giống hệt nhau lõng bõng mấy miếng thịt lợn thiu thái mỏng.
Đó là chuyện thường gặp khi du lịch đến những thành phố khỉ ho cò gáy: hoặc bạn sẽ ngạc nhiên với những đặc sản địa phương giá rẻ như cho, hoặc bạn phải trả một giá cắt cổ cho những món rác rưởi.
Gã tài xế nốc cạn ly bia, bọt dính đầy hai bên mép, nói tiếp:
- Vâng, hàng trăm người chết mỗi tháng, mỗi ngày có đến hàng chục đám tang, chẳng ai chứng minh được là người ta chết vì Hùng Chấn đã bị yểm. Nhưng cũng chẳng có giải thích nào hợp lý hơn. Trước vụ xung đột, chẳng ai chết cả.
Gã tài xế tạm dừng để tìm một chai bia khác trong thùng nước đá, có lẽ là chai thứ tám hay thứ chín :
- Người Nội Yên biết là có một vụ yểm ở đây, nhưng không biết rõ yểm như thế nào, nên không tìm cách giải được. Nhưng rồi có lè vì lòng thương hại, có người ở Hùng Chấn cuối cùng mách là, người ta đã chôn một cỗ quan tài rỗng ở Nội Yên.
Vì thế mà nhiều người chết. Cỗ quan tài cần một cái xác, và chừng nào chưa có một xác chết thật cho nó, người Nội Yên cứ tiếp tục lăn ra chết.
- Thì ra có nhiều hố đất bên đường là vậy?
- Vâng, vâng. Người Nội Yên biết là có một cỗ quan tài rỗng trong vùng, nhưng không biết đích xác chỗ nào, nên họ cứ phải đào xới tung lên.
Câu chuyện của hắn cũng có lý, tôi nghĩ. Ai cũng biết để bán được hàng những khi ế ẩm, chủ nhà hòm thường chui vào ngủ bên trong một cỗ quan tài, như thể đề nghị một cái chết đến quỷ thần. Điều rõ ràng là một cỗ quan tài khi ở trên mặt đất chỉ là một cỗ quan tài, nhưng khi được chôn xuống nó cần một xác chết bên trong.
- Thế họ chẳng bao giờ tìm được cỗ quan tài à?
- Tất nhiên là không. Thế nên họ mới phải bỏ thị trấn ra đi. Bí quá, người ta thậm chí đã mời một ông sư tận Hà Nội về tìm cỗ quan tài, nhưng cũng không ăn thua. Ông sư tuyên bố cỗ quan tài lẩn tránh ông ta.
- Anh nói lẩn tránh là sao?
- Cỗ quan tài di chuyển dưới đất để tránh bị phát hiện!
- Thế mà tôi cứ tưởng cỗ quan tài mong được phát hiện, để người ta cho nó một cái xác.
Gã tài xế im lặng vài giây. Có lẽ sau cùng tôi đã bắt bí được hắn, tôi nghĩ. Nhưng rồi gã tài xế nói tiếp :
- Vâng, một cỗ quan tài giống cái, đóng bằng gỗ rẻ tiền tại nhà, một cách bí mật và vội vã, đã được chôn xuống đất, khao khát cơ thể lạnh lẽo của bất cứ đàn ông, đàn bà hay con trẻ nào, nhưng lại từ chối lời tụng kinh được trả tiền của một thầy tu giả hiệu.
- Nhưng có thể cũng chẳng có cỗ quan tài rỗng nào dưới đất cả?
- Tất nhiên phải có. Đấy là nguyên nhân khiến người ta chết.
- Nhưng không phải ai cũng bỏ đi. Tôi đã thấy cả chục người gần chỗ nhà bưu điện sáng nay. Sao những người này vẫn không chết?
Gã tài xế nhìn tôi với đôi mắt ngầu đỏ những tia máu. Lúc này hắn đã hoàn toàn say khướt và sẽ đâm xe vào bất cứ chiếc ô tô tải hay gốc cây đầu tiên nào ngay khi chúng tôi lên đường. Tôi đã biết hắn là một tay nát rượu trước khi thuê hắn, nhưng chiếc xe của hắn như một đống sắt vụn, không thể kiếm đâu rẻ hơn được. Có vẻ như chúng tôi sẽ phải chen nhau một chỗ nằm trong cỗ quan tài rỗng tối nay.
- Nghe này, tôi không hề thấy một bóng người nào ở Nội Yên sáng nay. Thậm chí chó cũng sợ phải sống trên mảnh đất bị yểm đó. Những người đã bỏ đi thậm chí không dám quay lại quá nửa ngày để chăm sóc mồ mả thân nhân. Nếu anh thấy cả chục người hôm nay thì đích thị họ là ma. Mà anh thấy họ đang làm gì?
- Xin ăn và bán hàng rong.
- Thế là rõ. Họ phải là ma, bởi vì chẳng ai điên đến nỗi lại đi ăn mày hay bán hàng rong trong một thị trấn không người.
Phan Nhiên Hạo
#165
Gửi vào 01/07/2011 - 06:09
CHÀI
Sau năm 73 khi lính Mỹ rút khỏi Việt Nam thì các căn cứ biên phòng dọc biên giới Việt Lào và Miên Việt được giao lại cho quân đội VNCH trấn đóng. Và Biệt Động Quân là lực lượng được giao phó cho trách nhiệm này. Tiểu đoàn 21 BDQ của tôi trấn giữ một đồn biên phòng sát vùng Tam Biên Việt Miên Lào, gần Buôn Đông tỉnh Đarlac. Buôn Đông là một nơi bị cô lập với thế giới bên ngoài, Chỉ có một con đường đất đỏ nối với Ban Mê Thuột, nhưng đã bị CS phá nát và gài mìn bẫy. Binh lính CS lại thường phục kích trên con đường này nên mọi phương tiện ra vào, tiếp tế.... đều được thực hiện bằng phi cơ trực thăng.
Nhưng vì viện trợ Mỹ đã bị cắt xén thê thảm cho nên việc tiếp tế chỉ thu hẹp lại một tháng một lần mà thôi. Ngay cả việc tiếp tế lương thực, thuốc men, đạn dược, tải thương, phát lương, đi phép v.v. cho đồn chúng tôi cũng chỉ có một lần cho mỗi tháng. Vùng này rừng núi âm u, chung quanh chỉ thấy mây mù và cây cối trùng trùng điệp điệp. Ngày ngày chỉ nghe tiếng vượn hú quanh đồn. Tiếng chim "bắt cô trói cột" kêu buồn thảm trong các buổi chiều u ám.
Cách đó mấy cây số có một làng người Thái, họ đã được ông Diệm đưa lên đây lập nghiệp sau khi họ di cư vào Nam năm 54. Cũng có vài buôn làng của các dân tộc khác như Ra Đê, Mơ Nông, Lào...Nhưng họ Ở xa đồn hơn mà chúng tôi không có dịp đặt chân tới. Nhiệm vụ của chúng tôi là ngăn chận đường xâm nhập của quân chính qui CS từ bên kia biên giới sang. Vì thế Tiểu Đoàn Trưởng của chúng tôi thường phái các toán quân nhỏ đi hành quân tảo thanh, đi tiền đồn với một công hai chuyện: Bảo vệ cho đồn biên phòng và phát hiện quân CS, rồi báo cáo về xin phi cơ dội bom các nơi đóng quân của địch.
Tôi là trung đội trưởng của một trung đội thuộc đại đội 3, nên cũng thường được phái dẫn trung đội đi thi hành các nhiệm vụ này. Tôi thường tránh cho binh lính đi vào các bản làng. Một là tránh bị phát hiện, hai là đề phòng việc các phần tử xấu gây thiệt hại cho dân chúng. Ta thường nghe nói: "Bạc như dân, bất nhân như lính" Nên đề phòng thì vẫn tốt hơn. Trong một cuộc hành quân an ninh vòng đai như thường lệ, tôi dẫn trung đội băng rừng về hướng Tây của đồn cố giữ bí mật với hy vọng sẽ phát hiện được dấu vết của bọn CS để lại khi chuyển quân. Nhưng gần cả ngày vất vả chúng tôi không tìm được gì. Quá trưa tôi ra lệnh rút về đồn, khoảng hai tiếng sau chúng tôi băng qua khu rừng gần làng Thái.
Tôi ra lệnh bố trí nghỉ mệt, hầu như mọi người đều đã uống cạn bi đông nước của mình. Hai người lính xin tôi vào làng xin mấy nón sắt nước cho mọi người cùng uống. Tôi ngại lắm nhưng rồi cũng phải bằng lòng vì đồn vẫn còn cả năm cây số nữa, và nước suối vùng này rất độc không thể uống bậy được. Khoảng hai mươi phút sau hai người lính trở ra với bốn nón sắt nước, mọi người chia nhau uống rồi tiếp tục lên đường về đồn. Thế nhưng chuyện lạ đã xảy ra. Một người lính của tôi đâm ra đau bụng thảm thiết. Mà anh này lại là một trong hai người đã đi xin nước bữa trước. Rồi bụng anh ta một ngày một lớn ra. Anh ta rên la thảm thiết, y tá cho uống thuốc giảm đau cũng chỉ tạm thời dịu bớt mà thôi.
Xui cho anh ta là lúc ấy chỉ là khoảng mười mấy tây thôi, chúng tôi phải đợi đến gần cuối tháng mới có chuyến trực thăng vào. Thời cuối cuộc chiến lúc đó rất khó mà xin được phương tiện cho nhu cầu mình muốn. Anh ta bỏ cả ăn uống, rên la kêu vợ kêu con thảm thiết lắm mà chúng tôi đành đứng nhìn thôi. Tôi không biết việc gì đã gây cho anh ta bịnh đó, hay là trong nước có độc. Nhưng các người khác không sao mà. Tôi muốn hỏi anh ta nhưng anh ta mê man, lên cơn sốt liên miên đâu có tỉnh táo đâu để mà hỏi. Tôi bèn kêu người lính cùng đi xin nước với anh ta lại hỏi cho ra đầu đuôi.
Anh lính trả lời:
- Tui thiệt tình không rỏ lắm. Tui vào một nhà ở đầu làng và xin nước, bà già chủ nhà đồng ý và tui ra giếng kéo nước đổ vào bốn cái nón sắt. Trong khi đó thằng Hải (tên người lính kia) nói là để nó đi vòng vòng xem có gì lạ không, và đồng thời bảo vệ an ninh cho tui trong khi lấy nước. Khi lấy nước xong tui kêu với nó. Nó chạy ra từ một căn nhà gần đó, miệng còn nhồm nhoàm nhai.
Trên đường ra nó nói với tui: Tao vào cái nhà đó lên tiếng gọi, không có ai ở nhà hết. Tao thấy ba trái bắp luộc để trong cái rổ trên bàn, đang đói bụng tao dớt hết trọi. Mà lạ một điều là nhà không có ai mà mỗi khi tao ăn một trái là tao nghe có tiếng đếm mày à. Cả thảy là ba cho ba trái bắp tao ăn đó. Tao cũng hơi teo teo nhưng đói quá tao làm hết trơn ba trái luôn. Êm cái bụng cho tới chiều rồi! Tui chửi nó là đồ tham ăn, không biết để dành cho tui một trái. Nó cười trừ hề hề. Không biết có phải là do nó ăn mấy trái bắp mà bị sình bụng hay trúng thực không nữa.
Mấy hôm sau có máy bay vào đồn tiếp tế, chúng tôi cho tải anh ta về Quân Y Viện để chửa trị. Ba ngày sau chúng tôi nhận được điện gọi vào từ hậu cứ cho biết là anh ta đã chết. Trong bệnh án ghi là chụp quang tuyến X thấy đương sự nuốt ba cây đinh mười phân vào trong bụng, bị nhiễm trùng rất nặng, đã lây lan qua gan, phổi. Quá trể nên bị chết vì nhiễm trùng. Đêm đó tôi qua chổ thằng bạn chơi, ngồi uống cà fê đen và kể chuyện đời với nhau. Tôi kể cho nó nghe về chuyện của người lính vừa chết. Người trung sĩ trung đội phó của nó cũng ngồi đó nghe chuyện, anh ta là một người thượng Ra Đê. Lính trên vùng cao nguyên này hơn một nữa là dân thiểu số rồi. Nghe tôi kể xong anh ta chậm rãi lên tiếng:
- Nó bị chài rồi. Mấy cái người Thái đó bùa ngãi dữ lắm. Nó đã bị ma xó đếm rồi. Không biết thì chỉ có nước chết thôi.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Cái gì là ma xó! Tôi chưa hề nghe qua loại ma này lần nào hết?
- Một số người Thái thờ ma xó trong nhà để giữ của. Ai vào lấy cái gì mà không được phép chủ nhà thì ma xó sẽ đếm. Cứ mỗi thứ thì nó đếm lên một, và tùy loại ma xó mà nó sẽ chài đinh hoặc đá, hay khúc gỗ vào bụng của kẻ ăn trộm đó!
- Thế là không có cách gì cứu à?
Tôi hỏi lại.
- Nếu biết sớm thì lại xin chủ nhà trả lại đồ, hay thường bồi thiệt hại thì may ra chủ nhà sẽ xin ma xó tha cho. Nếu mà tui biết anh ta ăn mấy trái bắp của người Thái, thì có lẽ tui đã đoán ra và kêu ông cho người tới nhà đó xin để cứu nó rồi. Để lâu quá thì ma xó cũng không cứu lại được người nó thư đâu. Vì cái bụng cái gan cũng bị sình thúi hết rồi. Tội nghiệp cho nó quá.
- Nói cho tôi biết ma xó là thứ ma gì mà người Thái lại thờ vậy? Dân tộc các anh có thờ nó không vậy?
- Khi gia đình người Thái nào muốn thờ ma xó thì khi gia đình họ có ai chết, họ chặt một khúc cây to, xong khoét bọng bên trong rồi nhét kẻ chết vào đó rồi bít kín lại.
Họ làm lễ tế phù phép gì đó rồi để khúc gỗ đó ở chổ kín trong góc nhà. Và kẻ chết trở thành ma xó coi nhà cho gia đình. Chỉ họ mới biết cách biến người chết thành ma xó mà thôi, đó là bí quyết của người dân tộc ở biên giới Việt Hoa. Còn các dân tộc ở Cao Nguyên này không biết được cái bùa phép này. Nhiều người Thái còn cho ma xó giữ nương rẫy của họ nữa kìa. Cho nên các dân tộc khác ở vùng này không ai dám lấy trộm cái gì trên rẫy của người Thái hết. Ông nên nói cho mấy người lính của ông biết để họ đừng có động đến các thứ gì của người Thái sau này.
Tôi bán tín bán nghi, không biết người trung sĩ thượng này có đúng không. Nhưng thường thì những người thượng chất phát này không nói dối. Để đề phòng sự việc có thể tái diễn, các lần đi hành quân sau này tôi luôn dẫn lính tránh xa các bản làng, không riêng gì một mình làng Thái. Biết đâu các dân tộc khác lại có thứ bùa ngãi khác của riêng dân tộc họ thì sao. "Cẩn tắc vô áy náy" mà, từ đó cho đến tháng 3-75 đơn vị tôi không thấy có trường hợp nào tương tự xảy ra nữa. Cho đến bây giờ tôi cũng không biết có đúng là người Thái có thờ ma xó thật không nữa, vì tôi chưa từng trực tiếp tiếp xúc với một người Thái trắng nào cả.
ST
Sau năm 73 khi lính Mỹ rút khỏi Việt Nam thì các căn cứ biên phòng dọc biên giới Việt Lào và Miên Việt được giao lại cho quân đội VNCH trấn đóng. Và Biệt Động Quân là lực lượng được giao phó cho trách nhiệm này. Tiểu đoàn 21 BDQ của tôi trấn giữ một đồn biên phòng sát vùng Tam Biên Việt Miên Lào, gần Buôn Đông tỉnh Đarlac. Buôn Đông là một nơi bị cô lập với thế giới bên ngoài, Chỉ có một con đường đất đỏ nối với Ban Mê Thuột, nhưng đã bị CS phá nát và gài mìn bẫy. Binh lính CS lại thường phục kích trên con đường này nên mọi phương tiện ra vào, tiếp tế.... đều được thực hiện bằng phi cơ trực thăng.
Nhưng vì viện trợ Mỹ đã bị cắt xén thê thảm cho nên việc tiếp tế chỉ thu hẹp lại một tháng một lần mà thôi. Ngay cả việc tiếp tế lương thực, thuốc men, đạn dược, tải thương, phát lương, đi phép v.v. cho đồn chúng tôi cũng chỉ có một lần cho mỗi tháng. Vùng này rừng núi âm u, chung quanh chỉ thấy mây mù và cây cối trùng trùng điệp điệp. Ngày ngày chỉ nghe tiếng vượn hú quanh đồn. Tiếng chim "bắt cô trói cột" kêu buồn thảm trong các buổi chiều u ám.
Cách đó mấy cây số có một làng người Thái, họ đã được ông Diệm đưa lên đây lập nghiệp sau khi họ di cư vào Nam năm 54. Cũng có vài buôn làng của các dân tộc khác như Ra Đê, Mơ Nông, Lào...Nhưng họ Ở xa đồn hơn mà chúng tôi không có dịp đặt chân tới. Nhiệm vụ của chúng tôi là ngăn chận đường xâm nhập của quân chính qui CS từ bên kia biên giới sang. Vì thế Tiểu Đoàn Trưởng của chúng tôi thường phái các toán quân nhỏ đi hành quân tảo thanh, đi tiền đồn với một công hai chuyện: Bảo vệ cho đồn biên phòng và phát hiện quân CS, rồi báo cáo về xin phi cơ dội bom các nơi đóng quân của địch.
Tôi là trung đội trưởng của một trung đội thuộc đại đội 3, nên cũng thường được phái dẫn trung đội đi thi hành các nhiệm vụ này. Tôi thường tránh cho binh lính đi vào các bản làng. Một là tránh bị phát hiện, hai là đề phòng việc các phần tử xấu gây thiệt hại cho dân chúng. Ta thường nghe nói: "Bạc như dân, bất nhân như lính" Nên đề phòng thì vẫn tốt hơn. Trong một cuộc hành quân an ninh vòng đai như thường lệ, tôi dẫn trung đội băng rừng về hướng Tây của đồn cố giữ bí mật với hy vọng sẽ phát hiện được dấu vết của bọn CS để lại khi chuyển quân. Nhưng gần cả ngày vất vả chúng tôi không tìm được gì. Quá trưa tôi ra lệnh rút về đồn, khoảng hai tiếng sau chúng tôi băng qua khu rừng gần làng Thái.
Tôi ra lệnh bố trí nghỉ mệt, hầu như mọi người đều đã uống cạn bi đông nước của mình. Hai người lính xin tôi vào làng xin mấy nón sắt nước cho mọi người cùng uống. Tôi ngại lắm nhưng rồi cũng phải bằng lòng vì đồn vẫn còn cả năm cây số nữa, và nước suối vùng này rất độc không thể uống bậy được. Khoảng hai mươi phút sau hai người lính trở ra với bốn nón sắt nước, mọi người chia nhau uống rồi tiếp tục lên đường về đồn. Thế nhưng chuyện lạ đã xảy ra. Một người lính của tôi đâm ra đau bụng thảm thiết. Mà anh này lại là một trong hai người đã đi xin nước bữa trước. Rồi bụng anh ta một ngày một lớn ra. Anh ta rên la thảm thiết, y tá cho uống thuốc giảm đau cũng chỉ tạm thời dịu bớt mà thôi.
Xui cho anh ta là lúc ấy chỉ là khoảng mười mấy tây thôi, chúng tôi phải đợi đến gần cuối tháng mới có chuyến trực thăng vào. Thời cuối cuộc chiến lúc đó rất khó mà xin được phương tiện cho nhu cầu mình muốn. Anh ta bỏ cả ăn uống, rên la kêu vợ kêu con thảm thiết lắm mà chúng tôi đành đứng nhìn thôi. Tôi không biết việc gì đã gây cho anh ta bịnh đó, hay là trong nước có độc. Nhưng các người khác không sao mà. Tôi muốn hỏi anh ta nhưng anh ta mê man, lên cơn sốt liên miên đâu có tỉnh táo đâu để mà hỏi. Tôi bèn kêu người lính cùng đi xin nước với anh ta lại hỏi cho ra đầu đuôi.
Anh lính trả lời:
- Tui thiệt tình không rỏ lắm. Tui vào một nhà ở đầu làng và xin nước, bà già chủ nhà đồng ý và tui ra giếng kéo nước đổ vào bốn cái nón sắt. Trong khi đó thằng Hải (tên người lính kia) nói là để nó đi vòng vòng xem có gì lạ không, và đồng thời bảo vệ an ninh cho tui trong khi lấy nước. Khi lấy nước xong tui kêu với nó. Nó chạy ra từ một căn nhà gần đó, miệng còn nhồm nhoàm nhai.
Trên đường ra nó nói với tui: Tao vào cái nhà đó lên tiếng gọi, không có ai ở nhà hết. Tao thấy ba trái bắp luộc để trong cái rổ trên bàn, đang đói bụng tao dớt hết trọi. Mà lạ một điều là nhà không có ai mà mỗi khi tao ăn một trái là tao nghe có tiếng đếm mày à. Cả thảy là ba cho ba trái bắp tao ăn đó. Tao cũng hơi teo teo nhưng đói quá tao làm hết trơn ba trái luôn. Êm cái bụng cho tới chiều rồi! Tui chửi nó là đồ tham ăn, không biết để dành cho tui một trái. Nó cười trừ hề hề. Không biết có phải là do nó ăn mấy trái bắp mà bị sình bụng hay trúng thực không nữa.
Mấy hôm sau có máy bay vào đồn tiếp tế, chúng tôi cho tải anh ta về Quân Y Viện để chửa trị. Ba ngày sau chúng tôi nhận được điện gọi vào từ hậu cứ cho biết là anh ta đã chết. Trong bệnh án ghi là chụp quang tuyến X thấy đương sự nuốt ba cây đinh mười phân vào trong bụng, bị nhiễm trùng rất nặng, đã lây lan qua gan, phổi. Quá trể nên bị chết vì nhiễm trùng. Đêm đó tôi qua chổ thằng bạn chơi, ngồi uống cà fê đen và kể chuyện đời với nhau. Tôi kể cho nó nghe về chuyện của người lính vừa chết. Người trung sĩ trung đội phó của nó cũng ngồi đó nghe chuyện, anh ta là một người thượng Ra Đê. Lính trên vùng cao nguyên này hơn một nữa là dân thiểu số rồi. Nghe tôi kể xong anh ta chậm rãi lên tiếng:
- Nó bị chài rồi. Mấy cái người Thái đó bùa ngãi dữ lắm. Nó đã bị ma xó đếm rồi. Không biết thì chỉ có nước chết thôi.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Cái gì là ma xó! Tôi chưa hề nghe qua loại ma này lần nào hết?
- Một số người Thái thờ ma xó trong nhà để giữ của. Ai vào lấy cái gì mà không được phép chủ nhà thì ma xó sẽ đếm. Cứ mỗi thứ thì nó đếm lên một, và tùy loại ma xó mà nó sẽ chài đinh hoặc đá, hay khúc gỗ vào bụng của kẻ ăn trộm đó!
- Thế là không có cách gì cứu à?
Tôi hỏi lại.
- Nếu biết sớm thì lại xin chủ nhà trả lại đồ, hay thường bồi thiệt hại thì may ra chủ nhà sẽ xin ma xó tha cho. Nếu mà tui biết anh ta ăn mấy trái bắp của người Thái, thì có lẽ tui đã đoán ra và kêu ông cho người tới nhà đó xin để cứu nó rồi. Để lâu quá thì ma xó cũng không cứu lại được người nó thư đâu. Vì cái bụng cái gan cũng bị sình thúi hết rồi. Tội nghiệp cho nó quá.
- Nói cho tôi biết ma xó là thứ ma gì mà người Thái lại thờ vậy? Dân tộc các anh có thờ nó không vậy?
- Khi gia đình người Thái nào muốn thờ ma xó thì khi gia đình họ có ai chết, họ chặt một khúc cây to, xong khoét bọng bên trong rồi nhét kẻ chết vào đó rồi bít kín lại.
Họ làm lễ tế phù phép gì đó rồi để khúc gỗ đó ở chổ kín trong góc nhà. Và kẻ chết trở thành ma xó coi nhà cho gia đình. Chỉ họ mới biết cách biến người chết thành ma xó mà thôi, đó là bí quyết của người dân tộc ở biên giới Việt Hoa. Còn các dân tộc ở Cao Nguyên này không biết được cái bùa phép này. Nhiều người Thái còn cho ma xó giữ nương rẫy của họ nữa kìa. Cho nên các dân tộc khác ở vùng này không ai dám lấy trộm cái gì trên rẫy của người Thái hết. Ông nên nói cho mấy người lính của ông biết để họ đừng có động đến các thứ gì của người Thái sau này.
Tôi bán tín bán nghi, không biết người trung sĩ thượng này có đúng không. Nhưng thường thì những người thượng chất phát này không nói dối. Để đề phòng sự việc có thể tái diễn, các lần đi hành quân sau này tôi luôn dẫn lính tránh xa các bản làng, không riêng gì một mình làng Thái. Biết đâu các dân tộc khác lại có thứ bùa ngãi khác của riêng dân tộc họ thì sao. "Cẩn tắc vô áy náy" mà, từ đó cho đến tháng 3-75 đơn vị tôi không thấy có trường hợp nào tương tự xảy ra nữa. Cho đến bây giờ tôi cũng không biết có đúng là người Thái có thờ ma xó thật không nữa, vì tôi chưa từng trực tiếp tiếp xúc với một người Thái trắng nào cả.
ST
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
||
Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Xem Tử Vi - huyền "Học" - vọc phương pháp |
Gặp Gỡ - Giao Lưu | Vung |
|
||
Suy nghĩ với hỗn hợp nhiều môn huyền học cho lá số VNXHCN |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Lưu Kim Tài chuyên đềLưu Kim Tài |
Tử Bình | Durobi |
|
||
Tặng trọn bộ sách huyền học cổ kim đồ thư tập thành |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | trongtri |
|
10 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 10 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |