1
Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#136
Gửi vào 26/06/2011 - 11:28
NGÔI NHÀ CÓ MA
Hai vợ chồng Albert và Ivy Cardwelll muốn dọn đến ở tại một chung cư mà họ thích tại Rotherham ở miền Nam Yorkshier Anh Quốc. Hôm đó nhằm tháng bảy năm 1986, hai người đã cảm thấy có sự dị thường nơi dãy phòng họ ở. Ban đêm, họ nghe tiếng cọt kẹt có vẻ dè dặt rồi như có tiếng chân đi và tiếng gõ cửa ở phòng ngoài, ngay nơi phòng ngủ chính.
Tiếng động ấy làm nhiều người nghe rõ nhưng bà Cardwell lại là người độc nhất thấy rõ một hình ảnh lạ lùng ghê sợ. Bà thấy một "con ma" xuất hiện trước mặt, đó là người đàn bà và bà ta biến mất ngay khi bà Cardwell có ý định chỉ cho chồng thấy cảnh tượng lạ lùng này. Không phải hình ảnh ma luôn luôn hiện ra mờ ảo mà trái lại đôi lúc giống như một người sống. Tại Dunstable, ở Bedfordshire Anh, có một ngôi nhà cổ mà dân quanh vùng không dám lại gần vì nhiều người đã thấy ở đó, hàng đêm xuất hiện một con ma đã già, mặc bộ đồ đen bạc màu thời đại Nữ Hoàng Victoria có nút đính khuy vàng nổi trên cổ áo.
Ðây không phải là một bóng ma mờ ảo mà trái lại hiển hiện như người thật. Năm 1966, vào mùa hè, con ma xưa cổ này lại xuất hiện một lần nữa ngay ở khung cửa lớn của ngôi nhà nhìn xuống đồi. Một nhóm nghiên cứu về các hiện tượng ma quái đã đột nhập ngôi nhà cổ để quan sát và đã khẳng định rằng: hằng đêm khoảng bảy giờ đến tám giờ tối, con ma già xuất hiện thường nhất là ở ngay phòng ngủ.
Gương mặt mờ xám nhưng không có vẻ gì dễ sợ tuy nhiên những người có mặt cảm thấy rợn tóc gáy. Luôn luôn "con ma" đứng ngay giữa phòng, tóc màu xám tro rũ xuống trước trán. Vừa lúc đó, con chó Lassie chạy ngang, lúc bước qua trước mặt "con ma già" nó rên rỉ một tràng dài não ruột như bị một luồng điện chạy qua cơ thể nó. Qua nhiều cuộc điều tra tỉ mỉ, người ta biết được ngôi nhà này ngày xưa chủ nhân sống cô độc và sau này phát điên rồi chết, người chết ấy chính là con ma thường đêm xuất hiện ngay nơi phòng ngủ của ngôi nhà cũ hoang vắng này.
Tại một vùng hoang vắng ở California Hoa Kỳ, có một nhà gạch, ngôi nhà này được hai vợ chồng Frandes Little mua lại vào năm 1968. Chỉ sau vài tuần dọn đến ở, người chồng bỗng thấy một người đàn bà lầm lũi đi quanh nhà như muốn tìm kiếm một cái gì, khi nhìn kỹ gương mặt, người chồng bỗng kinh ngạc vì đó là người vợ trước của mình. Sau đó, bà Little người vợ sau, một hôm đang ở nhà một mình bỗng đêm ấy thấy có một người đàn bà cao mảnh khảnh tự nhiên không biết từ đâu lững thững đi ra từ sau căn phòng một cách yên lặng và tiến vào phòng ngủ. Tại đây, người đàn bà này có vẻ tần ngần do dự trong bước chân đi nhưng không quay mặt về phía bà Little.
Rồi bất thần người đàn bà ấy đi xăm xăm về phía phòng khách, ở vị trí này bà Little có thể quan sát rõ ràng toàn thể người đàn bà lạ này. Nhanh trí bà Little vội lấy cái máy ảnh nơi tủ gần chỗ bà đứng và bấm ngay một bức ảnh. Khi đèn lóa lên thì người đàn bà quay lại và sau đó biến mất. Bức ảnh được rửa ra và ông bà Little nhận ra đó là Alice Margaret Kolitisch, người đàn bà đã cùng ông Little xây dựng ngôi nhà nơi hoang vắng này, vì lúc đó họ muốn sống một cuộc sống ẩn dật hạnh phúc với nhau. Năm đó là năm 1920.
Một trường hợp khác đặc biệt xảy ra tại một ngôi nhà ở Stockton, nơi vùng ngoại ô của New Castle, New South Wales Úc Ðại Lợi, ngôi nhà vừa được hai người trẻ tuổi và một người cháu gái thuê ở. Chỉ mới hai tuần lễ mà họ đã trải qua nhiều thử thách bởi một năng lực siêu nhiên huyền bí phát sinh quanh nhà và ngay cả trong nhà, từ đầu năm 1970 khi họ dọn đến ở.
Trước tiên họ thấy tấm drap trải giường nhàu nát một cách lạ lùng sau mỗi lần họ căng trải cẩn thận, đồ chơi của đứa cháu gái thì di chuyển một cách tự nhiên mặc dù không có ai đụng tay vào, còn cửa lớn thì có tiếng gõ vang dậy một cách dữ dội, khẩn cấp. Ðiều kỳ lạ là đứa cháu gái nhỏ thường bị một bàn tay vô hình của ai đó nhấc bỗng lên khỏi chỗ nằm hay chỗ ngồi. Những người bạn của hai người trẻ tuổi này thường năng lui tới ngôi nhà này cũng đã chứng kiến nhiện tượng lạ lùng.
Có người đang ngồi bỗng nhiên có ai lắc đôi vai thật mạnh, có người cảm thấy như có đôi mắt nào đó đang chăm chú nhìn mình một cách quái đản. Micheal và Dianne Cooke, hai người trẻ tuổi thuê nhà đã nói như sau:
- Thường đêm chúng tôi thấy và nghe nhiều điều kỳ dị, ghê rợn nhất là gương mặt trắng bệch hiện ra nơi cửa sổ, với đôi mắt trắng dã và con ngươi màu xám tro, chúng tôi phải tính chuyện dọn đi khỏi ngôi nhà quái gỡ kinh khiếp này càng sớm càng tốt...
ST
Hai vợ chồng Albert và Ivy Cardwelll muốn dọn đến ở tại một chung cư mà họ thích tại Rotherham ở miền Nam Yorkshier Anh Quốc. Hôm đó nhằm tháng bảy năm 1986, hai người đã cảm thấy có sự dị thường nơi dãy phòng họ ở. Ban đêm, họ nghe tiếng cọt kẹt có vẻ dè dặt rồi như có tiếng chân đi và tiếng gõ cửa ở phòng ngoài, ngay nơi phòng ngủ chính.
Tiếng động ấy làm nhiều người nghe rõ nhưng bà Cardwell lại là người độc nhất thấy rõ một hình ảnh lạ lùng ghê sợ. Bà thấy một "con ma" xuất hiện trước mặt, đó là người đàn bà và bà ta biến mất ngay khi bà Cardwell có ý định chỉ cho chồng thấy cảnh tượng lạ lùng này. Không phải hình ảnh ma luôn luôn hiện ra mờ ảo mà trái lại đôi lúc giống như một người sống. Tại Dunstable, ở Bedfordshire Anh, có một ngôi nhà cổ mà dân quanh vùng không dám lại gần vì nhiều người đã thấy ở đó, hàng đêm xuất hiện một con ma đã già, mặc bộ đồ đen bạc màu thời đại Nữ Hoàng Victoria có nút đính khuy vàng nổi trên cổ áo.
Ðây không phải là một bóng ma mờ ảo mà trái lại hiển hiện như người thật. Năm 1966, vào mùa hè, con ma xưa cổ này lại xuất hiện một lần nữa ngay ở khung cửa lớn của ngôi nhà nhìn xuống đồi. Một nhóm nghiên cứu về các hiện tượng ma quái đã đột nhập ngôi nhà cổ để quan sát và đã khẳng định rằng: hằng đêm khoảng bảy giờ đến tám giờ tối, con ma già xuất hiện thường nhất là ở ngay phòng ngủ.
Gương mặt mờ xám nhưng không có vẻ gì dễ sợ tuy nhiên những người có mặt cảm thấy rợn tóc gáy. Luôn luôn "con ma" đứng ngay giữa phòng, tóc màu xám tro rũ xuống trước trán. Vừa lúc đó, con chó Lassie chạy ngang, lúc bước qua trước mặt "con ma già" nó rên rỉ một tràng dài não ruột như bị một luồng điện chạy qua cơ thể nó. Qua nhiều cuộc điều tra tỉ mỉ, người ta biết được ngôi nhà này ngày xưa chủ nhân sống cô độc và sau này phát điên rồi chết, người chết ấy chính là con ma thường đêm xuất hiện ngay nơi phòng ngủ của ngôi nhà cũ hoang vắng này.
Tại một vùng hoang vắng ở California Hoa Kỳ, có một nhà gạch, ngôi nhà này được hai vợ chồng Frandes Little mua lại vào năm 1968. Chỉ sau vài tuần dọn đến ở, người chồng bỗng thấy một người đàn bà lầm lũi đi quanh nhà như muốn tìm kiếm một cái gì, khi nhìn kỹ gương mặt, người chồng bỗng kinh ngạc vì đó là người vợ trước của mình. Sau đó, bà Little người vợ sau, một hôm đang ở nhà một mình bỗng đêm ấy thấy có một người đàn bà cao mảnh khảnh tự nhiên không biết từ đâu lững thững đi ra từ sau căn phòng một cách yên lặng và tiến vào phòng ngủ. Tại đây, người đàn bà này có vẻ tần ngần do dự trong bước chân đi nhưng không quay mặt về phía bà Little.
Rồi bất thần người đàn bà ấy đi xăm xăm về phía phòng khách, ở vị trí này bà Little có thể quan sát rõ ràng toàn thể người đàn bà lạ này. Nhanh trí bà Little vội lấy cái máy ảnh nơi tủ gần chỗ bà đứng và bấm ngay một bức ảnh. Khi đèn lóa lên thì người đàn bà quay lại và sau đó biến mất. Bức ảnh được rửa ra và ông bà Little nhận ra đó là Alice Margaret Kolitisch, người đàn bà đã cùng ông Little xây dựng ngôi nhà nơi hoang vắng này, vì lúc đó họ muốn sống một cuộc sống ẩn dật hạnh phúc với nhau. Năm đó là năm 1920.
Một trường hợp khác đặc biệt xảy ra tại một ngôi nhà ở Stockton, nơi vùng ngoại ô của New Castle, New South Wales Úc Ðại Lợi, ngôi nhà vừa được hai người trẻ tuổi và một người cháu gái thuê ở. Chỉ mới hai tuần lễ mà họ đã trải qua nhiều thử thách bởi một năng lực siêu nhiên huyền bí phát sinh quanh nhà và ngay cả trong nhà, từ đầu năm 1970 khi họ dọn đến ở.
Trước tiên họ thấy tấm drap trải giường nhàu nát một cách lạ lùng sau mỗi lần họ căng trải cẩn thận, đồ chơi của đứa cháu gái thì di chuyển một cách tự nhiên mặc dù không có ai đụng tay vào, còn cửa lớn thì có tiếng gõ vang dậy một cách dữ dội, khẩn cấp. Ðiều kỳ lạ là đứa cháu gái nhỏ thường bị một bàn tay vô hình của ai đó nhấc bỗng lên khỏi chỗ nằm hay chỗ ngồi. Những người bạn của hai người trẻ tuổi này thường năng lui tới ngôi nhà này cũng đã chứng kiến nhiện tượng lạ lùng.
Có người đang ngồi bỗng nhiên có ai lắc đôi vai thật mạnh, có người cảm thấy như có đôi mắt nào đó đang chăm chú nhìn mình một cách quái đản. Micheal và Dianne Cooke, hai người trẻ tuổi thuê nhà đã nói như sau:
- Thường đêm chúng tôi thấy và nghe nhiều điều kỳ dị, ghê rợn nhất là gương mặt trắng bệch hiện ra nơi cửa sổ, với đôi mắt trắng dã và con ngươi màu xám tro, chúng tôi phải tính chuyện dọn đi khỏi ngôi nhà quái gỡ kinh khiếp này càng sớm càng tốt...
ST
#137
Gửi vào 26/06/2011 - 13:51
THIÊN HẬU THÁNH MẪU
Theo Đại Thanh nhất thống chí, Thiên Hậu Thánh Mẫu tên thật là Lâm Tức Mặc (CN 960-987), con gái thứ sáu của Lâm Nguyện, người quê ở eo My Châu, huyện Bồ Điền, phủ Hưng Hóa, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Bà sinh vào ngày 23 tháng 3 âm lịch, vào thời Tống Kiến Long nguyên niên (CN960). Tương truyền Lâm Tức Mặc khi sinh ra có hương thơm ngào ngạt, có những vòng ánh sáng lạ xuất hiện chung quanh; Khi lớn lên Bà rất thông minh, hoạt bát gan dạ, hiền lành và có khả năng tiên đoán được sự đổi thay của khí hậu, thời tiết.
Bà rất thích đi ngao du tứ hải nên người ta thường gọi Bà là “Long Nữ”, Bà còn có biệt tài về chữa bệnh, khử tà, bơi lặn, do đó được người dân vùng biển rất thương yêu, kính phục. Từ tuổi hoa niên bà đã phát hiện ra một thứ rong biển dùng nấu thạch làm thức ăn cứu đói cho dân, và còn tìm ra một thứ dầu ăn gọi là ma mộc rút từ cây thuộc họ vừng giúp dân nghèo qua những trận đói kéo dài...
Theo truyền thuyết dân gian, vào một ngày nọ, cha Bà cùng hai anh trai đi thuyền chở muối đến Giang Tây, giữa đường gặp bão lớn. Lúc đó Bà đang ngồi dệt vải cạnh mẹ, nhưng xuất thần để đi cứu cha và hai anh; Bà dùng răng cắn vạt áo của cha, hai tay nắm hai anh, giữa lúc ấy mẹ gọi, buộc Bà phải lên tiếng trả lời, Bà vừa hở môi để trả lời thì sóng đã cuốn cha mất dạng, chỉ cứu được hai anh, và cũng theo truyền thuyết này, mỗi khi tàu bè trên biển bị nạn, người ta thường khấn vái, nhờ đến sự che chở của Bà.
Đến đời Tống Ung Hy tứ niên (CN987) ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch bà không bệnh tật, tự nhiên qua đời. Lúc đó Bà mới hai mươi lăm tuổi. Theo thánh phả bà hóa vào một ngày có quần tiên tấu nhạc. Bốn chữ "Bạch nhật phi thăng" khắc ở cỗ kiệu trong đền của bà nói lên điều đó. Khi hiển Thánh Bà thường mặc áo đỏ cưỡi thảm bay lượn trên biển để cứu dân gặp nạn
Đời Nguyên Bà được phong làm Thiên Phi, sau đến đời Thanh, vua Khang Hy gia phong cho Bà là Thiên Hậu và danh hiệu này còn được lưu truyền đến ngày nay. Người dân Trung Hoa tôn bà là Thần Biển nên di cư đến đâu mang thần tích, lập đền thờ đến đó. Cho nên ta không lấy làm lạ, dọc theo bờ biển nước ta có nhiều nơi lập đền thờ Thiên Hậu.
So sánh với những điều được ghi tại các bia đá ở một số Hội Quán, một số truyền thuyết về Bà Thiên Hậu có nhiều khác biệt, nhưng tựu trung mọi nơi đều ca ngợi, suy tôn Bà là một phụ nữ đức hạnh, có lòng hiếu thảo, xã thân cứu người và khi chết được hiển linh. Bà con người Hoa muốn thông qua tấm gương của Bà để giáo dục cộng đồng học tập tấm gương hiếu thuận, đức nhân hậu, sống có đạo nghĩa, giúp đỡ mọi người.
Quách Tấn Cang
Theo Đại Thanh nhất thống chí, Thiên Hậu Thánh Mẫu tên thật là Lâm Tức Mặc (CN 960-987), con gái thứ sáu của Lâm Nguyện, người quê ở eo My Châu, huyện Bồ Điền, phủ Hưng Hóa, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Bà sinh vào ngày 23 tháng 3 âm lịch, vào thời Tống Kiến Long nguyên niên (CN960). Tương truyền Lâm Tức Mặc khi sinh ra có hương thơm ngào ngạt, có những vòng ánh sáng lạ xuất hiện chung quanh; Khi lớn lên Bà rất thông minh, hoạt bát gan dạ, hiền lành và có khả năng tiên đoán được sự đổi thay của khí hậu, thời tiết.
Bà rất thích đi ngao du tứ hải nên người ta thường gọi Bà là “Long Nữ”, Bà còn có biệt tài về chữa bệnh, khử tà, bơi lặn, do đó được người dân vùng biển rất thương yêu, kính phục. Từ tuổi hoa niên bà đã phát hiện ra một thứ rong biển dùng nấu thạch làm thức ăn cứu đói cho dân, và còn tìm ra một thứ dầu ăn gọi là ma mộc rút từ cây thuộc họ vừng giúp dân nghèo qua những trận đói kéo dài...
Theo truyền thuyết dân gian, vào một ngày nọ, cha Bà cùng hai anh trai đi thuyền chở muối đến Giang Tây, giữa đường gặp bão lớn. Lúc đó Bà đang ngồi dệt vải cạnh mẹ, nhưng xuất thần để đi cứu cha và hai anh; Bà dùng răng cắn vạt áo của cha, hai tay nắm hai anh, giữa lúc ấy mẹ gọi, buộc Bà phải lên tiếng trả lời, Bà vừa hở môi để trả lời thì sóng đã cuốn cha mất dạng, chỉ cứu được hai anh, và cũng theo truyền thuyết này, mỗi khi tàu bè trên biển bị nạn, người ta thường khấn vái, nhờ đến sự che chở của Bà.
Đến đời Tống Ung Hy tứ niên (CN987) ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch bà không bệnh tật, tự nhiên qua đời. Lúc đó Bà mới hai mươi lăm tuổi. Theo thánh phả bà hóa vào một ngày có quần tiên tấu nhạc. Bốn chữ "Bạch nhật phi thăng" khắc ở cỗ kiệu trong đền của bà nói lên điều đó. Khi hiển Thánh Bà thường mặc áo đỏ cưỡi thảm bay lượn trên biển để cứu dân gặp nạn
Đời Nguyên Bà được phong làm Thiên Phi, sau đến đời Thanh, vua Khang Hy gia phong cho Bà là Thiên Hậu và danh hiệu này còn được lưu truyền đến ngày nay. Người dân Trung Hoa tôn bà là Thần Biển nên di cư đến đâu mang thần tích, lập đền thờ đến đó. Cho nên ta không lấy làm lạ, dọc theo bờ biển nước ta có nhiều nơi lập đền thờ Thiên Hậu.
So sánh với những điều được ghi tại các bia đá ở một số Hội Quán, một số truyền thuyết về Bà Thiên Hậu có nhiều khác biệt, nhưng tựu trung mọi nơi đều ca ngợi, suy tôn Bà là một phụ nữ đức hạnh, có lòng hiếu thảo, xã thân cứu người và khi chết được hiển linh. Bà con người Hoa muốn thông qua tấm gương của Bà để giáo dục cộng đồng học tập tấm gương hiếu thuận, đức nhân hậu, sống có đạo nghĩa, giúp đỡ mọi người.
Quách Tấn Cang
#138
Gửi vào 26/06/2011 - 14:06
THÁNH MẪU LIỄU HẠNH
Tại các điện thờ Mẫu, trường hợp đặt ba pho tượng nữ, cùng giống nhau ở gương mặt, vóc giáng, tư thế ngồi, và chỉ khác nhau ở trang phục, thì pho tượng ở giữa chính là tượng Thánh Mẫu, hay còn gọi là Mẫu Liễu. Nếu điện chỉ đặt một pho tượng nữ đó cũng là Thánh Mẫu, và được hiểu là Mẫu của tất cả. Trong trường hợp này, Thánh Mẫu bao gồm cả Mẫu Liễu, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, được biểu hiện trong một Mẫu.
Không giống như Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, có nguồn gốc lai lịch từ rất xưa, Mẫu Liễu chỉ xuất hiện mới ngoài hai trăm năm nay, và có lẽ chính vì vậy, nên lai lịch, hành tung của Mẫu được truyền tụng và ghi chép lại khá đầy đủ. Và tỉ mỉ nữa là khác. Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm thời Lê mạt, đã có hẳn một truyện "Vân Cát thần nữ" trong cuốn "Truyền kỳ tân phả". Còn trong dân gian, từ trước đến nay, đã có biết bao nhiêu chuyện thật hấp dẫn, ly kỳ, thậm chí rùng rợn, về xuất xứ, hành tung, về biểu hiện khắp mọi nơi của Mẫu, tưởng chừng như Mẫu lúc nào cũng có mặt ở đâu đó, xuất kỳ bất ý, can dự vào tất cả mọi chuyện.
Những chuyện này không tồn tại dưới dạng hoàn chỉnh, mà chỉ là những mẩu, có khi gắn kết vào nhau, lại có khi mâu thuẫn trái ngược nhau. Nhìn chung, trong dân gian, đa phần muốn tin rằng đã có một Mẫu toàn năng, là niềm tin, là chỗ dựa tinh thần của tất cả mọi người. Còn là sự khuyến thiện trừng ác trong mỗi con người. Không thể hình dung nổi, trong một xã hội, dù là văn minh đến đâu, người ta đối xử với nhau lại không xuất phát từ lòng thiện. Và trong đời mỗi một con người, không phải ai và lúc nào cũng đều cứng cỏi cả. Vì vậy, sự tồn tại một điểm dựa tinh thần, chung cho mọi người, sẽ không thể là điều vô ích.
Truyền thuyết về Thánh Mẫu được kể dưới đây, sẽ gồm cả truyện "Vân Cát thần nữ" và các câu chuyện kể dân gian, được ghép nối vào nhau sao cho có hệ thống, chúng tôi nghĩ, đấy là cách tốt nhất để tạo nên hình tượng một Thánh Mẫu hoàn chỉnh, xứng đáng với niềm tin của mọi người. Do vậy, những chi tiết nào làm phương hại đến tính thống nhất của hình tượng, hoặc quá ư rườm rà chúng tôi sẽ mạnh dạn loại bỏ. Tại thôn An Hải, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ, nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, có vợ chồng Lê Thái Công là người hiền đức, hay làm việc thiện. Ông bà đã có một con trai, và khi ấy cũng đã đứng tuổi. Đến năm Thiên Hựu, đời Lê Anh Tông, bà vợ có mang đã quá kỳ sinh mà không thấy chuyển dạ, lại không ăn uống, chỉ ưa trong phòng có mùi hoa thơm.
Đêm hôm ấy, gia đình làm lễ, cầu trời khấn Phật, phù hộ độ trì cho mẹ tròn con vuông. Giữa lúc hương hoa tỏa bay thơm ngát, ở trong phòng, Lê Thái Công nằm mơ thấy mình bay lên thượng giới, rồi được dẫn vào một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ, ở đó đang diễn ra cuộc Đại khánh tiết, bách thần làm lễ chúc thọ Ngọc Hoàng. Một tiên nữ vận áo xiêm màu hồng nhạt, từ hậu cung bưng khay rượu bước ra. Vừa đến trước mặt Ngọc Hoàng, trong khi hai tay nâng khay, còn đầu thì khẽ nghiêng và toàn thân nhún xuống, nhưng do làm hơi vội nên đã để một chiếc chén rơi ra ... Ngọc Hoàng khẽ chau mày, nhưng rồi trước mặt triều thần, Ngài lại tươi cười nhắc chén rượu thứ hai. Chỉ có như vậy, nhưng đã là phạm luật. Sau bữa tiệc, hai vị Nam Tào Bắc Đẩu tâu lên, tiên nữ bị giáng xuống trần, trong thời hạn ba năm, mặc dù đó chính là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng đế.
Vừa lúc ấy, Lê Thái Công tỉnh giấc. Cũng đúng lúc ấy, người nhà vào báo bà vợ đã sinh một ngườøi con gái. Ba ngày sau, khi nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng, ông bèn đặt tên cho con là Giáng Tiên. Ngày tháng qua đi, càng lớn lên Giáng Tiên càng lộng lẫy, xinh đẹp. Mọi việc nữ công gia chánh nàng cũng đều thành thạo. Lại có cả tài cầm kỳ thi họa, vì ông bà cho nàng theo học Trần Công, một người bạn ở làng bên, và càng học lên Giáng Tiên lại càng giỏi giang, tấn tới.
Ông Trần Công là một vị hưu quan ở làng Tiên Hương, cùng trong huyện Thiên Bản. Vợ chồng ông cũng đã đứng tuổi mà chưa có con. Một đêm, nghe có tiếng trẻ khóc ở ngoài vườn, ông bà cùng chạy ra thấy một đứa bé sơ sinh nằm dướùi gốc cây đào. Ông bà đem về nhà nuôi, đặt tên là Đào Lang. Lớn lên Đào Lang là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, siêng năng chăm chỉ học hành. Do đã đính ước với nhau từ nhiều năm trước, nên khi Đào Lang và Giáng Tiên đến tuổi trưởng thành, hai bên cha mẹ đã cho đôi trẻ nên duyên vợ chồng.
Về nhà chồng, Giáng Tiên là một người vợ hiền dâu thảo, nói năng khiêm nhường, đối xử có trước có sau. Trong ba năm, nàng sinh được một trai, một gái. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào đúng ngày mồng ba tháng ba Âm lịch, tuyệt nhiên không bệnh tật gì, nàng hóa, lúc ấy vừa tròn 21 tuổi. Cả hai bên cha mẹ và chồng con đau xót tiếc thương nhưng chẳng có cách gì cứu sống được. Trong nỗi buồn vô hạn, kể cả Lê Thái Công, chẳng ai hiểu được lẽ trời đã sắp đặt rồi.
Giáng Tiên, nàng tiên nữ đã về trời, đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con. Những ngày hội quần tiên, những lúc quây quần bên chị bên em cùng bạn bè, bỗng nhiên nàng lại nét mặt sa sầm, rồi lén gạt thầm dòng nước mắt ...Những cử chỉ ấy, cuối cùng rồi cũng đến tai Ngọc Hoàng. Ngài cho gọi nàng lại để nghe nàng giãi bày tâm sự và thỉnh cầu ước nguyện. Khi thấu hiểu, Ngài cho nàng được phép trở lại cõi trần, nhưng đổi tên là Liễu Hạnh.
Khác với lần đi đày trước, lần này do tự nguyện, nên trong lòng nàng hoàn toàn thư thái, vui vẻ, chỉ mong sao cho chóng xuống trần. Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng. Đào Lang, từ ngày vợ mất, vẫn ngày đêm thương nhớ không khuây. Liễu Hạnh đẩy cửa bước vào, gặp nhau vợ chồng con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ.
Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây. Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi. Ròng rã hàng chục năm sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ. Từ đó, tung tích của nàng như mây nổi nước trôi, không nhất định ở một nơi nào cả. Nàng biến hóa và có phép nhiệm mầu như thần như thánh, bởi vì nàng cũng chính là thần thánh. Có khi nàng là cô gái đẹp vừa đi vừa thổi sáo dưới ánh trăng. Có khi nàng là bà lão đầu tóc bạc phơ, ngồi tựa cây gậy trúc ở bên đường. Có khi nàng là người bán hàng, mở quán trên lưng đèo. Lại có khi, như mọi người, nàng đi thăm viếng, vãn cảnh chùa chiền. Người nào giở thói trăng hoa, hoặc làm điều bạc ác, nàng thẳng tay trừng trị.
Tiếng lành đồn xa, tiếng "dữ" cũng đồn xa ... Ở khắp mọi nơi, mọi người thi nhau bàn tán về tung tích, hành vi của nàng. Câu chuyện càng ngày càng được thêu dệt thêm mãi, hư hư thực thực. Và ai ai cũng đều nghiêm trang, kính cẩn gọi nàng là Tiên Chúa. Lần ấy, Tiên Chúa đang hóa phép thành cô gái, mở quán bán cho khách bộ hành ở chân đèo Ngang thuộc Quảng Bình. Lời đồn đại về một cô gái nhan sắc tuyệt vời bỗng đâu xuất hiện ở nơi đèo heo hút gió, làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên. Rồi chỗ nào cũng thấy thì thào bàn tán. Chẳng mấy chốc, lời đồn đại cũng tới tận Kinh đô ! Hoàng tử sắp kế nghiệp, vốn là một chàng trai lười biếng học hành nhưng lại ham chơi bời phóng túng. Có khi còn làm cả những việc khinh mất chẳng giữ gìn đến thể diện quốc gia.
Khi hay tin đồn có người con gái tuyệt vời, Hoàng tử ngày đêm ao ước, đứng ngồi không yên. Nghĩ rằng mình là Hoàng thái tử, ở ngôi Đông cung, sắp tới sẽ được kế vị ngai vàng, thì chẳng lẽ lưu vật ấy còn dành cho ai nữa? Nếu không đến mau, e rằng nàng đã thành gia thất thì thật uổng phí. Thế là, Hoàng tử giấu bặt vua cha, chọn một đoàn bộ hạ tin cẩn rồi lặng lẽ rời khỏi kinh thành, nhằm về hướng nam thẳng tiến. Ngày đi, đêm đi, chỉ dừng lại những khi thật mệt nhọc, chẳng mấy chốc đoàn người ngựa đã gần tới chân đèo Ngang. Ở nơi mở quán, Tiên Chúa bấm độn đã biết có Hoàng tử đang đến tìm mình, lại cũng biết đó là một chàng trai vô vị, tầm thường, kiêu căng mà hiếu sắc. Để răn đe trước, Tiên Chúa hóa phép biến thành cây đào mọc ở bên đường, ngay chỗ Hoàng tử đang dừng chân. Trên cây chỉ có một quả đang chín mọng.
Vừa chợt thấy quả đào, Hoàng tử tưởng là của trời cho, không đợi sai lính hầu, vội trèo ngay lên cây ngắt xuống. Quả đào ửng đỏ, thơm phức, vừa cầm trên tay, Hoàng tử đã vội đưa ngay lên miệng. Bỗng đâu, chỉ trong chớp mắt, quả đào nhỏ dần rồi biến mất, ngay trên tay Hoàng tử. Bọn lính hầu thấy vậy kinh hãi kêu lên, còn Hoàng tử cũng mặt cắt không còn giọt máu. Sau cơn bàng hoàng, cả bọn lại hò nhau lên đường, hoàn toàn không hiểu tý gì về ngầm ý răn đe mà Tiên Chúa đã báo trước.
Khi giáp mặt cô chủ quán, cả thầy lẫn tớ đều thảng thốt thẫn thờ. Thật danh bất hư truyền, chưa bao giờ Hoàng tử thấy một người con gái nào đẹp đến như thế. Và cũng chưa bao giờ chàng ta lại mê mẩn cuồng si đến như thế. Hoàng tử hạ lệnh cho quân lính dừng chân, rồi gọi đồ ăn thức uống loạn xị. Cố tình trưng ra quần áo bảnh diện và những cọc tiền vàng óng. Lại cố tình ăn uống khề khà cho thật chậm thật lâu, cốt sao kể kéo đến tận chiều tối. Rồi khi mặt trời tắt hẳn, cả bọn mới giả bộ ngây ngô, nói rằng trời tối thế này thì đi làm sao được.
Một tên vò đầu bứt tai, xum xoe đến gần cô chủ quán:
- Xin cô vui lòng cho chúng tôi nghỉ lại trong quán một đêm nay, tiền nong hết bao nhiêu chúng tôi cũng chẳng ngại ...
Tiên chúa, thừa rõ tâm tư của cả bọn này, bèn tươi cười đáp:
- Ấy chết, các ông là những người quý phái, nghỉ lại đấy sao tiện. Chỉ đi nửa dặm nữa là có xóm có làng, có dân phu phục dịch. Ở đây vừa mất tiền vừa chật chội. Vả lại quán chúng tôi là phận đàn bà con gái, không nhận trọ khách đàn ông bao giờ.
Nghe thấy thế, Hoàng tử đứng bật dậy sẳn giọng:
- Đàn ông với chẳng đàn bà. Đã là quán hàng, chẳng nơi nào có sự phân biệt như thế. Trời tối rồi, chẳng lẽ để chúng ta ngủ ở giữa đường hay sao? Quân bay, cứ vào dọn dẹp. Tiên Chúa lặng thinh không nói gì. Tưởng chủ quán hoảng sợ, Hoàng tử liền đổi giọng, vừa nói vừa vỗ vỗ vào túi tiền lớn mà tên lính hầu vẫn đeo bên mình:
- Xin cô đừng lo. Chỉ một đêm nay cô cũng kiếm được bằng mấy năm mở quán.
Tiên Chúa bỏ vào phòng trong, không muốn nghe nữa. Ở phòng ngoài, bọn lính hầu thu dọn các thứ vào một góc rồi quây màn trướng cho Hoàng tử nghỉ. Còn bọn chúng thì nằm la liệt quanh quán. Khi ấy đang tiết tháng tám trời thu mát mẻ, và ở giữa chân đèo thoáng đãng, trăng gió lại như khách hữu tình. Hoàng tử sai bày tiệc rượu rồi năn nỉ mời chủ nhân ngồi đối ẩm. Tiên Chúa, phần vì không muốn để người của triều đình mất thể diện, phần thì cũng muốn thử xem bọn này còn định giở trò gì, nên cũng nhận lời.
Dưới ánh đèn, vừa uống rượu Hoàng tử vừa huyên thuyên, khoe khoang đủ mọi thứ chuyện. Nào là nay mai sẽ lên ngôi Thiên tử. Nào là gấm vóc bạc vàng sẽ chẳng thiếu thứ gì. Nào là ai mà được ở ngôi Hoàng hậu thì sẽ là người diễm phúc. Tiên Chúa im lặng lắng nghe, thỉnh thoảng lại gật đầu ra ý tán thưởng, mặc dù đã cười thầm trong bụng. Thấy vậy Hoàng tử tưởng "nàng" đã xiêu lòng, liền hoa chân múa tay rất là đắc ý rồi bất thình lình ôm cô chủ quán. Tiên Chúa bừng bừng nổi giận, gạt phắt Hoàng tử ra chạy thẳng vào trong buồng. Hoàng tử loạng choạng đứng dậy, và trong cơn si cuồng rồ dại cũng chạy vào theo.
Chỉ trong chớp mắt, Tiên Chúa đã phi thân lên núi, bắt ngay một con khỉ cái mang về. Lại hóa phép cho nó thành một cô gái cực kỳ xinh đẹp, còn mình thì biến đi. Ở trong buồng, lúc đầu Hoàng tử chẳng nhìn thấy gì, sau một hồi mắt đã quen với bóng tối, mới lờ mờ nhận thấy "cô gái" đang ở trong góc, bèn nhảy tới, ôm. Đúng lúc ấy "cô gái" lại biến thành con khỉ, do Tiên Chúa đã hóa phép. Hoàng tử kinh hãi rụng rời, kêu rú lên một tiếng thảm thiết, rồi ngã vật ra, bất tỉnh nhân sự.
Bọn lính hầu ở bên ngoài nghe tiếng rú, tưởng cậu chủ bị hại liền bật cả dậy xông thẳng vào buồng. Có tên còn giật vội mấy mẩu nến đang cháy ở bàn tiệc, để soi cho rõ. Trước mặt chúng, cảnh tượng bày ra mới khiếp hãi làm sao. Con khỉ cái miệng rộng đến tận mang tai, nhe hai hàm răng trắng ởn, đang cười lên khành khạch. Rồi vụt một cái, khỉ lại biến thành con rắn hổ mang, bạnh cổ, thè lưỡi phun ra phì phì ... Rắn hổ ngạo nghễ trườn lên người Hoàng tử, rồi trườn lên vách, vươn lên xà nhà, đi mất.
Trong bọn lính hầu, nhiều tên cũng ngất xỉu. Còn lại những tên cứng bóng vía nhất, sau cơn bàng hoàng, vội vực Hoàng tử dậy và lay gọi những tên kia. Chúng nháo nhào cả lên, hà hơi, đánh gió, xoa dầu hàng tiếng đồng hồ sau Hoàng tử mới tỉnh lại. Ngay nửa đêm hôm đó, bọn lính hộc tốc đưa Hoàng tử về trạm gần nhất, rồi từ đấy ngày đi đêm nghỉ, đưa chàng ngược trở lại Kinh đô. Về tới hoàng cung, Hoàng tử đã trở thành một kể ngẩn ngơ, điên điên dại dại ... Cả Hoàng triều bối rối lo sợ. Tìm thầy tìm thuốc có đến cả tháng mà bệnh tình Hoàng tử vẫn không thuyên giảm. Kịp có viên Đại thần người gốc xứ Thanh Hóa đến báo: ở quê có tám vị Kim Cương bùa pháp cực giỏi có thể chữa được bách bệnh, cho người vào xin thì mới cứu được.
Một ngàn năm về trước Phật Bà Quan Âm một lần hiện ra ở biển Đông, hóa phép thành hai cái túi, một ở giữa biển, một ở trên núi Ó thuộc làng An Đông đều ở xứ Thanh. Sau thời gian rất lâu, hai túi nở thành hai đóa hoa, và từ mỗi đóa hoa, lại hiện ra bốn vị thần tướng đều có phép thuật biến hóa thật là huyền nhiệm. Theo lệnh Phật Bà, tám vị thần tướng tỏa đi tám hướng, thân chinh mang thuật pháp tiểu trừ bọn tà ma vẫn đang lẩn quất sách nhiễu trong vùng. Khi bọn tà ma bị diệt, Phật Bà lại triệu hồi họ về chỗ cũ. Người trong vùng vẫn quen gọi là Bát bộ Kim Cương. Lập tức một bọn thị vệ được lệnh nhà vua trở vào Thanh Hóa để xin bùa phép. Nhờ có bùa phép, Hoàng tử dần dần khỏi bệnh.
Sau khi bình phục, Hoàng tử cúi đầu nhận tội trước vua cha, và kể lại sự việc xảy ra ở chân đèo Ngang, tuy nhiên cũng đã tìm cách nói sao để giảm nhẹ lỗi lầm của mình. Nhà vua, vốn sẵn cảm tình với bà phi sinh ra Hoàng tử thứ hai, nên chẳng ngại ngần truất ngôi Đông cung của Hoàng thái tử và lập con thứ lên thay. Tuy vậy, tay đứt ruột xót, lại căm giận một kẻ tiện dân mà dám động vào người Hoàng tộc, nên trong bụng nghĩ phải quyết ra tay diệt trừ. Vì nghe câu chuyện có vẻ lạ lùng nên nhà vua chẳng dám khinh xuất, bèn cho tên tướng thân tín cùng một tốp lính đi điều tra nội vụ. Một tháng sau, viên tướng trở về tấu trình ngọn ngành mọi chuyện. Nhà vua, vốn là bậc cao kiến, nghĩ rằng chỉ có các Pháp sư và Phù thủy cao tay mới có thể diệt trừ được kẻ "yêu nữ" này. Các Pháp sư và Phù thủy lừng danh trong nước lập tức được lệnh triệu hồi về kinh, dẫn sĩ tốt đi chinh phạt.
Chẳng bao lâu sau, những kẻ sống sót đều phải quay về, nạp mình trước sân rồng hoạch tội, vì chẳng những không bắt được nữ chủ quán mà lại còn bị đánh cho tan tác, tơi bời. Bất đắc dĩ, nhà vua phải cầu cứu đến tám vị Kim Cương. Tám vị này, vốn là những bậc tu hành, chẳng mặn mà gì đến chuyện đánh dẹp của triều đình, lần trước có cho bùa phép thì chẳng qua chỉ là muốn cứu vớt một kẻ nạn nhân mà thôi. Nhà vua phải cho đại thần mang lễ vật đi lại nhiều lần mới thỉnh cầu được họ. Các vị Kim Cương, sau khi nhận lời, bèn phi thân tới đèo Ngang. Sau khi bài binh bố trận xong, họ dụ Tiên Chúa vào giữa, rồi từ tám hướng tiến vào đánh.
Ở giữa vòng vây, Tiên Chúa chẳng hề nao núng, ứng phó cực kỳ linh hoạt. Các phép thuật của các vị Kim Cương đều bị mất hiệu lực. Cây đổ, đá lăn, thú dữ nhe nanh múa vuốt cũng không làm hại được Tiên Chúa. Thoắt biến rồi thoắt hiện, các phép thuật của các vị Kim Cương đều như nhằm vào chỗ không người, nhiều khi lại nhầm vào nhau, tự gây ra thiệt hại. Tiên Chúa thản nhiên như thường còn các vị Kim Cương càng lúc lại càng thấm mệt. Khi đã núng thế, một vị bay vút lên trời, đi cầu khẩn Đức Phật, xin một cái túi, nói là để bắt yêu tinh vừa mới xuất hiện. Đức Phật lúc ấy đang bận, nên đã vô tình ném túi cho. Nhờ cái túi thần, cuối cùng các vị Kim Cương đã lừa bắt được Tiên Chúa. Họ đưa Tiên Chúa về kinh, trình trước sân rồng. Nhà vua sai thiết triều rồi xét hỏi:
- Nhà ngươi là ai?
- Muôn tâu.. Tiên chúa đáp. Tôi là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng Đế, xuống trần làm người mở quán bán hàng.
- Mở quán bán hàng thì cớ sao lại làm hại đến Hoàng tử?
- Thưa ... ở đời có lửa thì ắt có khói, có nhân ắt có quả. Tôi chỉ trừng trị kẻ nào làm điều bất thiện mà thôi. Nếu đấy là Hoàng tử thì lại càng phải xử công minh để làm gương cho bàn dân thiên hạ, như vậy mới là đúng với phép nước.
Nhà vua thấy không còn gì hỏi được nữa, nhưng cũng chẳng thể để mất thể diện quốc gia, bèn để nét mặt ra vui tươi, rồi hỏi:
- Công nương nói chí phải. Ta đã có chiếu trách phạt Hoàng tử rồi. Nay chỉ muốn hỏi công nương cho rõ mọi chuyện mà thôi.
Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của Hoàng tử, Nhà vua đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may mắn. Tiên Chúa không trở lại chân đèo Ngang nữa, mà lại vân du theo hướng Bắc, đến miền xứ Lạng, là nơi có nhiều phong cảnh đẹp. Các động Tam Thanh, Nhị Thanh ... là nơi Tiên Chúa thường hay thăm viếng. Một lần đang trên đường, Tiên Chúa gặp đoàn sứ do Phùng Khắc Khoan dẫn đầu đi sứ sang Trung Hoa. Gặp người con gái đẹp, xưa nay chưa từng thấy bao giờ, ông chánh sứ cảm kích ứng khẩu đọc liền một bài thơ tứ tuyệt. Nào ngờ nghe xong,Tiên Chúa cũng ứng khẩu đọc luôn mấy câu thơ đối lại.
Các vị trong đoàn sứ bộ thảy đều ngạc nhiên, và cảm phục vì tài đối đáp, vì lời thơ vừa trang nhã lại đầy ý tứ. Thế là họ bảo nhau dừng chân mấy ngày ở trạm nghỉ, rồi mời Tiên Chúa ở lại cùng nhau xướng họa đề thơ. Khi hỏi lai lịch, nơi ở, Tiên Chúa chẳng nói năng gì mà chỉ đọc lên một bài thơ đố. Phùng Khắc Khoan vốn là người nhanh trí, hiểu rằng người con gái này chẳng phải người thường, bèn đọc một bài thơ hẹn gặp lại, sau khi đoàn sứ trở về. Nhớ lời hẹn, một năm sau Tiên Chúa có mặt ở vùng Hồ Tây ngay bên cạnh kinh thành. Khi ấy Phùng Khắc Khoan đã hoàn thành sứ mạng trở về, cùng hai người bạn là ông Ngô, ông Lý đang đi vãn cảnh. Họ gặp nhau mừng rỡ, chuyện trò, rồi lại đề thơ, xướng họa như xưa. Cả ba người, là những bậc tài danh đương thời, đều hết lòng thán phục tài thơ của Tiên Chúa vừa thanh cao, lại vừa huyền nhiệm, không lời nào có thể nói hết được.
Sau khi từ biệt ba nhà thơ, Tiên Chúa vân du vào làng Sóc, thuộc tỉnh Nghệ An ngày nay, cũng là một nơi có phong cảnh đẹp. Ở làng này hiện đang có một chàng thư sinh tuy cha mẹ mất sớm, nhà lại rất nghèo, nhưng vẫn ngày đêm miệt mài kinh sử. Tiên Chúa biết chàng chính là hậu thân của Đào Lang ngày trước, bèn biến thành một phụ nữ, lúc đầu đến giúp đỡ, rồi sau đó kết duyên vợ chồng. Hai bên yêu nhau, chẳng cần phải có người mối lái. Nàng giúp cho chàng yên tâm chuyên cần vào việc đèn sách, chẳng phải lo nghĩ gì đến chuyện sinh nhai, thế rồi khi nhà vua mở khoa thi, chàng đã đỗ đại khoa và được bổ vào Hàn Lâm viện. Nàng sinh cho chàng một đứa con trai, thật là đẹp đẽ kháu khỉnh. Nhưng tình duyên của họ cũng chẳng được lâu dài.
Khi đứa con vừa tròn năm tuổi thì người mẹ đột ngột qua đời, vì chính lúc đó Tiên Chúa có lệnh gọi của Ngọc Hoàng, phải về trời gấp. Người chồng đau xót, cùng lúc nỗi đau càng như xé ruột xé gan. Chàng chẳng nghĩ đến chuyện tục huyền, cũng chẳng nghĩ đến chuyện cửa công. Thế là chàng xin từ quan, lui về quê nuôi đứa con côi, vui thú với cây cỏ sông nước, và giữ mãi trong lòng những kỷ niệm ngọt ngào của mối tình đầu. Về phần mình, ở trên trời, Tiên Chúa cũng không sao quên được cõi trần. Lúc nào Tiên Chúa cũng thấy lẻ loi giữa cảnh phồn hoa đô hội. Trong tâm trí Tiên Chúa, lúc nào cũng như in mọi cảnh dưới trần, và cùng với nó, là cảm xúc càng lúc càng thêm bồi hồi da diết. Ôi! Cõi trần gian, nơi nhiều nỗi vất vả lo toan mà sao lại thân thương thiết tha đến thế!
Dưới cõi trần, còn bao nhiêu điều chưa thấy, bao nhiêu nơi chưa biết, bao nhiêu việc chưa làm! Những miền danh lam thắng cảnh vẫy gọi, những bậc hiền tài cần tiếp kiến, rồi cả những nỗi khốn khó cô đơn, những điều bất công ngang trái. Tất cả đều cần phải có bàn tay của Tiên Chúa đưa ra giúp, phù trì. Thế là Tiên Chúa khẩn thiết xin với vua cha cho trở lại cõi trần gian và được ở lại vĩnh viễn, vì cả hai lần trước đều nửa đường đứt gánh, mới dở dang đau xót làm sao. Ngọc Hoàng Thượng Đế lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài nhìn đứa con gái út, một khúc ruột, một phần xương thịt của mình dứt ra mà nay đã đến lúc trưởng thành, để có thể thay mặt mình ở dưới cõi trần được. Mặc dù tình cha con là thiêng liêng, là vô cùng quyến luyến, nhưng Ngài đã vui vẻ chấp thuận cho nàng ra đi, vì nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để những chủ trương ở trên trời của mình có thể thực thi ở cõi thế. Ngài cho gọi hai thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa bảo cùng đi với nàng, vừa để giúp đỡ, vừa để cho có bầu có bạn.
Lần này Tiên Chúa xuống thẳng miền phố Cát. Ở đây, cũng như những lần trước Tiên Chúa thường hiển linh giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác. Khi là cô gái thổi sáo, khi là bà lão chống gậy, khi là một người hành hương đến cửa Phật, hành tung của Tiên Chúa biến hóa thật khôn lường. Thế là trong dân chúng lại nảy sinh những lời đồn đại, rồi mọi người cùng nhau góp của góp công, dựng một ngôi đền để lấy chỗ phụng thờ Tiên Chúa. Những ngày tuần ngày tiết, dân chúng các nơi nô nức tìm về, đông vui nhộn nhịp xung quanh ngôi đền. Mọi ngườøi ai cũng muốn một lần được chứng kiến sự hiển linh của Tiên Chúa.
Lời đồn đại và những sự việc ấy, lan ra mãi, cuối cùng đã tới Kinh đô, lọt đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả "yêu nữ" ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì trong cõi trị vì của họ không thể có luật lệ nào khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự quyền. Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến Kinh đô, giao cho dẫn một một đội quân Vũ lâm hùng mạnh, đến thẳng miền phố Cát để đánh dẹp. Một trận giao chiến ác liệt đã diễn ra. Bên Tiên Chúa đền đài bị phá tan tành nhưng bên phía triều đình cũng bị thất điên bát đảo, xác lính chết ngổn ngang, cuối cùng đành phải rút quân. Vua Lê chúa Trịnh vô cùng tức giận vì không bắt được "yêu nữ" đem về. Nghe lời các thuật sĩ, hai vị cho vời tiền quân Thánh là một thuật sĩ tài danh bậc nhất đương thời để làm chủ tướng.
Lại nói Tiền quân Thánh vốn là một thân tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị dáng xuống làm con trai thứ ba của một vị Thượng sư, sư tổ của phái Nội đạo tràng, một phái tu nổi tiếâng lúc bấy giờ. Hai người anh là Tả quân và Hữu quân đều có pháp thuật cao cường, tu ở núi Côn Sơn, còn Tiền quân thì tu ngay tại làng, tức làng Từ Minh ở Thanh Hóa, và có nhiều pháp thuật cao cường hơn cả. Vốn trước kia cha ông họ là những viên quan lại, đã từng ăn lộc triều đình, nên bây giờ, mặc dù không muốn, cả ba anh em vẫn phải cầm quân ra trận. Tiền quân đi trước, còn hai người anh đi ở hai bên. Đến Tam Điệp, Tiền quân sai đóng quân lại, còn mình cải trang làm một dân thường, cỡi ngựa trắng đến Sòng Sơn gặp Tiên Chúa vì lúc này Tiên Chúa đã rời Phố Cát về đây. Vốn đã quen biết từ trên Thiên đình, nên khi gặp, Tiền quân làm ra vẻ hết sức thân mật, tự nhiên:
- Đi ngang qua đây, nghe sắp có giao chiến chẳng biết phải trái thế nào. Ta chỉ sợ nàng sức gái không đủ đối phó nên hạ sơn xem liệu có thể giúp đỡ được việc gì chăng? Thuật pháp của nàng thế nào hãy để ta xem, nếu thiếu ta sẽ dạy thêm cho.
Tiên Chúa tin lời Tiền quân nói là thật, hoàn toàn không biết đến việc Tiền quân do mắc lỗi mà phải xuống trần cho nên đã giở tất cả các pháp thuật ra cho Tiền quân xem. Xem xong Tiền quân làm ra vẻ hết sức vui mừng sửng sốt:
- Thật là tuyệt! Như thế này cũng đã thừa đủ rồi, ta chẳng cần phải dạy thêm cho nàng điều gì nữa!
Nói xong liền biến đi ngay. Thấy thế Tiên chúa cũng hơi chột dạ. Tiền quân thánh trở về nơi hạ trại, cùng hai anh bàn nhau cách xuất quân, rồi ngay đêm ấy tiến đánh. Tiên Chúa lúc đấy cùng Quỳnh Hoa, Quế Hoa đang nằm nghỉ, nghe tiếng quân lính reo hò, biết ngay là có biến, bèn bật dậy nai nịt gọn gàng, hóa phép thành trùng trùng rào gai vây quanh Sòng Sơn, lại hóa phép thành muôn ngàn quân sĩ giáo mác cung tên sẳn sàng nghênh chiến. Khi trông thấy Tiền quân thánh ở phía đối diện, Tiên chúa vừa khinh bỉ vừa tức giận vô cùng. Chẳng ngờ đường đường một vị thần tướng trên trời lại đi đầu quân đánh nhau vì một lũ vua chúa tham lam ở dưới trần, chẳng những thế, lại còn giở trò hèn hạ lường gạt cả tiên nữ. Những thuật pháp của Tiên Chúa tung ra đều hết sức nhiệm màu, và Tiền quân Thánh, mặc dù đã biết trước, cũng phải đối phó thật là chật vật. Tuy vậy bên phía Tiền quân Thánh, do có hai người anh trợ lực, lại quân lính đông hơn, nên dần dần đã bao vây được Tiên Chúa.
Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc lóng lánh, múa lượn trên không. Tiền quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Thế là Tiên Chúa bị bắt, rồi bị biến nguyên hình trở lại. Tiền quan sai lính mang dây đồng tới trói ... Giữa lúc ấy Phật tổ bỗng nhiên xuất hiện. Tuy ngồi ở nơi tu thiền nhưng ngài biết rõ mọi chuyện. Ngài có mặt là để giải cứu cho Tiên Chúa, Ngài xét thấy, phần lớn đều phù hợp với tâm nguyện của Ngài. Khi vừa thấy Phật tổ, Tiền quân Thánh liền sững ngay lại, thay vì dây đồng đã sai quân lính mang đến cho Tiên Chúa một bộ quần áo cà sa và một chiếc mũ ni cô. Tiên Chúa nhận áo mũ rồi thoắt biến lên mây cùng với Phật tổ.
Ở Kinh đô lúc này vua Lê chúa Trịnh đang buổi thiết triều, thấy quân về báo tin thắng trận thì mừng rỡ vô cùng: Thế là từ nay có thể thở phào nhẹ nhõm! Mấy tháng sau hai vị vua chúa lại nhận được tin ở miền phố Cát, Tiên Hương và Sòng Sơn đang xảy ra nạn dịch. Trâu bò gia súc chết ngổn ngang, người ốm lăn lóc. Chẳng có người chăm sóc nên đồng bãi tiêu điều, côn trùng thả sức phá hoại ... Nạn dịch này, từ trước đến nay, từ vua chúa cho đến dân thường cho là Tiên Chúa gây ra, để trả thù cho lần thất bại. Sự thực thì hoàn toàn không phải thế . Đấy là cái nạn dịch luôn đi kèm sau mỗi cuộc chiến tranh. Bao giờ cũng vậy khi sức người đã cạn kiệt, lại đói ăn khát uống và làm việc quá sức rồi nguồn nước và không khí hôi rình xác tử thi, thì lẽ dĩ nhiên, bệnh dịch sẽ phải phát sinh ra nhiều. Có trách là trách những kẻ gây ra chiến tranh phi nghĩa, chứ chẳng nên trách những người tự vệ.
Thế nhưng, do tin là để Tiên Chúa mất lòng đã gây ra bệnh dịch nên Nhà vua đã ra lệch cho quan sở tại xây lại đền thờ ở các miền phố Cát, Tiên Hương và Sòng Sơn. Dân chúng khi biết tin này cũng nhiệt liệt hưởng ứng, góp công góp của. Thế là, chẳng mấy chốc ở những nơi này đền đài mọc lên, bề thế nguy nga chẳng kém gì nơi cung vua phủ chúa, xứng đáng với công sức của Tiên Chúa và cũng xứng đáng với niềm tin yêu tin cậy của mọi người. Tại các nơi ấy, hàng năm vào dịp hội hè và các ngày lễ tết, người dân các nơi lại náo nức tìm về, mang lễ vật hương hoa tưởng niệm Tiên Chúa và cũng là mong Tiên Chúa năng hiển linh, phù hộ độ trì. Và bao giờ cũng vậy trong các ngày hội, sau phần lễ tế, đều có các trò vui chơi dân giã.
Các triều vua về sau, mỗi khi mang quân xuất chinh, hay làm việc gì hệ trọng cũng đều cử Đại Thần về đây tế lễ, cầu xin và hậu tạ sau khi công quả toại nguyện. Càng ngày các nơi ấy càng trở nên linh thiêng và thành niềm tin bền vững trong lòng mọi người. Sắc thượng phong của triều Lê, đặt hiệu của Tiên Chúa là "Mã Hoàng công chúa", rồi về sau, thấy cầu được ước thấy, bèn đặt thêm là "Mã Hoàng công chúa Chế thăng hòa diệu Đại vương". Chẳng những ở ba nơi kể trên, mà các nơi khác: Đèo Ngang Quảng Bình, Xứ Nghệ, Xứ Lạng và Tây Hồ ven sát kinh thành, những nơi trước kia đã từng lưu dấu Tiên Chúa, dân chúng cũng lập đền thờ tưởng niệm. Tùy khả năng và phong tục của mỗi nơi, chỗ thờ tự và lễ vật có thể khác nhau, nhưng thảy đều xuất phát từ lòng biết ơn và sự cầu mong chân thành.
Còn những nơi Tiên Chúa chưa từng đặt chân đến, mọi người cũng cầu mong có dịp nào đó Ngài sẽ giáng lâm, và do vậy, khắp các làng quê, ở đâu cũng lập điện thờ. Điện thờ được lập ở mé bên hoặc mé sau Phật điện là nơi thờ Phật. Nhân dân kính cẩn gọi Tiên Chúa là Thánh Mẫu, nhưng nhiều khi giản dị và dân giã hơn, gọi Tiên Chúa là Mẫu Liễu. Mẫu Liễu là niềm tin, là sự cầu mong của tất cả mọi người. Mẫu cũng chính là lương tâm, là sự toàn thiện mà tri giác của con người cần phải vươn tới.
Lịch Sử
Tại các điện thờ Mẫu, trường hợp đặt ba pho tượng nữ, cùng giống nhau ở gương mặt, vóc giáng, tư thế ngồi, và chỉ khác nhau ở trang phục, thì pho tượng ở giữa chính là tượng Thánh Mẫu, hay còn gọi là Mẫu Liễu. Nếu điện chỉ đặt một pho tượng nữ đó cũng là Thánh Mẫu, và được hiểu là Mẫu của tất cả. Trong trường hợp này, Thánh Mẫu bao gồm cả Mẫu Liễu, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, được biểu hiện trong một Mẫu.
Không giống như Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, có nguồn gốc lai lịch từ rất xưa, Mẫu Liễu chỉ xuất hiện mới ngoài hai trăm năm nay, và có lẽ chính vì vậy, nên lai lịch, hành tung của Mẫu được truyền tụng và ghi chép lại khá đầy đủ. Và tỉ mỉ nữa là khác. Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm thời Lê mạt, đã có hẳn một truyện "Vân Cát thần nữ" trong cuốn "Truyền kỳ tân phả". Còn trong dân gian, từ trước đến nay, đã có biết bao nhiêu chuyện thật hấp dẫn, ly kỳ, thậm chí rùng rợn, về xuất xứ, hành tung, về biểu hiện khắp mọi nơi của Mẫu, tưởng chừng như Mẫu lúc nào cũng có mặt ở đâu đó, xuất kỳ bất ý, can dự vào tất cả mọi chuyện.
Những chuyện này không tồn tại dưới dạng hoàn chỉnh, mà chỉ là những mẩu, có khi gắn kết vào nhau, lại có khi mâu thuẫn trái ngược nhau. Nhìn chung, trong dân gian, đa phần muốn tin rằng đã có một Mẫu toàn năng, là niềm tin, là chỗ dựa tinh thần của tất cả mọi người. Còn là sự khuyến thiện trừng ác trong mỗi con người. Không thể hình dung nổi, trong một xã hội, dù là văn minh đến đâu, người ta đối xử với nhau lại không xuất phát từ lòng thiện. Và trong đời mỗi một con người, không phải ai và lúc nào cũng đều cứng cỏi cả. Vì vậy, sự tồn tại một điểm dựa tinh thần, chung cho mọi người, sẽ không thể là điều vô ích.
Truyền thuyết về Thánh Mẫu được kể dưới đây, sẽ gồm cả truyện "Vân Cát thần nữ" và các câu chuyện kể dân gian, được ghép nối vào nhau sao cho có hệ thống, chúng tôi nghĩ, đấy là cách tốt nhất để tạo nên hình tượng một Thánh Mẫu hoàn chỉnh, xứng đáng với niềm tin của mọi người. Do vậy, những chi tiết nào làm phương hại đến tính thống nhất của hình tượng, hoặc quá ư rườm rà chúng tôi sẽ mạnh dạn loại bỏ. Tại thôn An Hải, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ, nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, có vợ chồng Lê Thái Công là người hiền đức, hay làm việc thiện. Ông bà đã có một con trai, và khi ấy cũng đã đứng tuổi. Đến năm Thiên Hựu, đời Lê Anh Tông, bà vợ có mang đã quá kỳ sinh mà không thấy chuyển dạ, lại không ăn uống, chỉ ưa trong phòng có mùi hoa thơm.
Đêm hôm ấy, gia đình làm lễ, cầu trời khấn Phật, phù hộ độ trì cho mẹ tròn con vuông. Giữa lúc hương hoa tỏa bay thơm ngát, ở trong phòng, Lê Thái Công nằm mơ thấy mình bay lên thượng giới, rồi được dẫn vào một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ, ở đó đang diễn ra cuộc Đại khánh tiết, bách thần làm lễ chúc thọ Ngọc Hoàng. Một tiên nữ vận áo xiêm màu hồng nhạt, từ hậu cung bưng khay rượu bước ra. Vừa đến trước mặt Ngọc Hoàng, trong khi hai tay nâng khay, còn đầu thì khẽ nghiêng và toàn thân nhún xuống, nhưng do làm hơi vội nên đã để một chiếc chén rơi ra ... Ngọc Hoàng khẽ chau mày, nhưng rồi trước mặt triều thần, Ngài lại tươi cười nhắc chén rượu thứ hai. Chỉ có như vậy, nhưng đã là phạm luật. Sau bữa tiệc, hai vị Nam Tào Bắc Đẩu tâu lên, tiên nữ bị giáng xuống trần, trong thời hạn ba năm, mặc dù đó chính là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng đế.
Vừa lúc ấy, Lê Thái Công tỉnh giấc. Cũng đúng lúc ấy, người nhà vào báo bà vợ đã sinh một ngườøi con gái. Ba ngày sau, khi nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng, ông bèn đặt tên cho con là Giáng Tiên. Ngày tháng qua đi, càng lớn lên Giáng Tiên càng lộng lẫy, xinh đẹp. Mọi việc nữ công gia chánh nàng cũng đều thành thạo. Lại có cả tài cầm kỳ thi họa, vì ông bà cho nàng theo học Trần Công, một người bạn ở làng bên, và càng học lên Giáng Tiên lại càng giỏi giang, tấn tới.
Ông Trần Công là một vị hưu quan ở làng Tiên Hương, cùng trong huyện Thiên Bản. Vợ chồng ông cũng đã đứng tuổi mà chưa có con. Một đêm, nghe có tiếng trẻ khóc ở ngoài vườn, ông bà cùng chạy ra thấy một đứa bé sơ sinh nằm dướùi gốc cây đào. Ông bà đem về nhà nuôi, đặt tên là Đào Lang. Lớn lên Đào Lang là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, siêng năng chăm chỉ học hành. Do đã đính ước với nhau từ nhiều năm trước, nên khi Đào Lang và Giáng Tiên đến tuổi trưởng thành, hai bên cha mẹ đã cho đôi trẻ nên duyên vợ chồng.
Về nhà chồng, Giáng Tiên là một người vợ hiền dâu thảo, nói năng khiêm nhường, đối xử có trước có sau. Trong ba năm, nàng sinh được một trai, một gái. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào đúng ngày mồng ba tháng ba Âm lịch, tuyệt nhiên không bệnh tật gì, nàng hóa, lúc ấy vừa tròn 21 tuổi. Cả hai bên cha mẹ và chồng con đau xót tiếc thương nhưng chẳng có cách gì cứu sống được. Trong nỗi buồn vô hạn, kể cả Lê Thái Công, chẳng ai hiểu được lẽ trời đã sắp đặt rồi.
Giáng Tiên, nàng tiên nữ đã về trời, đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con. Những ngày hội quần tiên, những lúc quây quần bên chị bên em cùng bạn bè, bỗng nhiên nàng lại nét mặt sa sầm, rồi lén gạt thầm dòng nước mắt ...Những cử chỉ ấy, cuối cùng rồi cũng đến tai Ngọc Hoàng. Ngài cho gọi nàng lại để nghe nàng giãi bày tâm sự và thỉnh cầu ước nguyện. Khi thấu hiểu, Ngài cho nàng được phép trở lại cõi trần, nhưng đổi tên là Liễu Hạnh.
Khác với lần đi đày trước, lần này do tự nguyện, nên trong lòng nàng hoàn toàn thư thái, vui vẻ, chỉ mong sao cho chóng xuống trần. Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng. Đào Lang, từ ngày vợ mất, vẫn ngày đêm thương nhớ không khuây. Liễu Hạnh đẩy cửa bước vào, gặp nhau vợ chồng con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ.
Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây. Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi. Ròng rã hàng chục năm sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ. Từ đó, tung tích của nàng như mây nổi nước trôi, không nhất định ở một nơi nào cả. Nàng biến hóa và có phép nhiệm mầu như thần như thánh, bởi vì nàng cũng chính là thần thánh. Có khi nàng là cô gái đẹp vừa đi vừa thổi sáo dưới ánh trăng. Có khi nàng là bà lão đầu tóc bạc phơ, ngồi tựa cây gậy trúc ở bên đường. Có khi nàng là người bán hàng, mở quán trên lưng đèo. Lại có khi, như mọi người, nàng đi thăm viếng, vãn cảnh chùa chiền. Người nào giở thói trăng hoa, hoặc làm điều bạc ác, nàng thẳng tay trừng trị.
Tiếng lành đồn xa, tiếng "dữ" cũng đồn xa ... Ở khắp mọi nơi, mọi người thi nhau bàn tán về tung tích, hành vi của nàng. Câu chuyện càng ngày càng được thêu dệt thêm mãi, hư hư thực thực. Và ai ai cũng đều nghiêm trang, kính cẩn gọi nàng là Tiên Chúa. Lần ấy, Tiên Chúa đang hóa phép thành cô gái, mở quán bán cho khách bộ hành ở chân đèo Ngang thuộc Quảng Bình. Lời đồn đại về một cô gái nhan sắc tuyệt vời bỗng đâu xuất hiện ở nơi đèo heo hút gió, làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên. Rồi chỗ nào cũng thấy thì thào bàn tán. Chẳng mấy chốc, lời đồn đại cũng tới tận Kinh đô ! Hoàng tử sắp kế nghiệp, vốn là một chàng trai lười biếng học hành nhưng lại ham chơi bời phóng túng. Có khi còn làm cả những việc khinh mất chẳng giữ gìn đến thể diện quốc gia.
Khi hay tin đồn có người con gái tuyệt vời, Hoàng tử ngày đêm ao ước, đứng ngồi không yên. Nghĩ rằng mình là Hoàng thái tử, ở ngôi Đông cung, sắp tới sẽ được kế vị ngai vàng, thì chẳng lẽ lưu vật ấy còn dành cho ai nữa? Nếu không đến mau, e rằng nàng đã thành gia thất thì thật uổng phí. Thế là, Hoàng tử giấu bặt vua cha, chọn một đoàn bộ hạ tin cẩn rồi lặng lẽ rời khỏi kinh thành, nhằm về hướng nam thẳng tiến. Ngày đi, đêm đi, chỉ dừng lại những khi thật mệt nhọc, chẳng mấy chốc đoàn người ngựa đã gần tới chân đèo Ngang. Ở nơi mở quán, Tiên Chúa bấm độn đã biết có Hoàng tử đang đến tìm mình, lại cũng biết đó là một chàng trai vô vị, tầm thường, kiêu căng mà hiếu sắc. Để răn đe trước, Tiên Chúa hóa phép biến thành cây đào mọc ở bên đường, ngay chỗ Hoàng tử đang dừng chân. Trên cây chỉ có một quả đang chín mọng.
Vừa chợt thấy quả đào, Hoàng tử tưởng là của trời cho, không đợi sai lính hầu, vội trèo ngay lên cây ngắt xuống. Quả đào ửng đỏ, thơm phức, vừa cầm trên tay, Hoàng tử đã vội đưa ngay lên miệng. Bỗng đâu, chỉ trong chớp mắt, quả đào nhỏ dần rồi biến mất, ngay trên tay Hoàng tử. Bọn lính hầu thấy vậy kinh hãi kêu lên, còn Hoàng tử cũng mặt cắt không còn giọt máu. Sau cơn bàng hoàng, cả bọn lại hò nhau lên đường, hoàn toàn không hiểu tý gì về ngầm ý răn đe mà Tiên Chúa đã báo trước.
Khi giáp mặt cô chủ quán, cả thầy lẫn tớ đều thảng thốt thẫn thờ. Thật danh bất hư truyền, chưa bao giờ Hoàng tử thấy một người con gái nào đẹp đến như thế. Và cũng chưa bao giờ chàng ta lại mê mẩn cuồng si đến như thế. Hoàng tử hạ lệnh cho quân lính dừng chân, rồi gọi đồ ăn thức uống loạn xị. Cố tình trưng ra quần áo bảnh diện và những cọc tiền vàng óng. Lại cố tình ăn uống khề khà cho thật chậm thật lâu, cốt sao kể kéo đến tận chiều tối. Rồi khi mặt trời tắt hẳn, cả bọn mới giả bộ ngây ngô, nói rằng trời tối thế này thì đi làm sao được.
Một tên vò đầu bứt tai, xum xoe đến gần cô chủ quán:
- Xin cô vui lòng cho chúng tôi nghỉ lại trong quán một đêm nay, tiền nong hết bao nhiêu chúng tôi cũng chẳng ngại ...
Tiên chúa, thừa rõ tâm tư của cả bọn này, bèn tươi cười đáp:
- Ấy chết, các ông là những người quý phái, nghỉ lại đấy sao tiện. Chỉ đi nửa dặm nữa là có xóm có làng, có dân phu phục dịch. Ở đây vừa mất tiền vừa chật chội. Vả lại quán chúng tôi là phận đàn bà con gái, không nhận trọ khách đàn ông bao giờ.
Nghe thấy thế, Hoàng tử đứng bật dậy sẳn giọng:
- Đàn ông với chẳng đàn bà. Đã là quán hàng, chẳng nơi nào có sự phân biệt như thế. Trời tối rồi, chẳng lẽ để chúng ta ngủ ở giữa đường hay sao? Quân bay, cứ vào dọn dẹp. Tiên Chúa lặng thinh không nói gì. Tưởng chủ quán hoảng sợ, Hoàng tử liền đổi giọng, vừa nói vừa vỗ vỗ vào túi tiền lớn mà tên lính hầu vẫn đeo bên mình:
- Xin cô đừng lo. Chỉ một đêm nay cô cũng kiếm được bằng mấy năm mở quán.
Tiên Chúa bỏ vào phòng trong, không muốn nghe nữa. Ở phòng ngoài, bọn lính hầu thu dọn các thứ vào một góc rồi quây màn trướng cho Hoàng tử nghỉ. Còn bọn chúng thì nằm la liệt quanh quán. Khi ấy đang tiết tháng tám trời thu mát mẻ, và ở giữa chân đèo thoáng đãng, trăng gió lại như khách hữu tình. Hoàng tử sai bày tiệc rượu rồi năn nỉ mời chủ nhân ngồi đối ẩm. Tiên Chúa, phần vì không muốn để người của triều đình mất thể diện, phần thì cũng muốn thử xem bọn này còn định giở trò gì, nên cũng nhận lời.
Dưới ánh đèn, vừa uống rượu Hoàng tử vừa huyên thuyên, khoe khoang đủ mọi thứ chuyện. Nào là nay mai sẽ lên ngôi Thiên tử. Nào là gấm vóc bạc vàng sẽ chẳng thiếu thứ gì. Nào là ai mà được ở ngôi Hoàng hậu thì sẽ là người diễm phúc. Tiên Chúa im lặng lắng nghe, thỉnh thoảng lại gật đầu ra ý tán thưởng, mặc dù đã cười thầm trong bụng. Thấy vậy Hoàng tử tưởng "nàng" đã xiêu lòng, liền hoa chân múa tay rất là đắc ý rồi bất thình lình ôm cô chủ quán. Tiên Chúa bừng bừng nổi giận, gạt phắt Hoàng tử ra chạy thẳng vào trong buồng. Hoàng tử loạng choạng đứng dậy, và trong cơn si cuồng rồ dại cũng chạy vào theo.
Chỉ trong chớp mắt, Tiên Chúa đã phi thân lên núi, bắt ngay một con khỉ cái mang về. Lại hóa phép cho nó thành một cô gái cực kỳ xinh đẹp, còn mình thì biến đi. Ở trong buồng, lúc đầu Hoàng tử chẳng nhìn thấy gì, sau một hồi mắt đã quen với bóng tối, mới lờ mờ nhận thấy "cô gái" đang ở trong góc, bèn nhảy tới, ôm. Đúng lúc ấy "cô gái" lại biến thành con khỉ, do Tiên Chúa đã hóa phép. Hoàng tử kinh hãi rụng rời, kêu rú lên một tiếng thảm thiết, rồi ngã vật ra, bất tỉnh nhân sự.
Bọn lính hầu ở bên ngoài nghe tiếng rú, tưởng cậu chủ bị hại liền bật cả dậy xông thẳng vào buồng. Có tên còn giật vội mấy mẩu nến đang cháy ở bàn tiệc, để soi cho rõ. Trước mặt chúng, cảnh tượng bày ra mới khiếp hãi làm sao. Con khỉ cái miệng rộng đến tận mang tai, nhe hai hàm răng trắng ởn, đang cười lên khành khạch. Rồi vụt một cái, khỉ lại biến thành con rắn hổ mang, bạnh cổ, thè lưỡi phun ra phì phì ... Rắn hổ ngạo nghễ trườn lên người Hoàng tử, rồi trườn lên vách, vươn lên xà nhà, đi mất.
Trong bọn lính hầu, nhiều tên cũng ngất xỉu. Còn lại những tên cứng bóng vía nhất, sau cơn bàng hoàng, vội vực Hoàng tử dậy và lay gọi những tên kia. Chúng nháo nhào cả lên, hà hơi, đánh gió, xoa dầu hàng tiếng đồng hồ sau Hoàng tử mới tỉnh lại. Ngay nửa đêm hôm đó, bọn lính hộc tốc đưa Hoàng tử về trạm gần nhất, rồi từ đấy ngày đi đêm nghỉ, đưa chàng ngược trở lại Kinh đô. Về tới hoàng cung, Hoàng tử đã trở thành một kể ngẩn ngơ, điên điên dại dại ... Cả Hoàng triều bối rối lo sợ. Tìm thầy tìm thuốc có đến cả tháng mà bệnh tình Hoàng tử vẫn không thuyên giảm. Kịp có viên Đại thần người gốc xứ Thanh Hóa đến báo: ở quê có tám vị Kim Cương bùa pháp cực giỏi có thể chữa được bách bệnh, cho người vào xin thì mới cứu được.
Một ngàn năm về trước Phật Bà Quan Âm một lần hiện ra ở biển Đông, hóa phép thành hai cái túi, một ở giữa biển, một ở trên núi Ó thuộc làng An Đông đều ở xứ Thanh. Sau thời gian rất lâu, hai túi nở thành hai đóa hoa, và từ mỗi đóa hoa, lại hiện ra bốn vị thần tướng đều có phép thuật biến hóa thật là huyền nhiệm. Theo lệnh Phật Bà, tám vị thần tướng tỏa đi tám hướng, thân chinh mang thuật pháp tiểu trừ bọn tà ma vẫn đang lẩn quất sách nhiễu trong vùng. Khi bọn tà ma bị diệt, Phật Bà lại triệu hồi họ về chỗ cũ. Người trong vùng vẫn quen gọi là Bát bộ Kim Cương. Lập tức một bọn thị vệ được lệnh nhà vua trở vào Thanh Hóa để xin bùa phép. Nhờ có bùa phép, Hoàng tử dần dần khỏi bệnh.
Sau khi bình phục, Hoàng tử cúi đầu nhận tội trước vua cha, và kể lại sự việc xảy ra ở chân đèo Ngang, tuy nhiên cũng đã tìm cách nói sao để giảm nhẹ lỗi lầm của mình. Nhà vua, vốn sẵn cảm tình với bà phi sinh ra Hoàng tử thứ hai, nên chẳng ngại ngần truất ngôi Đông cung của Hoàng thái tử và lập con thứ lên thay. Tuy vậy, tay đứt ruột xót, lại căm giận một kẻ tiện dân mà dám động vào người Hoàng tộc, nên trong bụng nghĩ phải quyết ra tay diệt trừ. Vì nghe câu chuyện có vẻ lạ lùng nên nhà vua chẳng dám khinh xuất, bèn cho tên tướng thân tín cùng một tốp lính đi điều tra nội vụ. Một tháng sau, viên tướng trở về tấu trình ngọn ngành mọi chuyện. Nhà vua, vốn là bậc cao kiến, nghĩ rằng chỉ có các Pháp sư và Phù thủy cao tay mới có thể diệt trừ được kẻ "yêu nữ" này. Các Pháp sư và Phù thủy lừng danh trong nước lập tức được lệnh triệu hồi về kinh, dẫn sĩ tốt đi chinh phạt.
Chẳng bao lâu sau, những kẻ sống sót đều phải quay về, nạp mình trước sân rồng hoạch tội, vì chẳng những không bắt được nữ chủ quán mà lại còn bị đánh cho tan tác, tơi bời. Bất đắc dĩ, nhà vua phải cầu cứu đến tám vị Kim Cương. Tám vị này, vốn là những bậc tu hành, chẳng mặn mà gì đến chuyện đánh dẹp của triều đình, lần trước có cho bùa phép thì chẳng qua chỉ là muốn cứu vớt một kẻ nạn nhân mà thôi. Nhà vua phải cho đại thần mang lễ vật đi lại nhiều lần mới thỉnh cầu được họ. Các vị Kim Cương, sau khi nhận lời, bèn phi thân tới đèo Ngang. Sau khi bài binh bố trận xong, họ dụ Tiên Chúa vào giữa, rồi từ tám hướng tiến vào đánh.
Ở giữa vòng vây, Tiên Chúa chẳng hề nao núng, ứng phó cực kỳ linh hoạt. Các phép thuật của các vị Kim Cương đều bị mất hiệu lực. Cây đổ, đá lăn, thú dữ nhe nanh múa vuốt cũng không làm hại được Tiên Chúa. Thoắt biến rồi thoắt hiện, các phép thuật của các vị Kim Cương đều như nhằm vào chỗ không người, nhiều khi lại nhầm vào nhau, tự gây ra thiệt hại. Tiên Chúa thản nhiên như thường còn các vị Kim Cương càng lúc lại càng thấm mệt. Khi đã núng thế, một vị bay vút lên trời, đi cầu khẩn Đức Phật, xin một cái túi, nói là để bắt yêu tinh vừa mới xuất hiện. Đức Phật lúc ấy đang bận, nên đã vô tình ném túi cho. Nhờ cái túi thần, cuối cùng các vị Kim Cương đã lừa bắt được Tiên Chúa. Họ đưa Tiên Chúa về kinh, trình trước sân rồng. Nhà vua sai thiết triều rồi xét hỏi:
- Nhà ngươi là ai?
- Muôn tâu.. Tiên chúa đáp. Tôi là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng Đế, xuống trần làm người mở quán bán hàng.
- Mở quán bán hàng thì cớ sao lại làm hại đến Hoàng tử?
- Thưa ... ở đời có lửa thì ắt có khói, có nhân ắt có quả. Tôi chỉ trừng trị kẻ nào làm điều bất thiện mà thôi. Nếu đấy là Hoàng tử thì lại càng phải xử công minh để làm gương cho bàn dân thiên hạ, như vậy mới là đúng với phép nước.
Nhà vua thấy không còn gì hỏi được nữa, nhưng cũng chẳng thể để mất thể diện quốc gia, bèn để nét mặt ra vui tươi, rồi hỏi:
- Công nương nói chí phải. Ta đã có chiếu trách phạt Hoàng tử rồi. Nay chỉ muốn hỏi công nương cho rõ mọi chuyện mà thôi.
Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của Hoàng tử, Nhà vua đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may mắn. Tiên Chúa không trở lại chân đèo Ngang nữa, mà lại vân du theo hướng Bắc, đến miền xứ Lạng, là nơi có nhiều phong cảnh đẹp. Các động Tam Thanh, Nhị Thanh ... là nơi Tiên Chúa thường hay thăm viếng. Một lần đang trên đường, Tiên Chúa gặp đoàn sứ do Phùng Khắc Khoan dẫn đầu đi sứ sang Trung Hoa. Gặp người con gái đẹp, xưa nay chưa từng thấy bao giờ, ông chánh sứ cảm kích ứng khẩu đọc liền một bài thơ tứ tuyệt. Nào ngờ nghe xong,Tiên Chúa cũng ứng khẩu đọc luôn mấy câu thơ đối lại.
Các vị trong đoàn sứ bộ thảy đều ngạc nhiên, và cảm phục vì tài đối đáp, vì lời thơ vừa trang nhã lại đầy ý tứ. Thế là họ bảo nhau dừng chân mấy ngày ở trạm nghỉ, rồi mời Tiên Chúa ở lại cùng nhau xướng họa đề thơ. Khi hỏi lai lịch, nơi ở, Tiên Chúa chẳng nói năng gì mà chỉ đọc lên một bài thơ đố. Phùng Khắc Khoan vốn là người nhanh trí, hiểu rằng người con gái này chẳng phải người thường, bèn đọc một bài thơ hẹn gặp lại, sau khi đoàn sứ trở về. Nhớ lời hẹn, một năm sau Tiên Chúa có mặt ở vùng Hồ Tây ngay bên cạnh kinh thành. Khi ấy Phùng Khắc Khoan đã hoàn thành sứ mạng trở về, cùng hai người bạn là ông Ngô, ông Lý đang đi vãn cảnh. Họ gặp nhau mừng rỡ, chuyện trò, rồi lại đề thơ, xướng họa như xưa. Cả ba người, là những bậc tài danh đương thời, đều hết lòng thán phục tài thơ của Tiên Chúa vừa thanh cao, lại vừa huyền nhiệm, không lời nào có thể nói hết được.
Sau khi từ biệt ba nhà thơ, Tiên Chúa vân du vào làng Sóc, thuộc tỉnh Nghệ An ngày nay, cũng là một nơi có phong cảnh đẹp. Ở làng này hiện đang có một chàng thư sinh tuy cha mẹ mất sớm, nhà lại rất nghèo, nhưng vẫn ngày đêm miệt mài kinh sử. Tiên Chúa biết chàng chính là hậu thân của Đào Lang ngày trước, bèn biến thành một phụ nữ, lúc đầu đến giúp đỡ, rồi sau đó kết duyên vợ chồng. Hai bên yêu nhau, chẳng cần phải có người mối lái. Nàng giúp cho chàng yên tâm chuyên cần vào việc đèn sách, chẳng phải lo nghĩ gì đến chuyện sinh nhai, thế rồi khi nhà vua mở khoa thi, chàng đã đỗ đại khoa và được bổ vào Hàn Lâm viện. Nàng sinh cho chàng một đứa con trai, thật là đẹp đẽ kháu khỉnh. Nhưng tình duyên của họ cũng chẳng được lâu dài.
Khi đứa con vừa tròn năm tuổi thì người mẹ đột ngột qua đời, vì chính lúc đó Tiên Chúa có lệnh gọi của Ngọc Hoàng, phải về trời gấp. Người chồng đau xót, cùng lúc nỗi đau càng như xé ruột xé gan. Chàng chẳng nghĩ đến chuyện tục huyền, cũng chẳng nghĩ đến chuyện cửa công. Thế là chàng xin từ quan, lui về quê nuôi đứa con côi, vui thú với cây cỏ sông nước, và giữ mãi trong lòng những kỷ niệm ngọt ngào của mối tình đầu. Về phần mình, ở trên trời, Tiên Chúa cũng không sao quên được cõi trần. Lúc nào Tiên Chúa cũng thấy lẻ loi giữa cảnh phồn hoa đô hội. Trong tâm trí Tiên Chúa, lúc nào cũng như in mọi cảnh dưới trần, và cùng với nó, là cảm xúc càng lúc càng thêm bồi hồi da diết. Ôi! Cõi trần gian, nơi nhiều nỗi vất vả lo toan mà sao lại thân thương thiết tha đến thế!
Dưới cõi trần, còn bao nhiêu điều chưa thấy, bao nhiêu nơi chưa biết, bao nhiêu việc chưa làm! Những miền danh lam thắng cảnh vẫy gọi, những bậc hiền tài cần tiếp kiến, rồi cả những nỗi khốn khó cô đơn, những điều bất công ngang trái. Tất cả đều cần phải có bàn tay của Tiên Chúa đưa ra giúp, phù trì. Thế là Tiên Chúa khẩn thiết xin với vua cha cho trở lại cõi trần gian và được ở lại vĩnh viễn, vì cả hai lần trước đều nửa đường đứt gánh, mới dở dang đau xót làm sao. Ngọc Hoàng Thượng Đế lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài nhìn đứa con gái út, một khúc ruột, một phần xương thịt của mình dứt ra mà nay đã đến lúc trưởng thành, để có thể thay mặt mình ở dưới cõi trần được. Mặc dù tình cha con là thiêng liêng, là vô cùng quyến luyến, nhưng Ngài đã vui vẻ chấp thuận cho nàng ra đi, vì nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để những chủ trương ở trên trời của mình có thể thực thi ở cõi thế. Ngài cho gọi hai thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa bảo cùng đi với nàng, vừa để giúp đỡ, vừa để cho có bầu có bạn.
Lần này Tiên Chúa xuống thẳng miền phố Cát. Ở đây, cũng như những lần trước Tiên Chúa thường hiển linh giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác. Khi là cô gái thổi sáo, khi là bà lão chống gậy, khi là một người hành hương đến cửa Phật, hành tung của Tiên Chúa biến hóa thật khôn lường. Thế là trong dân chúng lại nảy sinh những lời đồn đại, rồi mọi người cùng nhau góp của góp công, dựng một ngôi đền để lấy chỗ phụng thờ Tiên Chúa. Những ngày tuần ngày tiết, dân chúng các nơi nô nức tìm về, đông vui nhộn nhịp xung quanh ngôi đền. Mọi ngườøi ai cũng muốn một lần được chứng kiến sự hiển linh của Tiên Chúa.
Lời đồn đại và những sự việc ấy, lan ra mãi, cuối cùng đã tới Kinh đô, lọt đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả "yêu nữ" ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì trong cõi trị vì của họ không thể có luật lệ nào khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự quyền. Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến Kinh đô, giao cho dẫn một một đội quân Vũ lâm hùng mạnh, đến thẳng miền phố Cát để đánh dẹp. Một trận giao chiến ác liệt đã diễn ra. Bên Tiên Chúa đền đài bị phá tan tành nhưng bên phía triều đình cũng bị thất điên bát đảo, xác lính chết ngổn ngang, cuối cùng đành phải rút quân. Vua Lê chúa Trịnh vô cùng tức giận vì không bắt được "yêu nữ" đem về. Nghe lời các thuật sĩ, hai vị cho vời tiền quân Thánh là một thuật sĩ tài danh bậc nhất đương thời để làm chủ tướng.
Lại nói Tiền quân Thánh vốn là một thân tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị dáng xuống làm con trai thứ ba của một vị Thượng sư, sư tổ của phái Nội đạo tràng, một phái tu nổi tiếâng lúc bấy giờ. Hai người anh là Tả quân và Hữu quân đều có pháp thuật cao cường, tu ở núi Côn Sơn, còn Tiền quân thì tu ngay tại làng, tức làng Từ Minh ở Thanh Hóa, và có nhiều pháp thuật cao cường hơn cả. Vốn trước kia cha ông họ là những viên quan lại, đã từng ăn lộc triều đình, nên bây giờ, mặc dù không muốn, cả ba anh em vẫn phải cầm quân ra trận. Tiền quân đi trước, còn hai người anh đi ở hai bên. Đến Tam Điệp, Tiền quân sai đóng quân lại, còn mình cải trang làm một dân thường, cỡi ngựa trắng đến Sòng Sơn gặp Tiên Chúa vì lúc này Tiên Chúa đã rời Phố Cát về đây. Vốn đã quen biết từ trên Thiên đình, nên khi gặp, Tiền quân làm ra vẻ hết sức thân mật, tự nhiên:
- Đi ngang qua đây, nghe sắp có giao chiến chẳng biết phải trái thế nào. Ta chỉ sợ nàng sức gái không đủ đối phó nên hạ sơn xem liệu có thể giúp đỡ được việc gì chăng? Thuật pháp của nàng thế nào hãy để ta xem, nếu thiếu ta sẽ dạy thêm cho.
Tiên Chúa tin lời Tiền quân nói là thật, hoàn toàn không biết đến việc Tiền quân do mắc lỗi mà phải xuống trần cho nên đã giở tất cả các pháp thuật ra cho Tiền quân xem. Xem xong Tiền quân làm ra vẻ hết sức vui mừng sửng sốt:
- Thật là tuyệt! Như thế này cũng đã thừa đủ rồi, ta chẳng cần phải dạy thêm cho nàng điều gì nữa!
Nói xong liền biến đi ngay. Thấy thế Tiên chúa cũng hơi chột dạ. Tiền quân thánh trở về nơi hạ trại, cùng hai anh bàn nhau cách xuất quân, rồi ngay đêm ấy tiến đánh. Tiên Chúa lúc đấy cùng Quỳnh Hoa, Quế Hoa đang nằm nghỉ, nghe tiếng quân lính reo hò, biết ngay là có biến, bèn bật dậy nai nịt gọn gàng, hóa phép thành trùng trùng rào gai vây quanh Sòng Sơn, lại hóa phép thành muôn ngàn quân sĩ giáo mác cung tên sẳn sàng nghênh chiến. Khi trông thấy Tiền quân thánh ở phía đối diện, Tiên chúa vừa khinh bỉ vừa tức giận vô cùng. Chẳng ngờ đường đường một vị thần tướng trên trời lại đi đầu quân đánh nhau vì một lũ vua chúa tham lam ở dưới trần, chẳng những thế, lại còn giở trò hèn hạ lường gạt cả tiên nữ. Những thuật pháp của Tiên Chúa tung ra đều hết sức nhiệm màu, và Tiền quân Thánh, mặc dù đã biết trước, cũng phải đối phó thật là chật vật. Tuy vậy bên phía Tiền quân Thánh, do có hai người anh trợ lực, lại quân lính đông hơn, nên dần dần đã bao vây được Tiên Chúa.
Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc lóng lánh, múa lượn trên không. Tiền quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Thế là Tiên Chúa bị bắt, rồi bị biến nguyên hình trở lại. Tiền quan sai lính mang dây đồng tới trói ... Giữa lúc ấy Phật tổ bỗng nhiên xuất hiện. Tuy ngồi ở nơi tu thiền nhưng ngài biết rõ mọi chuyện. Ngài có mặt là để giải cứu cho Tiên Chúa, Ngài xét thấy, phần lớn đều phù hợp với tâm nguyện của Ngài. Khi vừa thấy Phật tổ, Tiền quân Thánh liền sững ngay lại, thay vì dây đồng đã sai quân lính mang đến cho Tiên Chúa một bộ quần áo cà sa và một chiếc mũ ni cô. Tiên Chúa nhận áo mũ rồi thoắt biến lên mây cùng với Phật tổ.
Ở Kinh đô lúc này vua Lê chúa Trịnh đang buổi thiết triều, thấy quân về báo tin thắng trận thì mừng rỡ vô cùng: Thế là từ nay có thể thở phào nhẹ nhõm! Mấy tháng sau hai vị vua chúa lại nhận được tin ở miền phố Cát, Tiên Hương và Sòng Sơn đang xảy ra nạn dịch. Trâu bò gia súc chết ngổn ngang, người ốm lăn lóc. Chẳng có người chăm sóc nên đồng bãi tiêu điều, côn trùng thả sức phá hoại ... Nạn dịch này, từ trước đến nay, từ vua chúa cho đến dân thường cho là Tiên Chúa gây ra, để trả thù cho lần thất bại. Sự thực thì hoàn toàn không phải thế . Đấy là cái nạn dịch luôn đi kèm sau mỗi cuộc chiến tranh. Bao giờ cũng vậy khi sức người đã cạn kiệt, lại đói ăn khát uống và làm việc quá sức rồi nguồn nước và không khí hôi rình xác tử thi, thì lẽ dĩ nhiên, bệnh dịch sẽ phải phát sinh ra nhiều. Có trách là trách những kẻ gây ra chiến tranh phi nghĩa, chứ chẳng nên trách những người tự vệ.
Thế nhưng, do tin là để Tiên Chúa mất lòng đã gây ra bệnh dịch nên Nhà vua đã ra lệch cho quan sở tại xây lại đền thờ ở các miền phố Cát, Tiên Hương và Sòng Sơn. Dân chúng khi biết tin này cũng nhiệt liệt hưởng ứng, góp công góp của. Thế là, chẳng mấy chốc ở những nơi này đền đài mọc lên, bề thế nguy nga chẳng kém gì nơi cung vua phủ chúa, xứng đáng với công sức của Tiên Chúa và cũng xứng đáng với niềm tin yêu tin cậy của mọi người. Tại các nơi ấy, hàng năm vào dịp hội hè và các ngày lễ tết, người dân các nơi lại náo nức tìm về, mang lễ vật hương hoa tưởng niệm Tiên Chúa và cũng là mong Tiên Chúa năng hiển linh, phù hộ độ trì. Và bao giờ cũng vậy trong các ngày hội, sau phần lễ tế, đều có các trò vui chơi dân giã.
Các triều vua về sau, mỗi khi mang quân xuất chinh, hay làm việc gì hệ trọng cũng đều cử Đại Thần về đây tế lễ, cầu xin và hậu tạ sau khi công quả toại nguyện. Càng ngày các nơi ấy càng trở nên linh thiêng và thành niềm tin bền vững trong lòng mọi người. Sắc thượng phong của triều Lê, đặt hiệu của Tiên Chúa là "Mã Hoàng công chúa", rồi về sau, thấy cầu được ước thấy, bèn đặt thêm là "Mã Hoàng công chúa Chế thăng hòa diệu Đại vương". Chẳng những ở ba nơi kể trên, mà các nơi khác: Đèo Ngang Quảng Bình, Xứ Nghệ, Xứ Lạng và Tây Hồ ven sát kinh thành, những nơi trước kia đã từng lưu dấu Tiên Chúa, dân chúng cũng lập đền thờ tưởng niệm. Tùy khả năng và phong tục của mỗi nơi, chỗ thờ tự và lễ vật có thể khác nhau, nhưng thảy đều xuất phát từ lòng biết ơn và sự cầu mong chân thành.
Còn những nơi Tiên Chúa chưa từng đặt chân đến, mọi người cũng cầu mong có dịp nào đó Ngài sẽ giáng lâm, và do vậy, khắp các làng quê, ở đâu cũng lập điện thờ. Điện thờ được lập ở mé bên hoặc mé sau Phật điện là nơi thờ Phật. Nhân dân kính cẩn gọi Tiên Chúa là Thánh Mẫu, nhưng nhiều khi giản dị và dân giã hơn, gọi Tiên Chúa là Mẫu Liễu. Mẫu Liễu là niềm tin, là sự cầu mong của tất cả mọi người. Mẫu cũng chính là lương tâm, là sự toàn thiện mà tri giác của con người cần phải vươn tới.
Lịch Sử
#139
Gửi vào 26/06/2011 - 14:12
MẪU THƯỢNG NGÀN
Lâm Cung Thánh Mẫu hay Mẫu Thượng Ngàn hoặc Bà Chúa Thượng Ngàn là một trong ba vị mẫu được thờ cúng tại điện Mẫu, cạnh đình, chùa của người Việt, chủ yếu ở miền bắc và miền trung Việt Nam. Bà được tạc thành hình một phụ nữ đẹp, phúc hậu, ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay chắp và mang trang phục màu xanh khi được đặt cùng hai vị mẫu kia là Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Thoải hoặc được thờ riêng trong một điện.
Việc thờ phụng Mẫu Thượng Ngàn là một đặc điểm của tín ngưỡng gắn liền với núi rừng của người Việt. Bà là một nhân vật mang tính truyền thuyết và đóng vai trò quan trọng trong tín ngưỡng hầu bóng tam phủ hay tứ phủ.
Truyền Thuyết
Bà là con gái của Sơn Tinh (tức Tản Viên Sơn Thánh) và công chúa Mỵ Nương (trong truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh cả hai cùng cầu hôn Mỵ Nương, con gái vua Hùng). Khi còn trẻ, Mẫu là một cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, được cha mẹ đặt tên là La Bình.
Học Tập
La Bình thường được cha cho đi cùng, đến khắp mọi nơi, từ miền núi non hang động đến miền trung du đồi bãi trập trùng. Trong địa hạt mà Tản Viên Sơn Thánh cai quản, ông đã dạy dân không thiếu điều gì, từ săn bắn thú dữ đến chăn nuôi gia súc, từ trồng cây ăn quả, trồng lúa nương đến việc đắp ruộng bậc thang, trồng lúa nước v.v. hay dựng nhà dựng cửa, hái cây thuốc chữa bệnh. Ông cũng thường dùng các vị sơn thần, tù trưởng luận đàm thế sự và bàn soạn công việc. Do luôn luôn được theo cha như thế nên La Bình cũng học hỏi được rất nhiều điều. Vốn thông minh sáng dạ, lại chăm chỉ thực hành nên việc gì La Bình cũng biết, cũng giỏi.
Những khi Sơn Tinh bận việc hay không thể đi khắp những nơi mà dân chúng cần đến thì La Bình thường được cha cho đi thay. Những lần như thế, La Bình luôn tỏ ra là một người đầy bản lĩnh, biết tự chủ trong giao tiếp, lại cũng biết thành thạo trong mọi công việc. Các sơn thần, tù trưởng đặc biệt quý trọng nàng, coi nàng là người đại diện xứng đáng của Sơn Thánh. Còn bản thân nàng, chẳng những hòa hợp, ân cần với mọi người, mà còn rất thân thuộc, quyến luyến với phong cảnh, từ cây cỏ hoa lá đến hươu nai chim chóc ...
Cai Quản
Khi Tản Viên và Mỵ Nương, theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế trở về trời thành hai vị thánh bất tử thì La Bình cũng được phong là công chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm nhận công việc dưới trần, nghĩa là trông coi tất cả 81 cửa rừng và các miền núi non hang động, các miền trung du đồi bãi trập trùng của nước Nam. Trở thành chúa tể của miền núi non và trung du, công chúa Thượng Ngàn vẫn luôn luôn chăm chỉ, hàng ngày hết sức làm tròn các trọng trách của mình. Bà bảo ban các loài cầm thú phải biết sống hòa hợp với nhau, dạy chúng đừng ăn những loài quả độc, nấm độc, biết tránh khỏi những cây cối đổ, những cơn lũ quét ...
Bà dạy bảo con người cũng thật chu đáo, tỉ mỉ. Những gì cha bà đã dạy, bà đều đem ra áp dụng. Khi tiếp xúc với các tù trưởng, bà cũng học thêm ở họ được nhiều điều. Thế là bà lại đem những điều hiểu biết mới đi truyền bá ra mãi. Bà cải tiến và hoàn thiện thêm những gì mà trước kia, ở cha bà mới chỉ là bắt đầu. Làm nhà không những đã chắc chắn, lại còn phải biết chạm trổ cho thật đẹp đẽ. Ở mũi các thuyền độc mộc cũng thế, có khắc cả hình hai đầu rồng chạm hẳn vào nhau.
Cách nấu nướng thức ăn,chẳng những chỉ có kho, luộc mà còn chế thêm ra được nhiều món mới. Rồi công việc đồng áng, bà dạy mọi người cách lấy ống bương để dẫn nước từ khe núi xuống. Lại đi phân phát hạt giống, cho nên nơi nào cũng có cơm dẻo nếp thơm. Trong các con vật nuôi trong nhà, bà đem về thêm nhiều giống gia súc mới. Lại trồng thêm nhiều giống cây ăn quả. Rồi trồng cả những hoa thơm cỏ lạ lấy từ trên rừng núi về ...
Ngọc Hoàng Thượng đế còn ban tặng cho bà thêm nhiều phép thuật thần thông, đi mây về gió, và trở thành vị Thánh bất tử để luôn luôn gần gũi, gắn bó với cõi trần, vĩnh viễn ở miền trung du và núi non hùng vĩ. Khi dân chúng sinh sôi nảy nở ra thêm, từ miền núi non và trung du tràn xuống các miền đồng bằng và ven biển, đã mang theo những cách thức làm ăn và phong tục tập quán từ hồi còn ở trong rừng, dưới sự bảo ban dìu dắt của công chúa Thượng Ngàn.
Cùng với nhiều vị thần thánh khác, công chúa Thượng Ngàn vẫn ngày đêm lặng lẽ âm phù cho sự bình yên của mọi người dân nước Việt. Nhiều người gọi bà là Mẫu, một cách vừa trìu mến gần gũi mà cũng vừa tôn kính.
Phù Hộ
Người ta cho rằng các chiến công quân sự của nhiều triều đại Việt Nam đều có sự phù hộ của bà. Vì thế, các triều đại này, sau khi thắng lợi đều có lễ tạ ơn và có sắc thượng phong cho bà là công chúa. Một truyền thuyết cho rằng hồi đầu thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn, lúc ấy lực lượng nghĩa quân còn yếu, đang đồn trú ở Phản Ấm thì quân Minh kéo đến bao vây. Nghĩa quân người ít chống cự không nổi, phải tan tác mỗi người mỗi nơi.
Trong đêm tối, công chúa Thượng Ngàn đã hóa phép thành bó đuốc lớn, soi đường cho quân sĩ, tập hợp và dẫn dắt họ đi vào đất Mường Yên, về cơ sở núi Chí Linh. Ánh đuốc thiêng của bà, chỉ quân sĩ của Lê Lợi biết được, còn quân Minh không thể nào nhìn thấy. Ở Chí Linh, nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tập luyện và tập hợp, phát triển thêm lực lượng. Thật gian khổ, lắm phen không còn lương thực, phải lấy củ nâu củ mài thay cơm, nhưng nhờ sự che chở của công chúa Thượng Ngàn, quân đội của Lê Lợi vẫn ngày một thêm lớn mạnh.
Quân Minh nhiều lần đến bao vây cũng đành phải chịu rút về. Từ Chí Linh, quân Lê Lợi tiến vào giải phóng Nghệ An, Thuận Hóa. Sau đó, với những trận thắng oanh liệt ở Tốt Động, Chúc Động, Chi Lăng và cuối cùng, bao vây quân Minh ở Đông Quan để kết thúc cuộc chiến, lập lại hòa bình cho nước Việt.
Thờ Phụng
Bà chúa Thượng Ngàn, cũng như nhiều vị thần thánh khác, được nhiều người tôn thờ, và được coi là hồn thiêng của sông núi, bao nhiêu đời nay dẫn dắt con cháu vững bước đi lên. Bà có mặt ở khắp nơi, theo bước chân của dân chúng, khi ở miền rừng núi rồi xuống miền đồng bằng. Vì vậy, ở nhiều nơi người dân lập điện thờ, thờ phụng bà. Tuy nhiên, đại bản doanh của bà vẫn là vùng núi non và các cửa rừng. Những người đi rừng, muốn được bình yên, vạn sự tai qua nạn khỏi, thường đến cầu xin sự che chở, phù trợ của bà. Ai muốn săn bắt hay khai thác thứ gì trong rừng, cũng đặt lễ, thắp hương, cầu xin để được bà chấp thuận.
ST
THÁNH MẪU CAO TIÊN
Vào thời Vĩnh Trị nhà Lê, năm 1675, vua Lê Hi Tôn phải chống nhau với Mạc Kính Vụ, cháu Mạc Đăng Dung, kẻ võ tướng xuất thân thuyền chài đã chiếm đoạt ngôi vua trong một thời. Bị quan quân nhà Lê đánh đuổi, con cháu Mạc Đăng Dung lui về miền thượng du, chiếm cứ bốn châu ở vùng Cao Bằng, truyền kế mấy đời trong 85 năm. Mạc Kính Vụ là kẻ nối dõi cuối cùng của nhà Mạc, xây thành đắp lũy ở hạt Vũ Thúy, tỉnh lỵ Cao Bằng ngày nay, để chống lại nhà Lê.
Vua Lê Hi Tôn cầu viện Tổng Đốc Quảng Tây là Lai Thập Lợi phái một đạo quân từ Tàu đánh sang Cao Bằng, còn một mặt cử Đinh Văn Tả thống xuất một đạo quân từ Trung Châu kéo lên tấn công Mạc Kính Vụ. Bị vây đánh cả hai mặt Mạc Kính Vụ phải chạy lánh sang Trung Hoa để Cao Bằng lọt vào tay nhà Lê. Khi thành trì nhà Mạc rơi vào tay đối phương, công chúa Mạc Cao Tiên ngồi lên xe voi chạy thoát. Voi chở công chúa đi về phía sông Bằng Giang, dấn mình xuống giòng nước chảy xiết để vượt qua sông, nhằm hôm nước lũ đổ về, sóng nước cuồn cuộn lôi cuốn cả voi theo, công chúa bị giòng nước mạnh kéo đi.
Xác công chúa chìm đắm trôi dạt đến Vực Sô ở ngay dưới chân thành Cao Bằng. Quân sĩ không khỏi để ý thấy một đàn chim hàng mấy nghìn con sà cánh bay liền nhau bên trên xác người con gái nổi ở mặt nước, quanh quẩn che nắng cho nàng suốt cả một ngày, đến lúc mặt trời nghiêng bóng mới đi. Một người con trai trông thấy trên mặt nước xác một thiếu nữ vận sắc phục sang trọng, tính lại gần để vớt lên, thì xác kẻ bạc mạng như tị hiềm nỗi trai gái gần kề, bèn trôi xa khỏi bờ, rồi tấp đến chân một người đàn bà vừa bước xuống bến sông.
Các quan được tin vị công chúa nhà Mạc đã bỏ mình một cách linh hiển như vậy, liền ra lệnh tống táng nàng theo nghi lễ trọng thể và chôn ở trên thành cao.
Dân chúng ở trong vùng được công chúa hiển linh ban ơn, ban phước mới dựng một ngôi đền dưới gốc cây đa ở Vực Sô, thờ nàng như một vị thần. Sau đó đền dời vào giữa tỉnh Cao Bằng, ở hạt Cam Mỹ. Để tỏ lòng thành kính đối với công chúa, mỗi vị quan đến trị nhậm nơi đây đều tự tay trồng lấy một cây đa ở trước cửa đền. Ngày nay còn nhiều cây đa to lớn trước đền, có ngọn cao đến bốn, năm mươi thước, rễ trùm lấp cả bia.
Đến triều Nguyễn, vua Thành Thái phong nàng Cao Tiên là Thánh Mẫu Bảo Quốc. Người ta kể lại rằng Thánh Mẫu rất thiêng, ai qua lại trước cửa đền mà không giở nón hay xuống ngựa thì lập tức bị một sức vô hình quật ngã, phải hương đèn cúng lạy mới được yên.
ST
Lâm Cung Thánh Mẫu hay Mẫu Thượng Ngàn hoặc Bà Chúa Thượng Ngàn là một trong ba vị mẫu được thờ cúng tại điện Mẫu, cạnh đình, chùa của người Việt, chủ yếu ở miền bắc và miền trung Việt Nam. Bà được tạc thành hình một phụ nữ đẹp, phúc hậu, ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay chắp và mang trang phục màu xanh khi được đặt cùng hai vị mẫu kia là Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Thoải hoặc được thờ riêng trong một điện.
Việc thờ phụng Mẫu Thượng Ngàn là một đặc điểm của tín ngưỡng gắn liền với núi rừng của người Việt. Bà là một nhân vật mang tính truyền thuyết và đóng vai trò quan trọng trong tín ngưỡng hầu bóng tam phủ hay tứ phủ.
Truyền Thuyết
Bà là con gái của Sơn Tinh (tức Tản Viên Sơn Thánh) và công chúa Mỵ Nương (trong truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh cả hai cùng cầu hôn Mỵ Nương, con gái vua Hùng). Khi còn trẻ, Mẫu là một cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, được cha mẹ đặt tên là La Bình.
Học Tập
La Bình thường được cha cho đi cùng, đến khắp mọi nơi, từ miền núi non hang động đến miền trung du đồi bãi trập trùng. Trong địa hạt mà Tản Viên Sơn Thánh cai quản, ông đã dạy dân không thiếu điều gì, từ săn bắn thú dữ đến chăn nuôi gia súc, từ trồng cây ăn quả, trồng lúa nương đến việc đắp ruộng bậc thang, trồng lúa nước v.v. hay dựng nhà dựng cửa, hái cây thuốc chữa bệnh. Ông cũng thường dùng các vị sơn thần, tù trưởng luận đàm thế sự và bàn soạn công việc. Do luôn luôn được theo cha như thế nên La Bình cũng học hỏi được rất nhiều điều. Vốn thông minh sáng dạ, lại chăm chỉ thực hành nên việc gì La Bình cũng biết, cũng giỏi.
Những khi Sơn Tinh bận việc hay không thể đi khắp những nơi mà dân chúng cần đến thì La Bình thường được cha cho đi thay. Những lần như thế, La Bình luôn tỏ ra là một người đầy bản lĩnh, biết tự chủ trong giao tiếp, lại cũng biết thành thạo trong mọi công việc. Các sơn thần, tù trưởng đặc biệt quý trọng nàng, coi nàng là người đại diện xứng đáng của Sơn Thánh. Còn bản thân nàng, chẳng những hòa hợp, ân cần với mọi người, mà còn rất thân thuộc, quyến luyến với phong cảnh, từ cây cỏ hoa lá đến hươu nai chim chóc ...
Cai Quản
Khi Tản Viên và Mỵ Nương, theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế trở về trời thành hai vị thánh bất tử thì La Bình cũng được phong là công chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm nhận công việc dưới trần, nghĩa là trông coi tất cả 81 cửa rừng và các miền núi non hang động, các miền trung du đồi bãi trập trùng của nước Nam. Trở thành chúa tể của miền núi non và trung du, công chúa Thượng Ngàn vẫn luôn luôn chăm chỉ, hàng ngày hết sức làm tròn các trọng trách của mình. Bà bảo ban các loài cầm thú phải biết sống hòa hợp với nhau, dạy chúng đừng ăn những loài quả độc, nấm độc, biết tránh khỏi những cây cối đổ, những cơn lũ quét ...
Bà dạy bảo con người cũng thật chu đáo, tỉ mỉ. Những gì cha bà đã dạy, bà đều đem ra áp dụng. Khi tiếp xúc với các tù trưởng, bà cũng học thêm ở họ được nhiều điều. Thế là bà lại đem những điều hiểu biết mới đi truyền bá ra mãi. Bà cải tiến và hoàn thiện thêm những gì mà trước kia, ở cha bà mới chỉ là bắt đầu. Làm nhà không những đã chắc chắn, lại còn phải biết chạm trổ cho thật đẹp đẽ. Ở mũi các thuyền độc mộc cũng thế, có khắc cả hình hai đầu rồng chạm hẳn vào nhau.
Cách nấu nướng thức ăn,chẳng những chỉ có kho, luộc mà còn chế thêm ra được nhiều món mới. Rồi công việc đồng áng, bà dạy mọi người cách lấy ống bương để dẫn nước từ khe núi xuống. Lại đi phân phát hạt giống, cho nên nơi nào cũng có cơm dẻo nếp thơm. Trong các con vật nuôi trong nhà, bà đem về thêm nhiều giống gia súc mới. Lại trồng thêm nhiều giống cây ăn quả. Rồi trồng cả những hoa thơm cỏ lạ lấy từ trên rừng núi về ...
Ngọc Hoàng Thượng đế còn ban tặng cho bà thêm nhiều phép thuật thần thông, đi mây về gió, và trở thành vị Thánh bất tử để luôn luôn gần gũi, gắn bó với cõi trần, vĩnh viễn ở miền trung du và núi non hùng vĩ. Khi dân chúng sinh sôi nảy nở ra thêm, từ miền núi non và trung du tràn xuống các miền đồng bằng và ven biển, đã mang theo những cách thức làm ăn và phong tục tập quán từ hồi còn ở trong rừng, dưới sự bảo ban dìu dắt của công chúa Thượng Ngàn.
Cùng với nhiều vị thần thánh khác, công chúa Thượng Ngàn vẫn ngày đêm lặng lẽ âm phù cho sự bình yên của mọi người dân nước Việt. Nhiều người gọi bà là Mẫu, một cách vừa trìu mến gần gũi mà cũng vừa tôn kính.
Phù Hộ
Người ta cho rằng các chiến công quân sự của nhiều triều đại Việt Nam đều có sự phù hộ của bà. Vì thế, các triều đại này, sau khi thắng lợi đều có lễ tạ ơn và có sắc thượng phong cho bà là công chúa. Một truyền thuyết cho rằng hồi đầu thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn, lúc ấy lực lượng nghĩa quân còn yếu, đang đồn trú ở Phản Ấm thì quân Minh kéo đến bao vây. Nghĩa quân người ít chống cự không nổi, phải tan tác mỗi người mỗi nơi.
Trong đêm tối, công chúa Thượng Ngàn đã hóa phép thành bó đuốc lớn, soi đường cho quân sĩ, tập hợp và dẫn dắt họ đi vào đất Mường Yên, về cơ sở núi Chí Linh. Ánh đuốc thiêng của bà, chỉ quân sĩ của Lê Lợi biết được, còn quân Minh không thể nào nhìn thấy. Ở Chí Linh, nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tập luyện và tập hợp, phát triển thêm lực lượng. Thật gian khổ, lắm phen không còn lương thực, phải lấy củ nâu củ mài thay cơm, nhưng nhờ sự che chở của công chúa Thượng Ngàn, quân đội của Lê Lợi vẫn ngày một thêm lớn mạnh.
Quân Minh nhiều lần đến bao vây cũng đành phải chịu rút về. Từ Chí Linh, quân Lê Lợi tiến vào giải phóng Nghệ An, Thuận Hóa. Sau đó, với những trận thắng oanh liệt ở Tốt Động, Chúc Động, Chi Lăng và cuối cùng, bao vây quân Minh ở Đông Quan để kết thúc cuộc chiến, lập lại hòa bình cho nước Việt.
Thờ Phụng
Bà chúa Thượng Ngàn, cũng như nhiều vị thần thánh khác, được nhiều người tôn thờ, và được coi là hồn thiêng của sông núi, bao nhiêu đời nay dẫn dắt con cháu vững bước đi lên. Bà có mặt ở khắp nơi, theo bước chân của dân chúng, khi ở miền rừng núi rồi xuống miền đồng bằng. Vì vậy, ở nhiều nơi người dân lập điện thờ, thờ phụng bà. Tuy nhiên, đại bản doanh của bà vẫn là vùng núi non và các cửa rừng. Những người đi rừng, muốn được bình yên, vạn sự tai qua nạn khỏi, thường đến cầu xin sự che chở, phù trợ của bà. Ai muốn săn bắt hay khai thác thứ gì trong rừng, cũng đặt lễ, thắp hương, cầu xin để được bà chấp thuận.
ST
THÁNH MẪU CAO TIÊN
Vào thời Vĩnh Trị nhà Lê, năm 1675, vua Lê Hi Tôn phải chống nhau với Mạc Kính Vụ, cháu Mạc Đăng Dung, kẻ võ tướng xuất thân thuyền chài đã chiếm đoạt ngôi vua trong một thời. Bị quan quân nhà Lê đánh đuổi, con cháu Mạc Đăng Dung lui về miền thượng du, chiếm cứ bốn châu ở vùng Cao Bằng, truyền kế mấy đời trong 85 năm. Mạc Kính Vụ là kẻ nối dõi cuối cùng của nhà Mạc, xây thành đắp lũy ở hạt Vũ Thúy, tỉnh lỵ Cao Bằng ngày nay, để chống lại nhà Lê.
Vua Lê Hi Tôn cầu viện Tổng Đốc Quảng Tây là Lai Thập Lợi phái một đạo quân từ Tàu đánh sang Cao Bằng, còn một mặt cử Đinh Văn Tả thống xuất một đạo quân từ Trung Châu kéo lên tấn công Mạc Kính Vụ. Bị vây đánh cả hai mặt Mạc Kính Vụ phải chạy lánh sang Trung Hoa để Cao Bằng lọt vào tay nhà Lê. Khi thành trì nhà Mạc rơi vào tay đối phương, công chúa Mạc Cao Tiên ngồi lên xe voi chạy thoát. Voi chở công chúa đi về phía sông Bằng Giang, dấn mình xuống giòng nước chảy xiết để vượt qua sông, nhằm hôm nước lũ đổ về, sóng nước cuồn cuộn lôi cuốn cả voi theo, công chúa bị giòng nước mạnh kéo đi.
Xác công chúa chìm đắm trôi dạt đến Vực Sô ở ngay dưới chân thành Cao Bằng. Quân sĩ không khỏi để ý thấy một đàn chim hàng mấy nghìn con sà cánh bay liền nhau bên trên xác người con gái nổi ở mặt nước, quanh quẩn che nắng cho nàng suốt cả một ngày, đến lúc mặt trời nghiêng bóng mới đi. Một người con trai trông thấy trên mặt nước xác một thiếu nữ vận sắc phục sang trọng, tính lại gần để vớt lên, thì xác kẻ bạc mạng như tị hiềm nỗi trai gái gần kề, bèn trôi xa khỏi bờ, rồi tấp đến chân một người đàn bà vừa bước xuống bến sông.
Các quan được tin vị công chúa nhà Mạc đã bỏ mình một cách linh hiển như vậy, liền ra lệnh tống táng nàng theo nghi lễ trọng thể và chôn ở trên thành cao.
Dân chúng ở trong vùng được công chúa hiển linh ban ơn, ban phước mới dựng một ngôi đền dưới gốc cây đa ở Vực Sô, thờ nàng như một vị thần. Sau đó đền dời vào giữa tỉnh Cao Bằng, ở hạt Cam Mỹ. Để tỏ lòng thành kính đối với công chúa, mỗi vị quan đến trị nhậm nơi đây đều tự tay trồng lấy một cây đa ở trước cửa đền. Ngày nay còn nhiều cây đa to lớn trước đền, có ngọn cao đến bốn, năm mươi thước, rễ trùm lấp cả bia.
Đến triều Nguyễn, vua Thành Thái phong nàng Cao Tiên là Thánh Mẫu Bảo Quốc. Người ta kể lại rằng Thánh Mẫu rất thiêng, ai qua lại trước cửa đền mà không giở nón hay xuống ngựa thì lập tức bị một sức vô hình quật ngã, phải hương đèn cúng lạy mới được yên.
ST
#140
Gửi vào 26/06/2011 - 14:17
MẪU THOẢI
Ở điện thờ Mẫu, trường hợp đặt ba pho tượng nữ, đều giống nhau ở gương mặt, tư thế ngồi, và chỉ khác ở trang phục, thì ở bên phải là Mẫu Thượng ngàn, ở giữa là Mẫu Liễu, còn bên trái là Mẫu Thoải. Sau đây là truyền thuyết về Mẫu Thoải. Mẫu Thoải là Mẫu ở miền sông biển. Thoải tức là Thủy, do đọc trệch. Mẫu thường mang trang phục màu trắng.
Có thuyết nói Mẫu là vị thần lưỡng tính. Lưỡng tính với cái nghĩa: Mẫu là phụ nữ, nhưng được Ngọc Hoàng Thượng đế ban tặng cho sức mạnh và tài năng, nhất là tài sông nước, như ở nam giới. Mẫu là vợ của vua Thủy Tề, là Hoàng hậu ở dưới Thủy cung. Vua Thủy Tề trông coi các việc ở biển, còn Mẫu trông coi các việc ở sông, ở suối Sông, suối có ở các nơi nên mẫu cũng có mặt ở các nơi, tại các bến sông lớn.
Ở làng Viêm Xá, huyện Yên Phong, tỉnh Hà Bắc, đã thờ Mẫu là Thần Thành hoàng, vì làng này xưa kia chuyên nghề sông nước, nổi tiếng khắp vùng. Sắc thượng phong của Mẫu có đề "Nhữ Nương Nam nữ Nam Hải Đại Vương". Chính là vì lẽ đó. Cũng có thuyết nói Mẫu, không phải một, mà là ba. Ba mẫu này là con gái của Lạc Long Quân và Âu Cơ, hai vị thủy tổ khai sáng của nước Văn Lang.
Vua hùng thứ nhất là con trai trưởng của Lạc Long Quân, Âu Cơ, bắt đầu lên ngôi trị vì thiên hạ. Còn trước đó Lạc Long Quân, Âu Cơ đã chia hai ngã, "năm mươi người con theo cha lên núi, năm mươi người con theo mẹ xuống biển". như sử sách ghi chép. Và Hùng Vương thứ nhất là trong số những người con theo cha và lên làm vua, ở miền rừng núi và trung du.
Ba người con gái trong số "năm mươi người con theo Âu Cơ xuống biển" ấy, được chọn để cai quản công việc về sông nước: Chế tạo thuyền bè, đan các thứ lưới bắt cá, trông coi các luồng lạch và chế ngự các vị thần mưa, thần gió mỗi khi các vị này lạm công, xâm hại đến hạ giới. Đó là công việc hàng ngày của ba Mẫu Thoải này. Ba Mẫu còn có phép thần thông biến hóa, xua đuổi và tiễu trừ yêu ma, thủy quái mỗi khi chúng đến sách nhiễu hoặc tàn sát ngư dân. Ba Mẫu đặt đại bản doanh ở sông Nguyệt Đức, chia nhau mỗi người một phần công việc. Dưới quyền các mẫu còn có các thủy thần và các tướng lĩnh, quân sĩ, sẳn sàng chờ lệnh.
Mẫu thứ nhất có tên hiệu là "Thủy Tinh Đông Đình Ngọc Nữ Công Chúa".
Mẫu thứ hai có tên hiệu là "Hoàng Ba Đoan khiết Phu nhân".
Còn Mẫu thứ ba có tên hiệu là "Tam giang Công chúa".
Trong sử sách của các thời trước, chỉ ghi chép kỹ các sự kiện chống giặc,và chính yếu là tuyên dương công trạng của các vị vua chúa, tướng sĩ. Cả các việc trong cung vua phủ chúa cũng được ghi chép kỹ càng, vì quan niệm đấy là Ngọc phả. Còn về chuyện làm ăn sinh sống của dân chúng, thường chỉ được ghi rất sơ sài.
Cả những sự khốn khó, những nỗi tai ương mà dân chúng phải gánh chịu, cũng chỉ ghi rất qua loa, đại khái. Tuy vậy những sự khốn khó, những nỗi tai ương ấy, như những trận bão lụt khủng khiếp thì chẳng những dân chúng mà cả vua chúa cũng phải hứng chịu, cho nên sử sách cũng đã ghi chép về các sự kiện loại này. Chính vì thế, đến ngày nay chúng ta còn được biết những sự kiện có liên quan đến mẫu Thoải khi trước.
Khi Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long thì miền đồng bằng Bắc bộ thường xuyên có nạn lũ lụt. Vị vua khai sáng của nhà Lý đã bắt tay ngay vào công việc trị thủy. Công việc tiến hành phải đến đời vua sau, đời Lý Thái Tông mới căn bản xong. Các khúc đê được nối vào nhau và có quy mô gần như ngày nay. Trong những năm tháng đang tiến hành công việc đắp đê ấy, nạn lụt vẫn thường xảy ra. Chính vì vậy, mẫu Thoải đã phái các thủy thần, tướng lĩnh của mình đến các làng ven kinh thành Thăng Long để âm phù, giúp dân đắp đê chống lụt.
Đó là các làng Nhật Chiêu, Quảng Bá, Tây Hồ, Yên Phụ mà đến nay, thần tích vẫn còn ghi lại. Đến thời Lê ở niên đại Vĩnh Thọ, nước sông Hồng dâng lên rất cao, tràn cả vào Yên Phụ. Nhà vua phải thân hành làm lễ Nam giao ( Lễ tế cáo trời đất), và các mẫu Thoải cũng lập tức ứng hiệu. Các mẫu đã âm phù giúp dân chống lụt và xua đuổi bè lũ thủy quái. Đời Lê Thánh Tông, nhà vua thống xuất quân sĩ đi đánh Chiêm thành, khi thuyền đi qua vùng Phú Xuyên, Kim Bảng thì một trận cuồng phong hung dữ nổi lên. Vua lập tức sai dọn đàn tràng để cầu xin các vị thần thánh.
Mẫu Thoải hay tin, phái Nguyệt Nga công chúa đến giúp, thế là bão tan. Khi thắng trận trở về, nhà vua nhớ công ơn, sai đại thần đến tế lễ và mang sắc phong của nhà vua đến phong tặng Nguyệt Nga công chúa. Đấy là một vài sự kiện sử sách còn ghi lại và mọi người ở một vài địa phương đã thờ Mẫu Thoải làm Thần Thành hoàng, như ở phần trên đã nói. Còn ở các nơi khác, thì thờ Mẫu ở các điện vì Mẫu đã có mặt để âm phù ở khắp mọi nơi.
Mẫu Thoải giúp đỡ mọi người mỗi khi đi qua các vùng sông nước. Do vậy, mỗi khi bước xuống đò, qua một khúc sông rộng, mọi người thường lẩm nhẩm cầu khấn, xin Mẫu phù hộ độ trì. Mỗi khi có hạn, Mẫu phái tướng sĩ đi lo việc làm mưa. Còn khi bão lụt, Mẫu lại hóa phép để gió yên, mưa tạnh. Các loài thủy quái, thủy tặc, do có các thần tướng của Mẫu canh chừng, nên cũng không thể tùy tiện tác oai, tác quái. Nhân dân đã tìm thấy ở Mẫu hình ảnh của các bà mẹ hiền lành, đảm đang, suốt đời lo lắng cho con cho cháu.
Lịch Sử
Ở điện thờ Mẫu, trường hợp đặt ba pho tượng nữ, đều giống nhau ở gương mặt, tư thế ngồi, và chỉ khác ở trang phục, thì ở bên phải là Mẫu Thượng ngàn, ở giữa là Mẫu Liễu, còn bên trái là Mẫu Thoải. Sau đây là truyền thuyết về Mẫu Thoải. Mẫu Thoải là Mẫu ở miền sông biển. Thoải tức là Thủy, do đọc trệch. Mẫu thường mang trang phục màu trắng.
Có thuyết nói Mẫu là vị thần lưỡng tính. Lưỡng tính với cái nghĩa: Mẫu là phụ nữ, nhưng được Ngọc Hoàng Thượng đế ban tặng cho sức mạnh và tài năng, nhất là tài sông nước, như ở nam giới. Mẫu là vợ của vua Thủy Tề, là Hoàng hậu ở dưới Thủy cung. Vua Thủy Tề trông coi các việc ở biển, còn Mẫu trông coi các việc ở sông, ở suối Sông, suối có ở các nơi nên mẫu cũng có mặt ở các nơi, tại các bến sông lớn.
Ở làng Viêm Xá, huyện Yên Phong, tỉnh Hà Bắc, đã thờ Mẫu là Thần Thành hoàng, vì làng này xưa kia chuyên nghề sông nước, nổi tiếng khắp vùng. Sắc thượng phong của Mẫu có đề "Nhữ Nương Nam nữ Nam Hải Đại Vương". Chính là vì lẽ đó. Cũng có thuyết nói Mẫu, không phải một, mà là ba. Ba mẫu này là con gái của Lạc Long Quân và Âu Cơ, hai vị thủy tổ khai sáng của nước Văn Lang.
Vua hùng thứ nhất là con trai trưởng của Lạc Long Quân, Âu Cơ, bắt đầu lên ngôi trị vì thiên hạ. Còn trước đó Lạc Long Quân, Âu Cơ đã chia hai ngã, "năm mươi người con theo cha lên núi, năm mươi người con theo mẹ xuống biển". như sử sách ghi chép. Và Hùng Vương thứ nhất là trong số những người con theo cha và lên làm vua, ở miền rừng núi và trung du.
Ba người con gái trong số "năm mươi người con theo Âu Cơ xuống biển" ấy, được chọn để cai quản công việc về sông nước: Chế tạo thuyền bè, đan các thứ lưới bắt cá, trông coi các luồng lạch và chế ngự các vị thần mưa, thần gió mỗi khi các vị này lạm công, xâm hại đến hạ giới. Đó là công việc hàng ngày của ba Mẫu Thoải này. Ba Mẫu còn có phép thần thông biến hóa, xua đuổi và tiễu trừ yêu ma, thủy quái mỗi khi chúng đến sách nhiễu hoặc tàn sát ngư dân. Ba Mẫu đặt đại bản doanh ở sông Nguyệt Đức, chia nhau mỗi người một phần công việc. Dưới quyền các mẫu còn có các thủy thần và các tướng lĩnh, quân sĩ, sẳn sàng chờ lệnh.
Mẫu thứ nhất có tên hiệu là "Thủy Tinh Đông Đình Ngọc Nữ Công Chúa".
Mẫu thứ hai có tên hiệu là "Hoàng Ba Đoan khiết Phu nhân".
Còn Mẫu thứ ba có tên hiệu là "Tam giang Công chúa".
Trong sử sách của các thời trước, chỉ ghi chép kỹ các sự kiện chống giặc,và chính yếu là tuyên dương công trạng của các vị vua chúa, tướng sĩ. Cả các việc trong cung vua phủ chúa cũng được ghi chép kỹ càng, vì quan niệm đấy là Ngọc phả. Còn về chuyện làm ăn sinh sống của dân chúng, thường chỉ được ghi rất sơ sài.
Cả những sự khốn khó, những nỗi tai ương mà dân chúng phải gánh chịu, cũng chỉ ghi rất qua loa, đại khái. Tuy vậy những sự khốn khó, những nỗi tai ương ấy, như những trận bão lụt khủng khiếp thì chẳng những dân chúng mà cả vua chúa cũng phải hứng chịu, cho nên sử sách cũng đã ghi chép về các sự kiện loại này. Chính vì thế, đến ngày nay chúng ta còn được biết những sự kiện có liên quan đến mẫu Thoải khi trước.
Khi Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long thì miền đồng bằng Bắc bộ thường xuyên có nạn lũ lụt. Vị vua khai sáng của nhà Lý đã bắt tay ngay vào công việc trị thủy. Công việc tiến hành phải đến đời vua sau, đời Lý Thái Tông mới căn bản xong. Các khúc đê được nối vào nhau và có quy mô gần như ngày nay. Trong những năm tháng đang tiến hành công việc đắp đê ấy, nạn lụt vẫn thường xảy ra. Chính vì vậy, mẫu Thoải đã phái các thủy thần, tướng lĩnh của mình đến các làng ven kinh thành Thăng Long để âm phù, giúp dân đắp đê chống lụt.
Đó là các làng Nhật Chiêu, Quảng Bá, Tây Hồ, Yên Phụ mà đến nay, thần tích vẫn còn ghi lại. Đến thời Lê ở niên đại Vĩnh Thọ, nước sông Hồng dâng lên rất cao, tràn cả vào Yên Phụ. Nhà vua phải thân hành làm lễ Nam giao ( Lễ tế cáo trời đất), và các mẫu Thoải cũng lập tức ứng hiệu. Các mẫu đã âm phù giúp dân chống lụt và xua đuổi bè lũ thủy quái. Đời Lê Thánh Tông, nhà vua thống xuất quân sĩ đi đánh Chiêm thành, khi thuyền đi qua vùng Phú Xuyên, Kim Bảng thì một trận cuồng phong hung dữ nổi lên. Vua lập tức sai dọn đàn tràng để cầu xin các vị thần thánh.
Mẫu Thoải hay tin, phái Nguyệt Nga công chúa đến giúp, thế là bão tan. Khi thắng trận trở về, nhà vua nhớ công ơn, sai đại thần đến tế lễ và mang sắc phong của nhà vua đến phong tặng Nguyệt Nga công chúa. Đấy là một vài sự kiện sử sách còn ghi lại và mọi người ở một vài địa phương đã thờ Mẫu Thoải làm Thần Thành hoàng, như ở phần trên đã nói. Còn ở các nơi khác, thì thờ Mẫu ở các điện vì Mẫu đã có mặt để âm phù ở khắp mọi nơi.
Mẫu Thoải giúp đỡ mọi người mỗi khi đi qua các vùng sông nước. Do vậy, mỗi khi bước xuống đò, qua một khúc sông rộng, mọi người thường lẩm nhẩm cầu khấn, xin Mẫu phù hộ độ trì. Mỗi khi có hạn, Mẫu phái tướng sĩ đi lo việc làm mưa. Còn khi bão lụt, Mẫu lại hóa phép để gió yên, mưa tạnh. Các loài thủy quái, thủy tặc, do có các thần tướng của Mẫu canh chừng, nên cũng không thể tùy tiện tác oai, tác quái. Nhân dân đã tìm thấy ở Mẫu hình ảnh của các bà mẹ hiền lành, đảm đang, suốt đời lo lắng cho con cho cháu.
Lịch Sử
Thanked by 1 Member:
|
|
#141
Gửi vào 26/06/2011 - 22:37
BÀ ĐEN: LINH SƠN THÁNH MẪU
Nơi tỉnh Tây Ninh có một ngọn núi cao nhất miền Nam Việt Nam, được gọi là núi Ðiện Bà, tục gọi là núi Bà Ðen, vì trên núi có lập một cái Ðiện để thờ Bà Ðen. Bà Ðen rất linh hiển nên được vua Gia Long truyền cho đúc cốt Bà bằng đồng đen và sắc phong là Linh Sơn Thánh Mẫu.
Vào khoảng cuối năm 1953, Ông Bùi Trung Phẩm có làm tờ dâng lên Ðức Phạm Hộ Pháp xin rước cốt Bà Ðen về thờ nơi Báo Ân Từ Tòa Thánh Tây Ninh, Ðức Phạm Hộ Pháp phê như sau:
"Tư cho Quyền Ngọc Chánh Phối Sư cùng hai vị Quyền Thượng Chánh Phối Sư, Thái Chánh Phối Sư, sắp đặt trước đặng rước cốt Bà Linh Sơn Thánh Mẫu về để thờ tạm nơi Báo Ân Từ cho tới khi thái bình trở lại, trùng tu am tự nơi Ðiện Bà rồi sẽ đem về Ðiện trả lại. Nghĩ đến tình cũ trong hồi lao khổ tù đày nơi ngục, mà Bà đến thăm viếng, an ủi, bênh vực và phò hộ, Bần đạo phải lo trả nghĩa nầy. Công chuyện làm cũng lễ nghi phải cho long trọng, phải tuyên truyền cho toàn tỉnh, nhứt là Châu Thành Tây Ninh hay đặng định ngày họ đến dự lễ."
Trong thời gian Ðức Phạm Hộ Pháp cùng năm vị Chức sắc (1) bị nhà cầm quyền Pháp lưu đày nơi đảo Madagascar ở Phi Châu, Bà Linh Sơn Thánh Mẫu thường đến giáng bút chuyện trò cùng an ủi Ðức Phạm Hộ Pháp. Bà không xưng tước hiệu của Bà, chỉ nói rằng: Thầy thiếp là Vương Thất Nương sai thiếp đến đây để viếng thăm Ðức Hộ Pháp. (Vương Thất Nương là Thất Nương DTC, thế danh Vương thị Lễ).
Khi Bà thăng rồi, thì Ðức Phạm Hộ Pháp thấy hột ngọc của chiếc nhẫn đeo nơi ngón tay phát ra mấy tia hào quang, thì Ðức Ngài biết đó là Bà Linh Sơn Thánh Mẫu, vì hột ngọc nầy do ông Lễ Sanh Giáo Thiện Võ văn Ðợi kiếm được ở trên núi Ðiện Bà, khi ông lên thỉnh cốt Bà về thờ nơi Báo Ân Từ.
Lúc còn bị đày trong ngục Nossilava ở đảo Madagascar, Ðức Hộ Pháp tay cầm một cái que, tay kia khỏa cát thì liền tiếp điển của Bà Linh Sơn, viết trên cát bài thi sau đây:
Nô-Si-Lao tiếng đặt buồn cười,
Mi đã rước ai hỡi hỡi ngươi?
Lượn thảm bổ gành tình ột ạt,
Gió sầu khua đảnh ái tơi bời.
Yêu phu điểu gợi thương cành sớm,
Vọng ngạn quyên kêu nhớ bụi mơi.
Tổ quốc đon đường bao dặm thẳng,
Ðưa xa thăm thẳm một phương trời.
Hòn đảo nầy đây trước nhốt tù,
Ngày nay làm khám khảo thầy tu.
Quả như oan nghiệt vay rồi trả,
Thì lũ Tây man Nhựt Bổn trừ.
(1) Theo Ðạo sử, ngày 4-6 Nhuần - Tân Tỵ (dl 27-7-1941), Ðức Phạm Hộ Pháp bị nhà cầm quyền Pháp bắt tại Tòa Thánh. Ngày 11-7-Tân Tỵ (dl 2-9-1941), nhà cầm quyền Pháp lại vào Tòa Thánh bắt thêm ba Chức sắc nữa là: Ngài Chánh Phối Sư Ngọc Trọng Thanh, Giáo Sư Thái Gấm Thanh, Sĩ Tải Ðỗ Quang Hiển; đồng thời tại Sài Gòn chúng bắt Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, và bắt Giáo Sư Thái Phấn Thanh tại Nam Vang. Nhà cầm quyền Pháp đưa Ðức Hộ Pháp trở về Tòa Thánh ngày 4-8-Bính Tuất (dl 30-8-1946). Như vậy, Ðức Hộ Pháp bị đày ở Madagascar thời gian 5 năm 2 tháng.
***
Tại Trảng Bàng, có cô gái tên Lý thị Thiên Hương, con của ông Lý Thiên và Bà Ðặng Ngọc Phụng, người gốc ở Bình Ðịnh vào Trảng Bàng lập nghiệp. Tuy Thiên Hương không đẹp nhưng rất có duyên và có tài năng khiến nhiều người để ý. Trong làng có chàng trai Lê Sĩ Triệt mồ côi cha mẹ, được nhà sư Trí Tân nuôi dưỡng từ nhỏ, nên có được văn hay võ giỏi.
Lúc đó con trai của Hà Ðảnh, quan Huyện Trảng Bàng, rất bạo ngược dùng quyền thế, tiền bạc mua chuộc Thiên Hương đem về làm thiếp nhưng không được, nên sai một thuộc hạ thân tín tên Châu Thiện cầm đầu nhóm người Miên, dùng võ lực quyết bắt nàng Thiên Hương đem về cho kỳ được.
Thiên Hương bị đám côn đồ vây bắt. Giữa lúc nguy khốn thì chàng Lê Sĩ Triệt xông ra đánh đuổi cứu được nàng. Nàng rất cảm động tạ ơn chàng, rồi về nhà thuật chuyện cho cha mẹ nàng rõ. Ðể đáp ơn chàng cha mẹ nàng Thiên Hương gả nàng cho Lê Sĩ Triệt. Chưa kịp đám cưới thì Lê Sĩ Triệt phải tòng quân đánh Tây Sơn. Ngày chia tay nàng ngậm ngùi nói:
- Một lời đã hứa cùng nhau thiếp nguyện thủ tiết chờ chàng trở về. Xin chàng an tâm lên đường nghĩa vụ.
Chàng ra đi, nàng ở nhà vò võ trông chờ ngày đoàn tụ. Một hôm nàng lên núi lễ Phật và thăm sư Trí Tân, dưỡng phụ của Lê Sĩ Triệt. Lúc về đến chơn núi thình lình bọn Châu Thiện thấy nàng đi một mình liền vây bắt. Nàng chạy trở lên núi nhưng bị tuyệt đường đành nhào xuống khe núi tử tiết. Ba hôm sau Thiên Hương báo mộng cho sư Trí Tân, trụ trì ngôi chùa trên núi. Hoà Thượng thấy Thiên Hương hiện ra nói:
- Ðệ tử là Thiên Hương mười tám tuổi, chẳng may bị bọn gia nô của quan Huyện Trảng Bàng vây bắt nên phải nhào xuống khe núi tử tiết. Nhờ căn tu kiếp trước nên linh hồn được siêu thoát, dù đã ba ngày nhưng xác vẫn còn nguyên, xin sư phụ xuống triền núi đông nam đem thi hài của đệ tử hỏa táng giùm.
Hòa Thượng làm theo lời mách bảo tìm gặp xác của Thiên Hương, làm lễ hỏa táng chu đáo. Bọn Châu Thiện đến xem hỏa táng bị nàng Thiên Hương báo oán, khiến cho hộc máu chết liền tại chỗ. Sau một thời gian khá lâu, Chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi chạy lạc đến Tây Ninh, nàng Thiên Hương đến báo mộng, mách bảo Nguyễn Ánh phải qua Xiêm tá binh, sau nầy sẽ khôi phục cơ đồ, thống nhứt giang sơn.
Sự linh hiển của nàng Thiên Hương được đồn vang, dân chúng các nơi lên núi Tây Ninh cầu cúng rất đông. Lúc bấy giờ Thượng Quốc Công Lê Văn Duyệt ở Gia Ðịnh đi lên núi Tây Ninh xem xét hư thực thế nào, đến nơi nói với người khuất mặt:
- Hồn trinh nữ Thiên Hương quả có hiển linh, hãy xuất hiện cho bổn chức xem thử.
Xảy thấy một cô gái chạy đến ứng tiếng:
- Tôi là Thiên Hương đây, xin chào Thượng quan.
Thì ra Lý Thị Thiên Hương nhập vào xác của một cô gái đến nói chuyện với quan Thượng Công. Cô nói tiếp:
- Tôi xin mách trước cho Thượng quan biết, Thượng quan sau nầy sẽ được phong Thần vinh hiển, nhưng xác của Thượng Công bị hành hạ, mả bị xiềng xích, tên tuổi bị đục khoét, sau mới được minh oan.
Ngài Thượng Công Lê văn Duyệt nói:
- Bổn chức không cầu xin biết tương lai của mình mà muốn biết rõ căn do của nàng.
Hồn Thiên Hương qua miệng cô gái thuật rõ mọi việc:
- Thượng Ðế chứng lòng đoan chính của thiếp, nên cho thiếp hết đọa luân hồi và được xuống trần cứu nhơn độ thế.
Ngài Thượng Công không còn nghi ngờ gì nữa, liền dâng sớ về triều tâu rõ mọi việc. Vua Gia Long nhớ lại chuyện bôn tẩu năm xưa, khi đến Tây Ninh có nàng Thiên Hương hiển linh báo mộng, nên ra sắc chỉ phong Lý Thị Thiên Hương là Linh Sơn Thánh Mẫu, chủ trì Linh Sơn Tiên Thạch Ðộng, cho cất điện và đúc tượng bằng đồng đen để thờ nơi núi Tây Ninh.
Kể từ đó, núi Tây Ninh được gọi là núi Linh Sơn, và để tránh gọi tên Thiên Hương, dân chúng gọi là Bà Ðen, vì tượng của Bà màu đen, và gọi núi ấy là núi Bà Ðen. Lễ Vía Linh Sơn Thánh Mẫu được tổ chức hằng năm tại Ðiện Bà vào dịp đầu Xuân, từ ngày mùng 10 đến 15 tháng Giêng âm lịch, có hằng trăm ngàn người đến cúng vái cầu xin sự phò hộ của Bà để việc kinh doanh và việc gia đình được may mắn tốt đẹp.
Đúc Nguyên
Nơi tỉnh Tây Ninh có một ngọn núi cao nhất miền Nam Việt Nam, được gọi là núi Ðiện Bà, tục gọi là núi Bà Ðen, vì trên núi có lập một cái Ðiện để thờ Bà Ðen. Bà Ðen rất linh hiển nên được vua Gia Long truyền cho đúc cốt Bà bằng đồng đen và sắc phong là Linh Sơn Thánh Mẫu.
Vào khoảng cuối năm 1953, Ông Bùi Trung Phẩm có làm tờ dâng lên Ðức Phạm Hộ Pháp xin rước cốt Bà Ðen về thờ nơi Báo Ân Từ Tòa Thánh Tây Ninh, Ðức Phạm Hộ Pháp phê như sau:
"Tư cho Quyền Ngọc Chánh Phối Sư cùng hai vị Quyền Thượng Chánh Phối Sư, Thái Chánh Phối Sư, sắp đặt trước đặng rước cốt Bà Linh Sơn Thánh Mẫu về để thờ tạm nơi Báo Ân Từ cho tới khi thái bình trở lại, trùng tu am tự nơi Ðiện Bà rồi sẽ đem về Ðiện trả lại. Nghĩ đến tình cũ trong hồi lao khổ tù đày nơi ngục, mà Bà đến thăm viếng, an ủi, bênh vực và phò hộ, Bần đạo phải lo trả nghĩa nầy. Công chuyện làm cũng lễ nghi phải cho long trọng, phải tuyên truyền cho toàn tỉnh, nhứt là Châu Thành Tây Ninh hay đặng định ngày họ đến dự lễ."
Trong thời gian Ðức Phạm Hộ Pháp cùng năm vị Chức sắc (1) bị nhà cầm quyền Pháp lưu đày nơi đảo Madagascar ở Phi Châu, Bà Linh Sơn Thánh Mẫu thường đến giáng bút chuyện trò cùng an ủi Ðức Phạm Hộ Pháp. Bà không xưng tước hiệu của Bà, chỉ nói rằng: Thầy thiếp là Vương Thất Nương sai thiếp đến đây để viếng thăm Ðức Hộ Pháp. (Vương Thất Nương là Thất Nương DTC, thế danh Vương thị Lễ).
Khi Bà thăng rồi, thì Ðức Phạm Hộ Pháp thấy hột ngọc của chiếc nhẫn đeo nơi ngón tay phát ra mấy tia hào quang, thì Ðức Ngài biết đó là Bà Linh Sơn Thánh Mẫu, vì hột ngọc nầy do ông Lễ Sanh Giáo Thiện Võ văn Ðợi kiếm được ở trên núi Ðiện Bà, khi ông lên thỉnh cốt Bà về thờ nơi Báo Ân Từ.
Lúc còn bị đày trong ngục Nossilava ở đảo Madagascar, Ðức Hộ Pháp tay cầm một cái que, tay kia khỏa cát thì liền tiếp điển của Bà Linh Sơn, viết trên cát bài thi sau đây:
Nô-Si-Lao tiếng đặt buồn cười,
Mi đã rước ai hỡi hỡi ngươi?
Lượn thảm bổ gành tình ột ạt,
Gió sầu khua đảnh ái tơi bời.
Yêu phu điểu gợi thương cành sớm,
Vọng ngạn quyên kêu nhớ bụi mơi.
Tổ quốc đon đường bao dặm thẳng,
Ðưa xa thăm thẳm một phương trời.
Hòn đảo nầy đây trước nhốt tù,
Ngày nay làm khám khảo thầy tu.
Quả như oan nghiệt vay rồi trả,
Thì lũ Tây man Nhựt Bổn trừ.
(1) Theo Ðạo sử, ngày 4-6 Nhuần - Tân Tỵ (dl 27-7-1941), Ðức Phạm Hộ Pháp bị nhà cầm quyền Pháp bắt tại Tòa Thánh. Ngày 11-7-Tân Tỵ (dl 2-9-1941), nhà cầm quyền Pháp lại vào Tòa Thánh bắt thêm ba Chức sắc nữa là: Ngài Chánh Phối Sư Ngọc Trọng Thanh, Giáo Sư Thái Gấm Thanh, Sĩ Tải Ðỗ Quang Hiển; đồng thời tại Sài Gòn chúng bắt Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, và bắt Giáo Sư Thái Phấn Thanh tại Nam Vang. Nhà cầm quyền Pháp đưa Ðức Hộ Pháp trở về Tòa Thánh ngày 4-8-Bính Tuất (dl 30-8-1946). Như vậy, Ðức Hộ Pháp bị đày ở Madagascar thời gian 5 năm 2 tháng.
***
Tại Trảng Bàng, có cô gái tên Lý thị Thiên Hương, con của ông Lý Thiên và Bà Ðặng Ngọc Phụng, người gốc ở Bình Ðịnh vào Trảng Bàng lập nghiệp. Tuy Thiên Hương không đẹp nhưng rất có duyên và có tài năng khiến nhiều người để ý. Trong làng có chàng trai Lê Sĩ Triệt mồ côi cha mẹ, được nhà sư Trí Tân nuôi dưỡng từ nhỏ, nên có được văn hay võ giỏi.
Lúc đó con trai của Hà Ðảnh, quan Huyện Trảng Bàng, rất bạo ngược dùng quyền thế, tiền bạc mua chuộc Thiên Hương đem về làm thiếp nhưng không được, nên sai một thuộc hạ thân tín tên Châu Thiện cầm đầu nhóm người Miên, dùng võ lực quyết bắt nàng Thiên Hương đem về cho kỳ được.
Thiên Hương bị đám côn đồ vây bắt. Giữa lúc nguy khốn thì chàng Lê Sĩ Triệt xông ra đánh đuổi cứu được nàng. Nàng rất cảm động tạ ơn chàng, rồi về nhà thuật chuyện cho cha mẹ nàng rõ. Ðể đáp ơn chàng cha mẹ nàng Thiên Hương gả nàng cho Lê Sĩ Triệt. Chưa kịp đám cưới thì Lê Sĩ Triệt phải tòng quân đánh Tây Sơn. Ngày chia tay nàng ngậm ngùi nói:
- Một lời đã hứa cùng nhau thiếp nguyện thủ tiết chờ chàng trở về. Xin chàng an tâm lên đường nghĩa vụ.
Chàng ra đi, nàng ở nhà vò võ trông chờ ngày đoàn tụ. Một hôm nàng lên núi lễ Phật và thăm sư Trí Tân, dưỡng phụ của Lê Sĩ Triệt. Lúc về đến chơn núi thình lình bọn Châu Thiện thấy nàng đi một mình liền vây bắt. Nàng chạy trở lên núi nhưng bị tuyệt đường đành nhào xuống khe núi tử tiết. Ba hôm sau Thiên Hương báo mộng cho sư Trí Tân, trụ trì ngôi chùa trên núi. Hoà Thượng thấy Thiên Hương hiện ra nói:
- Ðệ tử là Thiên Hương mười tám tuổi, chẳng may bị bọn gia nô của quan Huyện Trảng Bàng vây bắt nên phải nhào xuống khe núi tử tiết. Nhờ căn tu kiếp trước nên linh hồn được siêu thoát, dù đã ba ngày nhưng xác vẫn còn nguyên, xin sư phụ xuống triền núi đông nam đem thi hài của đệ tử hỏa táng giùm.
Hòa Thượng làm theo lời mách bảo tìm gặp xác của Thiên Hương, làm lễ hỏa táng chu đáo. Bọn Châu Thiện đến xem hỏa táng bị nàng Thiên Hương báo oán, khiến cho hộc máu chết liền tại chỗ. Sau một thời gian khá lâu, Chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi chạy lạc đến Tây Ninh, nàng Thiên Hương đến báo mộng, mách bảo Nguyễn Ánh phải qua Xiêm tá binh, sau nầy sẽ khôi phục cơ đồ, thống nhứt giang sơn.
Sự linh hiển của nàng Thiên Hương được đồn vang, dân chúng các nơi lên núi Tây Ninh cầu cúng rất đông. Lúc bấy giờ Thượng Quốc Công Lê Văn Duyệt ở Gia Ðịnh đi lên núi Tây Ninh xem xét hư thực thế nào, đến nơi nói với người khuất mặt:
- Hồn trinh nữ Thiên Hương quả có hiển linh, hãy xuất hiện cho bổn chức xem thử.
Xảy thấy một cô gái chạy đến ứng tiếng:
- Tôi là Thiên Hương đây, xin chào Thượng quan.
Thì ra Lý Thị Thiên Hương nhập vào xác của một cô gái đến nói chuyện với quan Thượng Công. Cô nói tiếp:
- Tôi xin mách trước cho Thượng quan biết, Thượng quan sau nầy sẽ được phong Thần vinh hiển, nhưng xác của Thượng Công bị hành hạ, mả bị xiềng xích, tên tuổi bị đục khoét, sau mới được minh oan.
Ngài Thượng Công Lê văn Duyệt nói:
- Bổn chức không cầu xin biết tương lai của mình mà muốn biết rõ căn do của nàng.
Hồn Thiên Hương qua miệng cô gái thuật rõ mọi việc:
- Thượng Ðế chứng lòng đoan chính của thiếp, nên cho thiếp hết đọa luân hồi và được xuống trần cứu nhơn độ thế.
Ngài Thượng Công không còn nghi ngờ gì nữa, liền dâng sớ về triều tâu rõ mọi việc. Vua Gia Long nhớ lại chuyện bôn tẩu năm xưa, khi đến Tây Ninh có nàng Thiên Hương hiển linh báo mộng, nên ra sắc chỉ phong Lý Thị Thiên Hương là Linh Sơn Thánh Mẫu, chủ trì Linh Sơn Tiên Thạch Ðộng, cho cất điện và đúc tượng bằng đồng đen để thờ nơi núi Tây Ninh.
Kể từ đó, núi Tây Ninh được gọi là núi Linh Sơn, và để tránh gọi tên Thiên Hương, dân chúng gọi là Bà Ðen, vì tượng của Bà màu đen, và gọi núi ấy là núi Bà Ðen. Lễ Vía Linh Sơn Thánh Mẫu được tổ chức hằng năm tại Ðiện Bà vào dịp đầu Xuân, từ ngày mùng 10 đến 15 tháng Giêng âm lịch, có hằng trăm ngàn người đến cúng vái cầu xin sự phò hộ của Bà để việc kinh doanh và việc gia đình được may mắn tốt đẹp.
Đúc Nguyên
Thanked by 1 Member:
|
|
#142
Gửi vào 26/06/2011 - 23:12
MIỄU BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM
Lễ vía Bà Chúa Xứ hằng năm được tổ chức tại làng Vĩnh Tế, quận Châu Phú, tỉnh Châu Đốc. Làng Vĩnh Tế nằm dưới chân núi Sam, còn có tên là Vĩnh Tế Sơn, một ngọn núi các tỉnh lỵ Châu Đốc chừng năm km, trên đường đi đến Tịnh Biên. Miếu Bà ở ngay chân núi, mặt tiền nhìn về phía đồng ruộng, lưng quay về phía mặt đường. Hằng năm ngày lễ vía Bà Chúa Xứ được cử hành vào ngày 26 tháng 4 âm lịch, nhưng được chuẩn bị từ mấy tuần lễ trước đó.
Trong mỗi kỳ lễ dân chúng khắp các vùng Châu Đốc, An Giang, Kiến Phong, Sa Đéc, Vĩnh Long, Cần Thơ, hết đoàn nầy sang đoàn khác kéo nhau về chuẩn bị dự lễ đông như kiến. Sự tích Bà Chúa Xứ của núi Sam được ghi chép qua nhiều tài liệu trong vùng. Bà cũng được dân chúng tôn là Thánh Mẫu Nương Nương, với những sự tích và pháp thuật rất huyền bí và mầu nhiệm, được truyền tụng qua nhiều huyền thoại khác nhau, tùy ứng nghiệm của mỗi người.
Theo những chứng liệu của làng Vĩnh Tế thì Tượng của Bà Chúa Xứ trước kia được ngự trị ngay trên đỉnh của núi Sam nhưng không biết từ đâu lại. Ngày nay vị trí nầy chỉ còn lưu lại hai vết lõm lớn trên một chiếc bệ xanh. Cũng theo nhiều chứng liệu đáng tin cậy thì pho tượng Bà Chuá Xứ nguyên là của người Thủy Chân Lạp. Khi những quân cướp trong vùng trông thấy bức tượng Bà Chúa Xứ mưu toan đánh cắp mang về bán, nhưng không thể nào khiêng nổi dù pho tượng chưa đầy một thước.
Khi người Việt đến định cư lập nghiệp tại vùng quanh, thôn xóm được dựng lên chung quanh ngọn núi Sam. Họ được nhiều tin đồn về sự linh ứng của Bà Chúa Xứ, bèn họp nhau lại toan mang tượng Bà về xây am miếu để thờ phụng, nhưng không thể nào khiêng về nổi. Dân làng tổ chức cuộc cúng tế cầu khẩn, mong được toại nguyện. Hồn của Bà Chúa Xứ được nhập đồng vào một vị nữ tu đạo hạnh cao thâm trong vùng nầy, và hồn xưng danh là Bà Chuá Xứ.
Bà truyền dân chúng chọn bốn mươi nữ đồng trinh trong làng, ăn chay, nằm đất, tắm rửa sạch sẽ, sẽ có thể cung thỉnh pho tượng của Bà về thờ phụng. Dân chúng trong làng đã làm theo đúng lời của đồng cốt ban cho. Quả nhiên những nữ đồng trinh nầy có thể đưa pho tượng của Bà về làng Vĩnh Tế không mấy khó khăn. Khi pho tượng đến vùng trung tâm của làng, thì bỗng nhiên sức nặng đè lên khủng khiếp và không thể khiêng đi thêm nữa. Mọi người hiểu rằng đây chính là nơi lập đền thờ và dựng tượng an ngự. Ngôi miếu Bà Chúa Xứ được dụng lên từ đó. Theo nhiều nhà nghiên cứu di chỉ trong làng nầy thì đó là ngày 23-4-1812 âm lịch.
Nhiều truyền thuyết nói về sự linh ứng của Bà Chúa Xứ. Một trong những thuyết đó cho biết: Khi Thoại Ngọc Hầu (Nguyễn Văn Thoại) được vua Minh Mạng (1820 - 1840) được cử đến trấn giữ vùng nầy, thì thường hay bị quân cướp người Cao Miên sang quấy rối không ngừng khiến dân chúng ta thán khắp nơi. Nhưng lực lượng của Thoại Ngọc Hầu cũng không chống giữ được. Phu nhân của Thoại Ngọc Hầu thường đến cúng bái lể Bà Chúa Xứ để xin Ngài phù hộ cho chồng mình dẹp yên được bọn giặc cướp nầy, tái lập cảnh an cư lạc nghiệp cho dân chúng trong vùng nầy.
Lời nguyện cầu của Phu nhân được toại nguyện. Bà Chúa Xứ đã giúp cho binh sĩ của Thoại Ngọc Hầu tìm kế để thanh toán sạch bọn giặc rất dễ dàng. Và cũng để cảm tạ công ơn của Bà Chúa Xứ, Thoại Ngọc Hầu Phu nhân đã xuất tiền cho xây cất lại miếu thờ Bà Chúa Xứ rất trang nghiêm. Nhân dịp khánh thành dân chúng trong vùng nầy đã mở hội tế rất long trọng, linh đình suốt trong ba ngày của hạ tuần tháng tư âm lịch. Kể từ đó về sau hằng năm đến dịp nầy lại tổ chức lễ hội Bà Chúa Xứ.
Theo lời đồn của các vị bô lão trong làng nầy, thì sự linh ứng của Bà Chúa Xứ rất cao. Chẳng hạn như vào tháng 5 năm 1912, một tên tướng cướp khét tiếng của người Cao Miên tên là Nặc Phu Nông nghe tin tượng Bà Chúa Xứ có nhiều ngọc ngà châu báu, nên đem thủ hạ đến cướp mang về. Nhưng khi vừa vào miếu thờ thì bỗng nhiên trời sấm sét, bão tố nổi lên khủng khiếp. Bọn cướp đều bị đứt tay đứt chân thương tích đầy mình, phần đông đều bỏ mạng kể cả tên đầu nậu. Xác của chúng cũng bị cuốn phăng xuống con kinh gần đó để nước cuốn phăng đi. Nhiều lời đồn về những âm mưu cướp giật, phá hoại khác cũng đều bị sự linh ứng của Bà Chúa Xứ trừ khử được chúng.
Về vị trí của ngôi miếu được kể như sau: trước kia tượng của Bà Chúa Xứ nhìn thẳng ra mặt đường. Một số dân chúng qua lại trước miếu đã không ngả nón chào. Bà cho là vô lễ. Sau đó thì Bà nhập đồng cho một nữ tu trong làng báo cho biết tình trạng nầy và khuyên dân làng nên chuyển hướng tượng Bà quay về hướng khác, nhìn về phía trong còn lưng thì quay ra hướng ngoài. Sự linh ứng của Bà Chúa Xứ là thường nhập đồng chữa bệnh cho dân chúng trong làng, kể cả những chứng bệnh nan y nữa.
Cho nên hằng ngày số người khắp nơi đến lễ bái, cầu khẩn Bà Chúa Xứ rất đông đảo. Ngày lễ vía Bà hằng năm cũng là dịp để thập phương đến cầu đảo. Nhiều cuộc lên đồng bóng để thỉnh ý Bà Chúa Xứ khi muốn dâng xin một việc gì, tránh tai họa gì, chữa trị căn bệnh gì. Đông đảo nhất là trong những ngày 24, 25 và 25 tháng Tư âm lịch trong mỗi năm.
Nhiều ý kiến khác nhau về pho tượng Bà ở núi Sam. Một truyền thuyết cho rằng: Pho tượng hiện tại là cốt tượng Phật được Thọai Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại trong thời gian vào bình định vùng nầy và Xiêm La đã cho quân sĩ chuyển từ thành Trấn Tây về thờ phượng. Tuy nhiên một số sử liệu liên quan đến việc xây dựng trong thời kỳ nầy thì không thấy nhắc đến.
Một số tài liệu khác đưa nhận định: Cột tượng Bà Chúa Xứ vốn là một pho tượng người đàn ông được tạc ở tư thế ngồi. Tuy nhiên tác giả là ai, thì ý kiến cũng không giống nhau. Phần đông các tác giả dựa vào truyền thuyết để khẳng định pho tượng đó vốn có từ trên đỉnh núi Sam trước đây. Về sau được thay đổi, tô màu, thay y trang thành đàn Bà. Đây cũng là giả thuyết. Muốn chứng minh rõ hơn, họ nói đến một bệ đá trên đỉnh núi Sam để đặt pho tượng vì hai dấu chân so ra vừa ăn khớp.
Một số nhà nghiên cứu khác sau khi nêu ra những điều trùng hợp giữa chất đá chế tác về tượng và bệ đá, và chính sự trùng khít nầy có thể lắp được phần chân pho tượng với lỗ mộng hình vuông giữa bệ đá. Tượng Bà được chế tác để đặt trên phiến đá ở đỉnh Sam. Về hướng đặt pho tượng các tác giả đều đưa nhận định giống nhau. Trước đây tượng Bà được đặt quay mặt ra đường cái quan, nghĩa là mặt kia úp về phía núi.
Do đó nhiều người đi ngang qua không chào. Bà nổi giận và báo mộng cho viên chức trong làng nên quay tượng lại hướng về phía cánh đồng như hướng hiện nay. Theo hướng đó, cách nơi Bà toạ không xa là đường biên giới. Về nhận diện nguồn gốc chế tác, những nhà nghiên cứu chỉ có thể nhận diện được vền phía bên ngoài như kiểu mũ đội, khoác áo xiêm mấy lớp, mặt được sơn lại...
Không ai dám ngang nhiên tự tiện lật mũ hay cởi áo Bà, vì trước đây không biết bao nhiêu chuyện kể về những người ngang nhiên động chạm đến đã chết bắt đắc kỳ tử. Việc nghiên cứu cốt tượng cũng có thể thêm được vài tia sáng mới. Tượng cao khoảng 1,2 mét, được đúc liền với một thớt đá cùng loại, hình tương đối tròn, có vành rộng hơn điểm tiếp giáp các phần của tượng và thớt các phần của tượng với chốt chừng 10cm.
Tác giả bức tượng đã dùng thớt đá làm bệ tượng, vì vậy nếu đặt tượng riêng không cần xây thêm bệ đỡ tượng vẫn được ngồi vững chãi. Chân trái của tượng được xếp bằng tròn, bàn chân trái để giáp bàn chân phải. Chân phải đặt trong tư thế co lại chống thẳng. Tay trái để ở tư thế chống nẹ (nạnh), bàn tay soãi chống xuống bệ đá phía sau đùi trái. Tóc quắn thành những búp xoăn kiểu "sumi" của thổ dân Jamaica, xoả xuống trùm trán, có những búp đến ngang bả vai.
Có một vành đai như vành đai vương miện đội trên đầu phía trên vành tai. Vành nầy có hoa văn hình móc câu; trên vành đó, trước phía trán, nổi lên những hình hoa văn hình ngọn lửa xung quanh một hình tròn ở giữa. Dựa trên những chi tiết vừa nói một số tác giả đã đưa nhận định: Phong cách, kiểu dáng của pho tượng có một số điểm khác với những hình tượng thời cổ. Theo dáng ngồi có một số điểm trông giống như tượng tại chùa Tây Phương. Nếu so sánh với tượng của những Thánh Mẫu khác, có một số điểm khác về tư thế ngồi, cách để tay, cách xếp chân, trang phục, phong thái.
Trần Hưng
Lễ vía Bà Chúa Xứ hằng năm được tổ chức tại làng Vĩnh Tế, quận Châu Phú, tỉnh Châu Đốc. Làng Vĩnh Tế nằm dưới chân núi Sam, còn có tên là Vĩnh Tế Sơn, một ngọn núi các tỉnh lỵ Châu Đốc chừng năm km, trên đường đi đến Tịnh Biên. Miếu Bà ở ngay chân núi, mặt tiền nhìn về phía đồng ruộng, lưng quay về phía mặt đường. Hằng năm ngày lễ vía Bà Chúa Xứ được cử hành vào ngày 26 tháng 4 âm lịch, nhưng được chuẩn bị từ mấy tuần lễ trước đó.
Trong mỗi kỳ lễ dân chúng khắp các vùng Châu Đốc, An Giang, Kiến Phong, Sa Đéc, Vĩnh Long, Cần Thơ, hết đoàn nầy sang đoàn khác kéo nhau về chuẩn bị dự lễ đông như kiến. Sự tích Bà Chúa Xứ của núi Sam được ghi chép qua nhiều tài liệu trong vùng. Bà cũng được dân chúng tôn là Thánh Mẫu Nương Nương, với những sự tích và pháp thuật rất huyền bí và mầu nhiệm, được truyền tụng qua nhiều huyền thoại khác nhau, tùy ứng nghiệm của mỗi người.
Theo những chứng liệu của làng Vĩnh Tế thì Tượng của Bà Chúa Xứ trước kia được ngự trị ngay trên đỉnh của núi Sam nhưng không biết từ đâu lại. Ngày nay vị trí nầy chỉ còn lưu lại hai vết lõm lớn trên một chiếc bệ xanh. Cũng theo nhiều chứng liệu đáng tin cậy thì pho tượng Bà Chuá Xứ nguyên là của người Thủy Chân Lạp. Khi những quân cướp trong vùng trông thấy bức tượng Bà Chúa Xứ mưu toan đánh cắp mang về bán, nhưng không thể nào khiêng nổi dù pho tượng chưa đầy một thước.
Khi người Việt đến định cư lập nghiệp tại vùng quanh, thôn xóm được dựng lên chung quanh ngọn núi Sam. Họ được nhiều tin đồn về sự linh ứng của Bà Chúa Xứ, bèn họp nhau lại toan mang tượng Bà về xây am miếu để thờ phụng, nhưng không thể nào khiêng về nổi. Dân làng tổ chức cuộc cúng tế cầu khẩn, mong được toại nguyện. Hồn của Bà Chúa Xứ được nhập đồng vào một vị nữ tu đạo hạnh cao thâm trong vùng nầy, và hồn xưng danh là Bà Chuá Xứ.
Bà truyền dân chúng chọn bốn mươi nữ đồng trinh trong làng, ăn chay, nằm đất, tắm rửa sạch sẽ, sẽ có thể cung thỉnh pho tượng của Bà về thờ phụng. Dân chúng trong làng đã làm theo đúng lời của đồng cốt ban cho. Quả nhiên những nữ đồng trinh nầy có thể đưa pho tượng của Bà về làng Vĩnh Tế không mấy khó khăn. Khi pho tượng đến vùng trung tâm của làng, thì bỗng nhiên sức nặng đè lên khủng khiếp và không thể khiêng đi thêm nữa. Mọi người hiểu rằng đây chính là nơi lập đền thờ và dựng tượng an ngự. Ngôi miếu Bà Chúa Xứ được dụng lên từ đó. Theo nhiều nhà nghiên cứu di chỉ trong làng nầy thì đó là ngày 23-4-1812 âm lịch.
Nhiều truyền thuyết nói về sự linh ứng của Bà Chúa Xứ. Một trong những thuyết đó cho biết: Khi Thoại Ngọc Hầu (Nguyễn Văn Thoại) được vua Minh Mạng (1820 - 1840) được cử đến trấn giữ vùng nầy, thì thường hay bị quân cướp người Cao Miên sang quấy rối không ngừng khiến dân chúng ta thán khắp nơi. Nhưng lực lượng của Thoại Ngọc Hầu cũng không chống giữ được. Phu nhân của Thoại Ngọc Hầu thường đến cúng bái lể Bà Chúa Xứ để xin Ngài phù hộ cho chồng mình dẹp yên được bọn giặc cướp nầy, tái lập cảnh an cư lạc nghiệp cho dân chúng trong vùng nầy.
Lời nguyện cầu của Phu nhân được toại nguyện. Bà Chúa Xứ đã giúp cho binh sĩ của Thoại Ngọc Hầu tìm kế để thanh toán sạch bọn giặc rất dễ dàng. Và cũng để cảm tạ công ơn của Bà Chúa Xứ, Thoại Ngọc Hầu Phu nhân đã xuất tiền cho xây cất lại miếu thờ Bà Chúa Xứ rất trang nghiêm. Nhân dịp khánh thành dân chúng trong vùng nầy đã mở hội tế rất long trọng, linh đình suốt trong ba ngày của hạ tuần tháng tư âm lịch. Kể từ đó về sau hằng năm đến dịp nầy lại tổ chức lễ hội Bà Chúa Xứ.
Theo lời đồn của các vị bô lão trong làng nầy, thì sự linh ứng của Bà Chúa Xứ rất cao. Chẳng hạn như vào tháng 5 năm 1912, một tên tướng cướp khét tiếng của người Cao Miên tên là Nặc Phu Nông nghe tin tượng Bà Chúa Xứ có nhiều ngọc ngà châu báu, nên đem thủ hạ đến cướp mang về. Nhưng khi vừa vào miếu thờ thì bỗng nhiên trời sấm sét, bão tố nổi lên khủng khiếp. Bọn cướp đều bị đứt tay đứt chân thương tích đầy mình, phần đông đều bỏ mạng kể cả tên đầu nậu. Xác của chúng cũng bị cuốn phăng xuống con kinh gần đó để nước cuốn phăng đi. Nhiều lời đồn về những âm mưu cướp giật, phá hoại khác cũng đều bị sự linh ứng của Bà Chúa Xứ trừ khử được chúng.
Về vị trí của ngôi miếu được kể như sau: trước kia tượng của Bà Chúa Xứ nhìn thẳng ra mặt đường. Một số dân chúng qua lại trước miếu đã không ngả nón chào. Bà cho là vô lễ. Sau đó thì Bà nhập đồng cho một nữ tu trong làng báo cho biết tình trạng nầy và khuyên dân làng nên chuyển hướng tượng Bà quay về hướng khác, nhìn về phía trong còn lưng thì quay ra hướng ngoài. Sự linh ứng của Bà Chúa Xứ là thường nhập đồng chữa bệnh cho dân chúng trong làng, kể cả những chứng bệnh nan y nữa.
Cho nên hằng ngày số người khắp nơi đến lễ bái, cầu khẩn Bà Chúa Xứ rất đông đảo. Ngày lễ vía Bà hằng năm cũng là dịp để thập phương đến cầu đảo. Nhiều cuộc lên đồng bóng để thỉnh ý Bà Chúa Xứ khi muốn dâng xin một việc gì, tránh tai họa gì, chữa trị căn bệnh gì. Đông đảo nhất là trong những ngày 24, 25 và 25 tháng Tư âm lịch trong mỗi năm.
Nhiều ý kiến khác nhau về pho tượng Bà ở núi Sam. Một truyền thuyết cho rằng: Pho tượng hiện tại là cốt tượng Phật được Thọai Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại trong thời gian vào bình định vùng nầy và Xiêm La đã cho quân sĩ chuyển từ thành Trấn Tây về thờ phượng. Tuy nhiên một số sử liệu liên quan đến việc xây dựng trong thời kỳ nầy thì không thấy nhắc đến.
Một số tài liệu khác đưa nhận định: Cột tượng Bà Chúa Xứ vốn là một pho tượng người đàn ông được tạc ở tư thế ngồi. Tuy nhiên tác giả là ai, thì ý kiến cũng không giống nhau. Phần đông các tác giả dựa vào truyền thuyết để khẳng định pho tượng đó vốn có từ trên đỉnh núi Sam trước đây. Về sau được thay đổi, tô màu, thay y trang thành đàn Bà. Đây cũng là giả thuyết. Muốn chứng minh rõ hơn, họ nói đến một bệ đá trên đỉnh núi Sam để đặt pho tượng vì hai dấu chân so ra vừa ăn khớp.
Một số nhà nghiên cứu khác sau khi nêu ra những điều trùng hợp giữa chất đá chế tác về tượng và bệ đá, và chính sự trùng khít nầy có thể lắp được phần chân pho tượng với lỗ mộng hình vuông giữa bệ đá. Tượng Bà được chế tác để đặt trên phiến đá ở đỉnh Sam. Về hướng đặt pho tượng các tác giả đều đưa nhận định giống nhau. Trước đây tượng Bà được đặt quay mặt ra đường cái quan, nghĩa là mặt kia úp về phía núi.
Do đó nhiều người đi ngang qua không chào. Bà nổi giận và báo mộng cho viên chức trong làng nên quay tượng lại hướng về phía cánh đồng như hướng hiện nay. Theo hướng đó, cách nơi Bà toạ không xa là đường biên giới. Về nhận diện nguồn gốc chế tác, những nhà nghiên cứu chỉ có thể nhận diện được vền phía bên ngoài như kiểu mũ đội, khoác áo xiêm mấy lớp, mặt được sơn lại...
Không ai dám ngang nhiên tự tiện lật mũ hay cởi áo Bà, vì trước đây không biết bao nhiêu chuyện kể về những người ngang nhiên động chạm đến đã chết bắt đắc kỳ tử. Việc nghiên cứu cốt tượng cũng có thể thêm được vài tia sáng mới. Tượng cao khoảng 1,2 mét, được đúc liền với một thớt đá cùng loại, hình tương đối tròn, có vành rộng hơn điểm tiếp giáp các phần của tượng và thớt các phần của tượng với chốt chừng 10cm.
Tác giả bức tượng đã dùng thớt đá làm bệ tượng, vì vậy nếu đặt tượng riêng không cần xây thêm bệ đỡ tượng vẫn được ngồi vững chãi. Chân trái của tượng được xếp bằng tròn, bàn chân trái để giáp bàn chân phải. Chân phải đặt trong tư thế co lại chống thẳng. Tay trái để ở tư thế chống nẹ (nạnh), bàn tay soãi chống xuống bệ đá phía sau đùi trái. Tóc quắn thành những búp xoăn kiểu "sumi" của thổ dân Jamaica, xoả xuống trùm trán, có những búp đến ngang bả vai.
Có một vành đai như vành đai vương miện đội trên đầu phía trên vành tai. Vành nầy có hoa văn hình móc câu; trên vành đó, trước phía trán, nổi lên những hình hoa văn hình ngọn lửa xung quanh một hình tròn ở giữa. Dựa trên những chi tiết vừa nói một số tác giả đã đưa nhận định: Phong cách, kiểu dáng của pho tượng có một số điểm khác với những hình tượng thời cổ. Theo dáng ngồi có một số điểm trông giống như tượng tại chùa Tây Phương. Nếu so sánh với tượng của những Thánh Mẫu khác, có một số điểm khác về tư thế ngồi, cách để tay, cách xếp chân, trang phục, phong thái.
Trần Hưng
Thanked by 1 Member:
|
|
#143
Gửi vào 28/06/2011 - 05:19
TỪ NGOẠI CẢM TỚI TRAI ĐÀN GIẢI OAN
Nhiều nghệ sĩ lớn của Việt Nam từ xưa đến nay khi cảm nhận về lịch sử thường không quên “cõi bên kia” như đó là phần không thể thiếu được để làm nên lịch sử. Lịch sử, nhất là lịch sử Việt Nam, là một chuỗi đấu tranh, trong đó chiến tranh đóng một vai trò lớn, và phần quan trọng để làm nên các trang lịch sử đó là những người đã ngã xuống trên trận mạc và các biến động tranh chấp. Người nghệ sĩ thay mặt cho tâm thức của cộng đồng mình nhắc nhở về những người đã chết, tâm hồn mẫn cảm của họ thao thức nhiều với những người đã đem mạng sống của mình để tạo thành một bức tranh mới cho lịch sử.
Sự cảm thông ấy từ lâu đã thành truyền thống trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, có khi thô thiển trong đại đa số dân giã để sau này bị xem là mê tín dị đoan, hoặc có thể kết tinh thành những áng văn thơ bất hủ của các bậc nghệ sĩ trí thức, trải từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đặng Trần Côn trong bản chữ Hán, rồi Đoàn Thị Điểm trong bản dịch Chinh Phụ Ngâm, khi viết về chiến trận, bên cạnh khí thế oai hùng của “chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt,” vẫn không quên hình ảnh:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn...
Một cảnh buồn thảm thiết. Người nghệ sĩ lớn của dân tộc, khi mở lòng nhìn vào mặt trái của lịch sử, thì bỗng bỏ hết chính kiến, bỏ hết phe phái, để chỉ nhìn thấy sự mất mát đau thương dằng dặc của chính đồng bào, đồng loại mình. Nguyễn Du, với bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh nổi tiếng, bày tỏ tấm lòng bi mẫn của mình đối với hàng loạt cái chết thảm thương khiến hồn người chết sau đó không siêu thoát được. Tác giả tuồng như đã “thấy” được nỗi bơ vơ, lạc lõng, lang thang tội nghiệp của hàng đàn hàng lũ oan hồn, và đặt lương tâm người sống một trách nhiệm làm sao giải thoát cho họ. Một vài hình ảnh oan hồn liên quan đến chiến tranh trong Văn Tế Thập Loại chúng sinh:
Nào những kẻ bài binh bố trận
Vâng mệnh sai lĩnh ấn nguyên nhung
Gió mưa thét rống đùng đùng
Phơi thây trăm họ làm công một người
Khi thất thế cung rơi tên lạc
Bãi sa trường thịt nát máu trôi
Bơ vơ góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết vùi vào đâu
Trời xâm xẩm mưa gào gió thét
Khí âm ngưng mù mịt trước sau
Năm năm sương nắng dãi dầu
Còn đâu tế tự, còn đâu chưng thường.
Trong thế kỷ 20, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước khi viết những bản nhạc lịch sử thời gian trước 1945 cũng trải qua nhiều giây phút sống với các oan hồn tử sĩ của những trang sử mà mình đang hồi nhớ. Với Hát Giang Trường Hận thì:
Đêm khuya âm u ai khóc than trong gió ngàn
Xác quân Trưng Nữ Vương rơi ngổn ngang bên nước tràn
Hồn ai đang thổn thức trên sông
Hồn quân Nam đang khóc trên sông...
Sát khí ngất đất bao lớp thây vương bóng huyền
Không gian như lắng nghe bao oan hồn đang xao xuyến
Xót thương ôi Nữ Hoàng trẫm thân
Dù mạng vong lửa hờn chưa tan...
Với Ải Chi Lăng thì:
Hồi nhớ tới vó câu tập tễnh lướt qua làn khói–Giáp chiến!
Hồi nhớ tới bóng muôn cờ xí phất qua hùng vĩ–Cố tiến!
Lời ai nỉ non trong mây
Hồn ai thở than nơi này?
Lời gió hay lời muôn ngàn quân sĩ đã chết
Hồn gió hay hồn ai còn thương tiếc?...
Phạm Duy thì ngay khi cuộc chiến tranh sắp bắt đầu, đã nhìn thấy cái kết quả không tránh được của can qua. Ngay từ năm 1945 ông đã viết:
Mờ trong bóng chiều
Một đoàn quân thấp thoáng
Quân này là quân ma, họ đã ra đi chiến đấu và đã ra người thiên cổ, ông dùng ngay hình ảnh ấy để lay động lòng người đang đứng trước cuộc chiến giữ nước:
Ra biên khu trong một chiều sương âm u
Âm thầm chen khói mù
Bao oan khiên đang về đây hú với gió
Là hồn người Nam nhớ thù.
Một thanh niên đang ở độ tuổi ngoài hai mươi, mang bầu máu nóng phụng sự cho đất nước mà đã sớm nhìn ra những hình ảnh của “cõi bên kia” như thế thì cũng là chuyện lạ. Bài Nợ Máu Xương lại càng lạ hơn nữa, vừa hiện thực vừa siêu thực, tả toàn cảnh chết chóc vì chém giết:
Ai nghe không sa trường lên tiếng hú?
Tiếng lầm than, những tiếng người đời quên.
Đi lang thang tiếng cười vang tiếng hú
Xác không đầu nào kia?
Ông đã dùng những hình ảnh cổ điển của thi ca để vẽ nên sự chết chóc, sau đây vẫn là một đoàn quân ma đang tiến... về trời:
Lá rụng tơi bời
Đoàn quân tiến qua làng.
Từng thanh kiếm đứt ngang,
Từng lớp áo rách mướp,
Từng cánh tay rụng rời!
Qua làn mây trắng
Đoàn quân tiến về trời
Ầm rung tiếng sa trường...
Đến trận chiến tranh Nam Bắc 1954-1975 thì sự tàn phá và chết chóc đã vượt tất cả các trận chiến khác trong lịch sử Việt Nam trước đây, nhưng có cái lạ là ngay trong thời gian đánh nhau trong Nam cũng như ngoài Bắc không có tác phẩm văn nghệ nào đề cập đến “cõi bên kia” như ta đã thấy trong các thời kỳ trước qua các ví dụ trên đây.
Có thể giải thích: phía miền Nam vẫn duy trì đời sống tâm linh nên cả thể xác lẫn linh hồn người chết trong cuộc chiến đã được kính cẩn đón nhận bởi gia đình, bởi tôn giáo và tín ngưỡng nên coi như phần lớn đã được an ủi, siêu thoát, “không có vấn đề” một cách trầm trọng; phía miền Bắc bị áp đặt chủ thuyết duy vật và vô thần, coi con người chết là hết nên trong cuộc chiến dù chết chóc đau thương đến mấy người ta vẫn lờ đi, xác chết thì gặp đâu vùi đấy, và vấn đề tâm linh thì chẳng bao giờ được nói tới.
Kết quả là gì? Sau khi cuộc chiến chấm dứt, trên đất Bắc bắt đầu rộ lên phong trào đi tìm mồ mả của những kẻ chết trong chiến tranh, đặc biệt những người “sinh Bắc tử Nam” và như một hệ quả tất nhiên, một số tác phẩm văn chương, dù là ít oi, đã bắt đầu nói đến các hiện tượng ma quái của các nơi chiến trường xưa (Bảo Ninh, Nỗi Buồn Chiến Tranh, Dương Thu Hương...) và đặc biệt nhất là sự xuất hiện các nhà ngoại cảm để giúp đỡ, hướng dẫn công việc đi tìm mồ mả
Trong nước Việt, từ đầu thập niên 1990, hiện tượng Ngoại Cảm nổi bật lên từ Bắc vô Nam, vì nhờ các nhà ngoại cảm mà rất nhiều người tìm ra mộ phần của thân nhân đã chết, mất xác trong chiến tranh. Có hàng trăm nhà ngoại cảm khắp ba miền đất nước, trong đó nổi tiếng nhất là cô Phan Thị Bích Hằng, các ông Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Văn Liên, Dương Mạnh Hùng, Nguyễn Khắc Bảy v.v… Sau ba Đại Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan tại Sài Gòn, Huế và Sóc Sơn (Hà Nội), do tăng đoàn Làng Mai chủ xướng, phong trào ngoại cảm lại được dân chúng bàn tới nhiều hơn.
Theo báo chí Hà Nội, hàng chục ngàn ngôi mộ các quân nhân chết trong chiến tranh được các nhà ngoại cảm tìm ra, do thân nhân họ yêu cầu, hoặc do những lời nhắn gửi của người từ cõi âm. Người Cộng Sản duy vật vốn tin rằng Chết là Hết; nhưng trước phong trào đi tìm mộ tử sĩ của dân chúng, nay họ đã lập ra bộ môn Cận Tâm Lý chuyên khảo sát về hiện tượng Ngoại Cảm. Bộ phận này thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người, do tổ chức các hội khoa học tại Hà Nội thành lập.
Theo ông Vũ Thế Khanh, tổng giám đốc một công ty tin học ứng dụng, ở Việt Nam có gần 100 nhà ngoại cảm có khả năng đặc biệt, trong đó chỉ chừng mươi người có thể tìm mộ một cách xuất sắc. Còn số người lừa bịp, tự phong cho mình khả năng ngoại cảm, thì phải hàng ngàn. Theo các nghiên cứu sơ khởi, các nhà khoa học VN nhận biết có bốn con đường dẫn tới khả năng ngoại cảm: do bẩm sinh, sau các trận ốm hoặc bị chấn thương nặng (điện giật, chó dại cắn…); do thiền định hoặc do huấn luyện (?).
Theo ông Khanh, các thiền sư đắc đạo có khả năng ngoại cảm nhưng các vị không màng tới chuyện thi triển các thần thông như thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông v.v… nên chúng ta không được biết họ. Ngoài đời, cũng theo ông Khanh, nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã hiện đang sống tại Sài Gòn, là người nhờ thiền định mà có được tầm nhìn rất xa, giúp được nhiều người tìm ra mộ thân nhân ở mãi các vùng quê xa xôi Bắc Việt. Ông thường giúp người, không nhận thù lao, và nhiều khi không cho các thân chủ gặp mặt… Ngày nay, ông Nhã đã bỏ nghề ngoại cảm, chuyên lo tu tập và ấn hành kinh sách của hòa thượng Thanh Từ.
Nhà ngoại cảm nổi tiếng nhất trong nước hiện nay là cô Phan Thị Bích Hằng, sanh năm 1973 tại một làng quê nghèo tỉnh Ninh Bình. Năm 1990 cô và một người bạn gái cùng bị chó dại cắn, cô bạn chết nhưng cô thoát hiểm nhờ gia đình hết lòng cứu chữa. Sau đó, cô bắt đầu nhìn thấy những người đã chết từ lâu (như bà nội, bà ngoại của cô v.v…) rồi cô có khả năng nhìn thấy cái chết gần kề của người sống trong làng…
Bị gia đình và dân làng coi như người điên, cô đã chứng tỏ được sự lành mạnh tinh thần của mình bằng cách thi được vào đại học Kinh Tế. Càng ngày cô càng có nhiều khả năng ngoại cảm nhiều hơn: cô nhìn thấy người chôn trong mộ dưới lòng đất sâu, nhận biết hình dáng và nghe được tiếng nói của các nhân vật quá cố. Cô tiếp xúc được với “linh hồn” còn ở trong các ngôi mộ đó, dù thân xác đã rữa nát hết… Trong ngày giỗ tổ, cô Bích Hằng tìm ra được mộ ông tổ bốn đời mà gia đình thất lạc từ lâu.
Từ đó, cô đi sâu vào việc đi tìm mộ giúp những gia đình có con chết trận, mất xác. Trong hàng ngàn câu chuyện đi tìm mộ, ly kỳ và khó tin như truyện Phong Thần đời xưa; chuyện mà nhiều người biết nhất, là trường hợp Giáo sư, cựu phó thủ tướng Trần Phương tìm ra mộ cô em gái: Cô Khang bị Tây giết rồi quăng xác xuống sông Luộc từ đầu thập niên 1950. Sau đó là chuyện ông Toàn Thắng, (con trai tướng Trần Độ, tức Tạ Ngọc Pháp), đã tìm được mộ bà cô ruột là Tạ Thị Câu (chị gái của ông tướng, hoạt động cho Việt Minh trước ông em, từ năm 1939). Bà bị Tây bắt năm 1941, và gia đình chỉ được tin là bà đã chết ngày 29/9/1944, mà không biết xác bà ở đâu.
Cựu phó thủ tướng Trần Phương là một người Mác–xít, chỉ tin ở khoa học, không bao giờ cúng lễ trong gia đình. Nhưng sau khi nhờ ông Nguyễn Văn Nhã và cô Bích Hằng tìm được mộ em (cách năm bà từ trần cả nửa thế kỷ), với nhiều chứng cớ kỳ lạ, ông đã phát biểu: “Hài cốt em tôi thì tôi đã tìm thấy, nhưng những con đường bí ẩn dẫn đến kết quả ấy thì vẫn là bí ẩn. Khám phá ra những bí ẩn ấy không phải là điều dễ dàng. Tôi chỉ từ kinh nghiệm mình mà nêu lên vài vấn đề để các chuyên gia về lĩnh vực này xem xét…”
Ông Trần Phương cho rằng ông có căn cứ để tin là mình “đã gặp linh hồn của em tôi, anh tôi và chị tôi, cả linh hồn cụ Giám là người chôn cất em tôi, cụ An là người chứng kiến… Cháu Bích Hằng đã nhận diện được linh hồn, thậm chí nhận diện được linh hồn qua tấm ảnh; đã nghe được tiếng nói của linh hồn. Như vậy linh hồn phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó, có hình thù, có tiếng nói. Đã là một dạng vật chất thì vật lý học, hóa học, y học, sinh học, với những phương tiện quang học và điện tử tinh vi, hẳn sẽ có ngày tìm ra.”
Ông Trần Phương rất thắc mắc về thế giới của những linh hồn người chết, không biết họ ảnh huởng thế nào tới thế giới người sống và họ tồn tại như thế vĩnh viễn hay chỉ một thời gian? Khả năng ngoại cảm là do đâu mà có?... Cô Phan Thị Bích Hằng đã tự thuật ngày 25 tháng 3, 2007, trước hàng ngàn người tại chùa Hoằng Pháp (Hóc Môn), về công việc tìm mộ mà cô làm từ khi có khả năng ngoại cảm, trước mặt quý sư Giác Ngộ trụ trì chùa Hoằng Pháp, và thượng tọa Nhật Từ.
Cô cho biết từ năm 1996 tới nay, cô đã giúp thân nhân người chết tìm được 2.567 ngôi mộ, trong số đó chỉ có 17 trường hợp không thành công. Các ngôi mộ này ở nhiều vị trí rất phức tạp: trên núi cao, trong rừng sâu, dưới lòng sông rạch… Cô cho biết, người tìm mộ thân nhân phải có lòng thành, tha thiết tới việc này, thì cô sẽ thành công nhanh.
Sống cuộc đời bình thường của một phụ nữ có gia đình, cô Bích Hằng có khả năng nhìn được người nằm trong mộ, và nghe được họ nói chuyện. Lần đầu tiên nghe được tiếng người cõi âm, là khi cô nghe thấy tiếng nói của bà cụ mẹ Giáo sư Mai Hữu Khuê. Do đó, cô là nhà ngoại cảm tìm được nhiều mộ nhất, vì ngoài yêu cầu của người sống, cô còn đưa tin tức dùm một số các người cõi âm tới cho gia đình họ.
Các âm hồn, qua cô, còn mách bảo cho biết vị trí một số mộ của những người lân bang với họ; như trường hợp mộ của nhà cách mạng Lương Ngọc Quyến (khởi nghĩa tại Thái Nguyên 1917). Chính vì có các khả năng này mà cô đã chứng minh được để mọi người tin rằng thế giới cõi âm là một hiện thực, tồn tại dưới các tần số sóng âm, từ trường khác với chúng ta (cõi dương).
Theo thượng tọa Nhật Từ, khả năng ngoại cảm tương đương với các thần thông như thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông của chư Phật, của chư Bồ tát và các thiền sư chứng đạo. Quý ngài có thể nhìn và nghe rất xa, xuyên thấu mọi vật chất như đất, đá, núi sông… Thời gian và không gian không còn giới hạn được quý ngài.
Hơn nữa, quý ngài còn hiểu được tâm ý đối tượng (tha tâm thông). Chúng ta ai cũng có những khả năng tâm linh này nhưng chưa khai mở được ra đó thôi. Con người bình thường, khi có một tai nạn lớn, thì tâm thức họ có thể bật ra được các khả năng kỳ diệu, như cô Bích Hằng do vết thương chó cắn, ông Nguyễn Văn Chiếu, do bị điện cao thế giật suýt chết.
Các nhà ngoại cảm khi mô tả sắc tướng và phiên dịch các lời nói của người âm, họ đều ở trong tình trạng tỉnh táo: tiếng nói không thay đổi, khuôn mặt và hình sắc không khác. Họ hoàn toàn không giống các đồng cô bóng cậu… họ chỉ có khả năng nhìn và nghe hơn người thường mà thôi.
Thượng tọa Nhật Từ cho rằng vấn đề thông tin được với cõi âm qua các nhà ngoại cảm, là một tiếng chuông cảnh tỉnh rất lớn, khiến cho những người hoàn toàn theo duy vật chủ nghĩa phải giật mình: sau khi chết, không phải là hết chuyện! Thân thể con người sau khi chết sẽ biến đổi, tan rã và trở về với tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Tâm thức chúng ta cũng sẽ tan biến vào giòng sống của vũ trụ, để rồi khi hợp đủ duyên, sẽ biểu hiện ra một thân mạng mới hay dở tùy theo nghiệp lực mình đã tạo ra trong suốt cuộc đời mình.
Nhưng khi bị gục ngã bất ngờ trong chiến trường, chết vì bom đạn trong chiến tranh, đa số người ta không được siêu thoát và với ảo tưởng sâu dày về cái Ngã trường tồn, những người đó bám víu vào hình tướng cũ của mình; đau khổ triền miên vì có nhiều ray rứt, nhiều chuyện dở dang, chưa giải quyết. Cảm giác mất mát, tiếc nuối hay ân hận của người chết khiến cho tâm thức họ không bước được vào cảnh giới tốt đẹp hơn. Chết rồi mà không siêu thoát, không được đầu thai vào kiếp khác, các người âm đó vẫn tưởng như mình còn sống, tiếp tục tham sân si và bị vướng mắc, đau khổ, y như khi còn sống vậy.
Trong bài giảng tại chùa Ấn Quang ngày 8 tháng 4, 2007, thượng tọa Nhật Từ đã phân tích các nguyên nhân đưa tới hiện tượng bùng phát của Ngoại cảm. Theo ông: các nhà ngoại cảm xuất hiện tại nước Việt nhiều nhất, so với các xứ khác trên thế giới, vì nhiều lý do, nhất là :
Chiến tranh quá lâu trên đất nước Việt Nam với người Trung Hoa (một ngàn năm), người Pháp (100 năm); và cuộc nội chiến (21 năm) giữa hai miền Nam Bắc gây ra bao cảnh tương tàn, khổ hận. Các nhà ngoại cảm thông tin được dùm người cõi âm, để cảnh tỉnh người sống biết quay về con đường đạo đức, sống thiện lành hơn.
Tình trạng tiến bộ vật chất trong khung cảnh toàn cầu hóa khiến cho người dân Việt dễ bị tha hóa, cho việc mưu toan làm giàu là quan trọng nhất thỏa mãn cuộc sống vật chất là mục tiêu của cuộc sống. Các nhà ngoại cảm nhắc nhở chúng ta về nghiệp dĩ, luân hồi, về tái sanh v.v… để biết đường mà sám hối, cảnh tỉnh.
Thượng tọa Nhật Từ cũng giải thích các hiện tượng Ngoại Cảm như sau:
Cõi âm của các linh hồn chưa siêu thoát, chính là cảnh giới Ngã quỷ một trong sáu cõi mà kinh Phật thường nói tới: Trời Người Atula Ngạ Quỷ Súc sanh. Ngạ quỷ là cõi của những người chết mà chưa thoát được cái Ngã chấp về mình. Thân chết nhưng tâm còn vướng mắc, còn chấp vào xác thân cũ, nên không siêu thoát sang các cảnh giới khác được.
Đối với cái nhìn Phật giáo: “thân này không phải là tôi,” khi chết đi, xác thân mình sẽ bị hủy hoại, mục nát, biến đổi vì tứ đại tan rã… nhưng tâm thức chúng ta sẽ được chuyển đổi, biểu hiện ra trong những thân mạng mới , tức là đầu thai sang kiếp khác. Nếu nghiệp dĩ đã nhẹ nhàng, ta sẽ được siêu thoát, vượt qua được vòng sinh tử của cõi luân hồi, nhập vào cõi Phật.
Phật giáo cũng nói tới các thần thông mà chư Phật cùng các Bồ Tát, các Thiền sư cao cấp đã chứng nghiệm được. Theo thượng tọa Nhật Từ, các nhà ngoại cảm là những con người bẩm sinh hay vì một tai nạn, một biến động đặc biệt, đã khai mở được vài ba loại thần thông đó. Họ có thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông và tha tâm thông: nhìn thấu qua đất đai, rừng núi, nhìn từ nơi rất xa, nghe được những âm thanh mà người thường không nghe nổi và đọc được tâm tình của người khác, dù ngừơi đó sống hay đã chết.
Thượng tọa cũng cho rằng hiện tượng ngoại cảm không phải là chuyện mê tín dị đoan. Các nhà ngoại cảm thứ thiệt không như các cô đồng cậu bóng, khi tiếp xúc với người cõi âm, họ vẫn tỉnh táo và nói tiếng của họ không đổi giọng. Họ chỉ diễn tả những gì nhìn thấy và nhắc lại những gì người âm muốn thông tin qua họ mà thôi.
Oán cừu tồn tại dai dẳng giữa những người đang sống ở cõi dương cũng như các mối oan khiên của người cõi âm chưa giải được, sẽ gây ra thêm nhiều khổ não cho dân tộc. Trong văn hóa Phật giáo mọi người đều tin vào thuyết “âm siêu dương thái” người chết siêu thoát, thì người sống mới thái bình.
Thượng tọa Nhật Từ cũng cho rằng các nhà ngoại cảm đã vén lên bức màn của cõi âm mà Phật đã đề cập tới trong giáo lý luân hồi, tái sinh. Với những thông tin từ các nhà ngoại cảm, người ta hiểu được vì sao các chùa vẫn cúng tế cô hồn, hướng dẫn cho họ dễ siêu thoát. Các trai đàn giải oan là đàn tràng tập thể do nhiều tu sĩ đạo hạnh thực hiện, đem nghiệp lực thanh tịnh ra giúp cho các oan hồn được giải nghiệp, nhẹ nhàng.
Cô Phan Thị Bích Hằng cùng nhiều đồng bạn đã tham dự một trai đàn bạt độ tại chùa Linh Thắng tỉnh Di Linh vào cuối tháng Ba 2007, sau đại trai đàn giải oan tại chùa Vĩnh Nghiêm do tăng đoàn Làng Mai tổ chức cùng chư tăng miền Nam. Cô Bích Hằng cho biết, cô đã nhìn thấy rất nhiều hương linh trẻ có già có, lành có, khuyết tật cũng nhiều…
Họ dắt díu nhau tìm vào cửa Phật để được nghe kinh, được siêu độ. Cô cảm nhận được năng lượng thanh tịnh và thánh thiện của quý vị tu sĩ khi họ tụng kinh, cầu nguyện, và cô rất xúc động. Cô Bích Hằng: “rất tin vào sự siêu độ của nhà Phật. Bằng sự thanh tịnh và cả tấm lòng từ bi của quý thầy qua lời kinh Phật dạy, các hương linh nghe hiểu và sẽ xả bỏ được oan nghiệt, từ đó họ mới mong được sám hối và siêu thoát.
Đó cũng là điều mà các hương linh thường nhờ tôi nhắn với gia đình họ: nên cầu siêu cho họ. Tôi mong sao một số tỉnh thành trên cả nước, tại những nơi mà chiến tranh xảy ra ác liệt nhất như Quảng Trị, Quảng Nam, Điện Biên Phủ, và các tỉnh Tây Nguyên… những nơi chưa có chùa thì nên lập chùa và có nhiều trai đàn chẩn tế như thế này để mà cầu nguyện cho các oan hồn được mau siêu thoát. Thú thật, thầy cúng thì rất nhiều nhưng tôi vẫn cứ tin vào nhà chùa vì tôi tin vào đức độ, lòng từ bi và cái tâm trong sáng của quý thầy…”
Thế giới người âm có ảnh hưởng hay không trên dương thế là chuyện nhiều người thắc mắc. Nhưng, khi tâm an, người sống chắc cũng sẽ ảnh hưởng không ít trên người thân đã khuất bóng. Nếu có sự kiện “âm siêu dương thái” thì cũng có chuyện “dương bình an, âm siêu thoát”. Khoa học ngày nay cũng chia sẻ cái nhìn “tương tức” của đạo Phật.
Đạo Phật và cách thực hành, theo cách giảng dạy của các thiền sư hiện đại, là một lối sống tích cực, giúp cho mọi người chuyển đổi cái tâm để sống một cuộc đời bình an, hạnh phúc hơn rất nhiều. Người Âu Mỹ vốn tin vào khoa học thực nghiệm, hiện nay cũng đang đổ xô đi tìm thiền. Và giới khoa học gia về thần kinh não bộ đang làm nhiều cuộc thử nghiệm quan trọng về ảnh hưởng của thiền tập trên não bộ.
Đại sư trẻ tuổi Tây Tạng Yongey Mingyur (sinh 1975), trong cuốn sách mới (The Joy of Living), đã dùng các thông tin về khoa học thần kinh mới nhất để lý giải về những ích lợi thực tiễn của Thiền quán. Theo đại sư Yongey và theo những thử nghiệm mới đây trong khoa thần kinh não bộ, thì sự thực tập thiền định (tinh chuyên) có thể làm gia tăng hoạt động tại các trung khu não bộ liên quan tới hạnh phúc và lòng từ bi.
Thiền không chỉ giúp cho con người có sự chú tâm, bình thản để vượt qua các khó khăn tâm lý, mà thiền còn là phương pháp giúp họ trở về với lòng Từ Bi, sự Hiểu Biết chân thật những bản tánh vốn có sẵn trong tâm mỗi người… Những con người có khả năng sống với sự bình an nội tại, họ có nhiều hấp lực và ảnh hưởng thiện lành trên người khác, trên môi trường. Người xưa có câu “Người quân tử ở đâu thì nước ở đó trong hơn, cỏ xanh hơn…”. Sự an bình của người sống có ảnh hưởng không ít trên người chết. Vì vậy mà đạo lực và tâm thanh tịnh của các vị tu sĩ có thể giúp cho người cõi âm được siêu thóat, khi họ lập ra các đàn tràng để cầu nguyện, siêu độ cho các oan hồn?
Cam Vũ
Nhiều nghệ sĩ lớn của Việt Nam từ xưa đến nay khi cảm nhận về lịch sử thường không quên “cõi bên kia” như đó là phần không thể thiếu được để làm nên lịch sử. Lịch sử, nhất là lịch sử Việt Nam, là một chuỗi đấu tranh, trong đó chiến tranh đóng một vai trò lớn, và phần quan trọng để làm nên các trang lịch sử đó là những người đã ngã xuống trên trận mạc và các biến động tranh chấp. Người nghệ sĩ thay mặt cho tâm thức của cộng đồng mình nhắc nhở về những người đã chết, tâm hồn mẫn cảm của họ thao thức nhiều với những người đã đem mạng sống của mình để tạo thành một bức tranh mới cho lịch sử.
Sự cảm thông ấy từ lâu đã thành truyền thống trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, có khi thô thiển trong đại đa số dân giã để sau này bị xem là mê tín dị đoan, hoặc có thể kết tinh thành những áng văn thơ bất hủ của các bậc nghệ sĩ trí thức, trải từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đặng Trần Côn trong bản chữ Hán, rồi Đoàn Thị Điểm trong bản dịch Chinh Phụ Ngâm, khi viết về chiến trận, bên cạnh khí thế oai hùng của “chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt,” vẫn không quên hình ảnh:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn...
Một cảnh buồn thảm thiết. Người nghệ sĩ lớn của dân tộc, khi mở lòng nhìn vào mặt trái của lịch sử, thì bỗng bỏ hết chính kiến, bỏ hết phe phái, để chỉ nhìn thấy sự mất mát đau thương dằng dặc của chính đồng bào, đồng loại mình. Nguyễn Du, với bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh nổi tiếng, bày tỏ tấm lòng bi mẫn của mình đối với hàng loạt cái chết thảm thương khiến hồn người chết sau đó không siêu thoát được. Tác giả tuồng như đã “thấy” được nỗi bơ vơ, lạc lõng, lang thang tội nghiệp của hàng đàn hàng lũ oan hồn, và đặt lương tâm người sống một trách nhiệm làm sao giải thoát cho họ. Một vài hình ảnh oan hồn liên quan đến chiến tranh trong Văn Tế Thập Loại chúng sinh:
Nào những kẻ bài binh bố trận
Vâng mệnh sai lĩnh ấn nguyên nhung
Gió mưa thét rống đùng đùng
Phơi thây trăm họ làm công một người
Khi thất thế cung rơi tên lạc
Bãi sa trường thịt nát máu trôi
Bơ vơ góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết vùi vào đâu
Trời xâm xẩm mưa gào gió thét
Khí âm ngưng mù mịt trước sau
Năm năm sương nắng dãi dầu
Còn đâu tế tự, còn đâu chưng thường.
Trong thế kỷ 20, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước khi viết những bản nhạc lịch sử thời gian trước 1945 cũng trải qua nhiều giây phút sống với các oan hồn tử sĩ của những trang sử mà mình đang hồi nhớ. Với Hát Giang Trường Hận thì:
Đêm khuya âm u ai khóc than trong gió ngàn
Xác quân Trưng Nữ Vương rơi ngổn ngang bên nước tràn
Hồn ai đang thổn thức trên sông
Hồn quân Nam đang khóc trên sông...
Sát khí ngất đất bao lớp thây vương bóng huyền
Không gian như lắng nghe bao oan hồn đang xao xuyến
Xót thương ôi Nữ Hoàng trẫm thân
Dù mạng vong lửa hờn chưa tan...
Với Ải Chi Lăng thì:
Hồi nhớ tới vó câu tập tễnh lướt qua làn khói–Giáp chiến!
Hồi nhớ tới bóng muôn cờ xí phất qua hùng vĩ–Cố tiến!
Lời ai nỉ non trong mây
Hồn ai thở than nơi này?
Lời gió hay lời muôn ngàn quân sĩ đã chết
Hồn gió hay hồn ai còn thương tiếc?...
Phạm Duy thì ngay khi cuộc chiến tranh sắp bắt đầu, đã nhìn thấy cái kết quả không tránh được của can qua. Ngay từ năm 1945 ông đã viết:
Mờ trong bóng chiều
Một đoàn quân thấp thoáng
Quân này là quân ma, họ đã ra đi chiến đấu và đã ra người thiên cổ, ông dùng ngay hình ảnh ấy để lay động lòng người đang đứng trước cuộc chiến giữ nước:
Ra biên khu trong một chiều sương âm u
Âm thầm chen khói mù
Bao oan khiên đang về đây hú với gió
Là hồn người Nam nhớ thù.
Một thanh niên đang ở độ tuổi ngoài hai mươi, mang bầu máu nóng phụng sự cho đất nước mà đã sớm nhìn ra những hình ảnh của “cõi bên kia” như thế thì cũng là chuyện lạ. Bài Nợ Máu Xương lại càng lạ hơn nữa, vừa hiện thực vừa siêu thực, tả toàn cảnh chết chóc vì chém giết:
Ai nghe không sa trường lên tiếng hú?
Tiếng lầm than, những tiếng người đời quên.
Đi lang thang tiếng cười vang tiếng hú
Xác không đầu nào kia?
Ông đã dùng những hình ảnh cổ điển của thi ca để vẽ nên sự chết chóc, sau đây vẫn là một đoàn quân ma đang tiến... về trời:
Lá rụng tơi bời
Đoàn quân tiến qua làng.
Từng thanh kiếm đứt ngang,
Từng lớp áo rách mướp,
Từng cánh tay rụng rời!
Qua làn mây trắng
Đoàn quân tiến về trời
Ầm rung tiếng sa trường...
Đến trận chiến tranh Nam Bắc 1954-1975 thì sự tàn phá và chết chóc đã vượt tất cả các trận chiến khác trong lịch sử Việt Nam trước đây, nhưng có cái lạ là ngay trong thời gian đánh nhau trong Nam cũng như ngoài Bắc không có tác phẩm văn nghệ nào đề cập đến “cõi bên kia” như ta đã thấy trong các thời kỳ trước qua các ví dụ trên đây.
Có thể giải thích: phía miền Nam vẫn duy trì đời sống tâm linh nên cả thể xác lẫn linh hồn người chết trong cuộc chiến đã được kính cẩn đón nhận bởi gia đình, bởi tôn giáo và tín ngưỡng nên coi như phần lớn đã được an ủi, siêu thoát, “không có vấn đề” một cách trầm trọng; phía miền Bắc bị áp đặt chủ thuyết duy vật và vô thần, coi con người chết là hết nên trong cuộc chiến dù chết chóc đau thương đến mấy người ta vẫn lờ đi, xác chết thì gặp đâu vùi đấy, và vấn đề tâm linh thì chẳng bao giờ được nói tới.
Kết quả là gì? Sau khi cuộc chiến chấm dứt, trên đất Bắc bắt đầu rộ lên phong trào đi tìm mồ mả của những kẻ chết trong chiến tranh, đặc biệt những người “sinh Bắc tử Nam” và như một hệ quả tất nhiên, một số tác phẩm văn chương, dù là ít oi, đã bắt đầu nói đến các hiện tượng ma quái của các nơi chiến trường xưa (Bảo Ninh, Nỗi Buồn Chiến Tranh, Dương Thu Hương...) và đặc biệt nhất là sự xuất hiện các nhà ngoại cảm để giúp đỡ, hướng dẫn công việc đi tìm mồ mả
Trong nước Việt, từ đầu thập niên 1990, hiện tượng Ngoại Cảm nổi bật lên từ Bắc vô Nam, vì nhờ các nhà ngoại cảm mà rất nhiều người tìm ra mộ phần của thân nhân đã chết, mất xác trong chiến tranh. Có hàng trăm nhà ngoại cảm khắp ba miền đất nước, trong đó nổi tiếng nhất là cô Phan Thị Bích Hằng, các ông Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Văn Liên, Dương Mạnh Hùng, Nguyễn Khắc Bảy v.v… Sau ba Đại Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan tại Sài Gòn, Huế và Sóc Sơn (Hà Nội), do tăng đoàn Làng Mai chủ xướng, phong trào ngoại cảm lại được dân chúng bàn tới nhiều hơn.
Theo báo chí Hà Nội, hàng chục ngàn ngôi mộ các quân nhân chết trong chiến tranh được các nhà ngoại cảm tìm ra, do thân nhân họ yêu cầu, hoặc do những lời nhắn gửi của người từ cõi âm. Người Cộng Sản duy vật vốn tin rằng Chết là Hết; nhưng trước phong trào đi tìm mộ tử sĩ của dân chúng, nay họ đã lập ra bộ môn Cận Tâm Lý chuyên khảo sát về hiện tượng Ngoại Cảm. Bộ phận này thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người, do tổ chức các hội khoa học tại Hà Nội thành lập.
Theo ông Vũ Thế Khanh, tổng giám đốc một công ty tin học ứng dụng, ở Việt Nam có gần 100 nhà ngoại cảm có khả năng đặc biệt, trong đó chỉ chừng mươi người có thể tìm mộ một cách xuất sắc. Còn số người lừa bịp, tự phong cho mình khả năng ngoại cảm, thì phải hàng ngàn. Theo các nghiên cứu sơ khởi, các nhà khoa học VN nhận biết có bốn con đường dẫn tới khả năng ngoại cảm: do bẩm sinh, sau các trận ốm hoặc bị chấn thương nặng (điện giật, chó dại cắn…); do thiền định hoặc do huấn luyện (?).
Theo ông Khanh, các thiền sư đắc đạo có khả năng ngoại cảm nhưng các vị không màng tới chuyện thi triển các thần thông như thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông v.v… nên chúng ta không được biết họ. Ngoài đời, cũng theo ông Khanh, nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã hiện đang sống tại Sài Gòn, là người nhờ thiền định mà có được tầm nhìn rất xa, giúp được nhiều người tìm ra mộ thân nhân ở mãi các vùng quê xa xôi Bắc Việt. Ông thường giúp người, không nhận thù lao, và nhiều khi không cho các thân chủ gặp mặt… Ngày nay, ông Nhã đã bỏ nghề ngoại cảm, chuyên lo tu tập và ấn hành kinh sách của hòa thượng Thanh Từ.
Nhà ngoại cảm nổi tiếng nhất trong nước hiện nay là cô Phan Thị Bích Hằng, sanh năm 1973 tại một làng quê nghèo tỉnh Ninh Bình. Năm 1990 cô và một người bạn gái cùng bị chó dại cắn, cô bạn chết nhưng cô thoát hiểm nhờ gia đình hết lòng cứu chữa. Sau đó, cô bắt đầu nhìn thấy những người đã chết từ lâu (như bà nội, bà ngoại của cô v.v…) rồi cô có khả năng nhìn thấy cái chết gần kề của người sống trong làng…
Bị gia đình và dân làng coi như người điên, cô đã chứng tỏ được sự lành mạnh tinh thần của mình bằng cách thi được vào đại học Kinh Tế. Càng ngày cô càng có nhiều khả năng ngoại cảm nhiều hơn: cô nhìn thấy người chôn trong mộ dưới lòng đất sâu, nhận biết hình dáng và nghe được tiếng nói của các nhân vật quá cố. Cô tiếp xúc được với “linh hồn” còn ở trong các ngôi mộ đó, dù thân xác đã rữa nát hết… Trong ngày giỗ tổ, cô Bích Hằng tìm ra được mộ ông tổ bốn đời mà gia đình thất lạc từ lâu.
Từ đó, cô đi sâu vào việc đi tìm mộ giúp những gia đình có con chết trận, mất xác. Trong hàng ngàn câu chuyện đi tìm mộ, ly kỳ và khó tin như truyện Phong Thần đời xưa; chuyện mà nhiều người biết nhất, là trường hợp Giáo sư, cựu phó thủ tướng Trần Phương tìm ra mộ cô em gái: Cô Khang bị Tây giết rồi quăng xác xuống sông Luộc từ đầu thập niên 1950. Sau đó là chuyện ông Toàn Thắng, (con trai tướng Trần Độ, tức Tạ Ngọc Pháp), đã tìm được mộ bà cô ruột là Tạ Thị Câu (chị gái của ông tướng, hoạt động cho Việt Minh trước ông em, từ năm 1939). Bà bị Tây bắt năm 1941, và gia đình chỉ được tin là bà đã chết ngày 29/9/1944, mà không biết xác bà ở đâu.
Cựu phó thủ tướng Trần Phương là một người Mác–xít, chỉ tin ở khoa học, không bao giờ cúng lễ trong gia đình. Nhưng sau khi nhờ ông Nguyễn Văn Nhã và cô Bích Hằng tìm được mộ em (cách năm bà từ trần cả nửa thế kỷ), với nhiều chứng cớ kỳ lạ, ông đã phát biểu: “Hài cốt em tôi thì tôi đã tìm thấy, nhưng những con đường bí ẩn dẫn đến kết quả ấy thì vẫn là bí ẩn. Khám phá ra những bí ẩn ấy không phải là điều dễ dàng. Tôi chỉ từ kinh nghiệm mình mà nêu lên vài vấn đề để các chuyên gia về lĩnh vực này xem xét…”
Ông Trần Phương cho rằng ông có căn cứ để tin là mình “đã gặp linh hồn của em tôi, anh tôi và chị tôi, cả linh hồn cụ Giám là người chôn cất em tôi, cụ An là người chứng kiến… Cháu Bích Hằng đã nhận diện được linh hồn, thậm chí nhận diện được linh hồn qua tấm ảnh; đã nghe được tiếng nói của linh hồn. Như vậy linh hồn phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó, có hình thù, có tiếng nói. Đã là một dạng vật chất thì vật lý học, hóa học, y học, sinh học, với những phương tiện quang học và điện tử tinh vi, hẳn sẽ có ngày tìm ra.”
Ông Trần Phương rất thắc mắc về thế giới của những linh hồn người chết, không biết họ ảnh huởng thế nào tới thế giới người sống và họ tồn tại như thế vĩnh viễn hay chỉ một thời gian? Khả năng ngoại cảm là do đâu mà có?... Cô Phan Thị Bích Hằng đã tự thuật ngày 25 tháng 3, 2007, trước hàng ngàn người tại chùa Hoằng Pháp (Hóc Môn), về công việc tìm mộ mà cô làm từ khi có khả năng ngoại cảm, trước mặt quý sư Giác Ngộ trụ trì chùa Hoằng Pháp, và thượng tọa Nhật Từ.
Cô cho biết từ năm 1996 tới nay, cô đã giúp thân nhân người chết tìm được 2.567 ngôi mộ, trong số đó chỉ có 17 trường hợp không thành công. Các ngôi mộ này ở nhiều vị trí rất phức tạp: trên núi cao, trong rừng sâu, dưới lòng sông rạch… Cô cho biết, người tìm mộ thân nhân phải có lòng thành, tha thiết tới việc này, thì cô sẽ thành công nhanh.
Sống cuộc đời bình thường của một phụ nữ có gia đình, cô Bích Hằng có khả năng nhìn được người nằm trong mộ, và nghe được họ nói chuyện. Lần đầu tiên nghe được tiếng người cõi âm, là khi cô nghe thấy tiếng nói của bà cụ mẹ Giáo sư Mai Hữu Khuê. Do đó, cô là nhà ngoại cảm tìm được nhiều mộ nhất, vì ngoài yêu cầu của người sống, cô còn đưa tin tức dùm một số các người cõi âm tới cho gia đình họ.
Các âm hồn, qua cô, còn mách bảo cho biết vị trí một số mộ của những người lân bang với họ; như trường hợp mộ của nhà cách mạng Lương Ngọc Quyến (khởi nghĩa tại Thái Nguyên 1917). Chính vì có các khả năng này mà cô đã chứng minh được để mọi người tin rằng thế giới cõi âm là một hiện thực, tồn tại dưới các tần số sóng âm, từ trường khác với chúng ta (cõi dương).
Theo thượng tọa Nhật Từ, khả năng ngoại cảm tương đương với các thần thông như thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông của chư Phật, của chư Bồ tát và các thiền sư chứng đạo. Quý ngài có thể nhìn và nghe rất xa, xuyên thấu mọi vật chất như đất, đá, núi sông… Thời gian và không gian không còn giới hạn được quý ngài.
Hơn nữa, quý ngài còn hiểu được tâm ý đối tượng (tha tâm thông). Chúng ta ai cũng có những khả năng tâm linh này nhưng chưa khai mở được ra đó thôi. Con người bình thường, khi có một tai nạn lớn, thì tâm thức họ có thể bật ra được các khả năng kỳ diệu, như cô Bích Hằng do vết thương chó cắn, ông Nguyễn Văn Chiếu, do bị điện cao thế giật suýt chết.
Các nhà ngoại cảm khi mô tả sắc tướng và phiên dịch các lời nói của người âm, họ đều ở trong tình trạng tỉnh táo: tiếng nói không thay đổi, khuôn mặt và hình sắc không khác. Họ hoàn toàn không giống các đồng cô bóng cậu… họ chỉ có khả năng nhìn và nghe hơn người thường mà thôi.
Thượng tọa Nhật Từ cho rằng vấn đề thông tin được với cõi âm qua các nhà ngoại cảm, là một tiếng chuông cảnh tỉnh rất lớn, khiến cho những người hoàn toàn theo duy vật chủ nghĩa phải giật mình: sau khi chết, không phải là hết chuyện! Thân thể con người sau khi chết sẽ biến đổi, tan rã và trở về với tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Tâm thức chúng ta cũng sẽ tan biến vào giòng sống của vũ trụ, để rồi khi hợp đủ duyên, sẽ biểu hiện ra một thân mạng mới hay dở tùy theo nghiệp lực mình đã tạo ra trong suốt cuộc đời mình.
Nhưng khi bị gục ngã bất ngờ trong chiến trường, chết vì bom đạn trong chiến tranh, đa số người ta không được siêu thoát và với ảo tưởng sâu dày về cái Ngã trường tồn, những người đó bám víu vào hình tướng cũ của mình; đau khổ triền miên vì có nhiều ray rứt, nhiều chuyện dở dang, chưa giải quyết. Cảm giác mất mát, tiếc nuối hay ân hận của người chết khiến cho tâm thức họ không bước được vào cảnh giới tốt đẹp hơn. Chết rồi mà không siêu thoát, không được đầu thai vào kiếp khác, các người âm đó vẫn tưởng như mình còn sống, tiếp tục tham sân si và bị vướng mắc, đau khổ, y như khi còn sống vậy.
Trong bài giảng tại chùa Ấn Quang ngày 8 tháng 4, 2007, thượng tọa Nhật Từ đã phân tích các nguyên nhân đưa tới hiện tượng bùng phát của Ngoại cảm. Theo ông: các nhà ngoại cảm xuất hiện tại nước Việt nhiều nhất, so với các xứ khác trên thế giới, vì nhiều lý do, nhất là :
Chiến tranh quá lâu trên đất nước Việt Nam với người Trung Hoa (một ngàn năm), người Pháp (100 năm); và cuộc nội chiến (21 năm) giữa hai miền Nam Bắc gây ra bao cảnh tương tàn, khổ hận. Các nhà ngoại cảm thông tin được dùm người cõi âm, để cảnh tỉnh người sống biết quay về con đường đạo đức, sống thiện lành hơn.
Tình trạng tiến bộ vật chất trong khung cảnh toàn cầu hóa khiến cho người dân Việt dễ bị tha hóa, cho việc mưu toan làm giàu là quan trọng nhất thỏa mãn cuộc sống vật chất là mục tiêu của cuộc sống. Các nhà ngoại cảm nhắc nhở chúng ta về nghiệp dĩ, luân hồi, về tái sanh v.v… để biết đường mà sám hối, cảnh tỉnh.
Thượng tọa Nhật Từ cũng giải thích các hiện tượng Ngoại Cảm như sau:
Cõi âm của các linh hồn chưa siêu thoát, chính là cảnh giới Ngã quỷ một trong sáu cõi mà kinh Phật thường nói tới: Trời Người Atula Ngạ Quỷ Súc sanh. Ngạ quỷ là cõi của những người chết mà chưa thoát được cái Ngã chấp về mình. Thân chết nhưng tâm còn vướng mắc, còn chấp vào xác thân cũ, nên không siêu thoát sang các cảnh giới khác được.
Đối với cái nhìn Phật giáo: “thân này không phải là tôi,” khi chết đi, xác thân mình sẽ bị hủy hoại, mục nát, biến đổi vì tứ đại tan rã… nhưng tâm thức chúng ta sẽ được chuyển đổi, biểu hiện ra trong những thân mạng mới , tức là đầu thai sang kiếp khác. Nếu nghiệp dĩ đã nhẹ nhàng, ta sẽ được siêu thoát, vượt qua được vòng sinh tử của cõi luân hồi, nhập vào cõi Phật.
Phật giáo cũng nói tới các thần thông mà chư Phật cùng các Bồ Tát, các Thiền sư cao cấp đã chứng nghiệm được. Theo thượng tọa Nhật Từ, các nhà ngoại cảm là những con người bẩm sinh hay vì một tai nạn, một biến động đặc biệt, đã khai mở được vài ba loại thần thông đó. Họ có thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông và tha tâm thông: nhìn thấu qua đất đai, rừng núi, nhìn từ nơi rất xa, nghe được những âm thanh mà người thường không nghe nổi và đọc được tâm tình của người khác, dù ngừơi đó sống hay đã chết.
Thượng tọa cũng cho rằng hiện tượng ngoại cảm không phải là chuyện mê tín dị đoan. Các nhà ngoại cảm thứ thiệt không như các cô đồng cậu bóng, khi tiếp xúc với người cõi âm, họ vẫn tỉnh táo và nói tiếng của họ không đổi giọng. Họ chỉ diễn tả những gì nhìn thấy và nhắc lại những gì người âm muốn thông tin qua họ mà thôi.
Oán cừu tồn tại dai dẳng giữa những người đang sống ở cõi dương cũng như các mối oan khiên của người cõi âm chưa giải được, sẽ gây ra thêm nhiều khổ não cho dân tộc. Trong văn hóa Phật giáo mọi người đều tin vào thuyết “âm siêu dương thái” người chết siêu thoát, thì người sống mới thái bình.
Thượng tọa Nhật Từ cũng cho rằng các nhà ngoại cảm đã vén lên bức màn của cõi âm mà Phật đã đề cập tới trong giáo lý luân hồi, tái sinh. Với những thông tin từ các nhà ngoại cảm, người ta hiểu được vì sao các chùa vẫn cúng tế cô hồn, hướng dẫn cho họ dễ siêu thoát. Các trai đàn giải oan là đàn tràng tập thể do nhiều tu sĩ đạo hạnh thực hiện, đem nghiệp lực thanh tịnh ra giúp cho các oan hồn được giải nghiệp, nhẹ nhàng.
Cô Phan Thị Bích Hằng cùng nhiều đồng bạn đã tham dự một trai đàn bạt độ tại chùa Linh Thắng tỉnh Di Linh vào cuối tháng Ba 2007, sau đại trai đàn giải oan tại chùa Vĩnh Nghiêm do tăng đoàn Làng Mai tổ chức cùng chư tăng miền Nam. Cô Bích Hằng cho biết, cô đã nhìn thấy rất nhiều hương linh trẻ có già có, lành có, khuyết tật cũng nhiều…
Họ dắt díu nhau tìm vào cửa Phật để được nghe kinh, được siêu độ. Cô cảm nhận được năng lượng thanh tịnh và thánh thiện của quý vị tu sĩ khi họ tụng kinh, cầu nguyện, và cô rất xúc động. Cô Bích Hằng: “rất tin vào sự siêu độ của nhà Phật. Bằng sự thanh tịnh và cả tấm lòng từ bi của quý thầy qua lời kinh Phật dạy, các hương linh nghe hiểu và sẽ xả bỏ được oan nghiệt, từ đó họ mới mong được sám hối và siêu thoát.
Đó cũng là điều mà các hương linh thường nhờ tôi nhắn với gia đình họ: nên cầu siêu cho họ. Tôi mong sao một số tỉnh thành trên cả nước, tại những nơi mà chiến tranh xảy ra ác liệt nhất như Quảng Trị, Quảng Nam, Điện Biên Phủ, và các tỉnh Tây Nguyên… những nơi chưa có chùa thì nên lập chùa và có nhiều trai đàn chẩn tế như thế này để mà cầu nguyện cho các oan hồn được mau siêu thoát. Thú thật, thầy cúng thì rất nhiều nhưng tôi vẫn cứ tin vào nhà chùa vì tôi tin vào đức độ, lòng từ bi và cái tâm trong sáng của quý thầy…”
Thế giới người âm có ảnh hưởng hay không trên dương thế là chuyện nhiều người thắc mắc. Nhưng, khi tâm an, người sống chắc cũng sẽ ảnh hưởng không ít trên người thân đã khuất bóng. Nếu có sự kiện “âm siêu dương thái” thì cũng có chuyện “dương bình an, âm siêu thoát”. Khoa học ngày nay cũng chia sẻ cái nhìn “tương tức” của đạo Phật.
Đạo Phật và cách thực hành, theo cách giảng dạy của các thiền sư hiện đại, là một lối sống tích cực, giúp cho mọi người chuyển đổi cái tâm để sống một cuộc đời bình an, hạnh phúc hơn rất nhiều. Người Âu Mỹ vốn tin vào khoa học thực nghiệm, hiện nay cũng đang đổ xô đi tìm thiền. Và giới khoa học gia về thần kinh não bộ đang làm nhiều cuộc thử nghiệm quan trọng về ảnh hưởng của thiền tập trên não bộ.
Đại sư trẻ tuổi Tây Tạng Yongey Mingyur (sinh 1975), trong cuốn sách mới (The Joy of Living), đã dùng các thông tin về khoa học thần kinh mới nhất để lý giải về những ích lợi thực tiễn của Thiền quán. Theo đại sư Yongey và theo những thử nghiệm mới đây trong khoa thần kinh não bộ, thì sự thực tập thiền định (tinh chuyên) có thể làm gia tăng hoạt động tại các trung khu não bộ liên quan tới hạnh phúc và lòng từ bi.
Thiền không chỉ giúp cho con người có sự chú tâm, bình thản để vượt qua các khó khăn tâm lý, mà thiền còn là phương pháp giúp họ trở về với lòng Từ Bi, sự Hiểu Biết chân thật những bản tánh vốn có sẵn trong tâm mỗi người… Những con người có khả năng sống với sự bình an nội tại, họ có nhiều hấp lực và ảnh hưởng thiện lành trên người khác, trên môi trường. Người xưa có câu “Người quân tử ở đâu thì nước ở đó trong hơn, cỏ xanh hơn…”. Sự an bình của người sống có ảnh hưởng không ít trên người chết. Vì vậy mà đạo lực và tâm thanh tịnh của các vị tu sĩ có thể giúp cho người cõi âm được siêu thóat, khi họ lập ra các đàn tràng để cầu nguyện, siêu độ cho các oan hồn?
Cam Vũ
#144
Gửi vào 28/06/2011 - 05:23
MA QUÁ GIANG Ở VIỆT NAM
Chuyện ma xin quá giang xảy ra không riêng gì tại một quốc gia nào. Nhiều tài liệu thu thập được từ những chứng nhân ở nhiều quốc gia khác nhau. Họ là những người đã thấy rõ hồn ma và cũng chính họ đã cho những ma đó đi một đoạn đường. Tại Việt Nam, không hiếm trường hợp đã xảy ra. Một vài thí cụ điển hình mà chúng tôi xin lược kể ra đây là những trường hợp hoàn toàn có thật do các nhân chứng trong cuộc kể lại.
Ông Trùm Mày, nhà ở Nam Giao, Huế, chuyên nghề chạy xe kéo, loại xe này rất phổ biến khoảng thời gian 1939 đến 1945. Một đêm nọ, trời gần khuya, ông Trùm Mày định kéo xe về nghỉ nhưng tự nhiên thay vì kéo xe chạy về phía cầu Gia Hội để về Nam Giao(qua cầu Trường Tiền, ông ta lại kéo xe chạy theo đường Hàng Ðường để về cống Kẻ Trài. Xe chạy một quảng, ông bỗng thấy một cô gái mặc bộ đồ trắng, đội nón lá vừa bước lên vừa đưa tay vẫy vẫy ra hiệu cho xe ngừng lại. Ông Trùm Mày vội vã ngừng xe, cô gái có vẻ hấp tấp vừa đi vừa chỉ về phía trước vừa nói tiếng nói nhỏ như sợ có ai nghe:
- Chở tôi về bến đò chợ Bao Vinh.
Ông Trùm Mày cố định thần nhìn cho kỹ mặt cô gái nhưng vì tóc cô để xõa nên chẳng thấy rõ mặt mày. Ðiều ông làm lạ là cô gái mảnh mai quá nên nhẹ tênh, ông kéo xe mà cảm thấy như chạy xe không. Qua khỏi cống Kẻ Trài và chạy độ hai mươi phút nữa, ông nghe tiếng trống trời khuya vọng lại. Bất giác ông chạy chậm xe và ngoái cổ lại để hỏi chuyện cô gái, nhưng lạ lùng chưa, cô gái không còn nữa. Chỗ ngồi trên xe kéo trống không và yên lặng một cách dễ sợ. Ông Trùm Mày sợ quá đến nổi gai ốc toàn thân, ông cấm đầu chạy thục mạng về nhà.
Sáng mai lại, ông đem chuyện lạ hồi hôm kể cho ông Lý Trưởng ở làng Bình An nghe. Người lão bộc trong nhà ông Lý Trưởng cho biết ở quảng đường gần cống Kẻ Trài đến bến đò Bao Vinh có một cái am nhỏ thờ cô gái bị chết trôi, trước đó độ năm năm, cô gái này bị chết nơi bến đò gần cống Kẻ Trài, xác nổi lên và tắp vào bờ, vướng vào gốc và rễ những cây sanh già cỗi nơi bến và nhiều đêm hay xuất hiện than khóc hay chận đường người qua lại để hỏi thăm, chuyện trò hoặc xin đi nhờ nếu gặp ai có phương tiện chuyên chở đi qua đó.
Theo người lão bộc (ông Ngọng) thì có lần hai người kéo xe bò qua đó cũng đã gặp cô gái từ dưới bến sông (Ðông Ba) đi lên xin đi nhờ một quãng đường. Khi xe đi được khoảng nửa tiếng, thì bỗng nhiên họ nghe một tiếng "Bõm" như có vật gì rơi xuống sông. Ngay lúc đó hai người đánh xe bò rởn tóc gáy vì cô gái trên xe đã biến mất tự bao giờ, lúc đó khoảng một giờ sáng. Ở Huế có một địa danh đặc biệt là Ô Hồ. Xóm Ô Hồ gần trường tiểu học Gia Hội Huế. Anh Hinh trước ở làng Ðại Lược sau lên thành phố Huế làm nghề đạp xích lô. Chuyện xảy ra vào mùa hè năm 1956. Ở Huế muà hè rất nóng, anh Hinh thường đạp xe đến quá khuya mới trở về nhà. Ðêm đó, theo lời anh kể hình như là đêm 13 âm lịch, trời đầy trăng sao.
Lúc đó khoảng 12 giờ khuya, anh đang đạp xe đi từ từ qua khỏi trường tiểu học Gia Hội và định tới chỗ quẹo sẽ đạp xe về đường đi Mười Gian. Khi chiếc xe xích lô vừa đến ngã ba thì anh thấy một người đàn bà đứng ngay nơi chỗ quẹo và đưa tay vẫy vẫy xe anh. Anh Hinh vội vã dừng xe lại. Dưới ánh trăng, anh thấy rõ gương mặt người đàn bà, rõ đến độ anh thấy nổi bật những dấu sẹo do bệnh đậu mùa để lại trên gương mặt người đàn bà. Anh hỏi:
- Chị về đâu?"
Người đàn bà vừa trả lời vừa bước lên xe:
- Cho tôi đến Chùa Bà.
Khi xe sắp đến đường quẹo thì người đàn bà ra dấu ngừng xe và lấy trong ví ra hai tờ giấy bạc trao cho anh Hinh rồi lầm lũi đi vào một khu vườn to lớn trồng toàn là nhãn và vải, anh Hinh nhìn thấy hai tờ giấy loại 100 đồng và lấy làm lạ vì số tiền quá lớn cho một cuốc xe quá ngắn đường. Hay người đàn bà đã đưa nhầm, tưởng đó là giấy 10 đồng, nhưng 10 đồng bạc cũng vẫn lớn đối với thời đó.
Vốn là người lương thiện, anh Hinh nghĩ bụng đêm quá khuya, khu vườn nhà quá rộng và sâu hun hút không tiện vào kêu cửa, chi bằng sáng mai đạp xe ngang nếu thuận tiện ghé lại xem thử ra sao. Thế rồi anh ta cất kỹ hai tờ giấy bạc loại 100 đồng vào cái bóp để trong túi áo. Trước khi đạp xe về nhà, anh còn nhìn kỹ lại địa điểm mà người đàn bà có gương mặt rỗ hoa đã bước suống xe để vào khu vườn sầm uất. Ðiều đáng nhớ là ngay tại chỗ đó có một cây vông đồng rất lớn.
Sáng hôm sau, khoảng 10 giờ, anh Hinh đạp chiếc xích lô đến địa điểm hồi hôm. Anh dừng xe lại bên cạnh cây vông đồng. Khu vườn rộng âm u và yên tĩnh quá, anh đẩy xe vào vườn. Xa tít phía trong khu vườn là căn nhà xưa cổ, cửa đóng then gài. Có lẽ gia chủ đã đi vắng. Anh đẩy xe ra, quang cảnh yên lặng lạ thường, qua một giàn hoa lài rủ xuống thấp lè tè có một ngôi mộ. Ngôi mộ này được chôn trong vườn nhà. Trưa hôm đó, anh ghé lại cái quán cơm gần Ô Hồ để ăn trưa, khi mở cái bóp trả tiền anh ngạc nhiên không thấy hai tờ giấy bạc đâu cả. Tìm mãi cũng chỉ có những đồng bạc lẽ mà anh đã có từ trước. Nhưng trong ví lại có hai tờ giấy trắng dài bằng cỡ hai tờ giấy bạc.
Anh ngẩn ngơ suy nghĩ. Bỗng nhiên một cảm giác lành lạnh chạy dọc theo đường xương sống... như có một linh tính vụt đến... anh hỏi ngay người bán quán về khu vườn nơi gốc cây vông đồng và ngôi mộ trong vườn thì người bán quán cho biết như sau:
- Khu vườn đó là của ông Cả Ðễ. Ông có một người vợ. Cách đây hai năm bị bệnh đậu mùa, người trong nhà sợ bị lây bệnh tìm cách lánh xa. Sau đó thì chết. Ông Cả Ðễ thương tiếc vô cùng, chôn ngay trong vườn. Hiện nay trong ngôi nhà ấy chỉ có một mình ông Cả Ðễ thui thủi sống qua ngày nhờ nhuận lợi thu hoạch trong vườn mà thôi. Ông Cả từ đó có vẻ tàng tàng và mất trí..
Anh Hinh nghe đến đó thì tự nhiên tay chân run rẩy, mặt mày tái mét. Lúc bấy giờ anh mới kể hết mọi sự cho người chủ quán nghe. Sau cùng người chủ quán nói:
- Như vậy là anh đã gặp đúng người vợ của ông Cả Ðễ rồi! Với lại gương mặt rỗ hoa thì chính là bà ấy rồi, nhưng lạy vong linh bà ấy, bà linh hiển quá, tuy rằng bà ấy trả cho anh hai tờ giấy bạc giả, nhưng theo cha mẹ tôi ngày trước thường kể, thì những người đã giúp đỡ ma thường hay được phù trợ. Như anh đã có lần chở hồn ma bà vợ ông Cả, chắc anh cũng sẽ đắt khách cho coi..
ST
Chuyện ma xin quá giang xảy ra không riêng gì tại một quốc gia nào. Nhiều tài liệu thu thập được từ những chứng nhân ở nhiều quốc gia khác nhau. Họ là những người đã thấy rõ hồn ma và cũng chính họ đã cho những ma đó đi một đoạn đường. Tại Việt Nam, không hiếm trường hợp đã xảy ra. Một vài thí cụ điển hình mà chúng tôi xin lược kể ra đây là những trường hợp hoàn toàn có thật do các nhân chứng trong cuộc kể lại.
Ông Trùm Mày, nhà ở Nam Giao, Huế, chuyên nghề chạy xe kéo, loại xe này rất phổ biến khoảng thời gian 1939 đến 1945. Một đêm nọ, trời gần khuya, ông Trùm Mày định kéo xe về nghỉ nhưng tự nhiên thay vì kéo xe chạy về phía cầu Gia Hội để về Nam Giao(qua cầu Trường Tiền, ông ta lại kéo xe chạy theo đường Hàng Ðường để về cống Kẻ Trài. Xe chạy một quảng, ông bỗng thấy một cô gái mặc bộ đồ trắng, đội nón lá vừa bước lên vừa đưa tay vẫy vẫy ra hiệu cho xe ngừng lại. Ông Trùm Mày vội vã ngừng xe, cô gái có vẻ hấp tấp vừa đi vừa chỉ về phía trước vừa nói tiếng nói nhỏ như sợ có ai nghe:
- Chở tôi về bến đò chợ Bao Vinh.
Ông Trùm Mày cố định thần nhìn cho kỹ mặt cô gái nhưng vì tóc cô để xõa nên chẳng thấy rõ mặt mày. Ðiều ông làm lạ là cô gái mảnh mai quá nên nhẹ tênh, ông kéo xe mà cảm thấy như chạy xe không. Qua khỏi cống Kẻ Trài và chạy độ hai mươi phút nữa, ông nghe tiếng trống trời khuya vọng lại. Bất giác ông chạy chậm xe và ngoái cổ lại để hỏi chuyện cô gái, nhưng lạ lùng chưa, cô gái không còn nữa. Chỗ ngồi trên xe kéo trống không và yên lặng một cách dễ sợ. Ông Trùm Mày sợ quá đến nổi gai ốc toàn thân, ông cấm đầu chạy thục mạng về nhà.
Sáng mai lại, ông đem chuyện lạ hồi hôm kể cho ông Lý Trưởng ở làng Bình An nghe. Người lão bộc trong nhà ông Lý Trưởng cho biết ở quảng đường gần cống Kẻ Trài đến bến đò Bao Vinh có một cái am nhỏ thờ cô gái bị chết trôi, trước đó độ năm năm, cô gái này bị chết nơi bến đò gần cống Kẻ Trài, xác nổi lên và tắp vào bờ, vướng vào gốc và rễ những cây sanh già cỗi nơi bến và nhiều đêm hay xuất hiện than khóc hay chận đường người qua lại để hỏi thăm, chuyện trò hoặc xin đi nhờ nếu gặp ai có phương tiện chuyên chở đi qua đó.
Theo người lão bộc (ông Ngọng) thì có lần hai người kéo xe bò qua đó cũng đã gặp cô gái từ dưới bến sông (Ðông Ba) đi lên xin đi nhờ một quãng đường. Khi xe đi được khoảng nửa tiếng, thì bỗng nhiên họ nghe một tiếng "Bõm" như có vật gì rơi xuống sông. Ngay lúc đó hai người đánh xe bò rởn tóc gáy vì cô gái trên xe đã biến mất tự bao giờ, lúc đó khoảng một giờ sáng. Ở Huế có một địa danh đặc biệt là Ô Hồ. Xóm Ô Hồ gần trường tiểu học Gia Hội Huế. Anh Hinh trước ở làng Ðại Lược sau lên thành phố Huế làm nghề đạp xích lô. Chuyện xảy ra vào mùa hè năm 1956. Ở Huế muà hè rất nóng, anh Hinh thường đạp xe đến quá khuya mới trở về nhà. Ðêm đó, theo lời anh kể hình như là đêm 13 âm lịch, trời đầy trăng sao.
Lúc đó khoảng 12 giờ khuya, anh đang đạp xe đi từ từ qua khỏi trường tiểu học Gia Hội và định tới chỗ quẹo sẽ đạp xe về đường đi Mười Gian. Khi chiếc xe xích lô vừa đến ngã ba thì anh thấy một người đàn bà đứng ngay nơi chỗ quẹo và đưa tay vẫy vẫy xe anh. Anh Hinh vội vã dừng xe lại. Dưới ánh trăng, anh thấy rõ gương mặt người đàn bà, rõ đến độ anh thấy nổi bật những dấu sẹo do bệnh đậu mùa để lại trên gương mặt người đàn bà. Anh hỏi:
- Chị về đâu?"
Người đàn bà vừa trả lời vừa bước lên xe:
- Cho tôi đến Chùa Bà.
Khi xe sắp đến đường quẹo thì người đàn bà ra dấu ngừng xe và lấy trong ví ra hai tờ giấy bạc trao cho anh Hinh rồi lầm lũi đi vào một khu vườn to lớn trồng toàn là nhãn và vải, anh Hinh nhìn thấy hai tờ giấy loại 100 đồng và lấy làm lạ vì số tiền quá lớn cho một cuốc xe quá ngắn đường. Hay người đàn bà đã đưa nhầm, tưởng đó là giấy 10 đồng, nhưng 10 đồng bạc cũng vẫn lớn đối với thời đó.
Vốn là người lương thiện, anh Hinh nghĩ bụng đêm quá khuya, khu vườn nhà quá rộng và sâu hun hút không tiện vào kêu cửa, chi bằng sáng mai đạp xe ngang nếu thuận tiện ghé lại xem thử ra sao. Thế rồi anh ta cất kỹ hai tờ giấy bạc loại 100 đồng vào cái bóp để trong túi áo. Trước khi đạp xe về nhà, anh còn nhìn kỹ lại địa điểm mà người đàn bà có gương mặt rỗ hoa đã bước suống xe để vào khu vườn sầm uất. Ðiều đáng nhớ là ngay tại chỗ đó có một cây vông đồng rất lớn.
Sáng hôm sau, khoảng 10 giờ, anh Hinh đạp chiếc xích lô đến địa điểm hồi hôm. Anh dừng xe lại bên cạnh cây vông đồng. Khu vườn rộng âm u và yên tĩnh quá, anh đẩy xe vào vườn. Xa tít phía trong khu vườn là căn nhà xưa cổ, cửa đóng then gài. Có lẽ gia chủ đã đi vắng. Anh đẩy xe ra, quang cảnh yên lặng lạ thường, qua một giàn hoa lài rủ xuống thấp lè tè có một ngôi mộ. Ngôi mộ này được chôn trong vườn nhà. Trưa hôm đó, anh ghé lại cái quán cơm gần Ô Hồ để ăn trưa, khi mở cái bóp trả tiền anh ngạc nhiên không thấy hai tờ giấy bạc đâu cả. Tìm mãi cũng chỉ có những đồng bạc lẽ mà anh đã có từ trước. Nhưng trong ví lại có hai tờ giấy trắng dài bằng cỡ hai tờ giấy bạc.
Anh ngẩn ngơ suy nghĩ. Bỗng nhiên một cảm giác lành lạnh chạy dọc theo đường xương sống... như có một linh tính vụt đến... anh hỏi ngay người bán quán về khu vườn nơi gốc cây vông đồng và ngôi mộ trong vườn thì người bán quán cho biết như sau:
- Khu vườn đó là của ông Cả Ðễ. Ông có một người vợ. Cách đây hai năm bị bệnh đậu mùa, người trong nhà sợ bị lây bệnh tìm cách lánh xa. Sau đó thì chết. Ông Cả Ðễ thương tiếc vô cùng, chôn ngay trong vườn. Hiện nay trong ngôi nhà ấy chỉ có một mình ông Cả Ðễ thui thủi sống qua ngày nhờ nhuận lợi thu hoạch trong vườn mà thôi. Ông Cả từ đó có vẻ tàng tàng và mất trí..
Anh Hinh nghe đến đó thì tự nhiên tay chân run rẩy, mặt mày tái mét. Lúc bấy giờ anh mới kể hết mọi sự cho người chủ quán nghe. Sau cùng người chủ quán nói:
- Như vậy là anh đã gặp đúng người vợ của ông Cả Ðễ rồi! Với lại gương mặt rỗ hoa thì chính là bà ấy rồi, nhưng lạy vong linh bà ấy, bà linh hiển quá, tuy rằng bà ấy trả cho anh hai tờ giấy bạc giả, nhưng theo cha mẹ tôi ngày trước thường kể, thì những người đã giúp đỡ ma thường hay được phù trợ. Như anh đã có lần chở hồn ma bà vợ ông Cả, chắc anh cũng sẽ đắt khách cho coi..
ST
#145
Gửi vào 28/06/2011 - 06:22
CHIÊM TINH GIA CỦA THỦ TƯỚNG
Branko là tên một nhân vật đương đại nổi danh khắp nước Ý, nhưng ít người biết họ của ông là gì. Hàng triệu cư dân Ý từng bộc bạch rằng buổi sáng họ không thể yên tâm lên đường đi làm, nếu như chưa nắm bắt “cẩm nang tử vi” thường nhật do Branko tiên liệu. “Cẩm nang tử vi” này được phát trên kênh Một của mạng lưới truyền hình quốc gia RAI, trên hệ thống phát thanh Radio Dimensione Suono hay tại trang nhất nhật báo il Messaggero phát hành ở thủ đô Rome
Ngoài ra, độc giả cũng có thể xem tử vi hằng tuần đăng tải trên tuần báo Chi thuộc sở hữu của tỉ phú truyền thông kiêm thủ tướng Ý Silvio Berlusconi hoặc tử vi hằng tháng trong nguyệt san chiêm tinh Il Segno di Branko do đích thân Branko chịu trách nhiệm nội dung. Ngoài biệt hiệu “vua chiêm tinh”, Branko còn nổi tiếng với danh hiệu thầy chiêm tinh riêng của Berlusconi. Mọi người kháo nhau rằng thủ tướng luôn tham khảo ý kiến Branko trước khi quyết định bất cứ điều gì, ngay cả khi chọn từng vị trí thứ trưởng thuộc các bộ trong thành phần chính phủ cũng vậy.
Đôi khi người ta thấy một người đàn ông tóc óng mượt với đôi mắt xanh đầy ma thuật đang thong thả đi dạo giữa trung tâm Rome, ngang đoạn trước tư dinh của người đứng đầu nội các. Bên cạnh ông là hai vệ sĩ tư lực lưỡng. Đó chính là Branko Vatoves, chiêm tinh gia hàng đầu nước Ý cầm tinh “con bò cạp”. Theo những nguồn tin đáng tin cậy, Branko được coi là cộng sự “gần gũi nhất” của đương kim thủ tướng, còn hơn cả “cánh tay mặt” J. Lenta, người từng được Berlusconi nhận định là “nhân vật không thể thiếu trong việc điều hành bộ máy nhà nước”.
Người ta nói Branko chính là yếu tố chủ chốt bảo đảm sự chắc thắng của Berlusconi ngay từ trước khi diễn ra kỳ bầu cử quốc hội, dọn đường cho nhà tài phiệt giàu nhất nước Ý trở lại ghế thủ tướng lần thứ ba. Khi ấy với câu hỏi của cánh phóng viên rằng ông sẽ làm gì nếu thất cử? Silvio Berlusconi khẳng khái đáp là chưa hề nghĩ đến trường hợp đó. Hiển nhiên ông ta tin tưởng tuyệt đối vào những quẻ tử vi mà Branko đoán chắc phần thắng cho thân chủ của mình. Hay như chỉ mới đây thôi, căn cứ vào những ứng nghiệm thiên văn, Branko đã tiên liệu chính xác cuộc bầu cử chức danh thị trưởng Rome giữa cặp “kỳ phùng địch thủ” là F. Rutteli và J. Alemanno.
Một ngày trước khi có kết quả kiểm phiếu chính thức, Branko thổ lộ trên kênh truyền hình tư nhân La Sette:
- Alemanno sẽ thắng áp đảo bởi ông ta cầm tinh “con cá”, mà những người “tuổi cá” ắt gặp thuận lợi trong thời điểm này như bản đồ sao chiếu mệnh đã chỉ rõ.
Quả đúng vậy! Vượt qua hết thảy những phỏng đoán ban đầu nghiêng về ứng viên Rutteli của Đảng Dân chủ, rốt cục ứng viên Alemanno của Đảng Tự do nhân dân thiên hữu lại giành chiến thắng. Từ sự nổi danh nhà nghề qua các chương trình giải trí đại chúng, Branko Vatoves đã biến bộ môn chiêm tinh học lâu đời thành một ngành kỹ nghệ “mũi nhọn” thực thụ. Danh xưng Branko luôn được trọng vọng tại bất kỳ cuộc hội ngộ chính trị cao cấp nào dù tả hay hữu. Tiếng nói của một thầy chiêm tinh điêu luyện với hai mươi lăm năm “tuổi nghề” bỗng dưng rất có trọng lượng trên chính trường nước Ý.
Chào đời hồi đệ nhị thế chiến tại thành phố Rieka thuộc miền Tây Cộng hòa Croatia hiện nay, trong gia đình có cha là nhà nông học và mẹ là thợ giặt ủi. Năm hai mươi bảy tuổi khi đang là diễn viên của một gánh hát ở Rome do bà bầu Lila Brinone nổi tiếng làm chủ, Branko thường uống cà phê điểm tâm tại một quán trên phố Aurelia và gặp một mục sư người Brazil ở đó.
- Đừng có ngại, hãy theo học thiên văn đi ắt cậu sẽ nổi tiếng.
Vị mục sư khuyên. Lúc ấy ngay cả khái niệm thiên văn là gì Branko cũng chưa hình dung nổi.
- Tôi tự mày mò học để trở thành chiêm tinh gia.
Branko không giấu giếm quá khứ của mình. Từ năm 1982 Branko Vatoves khởi sự phụ trách mục “cẩm nang chiêm tinh” thường nhật vừa mở trên Radio Dimensione Suono và tiếp tục vai trò ấy cho đến nay, sau hơn một phần tủ thế kỷ. Năm 1984 ca sĩ cựu trào J. Morandi vô cùng biết ơn Branko khi được nhà chiêm tinh tài năng giúp sức, giúp ông vực dậy danh tiếng với khán giả Âu châu trước làn sóng “nô dịch văn hóa và âm nhạc” từ bên kia đại dương.
Các ấn phẩm của Branko thường do nhà xuất bản Mondadori thuộc sở hữu của Berlusconi phát hành. Khi đã được đương kim thủ tướng đầy uy quyền bảo trợ, hiển nhiên Branko chẳng mấy âu lo rằng nghề tiên tri sẽ mai một trong tương lai gần. Người Ý vốn hay bắt chước thần tượng của mình, tỉ như dạo Berlusconi đi cấy thêm tóc vào 3 năm trước, lập tức các ca thẩm mỹ cấy tóc tại Ý tăng vọt lên hơn 30% chỉ trong vòng vài tháng.
Điều cuối cùng cần nói đến là đức tính tiết kiệm của nhà chiêm tinh hàng đầu nước Ý này. Tuy hái ra tiền từ công việc chuyên môn, nhưng hằng ngày ông vẫn đi lại ngang dọc thủ đô Rome rộng lớn bằng phương tiện giao thông công cộng. Khi có người tỏ ý hoài nghi về chuyện này, chiêm tinh gia cự phách liền chìa ngay tấm thẻ mua vé trọn năm của mình ra trước ống kính ghi hình. Về đời tư Branko nguyện sống độc thân hòng “dễ bề để lại gia sản cho mục đích từ thiện”, như nguyên văn lời bộc bạch từ chiêm tinh gia của thủ tướng Ý.
Quang Long
Branko là tên một nhân vật đương đại nổi danh khắp nước Ý, nhưng ít người biết họ của ông là gì. Hàng triệu cư dân Ý từng bộc bạch rằng buổi sáng họ không thể yên tâm lên đường đi làm, nếu như chưa nắm bắt “cẩm nang tử vi” thường nhật do Branko tiên liệu. “Cẩm nang tử vi” này được phát trên kênh Một của mạng lưới truyền hình quốc gia RAI, trên hệ thống phát thanh Radio Dimensione Suono hay tại trang nhất nhật báo il Messaggero phát hành ở thủ đô Rome
Ngoài ra, độc giả cũng có thể xem tử vi hằng tuần đăng tải trên tuần báo Chi thuộc sở hữu của tỉ phú truyền thông kiêm thủ tướng Ý Silvio Berlusconi hoặc tử vi hằng tháng trong nguyệt san chiêm tinh Il Segno di Branko do đích thân Branko chịu trách nhiệm nội dung. Ngoài biệt hiệu “vua chiêm tinh”, Branko còn nổi tiếng với danh hiệu thầy chiêm tinh riêng của Berlusconi. Mọi người kháo nhau rằng thủ tướng luôn tham khảo ý kiến Branko trước khi quyết định bất cứ điều gì, ngay cả khi chọn từng vị trí thứ trưởng thuộc các bộ trong thành phần chính phủ cũng vậy.
Đôi khi người ta thấy một người đàn ông tóc óng mượt với đôi mắt xanh đầy ma thuật đang thong thả đi dạo giữa trung tâm Rome, ngang đoạn trước tư dinh của người đứng đầu nội các. Bên cạnh ông là hai vệ sĩ tư lực lưỡng. Đó chính là Branko Vatoves, chiêm tinh gia hàng đầu nước Ý cầm tinh “con bò cạp”. Theo những nguồn tin đáng tin cậy, Branko được coi là cộng sự “gần gũi nhất” của đương kim thủ tướng, còn hơn cả “cánh tay mặt” J. Lenta, người từng được Berlusconi nhận định là “nhân vật không thể thiếu trong việc điều hành bộ máy nhà nước”.
Người ta nói Branko chính là yếu tố chủ chốt bảo đảm sự chắc thắng của Berlusconi ngay từ trước khi diễn ra kỳ bầu cử quốc hội, dọn đường cho nhà tài phiệt giàu nhất nước Ý trở lại ghế thủ tướng lần thứ ba. Khi ấy với câu hỏi của cánh phóng viên rằng ông sẽ làm gì nếu thất cử? Silvio Berlusconi khẳng khái đáp là chưa hề nghĩ đến trường hợp đó. Hiển nhiên ông ta tin tưởng tuyệt đối vào những quẻ tử vi mà Branko đoán chắc phần thắng cho thân chủ của mình. Hay như chỉ mới đây thôi, căn cứ vào những ứng nghiệm thiên văn, Branko đã tiên liệu chính xác cuộc bầu cử chức danh thị trưởng Rome giữa cặp “kỳ phùng địch thủ” là F. Rutteli và J. Alemanno.
Một ngày trước khi có kết quả kiểm phiếu chính thức, Branko thổ lộ trên kênh truyền hình tư nhân La Sette:
- Alemanno sẽ thắng áp đảo bởi ông ta cầm tinh “con cá”, mà những người “tuổi cá” ắt gặp thuận lợi trong thời điểm này như bản đồ sao chiếu mệnh đã chỉ rõ.
Quả đúng vậy! Vượt qua hết thảy những phỏng đoán ban đầu nghiêng về ứng viên Rutteli của Đảng Dân chủ, rốt cục ứng viên Alemanno của Đảng Tự do nhân dân thiên hữu lại giành chiến thắng. Từ sự nổi danh nhà nghề qua các chương trình giải trí đại chúng, Branko Vatoves đã biến bộ môn chiêm tinh học lâu đời thành một ngành kỹ nghệ “mũi nhọn” thực thụ. Danh xưng Branko luôn được trọng vọng tại bất kỳ cuộc hội ngộ chính trị cao cấp nào dù tả hay hữu. Tiếng nói của một thầy chiêm tinh điêu luyện với hai mươi lăm năm “tuổi nghề” bỗng dưng rất có trọng lượng trên chính trường nước Ý.
Chào đời hồi đệ nhị thế chiến tại thành phố Rieka thuộc miền Tây Cộng hòa Croatia hiện nay, trong gia đình có cha là nhà nông học và mẹ là thợ giặt ủi. Năm hai mươi bảy tuổi khi đang là diễn viên của một gánh hát ở Rome do bà bầu Lila Brinone nổi tiếng làm chủ, Branko thường uống cà phê điểm tâm tại một quán trên phố Aurelia và gặp một mục sư người Brazil ở đó.
- Đừng có ngại, hãy theo học thiên văn đi ắt cậu sẽ nổi tiếng.
Vị mục sư khuyên. Lúc ấy ngay cả khái niệm thiên văn là gì Branko cũng chưa hình dung nổi.
- Tôi tự mày mò học để trở thành chiêm tinh gia.
Branko không giấu giếm quá khứ của mình. Từ năm 1982 Branko Vatoves khởi sự phụ trách mục “cẩm nang chiêm tinh” thường nhật vừa mở trên Radio Dimensione Suono và tiếp tục vai trò ấy cho đến nay, sau hơn một phần tủ thế kỷ. Năm 1984 ca sĩ cựu trào J. Morandi vô cùng biết ơn Branko khi được nhà chiêm tinh tài năng giúp sức, giúp ông vực dậy danh tiếng với khán giả Âu châu trước làn sóng “nô dịch văn hóa và âm nhạc” từ bên kia đại dương.
Các ấn phẩm của Branko thường do nhà xuất bản Mondadori thuộc sở hữu của Berlusconi phát hành. Khi đã được đương kim thủ tướng đầy uy quyền bảo trợ, hiển nhiên Branko chẳng mấy âu lo rằng nghề tiên tri sẽ mai một trong tương lai gần. Người Ý vốn hay bắt chước thần tượng của mình, tỉ như dạo Berlusconi đi cấy thêm tóc vào 3 năm trước, lập tức các ca thẩm mỹ cấy tóc tại Ý tăng vọt lên hơn 30% chỉ trong vòng vài tháng.
Điều cuối cùng cần nói đến là đức tính tiết kiệm của nhà chiêm tinh hàng đầu nước Ý này. Tuy hái ra tiền từ công việc chuyên môn, nhưng hằng ngày ông vẫn đi lại ngang dọc thủ đô Rome rộng lớn bằng phương tiện giao thông công cộng. Khi có người tỏ ý hoài nghi về chuyện này, chiêm tinh gia cự phách liền chìa ngay tấm thẻ mua vé trọn năm của mình ra trước ống kính ghi hình. Về đời tư Branko nguyện sống độc thân hòng “dễ bề để lại gia sản cho mục đích từ thiện”, như nguyên văn lời bộc bạch từ chiêm tinh gia của thủ tướng Ý.
Quang Long
#146
Gửi vào 28/06/2011 - 06:34
MỘT GIAI THOẠI VỀ KHU ĐẤT NHÀ HÁT HÒA BÌNH
Tôi có người quen kể cho một giai thoại về khu đất nhà hát Hoà Bình. Rằng ở Sài gòn, khu ngả ba đường Nguyển Tri Phương và 3 tháng 2, trước 75 là đường Trần Quốc Toản, nơi mà bây giờ là nhà hát Hòa Bình. Ngày lúc tôi còn nhỏ đi ngang qua đó thì có cái chợ kêu là chợ cá Trần Quốc Toản. Lúc trước các hòa thượng định xây chùa Việt Nam Quốc tự ở đó, nhưng có một số danh sư ở Nhật Bản và Đài Loan đã ngăn cản rằng khu đất đó có rất nhiều âm khí, không thuận tiện cất các cơ sở tôn giáo, chỉ hợp cho các hoạt động vui chơi giải trí.
Nhưng đó là đất mà nhà nước trước 75 biếu không cho giáo hội Phật Giáo, nếu không cất ở đó thì cất ở đâu bây giờ? Nên công việc xây cất chùa vẫn cứ tiến hành. Tháp chỉ cất lên được có hai tầng thì tới năm 75. Hết tiền và nhiều lý do khác nửa. Khu đó bị bỏ hoang. Đầu bên kia đường Lý Thái Tổ là khu nhà thờ Ngả Sáu rất đẹp đẻ nhưng hoang vắng tín đồ đi lể.
Sau 75 chính phủ mới cho xây tường bao bọc khu tự viện bỏ hoang này rồi dựng sân khấu ca nhạc ngoài trời, gọi là Trung tâm ca nhạc quận mười do Quốc Dũng, chồng ca sĩ Bảo Yến khai thác. Sau đó thì dựng lên nhà hát Hòa Bình kế bên. Rồi khoảng năm 90, nhà nước cất luôn khu vui chơi giải trí hồ Kỳ Hòa. Cả một dảy đường Nguyễn Tri Phương, Lý Thái Tổ, hàng quán ăn uống quán nhậu mọc lên san sát. Khu này ngày xưa chỉ là nhà ở yên tỉnh. Nay thành khu ăn uống vui chơi ồn ào náo nhiệt.
Còn chùa Việt Nam Quốc Tự? Hiện giờ năm 2007 cái tháp cũng đã cất xong, chắc trong khoảng vài năm gần đây ngôi tự viện đã hình thành. Nhưng chùa lọt thỏm trong một đại thế giới ăn chơi nhậu nhẹt bao bọc xung quanh. Hoàn toàn không vẻ siêu linh thoát tục. Còn chổ nhà thờ Ngả Sáu tình trạng cũng không tốt hơn chút nào. Khi nhà nước đổi mới kinh tế khá hẳn lên. Nhiều nhà vùng này làm ăn khá giả. Bắt đầu sửa sang xây cất lại. Lúc đào đất lên thì nhiều nhà phát giác ra là cách dưới nền nhà không sâu lắm xương trắng khắp nơi.
Những người ở Sài gòn lâu năm và biết nhiều về lịch sử Sài gòn có kể rằng, vùng đó thời xưa là bải chiến trường đẩm máu. Thật sự vùng đất đó nằm trên thành Sài gòn ngày xưa. Các con đường Nguyển Tri Phương, Lý Thái Tổ, thật ra là các con kinh rạch chạy dài từ bên khu bến Hàm tử, tên đặt thời 1950 qua. Khu hồ Kỳ Hòa thật ra là đại đồn Chí Hòa. Nơi xảy ra trận đánh lớn nhất lúc Pháp đánh vào chiếm thành Sài gòn. Nơi đó phò mã Phạm Thế Hiển tử trận, danh tướng Nguyển Tri Phương Tổng Trấn Sài gòn Gia Định bị thương nặng, bị bắt lên tàu Pháp tự phá bỏ vết thương nặng thêm để chết đền nợ nước.
Hàng chục ngàn quân tử trận ở đây. Xác của quân ta trải dài dọc theo các con kinh rạch và bị vùi lấp sơ sài. Sau này khi Pháp đã chiếm hoàn toàn Việt Nam và bắt đầu phá bỏ thành Sài gòn cũ, cũng như xây dựng lại 100% thành phố Sài gòn kiểu Tây, thì họ lấp các con kinh rạch nơi mà bây giờ cũng chính là các con đường Nguyển Tri Phương, Lý thái Tổ.
Vì âm binh quá nhiều, nên họ chỉ phù trợ cho các chổ vui chơi giải trí nhậu nhẹt. Vì vậy chỉ có các loại hình kinh tế này mới có thể phát triển mạnh ở khu này. Trong khi đó thì các cơ sở tôn giáo trở nên tiêu điều lụn bại. Đây là chỉ là một giai thoại. Nếu anh chị nào thông hiểu hoặc thấy có gì sai trái thì xin kể lại cho nghe.
ST
Tôi có người quen kể cho một giai thoại về khu đất nhà hát Hoà Bình. Rằng ở Sài gòn, khu ngả ba đường Nguyển Tri Phương và 3 tháng 2, trước 75 là đường Trần Quốc Toản, nơi mà bây giờ là nhà hát Hòa Bình. Ngày lúc tôi còn nhỏ đi ngang qua đó thì có cái chợ kêu là chợ cá Trần Quốc Toản. Lúc trước các hòa thượng định xây chùa Việt Nam Quốc tự ở đó, nhưng có một số danh sư ở Nhật Bản và Đài Loan đã ngăn cản rằng khu đất đó có rất nhiều âm khí, không thuận tiện cất các cơ sở tôn giáo, chỉ hợp cho các hoạt động vui chơi giải trí.
Nhưng đó là đất mà nhà nước trước 75 biếu không cho giáo hội Phật Giáo, nếu không cất ở đó thì cất ở đâu bây giờ? Nên công việc xây cất chùa vẫn cứ tiến hành. Tháp chỉ cất lên được có hai tầng thì tới năm 75. Hết tiền và nhiều lý do khác nửa. Khu đó bị bỏ hoang. Đầu bên kia đường Lý Thái Tổ là khu nhà thờ Ngả Sáu rất đẹp đẻ nhưng hoang vắng tín đồ đi lể.
Sau 75 chính phủ mới cho xây tường bao bọc khu tự viện bỏ hoang này rồi dựng sân khấu ca nhạc ngoài trời, gọi là Trung tâm ca nhạc quận mười do Quốc Dũng, chồng ca sĩ Bảo Yến khai thác. Sau đó thì dựng lên nhà hát Hòa Bình kế bên. Rồi khoảng năm 90, nhà nước cất luôn khu vui chơi giải trí hồ Kỳ Hòa. Cả một dảy đường Nguyễn Tri Phương, Lý Thái Tổ, hàng quán ăn uống quán nhậu mọc lên san sát. Khu này ngày xưa chỉ là nhà ở yên tỉnh. Nay thành khu ăn uống vui chơi ồn ào náo nhiệt.
Còn chùa Việt Nam Quốc Tự? Hiện giờ năm 2007 cái tháp cũng đã cất xong, chắc trong khoảng vài năm gần đây ngôi tự viện đã hình thành. Nhưng chùa lọt thỏm trong một đại thế giới ăn chơi nhậu nhẹt bao bọc xung quanh. Hoàn toàn không vẻ siêu linh thoát tục. Còn chổ nhà thờ Ngả Sáu tình trạng cũng không tốt hơn chút nào. Khi nhà nước đổi mới kinh tế khá hẳn lên. Nhiều nhà vùng này làm ăn khá giả. Bắt đầu sửa sang xây cất lại. Lúc đào đất lên thì nhiều nhà phát giác ra là cách dưới nền nhà không sâu lắm xương trắng khắp nơi.
Những người ở Sài gòn lâu năm và biết nhiều về lịch sử Sài gòn có kể rằng, vùng đó thời xưa là bải chiến trường đẩm máu. Thật sự vùng đất đó nằm trên thành Sài gòn ngày xưa. Các con đường Nguyển Tri Phương, Lý Thái Tổ, thật ra là các con kinh rạch chạy dài từ bên khu bến Hàm tử, tên đặt thời 1950 qua. Khu hồ Kỳ Hòa thật ra là đại đồn Chí Hòa. Nơi xảy ra trận đánh lớn nhất lúc Pháp đánh vào chiếm thành Sài gòn. Nơi đó phò mã Phạm Thế Hiển tử trận, danh tướng Nguyển Tri Phương Tổng Trấn Sài gòn Gia Định bị thương nặng, bị bắt lên tàu Pháp tự phá bỏ vết thương nặng thêm để chết đền nợ nước.
Hàng chục ngàn quân tử trận ở đây. Xác của quân ta trải dài dọc theo các con kinh rạch và bị vùi lấp sơ sài. Sau này khi Pháp đã chiếm hoàn toàn Việt Nam và bắt đầu phá bỏ thành Sài gòn cũ, cũng như xây dựng lại 100% thành phố Sài gòn kiểu Tây, thì họ lấp các con kinh rạch nơi mà bây giờ cũng chính là các con đường Nguyển Tri Phương, Lý thái Tổ.
Vì âm binh quá nhiều, nên họ chỉ phù trợ cho các chổ vui chơi giải trí nhậu nhẹt. Vì vậy chỉ có các loại hình kinh tế này mới có thể phát triển mạnh ở khu này. Trong khi đó thì các cơ sở tôn giáo trở nên tiêu điều lụn bại. Đây là chỉ là một giai thoại. Nếu anh chị nào thông hiểu hoặc thấy có gì sai trái thì xin kể lại cho nghe.
ST
#147
Gửi vào 28/06/2011 - 06:43
AM CU LY XE
Mới nghe qua tên Am, tôi đã tưởng họ bông đùa. Nhưng không, người kể cho tôi nghe nói với giọng nghiêm chỉnh lắm. Cái Am ấy nhỏ bằng vôi đựng trên bờ sông Bồ thuộc về làng Thanh Trúc. Trong Am chỉ đặt một bát lư hương và cặp đòn con bằng gỗ tiện. Trước cửa Am có che một bức sáo xanh kẻ chữ thọ màu hồng. Cách Am năm bước có cái mồ đắp lên cao. Ngôi mả của người cu ly xe.
Chuyện Am này ở hai vùng Thanh Lương và Hương Cần ai cũng biết. Họ thường kể cho người lạ nghe với một giọng chắc chắn đáng tin. Ðược dịp kể nhiều nhất là bà bán quán gần Am ấy. Và khách qua lại muốn được nghe chuyện chỉ việc uống một bát nước chè hay ăn vài đĩa xôi đậu. Bà quán kể lâu quá thành có duyên và lắm đoạn nghe xuôi như đọc thuộc lòng.
Từ ga Văn Xá đến bến đò làng Thanh kể được trên hai cây số. Bên kia sông là huyện Quảng Ðiền. Bến đò ấy ở vào một chỗ hoang vắng vì kế tiếp con sông là cái cồn mồ. ở đó, qua huyện Quảng Ðiền gần hơn quay trở về làng Thanh. Dẫn khách đến ga là nhờ con đường chạy dài trong lối xóm, qua vài cái cầu ngắn bằng gạch và ba bốn khoảng phơi mình giữa đồng cỏ cháy. Con đường ấy được nhiều người đi nhất.
Ga Văn Xá làm lễ lạc thành xong thì sau đó hai tuần một người mù đem chiếc xe tay đến đón khách. Ðó là một cái xe thảm khổ nhất. Ruột hai bán độn rơm và trần xe đã thủng nhiều chỗ. Khổ hơn nữa là người kéo xe mù lại già, đầu tóc bạc phơ, người gầy gò và trán hói. Theo đúng đường và biết tránh người đi là nhờ đứa cháu nội lên mười chạy dìu phía trước.
Rồi ngày bốn buổi, hai ông cháu lên ga Văn Xá đón khách về huyện Quảng Ðiền. Ðời tuy vất vả nhưng có kẻ thương tình nên cũng đủ sống. Lệ thường cứ mỗi vòng được năm xu. Hai ông cháu ngày nào cũng kiếm được một vài hào đủ tiêu dùng, cơm cháo. Từ ngày có xe lửa, dân mấy vùng quê ai cũng thèm đi. Họ cốt đi đẻ mua vui thôi. Vì họ thấy thứ xe lạ và chạy quá nhanh nên họ thích lắm. Thích nhất là được đứng trên tàu gọi tên mấy người quen đang đi trên đường cái quan. Lắm khi họ từ ga này để đến một ga nào, gần đó. Rồi từ ga ấy họ lại mua vé trở về ga làng.
Ngày ấy họ chưa kể đến sự tiện lợi đi xe. Họ chỉ biết đến cái thú thôi. Ga Văn Xá nhờ thế ngày nào cũng tấp nập người ra kẻ vào. Và hai ông cháu người kéo xe kiếm được miếng ăn rất dễ. Người đi xe lửa ra khỏi ga họ muốn lên xe tay ngay. Họ đã quen với sự nhanh chóng. Ði bộ đối với họ lúc ấy là một chuyện phiền. Nhưng được người kéo xe khoẻ mạnh thì chẳng nói gì. Ðằng này lại khác. Bước chân lên xe người mù già, thì người khổ chưa hẳn là người phải kéo xe mà thật ra là người được ngồi. Huống chi ở đây lại phải chịu cái tội trông một đứa trẻ chạy không kịp thở, ngã tới vờn lui, theo bước chân của một ông già yếu đuối. Nên nhiều người thương hại không muốn đi xe.
Nhưng lòng nhân đạo càng ban truyền ra, người kéo xe mù lại càng túng thiếu. Rồi sau chỉ những người ốm hay già yếu lắm, thỉnh thoảng có vài người say rượu, mới bước lên xe của hai ông cháu. Lắm người không đi, chỉ gửi vài bao hành lý họ cũng trả tiền hẳn hoi. Nhưng hạng người này hiếm lắm. Ðợi năm sáu chuyến tàu mới gặp được một người. Tối đến, hai ông cháu thường ngủ trong một cái mui thuyền đặt khum khum trên bờ sông. Sáng mai ba giờ đã phải dậy. Vì phải đợi khách bên huyện Quảng qua sông đi chuyến tàu bốn giờ. Tiền bạc làm ra được đều do người cháu giữ. Và người ông cũng không mấy khi hỏi đến. Trừ ra lúc muốn mua một vài cút rượu trắng hay làm ăn được, nhớ lại những ngày kỵ giỗ của gia hương.
Ngoài ra, người cháu tuy nhỏ tuổi nhưng sớm khôn, đã lo liệu cho cả. Vì cái quán ở cách đó nửa cây số đã chu cấp cho hai ông cháu đủ các thứ cần, lẽ tự nhiên là phải bỏ tiền ra mua. Mùa đông năm Ngọ, lạnh và mưa luôn ngày luôn đêm. Ðướng từ ga về bến đò đã nhiều nơi bị hư hỏng. Lắm cái cống đất nhỏ bị nước lụt trôi đi. Hai ông cháu phải bỏ công chữa lại. Có thế xe mới đi qua được. Và con đường tuy của chung, nhưng chỉ riêng hai ông cháu để ý và lo ngại hơn cả. Xe độ ấy ế vô cùng. Và gặp cái xe trần thủng, nước tát vào như dội, khách cũng thấy chán không buồn đi. Và đêm nào lên ga đợi chuyến tàu suốt chín giờ, hai ông cháy cũng dẫn xe về không.
Chất chồng vào cái hại kể trên, chuyến đò làng Thanh không qua lại nữa. Vì hai làng Thanh Lương và Thanh Trúc đang kiện nhau để được độc quyền về nghề chở khách. Dân quanh vùng phải đi ngược lên khá xa mới qua bến đò làng Triệu. Phía ấy, cũng có đường đi lên ga nhưng hẹp lắm. Hai ông cháu đành đưa người đi lại quanh vùng Thanh Trúc và chờ nhà nước xử xong, để chở thêm khách bên huyện Quảng Ðiền.
Một đêm trung tuần tháng chạp, chuyến xe suốt lại trễ mất ba giờ. Lúc ấy vào giữa đêm. Nghe tàu đến hai ông cháu đã mừng thầm trong bụng. Một lát sau con tàu đã bắt đầu sục sịch chạy, người kéo xe vẫn chưa nhận thấy có tiếng bước chân nào khỏi ga. Ông hỏi cháu nhưng thằng bé đã lẩn đi ngả nào, Ông chắc nó đang đứng đón khách ở sân ga nên định bụng chờ. Mấy phút sau đứa bé trở về, ông già mù cảm thấy hình như có một người bước lên xe. Ðứa bé nói với giọng run run:
- Ông ơi, có người lên đó. Ông chạy đi.
Thế rồi hai ông cháu dìu nhau chạy về phía sông Bồ, qua những quãng đường lầy lội và dưới dòng mưa đêm lạnh giá. Trong những cánh đồng ngập nước, tiếng ễnh ương đua nhau kêu não nùng như một bản nhạc mùa đông, nghe buồn thấm tủy. Hai ông cháu dưới mấy cái mo cau và tàu lá chuối kết lại thay tơi cắm đầu chạy trên quãng đường ướt át. Trời tối đen như mực, nhưng may đứa cháu quen đường và nhờ ánh bùn chiếu lên, nên bánh xe cũng khỏi vấp ngã. Ðến bên đò làng Thanh vào khoảng một giờ khuya. Gió ngoài thổi vào lạnh như cắt thịt. Ðứa cháu sắp dắt ông vào mui thuyền, thì như nghi ngại điều gì, người kéo xe mù đã cất tiếng hỏi:
- Tiền xe mô đưa cho ông?
Ðó là một câu hỏi bất ngờ vì mấy lần trước có bao giờ ông hỏi đến đâu. Hay cũng hỏi cho biết số, chứ chưa lúc nào ông định giữ lấy. Ðứa cháu run lẩy bẩy, lúng túng rồi bỗng ôm mặt khóc. Chỉ nghĩ thoáng qua người kéo xe mù đã hiểu ra lẽ thật. Có gì đâu, không thấy khách và muốn ông nó vui lòng, thằng bé đã bê một tảng đã nặng đặt lên nệm xe và dìu ông nó chạy. Trí non nớt của nó có ngờ đâu mấy năm lao khổ trong nghề, ông nó phân biệt rất tinh tường người ngồi và vật đặt khác nhau nhiều lắm. Nhưng ông nó vẫn chạy, vì mù quáng, vì đói rách nên lòng vẫn hy vọng những chuyện không bao giờ có được.
Và biết ra thì thêm khổ. Thấy cháu khóc, ông cũng nức nở theo. Rồi giữa đêm lạnh, phần già yếu, phần đau buồn, phần đói rét, ông gục xuống dần rồi lăn ra chết ngất. Ðứa bé sợ thất thanh la hét nghe đứt ruột. Nhưng gió của trời thét mạnh hơn và tiếng nó đành chịu rã rời bay lạc giữa đêm mưa tầm tã. Bên kia sông huyện Quảng Ðiền xa quá. Chỉ còn vài ngọn đèn dầu chập chờn trong xóm quê đen tối. Con đò đã cắt đường qua lại từ lâu, không đem được lòng từ thiện của bến kia qua bao trùm nỗi thảm thương của bờ hồ.
Sáng mai đi chợ Thanh Lương, khách qua đường thấy trên bờ sông, vẳng một đứa trẻ thơ đang ngồi khóc thảm thiết bên cạnh một người già nua đã chết cứng đờ. Dân quanh xóm thương tình, người ít kẻ nhiều dồn nhau lại mua cái hòm mới và chôn cất người kéo xe già tử tế. Về sau đêm nào cũng như đêm nào, vào khoảng mười một giờ khuya, sau chuyến tàu suốt ra Bắc một giờ, những người ở quanh vùng đó đều thấy một cái bóng xe tay loang loáng, chạy về phía làng Thanh Trúc.
Người làm giữa ruộng dưới đêm trăng, các em mục đồng và cả sư cụ chùa Linh Hải đều nhận thấy nhiều lần. Và giữa đêm mưa lạnh ông Từ làng Thanh Trúc còn nghe thấy cả tiếng nhạc xe trước cổng đình nữa... Người ta bàn tán và nói rất nhiều. Lúc ấy, làng Thanh Trúc được kiện nên cho thuyền đưa khách qua lại như cũ. Gặp lúc vui dân làng liền quyên tiền để xây cái am cho người kéo xe "linh hiền". Dân huyện Quảng cũng sốt sắng góp tiền rất nhiều. Con thuyền xưa đã nối lại hai bờ. Lòng từ thiện đã qua sông.
Thanh Tịnh
Mới nghe qua tên Am, tôi đã tưởng họ bông đùa. Nhưng không, người kể cho tôi nghe nói với giọng nghiêm chỉnh lắm. Cái Am ấy nhỏ bằng vôi đựng trên bờ sông Bồ thuộc về làng Thanh Trúc. Trong Am chỉ đặt một bát lư hương và cặp đòn con bằng gỗ tiện. Trước cửa Am có che một bức sáo xanh kẻ chữ thọ màu hồng. Cách Am năm bước có cái mồ đắp lên cao. Ngôi mả của người cu ly xe.
Chuyện Am này ở hai vùng Thanh Lương và Hương Cần ai cũng biết. Họ thường kể cho người lạ nghe với một giọng chắc chắn đáng tin. Ðược dịp kể nhiều nhất là bà bán quán gần Am ấy. Và khách qua lại muốn được nghe chuyện chỉ việc uống một bát nước chè hay ăn vài đĩa xôi đậu. Bà quán kể lâu quá thành có duyên và lắm đoạn nghe xuôi như đọc thuộc lòng.
Từ ga Văn Xá đến bến đò làng Thanh kể được trên hai cây số. Bên kia sông là huyện Quảng Ðiền. Bến đò ấy ở vào một chỗ hoang vắng vì kế tiếp con sông là cái cồn mồ. ở đó, qua huyện Quảng Ðiền gần hơn quay trở về làng Thanh. Dẫn khách đến ga là nhờ con đường chạy dài trong lối xóm, qua vài cái cầu ngắn bằng gạch và ba bốn khoảng phơi mình giữa đồng cỏ cháy. Con đường ấy được nhiều người đi nhất.
Ga Văn Xá làm lễ lạc thành xong thì sau đó hai tuần một người mù đem chiếc xe tay đến đón khách. Ðó là một cái xe thảm khổ nhất. Ruột hai bán độn rơm và trần xe đã thủng nhiều chỗ. Khổ hơn nữa là người kéo xe mù lại già, đầu tóc bạc phơ, người gầy gò và trán hói. Theo đúng đường và biết tránh người đi là nhờ đứa cháu nội lên mười chạy dìu phía trước.
Rồi ngày bốn buổi, hai ông cháu lên ga Văn Xá đón khách về huyện Quảng Ðiền. Ðời tuy vất vả nhưng có kẻ thương tình nên cũng đủ sống. Lệ thường cứ mỗi vòng được năm xu. Hai ông cháu ngày nào cũng kiếm được một vài hào đủ tiêu dùng, cơm cháo. Từ ngày có xe lửa, dân mấy vùng quê ai cũng thèm đi. Họ cốt đi đẻ mua vui thôi. Vì họ thấy thứ xe lạ và chạy quá nhanh nên họ thích lắm. Thích nhất là được đứng trên tàu gọi tên mấy người quen đang đi trên đường cái quan. Lắm khi họ từ ga này để đến một ga nào, gần đó. Rồi từ ga ấy họ lại mua vé trở về ga làng.
Ngày ấy họ chưa kể đến sự tiện lợi đi xe. Họ chỉ biết đến cái thú thôi. Ga Văn Xá nhờ thế ngày nào cũng tấp nập người ra kẻ vào. Và hai ông cháu người kéo xe kiếm được miếng ăn rất dễ. Người đi xe lửa ra khỏi ga họ muốn lên xe tay ngay. Họ đã quen với sự nhanh chóng. Ði bộ đối với họ lúc ấy là một chuyện phiền. Nhưng được người kéo xe khoẻ mạnh thì chẳng nói gì. Ðằng này lại khác. Bước chân lên xe người mù già, thì người khổ chưa hẳn là người phải kéo xe mà thật ra là người được ngồi. Huống chi ở đây lại phải chịu cái tội trông một đứa trẻ chạy không kịp thở, ngã tới vờn lui, theo bước chân của một ông già yếu đuối. Nên nhiều người thương hại không muốn đi xe.
Nhưng lòng nhân đạo càng ban truyền ra, người kéo xe mù lại càng túng thiếu. Rồi sau chỉ những người ốm hay già yếu lắm, thỉnh thoảng có vài người say rượu, mới bước lên xe của hai ông cháu. Lắm người không đi, chỉ gửi vài bao hành lý họ cũng trả tiền hẳn hoi. Nhưng hạng người này hiếm lắm. Ðợi năm sáu chuyến tàu mới gặp được một người. Tối đến, hai ông cháu thường ngủ trong một cái mui thuyền đặt khum khum trên bờ sông. Sáng mai ba giờ đã phải dậy. Vì phải đợi khách bên huyện Quảng qua sông đi chuyến tàu bốn giờ. Tiền bạc làm ra được đều do người cháu giữ. Và người ông cũng không mấy khi hỏi đến. Trừ ra lúc muốn mua một vài cút rượu trắng hay làm ăn được, nhớ lại những ngày kỵ giỗ của gia hương.
Ngoài ra, người cháu tuy nhỏ tuổi nhưng sớm khôn, đã lo liệu cho cả. Vì cái quán ở cách đó nửa cây số đã chu cấp cho hai ông cháu đủ các thứ cần, lẽ tự nhiên là phải bỏ tiền ra mua. Mùa đông năm Ngọ, lạnh và mưa luôn ngày luôn đêm. Ðướng từ ga về bến đò đã nhiều nơi bị hư hỏng. Lắm cái cống đất nhỏ bị nước lụt trôi đi. Hai ông cháu phải bỏ công chữa lại. Có thế xe mới đi qua được. Và con đường tuy của chung, nhưng chỉ riêng hai ông cháu để ý và lo ngại hơn cả. Xe độ ấy ế vô cùng. Và gặp cái xe trần thủng, nước tát vào như dội, khách cũng thấy chán không buồn đi. Và đêm nào lên ga đợi chuyến tàu suốt chín giờ, hai ông cháy cũng dẫn xe về không.
Chất chồng vào cái hại kể trên, chuyến đò làng Thanh không qua lại nữa. Vì hai làng Thanh Lương và Thanh Trúc đang kiện nhau để được độc quyền về nghề chở khách. Dân quanh vùng phải đi ngược lên khá xa mới qua bến đò làng Triệu. Phía ấy, cũng có đường đi lên ga nhưng hẹp lắm. Hai ông cháu đành đưa người đi lại quanh vùng Thanh Trúc và chờ nhà nước xử xong, để chở thêm khách bên huyện Quảng Ðiền.
Một đêm trung tuần tháng chạp, chuyến xe suốt lại trễ mất ba giờ. Lúc ấy vào giữa đêm. Nghe tàu đến hai ông cháu đã mừng thầm trong bụng. Một lát sau con tàu đã bắt đầu sục sịch chạy, người kéo xe vẫn chưa nhận thấy có tiếng bước chân nào khỏi ga. Ông hỏi cháu nhưng thằng bé đã lẩn đi ngả nào, Ông chắc nó đang đứng đón khách ở sân ga nên định bụng chờ. Mấy phút sau đứa bé trở về, ông già mù cảm thấy hình như có một người bước lên xe. Ðứa bé nói với giọng run run:
- Ông ơi, có người lên đó. Ông chạy đi.
Thế rồi hai ông cháu dìu nhau chạy về phía sông Bồ, qua những quãng đường lầy lội và dưới dòng mưa đêm lạnh giá. Trong những cánh đồng ngập nước, tiếng ễnh ương đua nhau kêu não nùng như một bản nhạc mùa đông, nghe buồn thấm tủy. Hai ông cháu dưới mấy cái mo cau và tàu lá chuối kết lại thay tơi cắm đầu chạy trên quãng đường ướt át. Trời tối đen như mực, nhưng may đứa cháu quen đường và nhờ ánh bùn chiếu lên, nên bánh xe cũng khỏi vấp ngã. Ðến bên đò làng Thanh vào khoảng một giờ khuya. Gió ngoài thổi vào lạnh như cắt thịt. Ðứa cháu sắp dắt ông vào mui thuyền, thì như nghi ngại điều gì, người kéo xe mù đã cất tiếng hỏi:
- Tiền xe mô đưa cho ông?
Ðó là một câu hỏi bất ngờ vì mấy lần trước có bao giờ ông hỏi đến đâu. Hay cũng hỏi cho biết số, chứ chưa lúc nào ông định giữ lấy. Ðứa cháu run lẩy bẩy, lúng túng rồi bỗng ôm mặt khóc. Chỉ nghĩ thoáng qua người kéo xe mù đã hiểu ra lẽ thật. Có gì đâu, không thấy khách và muốn ông nó vui lòng, thằng bé đã bê một tảng đã nặng đặt lên nệm xe và dìu ông nó chạy. Trí non nớt của nó có ngờ đâu mấy năm lao khổ trong nghề, ông nó phân biệt rất tinh tường người ngồi và vật đặt khác nhau nhiều lắm. Nhưng ông nó vẫn chạy, vì mù quáng, vì đói rách nên lòng vẫn hy vọng những chuyện không bao giờ có được.
Và biết ra thì thêm khổ. Thấy cháu khóc, ông cũng nức nở theo. Rồi giữa đêm lạnh, phần già yếu, phần đau buồn, phần đói rét, ông gục xuống dần rồi lăn ra chết ngất. Ðứa bé sợ thất thanh la hét nghe đứt ruột. Nhưng gió của trời thét mạnh hơn và tiếng nó đành chịu rã rời bay lạc giữa đêm mưa tầm tã. Bên kia sông huyện Quảng Ðiền xa quá. Chỉ còn vài ngọn đèn dầu chập chờn trong xóm quê đen tối. Con đò đã cắt đường qua lại từ lâu, không đem được lòng từ thiện của bến kia qua bao trùm nỗi thảm thương của bờ hồ.
Sáng mai đi chợ Thanh Lương, khách qua đường thấy trên bờ sông, vẳng một đứa trẻ thơ đang ngồi khóc thảm thiết bên cạnh một người già nua đã chết cứng đờ. Dân quanh xóm thương tình, người ít kẻ nhiều dồn nhau lại mua cái hòm mới và chôn cất người kéo xe già tử tế. Về sau đêm nào cũng như đêm nào, vào khoảng mười một giờ khuya, sau chuyến tàu suốt ra Bắc một giờ, những người ở quanh vùng đó đều thấy một cái bóng xe tay loang loáng, chạy về phía làng Thanh Trúc.
Người làm giữa ruộng dưới đêm trăng, các em mục đồng và cả sư cụ chùa Linh Hải đều nhận thấy nhiều lần. Và giữa đêm mưa lạnh ông Từ làng Thanh Trúc còn nghe thấy cả tiếng nhạc xe trước cổng đình nữa... Người ta bàn tán và nói rất nhiều. Lúc ấy, làng Thanh Trúc được kiện nên cho thuyền đưa khách qua lại như cũ. Gặp lúc vui dân làng liền quyên tiền để xây cái am cho người kéo xe "linh hiền". Dân huyện Quảng cũng sốt sắng góp tiền rất nhiều. Con thuyền xưa đã nối lại hai bờ. Lòng từ thiện đã qua sông.
Thanh Tịnh
#148
Gửi vào 28/06/2011 - 06:55
ẢO THUẬT
Chuyện xảy ra vào một đêm trời đổ mưa. Chiếc xe kéo chở tôi đã bò lên tuột xuống không biết bao nhiêu đường dốc gập ghềnh trong khu phố Ômôri này, cuối cùng mới hạ được tay đòn xuống trước cửa một căn nhà nhỏ xây kiểu tây phương ở giữa một vườn trúc. Chiếc cổng hẹp màu xám đã bị bong nước sơn loang lổ, dưới ánh đèn lồng nơi tay của người phu xe thì thấy có một tấm bảng tên bằng sứ, và chỉ có cái bảng tên này là còn mới, có ghi bằng tiếng Nhật tên anh Matiram Misura người Ấn độ.
Nói đến Matiram Misura, trong quý vị có lẽ số người biết anh không phải là ít. Anh Misura sinh quán ở Calcutta, là một người yêu nước, đã nhiều năm tranh đấu giành độc lập cho Ấn độ. Đồng thời anh đã theo học phép bí truyền từ Hassan Kan một người Bà la Môn nổi tiếng, tuy còn trẻ mà đã là một nhà ảo thuật tài ba. Tôi quen Misura là nhờ có một người bạn giới thiệu cho được chưa đầy một tháng nay, thế nhưng tuy chúng tôi đã bàn luận về nhiều đề tài như chính trị, kinh tế, nhưng mà cái chính là tài làm ảo thuật của anh, thì tôi lại chưa một lần nào được chứng kiến.
Vì thế tôi đã viết thư xin anh làm ảo thuật cho tôi xem, rồi đêm nay mới cho xe kéo hối hả trực chỉ đến cuối phố Ômôri hẻo lánh nơi anh đang ở. Tôi đội mưa, theo ánh đèn chập chờn trên tay người phu xe đưa tay bấm chiếc chuông ở phía dưới tấm bảng ghi tên trước cổng nhà. Lát sau cửa mở và một khuôn mặt thò ra, đó là một bà vú già người Nhật dáng thấp bé ở đây hầu hạ anh Misura.
- Ông Misura có nhà không ạ?
- Xin mời ông vào. Ông ấy đang đợi ông từ nãy đến giờ đấy a..
Vú già niềm nở nói vậy rồi liền đưa tôi vào căn phòng của anh Misura ở ngay cuối chiếc hành lang ngắn đi thẳng từ cửa vào.
- Chào ông, trời mưa gió mà ông đã chịu khó lặn lội tới đây.
Anh Misura có nước da đen nhẻm, mắt to, bộ ria mềm mại. Anh vừa nâng bấc của ngọn đèn dầu để trên mặt bàn lên, vừa cất tiếng chào sang sảng.
- Ồ có gì đâu, miễn là đựơc xem phép ảo thuật của ông thì mưa gió thế này nào có hề gì.
Tôi ngồi xuống ghế đoạn nhìn quanh khắp căn phòng mờ tối dưới ánh đèn dầu lửa leo lét. Căn phòng của anh Misura bài trí đơn sơ theo kiểu tây phương, ở giữa kê một chiếc bàn lớn, sát tường có một cái tủ sách vừa vặn. Rồi bên cạnh cửa sổ lại có một cái bàn. Ngoài ra chỉ có một dẫy mấy chiếc ghế mà tôi đang ngồi. Hơn nữa, mấy thứ bàn ghế này đều cũ mèm, ngay cả đến chiếc khăn trải bàn lộng lẫy có dệt hoa màu đỏ rực rỡ quanh đường viền cũng đã bợt bạt, để lộ rõ cả sợi vải, tưởng chừng như khăn đã dùng lâu ngày đến sắp rách tã đến nơi.
Chúng tôi chào hỏi nhau xong, ngồi lơ đãng nghe tiếng mưa rơi trong bụi trúc bên ngoài một lát, thì người vú già giúp việc lại đem bộ ấm pha trà vào phòng. Anh Misura mở hộp đựng xì gà mời tôi.
- Mời ông một điếu.
- Cảm ơn ông.
Tôi điềm nhiên lấy một điếu xì gà, vừa châm lửa nơi que diêm, vừa hỏi.
- Nghe đâu là vị thần mà ông vẫn sai khiến tên là Jin phải không ạ? Còn phép ảo thuật mà tôi sắp được ông cho xem cũng là mượn phép của thần Jin đó phải không ạ?
Anh Misura châm lửa vào điếu xì gà của mình, đoạn nhếch miệng cười, phà ra một làn khói có mùi thơm dễ chịu
- Tin rằng có thần thánh như thần Jin là chuyện đã cũ cả trăm năm rồi. Có thể nói đó là những truyện từ thời của Chuyện nghìn lẻ một đêm. Còn phép ảo thuật mà tôi học từ Hassan Kan thì ngay cả ông, nếu ông muốn làm, cũng làm đựơc thôi. Vì đó chẳng qua chỉ là một phép thôi miên ở một trình độ cao, thế thôi. Ông xem đây, chỉ cần khoa tay như thế này là đủ rồi.
Anh Misura đưa tay lên, vẽ một hình giống như hình tam giác trước mắt tôi hai ba lần, đoạn đưa bàn tay ấy lên bàn, nhón hình hoa dệt màu đỏ từ đường viền của chiếc khăn bàn lên. Tôi sững sờ, bất giác đã nhích cả chiếc ghế lại gần để nhìn bông hoa ấy cho rõ. Song quả thật đó đích thị là một đoá hoa trước đó nằm trong tấm khăn trải bàn dệt hoa, không trệch đi đâu được. Khi anh Misura đưa đoá hoa đến gần chóp mũi tôi, thì đúng lúc ấy có một mùi gì nằng nặng như mùi xạ hương thoảng qua.
Thấy điều lạ kỳ quá tôi đã cất tiếng trầm trồ không biết bao lần, mỗi lần như vậy anh Misura vẫn chỉ tủm tỉm cười, lại điềm nhiên thả đoá hoa ấy rơi xuống mặt khăn bàn. Tất nhiên, khi buông ra thì nó lại thành một mẫu hoa dệt trên nền vải như trước, bấy giờ nói gì đến muốn nhón lên, mà ngay cả nếu muốn làm cho chỉ một cánh hoa có thể tự do lay động, cũng còn không được nữa là.
- Ông thấy thế nào, có khó gì đâu. Bây giờ ông hãy nhìn chiếc đèn này.
Anh Misura vừa nói vừa khẽ đặt chiếc đèn dầu lên mặt bàn. Thế rồi, chẳng hiểu sao, làm như thế nào mà chiếc đèn lại bắt đầu xoay tít cứ như con vụ. Hơn nữa chiếc đèn vẫn đứng yên một chỗ mà xoay, phần bóng đèn như một cái trục bắt đầu tự xoay tròn. Lúc đầu tôi còn sợ đến suýt vỡ mật, hớt hơ hớt hải chỉ sợ lỡ sinh cháy nhà. Thế nhưng anh Misura vẫn điềm nhiên uống trà, chẳng có vẻ gì là lo lắng. Thấy thế cuối cùng tôi cũng thành ra gan góc tợn, cứ thế trân trối nhìn chiếc đèn mỗi lúc một quay nhanh hơn.
Hơn nữa thực sự là trong lúc chao đèn quay vù vù như cái quạt quạt gió, chỉ có một ngọn lửa màu vàng duy nhất cứ hừng hực cháy như bất động nom mới đẹp làm sao, mới là một quang cảnh hết sức kỳ diệu. Chiếc đèn mỗi lúc một xoay nhanh dần lên, đến nỗi thành trong suốt không còn biết là đèn đang xoay nữa, thì không biết từ lúc nào ngọn đèn đã lại đứng yên một chỗ trên bàn mà bóng đèn không có vẻ bị lệch đi một tí nào cả.
- Ông thấy lạ à. Đây mới chỉ là trò vặt phỉnh phờ con trẻ một tí thôi. Nếu ông muốn mời ông xem thêm trò nữa nhé ?
Anh Misura quay lại nhìn chiếc tủ sách kê sát tường rồi đưa tay về phía đó ? co duỗi mấy ngón tay như thể đang mời gọi. Tức thì lần này sách xếp trong tủ lần lượt từng quyển một bắt đầu nhúc nhích, rồi cứ thế bay ra trên mặt bàn. Những quyển sách này còn bay theo kiểu mở cả hai bìa trước bìa sau ra mà chập chờn bay lên không như những con dơi liệng qua liệng lại vào những buổi chiều hè.
Tôi há hốc mồm ra nhìn, điếu xì gà vẫn còn dính nơi miệng. Những quyển sách cứ thế, không biết là bao nhiêu cuốn, bay liệng tự do trong ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu, rồi lần lượt xếp lên nhau gọn gàng thành hình kim tự tháp trên mặt bàn. Hơn nữa đúng lúc mình cứ tưởng tất cả những quyển sách ấy đều sẽ di chuyển ra đây, thì chúng lại chuyển động ngay về vị trí ban đầu, chúng chẳng đang bay trở về, xếp tuần tự trở lại trong tủ sách là gì kia.
Thế nhưng thú vị nhất là có một quyển sách mỏng đóng bằng chỉ khâu ở gáy sách, cũng mở bìa sách ra như là đang dang cánh, nhẹ bay lên không, lát sau lại như vẽ một vòng tròn trên mặt bàn, bỗng lật nhanh qua từng trang một, đoạn như bị buông cho rớt thẳng xuống đất, đã rơi xuống nằm ngay trên đùi tôi. Tôi cầm lên coi thử mới nhớ ra đây là quyển tiểu thuyết mới ra của Pháp mà tôi đã cho anh Misura mượn một tuần trước.
- Xin cảm ơn ông đã cho tôi mượn quyển sách này lâu nay.
Anh Misura cảm ơn tôi, vẫn với giọng nói như đang mỉm cười. Dĩ nhiên tới lúc đó có khá nhiều sách đã từ trên mặt bàn bay trở lại về tủ sách. Tôi như vừa từ trong giấc mơ mới bước ra, thậm chí lúc ấy còn không nhớ phải nói một câu gì đáp lại nữa. Nhưng sau đó tôi nhớ lại lời anh Misura đã nói với tôi lúc nãy, đó là "Ảo thuật của tôi là một phép thuật mà ngay cả đến ông, nếu ông muốn thì cũng dùng được."
- Quả thật tôi đã nghe tiếng ông từ lâu, nhưng thực tôi không ngờ phép thuật của ông lại lạ lùng như thế. Thế nhưng khi bảo hạng người như tôi nếu muốn cũng làm phép thuật được, có phải ông địnhnói đùa đấy không ạ?
- Làm được chứ sao không. Ai cũng làm được dễ dàng thôi. Chỉ có điều là...
Anh Misura bỏ dở câu nói, nhìn chằm chằm vào mặt tôi, đoạn tiếp lời bằng một giọng nghiêm nghị khác thường
- Chỉ có điều là, người có lòng tham thì không làm ảo thuật được. Nếu muốn học phép thuật của Hassan Kan thì trước hết phải vứt bỏ lòng tham. Ông có làm như thế được không ?
- Tôi nghĩ là tôi làm được.
Tôi đáp lại như vậy, nhưng vẫn cảm thấy không yên tâm làm sao ấy, nên ngay sau đó vội vàng nói thêm.
- Miễn là ông dậy cho tôi phép ảo thuật ấy.
Thế mà anh Misura vẫn lộ ánh mắt nghi ngờ, tuy nhiên có lẽ anh cũng nghĩ rằng nếu còn căn vặn tiếp là thất lễ. Anh bèn vừa gật đầu thật mạnh vừa nói.
- Vậy thì tôi sẽ truyền cho ông. Thế nhưng cho dù là dễ đến mấy đi nữa, muốn học cũng phải mất một ít thì giờ, vì thế tối nay ông hãy ở lại đây với tôi.
- Xin cảm ơn ông lắm ạ.
Tôi mừng rỡ vì sắp được dậy cho phép làm ảo thuật, rối rít cảm ơn anh Misura mãi. Anh Misura không có vẻ gì là để tâm đến chuyện ấy, từ tốn đứng dậy, cất tiếng gọi
- Vú già ơi vú già, tối nay quý khách ở lại đây, vú dọn giường sẵn cho nhé.
Tôi thấy lòng rộn ràng, quên cả gạt tàn điếu xì gà, bất giác ngửng lên nhìn chăm chú vào khuôn mặt có vẻ ân cần đang sáng lên dưới ánh đèn dầu của anh Misura. Chuyện xẩy ra sau khi tôi đã được anh Misura dạy cho cách sử dụng phép ảo thuật được độ một tháng. Cũng là vào một tối trời mưa tầm tã, tôi và năm sáu người bạn đang ở trong căn phòng của một câu lạc bộ nọ trong phố Ginza, quây quần trước lò sưởi, đang mải tán gẫu đủ thứ chuyện phiếm.
Chả gì thì cũng đang ở giữa thành phố Tokyo nên tiếng mưa ào ạt bên ngoài cửa sổ, có lẽ vì mưa rơi trên mái xe hơi và xe ngựa qua lại không ngớt nên đã không có cái âm thanh buồn bã rì rào như trong bụi trúc ở xóm Ômôri. Dĩ nhiên, từ không khí nhộn nhịp trong nhà, ánh sáng của bóng đèn điện sáng trưng, cho đến chiếc ghế lớn bọc da của xứ Ma rốc hay là sàn nhà lát gỗ ghép hình kỷ hà học bóng loáng, tất cả đều hoàn toàn khác với căn phòng mới thoạt nhìn đã tưởng chừng sắp có thần linh hiện ra của anh Misura.
***
Chúng tôi vừa hút thuốc lá vừa nói chuyện về nào thú săn bắn, nào chuyện đua ngựa, nhưng rồi sau đó một người trong đám bạn tôi đã ném điếu xì gà đang hút dở vào lò sưởi, quay nhìn về phía tôi nói.
- Dạo này nghe đồn là cậu có tài làm ảo thuật. Thế nào? Tối nay cậu hãy làm một phép thuật cho bọn tớ xem nào.
- Được thôi.
Tôi tựa đầu vào lưng ghế đáp lại một cách kênh kiệu, ra vẻ ta đây đã là một nhà ảo thuật nổi tiếng.
- Vậy thì tuỳ cậu muốn làm sao cũng được. Hãy trổ tài cho bọn tớ xem một trò ảo thuật mà các tay ảo thuật gia trên đời này không ai có thể làm nổi đi nào.
Bè bạn xem ra ai cũng tán thành, vội kéo ghế ngồi lại gần, nhìn về phía tôi như hối thúc. Tôi bèn đứng dậy nói
- Hãy nhìn kỹ mà xem. Vì trò ảo thuật mà tớ đang làm đây không phải dùng mưu mẹo gì cả.
Tôi vừa nói vừa xăn hai cổ tay áo lên, thản nhiên lấy hòn than đang cháy rực trong lò sưởi ra lòng bàn tay. Chỉ mới chừng đó thôi, bạn bè chung quanh tôi có lẽ đã táng đởm kinh hồn. Mọi người mặt nhìn mặt bất giác cùng né cả sang một bên, thậm chí còn có vẻ kinh hãi, co rúm cả lại như thể sợ lỡ bị bỏng thì nguy to.
Lúc đó tôi bèn làm ra vẻ thản nhiên, chìa hòn than đang cháy trên lòng bàn tay ra trước mắt mọi người một lát, rồi lại thoắt một cái hất mạnh xuống sàn nhà lát gỗ. Đúng lúc ấy, một tiếng mưa thứ hai nghe khác thường từ dưới nền nhà bỗng nổi lên át cả tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ. Đó là khi hòn than đỏ rực vừa rời lòng bàn tay tôi nó đã liền biến thành vô số những đồng tiền vàng đẹp đẽ rơi như mưa trên khắp nền nhà. Mấy người bạn cứ như thể đang nằm mơ, ngẩn cả người ra mà quên cả vỗ tay tán thưởng.
- Ấy mới chỉ là một chút gọi là thôi đấy nhé!
Tôi cười đắc ý, lại điềm tĩnh đặt mình xuống chiếc ghế vừa nãy.
- Tất cả đều là tiền vàng hết đấy ư?
Phải đến năm phút sau mới có một người trong đám bè bạn đang ngơ ngác ấy lên tiếng hỏi tôi câu này.
- Tiền vàng thật chứ ! Nếu nghĩ là giả thì cứ cầm lên tay mà xem!
- Chắc là không có chuỵên ngộ nhỡ lại bị bỏng tay đấy chứ nhỉ?
Một người trong đám bạn rụt rè lấy đồng tiền vàng trên sàn nhà lên xem.
- Hoá ra là tiền vàng thật. Này, anh bồi ơi, anh lấy cho cái chổi với cái xẻng, vun hết chỗ này lại hộ cho.
Người bồi liền làm y theo lời, vun hết tiền vàng trên sàn nhà lại, xếp thành đống trên chiếc bàn. Bạn bè xúm lại cả chung quanh chiếc bàn này.
- Dễ cũng có đến hai mươi vạn yên đấy nhỉ.
- Không đâu, có vẻ nhiều hơn đấy. Nhiều đến nỗi nếu phải cái bàn mảnh dẻ hơn thì có mà gãy rồi ấy chứ.
- Hắn học được phép thuật gì mà ghê gớm thật. Ai lại than hồng mà biến thành tiền vàng ngay được.
- Cứ cái điệu này thì chỉ không đầy một tuần, sẽ thành tỷ phú không thua gì Iwasaki với Mitsui đâu.
Mọi người đều trầm trồ khen ngợi phép ảo thuật của tôi. Nhưng tôi vẫn cứ ngồi yên, tựa lưng vào ghế, điềm nhiên nhả khói xì gà.
- Không đâu, phép ảo thuật của tớ là cái mà hễ một khi đã nổi lòng tham lên rồi thì không còn được dùng đến lần thứ hai. Vì vậy những đồng tiền vàng này cũng thế, các cậu xem xong rồi thì tớ định sẽ lại ném ngay trở lại vào lò sưởi thôi.
Bè bạn nghe tôi nói thế, liền bắt đầu nhao nhao phản đối. Họ nói số tiền lớn thế này mà biến thành than trở lại thì phí đi. Nhưng cũng vì tôi đã hứa với anh Misura, nên tôi cương quyết cãi lại với các bạn rằng nhất định sẽ ném cả vào lò sưởi. Lúc đó một người có tiếng là ranh mãnh trong đám bè bạn cười khẩy mà nói rằng:
- Cậu bảo định sẽ biến những tiền vàng này thành than. Còn bọn tớ bảo không muốn thế. Cứ thế này mãi thì chắc là còn cãi nhau chán chả đi đến đâu cả. Vì vậy theo tớ hãy dùng số tiền này làm tiền cọc để cậu với bọn tớ đánh bài nhé.
Nếu cậu thắng thì cậu muốn cho biến thành than trở lại hay làm gì là tùy cậu. Nhưng nếu bọn tớ thắng, thì cậu phải để y nguyên tiền vàng như thế mà đưa cho bọn tớ. Làm như vậy là vừa lòng cả đôi bên, chẳng phải là chúng ta ai cũng hỉ hả hết sao. Tuy thế xong tôi vẫn lắc đầu, không dễ gì mà chấp thuận đề nghị ấy. Thế nhưng người bạn này lại cười ra vẻ nhạo báng, đôi mắt soi mói hết nhìn tôi lại nhìn sang đống tiền vàng trên bàn.
- Cậu không muốn đánh bài với bọn tớ, đó là vì cậu không muốn bọn tớ lấy mất đống tiền vàng kia chứ gì. Nếu vậy thì như cậu nói, nào là đã vứt bỏ lòng tham để làm phép ảo thuật, nhưng như thế chẳng hoá ra là cái quyết tâm mà cậu đã mất công có được ấy cũng thành ra.. đáng ngờ vực lắm sao!
- Không phải thế, không phải là vì tớ tiếc những đồng tiền vàng này mà định biến nó thành than đâu.
- Nếu vậy thì hãy đánh bài đi!
Sau bao lần cứ bị hỏi dồn như thế mãi, cuối cùng tôi đã bị dồn đến nước phải làm theo lời chúng bạn, thế nào cũng phải dùng món tiền vàng trên bàn làm tiền cọc mà đánh bài với họ. Dĩ nhiên các bạn tôi mừng rơn, liền lấy ra một cỗ bài, ngồi vây quanh chiếc bàn dùng để chơi bài ở góc phòng, hối thúc tôi mau mau lên trong lúc tôi còn đang lưỡng lự.
Thế là tôi không có cách nào khác, đành phải miễn cưỡng đánh bài với chúng bạn một lát. Thế nhưng chẳng hiểu vì sao, chỉ trong đêm ấy thôi, cái thằng tôi ngày thường vốn không phải là đứa giỏi cờ bạc, không ngờ lại cứ thắng tràn. Và lạ lùng thay là tuy lúc đầu tôi chẳng thiết gì cả, ấy thế mà dần dà lại cảm thấy thích thú, chỉ trong vòng chưa đầy mười phút sau, không biết tự lúc nào tôi đã quên hết mọi chuyện, bắt đầu mê mải rút bài.
Bạn bè lúc đầu định bụng sẽ cuỗm sạch của tôi món tiền vàng kia, nên mới bày ra trò đánh bài, vì thế đã đến nước này, bọn họ mỗi lúc một bồn chồn nóng nảy, mặt mày ai nấy tưởng chừng như đang đằng đằng sát khí mê mải vùi đầu vào cuộc đỏ đen. Thế nhưng, mặc cho họ gắng sức quật lại, chẳng những tôi không bị thua một ván nào, mà cuối cùng tôi còn thắng một số tiền lớn tương đương với món tiền vàng dùng làm tiền cọc. Tức thì người bạn có vẻ xấu bụng lúc nẫy, chừng như đã điên tiết, sừng sộ chìa cỗ bài ra trước mặt tôi, bảo:
- Nào ! Rút bài đi nào ! Tớ đặt hết tất cả tài sản của tớ đấy. Cả đất, cả nhà, cả ngựa, cả xe ... đặt tất, không chừa một thứ nào. Ngược lại, ngoài món tiền vàng này cậu cũng phải đặt tất cả chỗ tiền mà cậu vừa thắng đựơc. Nào rút bài đi !
Chỉ trong một sát na này lòng tham của tôi chợt nổi lên. Không chỉ món tiền vàng chất thành đống trên bàn kia, mà ngay cả số tiền tôi đã may mắn thắng được ấy, tôi không thể chỉ vì rủi ro trong lần này mà cuối cùng để cho đối thủ là các bạn tôi lấy mất. Chẳng những thế, mà chỉ cần thắng một lần này nữa thôi, tôi sẽ có được trong tay tất cả tài sản của đối phương. Nếu không đem phép ảo thuật ra dùng vào lúc này thì ai hoài công đi tìm thầy học phép ảo thuật để làm gì chứ nhỉ. Nghĩ vậy tôi bồn chồn nóng nảy, vội vừa lén dùng phép ảo thuật, vừa hùng hổ nói như thể sắp xông vào so kiếm tỉ thí.
- Được ! Thì cậu hãy rút bài trước đi.
- Lá chín.
- Ông già!
Tôi đắc thắng hô to, tay chìa lá bài vừa rút ra trước mặt đối thủ mặt mày đang xanh mét. Tức thì lạ lùng thay, ông già trong lá bài như thể có hồn, ngửng cái đầu có đội vưong miện lên, thoắt một cái đã từ trong lá bài bước ra, tay vẫn cầm gươm nghiêm chỉnh như trong hình, nhếch mép mỉm cười đến rợn người, thốt lên lời bằng một giọng nói mà tôi đã từng có lần nghe rồi.
- Vú già, vú già ơi, ông khách về bây giờ, vú không phải dọn giường ngủ cho khách nữa đâu nhé.
Mới đó mà không hiểu sao tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ bỗng lại bắt đầu nghe như tiếng mưa rì rào buồn bã trong bụi trúc ở Ômôri. Định thần nhìn quanh, hoá ra tôi vẫn còn ngồi đối diện với anh Misura, trong ánh đèn mờ tối của ngọn đèn dầu lửa, anh đang nhếch mép mỉm cười giống hệt như ông già trong lá bài.
Tàn thuốc của điếu xì gà mà tôi đang kẹp trên tay vẫn còn chưa kịp rơi xuống đất, hoá ra một tháng trời mà tôi tưởng vừa trôi qua chỉ mới dài chừng vài ba phút, chắc chỉ là một giấc mộng thôi. Nhưng chỉ trong một thoáng vài ba phút ngắn ngủi ấy, cả tôi lẫn anh Misura đều đã nhận ra một điều là, con người như tôi không đủ tư cách để học phép ảo thuật của Hassan Kan. Tôi ngượng ngùng cứ cúi gầm mặt xuống, mãi một lúc lâu sau vẫn không nói được một lời nào.
- Muốn dùng phép ảo thuật của tôi thì trước hết phải vứt bỏ lòng tham. Ông còn chưa tu tập được ngay cả điều đó.
Anh Misura chống khuỷu tay lên chiếc khăn bàn có dệt hình hoa màu đỏ ở đường viền nhìn tôi ra chiều ái ngại, khẽ quở trách tôi như vậy.
Majutsu
Chuyện xảy ra vào một đêm trời đổ mưa. Chiếc xe kéo chở tôi đã bò lên tuột xuống không biết bao nhiêu đường dốc gập ghềnh trong khu phố Ômôri này, cuối cùng mới hạ được tay đòn xuống trước cửa một căn nhà nhỏ xây kiểu tây phương ở giữa một vườn trúc. Chiếc cổng hẹp màu xám đã bị bong nước sơn loang lổ, dưới ánh đèn lồng nơi tay của người phu xe thì thấy có một tấm bảng tên bằng sứ, và chỉ có cái bảng tên này là còn mới, có ghi bằng tiếng Nhật tên anh Matiram Misura người Ấn độ.
Nói đến Matiram Misura, trong quý vị có lẽ số người biết anh không phải là ít. Anh Misura sinh quán ở Calcutta, là một người yêu nước, đã nhiều năm tranh đấu giành độc lập cho Ấn độ. Đồng thời anh đã theo học phép bí truyền từ Hassan Kan một người Bà la Môn nổi tiếng, tuy còn trẻ mà đã là một nhà ảo thuật tài ba. Tôi quen Misura là nhờ có một người bạn giới thiệu cho được chưa đầy một tháng nay, thế nhưng tuy chúng tôi đã bàn luận về nhiều đề tài như chính trị, kinh tế, nhưng mà cái chính là tài làm ảo thuật của anh, thì tôi lại chưa một lần nào được chứng kiến.
Vì thế tôi đã viết thư xin anh làm ảo thuật cho tôi xem, rồi đêm nay mới cho xe kéo hối hả trực chỉ đến cuối phố Ômôri hẻo lánh nơi anh đang ở. Tôi đội mưa, theo ánh đèn chập chờn trên tay người phu xe đưa tay bấm chiếc chuông ở phía dưới tấm bảng ghi tên trước cổng nhà. Lát sau cửa mở và một khuôn mặt thò ra, đó là một bà vú già người Nhật dáng thấp bé ở đây hầu hạ anh Misura.
- Ông Misura có nhà không ạ?
- Xin mời ông vào. Ông ấy đang đợi ông từ nãy đến giờ đấy a..
Vú già niềm nở nói vậy rồi liền đưa tôi vào căn phòng của anh Misura ở ngay cuối chiếc hành lang ngắn đi thẳng từ cửa vào.
- Chào ông, trời mưa gió mà ông đã chịu khó lặn lội tới đây.
Anh Misura có nước da đen nhẻm, mắt to, bộ ria mềm mại. Anh vừa nâng bấc của ngọn đèn dầu để trên mặt bàn lên, vừa cất tiếng chào sang sảng.
- Ồ có gì đâu, miễn là đựơc xem phép ảo thuật của ông thì mưa gió thế này nào có hề gì.
Tôi ngồi xuống ghế đoạn nhìn quanh khắp căn phòng mờ tối dưới ánh đèn dầu lửa leo lét. Căn phòng của anh Misura bài trí đơn sơ theo kiểu tây phương, ở giữa kê một chiếc bàn lớn, sát tường có một cái tủ sách vừa vặn. Rồi bên cạnh cửa sổ lại có một cái bàn. Ngoài ra chỉ có một dẫy mấy chiếc ghế mà tôi đang ngồi. Hơn nữa, mấy thứ bàn ghế này đều cũ mèm, ngay cả đến chiếc khăn trải bàn lộng lẫy có dệt hoa màu đỏ rực rỡ quanh đường viền cũng đã bợt bạt, để lộ rõ cả sợi vải, tưởng chừng như khăn đã dùng lâu ngày đến sắp rách tã đến nơi.
Chúng tôi chào hỏi nhau xong, ngồi lơ đãng nghe tiếng mưa rơi trong bụi trúc bên ngoài một lát, thì người vú già giúp việc lại đem bộ ấm pha trà vào phòng. Anh Misura mở hộp đựng xì gà mời tôi.
- Mời ông một điếu.
- Cảm ơn ông.
Tôi điềm nhiên lấy một điếu xì gà, vừa châm lửa nơi que diêm, vừa hỏi.
- Nghe đâu là vị thần mà ông vẫn sai khiến tên là Jin phải không ạ? Còn phép ảo thuật mà tôi sắp được ông cho xem cũng là mượn phép của thần Jin đó phải không ạ?
Anh Misura châm lửa vào điếu xì gà của mình, đoạn nhếch miệng cười, phà ra một làn khói có mùi thơm dễ chịu
- Tin rằng có thần thánh như thần Jin là chuyện đã cũ cả trăm năm rồi. Có thể nói đó là những truyện từ thời của Chuyện nghìn lẻ một đêm. Còn phép ảo thuật mà tôi học từ Hassan Kan thì ngay cả ông, nếu ông muốn làm, cũng làm đựơc thôi. Vì đó chẳng qua chỉ là một phép thôi miên ở một trình độ cao, thế thôi. Ông xem đây, chỉ cần khoa tay như thế này là đủ rồi.
Anh Misura đưa tay lên, vẽ một hình giống như hình tam giác trước mắt tôi hai ba lần, đoạn đưa bàn tay ấy lên bàn, nhón hình hoa dệt màu đỏ từ đường viền của chiếc khăn bàn lên. Tôi sững sờ, bất giác đã nhích cả chiếc ghế lại gần để nhìn bông hoa ấy cho rõ. Song quả thật đó đích thị là một đoá hoa trước đó nằm trong tấm khăn trải bàn dệt hoa, không trệch đi đâu được. Khi anh Misura đưa đoá hoa đến gần chóp mũi tôi, thì đúng lúc ấy có một mùi gì nằng nặng như mùi xạ hương thoảng qua.
Thấy điều lạ kỳ quá tôi đã cất tiếng trầm trồ không biết bao lần, mỗi lần như vậy anh Misura vẫn chỉ tủm tỉm cười, lại điềm nhiên thả đoá hoa ấy rơi xuống mặt khăn bàn. Tất nhiên, khi buông ra thì nó lại thành một mẫu hoa dệt trên nền vải như trước, bấy giờ nói gì đến muốn nhón lên, mà ngay cả nếu muốn làm cho chỉ một cánh hoa có thể tự do lay động, cũng còn không được nữa là.
- Ông thấy thế nào, có khó gì đâu. Bây giờ ông hãy nhìn chiếc đèn này.
Anh Misura vừa nói vừa khẽ đặt chiếc đèn dầu lên mặt bàn. Thế rồi, chẳng hiểu sao, làm như thế nào mà chiếc đèn lại bắt đầu xoay tít cứ như con vụ. Hơn nữa chiếc đèn vẫn đứng yên một chỗ mà xoay, phần bóng đèn như một cái trục bắt đầu tự xoay tròn. Lúc đầu tôi còn sợ đến suýt vỡ mật, hớt hơ hớt hải chỉ sợ lỡ sinh cháy nhà. Thế nhưng anh Misura vẫn điềm nhiên uống trà, chẳng có vẻ gì là lo lắng. Thấy thế cuối cùng tôi cũng thành ra gan góc tợn, cứ thế trân trối nhìn chiếc đèn mỗi lúc một quay nhanh hơn.
Hơn nữa thực sự là trong lúc chao đèn quay vù vù như cái quạt quạt gió, chỉ có một ngọn lửa màu vàng duy nhất cứ hừng hực cháy như bất động nom mới đẹp làm sao, mới là một quang cảnh hết sức kỳ diệu. Chiếc đèn mỗi lúc một xoay nhanh dần lên, đến nỗi thành trong suốt không còn biết là đèn đang xoay nữa, thì không biết từ lúc nào ngọn đèn đã lại đứng yên một chỗ trên bàn mà bóng đèn không có vẻ bị lệch đi một tí nào cả.
- Ông thấy lạ à. Đây mới chỉ là trò vặt phỉnh phờ con trẻ một tí thôi. Nếu ông muốn mời ông xem thêm trò nữa nhé ?
Anh Misura quay lại nhìn chiếc tủ sách kê sát tường rồi đưa tay về phía đó ? co duỗi mấy ngón tay như thể đang mời gọi. Tức thì lần này sách xếp trong tủ lần lượt từng quyển một bắt đầu nhúc nhích, rồi cứ thế bay ra trên mặt bàn. Những quyển sách này còn bay theo kiểu mở cả hai bìa trước bìa sau ra mà chập chờn bay lên không như những con dơi liệng qua liệng lại vào những buổi chiều hè.
Tôi há hốc mồm ra nhìn, điếu xì gà vẫn còn dính nơi miệng. Những quyển sách cứ thế, không biết là bao nhiêu cuốn, bay liệng tự do trong ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu, rồi lần lượt xếp lên nhau gọn gàng thành hình kim tự tháp trên mặt bàn. Hơn nữa đúng lúc mình cứ tưởng tất cả những quyển sách ấy đều sẽ di chuyển ra đây, thì chúng lại chuyển động ngay về vị trí ban đầu, chúng chẳng đang bay trở về, xếp tuần tự trở lại trong tủ sách là gì kia.
Thế nhưng thú vị nhất là có một quyển sách mỏng đóng bằng chỉ khâu ở gáy sách, cũng mở bìa sách ra như là đang dang cánh, nhẹ bay lên không, lát sau lại như vẽ một vòng tròn trên mặt bàn, bỗng lật nhanh qua từng trang một, đoạn như bị buông cho rớt thẳng xuống đất, đã rơi xuống nằm ngay trên đùi tôi. Tôi cầm lên coi thử mới nhớ ra đây là quyển tiểu thuyết mới ra của Pháp mà tôi đã cho anh Misura mượn một tuần trước.
- Xin cảm ơn ông đã cho tôi mượn quyển sách này lâu nay.
Anh Misura cảm ơn tôi, vẫn với giọng nói như đang mỉm cười. Dĩ nhiên tới lúc đó có khá nhiều sách đã từ trên mặt bàn bay trở lại về tủ sách. Tôi như vừa từ trong giấc mơ mới bước ra, thậm chí lúc ấy còn không nhớ phải nói một câu gì đáp lại nữa. Nhưng sau đó tôi nhớ lại lời anh Misura đã nói với tôi lúc nãy, đó là "Ảo thuật của tôi là một phép thuật mà ngay cả đến ông, nếu ông muốn thì cũng dùng được."
- Quả thật tôi đã nghe tiếng ông từ lâu, nhưng thực tôi không ngờ phép thuật của ông lại lạ lùng như thế. Thế nhưng khi bảo hạng người như tôi nếu muốn cũng làm phép thuật được, có phải ông địnhnói đùa đấy không ạ?
- Làm được chứ sao không. Ai cũng làm được dễ dàng thôi. Chỉ có điều là...
Anh Misura bỏ dở câu nói, nhìn chằm chằm vào mặt tôi, đoạn tiếp lời bằng một giọng nghiêm nghị khác thường
- Chỉ có điều là, người có lòng tham thì không làm ảo thuật được. Nếu muốn học phép thuật của Hassan Kan thì trước hết phải vứt bỏ lòng tham. Ông có làm như thế được không ?
- Tôi nghĩ là tôi làm được.
Tôi đáp lại như vậy, nhưng vẫn cảm thấy không yên tâm làm sao ấy, nên ngay sau đó vội vàng nói thêm.
- Miễn là ông dậy cho tôi phép ảo thuật ấy.
Thế mà anh Misura vẫn lộ ánh mắt nghi ngờ, tuy nhiên có lẽ anh cũng nghĩ rằng nếu còn căn vặn tiếp là thất lễ. Anh bèn vừa gật đầu thật mạnh vừa nói.
- Vậy thì tôi sẽ truyền cho ông. Thế nhưng cho dù là dễ đến mấy đi nữa, muốn học cũng phải mất một ít thì giờ, vì thế tối nay ông hãy ở lại đây với tôi.
- Xin cảm ơn ông lắm ạ.
Tôi mừng rỡ vì sắp được dậy cho phép làm ảo thuật, rối rít cảm ơn anh Misura mãi. Anh Misura không có vẻ gì là để tâm đến chuyện ấy, từ tốn đứng dậy, cất tiếng gọi
- Vú già ơi vú già, tối nay quý khách ở lại đây, vú dọn giường sẵn cho nhé.
Tôi thấy lòng rộn ràng, quên cả gạt tàn điếu xì gà, bất giác ngửng lên nhìn chăm chú vào khuôn mặt có vẻ ân cần đang sáng lên dưới ánh đèn dầu của anh Misura. Chuyện xẩy ra sau khi tôi đã được anh Misura dạy cho cách sử dụng phép ảo thuật được độ một tháng. Cũng là vào một tối trời mưa tầm tã, tôi và năm sáu người bạn đang ở trong căn phòng của một câu lạc bộ nọ trong phố Ginza, quây quần trước lò sưởi, đang mải tán gẫu đủ thứ chuyện phiếm.
Chả gì thì cũng đang ở giữa thành phố Tokyo nên tiếng mưa ào ạt bên ngoài cửa sổ, có lẽ vì mưa rơi trên mái xe hơi và xe ngựa qua lại không ngớt nên đã không có cái âm thanh buồn bã rì rào như trong bụi trúc ở xóm Ômôri. Dĩ nhiên, từ không khí nhộn nhịp trong nhà, ánh sáng của bóng đèn điện sáng trưng, cho đến chiếc ghế lớn bọc da của xứ Ma rốc hay là sàn nhà lát gỗ ghép hình kỷ hà học bóng loáng, tất cả đều hoàn toàn khác với căn phòng mới thoạt nhìn đã tưởng chừng sắp có thần linh hiện ra của anh Misura.
***
Chúng tôi vừa hút thuốc lá vừa nói chuyện về nào thú săn bắn, nào chuyện đua ngựa, nhưng rồi sau đó một người trong đám bạn tôi đã ném điếu xì gà đang hút dở vào lò sưởi, quay nhìn về phía tôi nói.
- Dạo này nghe đồn là cậu có tài làm ảo thuật. Thế nào? Tối nay cậu hãy làm một phép thuật cho bọn tớ xem nào.
- Được thôi.
Tôi tựa đầu vào lưng ghế đáp lại một cách kênh kiệu, ra vẻ ta đây đã là một nhà ảo thuật nổi tiếng.
- Vậy thì tuỳ cậu muốn làm sao cũng được. Hãy trổ tài cho bọn tớ xem một trò ảo thuật mà các tay ảo thuật gia trên đời này không ai có thể làm nổi đi nào.
Bè bạn xem ra ai cũng tán thành, vội kéo ghế ngồi lại gần, nhìn về phía tôi như hối thúc. Tôi bèn đứng dậy nói
- Hãy nhìn kỹ mà xem. Vì trò ảo thuật mà tớ đang làm đây không phải dùng mưu mẹo gì cả.
Tôi vừa nói vừa xăn hai cổ tay áo lên, thản nhiên lấy hòn than đang cháy rực trong lò sưởi ra lòng bàn tay. Chỉ mới chừng đó thôi, bạn bè chung quanh tôi có lẽ đã táng đởm kinh hồn. Mọi người mặt nhìn mặt bất giác cùng né cả sang một bên, thậm chí còn có vẻ kinh hãi, co rúm cả lại như thể sợ lỡ bị bỏng thì nguy to.
Lúc đó tôi bèn làm ra vẻ thản nhiên, chìa hòn than đang cháy trên lòng bàn tay ra trước mắt mọi người một lát, rồi lại thoắt một cái hất mạnh xuống sàn nhà lát gỗ. Đúng lúc ấy, một tiếng mưa thứ hai nghe khác thường từ dưới nền nhà bỗng nổi lên át cả tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ. Đó là khi hòn than đỏ rực vừa rời lòng bàn tay tôi nó đã liền biến thành vô số những đồng tiền vàng đẹp đẽ rơi như mưa trên khắp nền nhà. Mấy người bạn cứ như thể đang nằm mơ, ngẩn cả người ra mà quên cả vỗ tay tán thưởng.
- Ấy mới chỉ là một chút gọi là thôi đấy nhé!
Tôi cười đắc ý, lại điềm tĩnh đặt mình xuống chiếc ghế vừa nãy.
- Tất cả đều là tiền vàng hết đấy ư?
Phải đến năm phút sau mới có một người trong đám bè bạn đang ngơ ngác ấy lên tiếng hỏi tôi câu này.
- Tiền vàng thật chứ ! Nếu nghĩ là giả thì cứ cầm lên tay mà xem!
- Chắc là không có chuỵên ngộ nhỡ lại bị bỏng tay đấy chứ nhỉ?
Một người trong đám bạn rụt rè lấy đồng tiền vàng trên sàn nhà lên xem.
- Hoá ra là tiền vàng thật. Này, anh bồi ơi, anh lấy cho cái chổi với cái xẻng, vun hết chỗ này lại hộ cho.
Người bồi liền làm y theo lời, vun hết tiền vàng trên sàn nhà lại, xếp thành đống trên chiếc bàn. Bạn bè xúm lại cả chung quanh chiếc bàn này.
- Dễ cũng có đến hai mươi vạn yên đấy nhỉ.
- Không đâu, có vẻ nhiều hơn đấy. Nhiều đến nỗi nếu phải cái bàn mảnh dẻ hơn thì có mà gãy rồi ấy chứ.
- Hắn học được phép thuật gì mà ghê gớm thật. Ai lại than hồng mà biến thành tiền vàng ngay được.
- Cứ cái điệu này thì chỉ không đầy một tuần, sẽ thành tỷ phú không thua gì Iwasaki với Mitsui đâu.
Mọi người đều trầm trồ khen ngợi phép ảo thuật của tôi. Nhưng tôi vẫn cứ ngồi yên, tựa lưng vào ghế, điềm nhiên nhả khói xì gà.
- Không đâu, phép ảo thuật của tớ là cái mà hễ một khi đã nổi lòng tham lên rồi thì không còn được dùng đến lần thứ hai. Vì vậy những đồng tiền vàng này cũng thế, các cậu xem xong rồi thì tớ định sẽ lại ném ngay trở lại vào lò sưởi thôi.
Bè bạn nghe tôi nói thế, liền bắt đầu nhao nhao phản đối. Họ nói số tiền lớn thế này mà biến thành than trở lại thì phí đi. Nhưng cũng vì tôi đã hứa với anh Misura, nên tôi cương quyết cãi lại với các bạn rằng nhất định sẽ ném cả vào lò sưởi. Lúc đó một người có tiếng là ranh mãnh trong đám bè bạn cười khẩy mà nói rằng:
- Cậu bảo định sẽ biến những tiền vàng này thành than. Còn bọn tớ bảo không muốn thế. Cứ thế này mãi thì chắc là còn cãi nhau chán chả đi đến đâu cả. Vì vậy theo tớ hãy dùng số tiền này làm tiền cọc để cậu với bọn tớ đánh bài nhé.
Nếu cậu thắng thì cậu muốn cho biến thành than trở lại hay làm gì là tùy cậu. Nhưng nếu bọn tớ thắng, thì cậu phải để y nguyên tiền vàng như thế mà đưa cho bọn tớ. Làm như vậy là vừa lòng cả đôi bên, chẳng phải là chúng ta ai cũng hỉ hả hết sao. Tuy thế xong tôi vẫn lắc đầu, không dễ gì mà chấp thuận đề nghị ấy. Thế nhưng người bạn này lại cười ra vẻ nhạo báng, đôi mắt soi mói hết nhìn tôi lại nhìn sang đống tiền vàng trên bàn.
- Cậu không muốn đánh bài với bọn tớ, đó là vì cậu không muốn bọn tớ lấy mất đống tiền vàng kia chứ gì. Nếu vậy thì như cậu nói, nào là đã vứt bỏ lòng tham để làm phép ảo thuật, nhưng như thế chẳng hoá ra là cái quyết tâm mà cậu đã mất công có được ấy cũng thành ra.. đáng ngờ vực lắm sao!
- Không phải thế, không phải là vì tớ tiếc những đồng tiền vàng này mà định biến nó thành than đâu.
- Nếu vậy thì hãy đánh bài đi!
Sau bao lần cứ bị hỏi dồn như thế mãi, cuối cùng tôi đã bị dồn đến nước phải làm theo lời chúng bạn, thế nào cũng phải dùng món tiền vàng trên bàn làm tiền cọc mà đánh bài với họ. Dĩ nhiên các bạn tôi mừng rơn, liền lấy ra một cỗ bài, ngồi vây quanh chiếc bàn dùng để chơi bài ở góc phòng, hối thúc tôi mau mau lên trong lúc tôi còn đang lưỡng lự.
Thế là tôi không có cách nào khác, đành phải miễn cưỡng đánh bài với chúng bạn một lát. Thế nhưng chẳng hiểu vì sao, chỉ trong đêm ấy thôi, cái thằng tôi ngày thường vốn không phải là đứa giỏi cờ bạc, không ngờ lại cứ thắng tràn. Và lạ lùng thay là tuy lúc đầu tôi chẳng thiết gì cả, ấy thế mà dần dà lại cảm thấy thích thú, chỉ trong vòng chưa đầy mười phút sau, không biết tự lúc nào tôi đã quên hết mọi chuyện, bắt đầu mê mải rút bài.
Bạn bè lúc đầu định bụng sẽ cuỗm sạch của tôi món tiền vàng kia, nên mới bày ra trò đánh bài, vì thế đã đến nước này, bọn họ mỗi lúc một bồn chồn nóng nảy, mặt mày ai nấy tưởng chừng như đang đằng đằng sát khí mê mải vùi đầu vào cuộc đỏ đen. Thế nhưng, mặc cho họ gắng sức quật lại, chẳng những tôi không bị thua một ván nào, mà cuối cùng tôi còn thắng một số tiền lớn tương đương với món tiền vàng dùng làm tiền cọc. Tức thì người bạn có vẻ xấu bụng lúc nẫy, chừng như đã điên tiết, sừng sộ chìa cỗ bài ra trước mặt tôi, bảo:
- Nào ! Rút bài đi nào ! Tớ đặt hết tất cả tài sản của tớ đấy. Cả đất, cả nhà, cả ngựa, cả xe ... đặt tất, không chừa một thứ nào. Ngược lại, ngoài món tiền vàng này cậu cũng phải đặt tất cả chỗ tiền mà cậu vừa thắng đựơc. Nào rút bài đi !
Chỉ trong một sát na này lòng tham của tôi chợt nổi lên. Không chỉ món tiền vàng chất thành đống trên bàn kia, mà ngay cả số tiền tôi đã may mắn thắng được ấy, tôi không thể chỉ vì rủi ro trong lần này mà cuối cùng để cho đối thủ là các bạn tôi lấy mất. Chẳng những thế, mà chỉ cần thắng một lần này nữa thôi, tôi sẽ có được trong tay tất cả tài sản của đối phương. Nếu không đem phép ảo thuật ra dùng vào lúc này thì ai hoài công đi tìm thầy học phép ảo thuật để làm gì chứ nhỉ. Nghĩ vậy tôi bồn chồn nóng nảy, vội vừa lén dùng phép ảo thuật, vừa hùng hổ nói như thể sắp xông vào so kiếm tỉ thí.
- Được ! Thì cậu hãy rút bài trước đi.
- Lá chín.
- Ông già!
Tôi đắc thắng hô to, tay chìa lá bài vừa rút ra trước mặt đối thủ mặt mày đang xanh mét. Tức thì lạ lùng thay, ông già trong lá bài như thể có hồn, ngửng cái đầu có đội vưong miện lên, thoắt một cái đã từ trong lá bài bước ra, tay vẫn cầm gươm nghiêm chỉnh như trong hình, nhếch mép mỉm cười đến rợn người, thốt lên lời bằng một giọng nói mà tôi đã từng có lần nghe rồi.
- Vú già, vú già ơi, ông khách về bây giờ, vú không phải dọn giường ngủ cho khách nữa đâu nhé.
Mới đó mà không hiểu sao tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ bỗng lại bắt đầu nghe như tiếng mưa rì rào buồn bã trong bụi trúc ở Ômôri. Định thần nhìn quanh, hoá ra tôi vẫn còn ngồi đối diện với anh Misura, trong ánh đèn mờ tối của ngọn đèn dầu lửa, anh đang nhếch mép mỉm cười giống hệt như ông già trong lá bài.
Tàn thuốc của điếu xì gà mà tôi đang kẹp trên tay vẫn còn chưa kịp rơi xuống đất, hoá ra một tháng trời mà tôi tưởng vừa trôi qua chỉ mới dài chừng vài ba phút, chắc chỉ là một giấc mộng thôi. Nhưng chỉ trong một thoáng vài ba phút ngắn ngủi ấy, cả tôi lẫn anh Misura đều đã nhận ra một điều là, con người như tôi không đủ tư cách để học phép ảo thuật của Hassan Kan. Tôi ngượng ngùng cứ cúi gầm mặt xuống, mãi một lúc lâu sau vẫn không nói được một lời nào.
- Muốn dùng phép ảo thuật của tôi thì trước hết phải vứt bỏ lòng tham. Ông còn chưa tu tập được ngay cả điều đó.
Anh Misura chống khuỷu tay lên chiếc khăn bàn có dệt hình hoa màu đỏ ở đường viền nhìn tôi ra chiều ái ngại, khẽ quở trách tôi như vậy.
Majutsu
#149
Gửi vào 28/06/2011 - 07:25
BÓNG MA TRÔI THEO TÀU
Vào tháng Giêng năm 1925, một chiếc tàu dầu mang tên Watertown đang xẻ sóng vượt Thái Bình Dương để đến kênh đào Panama. Khi ấy, trên tàu đang có một buổi thủy táng. Chiếc tàu đang đi với tốc độ chậm để buổi lễ được tiến hành tiễn đưa hai thủy thủ đoàn tên là James Courtney và Michael Meehan. Họ đã ngửi phải mùi ga độc trong lúc đang lau chùi các thùng hàng cargo trên tàu, và họ đã bị chết ngạt.
Thuyền trưởng và tất cả thủy thủ đoàn đều có mặt trên boong tàu để làm lễ tiễn đưa hai người bạn vừa ra đi. Viên thuyền trưởng đọc những lời cầu nguyện cuối cùng dành cho người quá cố, rồi sau đó hạ lệnh cho hai người thủy thủ khác của mình thả thân xác của những người bạn đồng nghiệp bất hạnh xuống nước. Hai người thủy thủ kính cẩn thả xác bạn mình mà trước đó đã được tẩm liệm một cách cẩn thận trong những tấm vải buồm chắc chắn xuống biển. Hai vạt nước bắn toé lên đánh dấu sự ra đi vĩnh viễn của hai người thủy thủ dưới lòng đại dương.
Sau buổi thủy táng, tất cả thủy thủ đoàn đều trở lại với công việc thường lệ của mình. Khắp tàu, những lời tiếc thương cho người bạc mệnh cũng có, mà cảm thông cũng có. Những chuyện hiểm nguy xảy ra trên biển là thường, và mỗi người thủy thủ đều biết và chấp nhận những điều không may có thể xảy đến với mình. Vài ngày sau buổi lễ an táng, vài người thủy thủ của đoàn đến gặp viên thuyền trưởng để kể lại một sự việc lạ lùng.
- Thưa thuyền trưởng, đó là Courtney và Meehan. Họ đang theo tàu chúng ta. Tất cả chúng tôi đều nhìn thấy. Cứ mỗi chiều hoàng hôn chạng vạng là chúng tôi đều thấy họ. Họ bơi theo tàu chúng ta.
Một người thủy thủ kể lại với giọng hơi ngập ngừng pha chút sợ sệt. Viên thuyền trưởng nhìn những người thủy thủ của mình một hồi, rồi phá lên cười. Rõ ràng là những người thủy thủ này đã để cho trí tưởng tượng của họ đi quá xa. Ông nói với họ như vậy. Sau đó, những người thủy thủ rời khỏi cabin của vị thuyền trưởng và cảm thấy mình hơi ngớ ngẩn đôi chút. Biết đâu vị thuyền trưởng của mình nói đúng thì sao. Họ nghĩ thầm như vậy và nhún vai, có thể mình đã nhìn lầm.
Nhưng những ghi nhận của thủy thủ đoàn về hai bóng ma trên biển ngày càng tăng. Tất cả các bản báo cáo đều giống nhau. Những bóng ma chỉ có thể thấy được cách tàu khoảng chừng hơn hai mươi mét (25 yard Mỹ) và ngay bên hông của tàu nơi mà họ được thả xuống trong buổi lễ thủy táng. Hai cái đầu nổi nhấp nhô trên mặt nước khi ẩn khi hiện trên làn sóng biển được nhiều người trên tàu nhìn thấy cùng một lúc. Mọi người đều đồng ý cho rằng dường như hai bóng ma ấy đang bơi theo tàu.
Sau khi nhiều vị sĩ quan trên tàu nhìn thấy những bóng ma, viên thuyền trưởng phải bắt buộc chú ý đến và hành động. Khi con tàu Watertown đậu lại ở New Orleans, viên thuyền trưởng liền báo cho những sở hữu chủ của chiếc tàu hay về sự việc ấy. Vị chỉ huy trưởng của công ty sở hữu của chiếc tàu hiếu kỳ vì câu chuyện nên liền gọi viên thuyền phó của chiếc Watertown đến. Ông ta đưa cho viên thuyền phó một chiếc máy chụp hình và một cuộn phim mới đã được niêm phong kỹ càng và dặn dò phải cất cẩn thận và nhớ đưa tận tay cho viên thuyền trưởng của tàu. Khi cần đến, viên thuyền trưởng sẽ lấy ra để chụp những bóng ma kia nếu như chúng xuất hiện lần nữa.
Sau đó con tàu Watertown hoàn thành công việc ở cảng New Orleans, nó phải đi qua kinh đào Panama, và hướng về Thái Bình Dương một lần nữa. Khi chiếc tàu dầu đến gần điểm mà James Courtney và Michael Meehan được chôn, những bản báo cáo về các bóng ma kia lại tăng dần. Cho đến lúc này viên thuyền trưởng vẫn chưa chứng kiến tận mắt những hình thù mà thủy thủ đoàn của ông cho là những bóng ma. Một buổi chiều, viên thuyền trưởng liền xé dấu niêm phong của cuộn phim và bỏ vào trong máy camera. Ông đi đến cạnh sườn tàu, chờ đợi để được thấy bóng dáng của những con ma biết bơi kia.
Một hồi lâu đợi chờ cũng chẳng có gì xảy ra. Khi ấy, hoàng hôn đã bắt đầu buông xuống và hai cái đầu ma quái lại xuất hiện trên làn sóng! Với hai bàn tay run rẩy, viên thuyền trưởng cố gắng bấm thật nhanh sáu "pô" hình của hai bóng ma kia. Sau đó ông đem chiếc máy ảnh về phòng riêng của mình và khóa lại trong ngăn bàn của mình, nơi mà chiếc máy ảnh còn nằm nguyên vẹn trong ấy suốt cuộc hành trình cho đến khi con tàu trở lại cảng New Orleans.
Vừa đến nơi, viên thuyền trưởng liền trao chiếc máy ảnh cho công ty sở hữu của tàu. Công ty này đưa cuộn phim cho một người thợ chụp hình thương mại để rửa. Người thợ chụp ảnh này hoàn toàn không biết gì về câu chuyện lạ. Khi cuộn phim được rửa xong và những tấm phim được nghiên cứu kỹ lưỡng. Năm trong số sáu tấm phim chẳng có gì lạ ngoài cảnh chụp nước biển. Nhưng tấm phim thứ sáu rõ ràng cho thấy hai cái hình đầu người hơi nhạt đang nổi bồng bềnh trên con sóng!
Công ty sở hữu của chiếc tàu liền bảo người thợ chụp ảnh phóng lớn tấm hình từ tấm phim thứ sáu ra. Khi tấm hình được phóng cỡ lớn xong, hai khuôn mặt của hai người thủy thủ đã chết đang nổi trên mặt nước như thể hai người đàn ông đang bơi trên biển! Mọi người đều biết rằng điều này không thể nào xảy ra. Hai người đàn ông đã chết và được thủy táng cách đây đã mấy tuần lễ. Nhưng không ai có thể bàn cãi được tấm hình bằng chứng kia.
Chẳng có người nào có thể đưa ra một lời giải thích thật thỏa đáng. Nếu như mấy cái xác có còn nổi trên mặt nước, như một người đưa ra ý kiến, hai cái xác ấy cũng sẽ bị dòng đại dương đưa đi nơi khác. Chúng đâu thể nào bám theo tàu ngày này qua ngày kia được như thể là chúng giữ một khoảng cách và tốc độ với con tàu. Và chúng còn được bó chặt trong nhiều bọc vải buồm nữa. Còn nếu như mấy cái xác vì lý do nào đó mà tuột ra khỏi mấy lớp vải bọc chắn chắn kia đi nữa, chúng cũng không thể nào nổi bồng bềnh với chỉ hai cái đầu ló lên khỏi mặt nước! Khi một xác chết nổi trong nước, toàn bộ cơ thể của cái xác sẽ trải dài ra và nhìn giống như một cái xác người chết trôi.
Công ty sở hữu của chiếc Watertown có hỏi ý kiến của một vị bác sĩ người Mỹ chuyên nghiên cứu về tâm linh học và những hiện tượng lạ rất nổi tiếng thời bấy giờ, Dr. Hereward Carrington. Sau khi xem xét kỹ lưỡng các tấm hình, bác sĩ Carrington xác nhận rằng một hiện tượng siêu nhiên đã xảy ra. Ông ta còn thêm rằng: "Không có thể nghi ngờ một trong hai khuôn mặt là một chân dung thật sự của một trong những người đàn ông đã chết."
Công ty sở hữu của chiếc tàu dầu đã rất tự hào về sự việc trên? Công ty này đã cho in một tấm ảnh thật lớn hơn nữa và tấm ảnh có một thời gian được trưng bày ở các văn phòng Cities Services offices (tên của công ty của tàu dầu Watertown) tại Nữu Ước, địa chỉ 70 Pine Street, New York. Cho đến nay vẫn không có ai có thể giải thích được hiện tượng lạ lùng đó.
ST
Vào tháng Giêng năm 1925, một chiếc tàu dầu mang tên Watertown đang xẻ sóng vượt Thái Bình Dương để đến kênh đào Panama. Khi ấy, trên tàu đang có một buổi thủy táng. Chiếc tàu đang đi với tốc độ chậm để buổi lễ được tiến hành tiễn đưa hai thủy thủ đoàn tên là James Courtney và Michael Meehan. Họ đã ngửi phải mùi ga độc trong lúc đang lau chùi các thùng hàng cargo trên tàu, và họ đã bị chết ngạt.
Thuyền trưởng và tất cả thủy thủ đoàn đều có mặt trên boong tàu để làm lễ tiễn đưa hai người bạn vừa ra đi. Viên thuyền trưởng đọc những lời cầu nguyện cuối cùng dành cho người quá cố, rồi sau đó hạ lệnh cho hai người thủy thủ khác của mình thả thân xác của những người bạn đồng nghiệp bất hạnh xuống nước. Hai người thủy thủ kính cẩn thả xác bạn mình mà trước đó đã được tẩm liệm một cách cẩn thận trong những tấm vải buồm chắc chắn xuống biển. Hai vạt nước bắn toé lên đánh dấu sự ra đi vĩnh viễn của hai người thủy thủ dưới lòng đại dương.
Sau buổi thủy táng, tất cả thủy thủ đoàn đều trở lại với công việc thường lệ của mình. Khắp tàu, những lời tiếc thương cho người bạc mệnh cũng có, mà cảm thông cũng có. Những chuyện hiểm nguy xảy ra trên biển là thường, và mỗi người thủy thủ đều biết và chấp nhận những điều không may có thể xảy đến với mình. Vài ngày sau buổi lễ an táng, vài người thủy thủ của đoàn đến gặp viên thuyền trưởng để kể lại một sự việc lạ lùng.
- Thưa thuyền trưởng, đó là Courtney và Meehan. Họ đang theo tàu chúng ta. Tất cả chúng tôi đều nhìn thấy. Cứ mỗi chiều hoàng hôn chạng vạng là chúng tôi đều thấy họ. Họ bơi theo tàu chúng ta.
Một người thủy thủ kể lại với giọng hơi ngập ngừng pha chút sợ sệt. Viên thuyền trưởng nhìn những người thủy thủ của mình một hồi, rồi phá lên cười. Rõ ràng là những người thủy thủ này đã để cho trí tưởng tượng của họ đi quá xa. Ông nói với họ như vậy. Sau đó, những người thủy thủ rời khỏi cabin của vị thuyền trưởng và cảm thấy mình hơi ngớ ngẩn đôi chút. Biết đâu vị thuyền trưởng của mình nói đúng thì sao. Họ nghĩ thầm như vậy và nhún vai, có thể mình đã nhìn lầm.
Nhưng những ghi nhận của thủy thủ đoàn về hai bóng ma trên biển ngày càng tăng. Tất cả các bản báo cáo đều giống nhau. Những bóng ma chỉ có thể thấy được cách tàu khoảng chừng hơn hai mươi mét (25 yard Mỹ) và ngay bên hông của tàu nơi mà họ được thả xuống trong buổi lễ thủy táng. Hai cái đầu nổi nhấp nhô trên mặt nước khi ẩn khi hiện trên làn sóng biển được nhiều người trên tàu nhìn thấy cùng một lúc. Mọi người đều đồng ý cho rằng dường như hai bóng ma ấy đang bơi theo tàu.
Sau khi nhiều vị sĩ quan trên tàu nhìn thấy những bóng ma, viên thuyền trưởng phải bắt buộc chú ý đến và hành động. Khi con tàu Watertown đậu lại ở New Orleans, viên thuyền trưởng liền báo cho những sở hữu chủ của chiếc tàu hay về sự việc ấy. Vị chỉ huy trưởng của công ty sở hữu của chiếc tàu hiếu kỳ vì câu chuyện nên liền gọi viên thuyền phó của chiếc Watertown đến. Ông ta đưa cho viên thuyền phó một chiếc máy chụp hình và một cuộn phim mới đã được niêm phong kỹ càng và dặn dò phải cất cẩn thận và nhớ đưa tận tay cho viên thuyền trưởng của tàu. Khi cần đến, viên thuyền trưởng sẽ lấy ra để chụp những bóng ma kia nếu như chúng xuất hiện lần nữa.
Sau đó con tàu Watertown hoàn thành công việc ở cảng New Orleans, nó phải đi qua kinh đào Panama, và hướng về Thái Bình Dương một lần nữa. Khi chiếc tàu dầu đến gần điểm mà James Courtney và Michael Meehan được chôn, những bản báo cáo về các bóng ma kia lại tăng dần. Cho đến lúc này viên thuyền trưởng vẫn chưa chứng kiến tận mắt những hình thù mà thủy thủ đoàn của ông cho là những bóng ma. Một buổi chiều, viên thuyền trưởng liền xé dấu niêm phong của cuộn phim và bỏ vào trong máy camera. Ông đi đến cạnh sườn tàu, chờ đợi để được thấy bóng dáng của những con ma biết bơi kia.
Một hồi lâu đợi chờ cũng chẳng có gì xảy ra. Khi ấy, hoàng hôn đã bắt đầu buông xuống và hai cái đầu ma quái lại xuất hiện trên làn sóng! Với hai bàn tay run rẩy, viên thuyền trưởng cố gắng bấm thật nhanh sáu "pô" hình của hai bóng ma kia. Sau đó ông đem chiếc máy ảnh về phòng riêng của mình và khóa lại trong ngăn bàn của mình, nơi mà chiếc máy ảnh còn nằm nguyên vẹn trong ấy suốt cuộc hành trình cho đến khi con tàu trở lại cảng New Orleans.
Vừa đến nơi, viên thuyền trưởng liền trao chiếc máy ảnh cho công ty sở hữu của tàu. Công ty này đưa cuộn phim cho một người thợ chụp hình thương mại để rửa. Người thợ chụp ảnh này hoàn toàn không biết gì về câu chuyện lạ. Khi cuộn phim được rửa xong và những tấm phim được nghiên cứu kỹ lưỡng. Năm trong số sáu tấm phim chẳng có gì lạ ngoài cảnh chụp nước biển. Nhưng tấm phim thứ sáu rõ ràng cho thấy hai cái hình đầu người hơi nhạt đang nổi bồng bềnh trên con sóng!
Công ty sở hữu của chiếc tàu liền bảo người thợ chụp ảnh phóng lớn tấm hình từ tấm phim thứ sáu ra. Khi tấm hình được phóng cỡ lớn xong, hai khuôn mặt của hai người thủy thủ đã chết đang nổi trên mặt nước như thể hai người đàn ông đang bơi trên biển! Mọi người đều biết rằng điều này không thể nào xảy ra. Hai người đàn ông đã chết và được thủy táng cách đây đã mấy tuần lễ. Nhưng không ai có thể bàn cãi được tấm hình bằng chứng kia.
Chẳng có người nào có thể đưa ra một lời giải thích thật thỏa đáng. Nếu như mấy cái xác có còn nổi trên mặt nước, như một người đưa ra ý kiến, hai cái xác ấy cũng sẽ bị dòng đại dương đưa đi nơi khác. Chúng đâu thể nào bám theo tàu ngày này qua ngày kia được như thể là chúng giữ một khoảng cách và tốc độ với con tàu. Và chúng còn được bó chặt trong nhiều bọc vải buồm nữa. Còn nếu như mấy cái xác vì lý do nào đó mà tuột ra khỏi mấy lớp vải bọc chắn chắn kia đi nữa, chúng cũng không thể nào nổi bồng bềnh với chỉ hai cái đầu ló lên khỏi mặt nước! Khi một xác chết nổi trong nước, toàn bộ cơ thể của cái xác sẽ trải dài ra và nhìn giống như một cái xác người chết trôi.
Công ty sở hữu của chiếc Watertown có hỏi ý kiến của một vị bác sĩ người Mỹ chuyên nghiên cứu về tâm linh học và những hiện tượng lạ rất nổi tiếng thời bấy giờ, Dr. Hereward Carrington. Sau khi xem xét kỹ lưỡng các tấm hình, bác sĩ Carrington xác nhận rằng một hiện tượng siêu nhiên đã xảy ra. Ông ta còn thêm rằng: "Không có thể nghi ngờ một trong hai khuôn mặt là một chân dung thật sự của một trong những người đàn ông đã chết."
Công ty sở hữu của chiếc tàu dầu đã rất tự hào về sự việc trên? Công ty này đã cho in một tấm ảnh thật lớn hơn nữa và tấm ảnh có một thời gian được trưng bày ở các văn phòng Cities Services offices (tên của công ty của tàu dầu Watertown) tại Nữu Ước, địa chỉ 70 Pine Street, New York. Cho đến nay vẫn không có ai có thể giải thích được hiện tượng lạ lùng đó.
ST
#150
Gửi vào 28/06/2011 - 08:04
GIAI THOẠI ĐỂ MỒ RỒI ĐỘNG MẢ
Danh gia là do mồ mả kết thành danh gia, hay vì động mả (triệt) nên cho biết gia thế nguyên thuộc hàng dòng dõi? Điều nào trước chuyện nào sau? Nhưng thất truyền và thất tán (trước khi cải táng mả sau này kết) thì đúng theo lời của ông Nội cho Bố tôi biết. Một ông Bác chết được người qua đường thương tình dập vùi bên đường. Và thuở nhỏ ông Nội và Mẹ sống nghèo hèn dưới gầm cầu. Họ hàng còn lại xa cách ít liên lạc gặp gỡ, nên khi phải có giấy tờ cho ông Nội và Bố tôi, thì lấy họ Trần.
Trong lúc ông Bác Trưởng tộc là anh họ của Bố tôi lại mang họ Phạm, cũng nghèo khó nhưng khôn lanh và mang chí tiến thủ: Đi học với độc một bộ quần áo. Đánh đáo lỗ ăn tiền rất giỏi để lấy tiền mua sách học. Bà Cụ cố mẹ của ông tôi rất ngoan đạo tay thường lần tràng hạt. Ông kể thế, tự ái cao và lương thiện vì đã có lần từ chối không nhận một khúc vải do một kẻ cắp từ ái dấu mặt ban đêm ném cho.
Hai mẹ con cố gắng vươn lên để đến mức sau này, ông Nội làm nghề đổ đồng cho "chóp nón" mua được một căn nhà 2 x 30 m tại phố Hàng Nón Hà Nội và về làng Hà Đông mua chức Lý trưởng, được người làng gọi danh là cụ Lý Chóp. Sao lại cùng cực và họ hàng phân tán như thế? Ông không cho Bố tôi biết nhưng nhấn mạnh: tính thiện hảo chịu làm chịu khó, như là Nếp Nhà con cháu phải biết mà noi theo, là nguyên nhân dẫn đến chuyện Ông Thầy Địa Lý thương tình để mồ mả cho.
Thầy Địa Lý người xứ Nghệ có tên là Dê. Vẫn theo ông Nội. Thầy xuất thân gia đình danh giá hiếm con trai, nên lúc ra đời nghe tiếng dê kêu, mẹ ông liền lấy đặt tên cho con, tên xấu hy vọng con sẽ trường thọ. Cậu Dê thông sáng sau mang thêm danh Đầu Xứ vùng Nghệ. Nhưng sau nhiều lần vào Kinh dự thi đều hỏng nửa chừng, nghĩa là không hoàn tất được quyển thi, mỗi lần một cách khác nhau:
Khi thì đau bụng không thể viết bài được, khi lại đánh đổ mực lên quyển vào cuối ngày, lần sau cùng bị " bóng" của một phụ nữ trẻ ôm con dùng tóc xõa quất vào mặt không cho làm bài suốt buổi. Mãn cuộc thi về nhà, hỏi và được hay là oan hồn một người thiếp của bố đã tự vận tìm cách trả vay!
Ông Đầu Xứ Dê quyết định không theo đuổi hoạn lộ nữa mà lang bạt kỳ hồ ra Bắc, để cuối cùng gặp ông Nội chúng tôi. Ông Nội vô học (không phải ít học) sao kết giao được với ông Đầu Xứ? sao kết giao được với người văn học đứng đầu một vùng? trong khi một mẫu tự bẻ làm ba làm bốn mà cũng không xong, nói gì đến chữ Nho, chữ Hán. Bố tôi nói thế khi kể chuyện này.
Thực tế như thường xảy ra với nhiều gia đình nghèo ít học. Từ bé ông Nội có chứng đau bụng "bão", chẵng có thuốc nào làm dịu được cơn đau, ngoài uống sái thuốc phiện. Riết rồi thành ghiền đâm nghiện. Và dân "bẹp" gặp gỡ tại bàn đèn cũng dễ kết giao. Đây là môi trường thuận tiện cho ông Nội tâm sự với Thầy. Ông Nội truyền lại:
- Thầy Cả Dê, thương tình hai mẹ con vất vả mà vẫn còn tính khẳng khái lương thiện nên đã có ý "để mộ" cho thầy. Mà họ hàng mình thất tán nên Mẹ (tức Bà Cố) đã bảo chỉ còn nhớ mộ của một ông bác, không vợ không con dập vùi bên đường. Họ hàng Nhà mình từ xưa nghèo hèn, ít con lại còn hiếm con trai nên thầy đã xin Thầy Cả Dê giúp cho và xương cốt của ông bác chết đường, đã được Thầy Dê đem đi cải táng.
Khoảng một tháng sau, ông Đầu xứ Dê nói với ông Nội:
- Anh chủ tâm để mộ cho hai mẹ con chú nhưng không ngờ lại phát cho Trưởng tộc trước rồi mới đến Thứ sau, thôi chắc thiếu phúc nên không được hưởng ngay, chịu khó vậy. Anh cũng không ngờ ngôi Mộ lại "phản Thầy" tháng sau Anh sẽ chết âu cũng là số mệnh. Ngôi Mộ phát về "Võ" ngành Trưởng sẽ phát đạt liên quan đến Hỏa xa, sẽ đa đinh chớ không thiểu đinh như trước, còn một điều quan trọng chú phải làm ngay, mà phải khéo kẻo không dân làng bên, thuê thầy Địa lý biết được họ sẽ đào mả lên đấy, vì Mộ kết phạm vào long mạch sẽ làm cho làng bị cháy. Đắc địa sau cho mộ đã cũ chôn cất từ lâu.
Rồi Ông Đầu Xứ đột nhiên bị bạo bệnh, qua đời đúng một tháng sau. Tiếp đến làng kế bên mộ cũng vô cớ bị cháy.
Thời gian qua. Ngôi mộ dần dần kết phát võ và đa đinh, ông Nội chúng tôi đinh ninh như thế. Nhưng Thứ thì phải chờ hưởng sau. Cứ chịu khó năng nhặt chặt bị, dần dà lấy vợ chỉ sinh hai gái. Dành dụm mua được căn nhà rộng ngoài cửa thôi được gần 2m, rồi cứ từ từ nhỏ dần vào trong đến 30m thì chỉ còn không đến 0,4m.
Nhà thót hậu nhiều người kiêng không thèm, nhưng nghèo mà mua được giá thấp là hơn đời rồi. Rồi vợ chết ông tôi tục huyền. Vợ tiếp là Bà Nội chúng tôi cho ra đời độc nhất một cậu con trai.
Bố tôi thuở nhỏ èo uột và mụn nhọt đầy mình nhưng ông Nội cũng cố cho đi học, lấy được bằng Sơ Học Yếu Lược mới thôi. Đem tiền về quê vợ (Bà Nội chúng tôi) Ông mua được chức Lý Trưởng. Ông chắc mẩm, đã bắt đầu mồ mả phát cho Thứ chăng? vì Trưởng tộc đã được phát giàu sang rồi.
Bố tôi nói:
- Vì ốm yếu khi đi học bị bạn bè bắt nạt nên đến tuổi trưởng thành "Tao bắt đầu học Võ Thiếu Lâm".
Trình độ của Bố cũng khá: chẵng hạn đóng cọc xuống đất, bất cứ thế đứng nào cũng chỉ một đá gẫy cọc. Trong nhóm cũng có một chú tiểu sở trường về ném "ám khí" tức giả vờ quay mình chạy ném lại ra sau "một hòn bi bằng sắt" vào yếu huyệt đối phương. Chú đã một lần bị chó đuổi và đã ném vỡ đầu chết con chó này.
Nhóm tụ tập để cứu nhân độ thế chưa có dịp để làm nên chuyện, mà chỉ lập hội Múa Lân vào mỗi dịp Trung Thu. Thời Bố, Lân được phân chia ngôi thứ: Đàn anh tức xếp sòng, dùng Lân râu bạc, thứ đến mới đến các chú râu đỏ, đen.
Những khu phố nhà giàu, lũ đàn em chớ có héo lánh tới mà ăn mã tấu. Vì thế mà có năm ngôi vị chưa ngã ngũ, có nhóm Lân khiêng theo cả quan tài để nếu cần ăn thua thì ăn thua đủ. Bố tôi khoe:
- Có lần tao múa đầu Lân trước nhà cô Bé Tí được Bà khen thưởng sáu đồng, thời đó lương thợ nhà in Tân Tân chỉ có ba đồng một tháng, vì mọi người vỗ tay tán thưởng, múa đẹp lại còn thoát được nhiều đường côn ác hiểm trong gang tấc. Vậy mà khi gặp con một chủ tiệm chụp ảnh giàu có, võ sĩ quyền anh Mai văn Ngọ. Bố đã bị vần thành cái giẻ rách.
Bố nói:
- Thượng đài luật quyền anh thì không được đá, lại thường không luyện tập chịu đòn ở mặt, cũng như di chuyển đầu để né đòn, do đó tao bỏ Thiếu Lâm chuyển sang học bốc.
Bác Ngọ tôi đã gặp đôi lần, đã từng giữ chức "Vô Địch Quyền Anh Hạng Nặng Đông Dương" một thời gian, tôi không nhớ năm nào. Xin tạm ngưng chuyện về Bố mà chuyển sang ông Bác Trưởng Tộc, người dùng tài đánh đáo lỗ, lấy tiền mua sách học. Bác nuôi chí tiến thủ nên thường lân la làm quen các ông Tây, tình cờ và đã gặp một người luống tuổi hỏi:
- Nếu chịu đi xa thì có việc làm.
Được Mẹ đồng ý bác đã theo người này sang Tàu Vân Nam, làm tùy phái văn phòng cho đồn điền ông đang trông nom. Người Pháp này theo dõi ngầm bác tôi nhiều ngày, sau cùng chất vấn:
- Tại sao hết giờ làm mọi người ra về, riêng mày về muộn sau, lại còn lục lọi giấy tờ nữa, tính chuyện ăn cắp hay sao?.
Khi hiểu là vì hiếu học, ông đã cất nhắc bác làm thư ký phụ rồi thư ký riêng và tận tâm hướng dẫn dạy bảo nhiều điều. Khi ông về hưu chức đại diện công ty đã truyền lại cho ông bác chúng tôi. Từ thế đứng cao này bác đã hoạt động thêm về kinh doanh và đã trúng một vụ thầu cung cấp một loại dịch vụ cho ngành Hoả Xa Vân Nam.
Lời tiên đoán của Thầy Cả Dê đã đúng quá cụ thể. Kinh doanh gặp thời thì phát như diều gặp gió. Của cải ra sao, gia đình chúng tôi không ước lượng được, nhưng có một loại thước đo quy ước là: Nhà có ba xe tay kéo, một chỉ riêng cho bác gái đi chợ, hai chiếc kia đưa đón cô gái cả và cô kế đi học và đi chơi, tám, chín gia nhân khác hầu hạ mọi việc.
Bác trai không ăn chơi mà tìm đón và nuôi thầy dạy võ nghệ trong nhà, như một số gia đình thế tộc danh gia. Thầy dạy võ là một người Tàu trung niên, người tầm thước nhân dáng không có gì đặc biệt, chưa hề đề cập với ai chuyện thân nhân và vợ con của mình.
Bác tôi tính nóng nảy, dễ thượng cẳng chân hạ cẳng tay với người, nhưng đã bị thầy bắt tuân thủ kính vợ như nhu nhu, cùng đôi điều riêng được thầy dặn như sau :
- Hễ đột nhiên ông yên lặng thì không được hỏi, nếu ông trừng mắt thì phải lảng đi xa, càng xa và càng lâu càng tốt.
- Lâu lâu thầy bỏ đi khi đôi ngày khi nhiều ngày, không được thắc mắc hỏi han khi thầy về.
Điều lệ có vẻ giản dị nhưng thật sự không đơn giản. Ông thầy Tàu đang cư xử bình thường, đột nhiên nghiến răng trèo trẹo, mắt ngầu đỏ, lâu mau tùy lúc rồi trở lại bình thường. Thường thì ngay sau đó ông bảo lấy cho ông một chậu thau, ông tự đổ nước vào, lẩm nhẩm trong miệng rồi bước qua chậu.
Đôi lần ngay sau đó ông bỏ đi nhiều ngày. Và hai, ba ngày kế liền có người lạ đến hỏi. Được dặn dò kỹ lưỡng từ trước, mọi người đều trả lời không biết. Thầy Tàu không bao giờ hỏi han về tiền bạc, nếu cố nài nỉ ông giữ chút tiền để tiêu vặt thì thoáng vài hôm lại hết mà không thấy ông tiêu pha gì cả. Quần áo cũng vậy. Bác gái mới may hay mua cho ông, chỉ đôi ngày lại thấy ông mặc đồ cũ.
Ngủ nghê của thầy Tàu cũng kỳ quặc. Khi có chuyện buộc phải vào phòng riêng của ông thì không thấy ông đâu cả, giường chiếu chăn không xô lệch có vẻ ông ít nằm trên giường. Nhưng một lần lúc nhọ nhem, bác trai tìm quanh quất thì thấy ông Thầy đang ôm ngủ trên kèo nhà. Than "sao Thầy tự hành hạ thân mình làm gì" thì ông viện cớ ngủ trong rừng tránh ác thú ôm cành cây thành thói quen.
Khi trình độ võ nghệ đã khá, Bố tôi không kể rõ sau bao năm, đột nhiên một hôm thầy Tàu bảo bác gái cho nấu một nồi cháo đậu xanh để hai thầy trò luyện võ xong giải lao. Thế luyện như sau: Thầy đang ngồi lúi cúi như trồng hoa chẳng hạn, bác tôi đột nhiên từ đàng sau hoa đao chém sả vào lưng ông Thầy.
Bác tôi từ chối chém trộm như thế vì sợ Thầy tránh né không kịp. Nhưng Thầy quả quyết không sao nên mới dám dạy đệ tử. Bác an lòng. Xuống tấn, vừa tiến bước vừa hoa đao vừa hét:
- Sư phụ, tả...
Nhưng lời chưa ra khỏi miệng thì bác đã bị một cước vào bụng dưới, ngã bật ra sau không gượng dậy được miệng hộc máu đỏ lẫn nhiều cục máu đen. Bác gái thấy vậy kêu trời:
- Thầy giết đệ tử rồi.
Nhưng ông Thầy trấn an:
- Không sao mà. Mừng cho nó mà. Hôm nay Ta giải huyệt cho nó mà. Không thì nó chết mà. Cho nó ăn cháo đi. Đắp chăn cho nó ngủ. Ngủ một giấc dậy là khoẻ ngay mà.
Ngủ một giấc li bì. Ngày hôm sau tỉnh dậy mạnh khoẻ như không có chuyện gì đã xảy ra. Khi đó Thầy mới cho hay: "Ông đã kín đáo điểm huyệt bác nhiều lần trong những lần dạy võ. Nay biết chắc bác không có tâm phản nên mới giải huyệt như trên, nếu không bác sẽ chết."
Về sau khi Thầy Trò từ biệt, ông đã tặng bác một đôi dao găm và nói:
- Đây là vũ khí Thầy đã dùng giết nhiều người, trong đó có tám đệ tử. Vì chúng đã tưởng "giỏi hơn thầy", có tên còn toan tính ám sát thầy nên Thầy phải giết để tránh hậu họa cho Võ Lâm.
Đôi dao trông rất bình thường, nhưng nếu cầm nghiêng soi lên ánh trăng...chỉ ánh trăng thôi, tự nhiên như có những...giọt máu chảy từ chuôi xuống. Bác tôi vì sợ đã vứt xuống một hồ trên đường từ Vân Nam về Việt Nam.
Ông Thầy cũng cho bác một chiếc vòng ngọc, ông thường xuyên đeo ở cổ tay, cắt nghĩa nguyên do của vết rạn trên vòng:
"Nó đã cứu mạng Thầy khi giao đấu với công tử con của Tổng Đốc Vân Nam. Tên này giỏi võ lắm nổi danh đòn song cước, sau khi đánh bại nhiều cao thủ, lại ngạo nghễ thách thức cả giới giang hồ, các sư thúc, sư bá khuyên thầy đừng để tâm. Nhưng thầy quyết dạy cho người dám đụng tới giới Giang Hồ một bài học, nên đăng đàn tỉ thí riêng, dù đã đề phòng, thầy đã bị đá văng từ lầu ba xuống đất, thì chính vòng này đã cứu mạng, để lại một dấu tích rạn nứt. Leo lại lên lầu "bó cặp chân của nó", thầy đánh chết tên công tử...tại chỗ."
Bác tôi nhớ đọc báo trước đây có cáo thị kèm giải thưởng lớn, truy tìm thủ phạm đã ám sát quý tử của Tổng Đốc Vân Nam, không ngờ người đó chính là thầy dạy mình võ bao năm. Cũng đã được Bác cho xem chiếc vòng, Bố tôi nhận xét: Một chiếc vòng đeo tay bằng cẩm thạch có đường rạn nứt vòng quanh, khiến nó trở thành vô giá trị? Tưởng cũng nhân dịp nêu ở đây về môn phái. Bố tôi học thiên về quyền tay, có học đá cao nhưng khi giao đấu ít xử dụng, mà chỉ đá đâm hoặc đá quét, vì "mãnh hổ bất ly sơn" môn phái của Bác tôi là Hầu Quyền.
Trở lại chuyện ông Bác với Thầy Tàu. Sau chuyện giải huyệt tình thầy trò thắm thiết tin cậy hơn và một lần chỉ một lần độc nhất. Bác được Thầy dẫn vào một khu rừng, đi khá lâu đến một khoảng trống, thì thấy một số người Tàu khác đã tụ tập đang trò chuyện. Có hai nữ tất cả khoảng trung đến luống tuổi mà Thầy giới thiệu là các sư huynh, muội và sư bá. Câu chuyện của họ xoay quanh về Võ nghệ, trao đổi những kinh nghiệm đã giao đấu với các cao thủ trên đường "Thế Thiên Hành Hiệp".
Dạy nhau các Thế Đòn mới, uống rượu ăn thịt trâu? luộc chấm muối để trên lá rừng và hút thuốc phiện. Một người nữ có vẻ gầy gò khắc khổ, trong lúc nằm hút đã vẫy tay gọi bác lại gần nói:
- Tiểu tử lại đây. Nghe huynh khoe có đệ tử trung thành và giỏi, ta thử con học đến đâu? này ta cầm hộp (cóng đựng thuốc phiện) bằng hai ngón tay thôi con lấy ra đi.
Bác tôi xuống tấn vận nội công, lúc đầu bằng một tay rồi với cả hai tay nhưng vô hiệu. Mọi người cười ồ. Sau này Bác nói với Bố tôi:
- Nghe câu chuyện trao đổi thì hiểu họ là nhóm người chuyên cướp của người giàu gian ác, rồi chia lại cho người nghèo. Trong những năm kháng Nhật, báo chí Vân Nam có đề cập đến một Thủ lãnh tên Lý hay Lê? Hồng Chương đã lãnh đạo Nghĩa Quân gây cho các binh đội Nhật nhiều tổn thất đáng kể.
Lý hồng Chương là tên của Thầy Tàu đã dạy bác võ nghệ trong nhiều năm. Công việc và làm ăn của Bác phát triển theo lũy thừa tiến. Có thế lực lại quen rộng Bác lấn thêm bước: Tìm món ăn lạ nghĩa là mua sẵn lá gan của người tử tội, ngày hành hình thỏa mãn cho họ ước muốn cuối cùng, thường không gì cao giá mà chỉ một bữa ăn sang là được. Bác khoe với bố tôi: gan người ăn ngon lắm.
Nay vợ con đã rời về Hà Nội, cơ sở bên Tàu người hùn hạp trông coi, Bác đi lại hai nơi. Một lần Bác cũng tức bực kể:
- Việt Nam có Hàn Bái Đường, nổi danh với thế đá cao, anh nằn nì thi tài với họ. Sau cùng họ chịu. Ngay trong chiêu đầu, họ đá sướt rớm máu thái dương anh nhưng cùng lúc anh cũng đấm trúng ngực đối phương.
Bác gái Trưởng thì tiếp tục cho ra đời ba công chúa nữa. Vậy là phát đa đinh nhưng sao vẫn chưa có hoàng tử để nối dòng nối dõi? Bác cùng đi với bố tôi đến đền thờ một vị Thánh linh hiển, cầu xin cho có con trai dù có mất hết sản nghiệp cũng cam. nghe thầm khấn như thế, khi ra khỏi Nhà Thờ bố tôi đã cự:
- Sao anh lại cầu xin thế. Thánh nào bắt anh phải thề thốt như vậy. Về sau Bố tôi đã lấy tên Vị này đặt tên Thánh Bổn Mạng cho tôi. Chi tiết này tôi đưa vào đây có vẻ lạc lõng chăng? Thưa không đâu. Và sau năm con gái cuối cùng cậu út đã chịu ra đời!
Bây giờ Bác Trưởng Tộc mới nghĩ là "Mồ mả" đã phát thật. Bèn hỏi ông Nội chúng tôi nơi chốn ngôi mộ. Ngày xây gạch bao quanh mộ có Bố tôi tham dự, lúc này bố đã có vợ, đã có con trai đầu lòng. Thật khó nhận ra là một mộ chí, mà có vẻ là một gò mối đang đùn. Thợ xây đã phải tìm cách thăm dò.
Xin chuyển sang tiếp tục kể về Bố tôi.
Bố xin được một chân thợ sắp chữ tại nhà in Tân Tân. Có một lần bị máy in kẹp suýt mất một cái đùi. Cũng tập tành (không võ nghệ nữa) mà viết lách đăng báo. Rồi bị sở Cẩm hỏi thăm. Bạn bè khuyên:
- Chỉ có cách vào lính mới thoát.
Thế là bố đăng lính lương thợ từ ba đồng một tháng nay lính được những gần sáu đồng một tháng. Lại an nhàn vì nguyên là võ sĩ quyền anh hạng bét, Bố nói thế. Nên được làm Huấn luyện viên Thể Dục Trường Thiếu Sinh Quân. Lại có bằng Sơ Học sau được cất nhắc đi học lớp Hạ Sĩ Quan. Lại đỗ Thủ Khoa, các khóa sinh thời đó đều xuất thân từ nông dân.
Mẹ tôi có hai con đều là trai được lên chức "Cô Đội". Thời này đối với làng quê lối xóm vinh vang lắm. Vinh vang đấy, Bố tôi nói "nhưng là do sức mình, vì Mả kết đã bị động rồi còn đâu đến Thứ mình?. Số là Khi thợ xây dùng que sắt xâm xuống đất để xác định giới hạn xây. Bố và Bác Trưởng đều nghe một tiếng kịch, đồng thời một luồng khói xanh phụt từ dưới đất lên cao tầm ngực người lớn. Bác Trưởng kêu lớn ngưng ngay, nhưng đã trễ.
Sau đó bác buồn rầu nói với Bố tôi:
- Động mả rồi. Anh được hưởng trước thì sẽ bị hại trước. Chỉ thương cháu trai còn nhỏ. Anh xin chú về sau thay Anh trông nom nó.
Ông Nội chúng tôi năm sau qua đời. Thọ năm mươi sáu tuổi, Kế đến Bố tôi đăng lính để tránh sở Cẩm hoạnh hoẹ. Riêng gia đình bác Trưởng Tộc xuống dần. Bạn bè, người hùn hạp bắt đầu lừa đảo, đất đai, của cải mất dần. Cậy võ giỏi bác Trưởng gái nói ông đi buôn lậu, vàng hay thuốc gì đó. Bác gái cũng góp phần làm cho tán gia bại sản bằng cờ bạc. Chỉ trong vòng năm, ba năm trắng tay.
Bác trai đi buôn chẳng nên cơm cháo gì mà chết trong lao lực. Các cô con gái bắt đầu phải bương chải, tha phương. Cậu con trai độc nhất bình thường. Sau cũng đi lính, sinh một lũ con khoảng mười bốn đứa nheo nhóc.
Riêng về gia đình chúng tôi vẫn sức mình là chính. Con nhà có Đạo trông cậy Bề Trên. Bà Nội thường lưu ý con cháu như thế. Tôi có mười lăm anh chị em, hiện còn tám. Bố Mẹ tôi cũng nuôi dưỡng, dạy dỗ con trai bác Trưởng Tộc và con vợ trước của ông Nội một thời gian ngắn, khi họ từ vùng xôi đậu về Tề.
Và "nhà" chúng tôi không biết từ lúc nào đã trở thành "nơi tụ hội" con cháu khi vui khi buồn. Ngày giỗ ông Nội, mọi người quy tụ cho đến tháng tư 75 mới thôi. Bố Mẹ tôi được các Bác Bề Trên gọi là "anh Cả, chị Cả" và các Anh, Chị họ xưng hô "Chú, Thím".
Có một điều rõ nét là: Mọi gia đình đều đa đinh cả trai lẫn gái, cùng với vận Nước, đàn ông đều đi lính rồi đi tù, rồi cùng cơn giông bão của Trời Đất, các "bông Cỏ May" cũng bay đi tám hướng tha hương Lập Nghiệp.
Trần Sơn
Danh gia là do mồ mả kết thành danh gia, hay vì động mả (triệt) nên cho biết gia thế nguyên thuộc hàng dòng dõi? Điều nào trước chuyện nào sau? Nhưng thất truyền và thất tán (trước khi cải táng mả sau này kết) thì đúng theo lời của ông Nội cho Bố tôi biết. Một ông Bác chết được người qua đường thương tình dập vùi bên đường. Và thuở nhỏ ông Nội và Mẹ sống nghèo hèn dưới gầm cầu. Họ hàng còn lại xa cách ít liên lạc gặp gỡ, nên khi phải có giấy tờ cho ông Nội và Bố tôi, thì lấy họ Trần.
Trong lúc ông Bác Trưởng tộc là anh họ của Bố tôi lại mang họ Phạm, cũng nghèo khó nhưng khôn lanh và mang chí tiến thủ: Đi học với độc một bộ quần áo. Đánh đáo lỗ ăn tiền rất giỏi để lấy tiền mua sách học. Bà Cụ cố mẹ của ông tôi rất ngoan đạo tay thường lần tràng hạt. Ông kể thế, tự ái cao và lương thiện vì đã có lần từ chối không nhận một khúc vải do một kẻ cắp từ ái dấu mặt ban đêm ném cho.
Hai mẹ con cố gắng vươn lên để đến mức sau này, ông Nội làm nghề đổ đồng cho "chóp nón" mua được một căn nhà 2 x 30 m tại phố Hàng Nón Hà Nội và về làng Hà Đông mua chức Lý trưởng, được người làng gọi danh là cụ Lý Chóp. Sao lại cùng cực và họ hàng phân tán như thế? Ông không cho Bố tôi biết nhưng nhấn mạnh: tính thiện hảo chịu làm chịu khó, như là Nếp Nhà con cháu phải biết mà noi theo, là nguyên nhân dẫn đến chuyện Ông Thầy Địa Lý thương tình để mồ mả cho.
Thầy Địa Lý người xứ Nghệ có tên là Dê. Vẫn theo ông Nội. Thầy xuất thân gia đình danh giá hiếm con trai, nên lúc ra đời nghe tiếng dê kêu, mẹ ông liền lấy đặt tên cho con, tên xấu hy vọng con sẽ trường thọ. Cậu Dê thông sáng sau mang thêm danh Đầu Xứ vùng Nghệ. Nhưng sau nhiều lần vào Kinh dự thi đều hỏng nửa chừng, nghĩa là không hoàn tất được quyển thi, mỗi lần một cách khác nhau:
Khi thì đau bụng không thể viết bài được, khi lại đánh đổ mực lên quyển vào cuối ngày, lần sau cùng bị " bóng" của một phụ nữ trẻ ôm con dùng tóc xõa quất vào mặt không cho làm bài suốt buổi. Mãn cuộc thi về nhà, hỏi và được hay là oan hồn một người thiếp của bố đã tự vận tìm cách trả vay!
Ông Đầu Xứ Dê quyết định không theo đuổi hoạn lộ nữa mà lang bạt kỳ hồ ra Bắc, để cuối cùng gặp ông Nội chúng tôi. Ông Nội vô học (không phải ít học) sao kết giao được với ông Đầu Xứ? sao kết giao được với người văn học đứng đầu một vùng? trong khi một mẫu tự bẻ làm ba làm bốn mà cũng không xong, nói gì đến chữ Nho, chữ Hán. Bố tôi nói thế khi kể chuyện này.
Thực tế như thường xảy ra với nhiều gia đình nghèo ít học. Từ bé ông Nội có chứng đau bụng "bão", chẵng có thuốc nào làm dịu được cơn đau, ngoài uống sái thuốc phiện. Riết rồi thành ghiền đâm nghiện. Và dân "bẹp" gặp gỡ tại bàn đèn cũng dễ kết giao. Đây là môi trường thuận tiện cho ông Nội tâm sự với Thầy. Ông Nội truyền lại:
- Thầy Cả Dê, thương tình hai mẹ con vất vả mà vẫn còn tính khẳng khái lương thiện nên đã có ý "để mộ" cho thầy. Mà họ hàng mình thất tán nên Mẹ (tức Bà Cố) đã bảo chỉ còn nhớ mộ của một ông bác, không vợ không con dập vùi bên đường. Họ hàng Nhà mình từ xưa nghèo hèn, ít con lại còn hiếm con trai nên thầy đã xin Thầy Cả Dê giúp cho và xương cốt của ông bác chết đường, đã được Thầy Dê đem đi cải táng.
Khoảng một tháng sau, ông Đầu xứ Dê nói với ông Nội:
- Anh chủ tâm để mộ cho hai mẹ con chú nhưng không ngờ lại phát cho Trưởng tộc trước rồi mới đến Thứ sau, thôi chắc thiếu phúc nên không được hưởng ngay, chịu khó vậy. Anh cũng không ngờ ngôi Mộ lại "phản Thầy" tháng sau Anh sẽ chết âu cũng là số mệnh. Ngôi Mộ phát về "Võ" ngành Trưởng sẽ phát đạt liên quan đến Hỏa xa, sẽ đa đinh chớ không thiểu đinh như trước, còn một điều quan trọng chú phải làm ngay, mà phải khéo kẻo không dân làng bên, thuê thầy Địa lý biết được họ sẽ đào mả lên đấy, vì Mộ kết phạm vào long mạch sẽ làm cho làng bị cháy. Đắc địa sau cho mộ đã cũ chôn cất từ lâu.
Rồi Ông Đầu Xứ đột nhiên bị bạo bệnh, qua đời đúng một tháng sau. Tiếp đến làng kế bên mộ cũng vô cớ bị cháy.
Thời gian qua. Ngôi mộ dần dần kết phát võ và đa đinh, ông Nội chúng tôi đinh ninh như thế. Nhưng Thứ thì phải chờ hưởng sau. Cứ chịu khó năng nhặt chặt bị, dần dà lấy vợ chỉ sinh hai gái. Dành dụm mua được căn nhà rộng ngoài cửa thôi được gần 2m, rồi cứ từ từ nhỏ dần vào trong đến 30m thì chỉ còn không đến 0,4m.
Nhà thót hậu nhiều người kiêng không thèm, nhưng nghèo mà mua được giá thấp là hơn đời rồi. Rồi vợ chết ông tôi tục huyền. Vợ tiếp là Bà Nội chúng tôi cho ra đời độc nhất một cậu con trai.
Bố tôi thuở nhỏ èo uột và mụn nhọt đầy mình nhưng ông Nội cũng cố cho đi học, lấy được bằng Sơ Học Yếu Lược mới thôi. Đem tiền về quê vợ (Bà Nội chúng tôi) Ông mua được chức Lý Trưởng. Ông chắc mẩm, đã bắt đầu mồ mả phát cho Thứ chăng? vì Trưởng tộc đã được phát giàu sang rồi.
Bố tôi nói:
- Vì ốm yếu khi đi học bị bạn bè bắt nạt nên đến tuổi trưởng thành "Tao bắt đầu học Võ Thiếu Lâm".
Trình độ của Bố cũng khá: chẵng hạn đóng cọc xuống đất, bất cứ thế đứng nào cũng chỉ một đá gẫy cọc. Trong nhóm cũng có một chú tiểu sở trường về ném "ám khí" tức giả vờ quay mình chạy ném lại ra sau "một hòn bi bằng sắt" vào yếu huyệt đối phương. Chú đã một lần bị chó đuổi và đã ném vỡ đầu chết con chó này.
Nhóm tụ tập để cứu nhân độ thế chưa có dịp để làm nên chuyện, mà chỉ lập hội Múa Lân vào mỗi dịp Trung Thu. Thời Bố, Lân được phân chia ngôi thứ: Đàn anh tức xếp sòng, dùng Lân râu bạc, thứ đến mới đến các chú râu đỏ, đen.
Những khu phố nhà giàu, lũ đàn em chớ có héo lánh tới mà ăn mã tấu. Vì thế mà có năm ngôi vị chưa ngã ngũ, có nhóm Lân khiêng theo cả quan tài để nếu cần ăn thua thì ăn thua đủ. Bố tôi khoe:
- Có lần tao múa đầu Lân trước nhà cô Bé Tí được Bà khen thưởng sáu đồng, thời đó lương thợ nhà in Tân Tân chỉ có ba đồng một tháng, vì mọi người vỗ tay tán thưởng, múa đẹp lại còn thoát được nhiều đường côn ác hiểm trong gang tấc. Vậy mà khi gặp con một chủ tiệm chụp ảnh giàu có, võ sĩ quyền anh Mai văn Ngọ. Bố đã bị vần thành cái giẻ rách.
Bố nói:
- Thượng đài luật quyền anh thì không được đá, lại thường không luyện tập chịu đòn ở mặt, cũng như di chuyển đầu để né đòn, do đó tao bỏ Thiếu Lâm chuyển sang học bốc.
Bác Ngọ tôi đã gặp đôi lần, đã từng giữ chức "Vô Địch Quyền Anh Hạng Nặng Đông Dương" một thời gian, tôi không nhớ năm nào. Xin tạm ngưng chuyện về Bố mà chuyển sang ông Bác Trưởng Tộc, người dùng tài đánh đáo lỗ, lấy tiền mua sách học. Bác nuôi chí tiến thủ nên thường lân la làm quen các ông Tây, tình cờ và đã gặp một người luống tuổi hỏi:
- Nếu chịu đi xa thì có việc làm.
Được Mẹ đồng ý bác đã theo người này sang Tàu Vân Nam, làm tùy phái văn phòng cho đồn điền ông đang trông nom. Người Pháp này theo dõi ngầm bác tôi nhiều ngày, sau cùng chất vấn:
- Tại sao hết giờ làm mọi người ra về, riêng mày về muộn sau, lại còn lục lọi giấy tờ nữa, tính chuyện ăn cắp hay sao?.
Khi hiểu là vì hiếu học, ông đã cất nhắc bác làm thư ký phụ rồi thư ký riêng và tận tâm hướng dẫn dạy bảo nhiều điều. Khi ông về hưu chức đại diện công ty đã truyền lại cho ông bác chúng tôi. Từ thế đứng cao này bác đã hoạt động thêm về kinh doanh và đã trúng một vụ thầu cung cấp một loại dịch vụ cho ngành Hoả Xa Vân Nam.
Lời tiên đoán của Thầy Cả Dê đã đúng quá cụ thể. Kinh doanh gặp thời thì phát như diều gặp gió. Của cải ra sao, gia đình chúng tôi không ước lượng được, nhưng có một loại thước đo quy ước là: Nhà có ba xe tay kéo, một chỉ riêng cho bác gái đi chợ, hai chiếc kia đưa đón cô gái cả và cô kế đi học và đi chơi, tám, chín gia nhân khác hầu hạ mọi việc.
Bác trai không ăn chơi mà tìm đón và nuôi thầy dạy võ nghệ trong nhà, như một số gia đình thế tộc danh gia. Thầy dạy võ là một người Tàu trung niên, người tầm thước nhân dáng không có gì đặc biệt, chưa hề đề cập với ai chuyện thân nhân và vợ con của mình.
Bác tôi tính nóng nảy, dễ thượng cẳng chân hạ cẳng tay với người, nhưng đã bị thầy bắt tuân thủ kính vợ như nhu nhu, cùng đôi điều riêng được thầy dặn như sau :
- Hễ đột nhiên ông yên lặng thì không được hỏi, nếu ông trừng mắt thì phải lảng đi xa, càng xa và càng lâu càng tốt.
- Lâu lâu thầy bỏ đi khi đôi ngày khi nhiều ngày, không được thắc mắc hỏi han khi thầy về.
Điều lệ có vẻ giản dị nhưng thật sự không đơn giản. Ông thầy Tàu đang cư xử bình thường, đột nhiên nghiến răng trèo trẹo, mắt ngầu đỏ, lâu mau tùy lúc rồi trở lại bình thường. Thường thì ngay sau đó ông bảo lấy cho ông một chậu thau, ông tự đổ nước vào, lẩm nhẩm trong miệng rồi bước qua chậu.
Đôi lần ngay sau đó ông bỏ đi nhiều ngày. Và hai, ba ngày kế liền có người lạ đến hỏi. Được dặn dò kỹ lưỡng từ trước, mọi người đều trả lời không biết. Thầy Tàu không bao giờ hỏi han về tiền bạc, nếu cố nài nỉ ông giữ chút tiền để tiêu vặt thì thoáng vài hôm lại hết mà không thấy ông tiêu pha gì cả. Quần áo cũng vậy. Bác gái mới may hay mua cho ông, chỉ đôi ngày lại thấy ông mặc đồ cũ.
Ngủ nghê của thầy Tàu cũng kỳ quặc. Khi có chuyện buộc phải vào phòng riêng của ông thì không thấy ông đâu cả, giường chiếu chăn không xô lệch có vẻ ông ít nằm trên giường. Nhưng một lần lúc nhọ nhem, bác trai tìm quanh quất thì thấy ông Thầy đang ôm ngủ trên kèo nhà. Than "sao Thầy tự hành hạ thân mình làm gì" thì ông viện cớ ngủ trong rừng tránh ác thú ôm cành cây thành thói quen.
Khi trình độ võ nghệ đã khá, Bố tôi không kể rõ sau bao năm, đột nhiên một hôm thầy Tàu bảo bác gái cho nấu một nồi cháo đậu xanh để hai thầy trò luyện võ xong giải lao. Thế luyện như sau: Thầy đang ngồi lúi cúi như trồng hoa chẳng hạn, bác tôi đột nhiên từ đàng sau hoa đao chém sả vào lưng ông Thầy.
Bác tôi từ chối chém trộm như thế vì sợ Thầy tránh né không kịp. Nhưng Thầy quả quyết không sao nên mới dám dạy đệ tử. Bác an lòng. Xuống tấn, vừa tiến bước vừa hoa đao vừa hét:
- Sư phụ, tả...
Nhưng lời chưa ra khỏi miệng thì bác đã bị một cước vào bụng dưới, ngã bật ra sau không gượng dậy được miệng hộc máu đỏ lẫn nhiều cục máu đen. Bác gái thấy vậy kêu trời:
- Thầy giết đệ tử rồi.
Nhưng ông Thầy trấn an:
- Không sao mà. Mừng cho nó mà. Hôm nay Ta giải huyệt cho nó mà. Không thì nó chết mà. Cho nó ăn cháo đi. Đắp chăn cho nó ngủ. Ngủ một giấc dậy là khoẻ ngay mà.
Ngủ một giấc li bì. Ngày hôm sau tỉnh dậy mạnh khoẻ như không có chuyện gì đã xảy ra. Khi đó Thầy mới cho hay: "Ông đã kín đáo điểm huyệt bác nhiều lần trong những lần dạy võ. Nay biết chắc bác không có tâm phản nên mới giải huyệt như trên, nếu không bác sẽ chết."
Về sau khi Thầy Trò từ biệt, ông đã tặng bác một đôi dao găm và nói:
- Đây là vũ khí Thầy đã dùng giết nhiều người, trong đó có tám đệ tử. Vì chúng đã tưởng "giỏi hơn thầy", có tên còn toan tính ám sát thầy nên Thầy phải giết để tránh hậu họa cho Võ Lâm.
Đôi dao trông rất bình thường, nhưng nếu cầm nghiêng soi lên ánh trăng...chỉ ánh trăng thôi, tự nhiên như có những...giọt máu chảy từ chuôi xuống. Bác tôi vì sợ đã vứt xuống một hồ trên đường từ Vân Nam về Việt Nam.
Ông Thầy cũng cho bác một chiếc vòng ngọc, ông thường xuyên đeo ở cổ tay, cắt nghĩa nguyên do của vết rạn trên vòng:
"Nó đã cứu mạng Thầy khi giao đấu với công tử con của Tổng Đốc Vân Nam. Tên này giỏi võ lắm nổi danh đòn song cước, sau khi đánh bại nhiều cao thủ, lại ngạo nghễ thách thức cả giới giang hồ, các sư thúc, sư bá khuyên thầy đừng để tâm. Nhưng thầy quyết dạy cho người dám đụng tới giới Giang Hồ một bài học, nên đăng đàn tỉ thí riêng, dù đã đề phòng, thầy đã bị đá văng từ lầu ba xuống đất, thì chính vòng này đã cứu mạng, để lại một dấu tích rạn nứt. Leo lại lên lầu "bó cặp chân của nó", thầy đánh chết tên công tử...tại chỗ."
Bác tôi nhớ đọc báo trước đây có cáo thị kèm giải thưởng lớn, truy tìm thủ phạm đã ám sát quý tử của Tổng Đốc Vân Nam, không ngờ người đó chính là thầy dạy mình võ bao năm. Cũng đã được Bác cho xem chiếc vòng, Bố tôi nhận xét: Một chiếc vòng đeo tay bằng cẩm thạch có đường rạn nứt vòng quanh, khiến nó trở thành vô giá trị? Tưởng cũng nhân dịp nêu ở đây về môn phái. Bố tôi học thiên về quyền tay, có học đá cao nhưng khi giao đấu ít xử dụng, mà chỉ đá đâm hoặc đá quét, vì "mãnh hổ bất ly sơn" môn phái của Bác tôi là Hầu Quyền.
Trở lại chuyện ông Bác với Thầy Tàu. Sau chuyện giải huyệt tình thầy trò thắm thiết tin cậy hơn và một lần chỉ một lần độc nhất. Bác được Thầy dẫn vào một khu rừng, đi khá lâu đến một khoảng trống, thì thấy một số người Tàu khác đã tụ tập đang trò chuyện. Có hai nữ tất cả khoảng trung đến luống tuổi mà Thầy giới thiệu là các sư huynh, muội và sư bá. Câu chuyện của họ xoay quanh về Võ nghệ, trao đổi những kinh nghiệm đã giao đấu với các cao thủ trên đường "Thế Thiên Hành Hiệp".
Dạy nhau các Thế Đòn mới, uống rượu ăn thịt trâu? luộc chấm muối để trên lá rừng và hút thuốc phiện. Một người nữ có vẻ gầy gò khắc khổ, trong lúc nằm hút đã vẫy tay gọi bác lại gần nói:
- Tiểu tử lại đây. Nghe huynh khoe có đệ tử trung thành và giỏi, ta thử con học đến đâu? này ta cầm hộp (cóng đựng thuốc phiện) bằng hai ngón tay thôi con lấy ra đi.
Bác tôi xuống tấn vận nội công, lúc đầu bằng một tay rồi với cả hai tay nhưng vô hiệu. Mọi người cười ồ. Sau này Bác nói với Bố tôi:
- Nghe câu chuyện trao đổi thì hiểu họ là nhóm người chuyên cướp của người giàu gian ác, rồi chia lại cho người nghèo. Trong những năm kháng Nhật, báo chí Vân Nam có đề cập đến một Thủ lãnh tên Lý hay Lê? Hồng Chương đã lãnh đạo Nghĩa Quân gây cho các binh đội Nhật nhiều tổn thất đáng kể.
Lý hồng Chương là tên của Thầy Tàu đã dạy bác võ nghệ trong nhiều năm. Công việc và làm ăn của Bác phát triển theo lũy thừa tiến. Có thế lực lại quen rộng Bác lấn thêm bước: Tìm món ăn lạ nghĩa là mua sẵn lá gan của người tử tội, ngày hành hình thỏa mãn cho họ ước muốn cuối cùng, thường không gì cao giá mà chỉ một bữa ăn sang là được. Bác khoe với bố tôi: gan người ăn ngon lắm.
Nay vợ con đã rời về Hà Nội, cơ sở bên Tàu người hùn hạp trông coi, Bác đi lại hai nơi. Một lần Bác cũng tức bực kể:
- Việt Nam có Hàn Bái Đường, nổi danh với thế đá cao, anh nằn nì thi tài với họ. Sau cùng họ chịu. Ngay trong chiêu đầu, họ đá sướt rớm máu thái dương anh nhưng cùng lúc anh cũng đấm trúng ngực đối phương.
Bác gái Trưởng thì tiếp tục cho ra đời ba công chúa nữa. Vậy là phát đa đinh nhưng sao vẫn chưa có hoàng tử để nối dòng nối dõi? Bác cùng đi với bố tôi đến đền thờ một vị Thánh linh hiển, cầu xin cho có con trai dù có mất hết sản nghiệp cũng cam. nghe thầm khấn như thế, khi ra khỏi Nhà Thờ bố tôi đã cự:
- Sao anh lại cầu xin thế. Thánh nào bắt anh phải thề thốt như vậy. Về sau Bố tôi đã lấy tên Vị này đặt tên Thánh Bổn Mạng cho tôi. Chi tiết này tôi đưa vào đây có vẻ lạc lõng chăng? Thưa không đâu. Và sau năm con gái cuối cùng cậu út đã chịu ra đời!
Bây giờ Bác Trưởng Tộc mới nghĩ là "Mồ mả" đã phát thật. Bèn hỏi ông Nội chúng tôi nơi chốn ngôi mộ. Ngày xây gạch bao quanh mộ có Bố tôi tham dự, lúc này bố đã có vợ, đã có con trai đầu lòng. Thật khó nhận ra là một mộ chí, mà có vẻ là một gò mối đang đùn. Thợ xây đã phải tìm cách thăm dò.
Xin chuyển sang tiếp tục kể về Bố tôi.
Bố xin được một chân thợ sắp chữ tại nhà in Tân Tân. Có một lần bị máy in kẹp suýt mất một cái đùi. Cũng tập tành (không võ nghệ nữa) mà viết lách đăng báo. Rồi bị sở Cẩm hỏi thăm. Bạn bè khuyên:
- Chỉ có cách vào lính mới thoát.
Thế là bố đăng lính lương thợ từ ba đồng một tháng nay lính được những gần sáu đồng một tháng. Lại an nhàn vì nguyên là võ sĩ quyền anh hạng bét, Bố nói thế. Nên được làm Huấn luyện viên Thể Dục Trường Thiếu Sinh Quân. Lại có bằng Sơ Học sau được cất nhắc đi học lớp Hạ Sĩ Quan. Lại đỗ Thủ Khoa, các khóa sinh thời đó đều xuất thân từ nông dân.
Mẹ tôi có hai con đều là trai được lên chức "Cô Đội". Thời này đối với làng quê lối xóm vinh vang lắm. Vinh vang đấy, Bố tôi nói "nhưng là do sức mình, vì Mả kết đã bị động rồi còn đâu đến Thứ mình?. Số là Khi thợ xây dùng que sắt xâm xuống đất để xác định giới hạn xây. Bố và Bác Trưởng đều nghe một tiếng kịch, đồng thời một luồng khói xanh phụt từ dưới đất lên cao tầm ngực người lớn. Bác Trưởng kêu lớn ngưng ngay, nhưng đã trễ.
Sau đó bác buồn rầu nói với Bố tôi:
- Động mả rồi. Anh được hưởng trước thì sẽ bị hại trước. Chỉ thương cháu trai còn nhỏ. Anh xin chú về sau thay Anh trông nom nó.
Ông Nội chúng tôi năm sau qua đời. Thọ năm mươi sáu tuổi, Kế đến Bố tôi đăng lính để tránh sở Cẩm hoạnh hoẹ. Riêng gia đình bác Trưởng Tộc xuống dần. Bạn bè, người hùn hạp bắt đầu lừa đảo, đất đai, của cải mất dần. Cậy võ giỏi bác Trưởng gái nói ông đi buôn lậu, vàng hay thuốc gì đó. Bác gái cũng góp phần làm cho tán gia bại sản bằng cờ bạc. Chỉ trong vòng năm, ba năm trắng tay.
Bác trai đi buôn chẳng nên cơm cháo gì mà chết trong lao lực. Các cô con gái bắt đầu phải bương chải, tha phương. Cậu con trai độc nhất bình thường. Sau cũng đi lính, sinh một lũ con khoảng mười bốn đứa nheo nhóc.
Riêng về gia đình chúng tôi vẫn sức mình là chính. Con nhà có Đạo trông cậy Bề Trên. Bà Nội thường lưu ý con cháu như thế. Tôi có mười lăm anh chị em, hiện còn tám. Bố Mẹ tôi cũng nuôi dưỡng, dạy dỗ con trai bác Trưởng Tộc và con vợ trước của ông Nội một thời gian ngắn, khi họ từ vùng xôi đậu về Tề.
Và "nhà" chúng tôi không biết từ lúc nào đã trở thành "nơi tụ hội" con cháu khi vui khi buồn. Ngày giỗ ông Nội, mọi người quy tụ cho đến tháng tư 75 mới thôi. Bố Mẹ tôi được các Bác Bề Trên gọi là "anh Cả, chị Cả" và các Anh, Chị họ xưng hô "Chú, Thím".
Có một điều rõ nét là: Mọi gia đình đều đa đinh cả trai lẫn gái, cùng với vận Nước, đàn ông đều đi lính rồi đi tù, rồi cùng cơn giông bão của Trời Đất, các "bông Cỏ May" cũng bay đi tám hướng tha hương Lập Nghiệp.
Trần Sơn
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Truyện thần tiên- Cát Hồng |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
||
những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
||
Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Xem Tử Vi - huyền "Học" - vọc phương pháp |
Gặp Gỡ - Giao Lưu | Vung |
|
||
Suy nghĩ với hỗn hợp nhiều môn huyền học cho lá số VNXHCN |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Lưu Kim Tài chuyên đềLưu Kim Tài |
Tử Bình | Durobi |
|
12 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 12 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |