1
Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#166
Gửi vào 01/07/2011 - 06:16
HỒN MA Ở MỸ VỀ PHỤC TANG BÁO HIẾU MẸ
- Đúng Là Âm Thanh Của Nó. Quả Vậy! Âm Thanh Của Thằng Vũ, Con Tôi... Làm sao tôi lầm lẫn được giọng nói trầm trầm quen thuộc vang vọng vào bờ tai tôi đêm ấy. Mẹ ơi con đây mà mẹ, con đã...Nó chỉ nói đến đây rồi ngưng hẳn lại. Tại sao nó không nói là con đã như thế nào? Tôi cảm thấy có gì khác thường trong câu nói dang dở đó. Lời bà Khách, mẹ của hồn ma Vũ.
Trong lúc tôi còn hoang mang suy nghĩ, thì bất giác có bàn tay nào đó đặt lên bờ vai tôi một cách nhẹ nhàng, và cũng từ bàn tay này chuyển vào cơ thể, thổi một luồng khí lạnh len lỏi qua từng thớ thịt. Linh tính báo cho tôi biết ắt có chuyện chẳng lành. Tôi rùng mình. Toàn thân tôi bỗng sởn cả gai ốc. Không phải vì sợ hãi mà vì tôi..."
Nói đến đây bà cụ thân mẫu của anh Vũ ôm mặt khóc lên rưng rức. Mọi người đưa mắt nhìn nhau rồi lặng lẽ đứng yên chờ đợi. Chỉ trong khoảnh khắc ngay sau đó bà cụ lại ngẩng đầu lên, đưa mắt nhìn ra ngoài khung cửa sổ, dường như để tìm kiếm hình bóng của đứa con yêu, mà bà đinh ninh còn lẩn quất đâu đây...Gió lạnh thổi từng cơn. Mây đen vần vũ cả bầu trời. Liên tiếp mấy đêm nay đèn đường tắt ngấm khiến con hẽm nơi bà cụ ở đã đen tối lại càng đen tối hơn.
- Thằng Vũ dường như muốn nói điều gì với tôi, song có lẽ nó không đủ can đảm. Có thể là nó sợ tôi đau khổ một khi tôi thổ lộ mọi chuyện mà tôi đang ẩn ức ở trong lòng. Tôi nghĩ vậy.
Rồi như thể đoan chắc là mình không hề bị mê hoặc bởi ảo giác hoặc bị ám ảnh, bà cụ nhấn mạnh lời lẽ khẳng định của mình:
- Không! Tôi đoan chắc là mình không bị lừa gạt bởi ảo giác. Mắt tôi vẫn sáng. Tai tôi vẫn tinh tường. Đầu óc tôi vẫn minh mẩn. Tôi còn nhớ thật rõ ràng đêm hôm ấy vào lúc ba giờ sáng, nằm trằn trọc mãi mà không tài nào chợp mắt được. Cả tháng nay tôi đều như vậy. Lòng tôi lúc nào cũng băn khoăn ray rức. Hẳn đã có một chuyện gì bất thường xảy đến. Tuy nhiên điều làm cho tôi nhức nhối nhất là tiếng cú rúc giữa đêm khuya vắng. Tiếng cú rúc thật u buồn đượm màu tang tóc. Tôi nghĩ bâng quơ về cái chết. Có thể là bà cụ Khách láng giềng. Có thể là một người nào đó già hơn hay trẻ hơn. Hoặc cũng có thể kẻ bất hạnh đó lại là chính mình.
Rồi bằng giọng thật trầm buồn bà cụ tiếp tục kể:
- Lúc bấy giờ vào khoảng ba giờ sáng, cái đêm mà tôi không bao giờ quên được, dường như thằng Vũ nó về. Tôi có cảm tưởng như vậy. Rõ ràng là tôi nhìn thấy một cái bóng chập chờn dưới ánh đèn dầu leo lét từ bàn thờ ba nó. Mặc dù không thể nhìn rõ mặt mày của bóng đen ấy, song cái mái tóc rẽ lệch cùng với cái vóc dáng mảnh khảnh cũng đủ cho tôi dễ dàng nhận được kẻ đó là ai? Nó giống hệt như ông cụ nhà tôi.
Chính là nó. Ông cụ nhà tôi không còn trở về đây nữa kể từ sau ngày mãn khó và đã đi đầu thai kiếp khác. Ông cụ cho tôi biết như vậy trong một giấc mơ dài thật đẹp. Cái bóng đen chập chờn ấy tiến về phía giường tôi đang nằm. Tôi chẳng thấy có một chút nào sợ hãi. Không hiểu nhờ một mãnh lực nào đó giúp tôi như vậy. Tôi giương tròn mắt theo dỏi từng bước chân đi và chuẩn bị sẵn sàng nhoài người ra ôm chầm lấy nó.
- Mẹ ơi! Mẹ...con đã...
giọng run run từ bóng đen vọng lại. Tôi còn nghe rõ tiếng nó nấc lên rồi bất thần im bặt lại. Có lẽ nó không được phép tiết lộ? Nhưng nó vẫn cứ chẫm rãi tiến đến... Tuy nhiên khi sắp đến mép giường thì đột nhiên cái bóng đen ấy xoay người về hướng khác...Cùng lúc đó cây đèn dầu trên bàn thờ ông cụ vụt sáng lên rồi tắt ngay sau đó. Một màn đen dày đặc phủ cả căn phòng. Tôi muốn gọi lên thật lớn:
- Vũ ơi! Con đừng bỏ mẹ!
Nhưng tự nhiên lưỡi tôi líu lại không thốt được tiếng nào. Tôi bắt đầu cảm thấy quanh tôi một bầu không khí ngột ngạt không thể nào thở được nữa. Tôi vùng đứng dậy, nhưng muộn rồi...đầu óc tôi bỗng tê dại hẳn. Thế là bắt đầu tôi rơi vào trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Chẳng biết tôi đã sống như vậy được bao lâu song khi giật mình tỉnh dậy thì trời đã sáng từ lâu rồi. Toàn châu thân tôi rã rời mệt mỏi. Phải chăng tôi đã trải qua một cơn ác mộng? Nếu được vậy thì quý biết bao. Vì đó chỉ là một giấc mơ dữ chứ không là một sự thật. Một giấc mơ dữ không là sự thật... Tôi muốn thằng con tôi, Vũ ở tận phương trời xa lạ ấy vẫn bình an vô sự.
- Không thằng Vũ không chết. Tôi kêu lên như vậy.
Nói đến đây bà cụ đưa mắt nhìn ra ngoài trời lẩm nhẩm:
- Thằng Vũ nhất định không hề hấn gì. Thằng Vũ bằng an. Nếu nó có rủi ro mệnh hệ thế nào thì vợ con nó đã báo tin về rồi cần gì đợi đến hồn ma nó hiện về báo tin cho biết.
Nói đến đây hai tay bà chắp lại nguyện cầu:
- Xin trờì phật phù hộ cho con tôi!
Bất giác bà ho lên rũ rượi. Có lẽ bà cụ mệt nhoài và ngủ thiếp đi không còn hay biết gì nữa. Tội nghiệp bà cụ vẫn chưa biết là đứa con mình đã ra người thiên cổ. Nguyễn Thị Đông nữ giáo viên trường tiểu học Thanh Trí phường Cầu Kho Quận Nhất Sài Gòn là một trong những nhân chứng sống, thuật lại hiện tượng siêu linh khó tin nhưng lại là sự thật. Câu chuyện mới thoạt nghe như hoang đường, cô giáo Đông thuật lại trước đám người hiếu kỳ đang vây quanh lại khi nghe tin: "MỘT HỒN MA Ở MỸ HIỆN VỀ TÌM MẸ BÁO TIN MÌNH ĐÃ CHẾT".
- Vâng! Đó là một sự thật. Cho mãi đến bây giơ tôi vẫn còn cảm thấy rùng mình ghê rợn. Một hồn ma từ Mỹ trở về quê hương để tin cho mẹ mình biết về cái chết của mình. Quý vị hãy nhìn sang căn nhà số 40 đó, cái gian nhà đã từng xảy ra lắm cảnh ma quái, lúc nào cũng làm cho tôi có cảm giác là vong hồn anh ấy hãy còn lảng vảng quanh quất đâu đây...
Con hẽm 345 này thật lắm chuyện. Chuyện đời. Chuyện yêu tinh trước nhà hai ông bà Tư bảo hiểm. Chuyện âm binh tác quái ...và hôm nay...lại đến câu chuyện "Hồn Ma ở Mỹ Hiện Về". Tôi chẳng biết các câu chuyện hoang đường khác đã diễn ra như thế nào, song chuyện "Hồn Anh Vũ Mượn Xác Phàm Chị Đức" thì hoàn toàn như những lời đồn đãi. Đó là một đêm mưa gió đầy trời. Cái đêm thật ảm đạm làm sao. Con đường hẽm 345 của Phường Cầu Kho giáp ranh Kiệt bốn, hoàn toàn bị đắm chìm trong cảnh mông lung lạnh lẽo. Trời càng về khuya mưa càng nặng hạt. Nước từ dưới lòng cống dâng lên toàn một màu đen ngòm chảy dài theo con hẽm hủng hiu lồi lõm.
Thỉnh thoảng một vài tia chớp lóe lên, vài cơn gió bấc thổi đến đập lên những mái tôn, cùng tiếng cành cây xào xạc từ đâu đó vang vọng lại kéo dài, lanh lảnh tạo cho cảnh tượng đã ma quái càng ma quái hơn... Dường như cả con đường hẽm 345 này đã quen với bóng tối, quen với cái cái rờn rợn u buồn, quen với tiếng cú rúc não nùng giữa đêm hôm khuya khoắt. Cũng theo giọng người nữ giáo viên này:
- Trong lúc mọi người đang say ngủ bỗng có giọng thất thanh kêu cứu một cách khẩn thiết từ bên trong ngôi nhà mang số 40 vọng ra:
- Ối! làng nước ôi! Tại sao con Đức nhà tôi thế này?
Rồi vẫn cái giọng kêu gào thất thanh đó:
- Đức ơi con làm sao vậy.. Kìa con đừng làm như thế nữa mẹ sợ lắm...Con nói những gì nhãm nhí thế? Ôi làng nước ôi. Ông công an khu vực ơi.. Ôi.. phường 24 ơi!
Tiếng kêu cứu mỗi lúc mỗi thên khẩn thiết khiến nhiều người lối xóm kéo nhau chạy đến. Đến nơi, họ nhìn thấy cảnh tượng chị Đức đang lăn lộn trên giường kêu khóc. Trông chị chẳng khác nào một kẻ điên đang lên cơn. Đầu tóc chị bù xù. Mắt rực đỏ như hai cục than hồng. Hai tay chị lúc nào cũng giang ra như tuồng để đón chào ai trước mặt.
- Mới đây.
Cô giáo Đông tiếp tục kể, trước khi xảy ra câu chuyện đầy vẻ ma quái này, chị Đức có đến nhà thỏ thẻ với tôi bằng lời lẽ buồn bã:
- Chị Đông à! Tôi cảm thấy trong người có vẻ khác thường như... dạo nào lúc tôi còn năm ở Trung Tâm Cấp Cứu...
- Có nghĩa là...có thể bị...
Không để tôi hết lời, chị Đức khẽ gật đầu:
- Chị Đông ạ! Tôi có cảm tưởng là sắp bị một linh hồn nào đó nhập vào xác thân mình.
Nói đến đây chị Đức trầm ngâm suy nghĩ đưa mắt nhìn tận đâu đâu. Cách đây ba tháng chị mắc một chứng bệnh ngặt nghèo được đưa vào bệnh biện Sài Gòn tức Trung Tâm Cấp Cứu ngày nay. Nằm cùng phòng với một nữ bệnh nhân khác chỉ được một ngày, thì đến đêm người bệnh kia không chịu nổi cơn đau hoành hành nên chết ngay sau đó. Nhưng lạ lùng thay chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ sau, chị Đức cảm thấy đầu mình nặng trỉu như viên đá, thân xác rã rời, mắt đỏ au lên... và cuối cùng không còn hay biết gì nữa.
Cho đến khi tỉnh dậy được nghe thuật lại, chị mới biết rằng hồn ma người nằm bên cạnh đã nhập vào xác chị sai khiến chị làm những việc ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Nhớ đến cảnh ấy, tôi đâm ra ái ngại hộ cho chị Đức, biết đâu lại một hồn ma khác mượn xác chị để làm những việc ngoài sức của con người ở cõi thế gian này! Khi đến nhà số 40, tôi là người vào trước tiên và ngồi ngay cạnh chị. Tôi đưa tay sờ vào trán chị để xem nhiệt độ, chị lên tiếng khẽ hỏi:
- Có phải chị là cô giáo Đông đó không?
- Phải tại sao chị lại hỏi vậy? Tôi với chị hàng ngày gặp thường xuyên kia mà chẳng lẽ quên sao?
Chị Đức lắc đầu:
- Chị biết tôi là ai đây không?
- Chị là chị Đức!
- Sai rồi. Tôi là...Vũ...Lê Văn Vũ...
Giọng chị Đức lạc hẳn, ồ ồ như giọng của một người đàn ông.
- Tôi là Vũ đây. Có thể chị cũng như các bà con trong xóm đều nghĩ rằng, người đàn bà này là chị dâu của nhà tôi, mà tôi mượn tạm xác để cho linh hồn tôi tá túc, hoàn toàn là một người lành mạnh, chứ chẳng hề bị bệnh điên dại gì cả...
Nói đến đây, xác chị Đức quay lại nhìn mẹ chồng đang ngồi đối diện:
- Có phải thế không thưa mẹ? Nhà con bên Mỹ vẫn khỏe. Các cháu vẫn thường xuyên nhắc nhở bà ngoại...
- Mẹ ngạc nhiên lắm sao? Chính con là Vũ con rể của mẹ đây...Mẹ ơi! Con đã xấu số qua đời sau một ca giải phẩu ung thư. Đó là ngày 7 tháng 4 năm 1989. Con qua đời để lại cho vợ và hai con thơ của con nỗi đau khổ vô cùng tận.
Ngay khi vừa tắt thở con đã về ngay nhà mẹ rồi .... Con muốn cho mẹ được biết là con đã ra người thiên cổ ngay hôm ấy, nhưng con không đủ can đảm vì sợ mẹ hay tin đột ngột có thể làm cho mẹ mệnh hệ, đó là điều con không bao giờ muốn như vậy...Vả lại luật của cõi âm còn khắt khe hơn ở cõi trần gian nữa. Đến đây chị Đức vụt đứng dậy tiến đến cạnh lọ hoa trên bàn, và bảo với mẹ cùng những người trong gia đình đang hiện diện, là giờ đây anh Vũ trả lại xác thân cho người chị dâu vợ, còn linh hồn anh ấy có thể nương các cánh hoa để ở lại thêm một thời gian ngắn nữa bên cạnh mẹ già. Lúc bấy giờ chị Đức ngồi im lặng, mãi đến cả năm phút sau mới tiếng nói:
- Dượng Vũ ơi dượng hành động nhanh lên. Tôi cảm thấy lo lắng quá... trước mắt tôi hiện giờ toàn là những hình ảnh dị hợm đang vây chặt lấy tôi...
Rồi cũng chính miệng chị đáp lại:
- Chị đừng sợ hãi gì cả...em còn đứng trước mặt chị... em hứa bảo vệ cho chị...
Bỗng chị Đức nhảy đựng lên:
- Kìa dượng ơi ai thế kia? Hắn... hắn... tôi sợ quá dượng ơi...
- Chị đừng sợ... hắn là con mèo đen...
Ngay trong lúc đó một con hắc miêu xuất hiện ngay trên bàn ăn đối diện... Đôi mắt nó xanh như hai luồng điện quang, và miệng nó thì phì phì phun ra khiến những người đang chứng kiến, hốt hoảng đứng dồn vào nhau trân trối nhìn lại nó.
Liêu Dương Cơ
- Đúng Là Âm Thanh Của Nó. Quả Vậy! Âm Thanh Của Thằng Vũ, Con Tôi... Làm sao tôi lầm lẫn được giọng nói trầm trầm quen thuộc vang vọng vào bờ tai tôi đêm ấy. Mẹ ơi con đây mà mẹ, con đã...Nó chỉ nói đến đây rồi ngưng hẳn lại. Tại sao nó không nói là con đã như thế nào? Tôi cảm thấy có gì khác thường trong câu nói dang dở đó. Lời bà Khách, mẹ của hồn ma Vũ.
Trong lúc tôi còn hoang mang suy nghĩ, thì bất giác có bàn tay nào đó đặt lên bờ vai tôi một cách nhẹ nhàng, và cũng từ bàn tay này chuyển vào cơ thể, thổi một luồng khí lạnh len lỏi qua từng thớ thịt. Linh tính báo cho tôi biết ắt có chuyện chẳng lành. Tôi rùng mình. Toàn thân tôi bỗng sởn cả gai ốc. Không phải vì sợ hãi mà vì tôi..."
Nói đến đây bà cụ thân mẫu của anh Vũ ôm mặt khóc lên rưng rức. Mọi người đưa mắt nhìn nhau rồi lặng lẽ đứng yên chờ đợi. Chỉ trong khoảnh khắc ngay sau đó bà cụ lại ngẩng đầu lên, đưa mắt nhìn ra ngoài khung cửa sổ, dường như để tìm kiếm hình bóng của đứa con yêu, mà bà đinh ninh còn lẩn quất đâu đây...Gió lạnh thổi từng cơn. Mây đen vần vũ cả bầu trời. Liên tiếp mấy đêm nay đèn đường tắt ngấm khiến con hẽm nơi bà cụ ở đã đen tối lại càng đen tối hơn.
- Thằng Vũ dường như muốn nói điều gì với tôi, song có lẽ nó không đủ can đảm. Có thể là nó sợ tôi đau khổ một khi tôi thổ lộ mọi chuyện mà tôi đang ẩn ức ở trong lòng. Tôi nghĩ vậy.
Rồi như thể đoan chắc là mình không hề bị mê hoặc bởi ảo giác hoặc bị ám ảnh, bà cụ nhấn mạnh lời lẽ khẳng định của mình:
- Không! Tôi đoan chắc là mình không bị lừa gạt bởi ảo giác. Mắt tôi vẫn sáng. Tai tôi vẫn tinh tường. Đầu óc tôi vẫn minh mẩn. Tôi còn nhớ thật rõ ràng đêm hôm ấy vào lúc ba giờ sáng, nằm trằn trọc mãi mà không tài nào chợp mắt được. Cả tháng nay tôi đều như vậy. Lòng tôi lúc nào cũng băn khoăn ray rức. Hẳn đã có một chuyện gì bất thường xảy đến. Tuy nhiên điều làm cho tôi nhức nhối nhất là tiếng cú rúc giữa đêm khuya vắng. Tiếng cú rúc thật u buồn đượm màu tang tóc. Tôi nghĩ bâng quơ về cái chết. Có thể là bà cụ Khách láng giềng. Có thể là một người nào đó già hơn hay trẻ hơn. Hoặc cũng có thể kẻ bất hạnh đó lại là chính mình.
Rồi bằng giọng thật trầm buồn bà cụ tiếp tục kể:
- Lúc bấy giờ vào khoảng ba giờ sáng, cái đêm mà tôi không bao giờ quên được, dường như thằng Vũ nó về. Tôi có cảm tưởng như vậy. Rõ ràng là tôi nhìn thấy một cái bóng chập chờn dưới ánh đèn dầu leo lét từ bàn thờ ba nó. Mặc dù không thể nhìn rõ mặt mày của bóng đen ấy, song cái mái tóc rẽ lệch cùng với cái vóc dáng mảnh khảnh cũng đủ cho tôi dễ dàng nhận được kẻ đó là ai? Nó giống hệt như ông cụ nhà tôi.
Chính là nó. Ông cụ nhà tôi không còn trở về đây nữa kể từ sau ngày mãn khó và đã đi đầu thai kiếp khác. Ông cụ cho tôi biết như vậy trong một giấc mơ dài thật đẹp. Cái bóng đen chập chờn ấy tiến về phía giường tôi đang nằm. Tôi chẳng thấy có một chút nào sợ hãi. Không hiểu nhờ một mãnh lực nào đó giúp tôi như vậy. Tôi giương tròn mắt theo dỏi từng bước chân đi và chuẩn bị sẵn sàng nhoài người ra ôm chầm lấy nó.
- Mẹ ơi! Mẹ...con đã...
giọng run run từ bóng đen vọng lại. Tôi còn nghe rõ tiếng nó nấc lên rồi bất thần im bặt lại. Có lẽ nó không được phép tiết lộ? Nhưng nó vẫn cứ chẫm rãi tiến đến... Tuy nhiên khi sắp đến mép giường thì đột nhiên cái bóng đen ấy xoay người về hướng khác...Cùng lúc đó cây đèn dầu trên bàn thờ ông cụ vụt sáng lên rồi tắt ngay sau đó. Một màn đen dày đặc phủ cả căn phòng. Tôi muốn gọi lên thật lớn:
- Vũ ơi! Con đừng bỏ mẹ!
Nhưng tự nhiên lưỡi tôi líu lại không thốt được tiếng nào. Tôi bắt đầu cảm thấy quanh tôi một bầu không khí ngột ngạt không thể nào thở được nữa. Tôi vùng đứng dậy, nhưng muộn rồi...đầu óc tôi bỗng tê dại hẳn. Thế là bắt đầu tôi rơi vào trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Chẳng biết tôi đã sống như vậy được bao lâu song khi giật mình tỉnh dậy thì trời đã sáng từ lâu rồi. Toàn châu thân tôi rã rời mệt mỏi. Phải chăng tôi đã trải qua một cơn ác mộng? Nếu được vậy thì quý biết bao. Vì đó chỉ là một giấc mơ dữ chứ không là một sự thật. Một giấc mơ dữ không là sự thật... Tôi muốn thằng con tôi, Vũ ở tận phương trời xa lạ ấy vẫn bình an vô sự.
- Không thằng Vũ không chết. Tôi kêu lên như vậy.
Nói đến đây bà cụ đưa mắt nhìn ra ngoài trời lẩm nhẩm:
- Thằng Vũ nhất định không hề hấn gì. Thằng Vũ bằng an. Nếu nó có rủi ro mệnh hệ thế nào thì vợ con nó đã báo tin về rồi cần gì đợi đến hồn ma nó hiện về báo tin cho biết.
Nói đến đây hai tay bà chắp lại nguyện cầu:
- Xin trờì phật phù hộ cho con tôi!
Bất giác bà ho lên rũ rượi. Có lẽ bà cụ mệt nhoài và ngủ thiếp đi không còn hay biết gì nữa. Tội nghiệp bà cụ vẫn chưa biết là đứa con mình đã ra người thiên cổ. Nguyễn Thị Đông nữ giáo viên trường tiểu học Thanh Trí phường Cầu Kho Quận Nhất Sài Gòn là một trong những nhân chứng sống, thuật lại hiện tượng siêu linh khó tin nhưng lại là sự thật. Câu chuyện mới thoạt nghe như hoang đường, cô giáo Đông thuật lại trước đám người hiếu kỳ đang vây quanh lại khi nghe tin: "MỘT HỒN MA Ở MỸ HIỆN VỀ TÌM MẸ BÁO TIN MÌNH ĐÃ CHẾT".
- Vâng! Đó là một sự thật. Cho mãi đến bây giơ tôi vẫn còn cảm thấy rùng mình ghê rợn. Một hồn ma từ Mỹ trở về quê hương để tin cho mẹ mình biết về cái chết của mình. Quý vị hãy nhìn sang căn nhà số 40 đó, cái gian nhà đã từng xảy ra lắm cảnh ma quái, lúc nào cũng làm cho tôi có cảm giác là vong hồn anh ấy hãy còn lảng vảng quanh quất đâu đây...
Con hẽm 345 này thật lắm chuyện. Chuyện đời. Chuyện yêu tinh trước nhà hai ông bà Tư bảo hiểm. Chuyện âm binh tác quái ...và hôm nay...lại đến câu chuyện "Hồn Ma ở Mỹ Hiện Về". Tôi chẳng biết các câu chuyện hoang đường khác đã diễn ra như thế nào, song chuyện "Hồn Anh Vũ Mượn Xác Phàm Chị Đức" thì hoàn toàn như những lời đồn đãi. Đó là một đêm mưa gió đầy trời. Cái đêm thật ảm đạm làm sao. Con đường hẽm 345 của Phường Cầu Kho giáp ranh Kiệt bốn, hoàn toàn bị đắm chìm trong cảnh mông lung lạnh lẽo. Trời càng về khuya mưa càng nặng hạt. Nước từ dưới lòng cống dâng lên toàn một màu đen ngòm chảy dài theo con hẽm hủng hiu lồi lõm.
Thỉnh thoảng một vài tia chớp lóe lên, vài cơn gió bấc thổi đến đập lên những mái tôn, cùng tiếng cành cây xào xạc từ đâu đó vang vọng lại kéo dài, lanh lảnh tạo cho cảnh tượng đã ma quái càng ma quái hơn... Dường như cả con đường hẽm 345 này đã quen với bóng tối, quen với cái cái rờn rợn u buồn, quen với tiếng cú rúc não nùng giữa đêm hôm khuya khoắt. Cũng theo giọng người nữ giáo viên này:
- Trong lúc mọi người đang say ngủ bỗng có giọng thất thanh kêu cứu một cách khẩn thiết từ bên trong ngôi nhà mang số 40 vọng ra:
- Ối! làng nước ôi! Tại sao con Đức nhà tôi thế này?
Rồi vẫn cái giọng kêu gào thất thanh đó:
- Đức ơi con làm sao vậy.. Kìa con đừng làm như thế nữa mẹ sợ lắm...Con nói những gì nhãm nhí thế? Ôi làng nước ôi. Ông công an khu vực ơi.. Ôi.. phường 24 ơi!
Tiếng kêu cứu mỗi lúc mỗi thên khẩn thiết khiến nhiều người lối xóm kéo nhau chạy đến. Đến nơi, họ nhìn thấy cảnh tượng chị Đức đang lăn lộn trên giường kêu khóc. Trông chị chẳng khác nào một kẻ điên đang lên cơn. Đầu tóc chị bù xù. Mắt rực đỏ như hai cục than hồng. Hai tay chị lúc nào cũng giang ra như tuồng để đón chào ai trước mặt.
- Mới đây.
Cô giáo Đông tiếp tục kể, trước khi xảy ra câu chuyện đầy vẻ ma quái này, chị Đức có đến nhà thỏ thẻ với tôi bằng lời lẽ buồn bã:
- Chị Đông à! Tôi cảm thấy trong người có vẻ khác thường như... dạo nào lúc tôi còn năm ở Trung Tâm Cấp Cứu...
- Có nghĩa là...có thể bị...
Không để tôi hết lời, chị Đức khẽ gật đầu:
- Chị Đông ạ! Tôi có cảm tưởng là sắp bị một linh hồn nào đó nhập vào xác thân mình.
Nói đến đây chị Đức trầm ngâm suy nghĩ đưa mắt nhìn tận đâu đâu. Cách đây ba tháng chị mắc một chứng bệnh ngặt nghèo được đưa vào bệnh biện Sài Gòn tức Trung Tâm Cấp Cứu ngày nay. Nằm cùng phòng với một nữ bệnh nhân khác chỉ được một ngày, thì đến đêm người bệnh kia không chịu nổi cơn đau hoành hành nên chết ngay sau đó. Nhưng lạ lùng thay chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ sau, chị Đức cảm thấy đầu mình nặng trỉu như viên đá, thân xác rã rời, mắt đỏ au lên... và cuối cùng không còn hay biết gì nữa.
Cho đến khi tỉnh dậy được nghe thuật lại, chị mới biết rằng hồn ma người nằm bên cạnh đã nhập vào xác chị sai khiến chị làm những việc ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Nhớ đến cảnh ấy, tôi đâm ra ái ngại hộ cho chị Đức, biết đâu lại một hồn ma khác mượn xác chị để làm những việc ngoài sức của con người ở cõi thế gian này! Khi đến nhà số 40, tôi là người vào trước tiên và ngồi ngay cạnh chị. Tôi đưa tay sờ vào trán chị để xem nhiệt độ, chị lên tiếng khẽ hỏi:
- Có phải chị là cô giáo Đông đó không?
- Phải tại sao chị lại hỏi vậy? Tôi với chị hàng ngày gặp thường xuyên kia mà chẳng lẽ quên sao?
Chị Đức lắc đầu:
- Chị biết tôi là ai đây không?
- Chị là chị Đức!
- Sai rồi. Tôi là...Vũ...Lê Văn Vũ...
Giọng chị Đức lạc hẳn, ồ ồ như giọng của một người đàn ông.
- Tôi là Vũ đây. Có thể chị cũng như các bà con trong xóm đều nghĩ rằng, người đàn bà này là chị dâu của nhà tôi, mà tôi mượn tạm xác để cho linh hồn tôi tá túc, hoàn toàn là một người lành mạnh, chứ chẳng hề bị bệnh điên dại gì cả...
Nói đến đây, xác chị Đức quay lại nhìn mẹ chồng đang ngồi đối diện:
- Có phải thế không thưa mẹ? Nhà con bên Mỹ vẫn khỏe. Các cháu vẫn thường xuyên nhắc nhở bà ngoại...
- Mẹ ngạc nhiên lắm sao? Chính con là Vũ con rể của mẹ đây...Mẹ ơi! Con đã xấu số qua đời sau một ca giải phẩu ung thư. Đó là ngày 7 tháng 4 năm 1989. Con qua đời để lại cho vợ và hai con thơ của con nỗi đau khổ vô cùng tận.
Ngay khi vừa tắt thở con đã về ngay nhà mẹ rồi .... Con muốn cho mẹ được biết là con đã ra người thiên cổ ngay hôm ấy, nhưng con không đủ can đảm vì sợ mẹ hay tin đột ngột có thể làm cho mẹ mệnh hệ, đó là điều con không bao giờ muốn như vậy...Vả lại luật của cõi âm còn khắt khe hơn ở cõi trần gian nữa. Đến đây chị Đức vụt đứng dậy tiến đến cạnh lọ hoa trên bàn, và bảo với mẹ cùng những người trong gia đình đang hiện diện, là giờ đây anh Vũ trả lại xác thân cho người chị dâu vợ, còn linh hồn anh ấy có thể nương các cánh hoa để ở lại thêm một thời gian ngắn nữa bên cạnh mẹ già. Lúc bấy giờ chị Đức ngồi im lặng, mãi đến cả năm phút sau mới tiếng nói:
- Dượng Vũ ơi dượng hành động nhanh lên. Tôi cảm thấy lo lắng quá... trước mắt tôi hiện giờ toàn là những hình ảnh dị hợm đang vây chặt lấy tôi...
Rồi cũng chính miệng chị đáp lại:
- Chị đừng sợ hãi gì cả...em còn đứng trước mặt chị... em hứa bảo vệ cho chị...
Bỗng chị Đức nhảy đựng lên:
- Kìa dượng ơi ai thế kia? Hắn... hắn... tôi sợ quá dượng ơi...
- Chị đừng sợ... hắn là con mèo đen...
Ngay trong lúc đó một con hắc miêu xuất hiện ngay trên bàn ăn đối diện... Đôi mắt nó xanh như hai luồng điện quang, và miệng nó thì phì phì phun ra khiến những người đang chứng kiến, hốt hoảng đứng dồn vào nhau trân trối nhìn lại nó.
Liêu Dương Cơ
#167
Gửi vào 01/07/2011 - 06:32
TỰ TỐ
Trước kia tôi cũng lầm lỗi là không tin và chống đối môn Địa lý phong thủy, vì khi ấy tôi mới mười chín, hai mươi tuổi chưa đọc sách Địa lý, chỉ được nghe người ta nói những câu chuyện Cổ tích khẩu truyền: Những thầy địa lý Tàu ngày xưa sang Việt Nam ta, tìm đất táng hài cốt gia tiên họ, như là chuyện của Cao Biền dậy non. Vì táng sống, chưa đủ bách nhật đã kêu gọi sống lại làm vua. Lại chuyện thầy Tàu thuê Đinh Bộ Lĩnh khi còn làm trẻ chăn trâu (vì là dòng giống Rái cá nên lặn giỏi) cầm gói xương người, lặn xuống đút vào mồm con rồng đá ở dưới nước.
Ông nhỏ tuổi mà đã có trí khôn, để gói xương ấy ở ngoài rồi chạy về nhà hỏi mẹ: Mả bố chôn ở đâu? Người mẹ nói: Xương bố mày gói ở cái mo cau, gác trong xó bếp ấy (tức là xương con Rái cá). Liền lấy đem ra lặn xuống đút vào mồm con rồng đá, con rồng ấy liền ngậm lại. Về sau mả ấy kết, phát ngay vào ông làm tướng dẹp loạn Thập nhị Sứ quân (tức là tướng Cờ lau) rồi lên làm vua v.v Lại chuyện ông thầy Tàu khác, tìm thấy đất biết trước là sau phát Trạng nguyên lưỡng quốc. Rồi hô thần để hỏi, thần hiện lên bảo:
- Đất này cho nhà Vũ Hồn chứ không cho nhà ngươi.
Vậy thầy Tàu phải đi tìm Vũ Hồn, bảo:
- Đem xương bố lại thầy táng giúp cho...
Còn chuyện cụ Tả Ao nước ta, khi thì thầy trò đi du ngoạn tìm đất, một hôm qua đường gặp buổi trưa đói bụng; thấy trong đình làng người ta có tiệc tế lễ sắp ăn uống, tìm ngay cái huyệt cứu bần tốc phát, cắm hướng chỉ cho học trò ngồi vào nhắm mắt lại im lặng. Rồi thầy vào đình xin, đòi lấy cả cái lễ vật quý nhất đã dâng tế thần, là cái thủ heo và cái mâm xôi của làng người ta... Lại khi gặp năm anh khóa đi thi, cụ hỏi:
- Có thằng nào muốn đậu không?
Cả năm anh đều thưa:
- Có ạ!
- Muốn đậu cả thì vào làng kia mua con heo nái ra đây.
Rồi bảo cả năm anh nằm xuống bú. Xong cụ cắm đất cho đào huyệt chôn con heo xuống. Sau quả nhiên có bốn anh bú thì đậu cả, còn một anh ghê, chỉ ngậm vờ thôi, không nuốt sữa thì bị trước...Tôi cho những câu chuyện ấy toàn là câu chuyện hoang đường, huyền hoặc như Thần thoại không thể tin được. Mặc dầu nhà tôi đã có ba đời biết làm địa lý mà tôi vẫn không tin. Cứ chế bác riễu cợt các cụ Thầy Địa hoài. Cười mỉa:
- Giữa thế kỷ thứ hai mươi mà còn có người mơ mộng mê tín dị đoan. Âu, Mỹ họ có Địa lý, Địa liền gì… mà họ văn minh cường thịnh thế? Nước mình còn lạc hậu quá. Cứ bị các nhà cổ nho Tàu đầu độc mãi.
Lúc ấy trong ý nghĩ của tôi, cho là thâm tâm họ chủ mưu ngụy biện viết ra sách, để lừa dối những người đời có tính tham vọng phú quý, mà hâm mộ tìm thầy kiếm đất, thì có lợi cho dòng dõi nhà làm thầy Địa lý của họ. Tôi nhầm tưởng cũng như nhà làm nghề giấy màu ngũ sắc của Tàu ngày xưa, mưu nghĩ ra kế làm đồ mã bằng nan tre, dán giấy, quần áo, voi, ngựa, trâu bò v.v…đều bằng giấy để dâng cúng cho linh hồn tiết rằm tháng bảy, để nghề của họ được phát tài, mà ngay nay vẫn còn có người tin.
Nên tôi chống đối. Vậy bị các cụ thầy Địa cự tôi và khinh thị, cho tôi là ngu dốt ngạo mạn nói càn. Nên về sau tôi mới đem sách Địa lý ra coi, rồi đi phúc khán những ngôi cựu phần, đã có bằng chứng là kết phát, phúc, họa, đã ứng vào con cháu thuộc dòng máu của ngôi mộ ấy, thử xem thực hay hư, thì mới có cớ để chống đối. Ngờ đâu khi xem đến, thấy có những địa hình kiểu hay cách dở chứng ứng ở chung quanh những ngôi mộ ấy, đúng như trong sách thánh hiền đã dạy! Càng xem càng ham và nhận thấy là mình ngu. Quả như câu châm ngôn:
"Có đọc sách mới thấy mình dốt". Từ đó tôi chú trọng về khoa Địa lý này như là một bảo vật tinh thần, chung của cả thế gian. Tôi đọc hết mấy bộ sách của gia truyền rồi đi ngoại giao với những nhà biết Địa lý. Kiếm thêm những sách Địa lý khác để tìm hiểu rộng hơn, học hỏi cho đến nơi đến chốn, cho thật tinh tường về địa đạo; mong sớm được thành tài để giúp ích cho nhà, cho bạn. Nhưng khốn nỗi "Cần nhi bất năng chuyên". Vì hoàn cảnh gia đình, vì thời vận quốc gia, thế giới chiến tranh...Bao nhiêu cản trở không cho tôi có phương tiện để đạt tới mục đích như ý muốn, rất là hối hận.
Tôi cũng không ngại phí tổn công phu để tiếp xúc với các nhà Địa lý, như các cụ Đồ, cụ Cử là bậc Tiền bối tìm thầy, kén bạn. Trong khi đàm luận với các cụ, về các lý thuyết chữ nghĩa thì thấy thông thạo lắm. Có nhiều cụ đọc thuộc lòng thao thao bất tuyệt, không cần mở sách, giỏi hơn mình nhiều. Nhưng lúc đáo xứ thực hành như: Nhận xét thế, cục để tầm long, điểm huyệt...thì thấy đa số lờ mờ, không đủ nhỡn lực nhìn xa trông rộng, để mà nhận định được đại địa chân long, chỉ có thể xem những cục địa thiển cận tiểu sảo ở nơi bình dương khoáng dã thôi.
Phần nhiều là còn sai nhầm, mình phải chỉ dẫn giúp cho mới nhận ra; thì còn mong học hỏi gì nữa, uổng mất thì giờ; bao phen gặp gỡ thử thách mà chưa được một người khá hơn. Vậy những khi nhân tiện có việc, được đi đến nơi nào có quý địa cao danh, là chịu khó lần mò để tìm thấy mộ ấy, mà gián tiếp học phép của Cổ sư đã thực hành đúng rồi, để mình tự thử sức mình xem có nhận được đúng, thì mình mới dám tin mình là biết. Nhưng vẫn nuôi hy vọng là đời còn nhiều nhân tài tinh tường địa đạo, thế nào cũng gặp người hiểu biết hơn, đầy kinh nghiệm và thực hành nhiều hơn mình, để làm thầy giám khảo chứng nhận cho, thì mới vững chắc. Vậy, hễ nghe tin có thầy địa lý giỏi là tìm đến.
Vào khoảng năm 1942 hoặc 1943, thấy có một đám táng của nhà phú quý ở Hà Nội thuê cả xa tang, cờ, trống, long trọng rước linh cữu đến dẫy núi Châu Sơn thuộc làng Ngọc Động, huyện Quế Dương tỉnh Bắc Ninh, mà đường xá xa xăm cách trở, thấy cũng phí tổn công lao khá nhiều. Nghe nói: Ông thầy Tàu để đất này đã được nhiều nhà Phú quý, quan liêu thời trước ở miền Bắc trọng dụng, phụng dưỡng hàng tháng, hàng năm ở trong nhà để đi tìm đất táng cho. Được tin nói tôi mừng quá vì ở trong vùng gần nhà. Giữa ngày hạ táng, chúng tôi đến tận nơi để quan sát, thì thấy huyệt cũng chẳng lấy gì làm đích xác, lập hướng, phân kim, cũng mập mờ không đúng, mà ngày giờ hạ táng cũng xấu không hợp với long, sơn, hướng vị.
Vậy tôi mời ông thầy Tàu ra ngoài để chất vấn. Lúc ấy có mấy người trong vùng tôi đi theo nghe chuyện địa lý, nên ông thầy này có vẻ mắc cỡ, nhưng cũng biết phục thiện cứ chối lỗi, nói là phải theo ý định của nhà tang chủ v.v… Tôi liền cự thầy cho đến mức, sau cứ xin lỗi, yêu cầu tôi đừng cho nhà chủ và người khác biết nữa, như thế có buồn cười không? Năm sau 1944 lại gặp ông thầy Tàu khác nữa, do một ông quan hành chính, giới thiệu đến tìm đất cho nhà ông bạn tôi ở huyện An Dũng, Bắc Giang, vì ông bạn chưa dám tin nên mới đón tôi qua nhà để thử xem, ông thầy Tàu này có phải là minh sư không, và giới thiệu với ông thầy tôi là anh của ông bạn để tiện việc giao tiếp...Tôi trông diện mạo ông thầy này có vẻ thư sinh quý phái, cũng như hạng ông thầy Tàu trước, tôi kính trọng và khiêm tốn giữ lễ tiếp tân. Trong khi vui vẻ đàm thoại, tôi đã vờ là không biết địa lý, lấy quyển lịch Tàu ra hỏi mấy cái thông thường, cần thiết của phép làm địa lý, thầy ngập ngừng… rồi trả lời:
- Cái này không dùng làm về địa lý.
Tôi lại hỏi thêm cái khác, thầy cũng trả lời như trước, tôi ngứa tai quá, hỏi:
- Thầy dùng những phép gì? Theo bộ sách nào? Cho tôi coi một chút.
Thầy lúng túng trả lời:
- Không đem sách đi.
- Thế thầy thuộc lòng cả ả? Thầy có thể đọc vài chữ đầu của bộ sách ấy cho tôi nghe xem? Có phải là sách quý như của các thầy không?
Cứ ấp úng không nói, cả ông chủ nhà cũng ghét! Tôi liền cự:
- Ông không biết gì về địa lý mà dám giả dối đi làm thầy lừa bịp người ta. Thưa ông làm thầy thuốc bậy thì giết một mạng người thôi, chứ làm thầy địa lý láo. Thì giết hại cả dòng họ người ta. Nếu ông không bỏ ngay nghề làm thầy của ông, tôi sẽ đưa ông đến tòa pháp luật.
Rồi thầy xin lỗi tôi. Cả đêm hôm ấy tôi thấy thầy cứ quằn quại không ngủ được, sáng hôm sau đi luôn. Than ôi! Đời này vẫn có hạng thầy như thế. Thật mỉa mai thay. Đến năm 1945 thì Nhật đảo chính Pháp. Rồi Mỹ lại trừ Nhật, nước ta thì nội loạn, lại ngoại xâm, rồi đến Quốc, Cộng chiến tranh, hết Pháp đến Mỹ kéo dài đến nay vẫn chưa dứt. Lúc nào cũng lo bảo vệ tính mạng, Quốc gia, thì còn làm gì được nữa. Thế là rốt cuộc, tôi không được trực tiếp thụ giáo một ông thầy nào cả, chỉ có gián tiếp học các vị tổ sư di giáo cho, ở trong các bộ sách về khoa học địa lý in và viết bằng chữ Hán, và đã chỉ dẫn sẵn cho những sự thực hành ở các ngôi mộ cổ nhân, đã hữu danh là kết phát, mà tôi đã chịu lao tâm mệt trí, ráng sức theo đuổi và đã được những sự kinh nghiệm.
Tuy gián tiếp, nhưng tự xét là tôi có thể làm được địa đạo, là những bằng chứng thuật lại dưới đây, mà thuật lại, viết ra thì cũng biết là lan man, dài dòng và đời cho là phô trương. Nhưng nếu không viết ra thì lấy gì làm bằng cớ để người ta tin rằng có địa lý? Vậy phải viết sơ qua mấy cái điển hình, để bạn đọc rõ, sau này ai có phương tiện thì đến mà xem, sẽ rõ mục đích:
1. Hồi trước vào khoảng năm 1927, 1928, nhân tôi đi đạc điền địa, ở miền thượng du Bắc việt, thấy một cái kiểu đất: Ngũ nhạc quán châu tác án, quy, xà trấn thủy khẩu; đại giang hoành ngoại cục; hậu đầu trùng, điệp cao sơn hồi bão, kim tinh thụ huyệt...tọa lạc tại làng Bạch Lưu Thượng, huyện Lập thạch, tỉnh Vĩnh Yên. Khi ấy tôi ở trọ nhà ông Chánh Hương Hội của làng ấy, ông ta biết tôi xem đất, rồi nói xin tôi để cho; tôi ưng cho rồi nhưng chưa kịp hạ táng. Sau khi tôi về thăm nhà quê vắng hai tuần lễ, lúc trở lại thấy ông ta (chủ nhà) nói:
- Ngôi đất thầy cho tôi đã để rồi xin thầy thứ lỗi, vì có ông thầy Tàu nghe nói là nhà địa lý chính tông, có người mời sang tìm đất cho nhà Hoàng Trọng Phu, một nhà quyền quý được thực dân Pháp tin cậy nhất Việt Nam thời đó. Nhưng ông thầy nói rằng, thấy nhà họ Hoàng này hết phúc rồi, nên không tìm cho trở về Vân Nam nước Tàu.
May quá! Khi thuyền nghỉ đậu lại bến đây, tôi gặp thầy Tàu đang cầm la tinh chiếu, tôi mới yêu cầu thầy ấy xem lại giúp cho, vậy đưa đến chỗ đất ấy. Thầy này bảo đất này quý lắm! Sau điểm huyệt cũng đúng chỗ, thầy cắm dấu cho ngày trước và đưa tờ bản đồ, phác họa của thầy Tàu, vẽ kiểu đất cho tôi xem, có ghi ngày giờ, tháng, năm để mả và đặt tên kiểu là "Kim Kê Bão Noãn". Và thầy không nhận lấy một đồng tiền tạ công ơn lúc bấy giờ, ông thầy nói: Sau này kết phát thầy sẽ đến, cho bao nhiêu thầy cũng sẽ nhận v.v… Tiếc rằng tự khi ấy đến bây giờ, tôi không được trở lại xem đất ấy ra sao? Ngôi mộ này ở sườn quả núi tròn, hướng Nam tọa quý, hướng đinh ngoài án có con sông lớn, núi ấy gọi là Gò đinh.
2. Ngôi đất của nhà họ Mai ở làng Đào viên, huyện Quế Dương Bắc Ninh nơi gần quê hương tôi. Đất này thầy để đất cho, xưa đã bảo: Đất này kết phát " Cửu đại chu" nhưng hiềm " Bất ly phong nhân", tức là được chín đời làm quan đại thần ở trong triều đình, nhưng đều bị tội tử hình về đao kiếm. Quả nhiên sau tám đời nối liền làm quan thanh liêm, mà vẫn đều bị vu oan mắc tội chém cả. Còn một ông thứ chín muốn tỵ nạn ấy, làm quan nữa chừng xin thoái quan từ chức về nhà sớm, nhất định ở nhà vui thú điền viên không chịu đi giao du đâu cả, đến ở trong làng gần nhà cũng vậy.
Nhân một hôm ở đình làng có tiệc lễ ăn uống và xẩy ra sự tranh giành nhau quá gay go kịch liệt. Cả các kỳ lão hương chức không phân xử nổi, dân làng đồng ý phải mời quan lớn ra công đình phân giải quyết đoán cho dân thì mới yên được. Nhưng mấy lần vào mời ngài cũng không chịu đi, cứ quyết tâm từ chối và nói gửi lời: Xin làng miễn cho vì lý do… và làng quyết định thế nào ngài cũng ưng theo, chỉ yêu cầu là miễn cho việc ra công đình. Nhưng làng xử không được, mắng chửi thằng mõ là không đi mời đến nơi. Và bắt nó phải đi mời bằng được ngài ra thì mới xong. Đến lần cuối cùng nó cầm con dao nhọn dấu trong áo, mời ngài không đi là nó đâm chết ngay tại nhà! Thế mới thật tin là nét đất phản.
3. Ngôi mộ kiểu đất gọi là hoàng xà táng nhĩ, ở làng Vĩnh Kiều, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, nhưng đâu có hình con xà, chỉ thấy khu ruộng cấy lúa vụ mùa và trồng khoai đậu, ở gần đường xe lửa giáp xóm làng ở. Mộ kết vào cái gò hình chữ nhật thấp nhỏ, ở gần phía ruộng trũng cấy lúa chiêm, gối đầu vào khu ruộng cao hình thế bị đào xẻ, khuất lũy tre làng và đường xe lửa cao khó xem, nên phải đi vòng lâu mới nhận ra huyệt ấy là đất phát "Kế thế cao khoa, toàn gia thực lộc" về Lê triều...
4. Ngôi đất họ Nguyễn ở làng Kim Đôi, huyện Võ Giàng, Bắc Ninh: Có cách Minh đường cửu khúc nghịch chiều, long sa bút tốn, hổ đới bảng tân. đại giang cận hậu, mà phát mười tám Tiến sĩ đồng triều đó. Tân Long uyển chuyển chí hợi nhập nhĩ, phát phúc trường viễn, nhưng vì phản nhau xẻ cống, nước chảy ra thẳng sông cái, đứt cuống mạch nên hỏng về thời Pháp.
5. Ngôi mộ họ Nguyễn ở làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, Bắc Ninh: Có kiểu hình nhân chú sáo, do "hổ xuất trường can". Huyệt ất thổ tinh, hốt kính tác án, tọa ất hướng tân. Xuất thân khoa bảng, chi kiêm văn, võ, khai quốc công thần. Các ngôi kể trên, tự tôi tìm thấy.
6. Ngôi mộ nhà Trạng Me ở làng Hương Mặc, huyện Đông Ngàn, Bắc Ninh. Ngôi này cụ Tả Ao để cho, vì có sự tích là "Trạng Me đè Trang Ngọt". Nên xưa nay các thầy địa lý thường hay đến xem. Nhân có ông thầy ở gần tôi, đã nổi tiếng là giỏi Địa lý, ông này được người quen biết dẫn đến xem mộ rồi, nên vẫn hứa hẹn sẽ đố tôi để thử thách v.v… Nhưng ít khi có thì giờ để cùng đi, vì ở xa không tiện lộ. Nhân tiện dịp đầu Xuân, vào ngày 6 tháng giêng, năm Nhâm Thân 1932, có cả bọn hơn chục người anh, chị em cùng đi có việc khác, qua làng Me.
Ông ấy dẫn lại gần nơi khu mộ đó bảo:
- Ở trong khu này đấy để khỏi đi xa mất thì giờ; tôi dừng lại chưa đây năm phút đã đến nhận thấy ngay ngôi mộ ở trên cái gò nhỏ, rộng hơn hai thước, dài độ bốn thước, cao độ một thước tây, đột lên ở giữa bờ ruộng cao, ruộng thấp giáp nhau.
Ông ấy cười và nói to:
- Không phải, kết lâu ở mộ đó. Ở kia kìa.
Chỉ vào ngôi mộ đắp vuông ở dưới ruộng liền, cái gò ấy cách xa ước khoảng gần 20 thước, cũng trông vào cái ruộng vuông, cao hơn bốn bề, độ 10 phân tây gọi là cái mảng tác án...
Lúc ấy, cả bọn cùng cười:
- Thôi, thầy trẻ thua thầy già rồi
Tôi tức quá cự lại:
- Các người biết gì đâu mà vội cười. Nếu thực ngôi kia là cụ Tả Ao để thì khỏi nói, không cần xem cũng biết là đúng, nhưng ngôi mộ ở cái gò này, tôi dám quyết là cũng kết to, vào làng hỏi xem đã. Nếu không phải thì tôi sẽ đập tan la kinh ngay tại đây và về đốt sách luôn. Không làm địa lý nữa là vì sách dạy sai...
Rồi cả bọn cùng đi, thấy trong đình làng ấy có những kỳ lão, nhân viên sang trọng, có vẻ là các chức tước hội họp… Liền cùng vào xem phong cảnh, chủ ý để hỏi chuyện đó.
Thấy các cụ chào mời có vẻ lịch sự, mời ngồi, chưa kịp uống nước tôi liền hỏi:
- Thưa các vị, chúng tôi muốn biết rõ ngôi mộ cụ Tả Ao để cho nhà cụ Trạng?
Trả lời:
- Chính ngôi mộ đắp vuông ở cái ruộng cỏ ấy. Toan dẫn đi xem. Tôi nói:
- Đã xem rồi.
Thế là tôi thua. Cả bọn nhìn tôi mỉm cười!
Tôi hỏi tiếp:
- Thưa quý vị, còn ngôi mộ để trên cái gò nhỏ ở sau cái mộ đắp vuông ấy của nhà ai?
Lúc ấy thấy các vị đều ngước nhìn tôi, như có vẻ… Và nói:
- Các ông ở đâu? Ông còn ít tuổi mà địa lý tin tường như thế!...
Xong rồi một ông đã đứng tuổi nhã nhặn thuật lại sự tích cho biết, chính ngôi đó (ở gò) lúc đầu cụ Tả đã cho nhà họ cụ Trạng, cắm chỗ đào huyệt từ chiều hôm trước và hẹn giờ… Sáng mai đem cốt lại hạ táng.. Lúc ấy có một người làng là họ Đàm đứng ở đấy nghe biết rõ sự thể, đêm về bảo nhau đem hài cốt của nhà đến trước trực sẵn, chờ cụ Tả ra gần đến nơi là hạ ngay cốt xương trước, đặt về một nửa huyệt và van lạy, xin thầy cho cả hai ngôi cùng táng chung một huyệt.
Cụ Tả thấy lễ độ bảo bên kia:
- Thôi cho nó chỗ này, ra để chỗ kia lấy Trạng nguyên! Cụ liền chỉ cho đào huyệt khác ở dưới ruộng, là cái mộ đắp vuông đó rồi phân kim cho cả hai nhà. Khi ấy cụ tính đốt ngón tay bảo:
- Đến khoa… đỗ Trạng nguyên.
Học trò cụ nói:
- Thưa! Thầy lẫn rồi hôm nọ thầy bảo cái mộ bên làng Ngọt đến khoa ấy thì chiếm Trạng nguyên, ngày nay thầy lại bảo đến khoa ấy đỗ Trạng nguyên người ta cười cho. Làm gì có hai Trạng nguyên một khoa?
Cụ Tả liền bảo:
- Rồi Trạng Me đè Trạng Ngọt!
Về sau đến khoa ấy ông ở làng Ngọt (làng Như Nguyệt) đậu Trạng nguyên, ông ở làng Me (làng Hương Mặc) kém vài phân điểm đứng dưới. Nhưng ông Me đẹp trai khôi ngô hơn ông Ngọt. Vì vua kén rễ Trạng Nguyên mà con gái vua ưng ý ông Me, vua biết ý chiều lòng con gái, khi ra sân rồng khảo sát lập kế để bác ông Ngọt cho ông Me Trạng Nguyên. Vua hỏi:
- Hà giả vi Trạng Nguyên?
Chánh chủ khảo kính tâu và chỉ vào ông Trạng Ngọt, vua liền chỉ vào ông Me:
- Thử nhân, khởi bất khả Trạng nguyên hồ? (người này mà không đỗ Trạng nguyên à?)
Chủ khảo tâu:
- Cũng sóng sánh ngang tài nhau ạ.
Vua bảo:
- Thế thì ra cho câu để đối, ai đối trước thì lấy Trạng nguyên.
Vua liền ra câu:
- Mũ áo đưa ông mặc.
Ông Me ứng khẩu luôn:
- Tàn tán rước bố về.
Ông Ngọt tưởng ra cho mỗi người một câu, nên không đối, thế là lấy cớ "văn hay không tầy ứng khẩu". Thế là Trạng Me đè Trạng Ngọt thực, sự tích còn ghi rõ.
7. Còn một ngôi mộ thiên táng ở đồng Bờ vàng thuộc làng Tư Mại Thạch Thôn, huyện Yên Dũng, Bắc Giang, truyền lại sự tích: Có người đàn bà cùng trong bọn đi cấy mướn, quê ở phương xa vùng Sơn Tây, khi cùng bọn đương cấy chiêm, mùa đông giá rét lạnh bị cơn đau bụng, lên ngồi dựa lưng vào cái gò để khuất gió. Đến gần tối, người đồng bọn tới gọi đi về, thì thấy chết rồi. Đành bỏ lại sáng mai đem hòm ra để chôn cất thì mối đã đùn đất kín cả người, chỉ còn hở cái đầu thôi. Vậy bảo nhau:
- Thiên táng rồi cứ để yên.
Rồi bồi đắp thêm cho kín thành nấm mồ vô chủ. Mãi đến đời cháu nội đậu Tiến sĩ mới tìm nhận mộ. Sau đó nhiều thầy Địa đến xem mà không ai rõ kết phát về cách gì, vì đồng ruộng bình thản coi bạc nhược, lại không có tinh phong đột khởi, như bút, bảng và long mạch, cũng không phải là phương Tam cát, Lục tú... Thế mà đời xưa chưa có ngôi mộ thiên táng này cũng đã có thầy nói là: Có kiểu: "Bờ vàng Tiến sĩ" thế mà bao nhiêu đời nay thời sư không biết, đều cho là không phải đỗ Tiến sĩ về đất này...
Năm 1944 có ông bạn tôi ở trong vùng này, gần ngôi mộ đó, mời tôi và một ông Địa già nữa, đưa cả đến tận nơi:
- Thưa, hai thầy xem ngôi này kết phát về cách gì? Để chúng tôi xin học…
Tôi nhìn bao quát cục thế thì sơ soàng thực, chỉ thấy có một cái gò hình tròn bầu dục, cao độ hơn ba mét ở phương Cấn dần, cách mộ độ ba trăm thước Tây, nghịch chuyển qua phương Quý Sửu đến phương Tý, độ hơn hai trăm thước xa. Rồi từ phương Tý đi qua một giải ruộng cao hơn hai bên độ ba, bốn tấc tây, thẳng đến phương Ngọ dài xa độ hơn trăm thước, bề ngang chừng chín. mười thước, đột lên một cái gò dài bằng khổ ruộng, chiều nằm ngang hình Mộc tinh. Ngang độ hai thước tây, cao gần một thước, phía trước là thửa ruộng thấp hơn phía sau, cách xa độ mười lăm thước, thì đến khu đồng ruộng trũng, không khoáng...
Sau đó lâu chừng mười phút ông bạn (chủ) hỏi:
- Thưa hai vị: cho hay kết về cách gì?
Ông thầy già nói:
- Xin chịu.
Tôi trả lời rằng:
- Cách "Tý long, Mộc tinh thụ huyệt", "Bạch ốc xuất công khanh"
Cả hai người đều ngạc nhiên. Xem ý ông bạn còn nghi hoặc, cho là tôi ngụy biện chăng? Và ông nói:
- Xin cho xem chữ ở bộ sách nào để xin thụ nghiệp.
Tôi nhận lời liền hôm sau đi theo về nhà tôi, và tôi giở xách cho xem ngay.Bấy giờ, cứ nhún vai lè lưỡi, vừa cười vừa lạy liền liền.
- Quá ư khâm phục: Thánh hiền dạy đúng lắm!
8. Một cái bằng chứng nữa: Khi tôi ở bên Trung Hoa vào năm 1948. Nhân một hôm có người là họ Hà, người huyện Minh Giang, tỉnh Quảng Tây đến thăm người anh em trong trụ sở của chúng tôl, với một người là thầy Địa lý đi cùng là họ Bành. Sau tôi mới cầm cái la kinh của y, rồi hỏi thử mấy phép về môn Địa lý, nhưng y không hiểu và thú thực là: y không được học thầy Địa lý chính tông, nên còn thiếu xót nhiều! Rồi xin tôi giảng cho nghe qua, sau nói:
- Xin làm đệ tử.
Tôi trả lời là không dám xin từ chối; xong cả hai người thành thực yêu cầu tôi, làm ơn đi xem giúp cái đất y mới tìm cho họ Hà, ở gần vùng chúng tôi trú thuộc huyện Minh Minh. Mấy hôm sau hai người dẫn tôi đến nơi xem, tôi thấy đất ấy cũng không phải là quý địa, mà điểm huyệt lại không phải là nơi chính kết. Tôi dẫn giải cho biết rồi điểm cho huyệt chính, chỗ cách xa chỗ huyệt tùy của y điểm trước, độ hơn trăm m. Y phục lắm! Hân hạnh là được học thực hành...
Từ đấy họ Hà mời tôi về nhà rồi đưa đi xem đất nhiều nơi, những chỗ đã tương truyền là có kiểu hay mà chưa ai để được đúng. Tôi đi du ngoạn mấy tháng, cũng xem được vài cái có quý cách và là đại địa, mới chỉ điểm cho biết để đánh dấu; rồi họa kiểu ghi hướng, tọa, phương vị lưu lại thôi. Vì gần làng người khác, còn phải chờ cơ hội thuận tiện để xin làng người ta cho mới để được. Và tám, chín ngôi nữa, vừa trung địa, vừa tiểu địa cũng tạm khá được, nhưng chưa tiện hạ táng. Có một ngôi tìm cho nhà họ Hà này, cũng ở về huyện Minh Giang, tỉnh Quảng Tây. Phải lên đỉnh quả núi cao, mới nhìn được nơi có huyệt, rồi tìm đường đi tới nơi kết huyệt đó; thấy là một quả đồi, cây cỏ rậm rạp, khu rừng không vào được, phải đốt hết cây cỏ cho quanh đãng mới điểm được huyệt, rồi đắp chiếm, cũng như ngôi mộ mới để.
Chỉ có một người bạn nhà họ Hà, ở làng có ngôi đất này biết thôi. Mấy tháng sau, người bạn này đến bảo họ Hà nhường lại cho y ngôi đất này, muốn lấy ruộng nương, trâu bò hay tiền bạc thế nào y cũng chịu: nhưng Hà từ chối: sợ phải tội với gia tiên, và nói sẽ nhờ thầy tìm cho một ngôi khác, không lấy tiền công. Sau người bạn nói chuyện cho Hà hay rằng: y đón được ông thầy Địa chính tông đi tìm đất, thầy chính tông cũng tìm đến chỗ đồi ấy, thấy ngôi của Hà đắp chiếm thầy nói:
- Người ta để đúng huyệt rồi, cả khu chỉ có một chỗ này thôi, ngoài ra đều không phải hết! Y nói cho ông thầy hay:
- Đây là ông thầy Việt Nam xem cho người bạn y; mới đắp chiếm giữ sẵn chứ chưa táng cốt...
Thầy liền cự y:
- Cả tỉnh Quảng Tây nhà ngươi cũng không có thầy Địa lý này nữa là Việt Nam, làm gì có thầy như thế. Nếu có đâu họ phải kiếm thầy Địa Trung Quốc. Đây là thầy Địa chính tông, người ta ẩn danh đấy! Nếu thực chưa táng thì đi nói mua lại được, thì thầy sẽ làm giúp cho không lấy tiền công… Vì vậy mà y dám nói xin họ Hà nhường lại cho...
Từ lúc ấy tôi lại có tín nhiệm thêm, những người biết tiếng cứ dến nhà họ Hà mời tôi đi tìm đất cho. Bên Tàu họ tín mộ địa lý lắm. Chỉ vì chiến tranh cản trở nên không tìm được thầy đi xem đất thôi. Năm 1949 khi về Hà Nội, có mấy người Tàu cũng tìm đến thăm tôi, và họ Hà cũng theo di cư vào Nam, hiện nay cũng ở Sài Gòn. Họ cũng vẫn hy vọng khi nào thế giới hòa bình, sẽ mời đón tôi trở lại Trung Hoa để làm cho họ những ngôi đất, tôi đã tìm được hồi ấy.
Ôi! Thời hồ bất tái lai phải chăng? Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên? Nghĩ lại đáng buồn thay. Nếu thời thế không biến cải xoay vần, có lẽ chúng tôi vẫn còn phải làm thầy Địa lý ly tông, lang thang nơi đất khách quê người, đâu được thấy gia đình, chủng tộc, giang sơn Tổ quốc ngày nay. Nghĩ đời mà chán cho đời. Đã có câu: "Vạn sự giai tiền định" lại còn câu: "Nhân định thắng thiên" thật là mâu thuẫn. Thôi việc trời trời làm; việc ta ta làm. Mặc cho cơ tạo xoay vần. Có thân cũng phải đem thân góp đời. Dầu thành dầu bại cũng vui. Vui vì không phải là người ăn không.
Việt Hải
Trước kia tôi cũng lầm lỗi là không tin và chống đối môn Địa lý phong thủy, vì khi ấy tôi mới mười chín, hai mươi tuổi chưa đọc sách Địa lý, chỉ được nghe người ta nói những câu chuyện Cổ tích khẩu truyền: Những thầy địa lý Tàu ngày xưa sang Việt Nam ta, tìm đất táng hài cốt gia tiên họ, như là chuyện của Cao Biền dậy non. Vì táng sống, chưa đủ bách nhật đã kêu gọi sống lại làm vua. Lại chuyện thầy Tàu thuê Đinh Bộ Lĩnh khi còn làm trẻ chăn trâu (vì là dòng giống Rái cá nên lặn giỏi) cầm gói xương người, lặn xuống đút vào mồm con rồng đá ở dưới nước.
Ông nhỏ tuổi mà đã có trí khôn, để gói xương ấy ở ngoài rồi chạy về nhà hỏi mẹ: Mả bố chôn ở đâu? Người mẹ nói: Xương bố mày gói ở cái mo cau, gác trong xó bếp ấy (tức là xương con Rái cá). Liền lấy đem ra lặn xuống đút vào mồm con rồng đá, con rồng ấy liền ngậm lại. Về sau mả ấy kết, phát ngay vào ông làm tướng dẹp loạn Thập nhị Sứ quân (tức là tướng Cờ lau) rồi lên làm vua v.v Lại chuyện ông thầy Tàu khác, tìm thấy đất biết trước là sau phát Trạng nguyên lưỡng quốc. Rồi hô thần để hỏi, thần hiện lên bảo:
- Đất này cho nhà Vũ Hồn chứ không cho nhà ngươi.
Vậy thầy Tàu phải đi tìm Vũ Hồn, bảo:
- Đem xương bố lại thầy táng giúp cho...
Còn chuyện cụ Tả Ao nước ta, khi thì thầy trò đi du ngoạn tìm đất, một hôm qua đường gặp buổi trưa đói bụng; thấy trong đình làng người ta có tiệc tế lễ sắp ăn uống, tìm ngay cái huyệt cứu bần tốc phát, cắm hướng chỉ cho học trò ngồi vào nhắm mắt lại im lặng. Rồi thầy vào đình xin, đòi lấy cả cái lễ vật quý nhất đã dâng tế thần, là cái thủ heo và cái mâm xôi của làng người ta... Lại khi gặp năm anh khóa đi thi, cụ hỏi:
- Có thằng nào muốn đậu không?
Cả năm anh đều thưa:
- Có ạ!
- Muốn đậu cả thì vào làng kia mua con heo nái ra đây.
Rồi bảo cả năm anh nằm xuống bú. Xong cụ cắm đất cho đào huyệt chôn con heo xuống. Sau quả nhiên có bốn anh bú thì đậu cả, còn một anh ghê, chỉ ngậm vờ thôi, không nuốt sữa thì bị trước...Tôi cho những câu chuyện ấy toàn là câu chuyện hoang đường, huyền hoặc như Thần thoại không thể tin được. Mặc dầu nhà tôi đã có ba đời biết làm địa lý mà tôi vẫn không tin. Cứ chế bác riễu cợt các cụ Thầy Địa hoài. Cười mỉa:
- Giữa thế kỷ thứ hai mươi mà còn có người mơ mộng mê tín dị đoan. Âu, Mỹ họ có Địa lý, Địa liền gì… mà họ văn minh cường thịnh thế? Nước mình còn lạc hậu quá. Cứ bị các nhà cổ nho Tàu đầu độc mãi.
Lúc ấy trong ý nghĩ của tôi, cho là thâm tâm họ chủ mưu ngụy biện viết ra sách, để lừa dối những người đời có tính tham vọng phú quý, mà hâm mộ tìm thầy kiếm đất, thì có lợi cho dòng dõi nhà làm thầy Địa lý của họ. Tôi nhầm tưởng cũng như nhà làm nghề giấy màu ngũ sắc của Tàu ngày xưa, mưu nghĩ ra kế làm đồ mã bằng nan tre, dán giấy, quần áo, voi, ngựa, trâu bò v.v…đều bằng giấy để dâng cúng cho linh hồn tiết rằm tháng bảy, để nghề của họ được phát tài, mà ngay nay vẫn còn có người tin.
Nên tôi chống đối. Vậy bị các cụ thầy Địa cự tôi và khinh thị, cho tôi là ngu dốt ngạo mạn nói càn. Nên về sau tôi mới đem sách Địa lý ra coi, rồi đi phúc khán những ngôi cựu phần, đã có bằng chứng là kết phát, phúc, họa, đã ứng vào con cháu thuộc dòng máu của ngôi mộ ấy, thử xem thực hay hư, thì mới có cớ để chống đối. Ngờ đâu khi xem đến, thấy có những địa hình kiểu hay cách dở chứng ứng ở chung quanh những ngôi mộ ấy, đúng như trong sách thánh hiền đã dạy! Càng xem càng ham và nhận thấy là mình ngu. Quả như câu châm ngôn:
"Có đọc sách mới thấy mình dốt". Từ đó tôi chú trọng về khoa Địa lý này như là một bảo vật tinh thần, chung của cả thế gian. Tôi đọc hết mấy bộ sách của gia truyền rồi đi ngoại giao với những nhà biết Địa lý. Kiếm thêm những sách Địa lý khác để tìm hiểu rộng hơn, học hỏi cho đến nơi đến chốn, cho thật tinh tường về địa đạo; mong sớm được thành tài để giúp ích cho nhà, cho bạn. Nhưng khốn nỗi "Cần nhi bất năng chuyên". Vì hoàn cảnh gia đình, vì thời vận quốc gia, thế giới chiến tranh...Bao nhiêu cản trở không cho tôi có phương tiện để đạt tới mục đích như ý muốn, rất là hối hận.
Tôi cũng không ngại phí tổn công phu để tiếp xúc với các nhà Địa lý, như các cụ Đồ, cụ Cử là bậc Tiền bối tìm thầy, kén bạn. Trong khi đàm luận với các cụ, về các lý thuyết chữ nghĩa thì thấy thông thạo lắm. Có nhiều cụ đọc thuộc lòng thao thao bất tuyệt, không cần mở sách, giỏi hơn mình nhiều. Nhưng lúc đáo xứ thực hành như: Nhận xét thế, cục để tầm long, điểm huyệt...thì thấy đa số lờ mờ, không đủ nhỡn lực nhìn xa trông rộng, để mà nhận định được đại địa chân long, chỉ có thể xem những cục địa thiển cận tiểu sảo ở nơi bình dương khoáng dã thôi.
Phần nhiều là còn sai nhầm, mình phải chỉ dẫn giúp cho mới nhận ra; thì còn mong học hỏi gì nữa, uổng mất thì giờ; bao phen gặp gỡ thử thách mà chưa được một người khá hơn. Vậy những khi nhân tiện có việc, được đi đến nơi nào có quý địa cao danh, là chịu khó lần mò để tìm thấy mộ ấy, mà gián tiếp học phép của Cổ sư đã thực hành đúng rồi, để mình tự thử sức mình xem có nhận được đúng, thì mình mới dám tin mình là biết. Nhưng vẫn nuôi hy vọng là đời còn nhiều nhân tài tinh tường địa đạo, thế nào cũng gặp người hiểu biết hơn, đầy kinh nghiệm và thực hành nhiều hơn mình, để làm thầy giám khảo chứng nhận cho, thì mới vững chắc. Vậy, hễ nghe tin có thầy địa lý giỏi là tìm đến.
Vào khoảng năm 1942 hoặc 1943, thấy có một đám táng của nhà phú quý ở Hà Nội thuê cả xa tang, cờ, trống, long trọng rước linh cữu đến dẫy núi Châu Sơn thuộc làng Ngọc Động, huyện Quế Dương tỉnh Bắc Ninh, mà đường xá xa xăm cách trở, thấy cũng phí tổn công lao khá nhiều. Nghe nói: Ông thầy Tàu để đất này đã được nhiều nhà Phú quý, quan liêu thời trước ở miền Bắc trọng dụng, phụng dưỡng hàng tháng, hàng năm ở trong nhà để đi tìm đất táng cho. Được tin nói tôi mừng quá vì ở trong vùng gần nhà. Giữa ngày hạ táng, chúng tôi đến tận nơi để quan sát, thì thấy huyệt cũng chẳng lấy gì làm đích xác, lập hướng, phân kim, cũng mập mờ không đúng, mà ngày giờ hạ táng cũng xấu không hợp với long, sơn, hướng vị.
Vậy tôi mời ông thầy Tàu ra ngoài để chất vấn. Lúc ấy có mấy người trong vùng tôi đi theo nghe chuyện địa lý, nên ông thầy này có vẻ mắc cỡ, nhưng cũng biết phục thiện cứ chối lỗi, nói là phải theo ý định của nhà tang chủ v.v… Tôi liền cự thầy cho đến mức, sau cứ xin lỗi, yêu cầu tôi đừng cho nhà chủ và người khác biết nữa, như thế có buồn cười không? Năm sau 1944 lại gặp ông thầy Tàu khác nữa, do một ông quan hành chính, giới thiệu đến tìm đất cho nhà ông bạn tôi ở huyện An Dũng, Bắc Giang, vì ông bạn chưa dám tin nên mới đón tôi qua nhà để thử xem, ông thầy Tàu này có phải là minh sư không, và giới thiệu với ông thầy tôi là anh của ông bạn để tiện việc giao tiếp...Tôi trông diện mạo ông thầy này có vẻ thư sinh quý phái, cũng như hạng ông thầy Tàu trước, tôi kính trọng và khiêm tốn giữ lễ tiếp tân. Trong khi vui vẻ đàm thoại, tôi đã vờ là không biết địa lý, lấy quyển lịch Tàu ra hỏi mấy cái thông thường, cần thiết của phép làm địa lý, thầy ngập ngừng… rồi trả lời:
- Cái này không dùng làm về địa lý.
Tôi lại hỏi thêm cái khác, thầy cũng trả lời như trước, tôi ngứa tai quá, hỏi:
- Thầy dùng những phép gì? Theo bộ sách nào? Cho tôi coi một chút.
Thầy lúng túng trả lời:
- Không đem sách đi.
- Thế thầy thuộc lòng cả ả? Thầy có thể đọc vài chữ đầu của bộ sách ấy cho tôi nghe xem? Có phải là sách quý như của các thầy không?
Cứ ấp úng không nói, cả ông chủ nhà cũng ghét! Tôi liền cự:
- Ông không biết gì về địa lý mà dám giả dối đi làm thầy lừa bịp người ta. Thưa ông làm thầy thuốc bậy thì giết một mạng người thôi, chứ làm thầy địa lý láo. Thì giết hại cả dòng họ người ta. Nếu ông không bỏ ngay nghề làm thầy của ông, tôi sẽ đưa ông đến tòa pháp luật.
Rồi thầy xin lỗi tôi. Cả đêm hôm ấy tôi thấy thầy cứ quằn quại không ngủ được, sáng hôm sau đi luôn. Than ôi! Đời này vẫn có hạng thầy như thế. Thật mỉa mai thay. Đến năm 1945 thì Nhật đảo chính Pháp. Rồi Mỹ lại trừ Nhật, nước ta thì nội loạn, lại ngoại xâm, rồi đến Quốc, Cộng chiến tranh, hết Pháp đến Mỹ kéo dài đến nay vẫn chưa dứt. Lúc nào cũng lo bảo vệ tính mạng, Quốc gia, thì còn làm gì được nữa. Thế là rốt cuộc, tôi không được trực tiếp thụ giáo một ông thầy nào cả, chỉ có gián tiếp học các vị tổ sư di giáo cho, ở trong các bộ sách về khoa học địa lý in và viết bằng chữ Hán, và đã chỉ dẫn sẵn cho những sự thực hành ở các ngôi mộ cổ nhân, đã hữu danh là kết phát, mà tôi đã chịu lao tâm mệt trí, ráng sức theo đuổi và đã được những sự kinh nghiệm.
Tuy gián tiếp, nhưng tự xét là tôi có thể làm được địa đạo, là những bằng chứng thuật lại dưới đây, mà thuật lại, viết ra thì cũng biết là lan man, dài dòng và đời cho là phô trương. Nhưng nếu không viết ra thì lấy gì làm bằng cớ để người ta tin rằng có địa lý? Vậy phải viết sơ qua mấy cái điển hình, để bạn đọc rõ, sau này ai có phương tiện thì đến mà xem, sẽ rõ mục đích:
1. Hồi trước vào khoảng năm 1927, 1928, nhân tôi đi đạc điền địa, ở miền thượng du Bắc việt, thấy một cái kiểu đất: Ngũ nhạc quán châu tác án, quy, xà trấn thủy khẩu; đại giang hoành ngoại cục; hậu đầu trùng, điệp cao sơn hồi bão, kim tinh thụ huyệt...tọa lạc tại làng Bạch Lưu Thượng, huyện Lập thạch, tỉnh Vĩnh Yên. Khi ấy tôi ở trọ nhà ông Chánh Hương Hội của làng ấy, ông ta biết tôi xem đất, rồi nói xin tôi để cho; tôi ưng cho rồi nhưng chưa kịp hạ táng. Sau khi tôi về thăm nhà quê vắng hai tuần lễ, lúc trở lại thấy ông ta (chủ nhà) nói:
- Ngôi đất thầy cho tôi đã để rồi xin thầy thứ lỗi, vì có ông thầy Tàu nghe nói là nhà địa lý chính tông, có người mời sang tìm đất cho nhà Hoàng Trọng Phu, một nhà quyền quý được thực dân Pháp tin cậy nhất Việt Nam thời đó. Nhưng ông thầy nói rằng, thấy nhà họ Hoàng này hết phúc rồi, nên không tìm cho trở về Vân Nam nước Tàu.
May quá! Khi thuyền nghỉ đậu lại bến đây, tôi gặp thầy Tàu đang cầm la tinh chiếu, tôi mới yêu cầu thầy ấy xem lại giúp cho, vậy đưa đến chỗ đất ấy. Thầy này bảo đất này quý lắm! Sau điểm huyệt cũng đúng chỗ, thầy cắm dấu cho ngày trước và đưa tờ bản đồ, phác họa của thầy Tàu, vẽ kiểu đất cho tôi xem, có ghi ngày giờ, tháng, năm để mả và đặt tên kiểu là "Kim Kê Bão Noãn". Và thầy không nhận lấy một đồng tiền tạ công ơn lúc bấy giờ, ông thầy nói: Sau này kết phát thầy sẽ đến, cho bao nhiêu thầy cũng sẽ nhận v.v… Tiếc rằng tự khi ấy đến bây giờ, tôi không được trở lại xem đất ấy ra sao? Ngôi mộ này ở sườn quả núi tròn, hướng Nam tọa quý, hướng đinh ngoài án có con sông lớn, núi ấy gọi là Gò đinh.
2. Ngôi đất của nhà họ Mai ở làng Đào viên, huyện Quế Dương Bắc Ninh nơi gần quê hương tôi. Đất này thầy để đất cho, xưa đã bảo: Đất này kết phát " Cửu đại chu" nhưng hiềm " Bất ly phong nhân", tức là được chín đời làm quan đại thần ở trong triều đình, nhưng đều bị tội tử hình về đao kiếm. Quả nhiên sau tám đời nối liền làm quan thanh liêm, mà vẫn đều bị vu oan mắc tội chém cả. Còn một ông thứ chín muốn tỵ nạn ấy, làm quan nữa chừng xin thoái quan từ chức về nhà sớm, nhất định ở nhà vui thú điền viên không chịu đi giao du đâu cả, đến ở trong làng gần nhà cũng vậy.
Nhân một hôm ở đình làng có tiệc lễ ăn uống và xẩy ra sự tranh giành nhau quá gay go kịch liệt. Cả các kỳ lão hương chức không phân xử nổi, dân làng đồng ý phải mời quan lớn ra công đình phân giải quyết đoán cho dân thì mới yên được. Nhưng mấy lần vào mời ngài cũng không chịu đi, cứ quyết tâm từ chối và nói gửi lời: Xin làng miễn cho vì lý do… và làng quyết định thế nào ngài cũng ưng theo, chỉ yêu cầu là miễn cho việc ra công đình. Nhưng làng xử không được, mắng chửi thằng mõ là không đi mời đến nơi. Và bắt nó phải đi mời bằng được ngài ra thì mới xong. Đến lần cuối cùng nó cầm con dao nhọn dấu trong áo, mời ngài không đi là nó đâm chết ngay tại nhà! Thế mới thật tin là nét đất phản.
3. Ngôi mộ kiểu đất gọi là hoàng xà táng nhĩ, ở làng Vĩnh Kiều, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, nhưng đâu có hình con xà, chỉ thấy khu ruộng cấy lúa vụ mùa và trồng khoai đậu, ở gần đường xe lửa giáp xóm làng ở. Mộ kết vào cái gò hình chữ nhật thấp nhỏ, ở gần phía ruộng trũng cấy lúa chiêm, gối đầu vào khu ruộng cao hình thế bị đào xẻ, khuất lũy tre làng và đường xe lửa cao khó xem, nên phải đi vòng lâu mới nhận ra huyệt ấy là đất phát "Kế thế cao khoa, toàn gia thực lộc" về Lê triều...
4. Ngôi đất họ Nguyễn ở làng Kim Đôi, huyện Võ Giàng, Bắc Ninh: Có cách Minh đường cửu khúc nghịch chiều, long sa bút tốn, hổ đới bảng tân. đại giang cận hậu, mà phát mười tám Tiến sĩ đồng triều đó. Tân Long uyển chuyển chí hợi nhập nhĩ, phát phúc trường viễn, nhưng vì phản nhau xẻ cống, nước chảy ra thẳng sông cái, đứt cuống mạch nên hỏng về thời Pháp.
5. Ngôi mộ họ Nguyễn ở làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, Bắc Ninh: Có kiểu hình nhân chú sáo, do "hổ xuất trường can". Huyệt ất thổ tinh, hốt kính tác án, tọa ất hướng tân. Xuất thân khoa bảng, chi kiêm văn, võ, khai quốc công thần. Các ngôi kể trên, tự tôi tìm thấy.
6. Ngôi mộ nhà Trạng Me ở làng Hương Mặc, huyện Đông Ngàn, Bắc Ninh. Ngôi này cụ Tả Ao để cho, vì có sự tích là "Trạng Me đè Trang Ngọt". Nên xưa nay các thầy địa lý thường hay đến xem. Nhân có ông thầy ở gần tôi, đã nổi tiếng là giỏi Địa lý, ông này được người quen biết dẫn đến xem mộ rồi, nên vẫn hứa hẹn sẽ đố tôi để thử thách v.v… Nhưng ít khi có thì giờ để cùng đi, vì ở xa không tiện lộ. Nhân tiện dịp đầu Xuân, vào ngày 6 tháng giêng, năm Nhâm Thân 1932, có cả bọn hơn chục người anh, chị em cùng đi có việc khác, qua làng Me.
Ông ấy dẫn lại gần nơi khu mộ đó bảo:
- Ở trong khu này đấy để khỏi đi xa mất thì giờ; tôi dừng lại chưa đây năm phút đã đến nhận thấy ngay ngôi mộ ở trên cái gò nhỏ, rộng hơn hai thước, dài độ bốn thước, cao độ một thước tây, đột lên ở giữa bờ ruộng cao, ruộng thấp giáp nhau.
Ông ấy cười và nói to:
- Không phải, kết lâu ở mộ đó. Ở kia kìa.
Chỉ vào ngôi mộ đắp vuông ở dưới ruộng liền, cái gò ấy cách xa ước khoảng gần 20 thước, cũng trông vào cái ruộng vuông, cao hơn bốn bề, độ 10 phân tây gọi là cái mảng tác án...
Lúc ấy, cả bọn cùng cười:
- Thôi, thầy trẻ thua thầy già rồi
Tôi tức quá cự lại:
- Các người biết gì đâu mà vội cười. Nếu thực ngôi kia là cụ Tả Ao để thì khỏi nói, không cần xem cũng biết là đúng, nhưng ngôi mộ ở cái gò này, tôi dám quyết là cũng kết to, vào làng hỏi xem đã. Nếu không phải thì tôi sẽ đập tan la kinh ngay tại đây và về đốt sách luôn. Không làm địa lý nữa là vì sách dạy sai...
Rồi cả bọn cùng đi, thấy trong đình làng ấy có những kỳ lão, nhân viên sang trọng, có vẻ là các chức tước hội họp… Liền cùng vào xem phong cảnh, chủ ý để hỏi chuyện đó.
Thấy các cụ chào mời có vẻ lịch sự, mời ngồi, chưa kịp uống nước tôi liền hỏi:
- Thưa các vị, chúng tôi muốn biết rõ ngôi mộ cụ Tả Ao để cho nhà cụ Trạng?
Trả lời:
- Chính ngôi mộ đắp vuông ở cái ruộng cỏ ấy. Toan dẫn đi xem. Tôi nói:
- Đã xem rồi.
Thế là tôi thua. Cả bọn nhìn tôi mỉm cười!
Tôi hỏi tiếp:
- Thưa quý vị, còn ngôi mộ để trên cái gò nhỏ ở sau cái mộ đắp vuông ấy của nhà ai?
Lúc ấy thấy các vị đều ngước nhìn tôi, như có vẻ… Và nói:
- Các ông ở đâu? Ông còn ít tuổi mà địa lý tin tường như thế!...
Xong rồi một ông đã đứng tuổi nhã nhặn thuật lại sự tích cho biết, chính ngôi đó (ở gò) lúc đầu cụ Tả đã cho nhà họ cụ Trạng, cắm chỗ đào huyệt từ chiều hôm trước và hẹn giờ… Sáng mai đem cốt lại hạ táng.. Lúc ấy có một người làng là họ Đàm đứng ở đấy nghe biết rõ sự thể, đêm về bảo nhau đem hài cốt của nhà đến trước trực sẵn, chờ cụ Tả ra gần đến nơi là hạ ngay cốt xương trước, đặt về một nửa huyệt và van lạy, xin thầy cho cả hai ngôi cùng táng chung một huyệt.
Cụ Tả thấy lễ độ bảo bên kia:
- Thôi cho nó chỗ này, ra để chỗ kia lấy Trạng nguyên! Cụ liền chỉ cho đào huyệt khác ở dưới ruộng, là cái mộ đắp vuông đó rồi phân kim cho cả hai nhà. Khi ấy cụ tính đốt ngón tay bảo:
- Đến khoa… đỗ Trạng nguyên.
Học trò cụ nói:
- Thưa! Thầy lẫn rồi hôm nọ thầy bảo cái mộ bên làng Ngọt đến khoa ấy thì chiếm Trạng nguyên, ngày nay thầy lại bảo đến khoa ấy đỗ Trạng nguyên người ta cười cho. Làm gì có hai Trạng nguyên một khoa?
Cụ Tả liền bảo:
- Rồi Trạng Me đè Trạng Ngọt!
Về sau đến khoa ấy ông ở làng Ngọt (làng Như Nguyệt) đậu Trạng nguyên, ông ở làng Me (làng Hương Mặc) kém vài phân điểm đứng dưới. Nhưng ông Me đẹp trai khôi ngô hơn ông Ngọt. Vì vua kén rễ Trạng Nguyên mà con gái vua ưng ý ông Me, vua biết ý chiều lòng con gái, khi ra sân rồng khảo sát lập kế để bác ông Ngọt cho ông Me Trạng Nguyên. Vua hỏi:
- Hà giả vi Trạng Nguyên?
Chánh chủ khảo kính tâu và chỉ vào ông Trạng Ngọt, vua liền chỉ vào ông Me:
- Thử nhân, khởi bất khả Trạng nguyên hồ? (người này mà không đỗ Trạng nguyên à?)
Chủ khảo tâu:
- Cũng sóng sánh ngang tài nhau ạ.
Vua bảo:
- Thế thì ra cho câu để đối, ai đối trước thì lấy Trạng nguyên.
Vua liền ra câu:
- Mũ áo đưa ông mặc.
Ông Me ứng khẩu luôn:
- Tàn tán rước bố về.
Ông Ngọt tưởng ra cho mỗi người một câu, nên không đối, thế là lấy cớ "văn hay không tầy ứng khẩu". Thế là Trạng Me đè Trạng Ngọt thực, sự tích còn ghi rõ.
7. Còn một ngôi mộ thiên táng ở đồng Bờ vàng thuộc làng Tư Mại Thạch Thôn, huyện Yên Dũng, Bắc Giang, truyền lại sự tích: Có người đàn bà cùng trong bọn đi cấy mướn, quê ở phương xa vùng Sơn Tây, khi cùng bọn đương cấy chiêm, mùa đông giá rét lạnh bị cơn đau bụng, lên ngồi dựa lưng vào cái gò để khuất gió. Đến gần tối, người đồng bọn tới gọi đi về, thì thấy chết rồi. Đành bỏ lại sáng mai đem hòm ra để chôn cất thì mối đã đùn đất kín cả người, chỉ còn hở cái đầu thôi. Vậy bảo nhau:
- Thiên táng rồi cứ để yên.
Rồi bồi đắp thêm cho kín thành nấm mồ vô chủ. Mãi đến đời cháu nội đậu Tiến sĩ mới tìm nhận mộ. Sau đó nhiều thầy Địa đến xem mà không ai rõ kết phát về cách gì, vì đồng ruộng bình thản coi bạc nhược, lại không có tinh phong đột khởi, như bút, bảng và long mạch, cũng không phải là phương Tam cát, Lục tú... Thế mà đời xưa chưa có ngôi mộ thiên táng này cũng đã có thầy nói là: Có kiểu: "Bờ vàng Tiến sĩ" thế mà bao nhiêu đời nay thời sư không biết, đều cho là không phải đỗ Tiến sĩ về đất này...
Năm 1944 có ông bạn tôi ở trong vùng này, gần ngôi mộ đó, mời tôi và một ông Địa già nữa, đưa cả đến tận nơi:
- Thưa, hai thầy xem ngôi này kết phát về cách gì? Để chúng tôi xin học…
Tôi nhìn bao quát cục thế thì sơ soàng thực, chỉ thấy có một cái gò hình tròn bầu dục, cao độ hơn ba mét ở phương Cấn dần, cách mộ độ ba trăm thước Tây, nghịch chuyển qua phương Quý Sửu đến phương Tý, độ hơn hai trăm thước xa. Rồi từ phương Tý đi qua một giải ruộng cao hơn hai bên độ ba, bốn tấc tây, thẳng đến phương Ngọ dài xa độ hơn trăm thước, bề ngang chừng chín. mười thước, đột lên một cái gò dài bằng khổ ruộng, chiều nằm ngang hình Mộc tinh. Ngang độ hai thước tây, cao gần một thước, phía trước là thửa ruộng thấp hơn phía sau, cách xa độ mười lăm thước, thì đến khu đồng ruộng trũng, không khoáng...
Sau đó lâu chừng mười phút ông bạn (chủ) hỏi:
- Thưa hai vị: cho hay kết về cách gì?
Ông thầy già nói:
- Xin chịu.
Tôi trả lời rằng:
- Cách "Tý long, Mộc tinh thụ huyệt", "Bạch ốc xuất công khanh"
Cả hai người đều ngạc nhiên. Xem ý ông bạn còn nghi hoặc, cho là tôi ngụy biện chăng? Và ông nói:
- Xin cho xem chữ ở bộ sách nào để xin thụ nghiệp.
Tôi nhận lời liền hôm sau đi theo về nhà tôi, và tôi giở xách cho xem ngay.Bấy giờ, cứ nhún vai lè lưỡi, vừa cười vừa lạy liền liền.
- Quá ư khâm phục: Thánh hiền dạy đúng lắm!
8. Một cái bằng chứng nữa: Khi tôi ở bên Trung Hoa vào năm 1948. Nhân một hôm có người là họ Hà, người huyện Minh Giang, tỉnh Quảng Tây đến thăm người anh em trong trụ sở của chúng tôl, với một người là thầy Địa lý đi cùng là họ Bành. Sau tôi mới cầm cái la kinh của y, rồi hỏi thử mấy phép về môn Địa lý, nhưng y không hiểu và thú thực là: y không được học thầy Địa lý chính tông, nên còn thiếu xót nhiều! Rồi xin tôi giảng cho nghe qua, sau nói:
- Xin làm đệ tử.
Tôi trả lời là không dám xin từ chối; xong cả hai người thành thực yêu cầu tôi, làm ơn đi xem giúp cái đất y mới tìm cho họ Hà, ở gần vùng chúng tôi trú thuộc huyện Minh Minh. Mấy hôm sau hai người dẫn tôi đến nơi xem, tôi thấy đất ấy cũng không phải là quý địa, mà điểm huyệt lại không phải là nơi chính kết. Tôi dẫn giải cho biết rồi điểm cho huyệt chính, chỗ cách xa chỗ huyệt tùy của y điểm trước, độ hơn trăm m. Y phục lắm! Hân hạnh là được học thực hành...
Từ đấy họ Hà mời tôi về nhà rồi đưa đi xem đất nhiều nơi, những chỗ đã tương truyền là có kiểu hay mà chưa ai để được đúng. Tôi đi du ngoạn mấy tháng, cũng xem được vài cái có quý cách và là đại địa, mới chỉ điểm cho biết để đánh dấu; rồi họa kiểu ghi hướng, tọa, phương vị lưu lại thôi. Vì gần làng người khác, còn phải chờ cơ hội thuận tiện để xin làng người ta cho mới để được. Và tám, chín ngôi nữa, vừa trung địa, vừa tiểu địa cũng tạm khá được, nhưng chưa tiện hạ táng. Có một ngôi tìm cho nhà họ Hà này, cũng ở về huyện Minh Giang, tỉnh Quảng Tây. Phải lên đỉnh quả núi cao, mới nhìn được nơi có huyệt, rồi tìm đường đi tới nơi kết huyệt đó; thấy là một quả đồi, cây cỏ rậm rạp, khu rừng không vào được, phải đốt hết cây cỏ cho quanh đãng mới điểm được huyệt, rồi đắp chiếm, cũng như ngôi mộ mới để.
Chỉ có một người bạn nhà họ Hà, ở làng có ngôi đất này biết thôi. Mấy tháng sau, người bạn này đến bảo họ Hà nhường lại cho y ngôi đất này, muốn lấy ruộng nương, trâu bò hay tiền bạc thế nào y cũng chịu: nhưng Hà từ chối: sợ phải tội với gia tiên, và nói sẽ nhờ thầy tìm cho một ngôi khác, không lấy tiền công. Sau người bạn nói chuyện cho Hà hay rằng: y đón được ông thầy Địa chính tông đi tìm đất, thầy chính tông cũng tìm đến chỗ đồi ấy, thấy ngôi của Hà đắp chiếm thầy nói:
- Người ta để đúng huyệt rồi, cả khu chỉ có một chỗ này thôi, ngoài ra đều không phải hết! Y nói cho ông thầy hay:
- Đây là ông thầy Việt Nam xem cho người bạn y; mới đắp chiếm giữ sẵn chứ chưa táng cốt...
Thầy liền cự y:
- Cả tỉnh Quảng Tây nhà ngươi cũng không có thầy Địa lý này nữa là Việt Nam, làm gì có thầy như thế. Nếu có đâu họ phải kiếm thầy Địa Trung Quốc. Đây là thầy Địa chính tông, người ta ẩn danh đấy! Nếu thực chưa táng thì đi nói mua lại được, thì thầy sẽ làm giúp cho không lấy tiền công… Vì vậy mà y dám nói xin họ Hà nhường lại cho...
Từ lúc ấy tôi lại có tín nhiệm thêm, những người biết tiếng cứ dến nhà họ Hà mời tôi đi tìm đất cho. Bên Tàu họ tín mộ địa lý lắm. Chỉ vì chiến tranh cản trở nên không tìm được thầy đi xem đất thôi. Năm 1949 khi về Hà Nội, có mấy người Tàu cũng tìm đến thăm tôi, và họ Hà cũng theo di cư vào Nam, hiện nay cũng ở Sài Gòn. Họ cũng vẫn hy vọng khi nào thế giới hòa bình, sẽ mời đón tôi trở lại Trung Hoa để làm cho họ những ngôi đất, tôi đã tìm được hồi ấy.
Ôi! Thời hồ bất tái lai phải chăng? Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên? Nghĩ lại đáng buồn thay. Nếu thời thế không biến cải xoay vần, có lẽ chúng tôi vẫn còn phải làm thầy Địa lý ly tông, lang thang nơi đất khách quê người, đâu được thấy gia đình, chủng tộc, giang sơn Tổ quốc ngày nay. Nghĩ đời mà chán cho đời. Đã có câu: "Vạn sự giai tiền định" lại còn câu: "Nhân định thắng thiên" thật là mâu thuẫn. Thôi việc trời trời làm; việc ta ta làm. Mặc cho cơ tạo xoay vần. Có thân cũng phải đem thân góp đời. Dầu thành dầu bại cũng vui. Vui vì không phải là người ăn không.
Việt Hải
#168
Gửi vào 01/07/2011 - 07:12
LINH NGHIỆM TRÊN ĐẢO GALANG
Tuy thời gian có xóa mờ nhiều dấu xưa nền cũ, nhưng Galang được coi như một trại tỵ nạn được bảo trì và tân tạo tốt đẹp nhất trong số các địa điểm tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam ở Đông Nam Á. Dọc con đường từ cầu tàu đến Galang I và Galang II, cây cỏ được cắt xén gọn gàng, nhiều di tích được trùng tu và bảo quản tươm tất như Chùa Quan Âm, Nhà thờ Đức Mẹ Vô nhiễm, Trung tâm Sinh hoạt Thanh thiếu niên và đặc biệt, Khu trưng bày Di tích Thuyền nhân...
Dù vậy, mọi người tham dự chuyến đi đều mang một cảm giác trống vắng và rờn rợn khi đặt chân lên đảo. Đêm trước ngày lên đường, tôi nhận được một cú điện thoại từ Singapore gọi về Úc của anh Trần Đông, trưởng ban tổ chức, về một hiện tượng lạ ở Galang:
- Này ông nhà báo, hồn ma đang chuẩn bị đón tiếp chúng ta đó!
Tưởng là chuyện đùa, vì tôi biết anh và tôi đều không tin những chuyện hoang đường như vậy, nhưng khi được nghe chính cô Anne kể lại, gai ốc tôi tự nhiên nổi lên cùng mình. Cô nói khi đến Galang vài ngày trước để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của đoàn, người coi giữ phòng bảo tàng di tích thuyền nhân đã kể cho cô nghe về chiếc đánh máy chữ trong phòng tự động gõ mấy chữ “people coming” (có người trở về) trên trục quay phủ đầy bụi.
Đó là chiếc máy chữ kiểu cũ, thời thập niên 1970 được dùng làm phương tiện dạy nghề cho thuyền nhân trên đảo, được giữ lại cùng với hàng trăm vật dụng khác trong phòng bảo tàng. Nét chữ rõ ràng trên chiếc trục quay mà không có dấu tay trên phím bấm, khiến ông ta xác quyết những tiếng động lạ lùng trong phòng vào đêm trước là do kẻ khuất mặt tạo nên.
Quả nhiên, hôm sau cô Anne đến và cho biết sẽ có một đoàn cựu thuyền nhân Việt Nam thứ nhì về thăm lại đảo. Nhưng câu chuyện mà tôi tận mắt chứng kiến, đã làm chấn động tâm tư và thay đổi suy nghĩ của mình về vấn đề siêu hình. Thật có một cảnh giới huyền bí khác bên ngoài, hay song song với thế giới chúng ta đang sống hay không? Tôi chưa dám trả lời câu hỏi này nhưng cũng xin ghi lại đây câu chuyện đó.
Trong những ngày đầu của chuyến đi, tôi ở cùng phòng với một thanh niên tên Hiếu từ Melbourne. Người bạn trẻ này ở đảo Galang khi còn là một cậu bé mười mấy tuổi, và đã tham dự với đoàn để tìm lại dấu vết “những ngày thơ ấu xưa” mà anh chỉ còn nhớ mang máng. Khi đi, anh được người quen nhờ một việc: tìm giúp ngôi mộ của một người thân.
Khi đoàn đến Galang III, tên gọi của chính thuyền nhân đặt cho Nghĩa trang Galang, anh cùng tôi lần lượt đi từng ngôi mộ để thắp nhang và tìm kiếm. Trong tiếng kinh cầu râm ran giữa ánh nắng trưa gay gắt của miền nhiệt đới, hai chúng tôi vuốt mồ hôi đầm đìa trên mặt và kiên nhẫn vạch cỏ, gạt đất, cắm nhang, tưới nước trên những phần mộ. Thời gian ít oi khiến chúng tôi không thể làm xong việc cho hơn 500 ngôi mộ tại đây. Khi tiếng loa gọi mọi người trở lại xe, anh bạn trẻ lâm râm khấn nguyện cầu xin hương hồn người quá cố dẫn đường:
- Chú ơi, cô nhờ con tìm mộ của chú nhưng chưa thấy. Chú sống khôn thác thiêng xin chỉ đường cho con...
Trong nỗi thất vọng, chúng tôi đốt nén nhang cuối cùng trên tay, để cắm lên những phần mộ quanh đó như một cử chỉ giã biệt trước khi ra xe. Lọng cọng thế nào, người bạn trẻ đánh rơi chiếc bật lửa xuống đất. Nó chun lọt vào đám cỏ dầy khiến chúng tôi phải bươi lên tìm kiếm. Khi nhìn thấy nó, bàn tay người bạn trẻ cũng vừa chạm một tấm bia, trên đó ghi rõ tên tuổi của người mà anh muốn tìm.
Giữa buổi trưa nắng gắt, hai chúng tôi bỗng rùng mình lạnh ngắt...
Lưu Dân
Tuy thời gian có xóa mờ nhiều dấu xưa nền cũ, nhưng Galang được coi như một trại tỵ nạn được bảo trì và tân tạo tốt đẹp nhất trong số các địa điểm tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam ở Đông Nam Á. Dọc con đường từ cầu tàu đến Galang I và Galang II, cây cỏ được cắt xén gọn gàng, nhiều di tích được trùng tu và bảo quản tươm tất như Chùa Quan Âm, Nhà thờ Đức Mẹ Vô nhiễm, Trung tâm Sinh hoạt Thanh thiếu niên và đặc biệt, Khu trưng bày Di tích Thuyền nhân...
Dù vậy, mọi người tham dự chuyến đi đều mang một cảm giác trống vắng và rờn rợn khi đặt chân lên đảo. Đêm trước ngày lên đường, tôi nhận được một cú điện thoại từ Singapore gọi về Úc của anh Trần Đông, trưởng ban tổ chức, về một hiện tượng lạ ở Galang:
- Này ông nhà báo, hồn ma đang chuẩn bị đón tiếp chúng ta đó!
Tưởng là chuyện đùa, vì tôi biết anh và tôi đều không tin những chuyện hoang đường như vậy, nhưng khi được nghe chính cô Anne kể lại, gai ốc tôi tự nhiên nổi lên cùng mình. Cô nói khi đến Galang vài ngày trước để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của đoàn, người coi giữ phòng bảo tàng di tích thuyền nhân đã kể cho cô nghe về chiếc đánh máy chữ trong phòng tự động gõ mấy chữ “people coming” (có người trở về) trên trục quay phủ đầy bụi.
Đó là chiếc máy chữ kiểu cũ, thời thập niên 1970 được dùng làm phương tiện dạy nghề cho thuyền nhân trên đảo, được giữ lại cùng với hàng trăm vật dụng khác trong phòng bảo tàng. Nét chữ rõ ràng trên chiếc trục quay mà không có dấu tay trên phím bấm, khiến ông ta xác quyết những tiếng động lạ lùng trong phòng vào đêm trước là do kẻ khuất mặt tạo nên.
Quả nhiên, hôm sau cô Anne đến và cho biết sẽ có một đoàn cựu thuyền nhân Việt Nam thứ nhì về thăm lại đảo. Nhưng câu chuyện mà tôi tận mắt chứng kiến, đã làm chấn động tâm tư và thay đổi suy nghĩ của mình về vấn đề siêu hình. Thật có một cảnh giới huyền bí khác bên ngoài, hay song song với thế giới chúng ta đang sống hay không? Tôi chưa dám trả lời câu hỏi này nhưng cũng xin ghi lại đây câu chuyện đó.
Trong những ngày đầu của chuyến đi, tôi ở cùng phòng với một thanh niên tên Hiếu từ Melbourne. Người bạn trẻ này ở đảo Galang khi còn là một cậu bé mười mấy tuổi, và đã tham dự với đoàn để tìm lại dấu vết “những ngày thơ ấu xưa” mà anh chỉ còn nhớ mang máng. Khi đi, anh được người quen nhờ một việc: tìm giúp ngôi mộ của một người thân.
Khi đoàn đến Galang III, tên gọi của chính thuyền nhân đặt cho Nghĩa trang Galang, anh cùng tôi lần lượt đi từng ngôi mộ để thắp nhang và tìm kiếm. Trong tiếng kinh cầu râm ran giữa ánh nắng trưa gay gắt của miền nhiệt đới, hai chúng tôi vuốt mồ hôi đầm đìa trên mặt và kiên nhẫn vạch cỏ, gạt đất, cắm nhang, tưới nước trên những phần mộ. Thời gian ít oi khiến chúng tôi không thể làm xong việc cho hơn 500 ngôi mộ tại đây. Khi tiếng loa gọi mọi người trở lại xe, anh bạn trẻ lâm râm khấn nguyện cầu xin hương hồn người quá cố dẫn đường:
- Chú ơi, cô nhờ con tìm mộ của chú nhưng chưa thấy. Chú sống khôn thác thiêng xin chỉ đường cho con...
Trong nỗi thất vọng, chúng tôi đốt nén nhang cuối cùng trên tay, để cắm lên những phần mộ quanh đó như một cử chỉ giã biệt trước khi ra xe. Lọng cọng thế nào, người bạn trẻ đánh rơi chiếc bật lửa xuống đất. Nó chun lọt vào đám cỏ dầy khiến chúng tôi phải bươi lên tìm kiếm. Khi nhìn thấy nó, bàn tay người bạn trẻ cũng vừa chạm một tấm bia, trên đó ghi rõ tên tuổi của người mà anh muốn tìm.
Giữa buổi trưa nắng gắt, hai chúng tôi bỗng rùng mình lạnh ngắt...
Lưu Dân
#169
Gửi vào 01/07/2011 - 07:22
SỰ BÁO THÙ CỦA CÁC SINH VẬT LỬA
Antoni Tcharnotski, giám đốc sở cứu hỏa thành phố Rakshava, đặt tờ thống kê các đám cháy sang một bên rồi mệt mỏi nằm dài ra trên đi văng, khoan khoái hút điếu xì gà Cuba. Bấy giờ là khoảng hơn bốn giờ chiều, tiết trời tháng bảy nóng nực. Qua tấm mành buông kín, ánh sáng ban ngày mờ mờ nhuốm vàng căn phòng, bầu không khí oi bức ngột ngạt như cuộn lên thành những làn sóng vô hình.
Tiếng ồn ngoài đường phố như ngái ngủ vì nóng nực vọng vào đều đều, trên các ô cửa sổ, những con ruồi mệt lử bay vo vo rời rạc và yếu ớt. Tcharnotski phân tích các ghi chép, đối chiếu các ngày tháng, xếp loại những tư liệu đã tích lũy được trong nhiều năm, rút ra các kết luận.
Ai có thể nghĩ ngợi được rằng từ các số liệu thống kê lãnh đạm, lại hiện lên một bức tranh thú vị đến thế, mà tất cả chỉ vì chúng được nghiên cứu một cách có phương pháp và cực kỳ kỹ lưỡng. Ai mà ngờ từ những con số ngày tháng khô khan, thoạt nhìn chẳng nói lên điều gì, lại có thể lấy ra được những kết quả khiến người ta bàng hoàng cả người, lại giúp ta nhận thấy trong mớ hỗn độn các sự việc tưởng như khó phân biệt, lặp đi lặp lại rất đơn điệu những hiện tượng kỳ lạ đến thế!
Nhưng để nhìn ra một điều gì như vậy, để nắm bắt được một điều gì như vậy, cần phải có một linh cảm đặc biệt, và thậm chí có lẽ cần cả một cấu tạo có thể chất đặc biệt. Hiển nhiên Tcharnotski chính là một trong những người như thế và ông hiểu rất rõ điều đó. Đã nhiều năm ông nghiên cứu về các đám cháy, tìm hiểu chúng ở Rakshava và ở bất cứ đâu, thu nhập hết sức cẩn thận các bài cắt ở báo chí, lục lọi sách báo chuyên ngành, xem nhiều bản thống kê so sánh.
Trong các cuộc nghiên cứu khác thường, những tấm bản đồ chi tiết hầu hết các vùng trên thế giới, đã giúp ích cho ông rất nhiều; các ngăn tủ trong phòng thư viện của ông xếp chặt những cuốn sách dày cộp. Ở đó có sơ đồ các thủ đô, các thành phố và khu dân cư với tất cả những phố, những ngõ chằng chịt, những quảng trường và xó xỉnh, những vườn cây và công viên, những công trình xây dựng, nhà thờ và nhà cửa, tóm lại đó là những sơ đồ vẽ rất tỉ mỉ: bất kỳ ai dù mới đến lần đầu, dựa vào bảng hướng dẫn ấy cũng dễ dàng định hướng được, như thể đó là thành phố quê hương vậy.
Các sơ đồ ấy đều được đánh số cẩn thận, được sắp xếp theo từng huyện, từng vùng, sẵn sàng phục vụ: chủ nhân chỉ cần đưa tay ra là những tờ trình vuông và hình chữ nhật, bằng vải, bằng ni lông hay bằng giấy cung cấp ngay mọi chi tiết muốn tìm. Tcharnotski cắm cúi hàng giờ trên các tấm bản đồ, nghiên cứu và so sánh cách sắp xếp nhà cửa và đường phố của những thành phố khác nhau. Công việc ấy cực kỳ tỉ mẩn, đòi hỏi một sự kiên nhẫn ghê gớm. Không phải bao giờ các kết luận cũng tự nhiên bật ra, nhiều khi phải chờ đợi rất lâu mới tóm được một kế quả nào đó.
Nhưng Tcharnotski bấu chặt như con ve, con bọ chét. Hễ thấy một chi tiết ngờ ngợ, là ông bám riết ngay lấy, rồi không cho phép mình nghỉ ngơi trì hoãn, sớm muộn ông cũng tìm ra được những khâu trước đó hoặc những câu tiếp theo. Sau nhiều năm gian khổ, ông đã có được những "tấm bản đồ hỏa hoạn" đặc biệt, ngoài ra ông còn có được cái gọi là những "biến thể của các đám cháy". Trên các tấm bản đồ có đánh dấu những nơi, những công trình xây dựng và nhà cửa từng bị hỏa hoạn, bất kể thiệt hại không đáng kể hay là bị thiêu rụi hoàn toàn.
Còn trên những bản vẻ gọi là "biến thể các đám cháy" thì ghi lại những thay đổi diễn ra trong quy hoạch xây dựng sau vụ hỏa hoạn; tất cả mọi thay đổi dù nhỏ nhất đều được ghi lại cẩn thận. So sánh các tấm bản đồ hai loại kể trên, dần dần Tcharnotski đi đến những kết luận lý thú. Nếu nối những điểm xảy ra hỏa hoạn ở một vùng nào đó, thì trong tám mươi phần trăm các trường hợp, sẽ hiện lên đường viền những sinh vật kỳ lạ, đôi khi chúng giống như những đứa trẻ quái thai, nhưng thường thường, đó là hình những con thú nhỏ thú vị, những con vượn cáo đuôi dài xoắn vặn rất ngộ, những con sóc nhanh nhẹn thân uốn vòng, những con khỉ trông buồn cười đến mức dị dạng.
Tcharnotski lấy từ trong các sơ đồ ra cả một bộ sưu tập như thế, ông tô màu sặc sỡ rồi đưa chúng vào một cuốn album độc đáo, chắc hẳn không ai có, ngoài bìa đề dòng chữ "Album các sinh vật lửa". Phần hai bộ sưu tập của ông là những "trích đoạn và phác thảo", rất nhiều những hình kỳ cục không rõ ràng, chu tuyến chưa hoàn chỉnh, chỉ có thể lờ mờ phỏng đoán. Ở đây phác họa những cái đầu, những mẫu thân thể, những khúc chân tay, những cái cẳng tẽ ngón lông lá, đây đó còn hiện lên những hình học, những hình như vết mực nhòe, hoặc như một đám những con thủy túc nhộn nhạo.
Cuốn album của Tcharnotski khiến ta nhớ tới một bộ sưu tập những hình ngộ nghĩnh hoặc sáng tác của một họa sĩ có óc tưởng tượng mãnh liệt; thích thú với sự quái dị, ông đưa lên mặt giấy trắng cả một đám những tạo vật như báo điềm gở, những quái vật chỉ tồn tại bên ngoài lương tri con người. Ai không hiểu rõ vấn đề lắm có thể sẽ nghĩ rằng, mình đang xem loạt tranh kỳ cục vẽ bằng màu đỏ của một họa sĩ thiên tài, ghi lại những giấc mơ huyền hoặc. Nhưng nhìn một số bức tranh tưởng tượng ấy, người ta sởn gai óc...
Sau nhiều năm dài nhà nghiên cứu độc đáo, phát hiện ra thêm một quy luật, nhờ các quan sát viên của ông gợi ý cho: các vụ hỏa hoạn thường xảy ra vào thứ năm. Các con số thống kê xác nhận con quỷ ác hại ấy thường thức dậy chính vào ngày đó trong tuần. Và điều này hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Thậm chí Tcharnotski còn tìm ra một cách giải thích ít nhiều phù hợp. Theo ông đó là tại bản chất của ngày thứ năm, được phản ảnh ngay trong tên gọi tượng trưng của nó.
Bởi từ xưa ngày đó vẫn được coi là ngày của thần Zeus sấm sét, và do vậy nảy sinh tên gọi ngày ấy ở nhiều thứ tiếng. Không phải bỗng dưng chủng tộc Đức gọi thứ năm là ngày sấm sét: Donnerstag và Thursday, Agiovedi, Juever và Jeudi, với sức mạnh la tinh thực sự, lẽ nào nghe không mang máng tên thần Jupiter? Sau khi đi đến hai kết luận cực kỳ quan trọng ấy, Tcharnotski tiến tiếp theo con đường suy lý. Vốn yêu thích triết học và những khái quát siêu hình, trong những giờ rảnh rỗi, ông đọc các tác giả thần bí thời kỳ đầu Cơ đốc giáo, và nghiền ngẫm kỹ những luận văn thời trung cổ mà ông quan tâm.
Sau nhiều năm nghiên cứu các vụ hỏa hoạn và những hiện tượng kèm theo, ông nghiêng về ý nghĩ cho rằng chắc hẳn có những tạo vật, cho tới nay chúng ta chưa biết, một thứ gì đó đại loại như khâu trung gian giữa con người và loài vật, và chúng lộ ra trong bất kỳ tai họa tàn phá nào. Dẫn chứng cho thuyết của mình, Tcharnotski nêu ra các tín ngưỡng của nông dân và các truyền thuyết cổ xưa ma quái, nàng tiên cá, quỷ lùn, thần lửa và các thiên tinh.
Ngày nay ông đã không còn chút nghi ngờ nào về sự tồn tại của các sinh vật lửa. Ông cảm thấy chúng có mặt ở mỗi đám cháy, cho nên ông gắng sức đè bẹp thói càn bậy của chúng. Dần dần đối với ông, cái thế giới bí mật mắt thường không trông thấy ấy, trở thành một thế giới cũng thực như thế giới của bản thân ông, tức là thế giới con người. Và thế là nổ ra một cuộc đấu tranh kiên trì và không khoan nhượng, giờ đây hoàn toàn đã được nhận thức rõ. Nếu trước kia Tcharnotski đấu tranh với lửa như với một hiện tượng mù quáng không kìm lại được, thì bây giờ, càng hiểu ra bản chất thực của nó, ông dần dần có thái độ khác với nó.
Năm này qua năm khác, trong cái sức mạnh hủy diệt phi lý là đám lửa, ông đã nhận ra một con thú dữ ác ý, ham tàn phá, mà ông phải thanh toán. Rồi sao đó, qua một số dấu hiệu, ông thấy phía địch đã nắm bắt được sự thay đổi trong chiến thuật của ông. Và thế là cuộc chiến tranh đã mang tính chất cá nhân. Phải nói rằng Antoni Tcharnotski, giám đốc sở cứu hỏa ở Rakshava, đúng là người sinh ra cho một cuộc chiến tranh như thế, có lẽ hơn bất kỳ ai khác trên thế gian này. Bản thân thiên nhiên phú cho ông những năng lực đặc biệt, dường như đã phân công cho ông vai trò người chế ngự lửa. Thân thể ông tuyệt đối không cảm thấy lửa; ở giữa ngọn lửa ngùn ngụt, giữa đám cháy hoành hành dữ dội, ông hoạt động hết sức an toàn, không bị một vết bỏng nhỏ nào.
Mặc dù chức vụ giám đốc không yêu cầu ông phải trực tiếp tham gia dập lửa, nhưng không tiếc thân mình, luôn là người đầu tiên lao vào đám cháy. Thân hình ông cao lớn và mềm mại, mái tóc rậm như bờm sư tử nhô ra dưới chiếc mũ cứu hỏa, nổi cao lên như vị thần hộ mệnh giữa những cuộn khói lửa tua tủa hàng ngàn cái nọc đỏ lừ. Đôi khi tưởng như chắc chắn đi vào cõi chết, nơi mà không một người lính cứu hỏa nào dám thò mũi vào, nhưng, kỳ diệu chưa! từ chốn địa ngục ấy ông lại xuất hiện bình an vô sự, với nụ cười hiền lành và hơi bí ẩn trên gương mặt dũng cảm, rọi sáng bởi những ánh lửa đỏ rực; rồi sau khi hít đầy không khí vào lồng ngực nóng bỏng, ông lại xông vào lửa.
Bạn bè ông tái mặt khi ông cực kỳ can đảm leo lên những tầng gác ngùn ngụt lửa, trèo lên những ban công đang cháy, liều lĩnh chạy len lỏi giữa những khung thép nóng giãy.
- Một con quỷ! Ông ấy đúng là một con quỷ! Đám lính cứu hỏa thì thầm với nhau, khiếp hãi và kính nể nhìn theo thủ trưởng của họ.
Chẳng bao lâu ông có biệt danh "Chịu Lửa" và trở thành thần tượng của lính cứu hỏa và dân chúng thành phố. Xung quanh ông người ta thêu dệt nhiều chuyện, trong đó ông được mô tả như một nhân vật hai mặt, là thượng đẳng thiên sứ Mikhail, đồng thời là con quỷ. Về ông có nhiều lời đồn đại, trong đó khiếp sợ và cảm phục xen kẽ nhau một cách kỳ lạ. Còn hiện nay, Tcharnotski được coi là một pháp sư tốt bụng có quen biết các thế lực bí ẩn. Đối với mọi người mỗi bước chân, mỗi cử chỉ của ông Chịu Lửa đều chứa đựng ý nghĩa đặc biệt.
Điều khiến mọi người ngạc nhiên hơn cả là tính chất "amiăng" của Tcharnotski dường như được truyền sang quần áo ông, bởi chúng cũng không bị cháy trong các vụ hỏa hoạn. Hồi đầu người ta tưởng khi chửa cháy, ông mặc bộ quần áo may bằng loại vải đặc biệt chịu được lửa, nhưng hóa ra hoàn toàn không phải thế. Đó là những lần bị kẻng báo động đánh thức giữa đêm đông giá lạnh, ông vội vã mặc luôn bộ quần áo đầu tiên ông trông thấy ở trạm cứu hỏa, mà khi ra khỏi lửa ông vẫn bình yên vô sự.
Ở địa vị ông, giá thử người khác thì đã tận dụng tài năng đặc biệt đó để kiếm tiền, ví như sẽ làm thuật sĩ lãng du hoặc một tay đại bịp, nhưng đối với ông Antoni chỉ cần mọi người quý trọng và cảm phục là đủ. Điều duy nhất ông tự cho phép mình là những "thử nghiệm" vô tư trong phạm vi đồng nghiệp, hoặc những người quen thân làm cho khán giả phải sững sờ. Chẳng hạn ông đặt trên lòng bàn tay mấy hòn than hồng khoảng mười lăm phút, hoặc lâu hơn nữa mà không có dấu hiệu đau đớn gì, đến lúc ông lại vứt than vào lửa, trên tay ông không hề có vết bỏng. Khả năng của ông truyền "tính chịu lửa" của mình cho người khác cũng gây nhiều thích thú. Chỉ cần ông cầm tay ai, là người đó cũng "chịu lửa" được một khoảng thời gian nhất định.
Một nhóm bác sĩ địa phương chú ý đến ông, họ đề nghị ông "biểu diễn" vài buổi với một số tiền thù lao lớn. Tcharnotski tức giận từ chối và sau đó, một thời gian dài ông không trình bày "thử nghiệm" ngay cả trong phạm vi hẹp. Người ta còn kể về ông nhiều chuyện hết sức lý thú khác nữa. Một số lính cứu hỏa từng phục vụ dưới quyền ông, không ít năm đã đem các thánh thần ra mà cam đoan rằng, trong các đám cháy ông Chịu Lửa thường phân thân ra làm hai, làm ba. Họ kể rằng nhiều lần, họ thấy ông đồng thời ở hai, ba chỗ nguy hiểm nhất giữa đám lửa ngùn ngụt. Kshishtof Slutch, đội trưởng cứu hỏa, thề rằng một lần khi đám cháy đã dịu bớt, anh ta tận mắt thấy ở mé trong một hốc bám người còn nguyên vẹn, có ba thân hình ông Antoni giống hệt nhau, chúng nhập vào nhau làm một, còn ông Tcharnotski thì đang thản nhiên xuống cầu thang.
Chẳng ai biết trong những lời đồn đại ấy có bao nhiêu thật bao nhiêu bịa. Nhưng một điều chắc chắn, Tcharnotski là một người khác thường, và dường như sinh ra là để đấu tranh với hỏa hoạn. Và ông đã chiến đấu thực sự ngày càng quyết liệt, ông hiểu sức mạnh của ông, năm này qua năm khác ông hoàn thiện các phương pháp tự vệ, dựng ngày càng nhiều chướng ngại trên con đường hoành hành của lửa. Đối với Tcharnotski dần dần cuộc đấu tranh ấy trở thành ý nghĩa cuộc đời, ông liên tục phát minh ra những phương pháp đáng tin cậy để phòng cháy. Như hôm nay buổi trưa tháng Bảy nóng nực này chẳng hạn, ông nằm xem những ghi chép mới nhất, phân loại những tài liệu tích lũy được cho cuốn sách đang viết về các đám cháy và các biện pháp phòng cháy.
Ông đang định viết một cuốn sách lớn; hai tập, kết quả nghiên cứu của ông trong nhiều năm. Chốc chốc lại rít một hơi điếu xì gà thơm Cuba, Tcharnotski ngẫm nghĩ bố cục cuốn sách và trình tự các chương... Hút nốt điếu thuốc ông dụi nó vào cái gạt tàn, rồi mỉm cười mãn nguyện ông đứng dậy.
- Không đến nỗi tồi!
Ông tự khen mình, hài lòng về những điều ước tính. Có vẻ ổn lắm. Ông thay quần áo rồi đến quán cà phê yêu thích chơi cờ. Vài năm trôi qua. Hoạt động của Tcharnotski ngày càng tiến triển. Giờ đây không chỉ Rakshava biết đến ông. Người ta nói tới ông Chịu Lửa cả ở những nơi xa thành phố này. Nhiều người đến gặp ông và tỏ lòng khâm phục ông. Cuốn sách của ông về các đám cháy có tiếng vang lớn, và không chỉ trong ngành cứu hỏa; trong một thời gian ngắn, nó đã được in lại mấy lần.
Nhưng không phải mọi việc đều suôn sẻ. Trong khi trực tiếp tham gia chữa cháy, đã mấy lần ông bị thương. Hôm cháy kho củi ở Viteluvka, một thanh rầm đang cháy đột nhiên rơi xuống khiến xương quai xanh của ông bị thương nặng; ở hai vụ hỏa hoạn khác, trần nhà đổ sụp làm ông bị thương chân và vai; còn hôm Giáng sinh mới rồi, suýt nữa ông bị mất tay phải; một thanh xà bằng sắt rơi từ tít trên nóc xuống chạm một đầu vào ông, chỉ một ly nữa là ông nát xương... Trước những chuyện không may ấy, Tcharnotski cừ khôi cực kỳ bình tĩnh.
- Ta còn chịu thua lửa, nên nó mới ném các thanh xà vào ta, ông thường nói thế, miệng mỉm cười khinh khỉnh. Nhưng thời gian gần đây, các lính cứu hỏa dõi theo từng bước ông và không để ông lao vào lửa quá sâu, ít nhất là những chỗ có nguy cơ sập nhà. Tuy nhiên, mối nguy hiểm vẩn rình rập ông thường xuyên đến mức kỳ lạ, cả ở những nơi tưởng như an toàn nhất.
Hình như hễ cứ có mặt Tcharnotski là ma quỷ kéo đến: bên cạnh ông bỗng dưng rơi xuống những khúc gỗ chỉ vừa mới bén lửa, những thanh xà trên trần lửa còn chưa lan tới, cả những tảng vôi, vữa nặng trịch, to bằng viên đại bác, có khi rơi đúng chỗ Tcharnotski vừa đứng. Còn Tcharnotski chỉ nhếch mép cười, thản nhiên hút xì gà. Thế nhưng các bạn bè của ông băn khoăn cau mày và sợ hãi tránh ông cho xa. Rốt cuộc họ đã hiểu ra rằng ở bên cạnh ông không phải là không nguy hiểm. Cũng đã xảy ra vài sự việc thuộc loại ấy, nhưng ở trong nhà sếp của họ, nên không ai biết.
Tất cả mọi chuyện bắt đầu từ làn khói khét lẹt, ngột ngạt: một ngày nọ ngôi nhà tràn ngập mùi khét như thể có miếng giẻ rách cháy âm ỉ ở xó nhà. Mùi khó chịu như những lớp sóng vô hình lan tỏa váo các hành lang, đọng mùi hôi trong các phòng, như một tấm màn nặng nề rủ từ trên trần xuống. Mùi ấy thấm vào đồ đạc, quần áo, chăn đệm. Quạt máy và hệ thống thông gió có hoạt động cũng không ăn thua. Và mặc dù các cửa ra vào và cửa sổ đều mở toang hầu như suốt ngày, mà đó là lúc ngoài trời lạnh âm mười tám độ, cái mùi ghê tởm ấy vẫn không bay đi. Gió lùa và giá lạnh cũng không xua được nó, nó cứ xộc vào mũi nồng nặc. Mọi cố gắng tìm ra nguồn gốc mùi ấy đều không đi tới đâu, nên đành chịu vậy.
Cuối cùng một tháng sau, khi không khí trong nhà đã khá lên đôi chút, thì lại xảy ra một tai họa khác: thán khí. Mấy ngày đầu, còn có thể đổ tình trạng này là do đám gia nhân vụng về, vì lơ đãng đã đóng sớm các lò sưởi, nhưng về sau phải công nhận vấn đề hoàn toàn không phải ở đó, dù các lò đã được theo dõi rất cẩn thận, mùi thán khí ngột ngạt vẫn đầu độc không khí ngày một nhiều hơn. Việc thay đổi chất đốt cũng không ăn thua: mặc dù Tcharnotski đã cho đốt lò bằng củi và không đóng cửa lò nữa, ban đêm trong nhà vẫn có người bị trúng độc hơi than, còn bản thân ông, sáng dậy thấy đầu nhức như búa bổ và buồn nôn. Sự việc đến mức ông buộc phải đi ngủ nhờ ở người quen chứ không ngủ nhà nữa.
Vài tuần sau thán khí bớt hẳn, và ông lại thở phào nhẹ nhõm trở về nhà. Ông không biết ngay tại sao nhà ông gặp nhiều tai biến như thế, nhưng lật đi lật lại vấn đề, cuối cùng ông hiểu ra rằng ẩn sau tất cả những cái đó là một mục tiêu: làm cho ông sợ, hạ nhiệt tình chiến đấu của ông. Nhưng các quỷ kế như vậy chỉ đổ thêm dầu vào lửa, ông bị chạm đến chỗ đau nhất, và quyết chiến thắng bằng bất kỳ giá nào. Hồi ấy, Tcharnotski đang nghiên cứu một hệ thống mới cho bơm chữa cháy; ông hy vọng nó sẽ đoạt hiệu quả cao hơn tất cả các loại bơm trước đây. Thứ được dùng để dập tắt lửa sẽ không phải là nước, mà là một chất gas đặc biệt, chất này sẽ bọc kín dày đặc tòa nhà bị cháy khiến oxy không lọt vào được nữa: bằng cách ấy, ông có thể dập tắt lửa từ lúc nó mới manh nha.
- Tôi đảm bảo đó sẽ là một ngọn roi của Trời đối với các đám cháy, ông hồn nhiên khoe với một kỹ sư ông quen khi chơi cờ. Rất có thể khi bằng phát minh của tôi được chứng nhận, lửa hầu như sẽ không còn gây hại nữa. Và ông tự mãn vân vê bộ ria.
Bấy giờ là quãng giữa tháng Giêng, Tcharnotski định hoàn thành đề án chi tiết trong vài ba tháng rồi gửi lên bộ. Tối này qua tối khác, ông cặm cụi trên các bản vẽ, nhiều khi ông ngồi đến tận nửa đêm... Một lần đang ngồi làm việc lúc nữa đêm như thế, ông lơ đãng nhìn Martin, người đầy tớ già, khều than trong lò ra, và bỗng dưng mẩu gỗ cháy dở ấy thu hút sự chú ý của ông.
- Gượm đã, ông giữ Martin lại ở ngưỡng cửa. Bác rắc tro than lên tờ báo này cho tôi.
Martin hơi bối rối, làm theo lời ông chủ.
- Thế! Tốt rồi. Thôi, bác về ngủ đi.
Còn lại một mình, Tcharnotski một lần nữa nhìn kỹ các hòn than. Đập ngay vào mắt ông là hình dạng các hòn than. Không hiểu lửa cháy thế nào mà các hòn than có đường viền mang hình các chữ cái. Ông kinh ngạc xem xét những đường viền rõ nét ấy; không còn nghi ngờ gì nữa, trước mắt ông là những con chữ lớn bằng than được "gia công" rất khéo. Một câu đố hóc búa độc đáo, ông nghĩ và tò mò xếp các hòn than hết kiểu này đến kiểu nọ. Biết đâu ông xếp được chúng thành cái gì đó? Thế rồi chưa đầy mười lăm phút, dưới bàn tay ông đã xuất hiện các từ: "Nung Nóng", "Tia Lửa", "Dọa Nước", "Thổi Khói".
- Cái hội này vui ra phết, ông lẩm bẩm, ghi lại những cái tên lạ lùng ấy cho khỏi quên, đầy đủ thành phần bọn lưu manh lửa. Bây giờ ta hãy xem nên đặt biệt danh cho bọn mi như thế nào. Đúng là một cuộc viếng thăm độc đáo, nhưng các tấm danh thiếp lại càng độc đáo hơn.
Nhếch mép cười, ông cất tờ giấy vào tủ. Từ hôm ấy, ông dặn Martin ngày nào cũng đem tro than cho ông, và lần nào ông cũng phát hiện trong đó những lời nhắn gửi. Những lời ấy ngày càng gợi tò mò hơn. Sau các bức danh thiếp là những bức thông điệp từ thế giới bên kia, những câu rời rạc với nội dung răn đe và rồi cả với nội dung dọa nạt.
"Cút đi!", "Để chúng tao yên!", "Chớ đùa với bọn ta!", "Coi chừng đấy!".
Các bức thông điệp lửa thường kết thúc như vậy. Tcharnotski không coi trọng những lời ấy, với chúng ông có thái độ hài hước. Say sưa nghiên cứu ông xoa xoa tay và chuẩn bị đánh một đòn chí mạng. Chắc chắn ông sẽ thắng. Cần nói thêm rằng mọi chuyện bất ngờ khó chịu vẫn rình rập ông ở các đám cháy nay không lặp lại nữa, những trò ác xảy ra ở nhà nay cũng chấm dứt.
"Nhưng ngày nào ta cũng phải trao đổi thư từ như ta và chúng quen thân nhau vậy" Ông mỉm cười, sáng sáng xem những lời nhắn gửi của than lò. Có lẽ các sinh vật này không biết hướng năng lượng ác độc của chúng tới vài điều xấu xa cùng một lúc. Hiện giờ chúng chuyển sang fire message, cho nên chưa thấy trước được sẽ có gì khác. "Về mặt này thì ta gặp may, bọn mi cứ viết đi, càng lâu càng tốt, ta bao giờ cũng là một độc giả không vô ơn. "
Nhưng quãng đầu tháng Hai, "thư từ" bỗng ngưng lại. Một thời gian các hòn than vẫn còn giống đường viền các chữ cái, nhưng dù cố mấy Tcharnotski cũng không xếp được thành từ nào ít nhiều hiểu được; ông chỉ xếp được thành mấy kết hợp phụ âm vô nghĩa hoặc những chuỗi dài nguyên âm. Rõ ràng "thư từ" đã cạn kiệt và cuối cùng, các hòn than không còn có đường viền giống các chữ cái nữa.
"Fire message" đã chết, Tcharnotski kết luận và vạch một vạch đỏ dưới mục "Nhật ký thông điệp lửa".
Trong vòng một, hai tuần mọi chuyện êm ả. Khoảng thời gian đó, Tcharnotski hoàn chỉnh cấu trúc thiết bị dập lửa bằng hơi gas và bắt đầu lo chuyện lấy bằng chứng nhận. Nhưng công việc nghiên cứu vất vả đã làm ông mệt lả, sang tháng Ba, ông cảm thấy sức đuối đi rất nhiều, thỉnh thoảng ông lại cảm thấy toàn thân cứng đờ, hồi xưa ông đã từng bị chứng này do có tổn thương thần kinh. Người ngoài không biết tình trạng của ông, vì các cơn cứng đờ thường xảy ra ban đêm trong giấc ngủ. Thức giấc buổi sáng, ông cảm thấy rã rời như vừa đi một chặng đường dài. Phải nói rằng chính ông cũng không nhận thấy những cơn đó, vì sự chuyển từ trạng thái này sang trạng thái kia diễn ra nhẹ nhàng và hoàn toàn không đau đớn gì, chỉ có điều giấc ngủ trở nên nặng nề hơn khi dần dần từ giấc ngủ bình thường sang giấc ngủ cứng đờ.
Lúc thức giấc, tuy mệt mỏi nhưng ông lại nhớ lại được rất rõ và rất sống động những chuyến lãng du trong mơ. Suốt đêm Tcharnotski leo các ngọn núi, thăm các thành phố xa xôi, lang thang trên các miền đất lạ. Sự suy mòn thần kinh làm ông kiệt sức lúc ban sáng hình như chính là tại các chuyến phiêu bạt ban đêm của ông. Và thật kỳ lạ: chính ông cũng giải thích như vậy về sức khỏe yếu kém của ông. Các chuyến đi trong mơ được ông cảm nhận như một điều gì đó hoàn toàn hiện thực. Nhưng Tcharnotski không tâm sự chuyện đó với ai, vì chẳng cần thế, ông cũng đã bị để ý quá nhiều rồi. Cho người khác biết đời sống thầm kín của tâm hồn mình để làm gì? Tuy nhiên nếu gần gũi mọi người hơn, có thể ông sẽ nghe họ xì xào những gì, và chắc chắn ông sẽ lo lắng cho bản thân ông.
Việc đầu tiên là ông chú ý đến Martin, bây giờ bác ta nhìn ông chủ với một thái độ nghi ngờ kỳ lạ và thậm chí còn có vẻ sợ hãi. Bác ta có cơ sở như vậy và không chỉ một lần. Một đêm khuya vào quãng đầu tháng Ba, bác ta cầm nến đi từ bếp về phòng mình ở ngay sát cạnh phòng ngủ của ông chủ, bỗng bác ta thấy bóng Tcharnotski đang đi xa dần ở cuối hành lang. Hơi ngạc nhiên Martin quyết định thử kiểm tra xem hay đó chỉ là cảm giác mà thôi, bác ta liền vội vã theo sau. Nhưng tới cuối hành lang thì ông chủ đã biến mất, như ông đã độn thổ vậy. Martin băn khoăn nhón chân rón rén vào phòng ngủ của ông chủ, và bác ta thấy gì? Tcharnotski đang ngủ trên giường như chẳng hề có chuyện gì xảy ra.
Vài ngày sau cũng ban đêm, Martin lại trông thấy ông chủ của mình, nhưng lần này là ở cầu thang ông đứng trên bậc thang, cúi người qua tay vịn và nhìn xuống dưới bằng cái nhìn siêu thoát. Martin sởn gai ốc, bác ta lao tới kêu lên:
- Ông định làm gì thế? Ông hãy biết sợ Chúa Trời vì như thế là có tội!
Nhưng bác ta chưa kịp chạy đến gần, thì hình bóng Tcharnotski đã biến dạng một cách kỳ lạ, nhòa đi rồi như thấm vào tường không một tiếng động. Martin làm dấu thánh rồi không suy nghĩ lâu, bác ta lao vào phòng ngủ của ông chủ, lạ chưa cũng như lần nọ ông đang ngủ rất say.
- Quái thật! Martin lẩm bẩm. Ma quỷ hay sao nhỉ? Mình có say rượu đâu.
Bác ta đã định về đi ngủ, thì bỗng trông thấy ở cuối phòng có một điều kỳ lạ: phía trên đầu ông chủ quãng một mét, lơ lửng một ngọn lửa đỏ bập bùng. Về hình dạng nó giống như bụi cây đang cháy, và hình như những cái xúc tu rực lửa của nó đang cố túm lấy Tcharnotski.
- Lạy chúa! Martin kêu lên và chạy tới con quái vật lửa.
Thế là bụi cây đang cháy thu ngay lại những cái lưỡi lửa đang vươn về phía Tcharnotski, cuộn lại thành một cột lửa dày đặc rồi lập tức tắt ngấm, có tiếng xèo xèo nhè nhẹ. Trong phòng ngủ khá tối, chỉ có ánh sáng yếu ớt của ngọn nến Martin để dưới sàn. Tcharnotski ngủ trên giường, người duỗi cứng đơ như gỗ... Hôm sau, Martin thận trọng nói bóng gió với ông chủ rằng ông mệt mỏi, có cần gọi bác sĩ không, nhưng Tcharnotski nói lảng đi bằng một câu đùa, mà không biết tiếp đó sẽ có chuyện gì. Hai tuần sau thì xảy ra một tai họa...
Sự việc xảy ra vào đêm hai mươi tám, rạng ngày hai mươi chín tháng Ba, đáng ghi nhớ đối với dân chúng trong thành phố. Tcharnotski về nhà rất khuya mệt rã rời, hôm ấy đội cứu hỏa phải dập một đám cháy lớn ở khu kho nhà ga. Ông tỏ ra rất dũng cảm, không chỉ một lần coi thường nguy hiểm, để cứu mấy nhân viên đường sắt ngủ say ở các xó xỉnh trong khu kho. Về nhà quãng gần mười giờ, ông để nguyên quần áo nằm lăn ngay xuống giường và ngủ như chết. Những ngày gần đây, lo lắng cho chủ Martin như một con chó trung thành, canh giữ sự yên tĩnh của ông ở phòng bên, bác ta không tắt đèn, thỉnh thoảng lại ngó sang phòng ngủ của ông chủ. Đêm ấy bác ta buồn ngủ quá, mái đầu bạc nặng nề ngả sang vai và cuối cùng gục xuống bàn.
Bác ta thức giấc vì có một tiếng động đáng ngại. Cố rũ đi cơn buồn ngủ, bác ta giụi mắt và lắng nghe. Tiếng động không lặp lại nữa. Bác ta bèn vớ lấy chiếc đèn chạy sang phòng ngủ của ông chủ. Nhưng hỡi ôi đã quá muộn. Mở cửa ra bác ta thấy lửa bao quanh ông chủ như một vầng sáng, hình như hàng nghìn cái vòi lửa đang mút chặt vào thân thể ông. Martin chưa kịp chạy đến giường, thì quầng lửa đã như thẩm thấu vào thân thể người đang ngủ, không còn dấu vết gì cứ như hề chưa có lửa bao giờ vậy. Run như cầy sấy Martin luống cuống nhìn kỹ ông chủ.
Đột nhiên mặt Tcharnotski biến đổi một cách kỳ lạ: đang bất động bỗng nhăn nhó như thể bị co thắt hay hay bị động kinh, đến mức khó nhận ra. Như bị một sức mạnh bí ẩn nhập vào thân thể, Tcharnotski bỗng bật dậy, rú lên một tiếng man dại rồi lao thẳng ra khỏi nhà. Lúc ấy là bốn giờ sáng, phía trên thành phố, cái ảo ảnh ngái ngủ đang đuổi nhau trong điệu vũ vòng tròn, lũ quỷ ác mộng ngán ngẩm cụp những đôi cánh hư ảo của chúng lại, miễn cưỡng chuẩn bị quay về, còn các thiên thần trầm ngâm cúi trên những chiếc giường của trẻ thơ thì vội vã đặt trên trán đứa trẻ nụ hôn tạm biệt...Chân trời phía đông đã có những vệt tím. Bình minh xám nhạt run rẩy trước cái lạnh buổi sớm, lan dần về phía thành phố như những làn sóng thức tỉnh, tỏa sáng, đổi mới.
Đàn quạ thành phố thức dậy sau một đêm gà gật, bay một, hai, ba lần thành những vòng tròn màu đen phía trên tòa thị chính, rồi vừa kêu quàng quạc vừa đậu xuống những cành cây trụi lá trước mùa xuân. Lũ chó hoang lang thang ban đêm trong các ngõ tối, bây giờ kiếm cái ăn ngoài chợ. Đột nhiên ở nhiều điểm trong thành phố vọt lên những ngọn lửa, lửa như một bông hoa nở tung những cánh hoa đỏ rực nhuốm hồng phía trên các mái nhà, vươn cao lên trời. Chuông nhà thờ gióng lên, sự yên tĩnh buổi sớm bị vỡ tung ra bởi những tiếng kêu, tiếng gào tiếng hét:
- Cháy! Cháy!
Ở ngoài chợ các đám người chạy loạn xạ, các ô tô phóng như bay, cứu hỏa rú ầm ĩ. Một người mặc đồng phục lính cứu hỏa, mái tóc tung bay tay cầm đuốc đang ra sức len qua đám đông.
- Ai đấy nhỉ? Ai?
- Bắt lấy nó! Bắt lấy! Tên đốt nhà!
Hàng nghìn cánh tay hướng về phía hắn.
-Tên đốt nhà! Tên tàn ác! Đám đông điên cuồng giận dữ gầm lên.
Có ai đó hắt ngọn đuốc ra khỏi tay hắn, có ai đó ôm nghiến lấy hắn. Hắn vùng ra sùi bọt mép... Cuối cùng hắn cũng bị thuần phục. Và người ta đã dẫn giải hắn trên quãng trường, tay hắn bị trói chặt quần áo hắn rách bươm. Mọi người chằm chằm nhìn vào gương mặt đang được ánh bình minh yếu ớt chiếu sáng.
- Ai thế này?
Những người áp giải bất giác buông thõng tay xuống.
- Ai thế này?
Mấy người lính canh khiếp sợ cứng họng không nói được nữa.
- Sao mặt trông quen quen?
Trên vai kẻ điên rồ lủng lẳng những cái ngù vai bị tuột ra trong lúc ẩu đả, đó là ngù vai của giám đốc sở cứu hỏa, còn trên áo sơ mi rách lấp lánh tấm huy chương "Vì có công chữa cháy", lóe sáng cây thập tự vàng "Vì lòng dũng cảm". Và gương mặt kia, một gương mặt biến dạng đi trông như thú vật, với hai con mắt xếch đỏ ngầu máu... Suốt một tháng ròng sau đám cháy khủng khiếp, đã thiêu rụi bảy công trình xây dựng đẹp nhất thành phố ấy, đêm nào Martin cũng trông thấy bóng ma Tcharnotski. Bóng kẻ điên rồ trườn vào phòng ngủ, cúi xuống chiếc giường bỏ trống lục lọi ở đó tìm thân thể, có lẽ để lại nhập vào? Hỡi ôi chỉ tổ uổng công..
Mãi tới cuối tháng Tư, sau khi ông giám đốc sở cứu hỏa bị nhốt ở bệnh viện của bác sĩ Zhegota, trong tình trạng mất trí nhớ, đã nhảy qua cửa sổ tầng gác xuống đất và chết tại chỗ, bóng ma của ông ta mới thôi không về nơi ở cũ nữa.. Nhưng mãi tới nay mọi người vẫn còn kể cho nhau nghe, câu chuyện hoang đường về hồn ma của ông Chịu Lửa: nó đã để lại thân xác của nó trong giấc ngủ, rồi không quay trở về được nữa, bởi các sinh vật lửa đã chiếm mất.
Vũ Đình Bình
ST
Antoni Tcharnotski, giám đốc sở cứu hỏa thành phố Rakshava, đặt tờ thống kê các đám cháy sang một bên rồi mệt mỏi nằm dài ra trên đi văng, khoan khoái hút điếu xì gà Cuba. Bấy giờ là khoảng hơn bốn giờ chiều, tiết trời tháng bảy nóng nực. Qua tấm mành buông kín, ánh sáng ban ngày mờ mờ nhuốm vàng căn phòng, bầu không khí oi bức ngột ngạt như cuộn lên thành những làn sóng vô hình.
Tiếng ồn ngoài đường phố như ngái ngủ vì nóng nực vọng vào đều đều, trên các ô cửa sổ, những con ruồi mệt lử bay vo vo rời rạc và yếu ớt. Tcharnotski phân tích các ghi chép, đối chiếu các ngày tháng, xếp loại những tư liệu đã tích lũy được trong nhiều năm, rút ra các kết luận.
Ai có thể nghĩ ngợi được rằng từ các số liệu thống kê lãnh đạm, lại hiện lên một bức tranh thú vị đến thế, mà tất cả chỉ vì chúng được nghiên cứu một cách có phương pháp và cực kỳ kỹ lưỡng. Ai mà ngờ từ những con số ngày tháng khô khan, thoạt nhìn chẳng nói lên điều gì, lại có thể lấy ra được những kết quả khiến người ta bàng hoàng cả người, lại giúp ta nhận thấy trong mớ hỗn độn các sự việc tưởng như khó phân biệt, lặp đi lặp lại rất đơn điệu những hiện tượng kỳ lạ đến thế!
Nhưng để nhìn ra một điều gì như vậy, để nắm bắt được một điều gì như vậy, cần phải có một linh cảm đặc biệt, và thậm chí có lẽ cần cả một cấu tạo có thể chất đặc biệt. Hiển nhiên Tcharnotski chính là một trong những người như thế và ông hiểu rất rõ điều đó. Đã nhiều năm ông nghiên cứu về các đám cháy, tìm hiểu chúng ở Rakshava và ở bất cứ đâu, thu nhập hết sức cẩn thận các bài cắt ở báo chí, lục lọi sách báo chuyên ngành, xem nhiều bản thống kê so sánh.
Trong các cuộc nghiên cứu khác thường, những tấm bản đồ chi tiết hầu hết các vùng trên thế giới, đã giúp ích cho ông rất nhiều; các ngăn tủ trong phòng thư viện của ông xếp chặt những cuốn sách dày cộp. Ở đó có sơ đồ các thủ đô, các thành phố và khu dân cư với tất cả những phố, những ngõ chằng chịt, những quảng trường và xó xỉnh, những vườn cây và công viên, những công trình xây dựng, nhà thờ và nhà cửa, tóm lại đó là những sơ đồ vẽ rất tỉ mỉ: bất kỳ ai dù mới đến lần đầu, dựa vào bảng hướng dẫn ấy cũng dễ dàng định hướng được, như thể đó là thành phố quê hương vậy.
Các sơ đồ ấy đều được đánh số cẩn thận, được sắp xếp theo từng huyện, từng vùng, sẵn sàng phục vụ: chủ nhân chỉ cần đưa tay ra là những tờ trình vuông và hình chữ nhật, bằng vải, bằng ni lông hay bằng giấy cung cấp ngay mọi chi tiết muốn tìm. Tcharnotski cắm cúi hàng giờ trên các tấm bản đồ, nghiên cứu và so sánh cách sắp xếp nhà cửa và đường phố của những thành phố khác nhau. Công việc ấy cực kỳ tỉ mẩn, đòi hỏi một sự kiên nhẫn ghê gớm. Không phải bao giờ các kết luận cũng tự nhiên bật ra, nhiều khi phải chờ đợi rất lâu mới tóm được một kế quả nào đó.
Nhưng Tcharnotski bấu chặt như con ve, con bọ chét. Hễ thấy một chi tiết ngờ ngợ, là ông bám riết ngay lấy, rồi không cho phép mình nghỉ ngơi trì hoãn, sớm muộn ông cũng tìm ra được những khâu trước đó hoặc những câu tiếp theo. Sau nhiều năm gian khổ, ông đã có được những "tấm bản đồ hỏa hoạn" đặc biệt, ngoài ra ông còn có được cái gọi là những "biến thể của các đám cháy". Trên các tấm bản đồ có đánh dấu những nơi, những công trình xây dựng và nhà cửa từng bị hỏa hoạn, bất kể thiệt hại không đáng kể hay là bị thiêu rụi hoàn toàn.
Còn trên những bản vẻ gọi là "biến thể các đám cháy" thì ghi lại những thay đổi diễn ra trong quy hoạch xây dựng sau vụ hỏa hoạn; tất cả mọi thay đổi dù nhỏ nhất đều được ghi lại cẩn thận. So sánh các tấm bản đồ hai loại kể trên, dần dần Tcharnotski đi đến những kết luận lý thú. Nếu nối những điểm xảy ra hỏa hoạn ở một vùng nào đó, thì trong tám mươi phần trăm các trường hợp, sẽ hiện lên đường viền những sinh vật kỳ lạ, đôi khi chúng giống như những đứa trẻ quái thai, nhưng thường thường, đó là hình những con thú nhỏ thú vị, những con vượn cáo đuôi dài xoắn vặn rất ngộ, những con sóc nhanh nhẹn thân uốn vòng, những con khỉ trông buồn cười đến mức dị dạng.
Tcharnotski lấy từ trong các sơ đồ ra cả một bộ sưu tập như thế, ông tô màu sặc sỡ rồi đưa chúng vào một cuốn album độc đáo, chắc hẳn không ai có, ngoài bìa đề dòng chữ "Album các sinh vật lửa". Phần hai bộ sưu tập của ông là những "trích đoạn và phác thảo", rất nhiều những hình kỳ cục không rõ ràng, chu tuyến chưa hoàn chỉnh, chỉ có thể lờ mờ phỏng đoán. Ở đây phác họa những cái đầu, những mẫu thân thể, những khúc chân tay, những cái cẳng tẽ ngón lông lá, đây đó còn hiện lên những hình học, những hình như vết mực nhòe, hoặc như một đám những con thủy túc nhộn nhạo.
Cuốn album của Tcharnotski khiến ta nhớ tới một bộ sưu tập những hình ngộ nghĩnh hoặc sáng tác của một họa sĩ có óc tưởng tượng mãnh liệt; thích thú với sự quái dị, ông đưa lên mặt giấy trắng cả một đám những tạo vật như báo điềm gở, những quái vật chỉ tồn tại bên ngoài lương tri con người. Ai không hiểu rõ vấn đề lắm có thể sẽ nghĩ rằng, mình đang xem loạt tranh kỳ cục vẽ bằng màu đỏ của một họa sĩ thiên tài, ghi lại những giấc mơ huyền hoặc. Nhưng nhìn một số bức tranh tưởng tượng ấy, người ta sởn gai óc...
Sau nhiều năm dài nhà nghiên cứu độc đáo, phát hiện ra thêm một quy luật, nhờ các quan sát viên của ông gợi ý cho: các vụ hỏa hoạn thường xảy ra vào thứ năm. Các con số thống kê xác nhận con quỷ ác hại ấy thường thức dậy chính vào ngày đó trong tuần. Và điều này hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Thậm chí Tcharnotski còn tìm ra một cách giải thích ít nhiều phù hợp. Theo ông đó là tại bản chất của ngày thứ năm, được phản ảnh ngay trong tên gọi tượng trưng của nó.
Bởi từ xưa ngày đó vẫn được coi là ngày của thần Zeus sấm sét, và do vậy nảy sinh tên gọi ngày ấy ở nhiều thứ tiếng. Không phải bỗng dưng chủng tộc Đức gọi thứ năm là ngày sấm sét: Donnerstag và Thursday, Agiovedi, Juever và Jeudi, với sức mạnh la tinh thực sự, lẽ nào nghe không mang máng tên thần Jupiter? Sau khi đi đến hai kết luận cực kỳ quan trọng ấy, Tcharnotski tiến tiếp theo con đường suy lý. Vốn yêu thích triết học và những khái quát siêu hình, trong những giờ rảnh rỗi, ông đọc các tác giả thần bí thời kỳ đầu Cơ đốc giáo, và nghiền ngẫm kỹ những luận văn thời trung cổ mà ông quan tâm.
Sau nhiều năm nghiên cứu các vụ hỏa hoạn và những hiện tượng kèm theo, ông nghiêng về ý nghĩ cho rằng chắc hẳn có những tạo vật, cho tới nay chúng ta chưa biết, một thứ gì đó đại loại như khâu trung gian giữa con người và loài vật, và chúng lộ ra trong bất kỳ tai họa tàn phá nào. Dẫn chứng cho thuyết của mình, Tcharnotski nêu ra các tín ngưỡng của nông dân và các truyền thuyết cổ xưa ma quái, nàng tiên cá, quỷ lùn, thần lửa và các thiên tinh.
Ngày nay ông đã không còn chút nghi ngờ nào về sự tồn tại của các sinh vật lửa. Ông cảm thấy chúng có mặt ở mỗi đám cháy, cho nên ông gắng sức đè bẹp thói càn bậy của chúng. Dần dần đối với ông, cái thế giới bí mật mắt thường không trông thấy ấy, trở thành một thế giới cũng thực như thế giới của bản thân ông, tức là thế giới con người. Và thế là nổ ra một cuộc đấu tranh kiên trì và không khoan nhượng, giờ đây hoàn toàn đã được nhận thức rõ. Nếu trước kia Tcharnotski đấu tranh với lửa như với một hiện tượng mù quáng không kìm lại được, thì bây giờ, càng hiểu ra bản chất thực của nó, ông dần dần có thái độ khác với nó.
Năm này qua năm khác, trong cái sức mạnh hủy diệt phi lý là đám lửa, ông đã nhận ra một con thú dữ ác ý, ham tàn phá, mà ông phải thanh toán. Rồi sao đó, qua một số dấu hiệu, ông thấy phía địch đã nắm bắt được sự thay đổi trong chiến thuật của ông. Và thế là cuộc chiến tranh đã mang tính chất cá nhân. Phải nói rằng Antoni Tcharnotski, giám đốc sở cứu hỏa ở Rakshava, đúng là người sinh ra cho một cuộc chiến tranh như thế, có lẽ hơn bất kỳ ai khác trên thế gian này. Bản thân thiên nhiên phú cho ông những năng lực đặc biệt, dường như đã phân công cho ông vai trò người chế ngự lửa. Thân thể ông tuyệt đối không cảm thấy lửa; ở giữa ngọn lửa ngùn ngụt, giữa đám cháy hoành hành dữ dội, ông hoạt động hết sức an toàn, không bị một vết bỏng nhỏ nào.
Mặc dù chức vụ giám đốc không yêu cầu ông phải trực tiếp tham gia dập lửa, nhưng không tiếc thân mình, luôn là người đầu tiên lao vào đám cháy. Thân hình ông cao lớn và mềm mại, mái tóc rậm như bờm sư tử nhô ra dưới chiếc mũ cứu hỏa, nổi cao lên như vị thần hộ mệnh giữa những cuộn khói lửa tua tủa hàng ngàn cái nọc đỏ lừ. Đôi khi tưởng như chắc chắn đi vào cõi chết, nơi mà không một người lính cứu hỏa nào dám thò mũi vào, nhưng, kỳ diệu chưa! từ chốn địa ngục ấy ông lại xuất hiện bình an vô sự, với nụ cười hiền lành và hơi bí ẩn trên gương mặt dũng cảm, rọi sáng bởi những ánh lửa đỏ rực; rồi sau khi hít đầy không khí vào lồng ngực nóng bỏng, ông lại xông vào lửa.
Bạn bè ông tái mặt khi ông cực kỳ can đảm leo lên những tầng gác ngùn ngụt lửa, trèo lên những ban công đang cháy, liều lĩnh chạy len lỏi giữa những khung thép nóng giãy.
- Một con quỷ! Ông ấy đúng là một con quỷ! Đám lính cứu hỏa thì thầm với nhau, khiếp hãi và kính nể nhìn theo thủ trưởng của họ.
Chẳng bao lâu ông có biệt danh "Chịu Lửa" và trở thành thần tượng của lính cứu hỏa và dân chúng thành phố. Xung quanh ông người ta thêu dệt nhiều chuyện, trong đó ông được mô tả như một nhân vật hai mặt, là thượng đẳng thiên sứ Mikhail, đồng thời là con quỷ. Về ông có nhiều lời đồn đại, trong đó khiếp sợ và cảm phục xen kẽ nhau một cách kỳ lạ. Còn hiện nay, Tcharnotski được coi là một pháp sư tốt bụng có quen biết các thế lực bí ẩn. Đối với mọi người mỗi bước chân, mỗi cử chỉ của ông Chịu Lửa đều chứa đựng ý nghĩa đặc biệt.
Điều khiến mọi người ngạc nhiên hơn cả là tính chất "amiăng" của Tcharnotski dường như được truyền sang quần áo ông, bởi chúng cũng không bị cháy trong các vụ hỏa hoạn. Hồi đầu người ta tưởng khi chửa cháy, ông mặc bộ quần áo may bằng loại vải đặc biệt chịu được lửa, nhưng hóa ra hoàn toàn không phải thế. Đó là những lần bị kẻng báo động đánh thức giữa đêm đông giá lạnh, ông vội vã mặc luôn bộ quần áo đầu tiên ông trông thấy ở trạm cứu hỏa, mà khi ra khỏi lửa ông vẫn bình yên vô sự.
Ở địa vị ông, giá thử người khác thì đã tận dụng tài năng đặc biệt đó để kiếm tiền, ví như sẽ làm thuật sĩ lãng du hoặc một tay đại bịp, nhưng đối với ông Antoni chỉ cần mọi người quý trọng và cảm phục là đủ. Điều duy nhất ông tự cho phép mình là những "thử nghiệm" vô tư trong phạm vi đồng nghiệp, hoặc những người quen thân làm cho khán giả phải sững sờ. Chẳng hạn ông đặt trên lòng bàn tay mấy hòn than hồng khoảng mười lăm phút, hoặc lâu hơn nữa mà không có dấu hiệu đau đớn gì, đến lúc ông lại vứt than vào lửa, trên tay ông không hề có vết bỏng. Khả năng của ông truyền "tính chịu lửa" của mình cho người khác cũng gây nhiều thích thú. Chỉ cần ông cầm tay ai, là người đó cũng "chịu lửa" được một khoảng thời gian nhất định.
Một nhóm bác sĩ địa phương chú ý đến ông, họ đề nghị ông "biểu diễn" vài buổi với một số tiền thù lao lớn. Tcharnotski tức giận từ chối và sau đó, một thời gian dài ông không trình bày "thử nghiệm" ngay cả trong phạm vi hẹp. Người ta còn kể về ông nhiều chuyện hết sức lý thú khác nữa. Một số lính cứu hỏa từng phục vụ dưới quyền ông, không ít năm đã đem các thánh thần ra mà cam đoan rằng, trong các đám cháy ông Chịu Lửa thường phân thân ra làm hai, làm ba. Họ kể rằng nhiều lần, họ thấy ông đồng thời ở hai, ba chỗ nguy hiểm nhất giữa đám lửa ngùn ngụt. Kshishtof Slutch, đội trưởng cứu hỏa, thề rằng một lần khi đám cháy đã dịu bớt, anh ta tận mắt thấy ở mé trong một hốc bám người còn nguyên vẹn, có ba thân hình ông Antoni giống hệt nhau, chúng nhập vào nhau làm một, còn ông Tcharnotski thì đang thản nhiên xuống cầu thang.
Chẳng ai biết trong những lời đồn đại ấy có bao nhiêu thật bao nhiêu bịa. Nhưng một điều chắc chắn, Tcharnotski là một người khác thường, và dường như sinh ra là để đấu tranh với hỏa hoạn. Và ông đã chiến đấu thực sự ngày càng quyết liệt, ông hiểu sức mạnh của ông, năm này qua năm khác ông hoàn thiện các phương pháp tự vệ, dựng ngày càng nhiều chướng ngại trên con đường hoành hành của lửa. Đối với Tcharnotski dần dần cuộc đấu tranh ấy trở thành ý nghĩa cuộc đời, ông liên tục phát minh ra những phương pháp đáng tin cậy để phòng cháy. Như hôm nay buổi trưa tháng Bảy nóng nực này chẳng hạn, ông nằm xem những ghi chép mới nhất, phân loại những tài liệu tích lũy được cho cuốn sách đang viết về các đám cháy và các biện pháp phòng cháy.
Ông đang định viết một cuốn sách lớn; hai tập, kết quả nghiên cứu của ông trong nhiều năm. Chốc chốc lại rít một hơi điếu xì gà thơm Cuba, Tcharnotski ngẫm nghĩ bố cục cuốn sách và trình tự các chương... Hút nốt điếu thuốc ông dụi nó vào cái gạt tàn, rồi mỉm cười mãn nguyện ông đứng dậy.
- Không đến nỗi tồi!
Ông tự khen mình, hài lòng về những điều ước tính. Có vẻ ổn lắm. Ông thay quần áo rồi đến quán cà phê yêu thích chơi cờ. Vài năm trôi qua. Hoạt động của Tcharnotski ngày càng tiến triển. Giờ đây không chỉ Rakshava biết đến ông. Người ta nói tới ông Chịu Lửa cả ở những nơi xa thành phố này. Nhiều người đến gặp ông và tỏ lòng khâm phục ông. Cuốn sách của ông về các đám cháy có tiếng vang lớn, và không chỉ trong ngành cứu hỏa; trong một thời gian ngắn, nó đã được in lại mấy lần.
Nhưng không phải mọi việc đều suôn sẻ. Trong khi trực tiếp tham gia chữa cháy, đã mấy lần ông bị thương. Hôm cháy kho củi ở Viteluvka, một thanh rầm đang cháy đột nhiên rơi xuống khiến xương quai xanh của ông bị thương nặng; ở hai vụ hỏa hoạn khác, trần nhà đổ sụp làm ông bị thương chân và vai; còn hôm Giáng sinh mới rồi, suýt nữa ông bị mất tay phải; một thanh xà bằng sắt rơi từ tít trên nóc xuống chạm một đầu vào ông, chỉ một ly nữa là ông nát xương... Trước những chuyện không may ấy, Tcharnotski cừ khôi cực kỳ bình tĩnh.
- Ta còn chịu thua lửa, nên nó mới ném các thanh xà vào ta, ông thường nói thế, miệng mỉm cười khinh khỉnh. Nhưng thời gian gần đây, các lính cứu hỏa dõi theo từng bước ông và không để ông lao vào lửa quá sâu, ít nhất là những chỗ có nguy cơ sập nhà. Tuy nhiên, mối nguy hiểm vẩn rình rập ông thường xuyên đến mức kỳ lạ, cả ở những nơi tưởng như an toàn nhất.
Hình như hễ cứ có mặt Tcharnotski là ma quỷ kéo đến: bên cạnh ông bỗng dưng rơi xuống những khúc gỗ chỉ vừa mới bén lửa, những thanh xà trên trần lửa còn chưa lan tới, cả những tảng vôi, vữa nặng trịch, to bằng viên đại bác, có khi rơi đúng chỗ Tcharnotski vừa đứng. Còn Tcharnotski chỉ nhếch mép cười, thản nhiên hút xì gà. Thế nhưng các bạn bè của ông băn khoăn cau mày và sợ hãi tránh ông cho xa. Rốt cuộc họ đã hiểu ra rằng ở bên cạnh ông không phải là không nguy hiểm. Cũng đã xảy ra vài sự việc thuộc loại ấy, nhưng ở trong nhà sếp của họ, nên không ai biết.
Tất cả mọi chuyện bắt đầu từ làn khói khét lẹt, ngột ngạt: một ngày nọ ngôi nhà tràn ngập mùi khét như thể có miếng giẻ rách cháy âm ỉ ở xó nhà. Mùi khó chịu như những lớp sóng vô hình lan tỏa váo các hành lang, đọng mùi hôi trong các phòng, như một tấm màn nặng nề rủ từ trên trần xuống. Mùi ấy thấm vào đồ đạc, quần áo, chăn đệm. Quạt máy và hệ thống thông gió có hoạt động cũng không ăn thua. Và mặc dù các cửa ra vào và cửa sổ đều mở toang hầu như suốt ngày, mà đó là lúc ngoài trời lạnh âm mười tám độ, cái mùi ghê tởm ấy vẫn không bay đi. Gió lùa và giá lạnh cũng không xua được nó, nó cứ xộc vào mũi nồng nặc. Mọi cố gắng tìm ra nguồn gốc mùi ấy đều không đi tới đâu, nên đành chịu vậy.
Cuối cùng một tháng sau, khi không khí trong nhà đã khá lên đôi chút, thì lại xảy ra một tai họa khác: thán khí. Mấy ngày đầu, còn có thể đổ tình trạng này là do đám gia nhân vụng về, vì lơ đãng đã đóng sớm các lò sưởi, nhưng về sau phải công nhận vấn đề hoàn toàn không phải ở đó, dù các lò đã được theo dõi rất cẩn thận, mùi thán khí ngột ngạt vẫn đầu độc không khí ngày một nhiều hơn. Việc thay đổi chất đốt cũng không ăn thua: mặc dù Tcharnotski đã cho đốt lò bằng củi và không đóng cửa lò nữa, ban đêm trong nhà vẫn có người bị trúng độc hơi than, còn bản thân ông, sáng dậy thấy đầu nhức như búa bổ và buồn nôn. Sự việc đến mức ông buộc phải đi ngủ nhờ ở người quen chứ không ngủ nhà nữa.
Vài tuần sau thán khí bớt hẳn, và ông lại thở phào nhẹ nhõm trở về nhà. Ông không biết ngay tại sao nhà ông gặp nhiều tai biến như thế, nhưng lật đi lật lại vấn đề, cuối cùng ông hiểu ra rằng ẩn sau tất cả những cái đó là một mục tiêu: làm cho ông sợ, hạ nhiệt tình chiến đấu của ông. Nhưng các quỷ kế như vậy chỉ đổ thêm dầu vào lửa, ông bị chạm đến chỗ đau nhất, và quyết chiến thắng bằng bất kỳ giá nào. Hồi ấy, Tcharnotski đang nghiên cứu một hệ thống mới cho bơm chữa cháy; ông hy vọng nó sẽ đoạt hiệu quả cao hơn tất cả các loại bơm trước đây. Thứ được dùng để dập tắt lửa sẽ không phải là nước, mà là một chất gas đặc biệt, chất này sẽ bọc kín dày đặc tòa nhà bị cháy khiến oxy không lọt vào được nữa: bằng cách ấy, ông có thể dập tắt lửa từ lúc nó mới manh nha.
- Tôi đảm bảo đó sẽ là một ngọn roi của Trời đối với các đám cháy, ông hồn nhiên khoe với một kỹ sư ông quen khi chơi cờ. Rất có thể khi bằng phát minh của tôi được chứng nhận, lửa hầu như sẽ không còn gây hại nữa. Và ông tự mãn vân vê bộ ria.
Bấy giờ là quãng giữa tháng Giêng, Tcharnotski định hoàn thành đề án chi tiết trong vài ba tháng rồi gửi lên bộ. Tối này qua tối khác, ông cặm cụi trên các bản vẽ, nhiều khi ông ngồi đến tận nửa đêm... Một lần đang ngồi làm việc lúc nữa đêm như thế, ông lơ đãng nhìn Martin, người đầy tớ già, khều than trong lò ra, và bỗng dưng mẩu gỗ cháy dở ấy thu hút sự chú ý của ông.
- Gượm đã, ông giữ Martin lại ở ngưỡng cửa. Bác rắc tro than lên tờ báo này cho tôi.
Martin hơi bối rối, làm theo lời ông chủ.
- Thế! Tốt rồi. Thôi, bác về ngủ đi.
Còn lại một mình, Tcharnotski một lần nữa nhìn kỹ các hòn than. Đập ngay vào mắt ông là hình dạng các hòn than. Không hiểu lửa cháy thế nào mà các hòn than có đường viền mang hình các chữ cái. Ông kinh ngạc xem xét những đường viền rõ nét ấy; không còn nghi ngờ gì nữa, trước mắt ông là những con chữ lớn bằng than được "gia công" rất khéo. Một câu đố hóc búa độc đáo, ông nghĩ và tò mò xếp các hòn than hết kiểu này đến kiểu nọ. Biết đâu ông xếp được chúng thành cái gì đó? Thế rồi chưa đầy mười lăm phút, dưới bàn tay ông đã xuất hiện các từ: "Nung Nóng", "Tia Lửa", "Dọa Nước", "Thổi Khói".
- Cái hội này vui ra phết, ông lẩm bẩm, ghi lại những cái tên lạ lùng ấy cho khỏi quên, đầy đủ thành phần bọn lưu manh lửa. Bây giờ ta hãy xem nên đặt biệt danh cho bọn mi như thế nào. Đúng là một cuộc viếng thăm độc đáo, nhưng các tấm danh thiếp lại càng độc đáo hơn.
Nhếch mép cười, ông cất tờ giấy vào tủ. Từ hôm ấy, ông dặn Martin ngày nào cũng đem tro than cho ông, và lần nào ông cũng phát hiện trong đó những lời nhắn gửi. Những lời ấy ngày càng gợi tò mò hơn. Sau các bức danh thiếp là những bức thông điệp từ thế giới bên kia, những câu rời rạc với nội dung răn đe và rồi cả với nội dung dọa nạt.
"Cút đi!", "Để chúng tao yên!", "Chớ đùa với bọn ta!", "Coi chừng đấy!".
Các bức thông điệp lửa thường kết thúc như vậy. Tcharnotski không coi trọng những lời ấy, với chúng ông có thái độ hài hước. Say sưa nghiên cứu ông xoa xoa tay và chuẩn bị đánh một đòn chí mạng. Chắc chắn ông sẽ thắng. Cần nói thêm rằng mọi chuyện bất ngờ khó chịu vẫn rình rập ông ở các đám cháy nay không lặp lại nữa, những trò ác xảy ra ở nhà nay cũng chấm dứt.
"Nhưng ngày nào ta cũng phải trao đổi thư từ như ta và chúng quen thân nhau vậy" Ông mỉm cười, sáng sáng xem những lời nhắn gửi của than lò. Có lẽ các sinh vật này không biết hướng năng lượng ác độc của chúng tới vài điều xấu xa cùng một lúc. Hiện giờ chúng chuyển sang fire message, cho nên chưa thấy trước được sẽ có gì khác. "Về mặt này thì ta gặp may, bọn mi cứ viết đi, càng lâu càng tốt, ta bao giờ cũng là một độc giả không vô ơn. "
Nhưng quãng đầu tháng Hai, "thư từ" bỗng ngưng lại. Một thời gian các hòn than vẫn còn giống đường viền các chữ cái, nhưng dù cố mấy Tcharnotski cũng không xếp được thành từ nào ít nhiều hiểu được; ông chỉ xếp được thành mấy kết hợp phụ âm vô nghĩa hoặc những chuỗi dài nguyên âm. Rõ ràng "thư từ" đã cạn kiệt và cuối cùng, các hòn than không còn có đường viền giống các chữ cái nữa.
"Fire message" đã chết, Tcharnotski kết luận và vạch một vạch đỏ dưới mục "Nhật ký thông điệp lửa".
Trong vòng một, hai tuần mọi chuyện êm ả. Khoảng thời gian đó, Tcharnotski hoàn chỉnh cấu trúc thiết bị dập lửa bằng hơi gas và bắt đầu lo chuyện lấy bằng chứng nhận. Nhưng công việc nghiên cứu vất vả đã làm ông mệt lả, sang tháng Ba, ông cảm thấy sức đuối đi rất nhiều, thỉnh thoảng ông lại cảm thấy toàn thân cứng đờ, hồi xưa ông đã từng bị chứng này do có tổn thương thần kinh. Người ngoài không biết tình trạng của ông, vì các cơn cứng đờ thường xảy ra ban đêm trong giấc ngủ. Thức giấc buổi sáng, ông cảm thấy rã rời như vừa đi một chặng đường dài. Phải nói rằng chính ông cũng không nhận thấy những cơn đó, vì sự chuyển từ trạng thái này sang trạng thái kia diễn ra nhẹ nhàng và hoàn toàn không đau đớn gì, chỉ có điều giấc ngủ trở nên nặng nề hơn khi dần dần từ giấc ngủ bình thường sang giấc ngủ cứng đờ.
Lúc thức giấc, tuy mệt mỏi nhưng ông lại nhớ lại được rất rõ và rất sống động những chuyến lãng du trong mơ. Suốt đêm Tcharnotski leo các ngọn núi, thăm các thành phố xa xôi, lang thang trên các miền đất lạ. Sự suy mòn thần kinh làm ông kiệt sức lúc ban sáng hình như chính là tại các chuyến phiêu bạt ban đêm của ông. Và thật kỳ lạ: chính ông cũng giải thích như vậy về sức khỏe yếu kém của ông. Các chuyến đi trong mơ được ông cảm nhận như một điều gì đó hoàn toàn hiện thực. Nhưng Tcharnotski không tâm sự chuyện đó với ai, vì chẳng cần thế, ông cũng đã bị để ý quá nhiều rồi. Cho người khác biết đời sống thầm kín của tâm hồn mình để làm gì? Tuy nhiên nếu gần gũi mọi người hơn, có thể ông sẽ nghe họ xì xào những gì, và chắc chắn ông sẽ lo lắng cho bản thân ông.
Việc đầu tiên là ông chú ý đến Martin, bây giờ bác ta nhìn ông chủ với một thái độ nghi ngờ kỳ lạ và thậm chí còn có vẻ sợ hãi. Bác ta có cơ sở như vậy và không chỉ một lần. Một đêm khuya vào quãng đầu tháng Ba, bác ta cầm nến đi từ bếp về phòng mình ở ngay sát cạnh phòng ngủ của ông chủ, bỗng bác ta thấy bóng Tcharnotski đang đi xa dần ở cuối hành lang. Hơi ngạc nhiên Martin quyết định thử kiểm tra xem hay đó chỉ là cảm giác mà thôi, bác ta liền vội vã theo sau. Nhưng tới cuối hành lang thì ông chủ đã biến mất, như ông đã độn thổ vậy. Martin băn khoăn nhón chân rón rén vào phòng ngủ của ông chủ, và bác ta thấy gì? Tcharnotski đang ngủ trên giường như chẳng hề có chuyện gì xảy ra.
Vài ngày sau cũng ban đêm, Martin lại trông thấy ông chủ của mình, nhưng lần này là ở cầu thang ông đứng trên bậc thang, cúi người qua tay vịn và nhìn xuống dưới bằng cái nhìn siêu thoát. Martin sởn gai ốc, bác ta lao tới kêu lên:
- Ông định làm gì thế? Ông hãy biết sợ Chúa Trời vì như thế là có tội!
Nhưng bác ta chưa kịp chạy đến gần, thì hình bóng Tcharnotski đã biến dạng một cách kỳ lạ, nhòa đi rồi như thấm vào tường không một tiếng động. Martin làm dấu thánh rồi không suy nghĩ lâu, bác ta lao vào phòng ngủ của ông chủ, lạ chưa cũng như lần nọ ông đang ngủ rất say.
- Quái thật! Martin lẩm bẩm. Ma quỷ hay sao nhỉ? Mình có say rượu đâu.
Bác ta đã định về đi ngủ, thì bỗng trông thấy ở cuối phòng có một điều kỳ lạ: phía trên đầu ông chủ quãng một mét, lơ lửng một ngọn lửa đỏ bập bùng. Về hình dạng nó giống như bụi cây đang cháy, và hình như những cái xúc tu rực lửa của nó đang cố túm lấy Tcharnotski.
- Lạy chúa! Martin kêu lên và chạy tới con quái vật lửa.
Thế là bụi cây đang cháy thu ngay lại những cái lưỡi lửa đang vươn về phía Tcharnotski, cuộn lại thành một cột lửa dày đặc rồi lập tức tắt ngấm, có tiếng xèo xèo nhè nhẹ. Trong phòng ngủ khá tối, chỉ có ánh sáng yếu ớt của ngọn nến Martin để dưới sàn. Tcharnotski ngủ trên giường, người duỗi cứng đơ như gỗ... Hôm sau, Martin thận trọng nói bóng gió với ông chủ rằng ông mệt mỏi, có cần gọi bác sĩ không, nhưng Tcharnotski nói lảng đi bằng một câu đùa, mà không biết tiếp đó sẽ có chuyện gì. Hai tuần sau thì xảy ra một tai họa...
Sự việc xảy ra vào đêm hai mươi tám, rạng ngày hai mươi chín tháng Ba, đáng ghi nhớ đối với dân chúng trong thành phố. Tcharnotski về nhà rất khuya mệt rã rời, hôm ấy đội cứu hỏa phải dập một đám cháy lớn ở khu kho nhà ga. Ông tỏ ra rất dũng cảm, không chỉ một lần coi thường nguy hiểm, để cứu mấy nhân viên đường sắt ngủ say ở các xó xỉnh trong khu kho. Về nhà quãng gần mười giờ, ông để nguyên quần áo nằm lăn ngay xuống giường và ngủ như chết. Những ngày gần đây, lo lắng cho chủ Martin như một con chó trung thành, canh giữ sự yên tĩnh của ông ở phòng bên, bác ta không tắt đèn, thỉnh thoảng lại ngó sang phòng ngủ của ông chủ. Đêm ấy bác ta buồn ngủ quá, mái đầu bạc nặng nề ngả sang vai và cuối cùng gục xuống bàn.
Bác ta thức giấc vì có một tiếng động đáng ngại. Cố rũ đi cơn buồn ngủ, bác ta giụi mắt và lắng nghe. Tiếng động không lặp lại nữa. Bác ta bèn vớ lấy chiếc đèn chạy sang phòng ngủ của ông chủ. Nhưng hỡi ôi đã quá muộn. Mở cửa ra bác ta thấy lửa bao quanh ông chủ như một vầng sáng, hình như hàng nghìn cái vòi lửa đang mút chặt vào thân thể ông. Martin chưa kịp chạy đến giường, thì quầng lửa đã như thẩm thấu vào thân thể người đang ngủ, không còn dấu vết gì cứ như hề chưa có lửa bao giờ vậy. Run như cầy sấy Martin luống cuống nhìn kỹ ông chủ.
Đột nhiên mặt Tcharnotski biến đổi một cách kỳ lạ: đang bất động bỗng nhăn nhó như thể bị co thắt hay hay bị động kinh, đến mức khó nhận ra. Như bị một sức mạnh bí ẩn nhập vào thân thể, Tcharnotski bỗng bật dậy, rú lên một tiếng man dại rồi lao thẳng ra khỏi nhà. Lúc ấy là bốn giờ sáng, phía trên thành phố, cái ảo ảnh ngái ngủ đang đuổi nhau trong điệu vũ vòng tròn, lũ quỷ ác mộng ngán ngẩm cụp những đôi cánh hư ảo của chúng lại, miễn cưỡng chuẩn bị quay về, còn các thiên thần trầm ngâm cúi trên những chiếc giường của trẻ thơ thì vội vã đặt trên trán đứa trẻ nụ hôn tạm biệt...Chân trời phía đông đã có những vệt tím. Bình minh xám nhạt run rẩy trước cái lạnh buổi sớm, lan dần về phía thành phố như những làn sóng thức tỉnh, tỏa sáng, đổi mới.
Đàn quạ thành phố thức dậy sau một đêm gà gật, bay một, hai, ba lần thành những vòng tròn màu đen phía trên tòa thị chính, rồi vừa kêu quàng quạc vừa đậu xuống những cành cây trụi lá trước mùa xuân. Lũ chó hoang lang thang ban đêm trong các ngõ tối, bây giờ kiếm cái ăn ngoài chợ. Đột nhiên ở nhiều điểm trong thành phố vọt lên những ngọn lửa, lửa như một bông hoa nở tung những cánh hoa đỏ rực nhuốm hồng phía trên các mái nhà, vươn cao lên trời. Chuông nhà thờ gióng lên, sự yên tĩnh buổi sớm bị vỡ tung ra bởi những tiếng kêu, tiếng gào tiếng hét:
- Cháy! Cháy!
Ở ngoài chợ các đám người chạy loạn xạ, các ô tô phóng như bay, cứu hỏa rú ầm ĩ. Một người mặc đồng phục lính cứu hỏa, mái tóc tung bay tay cầm đuốc đang ra sức len qua đám đông.
- Ai đấy nhỉ? Ai?
- Bắt lấy nó! Bắt lấy! Tên đốt nhà!
Hàng nghìn cánh tay hướng về phía hắn.
-Tên đốt nhà! Tên tàn ác! Đám đông điên cuồng giận dữ gầm lên.
Có ai đó hắt ngọn đuốc ra khỏi tay hắn, có ai đó ôm nghiến lấy hắn. Hắn vùng ra sùi bọt mép... Cuối cùng hắn cũng bị thuần phục. Và người ta đã dẫn giải hắn trên quãng trường, tay hắn bị trói chặt quần áo hắn rách bươm. Mọi người chằm chằm nhìn vào gương mặt đang được ánh bình minh yếu ớt chiếu sáng.
- Ai thế này?
Những người áp giải bất giác buông thõng tay xuống.
- Ai thế này?
Mấy người lính canh khiếp sợ cứng họng không nói được nữa.
- Sao mặt trông quen quen?
Trên vai kẻ điên rồ lủng lẳng những cái ngù vai bị tuột ra trong lúc ẩu đả, đó là ngù vai của giám đốc sở cứu hỏa, còn trên áo sơ mi rách lấp lánh tấm huy chương "Vì có công chữa cháy", lóe sáng cây thập tự vàng "Vì lòng dũng cảm". Và gương mặt kia, một gương mặt biến dạng đi trông như thú vật, với hai con mắt xếch đỏ ngầu máu... Suốt một tháng ròng sau đám cháy khủng khiếp, đã thiêu rụi bảy công trình xây dựng đẹp nhất thành phố ấy, đêm nào Martin cũng trông thấy bóng ma Tcharnotski. Bóng kẻ điên rồ trườn vào phòng ngủ, cúi xuống chiếc giường bỏ trống lục lọi ở đó tìm thân thể, có lẽ để lại nhập vào? Hỡi ôi chỉ tổ uổng công..
Mãi tới cuối tháng Tư, sau khi ông giám đốc sở cứu hỏa bị nhốt ở bệnh viện của bác sĩ Zhegota, trong tình trạng mất trí nhớ, đã nhảy qua cửa sổ tầng gác xuống đất và chết tại chỗ, bóng ma của ông ta mới thôi không về nơi ở cũ nữa.. Nhưng mãi tới nay mọi người vẫn còn kể cho nhau nghe, câu chuyện hoang đường về hồn ma của ông Chịu Lửa: nó đã để lại thân xác của nó trong giấc ngủ, rồi không quay trở về được nữa, bởi các sinh vật lửa đã chiếm mất.
Vũ Đình Bình
ST
#170
Gửi vào 01/07/2011 - 07:36
BÍ THUẬT TAM MẬT TRONG PHONG
THŨY TÂY TẠNG BALACK SECT
Bí thuật Tam Mật của trường phái Black sect của các nhà phong thủy Tây Tạng được xem là có tác dụng hữu hiệu nhất mặc dầu cho tới nay chưa ai giải thích rõ tại sao. Trong phép Tam Mật tựu trung là sự hài hòa điều Khí cho môi trường và cơ thể. Nếu Khí yếu thì có khả năng giúp tăng cường. Nếu mạnh thì giảm Khí.
Bí thuật này gồm ba yếu tố chính là: Cơ thể, bộ óc hay tâm hồn và năng lực siêu nhiên. Về cơ thể chính, thì chúng ta có thể sử dụng đôi bàn tay bắt ấn để vận Khí. Về bộ óc, tâm hồn là làm cho có thể thấy nhận biết hay gợi lại, tăng cường ý chí quyết tâm đạt điều ước muốn. Riêng phần năng lực siêu nhiên thì sẽ được hỗ trợ bằng cách cầu nguyện, đọc mật chú, dùng Mantra.
Chính vì lẽ đó mà đôi khi ta bắt gặp trong phong thủy có một số phương thức nhuốm màu sắc huyền bí siêu linh. Và dĩ nhiên trải qua bao nghìn năm lưu truyền đã có một số bị thất truyền, hay lại trở thành tam sao thất bản, làm phát sinh những hình thái đầy sai lạc và mê tín, khiến phong thủy bị hiểu sai lạc. Vấn đề luyện công, thiền định, tập tỉnh tâm, tập điều khí hay thay đổi vị trí đồ vật, gắn gương soi, treo thủy tinh cầu, trồng cây xanh ở chỗ này, đặt bồn phun nước ở chỗ kia, di chuyển cái giường hay bàn làm việc tới vị trí thích ứng nào đó, đều thuộc vào bí thuật của phép tam mật cả. ta thử lần lượt tìm hiểu sơ lược Bí thuật Tam mật:
TÁC ĐỘNG TỪ CƠ THỂ BÀN TAY
DÙNG BÀN TAY VÀ NGÓN TAY XUA TAN ÁC KHÍ
Giữ tâm bình yên không xao động. Hít Khí vào từ từ , đưa cánh tay ra trước. Ngón Út và Trỏ hướng tới trước trong khi hai ngón giữa và ngón đeo nhẫn co vào tâm lòng bàn tay, để ngón cái áp lên hai ngón đó. Từ tình trạng trên, hãy búng hai ngón tay co ra. mỗi lần búng như vậy là một lần xua đuổi tà khí, sự tai biến nguy khốn. Nếu thưc hiện với tâm trạng tự tin, tuyệt đối nghĩ tới đấng tối cao Phật hay Chúa hay vị Thần Linh, vị Giáo chủ tôn giáo nào mà mình tôn sùng và nhận năng lực mạnh mẽ từ Người, thì không những trục đi những thứ xấu xa trở ngại cũng như Âm Khí, mà còn giữ lại được Dương Khí. Những người đã từng luyện công, khi thực hành bí quyết này còn có khả năng thấy thứ ánh sáng siêu đẳng phóng tỏa từ các ngón tay búng ra. Những nhà Phong Thủy trường phái Balack Sect gọi ánh sáng đó là Phật Quang.
TÁC ĐỘNG CỦA NĂNG LỰC SIÊU NHIÊN
DÙNG MẬT CHÚ OM MA NI PAT MI HUM
Đây là một câu mật chú có năng lực vô song, khi đọc lên có khả năng làm tiêu tán những xấu xa ác nghiệt bất cứ từ đâu tới, tuy rằng ẩn tàng bên trong của câu chú lại là sự Từ Bi vô lượng, nhưng thắng được ác đạo. Đây cũng là một phần trong bí thuật Tam Mật mà phái Black Sect dùng. Mật chú này khi đọc lên sẽ được khỏi động khắp vũ trụ và được hiệu ứng tức thì. Cũng vì sự thần bí kỳ diệu lạ lùng đó mà tại ngôi đền thiêng Odiyan Mandala của Tây Tạng xây dựng tại Hoa kỳ, câu chú này đã được khắc trên 1252 bánh xe bằng đồng đỏ để ngày đêm luân chuyển khắp thế giới cũng như về nước Tây Tạng.
TÁC ĐỘNG CỦA BỘ NÃO HAY TRÍ ÓC
Con người là một sinh vật có trí óc phát triển vượt bực. Do đó năng lực của trí óc con người mạnh mẽ vô cùng. Từ bộ óc, sự suy tư tưởng tượng không những mang lại những thành quả kỳ diệu, mà còn phát ra những năng lực lạ lùng. Tuy nhiên nhà Phong thủy phái thần bí hay Black Sect của Tây Tạng thường đề nghị chúng ta rằng : Cần phải nhớ luôn rằng : Khi ta nghĩ đến tưởng đến cái gì mà ta nghĩ thôi. Ta cần phải có cảm tưởng những gì ta nghĩ nữa mới mang lại những thành quả. Tôi nghĩ là tôi sẽ đến nơi đó, nhưng ta phải đưa tư tưởng dần vào hiện thực bằng cái "thấy trong tư tưởng" như thật, là ta đang đứng ở đó và làm những điều ta định làm."
Nói tóm lại ta phải dùng năng lực tư tưởng bằng quyết tâm và trì chí. phải nhớ và tin rằng tâm của con người rất mạnh. Đó là năng lực kỳ bí mà con người có được hơn các loài trên quả đất là nhờ vậy. Điều quan trọng không nên quên trong phép Tam Mật, có vô số thủ thuật tuy tầm thường nhỏ nhoi tưởng không quan trọng, nhưng phụ lực cho phép Tam Mật thành công lớn lao. Ví dụ chiếc gương soi nhỏ tầm thường, nhưng có thể làm chuyển đổi vị trí một đồ vật. Cái bếp nằm sai chỗ ví dụ ở hướng Bắc hành Thủy mà bếp Hỏa, vẫn gắn tấm gương đối diện bếp, sẽ mang hình ảnh cái bếp vào trong gương. Và vì gương đặt đối diện bếp nên bây giờ " cái bếp" đã nằm đúng vị trí hướng Nam hành Hỏa tốt cho bếp. Như vậy trí óc tưởng tượng mở ra lối đi, lối giải quyết hỗ trợ bởi những vật dụng ví dụ như gương soi, cây xanh, thủy tinh cầu, hồ cá cảnh, khối đá, bức bình phong, con đường uốn lượn...
MẦU SẮC TƯƠNG ỨNG CỦA MẬT CHÚ
OM MA NI PAT MI HUM
Theo phái phong thủy Tây Tạng Black Sect thì sáu chữ Mật chú Om Ma Ni Pat Mi Hum (thường gọi là Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn ) tương ứng với sáu màu sắc như sau:
OM tương ứng với màu TRẮNG
MA ----- ------------ĐỎ
NI ----------------- VÀNG
PAT -----------------XANH LỤC
MI ----------------- XANH DA TRỜI
HUM -----------------ĐEN
Ngày nay nhiều cơ sở làm ăn lớn thường hay làm cột cờ để treo những lá cờ hiệu. Đối với khoa phong thủy thì lá cở phất phới bay sẽ giúp điều hòa Khí, và mang năng lượng vũ trụ vào cho cơ sở. Để gia tăng năng lực, người ta trồng sáu cột cờ trước cơ sở, và treo sáu lá cờ theo thứ tự sáu màu, của Mật chú Om Ma Ni Pat Mi Hum.
P/S: "Giữ tâm bình yên không xao động. Hít Khí vào từ từ, đưa cánh tay ra trước. Ngón Út và Trỏ hướng tới trước, trong khi hai ngón giữa và ngón đeo nhẫn co vào tâm lòng bàn tay, để ngón cái áp lên hai ngón đó" Ấn này chính là Ngọc Hoàng Ấn, trong Mật Tông ấn quyết vô cùng quan trọng, các huynh đệ tỷ muội đọc mà áp dụng nên hết sức cẩn thận, phải thật cần thiết mới dùng, vì khi ấn được búng ra, tay bạn như những khẩu súng lazer rất dễ gây tổn thương cho các vong linh xung quanh. Vì vậy mà các hành giã Mật Tông đều xả ấn lên đãnh đầu, cách hay nhất là lấy một tô nước để trước mặt, bắt ấn, miệng đọc Om Ma Ni Pad Me Hum. Cứ đọc bảy biến, búng ấn vào tô nước một cái. Cứ như vậy đọc càng nhiều càng tốt, thì nước ấy thành nước đượcc gia trì, dùng rảy vào các nơi khí xấu có tác dụng thanh tẩy trường khí nơi đó.
BÍ THUẬT ĐIỀU KHÍ
Các nhà phong thủy thuộc phái Black Sect có thêm những bí thuật khác giúp điều khí rất có kết quả. Sau đây là một phương cách: Vật liệu cần dùng là một cái tô bằng sành hay thủy tinh. Thần Sa dạng bột trong cái gói nhỏ. Thần Sa, Chu Sa là khoáng vật mầu đỏ Cinnabar, dùng làm thuốc (hỏi tiệm thuốc Bắc) rượu có nồng độ mạnh. Cho gạo vào cái tô ít nhất là nửa tô, cho Thần Sa vào (độ một muổng canh thôi) rồi lại nhỏ vô chín giọt rượu cất, rượu cao độ. Rượu 80 độ được cho là tốt nhưng nếu được 151 độ là quá lý tưởng.
Cả ba thứ: gạo, Chu Sa và rượu trộn đều với nhau, nhớ trộn nhẹ bằng ngón tay giữa. Nhớ là chỉ có ngón tay giữa đưa sâu vào tô để trộn mà thôi, các ngón tay kia co lại. Trong khi dùng ngón tay trộn nhẹ đều ba thứ trên, phải giữ tâm hồn thanh thản, nghĩ tới đấng toàn năng toàn trí để nhận khí tốt lành, trong khi miệng đọc câu chú om ma ni pat mi hum 108 lần. Hoạt động của ngón tay, tư tưởng tâm niệm của bản thân và lời chú đã tạo nên một năng lực huyền bí, chuyển Khí từ ngoài vào trong cái tô gạo chứa ba thứ : gạo, chu sa và rượu cao độ . Lúc bấy giờ hãy cầm cái tô, bước đi quanh căn nhà hay cơ sở với lời chú và lời cầu nguyện, đồng thời lấy tay vốc một ít hạt gạo trong tô, và mở rộng bàn tay cho các ngón tỏa ra để vung vãi gạo.
Nhớ rằng việc vung vãi những hạt gạo theo cách này là để giúp cho Ma Đói, những linh hồn vất vưởng đói khát. Đây cũng là cách "Thí Thực" khiến ma quỷ không còn quậy phá làm phát sinh quá nhiều Âm Khí. Nhớ hốt gạo và vung vãi bốn phương tám hướng bên ngoài căn nhà hay cơ sở. Sau đó lại vãi gạo xuống các hướng dưới đất. Cuối cùng lại hốt gạo vào bàn tay và tung lên cao vào trong không khí ba lần. Động tác này giúp Vượng Khí thêm trong vùng. Những hạt gạo tỏa từ trên cao xuống như mưa, làm thấm nhuần nhà cửa đất đai. Trong ba lần vãi gạo sau cùng ấy, lần vãi gạo thứ nhất tâm niệm tưởng tượng đất đai nơi chốn ấy chứa đầy sanh khí.
Lần vãi thứ hai nghĩ tới toàn bộ môi trường nơi đây an lạc thuận lợi, và lần thứ ba mong đạt nguyện cầu đất đai yên bình thịnh vượng. Lưu ý khi thực hiện bí thuật cần bình tâm không nghĩ ngợi mông lung, miệng niệm Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn OM MA NI PAT MI HUM.
BÍ THUẬT XUA ĐUỔI KHÍ XẤU
KHỎI CĂN NHÀ HAY CƠ SỞ LÀM ĂN
Người Việt Nam từ ngàn xưa đã có tục xua đuổi những tà khí, những phong long, những sự xui xẻo bất lợi bằng một bí thuật cổ sơ đơn giản như sau: Quạt một lò than nóng đỏ đặt ngay giữa nhà, hay nơi nào họ cho là bị tà khí, khí xấu làm cho gặp toàn chuyện không hay, hoặc cửa hàng tự nhiên vắng khách đó khí xấu xâm nhập hoặc ai mang tà khí tới. Khi lò than vừa cháy đỏ thì thả vào lò than một nhúm muối hột, đồng thời đặt trên lò than nhành cây Gai Bốm, loại cây này thường mọc hoang ở các vùng đất khô cằn đồi núi.
Khi cháy muối và câu Bốm sẽ phát ra tiếng nổ lách tách bắn khắp nơi, đồng thời quạt thêm cho cho lửa rực mạnh, mở các cửa sổ cửa lớn để tống xuất Khí xấu đi. Tại Đài Loan, Hồng Kông, Singapore người ta cũng tận dụng những bí thuật tương tự như ở Việt Nam ngày xưa, tuy nhiên có sự khác biệt mặc dù cùng mục đích là làm tan mất, xua đuổi tà khí ra khỏi nhà hay cơ sở làm ăn. Dưới đây là bí thuật gọi là bí thuật dùng hơi ấm. Trước hết phải chọn ngày tốt để thực hiện. Khi thực hiện bí thuật này thì phải dùng giấy hay màn vải sẫm màu, nếu đen càng tốt che kín các cửa phòng nhà ở hay cơ sở muốn trục khí xấu.
Gần sát và cửa chánh đặt một lò than quạt cho nóng đỏ lên. nhớ là chờ đúng giờ tốt mới khỏi cho lò nóng rực lửa. Khói và hơi ấm sẽ tỏa khắp phòng. Người chủ trì hay thầy phong thủy sẽ đọc chú An Ma Ni Pat Mi Hum liên tục, nhưng không hấp tấp rồi bước qua lò than đỏ bằng chân trái, rồi tiếp theo là bàn chân phải. Nếu không có thầy phong thủy, thì chủ nhân cơ sở hay chủ nhà sẽ làm động tác đó. Kế đến là những người làm trong cơ sở hay những người ở trong nhà bước qua lò than đỏ, với ý niệm là dùng than nóng đỏ tạo năng lực kết với quyết tâm của con người, trục tà khí của căn nhà hay khỏi cơ sở làm ăn.
Kế đến thầy phong thủy hay chủ nhân mở cửa, dùng kéo cắt dải vải đỏ treo trước cửa. Người nhà hay bè bạn có mặt tức thời mở hết các tấm màn hay giấy che các cửa, để năng lượng ánh sáng và khí vũ trụ vô nhà, đồng thời mở các đèn cho sáng khắp phòng hòa với âm nhạc vui tươi, đón chào làn Khí mới cho căn nhà hay cơ sở. Lưu ý là suốt thời gian thực hiện bí thuật sưởi ấm ấy, bạn bè, người thân hiện diện không được ra về bất thần.
BÍ THUẬT CỦA TRƯỜNG PHÁI PHONG THỦY
TÂY TẠNG BLACK SECT
Vật liệu:
- Cái đĩa bằng thủy tinh hay bằng sành màu trắng tinh.
- Chín vỏ khô của trái Quất đã phơi khô.
- Trái cam tươi
Thực hành:
Cắt trái cam thành chín miếng tròn sắp vào giữa đĩa trắng. Lại sắp chín miếng vỏ trái quất khô ở vành ngoài. Chủ nhân căn nhà hay cơ sở tay bưng cái đĩa chậm rãi bước ra đứng ngay ở cửa, với tư tưởng trong sáng thanh thản, miệng đọc câu chú Tây Tạng Om Ma Ni Pat Mi Hum. Chuyển cái đĩa theo chiều kim đồng hồ, tức là vòng xoáy khí. Dùng diêm quẹt đốt vỏ quất khô cho bốc tỏa mùi thơm. Lần lượt đốt từng miếng vỏ theo chiều kim đồng hồ.
Có thể dùng điếu thuốc cháy đỏ để dốt cho tiện. Khi nào miếng vỏ quất tắt khói, thì nhớ đốt lại cho cháy. Khi hết một vòng căn nhà hay cơ sở, và trở lại đúng ngay nơi cửa chánh. Khi đó bắt đầu hướng về bếp lò và đặt dĩa ấy trên lò, nhưng không bật lửa lò lên. Để đĩa ấy như vậy qua đêm, và sáng hôm sau đem đổ những thú trên đĩa vào dưới gốc cây. Phương thức này giúp triệt phá Ác Khí, điều Khí rất công hiệu.
ST
THŨY TÂY TẠNG BALACK SECT
Bí thuật Tam Mật của trường phái Black sect của các nhà phong thủy Tây Tạng được xem là có tác dụng hữu hiệu nhất mặc dầu cho tới nay chưa ai giải thích rõ tại sao. Trong phép Tam Mật tựu trung là sự hài hòa điều Khí cho môi trường và cơ thể. Nếu Khí yếu thì có khả năng giúp tăng cường. Nếu mạnh thì giảm Khí.
Bí thuật này gồm ba yếu tố chính là: Cơ thể, bộ óc hay tâm hồn và năng lực siêu nhiên. Về cơ thể chính, thì chúng ta có thể sử dụng đôi bàn tay bắt ấn để vận Khí. Về bộ óc, tâm hồn là làm cho có thể thấy nhận biết hay gợi lại, tăng cường ý chí quyết tâm đạt điều ước muốn. Riêng phần năng lực siêu nhiên thì sẽ được hỗ trợ bằng cách cầu nguyện, đọc mật chú, dùng Mantra.
Chính vì lẽ đó mà đôi khi ta bắt gặp trong phong thủy có một số phương thức nhuốm màu sắc huyền bí siêu linh. Và dĩ nhiên trải qua bao nghìn năm lưu truyền đã có một số bị thất truyền, hay lại trở thành tam sao thất bản, làm phát sinh những hình thái đầy sai lạc và mê tín, khiến phong thủy bị hiểu sai lạc. Vấn đề luyện công, thiền định, tập tỉnh tâm, tập điều khí hay thay đổi vị trí đồ vật, gắn gương soi, treo thủy tinh cầu, trồng cây xanh ở chỗ này, đặt bồn phun nước ở chỗ kia, di chuyển cái giường hay bàn làm việc tới vị trí thích ứng nào đó, đều thuộc vào bí thuật của phép tam mật cả. ta thử lần lượt tìm hiểu sơ lược Bí thuật Tam mật:
TÁC ĐỘNG TỪ CƠ THỂ BÀN TAY
DÙNG BÀN TAY VÀ NGÓN TAY XUA TAN ÁC KHÍ
Giữ tâm bình yên không xao động. Hít Khí vào từ từ , đưa cánh tay ra trước. Ngón Út và Trỏ hướng tới trước trong khi hai ngón giữa và ngón đeo nhẫn co vào tâm lòng bàn tay, để ngón cái áp lên hai ngón đó. Từ tình trạng trên, hãy búng hai ngón tay co ra. mỗi lần búng như vậy là một lần xua đuổi tà khí, sự tai biến nguy khốn. Nếu thưc hiện với tâm trạng tự tin, tuyệt đối nghĩ tới đấng tối cao Phật hay Chúa hay vị Thần Linh, vị Giáo chủ tôn giáo nào mà mình tôn sùng và nhận năng lực mạnh mẽ từ Người, thì không những trục đi những thứ xấu xa trở ngại cũng như Âm Khí, mà còn giữ lại được Dương Khí. Những người đã từng luyện công, khi thực hành bí quyết này còn có khả năng thấy thứ ánh sáng siêu đẳng phóng tỏa từ các ngón tay búng ra. Những nhà Phong Thủy trường phái Balack Sect gọi ánh sáng đó là Phật Quang.
TÁC ĐỘNG CỦA NĂNG LỰC SIÊU NHIÊN
DÙNG MẬT CHÚ OM MA NI PAT MI HUM
Đây là một câu mật chú có năng lực vô song, khi đọc lên có khả năng làm tiêu tán những xấu xa ác nghiệt bất cứ từ đâu tới, tuy rằng ẩn tàng bên trong của câu chú lại là sự Từ Bi vô lượng, nhưng thắng được ác đạo. Đây cũng là một phần trong bí thuật Tam Mật mà phái Black Sect dùng. Mật chú này khi đọc lên sẽ được khỏi động khắp vũ trụ và được hiệu ứng tức thì. Cũng vì sự thần bí kỳ diệu lạ lùng đó mà tại ngôi đền thiêng Odiyan Mandala của Tây Tạng xây dựng tại Hoa kỳ, câu chú này đã được khắc trên 1252 bánh xe bằng đồng đỏ để ngày đêm luân chuyển khắp thế giới cũng như về nước Tây Tạng.
TÁC ĐỘNG CỦA BỘ NÃO HAY TRÍ ÓC
Con người là một sinh vật có trí óc phát triển vượt bực. Do đó năng lực của trí óc con người mạnh mẽ vô cùng. Từ bộ óc, sự suy tư tưởng tượng không những mang lại những thành quả kỳ diệu, mà còn phát ra những năng lực lạ lùng. Tuy nhiên nhà Phong thủy phái thần bí hay Black Sect của Tây Tạng thường đề nghị chúng ta rằng : Cần phải nhớ luôn rằng : Khi ta nghĩ đến tưởng đến cái gì mà ta nghĩ thôi. Ta cần phải có cảm tưởng những gì ta nghĩ nữa mới mang lại những thành quả. Tôi nghĩ là tôi sẽ đến nơi đó, nhưng ta phải đưa tư tưởng dần vào hiện thực bằng cái "thấy trong tư tưởng" như thật, là ta đang đứng ở đó và làm những điều ta định làm."
Nói tóm lại ta phải dùng năng lực tư tưởng bằng quyết tâm và trì chí. phải nhớ và tin rằng tâm của con người rất mạnh. Đó là năng lực kỳ bí mà con người có được hơn các loài trên quả đất là nhờ vậy. Điều quan trọng không nên quên trong phép Tam Mật, có vô số thủ thuật tuy tầm thường nhỏ nhoi tưởng không quan trọng, nhưng phụ lực cho phép Tam Mật thành công lớn lao. Ví dụ chiếc gương soi nhỏ tầm thường, nhưng có thể làm chuyển đổi vị trí một đồ vật. Cái bếp nằm sai chỗ ví dụ ở hướng Bắc hành Thủy mà bếp Hỏa, vẫn gắn tấm gương đối diện bếp, sẽ mang hình ảnh cái bếp vào trong gương. Và vì gương đặt đối diện bếp nên bây giờ " cái bếp" đã nằm đúng vị trí hướng Nam hành Hỏa tốt cho bếp. Như vậy trí óc tưởng tượng mở ra lối đi, lối giải quyết hỗ trợ bởi những vật dụng ví dụ như gương soi, cây xanh, thủy tinh cầu, hồ cá cảnh, khối đá, bức bình phong, con đường uốn lượn...
MẦU SẮC TƯƠNG ỨNG CỦA MẬT CHÚ
OM MA NI PAT MI HUM
Theo phái phong thủy Tây Tạng Black Sect thì sáu chữ Mật chú Om Ma Ni Pat Mi Hum (thường gọi là Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn ) tương ứng với sáu màu sắc như sau:
OM tương ứng với màu TRẮNG
MA ----- ------------ĐỎ
NI ----------------- VÀNG
PAT -----------------XANH LỤC
MI ----------------- XANH DA TRỜI
HUM -----------------ĐEN
Ngày nay nhiều cơ sở làm ăn lớn thường hay làm cột cờ để treo những lá cờ hiệu. Đối với khoa phong thủy thì lá cở phất phới bay sẽ giúp điều hòa Khí, và mang năng lượng vũ trụ vào cho cơ sở. Để gia tăng năng lực, người ta trồng sáu cột cờ trước cơ sở, và treo sáu lá cờ theo thứ tự sáu màu, của Mật chú Om Ma Ni Pat Mi Hum.
P/S: "Giữ tâm bình yên không xao động. Hít Khí vào từ từ, đưa cánh tay ra trước. Ngón Út và Trỏ hướng tới trước, trong khi hai ngón giữa và ngón đeo nhẫn co vào tâm lòng bàn tay, để ngón cái áp lên hai ngón đó" Ấn này chính là Ngọc Hoàng Ấn, trong Mật Tông ấn quyết vô cùng quan trọng, các huynh đệ tỷ muội đọc mà áp dụng nên hết sức cẩn thận, phải thật cần thiết mới dùng, vì khi ấn được búng ra, tay bạn như những khẩu súng lazer rất dễ gây tổn thương cho các vong linh xung quanh. Vì vậy mà các hành giã Mật Tông đều xả ấn lên đãnh đầu, cách hay nhất là lấy một tô nước để trước mặt, bắt ấn, miệng đọc Om Ma Ni Pad Me Hum. Cứ đọc bảy biến, búng ấn vào tô nước một cái. Cứ như vậy đọc càng nhiều càng tốt, thì nước ấy thành nước đượcc gia trì, dùng rảy vào các nơi khí xấu có tác dụng thanh tẩy trường khí nơi đó.
BÍ THUẬT ĐIỀU KHÍ
Các nhà phong thủy thuộc phái Black Sect có thêm những bí thuật khác giúp điều khí rất có kết quả. Sau đây là một phương cách: Vật liệu cần dùng là một cái tô bằng sành hay thủy tinh. Thần Sa dạng bột trong cái gói nhỏ. Thần Sa, Chu Sa là khoáng vật mầu đỏ Cinnabar, dùng làm thuốc (hỏi tiệm thuốc Bắc) rượu có nồng độ mạnh. Cho gạo vào cái tô ít nhất là nửa tô, cho Thần Sa vào (độ một muổng canh thôi) rồi lại nhỏ vô chín giọt rượu cất, rượu cao độ. Rượu 80 độ được cho là tốt nhưng nếu được 151 độ là quá lý tưởng.
Cả ba thứ: gạo, Chu Sa và rượu trộn đều với nhau, nhớ trộn nhẹ bằng ngón tay giữa. Nhớ là chỉ có ngón tay giữa đưa sâu vào tô để trộn mà thôi, các ngón tay kia co lại. Trong khi dùng ngón tay trộn nhẹ đều ba thứ trên, phải giữ tâm hồn thanh thản, nghĩ tới đấng toàn năng toàn trí để nhận khí tốt lành, trong khi miệng đọc câu chú om ma ni pat mi hum 108 lần. Hoạt động của ngón tay, tư tưởng tâm niệm của bản thân và lời chú đã tạo nên một năng lực huyền bí, chuyển Khí từ ngoài vào trong cái tô gạo chứa ba thứ : gạo, chu sa và rượu cao độ . Lúc bấy giờ hãy cầm cái tô, bước đi quanh căn nhà hay cơ sở với lời chú và lời cầu nguyện, đồng thời lấy tay vốc một ít hạt gạo trong tô, và mở rộng bàn tay cho các ngón tỏa ra để vung vãi gạo.
Nhớ rằng việc vung vãi những hạt gạo theo cách này là để giúp cho Ma Đói, những linh hồn vất vưởng đói khát. Đây cũng là cách "Thí Thực" khiến ma quỷ không còn quậy phá làm phát sinh quá nhiều Âm Khí. Nhớ hốt gạo và vung vãi bốn phương tám hướng bên ngoài căn nhà hay cơ sở. Sau đó lại vãi gạo xuống các hướng dưới đất. Cuối cùng lại hốt gạo vào bàn tay và tung lên cao vào trong không khí ba lần. Động tác này giúp Vượng Khí thêm trong vùng. Những hạt gạo tỏa từ trên cao xuống như mưa, làm thấm nhuần nhà cửa đất đai. Trong ba lần vãi gạo sau cùng ấy, lần vãi gạo thứ nhất tâm niệm tưởng tượng đất đai nơi chốn ấy chứa đầy sanh khí.
Lần vãi thứ hai nghĩ tới toàn bộ môi trường nơi đây an lạc thuận lợi, và lần thứ ba mong đạt nguyện cầu đất đai yên bình thịnh vượng. Lưu ý khi thực hiện bí thuật cần bình tâm không nghĩ ngợi mông lung, miệng niệm Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn OM MA NI PAT MI HUM.
BÍ THUẬT XUA ĐUỔI KHÍ XẤU
KHỎI CĂN NHÀ HAY CƠ SỞ LÀM ĂN
Người Việt Nam từ ngàn xưa đã có tục xua đuổi những tà khí, những phong long, những sự xui xẻo bất lợi bằng một bí thuật cổ sơ đơn giản như sau: Quạt một lò than nóng đỏ đặt ngay giữa nhà, hay nơi nào họ cho là bị tà khí, khí xấu làm cho gặp toàn chuyện không hay, hoặc cửa hàng tự nhiên vắng khách đó khí xấu xâm nhập hoặc ai mang tà khí tới. Khi lò than vừa cháy đỏ thì thả vào lò than một nhúm muối hột, đồng thời đặt trên lò than nhành cây Gai Bốm, loại cây này thường mọc hoang ở các vùng đất khô cằn đồi núi.
Khi cháy muối và câu Bốm sẽ phát ra tiếng nổ lách tách bắn khắp nơi, đồng thời quạt thêm cho cho lửa rực mạnh, mở các cửa sổ cửa lớn để tống xuất Khí xấu đi. Tại Đài Loan, Hồng Kông, Singapore người ta cũng tận dụng những bí thuật tương tự như ở Việt Nam ngày xưa, tuy nhiên có sự khác biệt mặc dù cùng mục đích là làm tan mất, xua đuổi tà khí ra khỏi nhà hay cơ sở làm ăn. Dưới đây là bí thuật gọi là bí thuật dùng hơi ấm. Trước hết phải chọn ngày tốt để thực hiện. Khi thực hiện bí thuật này thì phải dùng giấy hay màn vải sẫm màu, nếu đen càng tốt che kín các cửa phòng nhà ở hay cơ sở muốn trục khí xấu.
Gần sát và cửa chánh đặt một lò than quạt cho nóng đỏ lên. nhớ là chờ đúng giờ tốt mới khỏi cho lò nóng rực lửa. Khói và hơi ấm sẽ tỏa khắp phòng. Người chủ trì hay thầy phong thủy sẽ đọc chú An Ma Ni Pat Mi Hum liên tục, nhưng không hấp tấp rồi bước qua lò than đỏ bằng chân trái, rồi tiếp theo là bàn chân phải. Nếu không có thầy phong thủy, thì chủ nhân cơ sở hay chủ nhà sẽ làm động tác đó. Kế đến là những người làm trong cơ sở hay những người ở trong nhà bước qua lò than đỏ, với ý niệm là dùng than nóng đỏ tạo năng lực kết với quyết tâm của con người, trục tà khí của căn nhà hay khỏi cơ sở làm ăn.
Kế đến thầy phong thủy hay chủ nhân mở cửa, dùng kéo cắt dải vải đỏ treo trước cửa. Người nhà hay bè bạn có mặt tức thời mở hết các tấm màn hay giấy che các cửa, để năng lượng ánh sáng và khí vũ trụ vô nhà, đồng thời mở các đèn cho sáng khắp phòng hòa với âm nhạc vui tươi, đón chào làn Khí mới cho căn nhà hay cơ sở. Lưu ý là suốt thời gian thực hiện bí thuật sưởi ấm ấy, bạn bè, người thân hiện diện không được ra về bất thần.
BÍ THUẬT CỦA TRƯỜNG PHÁI PHONG THỦY
TÂY TẠNG BLACK SECT
Vật liệu:
- Cái đĩa bằng thủy tinh hay bằng sành màu trắng tinh.
- Chín vỏ khô của trái Quất đã phơi khô.
- Trái cam tươi
Thực hành:
Cắt trái cam thành chín miếng tròn sắp vào giữa đĩa trắng. Lại sắp chín miếng vỏ trái quất khô ở vành ngoài. Chủ nhân căn nhà hay cơ sở tay bưng cái đĩa chậm rãi bước ra đứng ngay ở cửa, với tư tưởng trong sáng thanh thản, miệng đọc câu chú Tây Tạng Om Ma Ni Pat Mi Hum. Chuyển cái đĩa theo chiều kim đồng hồ, tức là vòng xoáy khí. Dùng diêm quẹt đốt vỏ quất khô cho bốc tỏa mùi thơm. Lần lượt đốt từng miếng vỏ theo chiều kim đồng hồ.
Có thể dùng điếu thuốc cháy đỏ để dốt cho tiện. Khi nào miếng vỏ quất tắt khói, thì nhớ đốt lại cho cháy. Khi hết một vòng căn nhà hay cơ sở, và trở lại đúng ngay nơi cửa chánh. Khi đó bắt đầu hướng về bếp lò và đặt dĩa ấy trên lò, nhưng không bật lửa lò lên. Để đĩa ấy như vậy qua đêm, và sáng hôm sau đem đổ những thú trên đĩa vào dưới gốc cây. Phương thức này giúp triệt phá Ác Khí, điều Khí rất công hiệu.
ST
#171
Gửi vào 01/07/2011 - 09:44
HAI THẾ GIỚI TỒN TẠI TRONG NGÔI NHÀ TÔI
Đây là câu chuyện có thật. Tôi đã đọc nó trên trang web của nước ngoài và tạm dịch lại để chia sẻ cùng các bạn:
Tôi là người đàn ông bình thường. Tôi đang sống cùng vợ và hai đứa con gái. Một đứa sáu tuổi và một đứa mười tám tháng. Căn nhà mà chúng tôi mua lại đã được xây dựng từ năm 1989. Khoảng sau hai năm kể từ ngày chúng tôi dọn vào ngôi nhà này, chúng tôi đã để ý và thấy đứa con gái của tôi bắt đầu nhìn thấy những người mà chúng tôi không thể thấy.
Tôi nhớ có lần khi chúng tôi vừa lái xe vào gara và đang chuẩn bị lên nhà, thì Lauren đang đứng tại những bậc thang và vẫy tay. Vợ tôi bèn hỏi nó là nó đang vẫy tay ai. Nó nói là có người phụ nữ đang đứng ở hướng kia. Nó chỉ tay vào bức tường phía trước mặt nó. Chúng tôi gạt bỏ cái chuyện con bé nói, vì nó luôn tỏ ra quan trọng vấn đề rằng nó có sự tưởng tượng mạnh mẽ. Vào hai năm sau tôi đang chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh. Tôi sẽ đóng vai ông già noel đang đem những món quà để vào giường con gái tôi.
Tôi đã tự vào phòng dành cho khách trong niềm lo lắng là sẽ có thể làm cho con gái tôi tỉnh giấc. Bỗng nhiên cái nắm đấm cửa lắc qua lắc lại. Tôi nhìn cái nắm cửa, bước tới bước lui lo lắng. Có ai đó đang cố gắng mở nó ra. Tôi biết đó chắc chắn phải là con gái tôi. Vì vậy tôi nhanh tay tắt đèn và chờ đợi trong một lúc. Sau đó tôi mở cửa ra. Khi tôi bước ngang khỏi cánh cửa tôi cảm thấy có sự lạnh ngắt. Tôi liền đi vào phòng của vợ chồng tôi và phòng con gái. Họ đang say giấc ngủ. Tôi hoàn toàn không có sự giải thích nào cho việc đã xảy ra.
Ba năm sau kể từ hôm Giáng Sinh đó và có thêm nhiều chi tiết lạ lùng hơn. Con gái lớn của tôi bắt đầu vào lớp một. Buổi tối trước khi con bé bắt đầu trở vào trường, chúng tôi đi ngũ rất sớm vào lúc chín giờ rưởi. Khoảng một tiếng sau chúng tôi đã chìm vào giấc ngủ. Bỗng nhiên vợ tôi chạy vào phòng và hỏi xem nãy giớ tôi có bước chân ra ngoài phòng hay không. Tôi nói không. Cô ấy nói rằng cô ấy đã nghe tiếng cửa lớn được đóng sập lại.
Tôi thì chẳng nghe gì hết dĩ nhiên vì lúc đó tôi đang ngủ mà. Tôi lại bắt đầu giấc ngủ của tôi và vào lúc mười một giờ rưởi, cô ấy lại đánh thức tôi đậy vì cánh cửa lại bị đóng sập lại lần nữa. Tôi nghĩ rằng cô ấy đã nghe nhầm. Tối hôm sau cô ấy bật dậy vì có cơn ác mộng. Có người nào đó đang đuổi theo cô ta và cô ấy đã cắt vào tay. Cô ấy bật dậy khỏi giường trong tư thế chồm hổm. Ngay phía dưới chân giường của cô ấy là một viên than hồng đang cháy rực, như khi cô ấy diễn thì nó vừa bay vòng vòng phát ra ánh sáng.
Cô ấy nhìn không khác gì nó ngoại trừ màu đỏ. Cô ấy chạy ngay sang phòng tôi và kể lại với tôi. Tôi đã nghĩ cô ấy có chút vấn đề về tinh thần. Khoảng hai ngày sau, cô ấy lại thức giấc bởi cái nắm đấm cửa lắc qua lắc lại. Và đêm tiếp theo, khi cô ấy nằm trên giường và đang ngủ chìm vào giấc ngủ thì...cô ấy nghe ba tiếng gõ thật mạnh trên mặt bàn bên. Cô ấy quá sợ hãi nên đã không dám nhìn sang xem đó là gì. Lúc đó tôi nghĩ cô ấy đã mất đi cơ hội để khám phá xem đó là gì.
Tối hôm sau tôi ở ngoài gara để tập thể dục trước khi ngủ. Thì tôi nghe có tiếng chân trẻ con. Tôi nghĩ đó là con tôi muốn xuống để đùa với tôi. Lúc đó tôi đang nằm đẩy tạ. Tôi ngẩng đầu lên và thấy một cô gái. Cô ấy lướt nhanh qua tôi, nhưng tôi có thể nhìn thấy những nét nhăn trên khuôn mặt của cô ấy. Tôi ngồi bật dậy và nhìn kỹ lại nhưng không có ai cả. Chúng tôi bèn thuê một người gọi là "Trans-Channeler" đến để xua đi những spirit trong nhà chúng tôi.
Người ấy đã bỏ ra ba tiếng đồng hồ tại gara nhà tôi để nói chuyện với cô gái mà tôi đã gặp. Người ấy nói rằng cô ấy đã gửi một thông điệp để giúp những spirit đó chuyển qua thế giới khác. Và không chỉ có cô gái mà có cả những đứa bé nữa. Người ấy nói rằng cô ta không thể nói thêm bất cứ chi tiết nào nữa. Nhưng cô ta đã vừa chuyển spirit đó qua thế giới khác rồi.
Ngưới ấy cũng nói rằng người phụ nữ mà tôi gặp, người phụ nữ đó càng ở bên cạnh vợ tôi lâu đến đâu thì càng trở nên trẻ và đẹp hơn bấy nhiêu. Sau đó người ấy đã đưa cho vợ tôi và những đứa con tôi viên đá crystal và một vài cây xô thơm để đốt cháy. Mọi thứ trở nên yên ổn từ ngày đó cho được đến vài tuần. Bây giờ thì chúng tôi có một người đàn ông ốm yếu với hơi thở nặng nề trong nhà...Có ai làm ơn cho chúng tôi thông tin là cách nào có thể deal với chuyện này không?
ST
Đây là câu chuyện có thật. Tôi đã đọc nó trên trang web của nước ngoài và tạm dịch lại để chia sẻ cùng các bạn:
Tôi là người đàn ông bình thường. Tôi đang sống cùng vợ và hai đứa con gái. Một đứa sáu tuổi và một đứa mười tám tháng. Căn nhà mà chúng tôi mua lại đã được xây dựng từ năm 1989. Khoảng sau hai năm kể từ ngày chúng tôi dọn vào ngôi nhà này, chúng tôi đã để ý và thấy đứa con gái của tôi bắt đầu nhìn thấy những người mà chúng tôi không thể thấy.
Tôi nhớ có lần khi chúng tôi vừa lái xe vào gara và đang chuẩn bị lên nhà, thì Lauren đang đứng tại những bậc thang và vẫy tay. Vợ tôi bèn hỏi nó là nó đang vẫy tay ai. Nó nói là có người phụ nữ đang đứng ở hướng kia. Nó chỉ tay vào bức tường phía trước mặt nó. Chúng tôi gạt bỏ cái chuyện con bé nói, vì nó luôn tỏ ra quan trọng vấn đề rằng nó có sự tưởng tượng mạnh mẽ. Vào hai năm sau tôi đang chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh. Tôi sẽ đóng vai ông già noel đang đem những món quà để vào giường con gái tôi.
Tôi đã tự vào phòng dành cho khách trong niềm lo lắng là sẽ có thể làm cho con gái tôi tỉnh giấc. Bỗng nhiên cái nắm đấm cửa lắc qua lắc lại. Tôi nhìn cái nắm cửa, bước tới bước lui lo lắng. Có ai đó đang cố gắng mở nó ra. Tôi biết đó chắc chắn phải là con gái tôi. Vì vậy tôi nhanh tay tắt đèn và chờ đợi trong một lúc. Sau đó tôi mở cửa ra. Khi tôi bước ngang khỏi cánh cửa tôi cảm thấy có sự lạnh ngắt. Tôi liền đi vào phòng của vợ chồng tôi và phòng con gái. Họ đang say giấc ngủ. Tôi hoàn toàn không có sự giải thích nào cho việc đã xảy ra.
Ba năm sau kể từ hôm Giáng Sinh đó và có thêm nhiều chi tiết lạ lùng hơn. Con gái lớn của tôi bắt đầu vào lớp một. Buổi tối trước khi con bé bắt đầu trở vào trường, chúng tôi đi ngũ rất sớm vào lúc chín giờ rưởi. Khoảng một tiếng sau chúng tôi đã chìm vào giấc ngủ. Bỗng nhiên vợ tôi chạy vào phòng và hỏi xem nãy giớ tôi có bước chân ra ngoài phòng hay không. Tôi nói không. Cô ấy nói rằng cô ấy đã nghe tiếng cửa lớn được đóng sập lại.
Tôi thì chẳng nghe gì hết dĩ nhiên vì lúc đó tôi đang ngủ mà. Tôi lại bắt đầu giấc ngủ của tôi và vào lúc mười một giờ rưởi, cô ấy lại đánh thức tôi đậy vì cánh cửa lại bị đóng sập lại lần nữa. Tôi nghĩ rằng cô ấy đã nghe nhầm. Tối hôm sau cô ấy bật dậy vì có cơn ác mộng. Có người nào đó đang đuổi theo cô ta và cô ấy đã cắt vào tay. Cô ấy bật dậy khỏi giường trong tư thế chồm hổm. Ngay phía dưới chân giường của cô ấy là một viên than hồng đang cháy rực, như khi cô ấy diễn thì nó vừa bay vòng vòng phát ra ánh sáng.
Cô ấy nhìn không khác gì nó ngoại trừ màu đỏ. Cô ấy chạy ngay sang phòng tôi và kể lại với tôi. Tôi đã nghĩ cô ấy có chút vấn đề về tinh thần. Khoảng hai ngày sau, cô ấy lại thức giấc bởi cái nắm đấm cửa lắc qua lắc lại. Và đêm tiếp theo, khi cô ấy nằm trên giường và đang ngủ chìm vào giấc ngủ thì...cô ấy nghe ba tiếng gõ thật mạnh trên mặt bàn bên. Cô ấy quá sợ hãi nên đã không dám nhìn sang xem đó là gì. Lúc đó tôi nghĩ cô ấy đã mất đi cơ hội để khám phá xem đó là gì.
Tối hôm sau tôi ở ngoài gara để tập thể dục trước khi ngủ. Thì tôi nghe có tiếng chân trẻ con. Tôi nghĩ đó là con tôi muốn xuống để đùa với tôi. Lúc đó tôi đang nằm đẩy tạ. Tôi ngẩng đầu lên và thấy một cô gái. Cô ấy lướt nhanh qua tôi, nhưng tôi có thể nhìn thấy những nét nhăn trên khuôn mặt của cô ấy. Tôi ngồi bật dậy và nhìn kỹ lại nhưng không có ai cả. Chúng tôi bèn thuê một người gọi là "Trans-Channeler" đến để xua đi những spirit trong nhà chúng tôi.
Người ấy đã bỏ ra ba tiếng đồng hồ tại gara nhà tôi để nói chuyện với cô gái mà tôi đã gặp. Người ấy nói rằng cô ấy đã gửi một thông điệp để giúp những spirit đó chuyển qua thế giới khác. Và không chỉ có cô gái mà có cả những đứa bé nữa. Người ấy nói rằng cô ta không thể nói thêm bất cứ chi tiết nào nữa. Nhưng cô ta đã vừa chuyển spirit đó qua thế giới khác rồi.
Ngưới ấy cũng nói rằng người phụ nữ mà tôi gặp, người phụ nữ đó càng ở bên cạnh vợ tôi lâu đến đâu thì càng trở nên trẻ và đẹp hơn bấy nhiêu. Sau đó người ấy đã đưa cho vợ tôi và những đứa con tôi viên đá crystal và một vài cây xô thơm để đốt cháy. Mọi thứ trở nên yên ổn từ ngày đó cho được đến vài tuần. Bây giờ thì chúng tôi có một người đàn ông ốm yếu với hơi thở nặng nề trong nhà...Có ai làm ơn cho chúng tôi thông tin là cách nào có thể deal với chuyện này không?
ST
#172
Gửi vào 03/07/2011 - 15:44
HỒN CỤ TỔ VÀ CUỘC CHUYỆN TRÒ QUA CUỐN BĂNG CASSETTE
Là người Việt Nam hẳn ai cùng biết ngày rằm tháng Giêng có ý nghĩa thế nào. Và tôi, một đứa con quanh năm ở thành phố thì dịp rằm tháng Giêng là dịp để về thắp nén nhang cho tổ tiên ông bà, cũng như thăm hỏi những người trong họ tộc Nhà thờ họ của tôi ở vùng đất nghèo cách thành phố Vinh nơi tôi sống khoảng chừng 50km. Một mình tôi trên chiếc xe máy tàng tàng tịch tịch về quê. Mưa xuân bay lất phất, khí trời lạnh lẽo, những cánh đồng chia thành ô vuông nhỏ toát lên vẻ gì đó xa xưa, rồi những căn nhà lúp xúp chật chội trải dọc theo suốt con đường, tất cả cứ khiến tôi dâng lên nỗi man mác đắng cay trong lòng.
Nói gì đi nữa thì Việt Nam ta còn nghèo khổ lắm, đặc biệt là người nông dân thì nỗi khổ của họ không thể nói cho hết, thế nên muốn tự hào đến mấy cũng phải biết tự trọng niềm tự hào của mình, đừng đẩy các niềm tự hào đi một cách lố bịch nhằm che lấp và an ủi cái thực trạng đất nước đang quá khổ nghèo lạc hậu thế này đây. Niềm suy tư cứ nằng nặng trong lòng, nó càng mạnh hơn khi tôi càng gần đến cái xóm quê của mình, bao năm rồi nó vẫn cứ là một xóm quê nghèo, đổi mới thì có đổi mới nhưng chẳng khá hơn được là bao.
Tuy nhiên rồi những cảm xúc ấy mau chóng nhường chỗ, loại cảm xúc ấy thường chỉ là khi thằng tôi hèn hạ này một mình suy tư thôi, trong bối cảnh giờ chua xót thay lại thật khó mà chia sẻ cùng ai… Đi vào nhà ông anh trưởng họ, không khí của sự thăm hỏi và chúc tụng năm mới lại khiến tôi ở một trạng thái cảm giác khác. Người quê vốn chân thật, và các anh em chú bác trong họ tộc cũng rất quý tôi, họ niềm nở thật sự. Những câu chuyện một năm qua cứ kéo dài không ngớt. Thế rồi tôi cảm thấy ngạc nhiên khi ông anh trưởng họ trịnh trọng nói đã tìm được ngày giỗ của cụ Tổ họ bằng cách gọi hồn cụ lên.
GỌI HỒN?
Hẳn ai trong chúng ta cũng đã nghe đến chuyện linh hồn sau khi chết, và thường cứ thấy chuyện ấy hư hư thực thực, người tin cũng lắm và người không tin cũng nhiều. Ông anh trưởng họ của tôi đã trên năm tuổi, nhưng vẻ ngoài khá trẻ so với tuổi, nét mặt xương xương, vóc người nhỏ bé, và như mọi người nông dân đặc sệt khác thì sự lam lũ toả ra đầy đặc trên người. Khi nói chuyện về tổ tiên ông bà ông anh tôi lộ rõ vẻ kính cẩn. Ông anh tôi kể vắn tắt cho tôi nghe chuyện gọi hồn cụ Tổ lên, quả tình ông anh không có tài kể chuyện, nên phải đến trưa hôm sau là ngày mười bốn tế Tổ đông đủ nhiều người trong họ tộc cùng đến thắp hương dâng lễ ở nhà thờ họ thì câu chuyện mới rõ ràng hơn.
Những người trong họ đích thân đi gọi hồn đã kể lại rành mạch câu chuyện cho tôi hay. Vốn họ tộc của tôi là một họ tộc nhỏ và vì điều kiện địa lý nên lại phải chia làm vài ba nhánh nhỏ nữa, nên đã nhỏ lại càng nhỏ hơn. Từ lâu trong nhánh họ của tôi vẫn lo lắng về chuyện mồ mả mới di dời xây cất lại, về nhà thờ mới cũng mới di dời, và về ngày giỗ của cụ Tổ nhánh họ mình có gì không ổn hay không, vì sợ sai lạc ngày giỗ do gia phả để lại sau những cuộc chiến tranh không rõ ràng lắm. Thế cho nên sau khi bàn luận (tôi không tham dự được vì ở xa) các bậc có tuổi trong họ quyết định hãy đi gọi hồn cụ tổ để biết ra sao, nhất là khi được nghe đồn có một người ở Yên Thành (thuộc tỉnh Nghệ An) gọi hồn rất giỏi.
Các ông có tuổi bàn luận rất kỹ, vì họ tuy là nông dân nhưng cũng thừa sự khôn ngoan tinh tế, không ai muốn bị lừa trong chuyện gọi hồn lên, vì nếu nguời ta giả vờ ứng hồn rồi phán bảo lung tung, ví dụ như phải di dời mồ mả hoặc thay đổi nhà thờ thì rất nguy hại. Ba người được cắt cử đi, một người là ông anh trưởng họ, một người là cựu chiến binh và trong vai vế tôi phải gọi bằng chú, và một người là thanh niên bằng tuổi tôi nhưng vai vế là em và rất lanh lợi. Cả ba người đã chuẩn bị mọi thứ kỹ càng và chọn ngày xuất hành. Nơi đến để gọi hồn không khó tìm lắm, chỉ là khác huyện và cách quê tôi chừng 20km. Ở đấy ba người cũng gặp khá đông người đi gọi hồn.
Người thì đến gọi hồn người thân để hỏi tại sao gia cảnh lụn bại làm ăn khó khăn, người thì hỏi về những tai hạn ốm đau, người thì hỏi về mồ mả nhà cửa đất đai... nói chung là có vô số điều để hỏi. Nhưng tựu chung lại niềm tin về những sức mạnh huyền bí, có thế thấu xét để xua tan nạn ách cho những trầm luân của cuộc đời, vẫn là động lực đầu tiên và cũng là động lực cuối cùng, để người ta tin tưởng và đặt mình vào thế giới tâm linh. Sau khi mua một ít lễ, trầu cau, gói bánh, chai rượu trắng, những thứ ấy cũng không tốn nhiều tiền, ba người vào đặt lễ và chờ đợi đến phiên của mình.
Trong khi chờ đợi họ được nhìn thấy những điều kỳ dị từ việc gọi hồn lên của những người khác... Và rồi cũng đến lượt của họ. Ba nguời làm theo hướng dẫn của người nhà cô đồng, thắp hương ở một bát hương đặt trên bệ thờ ngoài trời, khấn những điều được chỉ dẫn để thỉnh hồn về, sau đó vào trong am thờ nhỏ ở trong nhà, ở đó cô đồng sẽ thực hiện việc gọi hồn. Việc gọi hồn kéo dài khá nhanh, từ lúc vào am thờ cho đến lúc gọi được hồn lên và rồi kết thúc cuộc chuyện trò chỉ kéo dài chừng vài mươi phút.
Người được cụ Tổ tôi nhập vào chính là ông anh trưởng tộc. Lúc ấy ông anh tôi ngã gục xuống đất, còn hai người kia thì tiến hành việc hỏi những câu hỏi đã bàn định trước. Sau này, khi tỉnh lại ông anh trưởng tộc của tôi nói rằng, ông chỉ nhớ là cùng ba người nhắm mắt đứng trước cô đồng, cảm thấy cô đồng cầm bó hương đi quanh và tai nghe cô đồng lầm rầm nói những câu thỉnh cho hồn về nhập, sau đó ông thấy người đột nhiên run lên và rồi tăng dần lên thành lắc la lắc lư và cuối cùng thì chẳng biết chẳng nhớ gì nữa cả ngoài việc đột nhiên mở mắt ra thấy mình nằm ở sàn nhà...
Nói như vậy có nghĩa ông anh tôi hoàn toàn chẳng biết nổi, khi nằm giữa sàn nhà mình đã nói những gì. Trong khi đó thì lại có một chiếc băng cassette, ghi lại cuộc nói chuyện với hồn cụ Tổ. Sở dĩ có băng cassette là vì khi đi gọi hồn, thì người ta đều muốn ghi lại cuộc chuyện trò để nghe lại, bởi lúc gặp hồn thường thì quá xúc động vì nhiều nguyên nhân, thành ra về sau khó nhớ mình đã hỏi và đã nghe được những gì. Băng cassette ấy được mở ra lại cho chúng tôi nghe. Chiếc băng cassette của Tàu, và chiếc cassette tồi tàn không rõ nó được sản xuất từ đâu nhưng đã cũ lắm rồi, ở nông thôn thì vậy thôi mấy ai dám dùng những thứ đồ dùng xa xỉ như ở thành phố. Tuy nhiên vẫn có thể nghe lại tương đối rõ về cuộc chuyện trò với cụ Tổ.
Cuộc chuyện trò khá ngắn, ông chú tôi hỏi về ba vấn đề, hỏi ngày giổ của cụ Tổ, nhà thờ mới đã hoàn thành xong mấy năm nay như thế nào, và khu mộ của họ tộc có vấn đề gì không? Cụ Tổ, trong thân xác của anh trưởng Tộc, đã trả lời rành mạch, cụ nói cho hay về ngày giỗ, về nhà thờ mới xây dựng xong, cụ khen đẹp và khu mộ của họ tộc ở trên núi không vấn đề gì, tuy nhiên khoan hãy xây cất tường rào chung quanh trong năm nay, vì nếu có xây lên sẽ bị phá. Điểm mà tôi chăm chú đến mức sững sờ nhất, từ chiếc băng cassette phát ra chính là giọng nói. Tiếng ông chú tôi khi nói chuyện và đặt câu hỏi với cụ Tổ nghe khá nhỏ, đôi lúc như hụt hơi dường như bởi ông chú có lúc xúc động quá, và thỉnh thoảng là có tiếng của thằng em họ chen vào.
Hai giọng nói của người này trong băng cassette nói chung là không khác mấy ở ngoài đời, nghe là có thể nhận ra ngay. Nhưng giọng nói thứ ba, tức là từ miệng của ông anh trưởng tộc phát ra thì hoàn toàn khác lạ. Ông anh trưởng tộc của tôi vóc người nhỏ bé, yếu ớt và giọng nói lúc bình thường cũng không có gì đặc biệt lắm. Thế nhưng ở đây, trong cái băng cassette này lại phát ra một giọng nói gây cho tôi liên tưởng một con người hoàn toàn khác hẳn. Trước tiên đấy là tiếng nói có vẻ gì đó rất xưa, đúng là rất xưa, vẫn là thổ âm địa phương của giọng nói miền quê tôi, nhưng quả thật tôi cảm giác rằng nó rất xưa, thật khó diễn tả vì sao tôi lại bỗng dưng cảm giác lạ lùng vậy.
Rồi tiếp đến là thanh âm đặc biệt của giọng nói, thanh âm này khiến tôi nghĩ nó như của một người già trên bảy mươi, khác hẳn ông anh tôi mới trên năm mươi, nhưng thanh âm không thều thào theo kiểu người già ốm yếu, mà lại sang sảng từng câu từng chữ cho thấy như là một người nhiều tuổi, nhưng cực kỳ khoẻ mạnh và cực kỳ linh mẫn. Khí độ toát ra từ giọng nói thật khác một trời một vực với ông anh trưởng tộc của tôi, nói thật, tôi đã tiếp xúc với ông anh trưởng tộc rất nhiều, và tuyệt nhiên chưa bao giờ thấy ông anh có được phong độ của những lời nói đó.
Trong họ đã nhiều người biết rõ chuyện và đã nghe băng cassette này, họ đã bàn luận nhiều, nhưng hôm nay khi mở lại cho những người ở xa về nghe, mọi người lại sôi nổi bàn luận tiếp. Ông anh trưởng tộc của tôi lại được dịp bối rối khi là người trung tâm của những lời chất vấn, ông cứ cười hiền lành và cứ phân bua một cách chất phác mãi, rằng đâu có biết tý chút chi khi mình ngã gục xuống đất. Cái cách thể hiện mình của ông trước đông người khiến tôi lại một lần nữa cảm thấy rõ ràng rằng, phong độ ấy thật quá khác xa với phong độ hiện ra lờ mờ của một con người khác, nhập vào khi mà ông anh tôi chẳng còn biết tý gì.
Ông chú cùng đi gọi hồn trong nhóm ba người với ông anh tôi, có lẽ mấy bữa Tết do ăn uống quá độ hay sao mà cứ đau bụng lâm râm, nên hôm nay chỉ có con trai đi thay mặt chứ ông không tới được. Thế cho nên khi không hỏi được gì mấy ở ông anh trưởng tộc, thì mọi người quay sang hỏi thằng em họ của tôi, tức là cậu thanh niên cũng đi trong cuộc gọi hồn. Trong họ tộc và trong cái vùng quê nhỏ của tôi, thằng này rất nổi tiếng, nó là đứa linh lợi hoạt bát và cũng rất được việc, nhưng lại là kẻ tùa trời tùa đất thể hiện rõ nhất là trong nói năng. Những lời nói của nó mười câu thì đến quá nửa khiến người ta không thể tin được, sử dụng lời nói một cách vô tội vạ âu đó cũng là bệnh chung của nhiều người, nhưng nói năng một cách tùa trời tùa đất chỉ cốt làm vui lại là biểu hiện của những người vui vẻ thái quá...
Và như mọi khi, thằng em họ của tôi chẳng tỏ gì là ấp úng trước đông người, nó tràng giang đại hải khi kể lại từng chi tiết của cuộc đi gọi hồn ra sao, mọi người chăm chú nghe với cái thành kiến về nó trong lòng, tuy nhiên dường như biết việc liên quan đến tổ tiên là việc linh thiêng, không thể đùa được nên nhiều chỗ thằng em họ của tôi, cũng biết trịnh trọng nghiêm túc. Mọi người lắng nghe và chẳng ai tỏ ra công kích phản đối, như thuờng vẫn hay phản đối mỗi khi nó mở miệng ra... Ở đây xin phép không làm rườm rà câu chuyện bằng những lời kể sông dài biển rộng của thằng em họ tôi. Mà chỉ thêm một chi tiết rằng, tôi đã hỏi thằng em họ, tại sao chỉ hỏi cụ Tổ có ba câu ngắn thế, nó nói đại ý rằng trước khi gọi hồn, mọi người trong họ đã bàn luận sẽ hỏi ba điều quan trọng, mang tính chất chung cho cả họ.
vốn dĩ lúc ra đi nó cũng đã tính trong lòng, việc công kèm việc tư sẽ hỏi thêm cụ Tổ vài ba câu khác, nhưng đến lúc hồn cụ Tổ nhập thì nó xúc động quá, chẳng hỏi thêm được câu nào. Lời này cũng có thể tin được, con người ta dù là kẻ tùa trời tùa đất thì cũng phải biết xúc động chứ, và nếu đã không xúc động khi gặp hồn tổ tiên của mình, thì còn có thể xúc động vì cái gì được nữa. Cả họ tộc tôi lấy làm phấn khởi. Đây cũng là lẽ dễ hiểu. Thứ nhất, thường không phải ai muốn gặp hồn người thân cũng được, nói chung rất dễ bị lừa dối với những kỹ xảo đơn giản hoặc tinh vi khác nhau, nhưng ở đây trước lời kể của những người đi gọi hồn, và nhất là cái bằng chứng xác thực ở cái băng cassette, thì chẳng ai nghi ngờ là không phải hồn cụ Tổ hiện lên.
Và thứ hai là hồn cụ Tổ tuy lên trong thời gian ngắn ngủi, nhưng cũng đã phán bảo cho con cháu hay rằng việc cúng tế, việc nhà thờ và việc mồ mả của tổ tiên con cháu đều làm rất tốt, không có gì sai thì hỏi làm sao cả họ không phấn khởi cho được. Khi các nghi thức lễ tế Tổ xong xuôi. Mâm bàn được hạ xuống. Các mâm cỗ đều được các gia đình ở gần trong họ gánh tới cúng Tổ, tuy rằng không có các món sơn hào hải vị, nhưng là rượu tự nấu đúng chất rượu, gà cỏ tự chăm đúng chất con gà, thì chỉ cần từng ấy thôi hoá ra lại cực ngon trong thời buổi đầy thức ăn đồ uống độc hại bây giờ.
Mọi người nâng uống chén rượu lộc của tổ tiên và không khí càng trở nên sôi nổi rộn ràng. Vốn họ của tôi ít người và khá nghèo, nhưng bù lại rất tình cảm và đoàn kết, hiếm khi có những chuyện xích mích dù nhỏ nhặt trong họ tộc. Chất rượu đưa vào người làm ta lâng lâng, những người lớn tuổi ngồi ở các mâm trên còn phải giữ chút ít nghi thức đạo mạo nghiêm trang, còn các mâm của đám thanh niên trẻ mà tôi vẫn được liệt vào thì tỏ ra sôi nổi nhất, và một lần nữa câu chuyện về cụ tổ nhập hồn lại được đám thanh niên đưa ra bàn luận. không ít cậu thanh niên trẻ đề cập ra rằng mong muốn đi gọi hồn một lần như thế, để ít ra là... “cho biết”, để tự mình "mắt thấy tai nghe" một trong những sự kỳ lạ nhất mà thế gian luôn đặt câu hỏi ấy là linh hồn!
Phan Nhiên Hạo
Là người Việt Nam hẳn ai cùng biết ngày rằm tháng Giêng có ý nghĩa thế nào. Và tôi, một đứa con quanh năm ở thành phố thì dịp rằm tháng Giêng là dịp để về thắp nén nhang cho tổ tiên ông bà, cũng như thăm hỏi những người trong họ tộc Nhà thờ họ của tôi ở vùng đất nghèo cách thành phố Vinh nơi tôi sống khoảng chừng 50km. Một mình tôi trên chiếc xe máy tàng tàng tịch tịch về quê. Mưa xuân bay lất phất, khí trời lạnh lẽo, những cánh đồng chia thành ô vuông nhỏ toát lên vẻ gì đó xa xưa, rồi những căn nhà lúp xúp chật chội trải dọc theo suốt con đường, tất cả cứ khiến tôi dâng lên nỗi man mác đắng cay trong lòng.
Nói gì đi nữa thì Việt Nam ta còn nghèo khổ lắm, đặc biệt là người nông dân thì nỗi khổ của họ không thể nói cho hết, thế nên muốn tự hào đến mấy cũng phải biết tự trọng niềm tự hào của mình, đừng đẩy các niềm tự hào đi một cách lố bịch nhằm che lấp và an ủi cái thực trạng đất nước đang quá khổ nghèo lạc hậu thế này đây. Niềm suy tư cứ nằng nặng trong lòng, nó càng mạnh hơn khi tôi càng gần đến cái xóm quê của mình, bao năm rồi nó vẫn cứ là một xóm quê nghèo, đổi mới thì có đổi mới nhưng chẳng khá hơn được là bao.
Tuy nhiên rồi những cảm xúc ấy mau chóng nhường chỗ, loại cảm xúc ấy thường chỉ là khi thằng tôi hèn hạ này một mình suy tư thôi, trong bối cảnh giờ chua xót thay lại thật khó mà chia sẻ cùng ai… Đi vào nhà ông anh trưởng họ, không khí của sự thăm hỏi và chúc tụng năm mới lại khiến tôi ở một trạng thái cảm giác khác. Người quê vốn chân thật, và các anh em chú bác trong họ tộc cũng rất quý tôi, họ niềm nở thật sự. Những câu chuyện một năm qua cứ kéo dài không ngớt. Thế rồi tôi cảm thấy ngạc nhiên khi ông anh trưởng họ trịnh trọng nói đã tìm được ngày giỗ của cụ Tổ họ bằng cách gọi hồn cụ lên.
GỌI HỒN?
Hẳn ai trong chúng ta cũng đã nghe đến chuyện linh hồn sau khi chết, và thường cứ thấy chuyện ấy hư hư thực thực, người tin cũng lắm và người không tin cũng nhiều. Ông anh trưởng họ của tôi đã trên năm tuổi, nhưng vẻ ngoài khá trẻ so với tuổi, nét mặt xương xương, vóc người nhỏ bé, và như mọi người nông dân đặc sệt khác thì sự lam lũ toả ra đầy đặc trên người. Khi nói chuyện về tổ tiên ông bà ông anh tôi lộ rõ vẻ kính cẩn. Ông anh tôi kể vắn tắt cho tôi nghe chuyện gọi hồn cụ Tổ lên, quả tình ông anh không có tài kể chuyện, nên phải đến trưa hôm sau là ngày mười bốn tế Tổ đông đủ nhiều người trong họ tộc cùng đến thắp hương dâng lễ ở nhà thờ họ thì câu chuyện mới rõ ràng hơn.
Những người trong họ đích thân đi gọi hồn đã kể lại rành mạch câu chuyện cho tôi hay. Vốn họ tộc của tôi là một họ tộc nhỏ và vì điều kiện địa lý nên lại phải chia làm vài ba nhánh nhỏ nữa, nên đã nhỏ lại càng nhỏ hơn. Từ lâu trong nhánh họ của tôi vẫn lo lắng về chuyện mồ mả mới di dời xây cất lại, về nhà thờ mới cũng mới di dời, và về ngày giỗ của cụ Tổ nhánh họ mình có gì không ổn hay không, vì sợ sai lạc ngày giỗ do gia phả để lại sau những cuộc chiến tranh không rõ ràng lắm. Thế cho nên sau khi bàn luận (tôi không tham dự được vì ở xa) các bậc có tuổi trong họ quyết định hãy đi gọi hồn cụ tổ để biết ra sao, nhất là khi được nghe đồn có một người ở Yên Thành (thuộc tỉnh Nghệ An) gọi hồn rất giỏi.
Các ông có tuổi bàn luận rất kỹ, vì họ tuy là nông dân nhưng cũng thừa sự khôn ngoan tinh tế, không ai muốn bị lừa trong chuyện gọi hồn lên, vì nếu nguời ta giả vờ ứng hồn rồi phán bảo lung tung, ví dụ như phải di dời mồ mả hoặc thay đổi nhà thờ thì rất nguy hại. Ba người được cắt cử đi, một người là ông anh trưởng họ, một người là cựu chiến binh và trong vai vế tôi phải gọi bằng chú, và một người là thanh niên bằng tuổi tôi nhưng vai vế là em và rất lanh lợi. Cả ba người đã chuẩn bị mọi thứ kỹ càng và chọn ngày xuất hành. Nơi đến để gọi hồn không khó tìm lắm, chỉ là khác huyện và cách quê tôi chừng 20km. Ở đấy ba người cũng gặp khá đông người đi gọi hồn.
Người thì đến gọi hồn người thân để hỏi tại sao gia cảnh lụn bại làm ăn khó khăn, người thì hỏi về những tai hạn ốm đau, người thì hỏi về mồ mả nhà cửa đất đai... nói chung là có vô số điều để hỏi. Nhưng tựu chung lại niềm tin về những sức mạnh huyền bí, có thế thấu xét để xua tan nạn ách cho những trầm luân của cuộc đời, vẫn là động lực đầu tiên và cũng là động lực cuối cùng, để người ta tin tưởng và đặt mình vào thế giới tâm linh. Sau khi mua một ít lễ, trầu cau, gói bánh, chai rượu trắng, những thứ ấy cũng không tốn nhiều tiền, ba người vào đặt lễ và chờ đợi đến phiên của mình.
Trong khi chờ đợi họ được nhìn thấy những điều kỳ dị từ việc gọi hồn lên của những người khác... Và rồi cũng đến lượt của họ. Ba nguời làm theo hướng dẫn của người nhà cô đồng, thắp hương ở một bát hương đặt trên bệ thờ ngoài trời, khấn những điều được chỉ dẫn để thỉnh hồn về, sau đó vào trong am thờ nhỏ ở trong nhà, ở đó cô đồng sẽ thực hiện việc gọi hồn. Việc gọi hồn kéo dài khá nhanh, từ lúc vào am thờ cho đến lúc gọi được hồn lên và rồi kết thúc cuộc chuyện trò chỉ kéo dài chừng vài mươi phút.
Người được cụ Tổ tôi nhập vào chính là ông anh trưởng tộc. Lúc ấy ông anh tôi ngã gục xuống đất, còn hai người kia thì tiến hành việc hỏi những câu hỏi đã bàn định trước. Sau này, khi tỉnh lại ông anh trưởng tộc của tôi nói rằng, ông chỉ nhớ là cùng ba người nhắm mắt đứng trước cô đồng, cảm thấy cô đồng cầm bó hương đi quanh và tai nghe cô đồng lầm rầm nói những câu thỉnh cho hồn về nhập, sau đó ông thấy người đột nhiên run lên và rồi tăng dần lên thành lắc la lắc lư và cuối cùng thì chẳng biết chẳng nhớ gì nữa cả ngoài việc đột nhiên mở mắt ra thấy mình nằm ở sàn nhà...
Nói như vậy có nghĩa ông anh tôi hoàn toàn chẳng biết nổi, khi nằm giữa sàn nhà mình đã nói những gì. Trong khi đó thì lại có một chiếc băng cassette, ghi lại cuộc nói chuyện với hồn cụ Tổ. Sở dĩ có băng cassette là vì khi đi gọi hồn, thì người ta đều muốn ghi lại cuộc chuyện trò để nghe lại, bởi lúc gặp hồn thường thì quá xúc động vì nhiều nguyên nhân, thành ra về sau khó nhớ mình đã hỏi và đã nghe được những gì. Băng cassette ấy được mở ra lại cho chúng tôi nghe. Chiếc băng cassette của Tàu, và chiếc cassette tồi tàn không rõ nó được sản xuất từ đâu nhưng đã cũ lắm rồi, ở nông thôn thì vậy thôi mấy ai dám dùng những thứ đồ dùng xa xỉ như ở thành phố. Tuy nhiên vẫn có thể nghe lại tương đối rõ về cuộc chuyện trò với cụ Tổ.
Cuộc chuyện trò khá ngắn, ông chú tôi hỏi về ba vấn đề, hỏi ngày giổ của cụ Tổ, nhà thờ mới đã hoàn thành xong mấy năm nay như thế nào, và khu mộ của họ tộc có vấn đề gì không? Cụ Tổ, trong thân xác của anh trưởng Tộc, đã trả lời rành mạch, cụ nói cho hay về ngày giỗ, về nhà thờ mới xây dựng xong, cụ khen đẹp và khu mộ của họ tộc ở trên núi không vấn đề gì, tuy nhiên khoan hãy xây cất tường rào chung quanh trong năm nay, vì nếu có xây lên sẽ bị phá. Điểm mà tôi chăm chú đến mức sững sờ nhất, từ chiếc băng cassette phát ra chính là giọng nói. Tiếng ông chú tôi khi nói chuyện và đặt câu hỏi với cụ Tổ nghe khá nhỏ, đôi lúc như hụt hơi dường như bởi ông chú có lúc xúc động quá, và thỉnh thoảng là có tiếng của thằng em họ chen vào.
Hai giọng nói của người này trong băng cassette nói chung là không khác mấy ở ngoài đời, nghe là có thể nhận ra ngay. Nhưng giọng nói thứ ba, tức là từ miệng của ông anh trưởng tộc phát ra thì hoàn toàn khác lạ. Ông anh trưởng tộc của tôi vóc người nhỏ bé, yếu ớt và giọng nói lúc bình thường cũng không có gì đặc biệt lắm. Thế nhưng ở đây, trong cái băng cassette này lại phát ra một giọng nói gây cho tôi liên tưởng một con người hoàn toàn khác hẳn. Trước tiên đấy là tiếng nói có vẻ gì đó rất xưa, đúng là rất xưa, vẫn là thổ âm địa phương của giọng nói miền quê tôi, nhưng quả thật tôi cảm giác rằng nó rất xưa, thật khó diễn tả vì sao tôi lại bỗng dưng cảm giác lạ lùng vậy.
Rồi tiếp đến là thanh âm đặc biệt của giọng nói, thanh âm này khiến tôi nghĩ nó như của một người già trên bảy mươi, khác hẳn ông anh tôi mới trên năm mươi, nhưng thanh âm không thều thào theo kiểu người già ốm yếu, mà lại sang sảng từng câu từng chữ cho thấy như là một người nhiều tuổi, nhưng cực kỳ khoẻ mạnh và cực kỳ linh mẫn. Khí độ toát ra từ giọng nói thật khác một trời một vực với ông anh trưởng tộc của tôi, nói thật, tôi đã tiếp xúc với ông anh trưởng tộc rất nhiều, và tuyệt nhiên chưa bao giờ thấy ông anh có được phong độ của những lời nói đó.
Trong họ đã nhiều người biết rõ chuyện và đã nghe băng cassette này, họ đã bàn luận nhiều, nhưng hôm nay khi mở lại cho những người ở xa về nghe, mọi người lại sôi nổi bàn luận tiếp. Ông anh trưởng tộc của tôi lại được dịp bối rối khi là người trung tâm của những lời chất vấn, ông cứ cười hiền lành và cứ phân bua một cách chất phác mãi, rằng đâu có biết tý chút chi khi mình ngã gục xuống đất. Cái cách thể hiện mình của ông trước đông người khiến tôi lại một lần nữa cảm thấy rõ ràng rằng, phong độ ấy thật quá khác xa với phong độ hiện ra lờ mờ của một con người khác, nhập vào khi mà ông anh tôi chẳng còn biết tý gì.
Ông chú cùng đi gọi hồn trong nhóm ba người với ông anh tôi, có lẽ mấy bữa Tết do ăn uống quá độ hay sao mà cứ đau bụng lâm râm, nên hôm nay chỉ có con trai đi thay mặt chứ ông không tới được. Thế cho nên khi không hỏi được gì mấy ở ông anh trưởng tộc, thì mọi người quay sang hỏi thằng em họ của tôi, tức là cậu thanh niên cũng đi trong cuộc gọi hồn. Trong họ tộc và trong cái vùng quê nhỏ của tôi, thằng này rất nổi tiếng, nó là đứa linh lợi hoạt bát và cũng rất được việc, nhưng lại là kẻ tùa trời tùa đất thể hiện rõ nhất là trong nói năng. Những lời nói của nó mười câu thì đến quá nửa khiến người ta không thể tin được, sử dụng lời nói một cách vô tội vạ âu đó cũng là bệnh chung của nhiều người, nhưng nói năng một cách tùa trời tùa đất chỉ cốt làm vui lại là biểu hiện của những người vui vẻ thái quá...
Và như mọi khi, thằng em họ của tôi chẳng tỏ gì là ấp úng trước đông người, nó tràng giang đại hải khi kể lại từng chi tiết của cuộc đi gọi hồn ra sao, mọi người chăm chú nghe với cái thành kiến về nó trong lòng, tuy nhiên dường như biết việc liên quan đến tổ tiên là việc linh thiêng, không thể đùa được nên nhiều chỗ thằng em họ của tôi, cũng biết trịnh trọng nghiêm túc. Mọi người lắng nghe và chẳng ai tỏ ra công kích phản đối, như thuờng vẫn hay phản đối mỗi khi nó mở miệng ra... Ở đây xin phép không làm rườm rà câu chuyện bằng những lời kể sông dài biển rộng của thằng em họ tôi. Mà chỉ thêm một chi tiết rằng, tôi đã hỏi thằng em họ, tại sao chỉ hỏi cụ Tổ có ba câu ngắn thế, nó nói đại ý rằng trước khi gọi hồn, mọi người trong họ đã bàn luận sẽ hỏi ba điều quan trọng, mang tính chất chung cho cả họ.
vốn dĩ lúc ra đi nó cũng đã tính trong lòng, việc công kèm việc tư sẽ hỏi thêm cụ Tổ vài ba câu khác, nhưng đến lúc hồn cụ Tổ nhập thì nó xúc động quá, chẳng hỏi thêm được câu nào. Lời này cũng có thể tin được, con người ta dù là kẻ tùa trời tùa đất thì cũng phải biết xúc động chứ, và nếu đã không xúc động khi gặp hồn tổ tiên của mình, thì còn có thể xúc động vì cái gì được nữa. Cả họ tộc tôi lấy làm phấn khởi. Đây cũng là lẽ dễ hiểu. Thứ nhất, thường không phải ai muốn gặp hồn người thân cũng được, nói chung rất dễ bị lừa dối với những kỹ xảo đơn giản hoặc tinh vi khác nhau, nhưng ở đây trước lời kể của những người đi gọi hồn, và nhất là cái bằng chứng xác thực ở cái băng cassette, thì chẳng ai nghi ngờ là không phải hồn cụ Tổ hiện lên.
Và thứ hai là hồn cụ Tổ tuy lên trong thời gian ngắn ngủi, nhưng cũng đã phán bảo cho con cháu hay rằng việc cúng tế, việc nhà thờ và việc mồ mả của tổ tiên con cháu đều làm rất tốt, không có gì sai thì hỏi làm sao cả họ không phấn khởi cho được. Khi các nghi thức lễ tế Tổ xong xuôi. Mâm bàn được hạ xuống. Các mâm cỗ đều được các gia đình ở gần trong họ gánh tới cúng Tổ, tuy rằng không có các món sơn hào hải vị, nhưng là rượu tự nấu đúng chất rượu, gà cỏ tự chăm đúng chất con gà, thì chỉ cần từng ấy thôi hoá ra lại cực ngon trong thời buổi đầy thức ăn đồ uống độc hại bây giờ.
Mọi người nâng uống chén rượu lộc của tổ tiên và không khí càng trở nên sôi nổi rộn ràng. Vốn họ của tôi ít người và khá nghèo, nhưng bù lại rất tình cảm và đoàn kết, hiếm khi có những chuyện xích mích dù nhỏ nhặt trong họ tộc. Chất rượu đưa vào người làm ta lâng lâng, những người lớn tuổi ngồi ở các mâm trên còn phải giữ chút ít nghi thức đạo mạo nghiêm trang, còn các mâm của đám thanh niên trẻ mà tôi vẫn được liệt vào thì tỏ ra sôi nổi nhất, và một lần nữa câu chuyện về cụ tổ nhập hồn lại được đám thanh niên đưa ra bàn luận. không ít cậu thanh niên trẻ đề cập ra rằng mong muốn đi gọi hồn một lần như thế, để ít ra là... “cho biết”, để tự mình "mắt thấy tai nghe" một trong những sự kỳ lạ nhất mà thế gian luôn đặt câu hỏi ấy là linh hồn!
Phan Nhiên Hạo
#173
Gửi vào 07/07/2011 - 04:54
CĂN NHÀ TRÊN ĐƯỜNG AN ĐỊA
Âm Ly là một thị xã nhỏ, khuất nẻo mà một du khách bình thường sẽ không bao giờ để ý đến. Vài năm trước đây còn có con lộ chánh chạy ngang qua, nhưng bây giờ một xa lộ bốn "lanes" đã được xây thêm cho xe chạy với vận tốc nhanh hơn. Con lộ cũ trở nên hoang vắng, hầu như không còn xe nào lui tới con đường nhỏ có tấm bảng phai nhạt vì sương gió đề tên "Lối rẽ vào thị xã Âm Ly".
Ông bạn Huỳnh Hắc mà tôi quen biết vì cùng là hội viên của một câu lạc bộ, đã giới thiệu với tôi về cái địa danh này. Ông ta sau khi chộp được một "cú áp phe" lớn tại thị trường chứng khoán Wall Street mấy năm trước, trở thành giàu có, dư giả tiền bạc nên đã quyết định về hưu non, sống một cuộc đời nhàn tản. Lúc đó tôi còn là một nhà văn vô danh nghèo kiết xác so với ông bạn họ Huỳnh, nhưng không hiểu vì lý do đặc biệt nào đó ông ta tỏ vẻ rất ưa thích và muốn kết thân với tôi.
Chúng tôi thường gặp nhau trong các buổi ăn chiều, đôi lúc ngồi nhâm nhi uống rượu đánh cờ và tán dóc với nhau. Một hôm trong câu chuyện tôi nói về ý định muốn đi nghỉ hè mà không biết đi đâu, ông Huỳnh nêu ý kiến bảo tôi nên đến thị xã Âm Ly thử xem sao. Ông nói một cách lơ đãng, như không để ý đến điều mình nói cho lắm:
- Âm Ly thật ra cũng chẳng có gì đặc biệt cả, tẻ nữa là đằng khác. Nếu ông muốn đi nghỉ hè ở xa thì chỗ này không thích hợp mấy, vì nó chỉ cách đây trên bốn chục dặm nhưng thật yên tĩnh và thanh bình. Tìm chỗ trọ không khó. Nếu ông không để ý phiền hà thì có thể nhập bọn với tôi trong khi chờ đợi đi tìm chỗ trọ. Tôi có một căn nhà nhỏ ở đó. Hơi chật một tí, nhưng cũng có phòng dành riêng cho khách. Ông và tôi có thể ở tạm trong thời gian chờ ông tìm được chỗ vừa ý.
Hai tuần sau, tôi lái xe theo con đường cũ hoang sơ, quẹo vào nơi có tấm bảng đề chữ "Lối rẽ vào thị xã Âm Ly", đi thêm vài dặm nữa thì đến một tỉnh lỵ nhỏ kiểu như một tỉnh miền Tân Anh Cát Lợi, xinh xắn và mơ màng như cô gái còn trong cơn ngái ngủ. Thị xã này đã may mắn tránh khỏi cái nạn bị đám người "nghỉ hè hằng niên" thường rất ồn ào đến quấy nhiễu. Cái "căn nhà nhỏ chật chội" của ông Huỳnh thật ra là một căn nhà kiểu Georgian tuyệt đẹp, có cổng vào xây bằng cột kiểu Doric.
Khoảng một giờ sau tôi đã tắm rửa sạch sẽ, ra ngồi với chủ nhân ở sân sau ngó xuống vườn kiểu Anh Cát Lợi có rào che kín chung quanh. Tôi ngồi xuống, yên vị trong cái ghế bành êm ái, nhâm nhi ly rượu mạnh pha soda. Chỉ một lúc sau cái cảm giác êm đềm dễ chịu từ từ lan ra khắp cơ thể, xâm chiếm từng tế bào trong da thịt, tôi cảm thấy muốn buông xuôi mọi ý chí năng động, thả mình hưởng thụ cái nhàn hạ này. Tôi thấy không còn cần phải đi đâu xa nữa, không cần phải kiếm chỗ trọ nào khác và không còn có ý định vùi đầu vào viết như đã định trước nữa.
Ông Huỳnh như đoán biết cái tâm ý của tôi, bèn nói:
- Tôi nghĩ rằng, nếu ông chịu được chật chội thì không cần phải đi đâu nữa. Cứ ở đây. Tôi có một bà giúp việc mỗi ngày đến lo cơm nước buổi sáng và buổi trưa, còn buổi chiều thì chúng ta dùng bữa tại quán Hắc Sự Quán này tuy là nhà hàng duy nhất ở Âm Ly nhưng làm đồ ăn khá lắm.
Tôi thật cảm động trước tấm thạnh tình của ông, vì dù nằm mơ đi nữa tôi cũng không dám nghĩ đến việc ông có thể chấp nhận một việc nhiều phiền hà như vậy. Nhưng một lần nữa như biết được ý nghĩ của tôi, ông nói một cách quả quyết làm tôi yên tâm:
- Không có gì phiền hà đâu. Trái lại chính ông là người sẽ giúp tôi đấy chứ. Bây giờ tôi chẳng có gì phải lo nghĩ cả, lúc nào cũng dư thì giờ, thành ra cuộc sống đôi lúc cũng không có gì thú vị lắm. Ông ở đây thì tuyệt, chúng ta có thể ngồi đánh với nhau vài ván cờ thật hứng thú mà không phải lo canh đồng hồ!
Rót thêm rượu vào ly cho tôi, ông tiếp:
- Lẽ dĩ nhiên lúc nào ông muốn ngồi vào bàn viết thì xin cứ tùy nghi. Tôi là người rất tôn trọng nghề văn.
Thế là xong. Tôi hiểu ông sẽ tổn thương tự ái nếu tôi bàn thêm về vấn đề tiền bạc trả cho việc ăn ở này. Tôi nghĩ ra một cách là khi đến ăn tại quán Hắc Sư tôi sẽ dành trả tiền để bù vào đó. Mùa hè qua thật êm đềm. Thường ngày tôi ngồi viết vài giờ đồng hồ vào buổi sáng sớm và dạo quanh tỉnh vào buổi chiều. Tới giờ, về ngồi uống một vài ly rượu khai vị, tán gẫu với ông Huỳnh trước khi đi ăn chiều tại quán Hắc Sư.
Sau bữa ăn trưa, tôi thường lang thang đi dạo dọc theo những đường phố nhỏ đầy tàng cây bóng mát của thị xã Âm Ly. Ở đây, cái cảnh sắc an bình, cái không khí trong lành, cái cảm giác bền vững toát ra từ những ngôi nhà cổ lâu đời làm tôi thấy như đang sống đắm mình trong một thế giới mộng ảo nào khác. Việc viết lách của tôi cũng tiến triển đúng theo chương trình đã ấn định. Da thịt tôi trở nên hồng hào, và tôi thường thắng nhiều hơn trước trong những bàn cờ đánh với ông Huỳnh. May mắn cho tôi, ông ta là người có tinh thần thể thao, tuy thua nhưng không bao giờ nổi tánh xấu.
Sự tiến bộ trong các nước cờ tướng của tôi được ông coi như một thách thức mới đầy thú vị, và tôi nhận thấy cả hai chúng tôi đều đạt kỹ thuật cao hơn xưa. Đến bây giờ nghĩ lại, tôi vẫn còn cảm thấy cái thích thú khi nhớ tới những ván cờ sôi nổi kỳ phùng địch thủ này. Một buổi trưa trời gắt nắng, đang lang thang đi dưới hàng cây rợp bóng mát, tôi bỗng chú ý đến một tấm bảng ghi: Đường An Địa. Cái tên đường là lạ khêu gợi lòng hiếu kỳ của tôi. Tôi quẹo vào. Con đường này hoàn toàn không giống các đường khác tại Âm Ly.
Dọc theo hai bên đường toàn là những ngôi nhà cổ thật yên tĩnh, chung quanh có vườn cây rợp mát với hai hàng cây cổ thụ cành lá xum xuê. Con đường vắng lặng, không một bóng người qua lại. Đi gần đến cuối đường mới thấy đó là một con đường cụt, muốn về tôi phải quay trở ngược lại. Tôi đi tới cuối đường băng ngang qua lề bên kia để đi trở về. Đó là lần đầu tiên tôi để ý đến ngôi nhà ở cuối đường. Bề ngoài trông cũng bình thường chỉ là một ngôi nhà gạch hai tầng, nhưng điều khác là chung quanh nhà mọc lan tràn những loài thảo mộc đủ loại lớn nhỏ, hình dáng ngoại lai xa lạ, không thấy có dấu hiệu được một bàn tay nào chăm sóc cả.
Tôi đặc biệt chú ý đến một loại cây leo trường xuân có cành dây lớn bao phủ gần như toàn diện mặt tiền ngôi nhà lấp cả cửa sổ. Tất cả như bị phủ kín chỉ thấy được cửa ra vào. Tôi biết nhiều giống cây leo nhưng chưa bao giờ bao giờ lại thấy có cây leo to như vậy. Lá cây xanh tốt, phản chiếu ánh nắng mặt trời rọi xuống xuyên qua kẽ lá, ánh lên mầu tim tím. Ngay lúc đứng ngắm nghía cái cây leo bất thường này, tôi chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đầu tóc bạc trắng, từ bên trong khung cửa sổ ở trên lầu đang đưa mắt nhìn ra ngoài. Khung cửa sổ cũng bị dây leo che khuất, trong tích tắc khi tôi nhìn lại, thì khuôn mặt ấy đã biến đâu mất không để một dấu vết nào cả. Tôi bỏ về và đi ngược trở lại ngược theo đường An Địa ra trung tâm Âm Ly.
Buổi chiều vào giờ uống rượu khai vị, tôi nhắc đến chuyện trên thì được ông Huỳnh cho biết:
- Đó là căn nhà của ông Phạm Minh, một nhà thảo mộc học có tiếng. Ông ta thường đi du hành khắp thế giới mang về các loại cây hiếm. Ông ta có một khu vườn cho khách thăm viếng, nhưng mấy năm gần đây ông bị bịnh và bây giờ như ở ẩn vậy. Ít người gặp ông ta. Ông đóng cửa ở trong nhà để kệ cây cối mọc tùm lum. Tiếc thật.
Ông Huỳnh ngừng nói, nhấp một ngụm martini, một lúc sau như để đắn đo rồi mới tiếp:
- Ông ấy có họ xa với tôi, cho tôi giữ chìa khóa để vào nhà đó nữa. Nhưng tôi không hề nghĩ đến việc dùng nó. Tôi thích được để yên nên tôi cũng trọng sự riêng tư của người khác.
- Ông nói đúng, tôi bàn góp, nhưng ông có nghĩ rằng ông ấy đã bỏ bê nhà cửa một cách quá đáng không? Căn nhà này chả mấy chốc sẽ biến mất trong đám rừng cây leo.
Ông Huỳnh nhún vai:
- Tôi chủ trương là ai cũng có cái quyền điên khùng theo ý riêng của mình, miễn là đừng đụng đến quyền của người khác. Nếu me-sừ Minh muốn sống trong cái rừng của ông ta thì đó là quyền của ông ta.
Tôi biết ý, không đề cập đến vấn đề này nữa, nhưng cứ một hoặc hai ngày tôi lại thấy mình đi lơ vơ về hướng đường An Địa, tôi cũng nghĩ rằng có lẽ cái ông Phạm Minh già đáng thương kia đang nguyền rủa sự phá quấy của tôi, như ruồi thấy mật bu lại làm phiền rộn ông. Nhưng căn nhà kỳ bí đầy cây phủ kia có hấp lực lôi cuốn tôi như nam châm hút sắt vậy. Mùa hè nóng bức năm ấy không làm cho cây leo giảm cường độ mọc mạnh thêm. Loại cây leo trường xuân thường kỵ nắng, nhưng vì căn nhà luôn được bóng mát của hai hàng cây du to lớn trồng hai bên đường, nên cây leo này không phải chịu nắng rọi trực tiếp.
Các lá cây năm nhánh ngày càng rậm ra che kín cửa sổ, nên sau lần đầu tôi chỉ thấy cái bóng đầu bạc trắng một hai lần nữa mà thôi. Tôi rất thích thú theo dõi cây cối thảo mộc tăng trưởng, tôi càng kỳ thú hơn khi thấy một người tự cho phép để mặc cho cây cỏ mọc tự do che khuất nơi mình ở. Mùa hè đã trôi qua, Ông Huỳnh càng trở nên khó tính hơn, tôi thấy hình như có cái gì làm bận tâm ông. Một đôi lúc tôi bắt gặp ông bẳn gắt và tài nghệ chơi cờ của ông xuống dốc thấy rõ. Cuối cùng một hôm ngồi uống rượu mùi với tôi ông lại đề cập đến vấn đề:
- Phiền nhiễu quá sức, ông biết không, tôi hơi lo cho ông Minh này. Mấy người giao hàng chưa gặp ông ấy cả tuần nay rồi. Thơ từ chất cả đống bên ngoài.
Rồi quay sang phía tôi ông hỏi:
- Ông có dịp đi ngang đường An Địa lúc gần đây không?
Tôi biết rõ là ông cũng biết tôi thường đi xuống phía đó, nên trả lời:
- Cứ vài ngày là tôi thả bộ ngang. Cửa sổ bị cây leo phủ kín mít và tôi không thấy bên trong có động tĩnh gì.
Tôi nhấp một hơi rượu rồi tiếp:
- Lẽ dĩ nhiên là không ai có thể thấy gì trong đó được. Cửa sổ với đám dây leo mọc một cách tham lam che phủ kín mít như vậy thì dù cho bên trong có tiệc tùng đông đảo cả trăm người đi nữa thì bên ngoài cũng chẳng có ai biết đâu.
- Chữ ông dùng lạ nhỉ.
- Chữ nào?
- Chữ tham lam ấy mà.
Ông ngừng ở đó, một lúc sau với tay lấy thêm rượu rót vào ly cho tôi rồi nói:
- Tôi nghĩ tôi phải làm một cái gì đây.
Tôi gật đầu đồng ý:
- Tôi cũng nghĩ thế, tôi biết cái ý tưởng xâm phạm đời tư người khác ông không ưa tý nào, nhưng nếu chỉ đến coi ông lão có làm sao không thì có gì là tai hại đâu.
Ông Huỳnh ngả người sau ra miệng ầm ừ:
- Vậy thì ngày mai Ông và tôi đến đó,tôi sẽ gọi cửa, nếu không ai trả lời thì tôi sẽ dùng đến cái chìa khóa mà tôi có đây.
Ngày hôm sau, trời vẫn nóng nực như cũ. Sau bữa ăn trưa nhẹ, chúng tôi kéo nhau đến nhà ông Phạm Minh trên đường An Địa. Mới một ngày qua đi mà tôi có cảm tưởng những lá mầu xanh tím to lớn đã mọc dài thêm ra. Chúng bò tràn lan khắp nơi. Leo theo máng xối, bò lên nóc. Các rễ nhỏ bám chặt vào ống máng, dính vào vách tường gạch, chui vào khung cửa sổ. Cả căn nhà như được gói trong cái bọc dây leo dầy cộm. Ông Huỳnh nhấn chuông nhưng không ai trả lời. Sau khi đợi mươi phút, ông rút chiếc chìa khóa ra, miệng lầm bầm:
- Ông biết đấy, tôi không ưa làm như thế này chút nào.
Chiếc cửa kêu lên răng rắc khi bị đẩy vào. Rễ cây leo đã luồn qua khe cửa bít chặt ngay cả các khe nhỏ giữa khung cửa và cánh cửa. Lối vào xông lên một mùi ẩm mốc rêu phong. Ông Huỳnh gọi lớn:
- Minh ơi!
Rồi lại tiếp tục gọi sau mỗi lần chờ trả lời nhưng vẫn im lìm. Ông Huỳnh đưa tay đóng cánh cửa chính lại, bỏ chìa khóa vào túi quần ông bảo:
- Có lẽ mình phải lên lầu thôi.
Tôi theo sau ông Huỳnh đi lên cầu thang. Một mùi hôi nồng nặc xông lên. Đến tầng trên, ông Huỳnh ngó quanh quất có vẻ như người lạc đường:
- Mấy năm rồi chưa đặt chân đến đây. Quên mất cái phòng mà ông Minh ở rồi.
Sau cùng ông chọn căn phòng cuối phía bên phải, nằm ngó ra đường. Ông ta gõ cửa, nhưng vẫn không có ai trả lời. Ông đập cửa đùng đùng kêu lớn tiếng:
- Minh! Huỳnh Hắc đây.
Im lặng. Ông vặn nắm cửa, cửa khóa:
- Phải phá cửa ra, chứ tôi không có chìa khóa các phòng này!
Sau một phút ngần ngại, ông lùi ra sau lấy trớn, dùng cái vai khổng lồ húc vào cánh cửa. Cánh cửa mở bung ra sau tiếng gỗ và kim khí gẫy bể. Chúng tôi bước vào trong căn phòng nửa sáng nửa tối, không ai thốt lên được lời nào. Trong đám mầu xanh lục, mờ mờ tranh tối tranh sáng là hình thù một người lọt thỏn trong cái ghế bành cách cửa sổ khoảng một thước tây. Cái hình thù này bị lá cây leo năm cánh khổng lồ bao trùm lấy chỉ thấy lờ mờ cái hình người. Khoảng một phút hay hơn nữa, tôi như bị mọc rễ đứng cứng đơ tại chỗ vì khiếp đảm, cái hình thù đó cũng không nhúc nhích. Rồi tôi thấy nó cử động. Nó đứng lên với một tiếng rít nhỏ thoát ra từ miệng nó.
Các lá cây leo mầu tím xanh giống như mầu da thịt lập tức hướng về phía chúng tôi như bị nam châm hút. Rồi cái hình thù ấy rơi trở lại ghế ngồi, nhưng cái tiếng rít lanh lảnh, không giống tiếng người kia vẫn phát ra không ngừng. Các lá cây leo tiếp tục lao xao. Có thể do đầu óc tôi tưởng tượng, nhưng tôi có cái cảm giác thật rõ rệt là nhánh cây leo rời khỏi ghế, bò xuống dưới sàn và bắt đầu trườn về phía chúng tôi.
Ông Huỳnh chợt hồi tỉnh, lấy tay xô tôi về phía cửa và hét lên:
- Đi ra nhanh lên! Chạy ra cửa mau!
Tôi đâm bổ ra cầu thang, ông Huỳnh chạy sát theo sau. Kỳ lạ là ngay trong tình cảnh này, tôi chợt thấy đây không phải là con người ông Huỳnh tôi thường biết, hay nghĩ rằng mình đã biết. Khi ra tới ngoài rồi tôi quay lại bảo ông:
- Trời đất ơi, ông Huỳnh! Ông sắp làm cái quái quỉ gì thế?
- Rồi ông sẽ thấy.
Tôi đi theo ông vòng ra sau nhà chật vật với đám lá cây rậm rạp. Ông Huỳnh vừa đi vừa khua tay chân vạch đám lá cây mở đường đi tới một căn nhà nhỏ chứa đồ gì đó. Căn nhà nhỏ bé này cũng bị cây phủ kín chung quanh trông như một hang động. Ông Huỳnh mở cửa lách vào trong. Tôi đứng chờ, ngạt thở trong đám cây cỏ dầy đặc. Một lát sau ông Huỳnh trở ra trong tay cầm cái rìu nặng, tuy lưỡi đã rỉ sét nhưng cái cán trông còn chắc lắm. Chúng tôi vạch đám lá cây trở ra phía trước. Tôi có cảm tưởng như cái đám cây leo xum xuê ấy phủ chùm lên chúng tôi. Đến khi trở lại trước cửa nhà, tôi mới hiểu ý của ông Huỳnh. Ông len vào trong, xục xạo tìm cho ra cái thân chính của cây leo.
Tôi biết là vô lý nhưng có cảm tưởng cái cây leo như biết được ý đồ của ông Huỳnh. Những lá cây leo to bản như những cái quạt phất vào mặt ông ta. Tôi nhìn thấy rõ ràng một hoặc hai nhánh dây vươn ra cuốn chặt vào vai áo ông Huỳnh. Lập tức ông vung rìu lên chém mạnh vào thân cây. Tôi thấy ông giật bắn người lên, bước lùi ra sau, ông ngó trừng trừng vào cái thân cây bị chém sâu quá nửa. Chùi mồ hôi đọng trên mắt, tôi nhìn chăm chú hơn vào thân cây. Một giòng chất lỏng đỏ thẫm như máu ứa ra từ thân cây leo Ông Huỳnh tiếp tục vung rìu lên chém tới tấp không ngừng tay.
Ở Âm Ly, ông Huỳnh là người quen biết nhiều nên đã dàn xếp tránh hết báo chí phỏng vấn, nhà chức trách điều tra phiền nhiễu. Chỉ có một mẩu tin ngắn thông báo về cái chết của ông Phạm Minh vì bệnh tim. Đám ma cũng rất đơn giản, chỉ có ít thân nhân tham dự và nắp quan tài được đóng kín. Ông Huỳnh là người thừa kế gia tài, ông đã thuê người chặt hết cây cỏ quanh nhà cho sạch tận gốc. Mãi về sau, khi gặp lại tôi tại hội quán, ông Huỳnh mới trở lại đề tài:
- Ông biết không, mẫu các loại trường xuân khổng lồ đó đã được gửi tới các phòng thí nghiệm thảo mộc học khắp nơi trong nước, nhưng không chỗ nào biết rõ xuất xứ! Có lẽ Phạm Minh đã lấy được nó từ chỗ rừng sâu nước độc nào đó không ai biết. Trông nó giống loại trường xuân bình thường Hedera canariensis, nhưng lại có những cái khác biệt rùng rợn mà chúng ta đã được chứng kiến. Nhánh rễ dây leo chui qua các khe cửa sổ phòng ông Minh. Tôi chỉ đoán vì không biết rõ thứ tự những gì đã xẩy ra. Có lẽ ông ta bị lên cơn đau tim bất thình lình, ngồi sụm ngay vào chiếc ghế bành gần đó, rồi ngồi luôn không đứng dậy được nữa. Cây trường xuân khi len vào trong nhà đã bò về phía ông Minh ngồi và những nhánh dây leo đã bám vào người ông, các rễ dây leo nhỏ như sợi tóc bắt đầu len vào da thịt ông. Lúc đó ông vẫn còn sống chắc là phải đau đớn lắm.
Ông Huỳnh ngừng nói rót rượu vào ly, nhấm nháp một tý rồi nói tiếp:
- Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng sự đau đớn này cũng không kéo dài lâu. Ngay cả những cái chính mắt mình nhìn thấy cũng có thể bị sai lầm đi nữa. Lúc chúng ta bước vào thì ông Phạm Minh đã chết rồi.
Tôi lên tiếng phản đối:
- Nhưng tôi thấy rõ ràng là ông ta đứng dậy từ chiếc ghế bành mà.
Ông Huỳnh nhíu mày lại vẻ mặt không đồng ý:
- Vâng, tôi có thấy. Nhưng... đúng đấy... Ông phải hiểu đó là một loại cộng sinh. Nói khác đi, trên phương diện y học thì Phạm Minh đã chết khi chúng ta đến nơi. Các rễ cây trường xuân đã bò vào tới trong não bộ Ông ta, kích thích các dây thần kinh làm dây thần kinh như sống lại. Nói khác đi ông ta như một xác chết biết đi, bị điều khiển từ bên ngoài.
Tôi lắc đầu chưa chịu thua:
- Khó tin những điều ông đang giải thích. Thế còn tiếng kêu rít lên đó... thì sao?
Ông Huỳnh gật đầu chấp nhận sự kiện tôi nêu ra:
- Tôi biết. Nhưng ngay cả điều này cũng có thể giải thích được. Cuộc giảo nghiệm tử thi cho thấy các nhánh rễ nhỏ như sợi tóc đã ăn vào tới óc ông ta và có thể kích thích trung tâm phát âm ở đó, mặc dù ông ta đã chết rồi.
- Thế còn cái chất lỏng đỏ như máu ứa ra từ rễ cây?
Ông Huỳnh nhăn mặt:
- Biết thế nào ông cũng nêu câu hỏi đó. Chúng tôi đã nhờ phòng thí nghiệm phân tích. Vâng, đó là máu, có một phần máu người trong đó.
Tôi biết không thể tiếp tục bàn cãi thêm được nữa. Ông Huỳnh, theo tôi nhận xét, đã kết thúc đề tài này sau câu giải thích vừa rồi. Tới bây giờ, mỗi lần đến nhà một người quen nào có dây trường xuân leo trên bờ tường, tôi tức khắc thúc chủ nhân phải nhổ bỏ đi. Có lẽ tôi vẫn còn bị ám ảnh về chuyện này quá nhiều. Một số người quen biết đã coi tôi là một người có đầu óc bỡn cợt bất bình thường.
Joseph P. Brennan
Âm Ly là một thị xã nhỏ, khuất nẻo mà một du khách bình thường sẽ không bao giờ để ý đến. Vài năm trước đây còn có con lộ chánh chạy ngang qua, nhưng bây giờ một xa lộ bốn "lanes" đã được xây thêm cho xe chạy với vận tốc nhanh hơn. Con lộ cũ trở nên hoang vắng, hầu như không còn xe nào lui tới con đường nhỏ có tấm bảng phai nhạt vì sương gió đề tên "Lối rẽ vào thị xã Âm Ly".
Ông bạn Huỳnh Hắc mà tôi quen biết vì cùng là hội viên của một câu lạc bộ, đã giới thiệu với tôi về cái địa danh này. Ông ta sau khi chộp được một "cú áp phe" lớn tại thị trường chứng khoán Wall Street mấy năm trước, trở thành giàu có, dư giả tiền bạc nên đã quyết định về hưu non, sống một cuộc đời nhàn tản. Lúc đó tôi còn là một nhà văn vô danh nghèo kiết xác so với ông bạn họ Huỳnh, nhưng không hiểu vì lý do đặc biệt nào đó ông ta tỏ vẻ rất ưa thích và muốn kết thân với tôi.
Chúng tôi thường gặp nhau trong các buổi ăn chiều, đôi lúc ngồi nhâm nhi uống rượu đánh cờ và tán dóc với nhau. Một hôm trong câu chuyện tôi nói về ý định muốn đi nghỉ hè mà không biết đi đâu, ông Huỳnh nêu ý kiến bảo tôi nên đến thị xã Âm Ly thử xem sao. Ông nói một cách lơ đãng, như không để ý đến điều mình nói cho lắm:
- Âm Ly thật ra cũng chẳng có gì đặc biệt cả, tẻ nữa là đằng khác. Nếu ông muốn đi nghỉ hè ở xa thì chỗ này không thích hợp mấy, vì nó chỉ cách đây trên bốn chục dặm nhưng thật yên tĩnh và thanh bình. Tìm chỗ trọ không khó. Nếu ông không để ý phiền hà thì có thể nhập bọn với tôi trong khi chờ đợi đi tìm chỗ trọ. Tôi có một căn nhà nhỏ ở đó. Hơi chật một tí, nhưng cũng có phòng dành riêng cho khách. Ông và tôi có thể ở tạm trong thời gian chờ ông tìm được chỗ vừa ý.
Hai tuần sau, tôi lái xe theo con đường cũ hoang sơ, quẹo vào nơi có tấm bảng đề chữ "Lối rẽ vào thị xã Âm Ly", đi thêm vài dặm nữa thì đến một tỉnh lỵ nhỏ kiểu như một tỉnh miền Tân Anh Cát Lợi, xinh xắn và mơ màng như cô gái còn trong cơn ngái ngủ. Thị xã này đã may mắn tránh khỏi cái nạn bị đám người "nghỉ hè hằng niên" thường rất ồn ào đến quấy nhiễu. Cái "căn nhà nhỏ chật chội" của ông Huỳnh thật ra là một căn nhà kiểu Georgian tuyệt đẹp, có cổng vào xây bằng cột kiểu Doric.
Khoảng một giờ sau tôi đã tắm rửa sạch sẽ, ra ngồi với chủ nhân ở sân sau ngó xuống vườn kiểu Anh Cát Lợi có rào che kín chung quanh. Tôi ngồi xuống, yên vị trong cái ghế bành êm ái, nhâm nhi ly rượu mạnh pha soda. Chỉ một lúc sau cái cảm giác êm đềm dễ chịu từ từ lan ra khắp cơ thể, xâm chiếm từng tế bào trong da thịt, tôi cảm thấy muốn buông xuôi mọi ý chí năng động, thả mình hưởng thụ cái nhàn hạ này. Tôi thấy không còn cần phải đi đâu xa nữa, không cần phải kiếm chỗ trọ nào khác và không còn có ý định vùi đầu vào viết như đã định trước nữa.
Ông Huỳnh như đoán biết cái tâm ý của tôi, bèn nói:
- Tôi nghĩ rằng, nếu ông chịu được chật chội thì không cần phải đi đâu nữa. Cứ ở đây. Tôi có một bà giúp việc mỗi ngày đến lo cơm nước buổi sáng và buổi trưa, còn buổi chiều thì chúng ta dùng bữa tại quán Hắc Sự Quán này tuy là nhà hàng duy nhất ở Âm Ly nhưng làm đồ ăn khá lắm.
Tôi thật cảm động trước tấm thạnh tình của ông, vì dù nằm mơ đi nữa tôi cũng không dám nghĩ đến việc ông có thể chấp nhận một việc nhiều phiền hà như vậy. Nhưng một lần nữa như biết được ý nghĩ của tôi, ông nói một cách quả quyết làm tôi yên tâm:
- Không có gì phiền hà đâu. Trái lại chính ông là người sẽ giúp tôi đấy chứ. Bây giờ tôi chẳng có gì phải lo nghĩ cả, lúc nào cũng dư thì giờ, thành ra cuộc sống đôi lúc cũng không có gì thú vị lắm. Ông ở đây thì tuyệt, chúng ta có thể ngồi đánh với nhau vài ván cờ thật hứng thú mà không phải lo canh đồng hồ!
Rót thêm rượu vào ly cho tôi, ông tiếp:
- Lẽ dĩ nhiên lúc nào ông muốn ngồi vào bàn viết thì xin cứ tùy nghi. Tôi là người rất tôn trọng nghề văn.
Thế là xong. Tôi hiểu ông sẽ tổn thương tự ái nếu tôi bàn thêm về vấn đề tiền bạc trả cho việc ăn ở này. Tôi nghĩ ra một cách là khi đến ăn tại quán Hắc Sư tôi sẽ dành trả tiền để bù vào đó. Mùa hè qua thật êm đềm. Thường ngày tôi ngồi viết vài giờ đồng hồ vào buổi sáng sớm và dạo quanh tỉnh vào buổi chiều. Tới giờ, về ngồi uống một vài ly rượu khai vị, tán gẫu với ông Huỳnh trước khi đi ăn chiều tại quán Hắc Sư.
Sau bữa ăn trưa, tôi thường lang thang đi dạo dọc theo những đường phố nhỏ đầy tàng cây bóng mát của thị xã Âm Ly. Ở đây, cái cảnh sắc an bình, cái không khí trong lành, cái cảm giác bền vững toát ra từ những ngôi nhà cổ lâu đời làm tôi thấy như đang sống đắm mình trong một thế giới mộng ảo nào khác. Việc viết lách của tôi cũng tiến triển đúng theo chương trình đã ấn định. Da thịt tôi trở nên hồng hào, và tôi thường thắng nhiều hơn trước trong những bàn cờ đánh với ông Huỳnh. May mắn cho tôi, ông ta là người có tinh thần thể thao, tuy thua nhưng không bao giờ nổi tánh xấu.
Sự tiến bộ trong các nước cờ tướng của tôi được ông coi như một thách thức mới đầy thú vị, và tôi nhận thấy cả hai chúng tôi đều đạt kỹ thuật cao hơn xưa. Đến bây giờ nghĩ lại, tôi vẫn còn cảm thấy cái thích thú khi nhớ tới những ván cờ sôi nổi kỳ phùng địch thủ này. Một buổi trưa trời gắt nắng, đang lang thang đi dưới hàng cây rợp bóng mát, tôi bỗng chú ý đến một tấm bảng ghi: Đường An Địa. Cái tên đường là lạ khêu gợi lòng hiếu kỳ của tôi. Tôi quẹo vào. Con đường này hoàn toàn không giống các đường khác tại Âm Ly.
Dọc theo hai bên đường toàn là những ngôi nhà cổ thật yên tĩnh, chung quanh có vườn cây rợp mát với hai hàng cây cổ thụ cành lá xum xuê. Con đường vắng lặng, không một bóng người qua lại. Đi gần đến cuối đường mới thấy đó là một con đường cụt, muốn về tôi phải quay trở ngược lại. Tôi đi tới cuối đường băng ngang qua lề bên kia để đi trở về. Đó là lần đầu tiên tôi để ý đến ngôi nhà ở cuối đường. Bề ngoài trông cũng bình thường chỉ là một ngôi nhà gạch hai tầng, nhưng điều khác là chung quanh nhà mọc lan tràn những loài thảo mộc đủ loại lớn nhỏ, hình dáng ngoại lai xa lạ, không thấy có dấu hiệu được một bàn tay nào chăm sóc cả.
Tôi đặc biệt chú ý đến một loại cây leo trường xuân có cành dây lớn bao phủ gần như toàn diện mặt tiền ngôi nhà lấp cả cửa sổ. Tất cả như bị phủ kín chỉ thấy được cửa ra vào. Tôi biết nhiều giống cây leo nhưng chưa bao giờ bao giờ lại thấy có cây leo to như vậy. Lá cây xanh tốt, phản chiếu ánh nắng mặt trời rọi xuống xuyên qua kẽ lá, ánh lên mầu tim tím. Ngay lúc đứng ngắm nghía cái cây leo bất thường này, tôi chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đầu tóc bạc trắng, từ bên trong khung cửa sổ ở trên lầu đang đưa mắt nhìn ra ngoài. Khung cửa sổ cũng bị dây leo che khuất, trong tích tắc khi tôi nhìn lại, thì khuôn mặt ấy đã biến đâu mất không để một dấu vết nào cả. Tôi bỏ về và đi ngược trở lại ngược theo đường An Địa ra trung tâm Âm Ly.
Buổi chiều vào giờ uống rượu khai vị, tôi nhắc đến chuyện trên thì được ông Huỳnh cho biết:
- Đó là căn nhà của ông Phạm Minh, một nhà thảo mộc học có tiếng. Ông ta thường đi du hành khắp thế giới mang về các loại cây hiếm. Ông ta có một khu vườn cho khách thăm viếng, nhưng mấy năm gần đây ông bị bịnh và bây giờ như ở ẩn vậy. Ít người gặp ông ta. Ông đóng cửa ở trong nhà để kệ cây cối mọc tùm lum. Tiếc thật.
Ông Huỳnh ngừng nói, nhấp một ngụm martini, một lúc sau như để đắn đo rồi mới tiếp:
- Ông ấy có họ xa với tôi, cho tôi giữ chìa khóa để vào nhà đó nữa. Nhưng tôi không hề nghĩ đến việc dùng nó. Tôi thích được để yên nên tôi cũng trọng sự riêng tư của người khác.
- Ông nói đúng, tôi bàn góp, nhưng ông có nghĩ rằng ông ấy đã bỏ bê nhà cửa một cách quá đáng không? Căn nhà này chả mấy chốc sẽ biến mất trong đám rừng cây leo.
Ông Huỳnh nhún vai:
- Tôi chủ trương là ai cũng có cái quyền điên khùng theo ý riêng của mình, miễn là đừng đụng đến quyền của người khác. Nếu me-sừ Minh muốn sống trong cái rừng của ông ta thì đó là quyền của ông ta.
Tôi biết ý, không đề cập đến vấn đề này nữa, nhưng cứ một hoặc hai ngày tôi lại thấy mình đi lơ vơ về hướng đường An Địa, tôi cũng nghĩ rằng có lẽ cái ông Phạm Minh già đáng thương kia đang nguyền rủa sự phá quấy của tôi, như ruồi thấy mật bu lại làm phiền rộn ông. Nhưng căn nhà kỳ bí đầy cây phủ kia có hấp lực lôi cuốn tôi như nam châm hút sắt vậy. Mùa hè nóng bức năm ấy không làm cho cây leo giảm cường độ mọc mạnh thêm. Loại cây leo trường xuân thường kỵ nắng, nhưng vì căn nhà luôn được bóng mát của hai hàng cây du to lớn trồng hai bên đường, nên cây leo này không phải chịu nắng rọi trực tiếp.
Các lá cây năm nhánh ngày càng rậm ra che kín cửa sổ, nên sau lần đầu tôi chỉ thấy cái bóng đầu bạc trắng một hai lần nữa mà thôi. Tôi rất thích thú theo dõi cây cối thảo mộc tăng trưởng, tôi càng kỳ thú hơn khi thấy một người tự cho phép để mặc cho cây cỏ mọc tự do che khuất nơi mình ở. Mùa hè đã trôi qua, Ông Huỳnh càng trở nên khó tính hơn, tôi thấy hình như có cái gì làm bận tâm ông. Một đôi lúc tôi bắt gặp ông bẳn gắt và tài nghệ chơi cờ của ông xuống dốc thấy rõ. Cuối cùng một hôm ngồi uống rượu mùi với tôi ông lại đề cập đến vấn đề:
- Phiền nhiễu quá sức, ông biết không, tôi hơi lo cho ông Minh này. Mấy người giao hàng chưa gặp ông ấy cả tuần nay rồi. Thơ từ chất cả đống bên ngoài.
Rồi quay sang phía tôi ông hỏi:
- Ông có dịp đi ngang đường An Địa lúc gần đây không?
Tôi biết rõ là ông cũng biết tôi thường đi xuống phía đó, nên trả lời:
- Cứ vài ngày là tôi thả bộ ngang. Cửa sổ bị cây leo phủ kín mít và tôi không thấy bên trong có động tĩnh gì.
Tôi nhấp một hơi rượu rồi tiếp:
- Lẽ dĩ nhiên là không ai có thể thấy gì trong đó được. Cửa sổ với đám dây leo mọc một cách tham lam che phủ kín mít như vậy thì dù cho bên trong có tiệc tùng đông đảo cả trăm người đi nữa thì bên ngoài cũng chẳng có ai biết đâu.
- Chữ ông dùng lạ nhỉ.
- Chữ nào?
- Chữ tham lam ấy mà.
Ông ngừng ở đó, một lúc sau với tay lấy thêm rượu rót vào ly cho tôi rồi nói:
- Tôi nghĩ tôi phải làm một cái gì đây.
Tôi gật đầu đồng ý:
- Tôi cũng nghĩ thế, tôi biết cái ý tưởng xâm phạm đời tư người khác ông không ưa tý nào, nhưng nếu chỉ đến coi ông lão có làm sao không thì có gì là tai hại đâu.
Ông Huỳnh ngả người sau ra miệng ầm ừ:
- Vậy thì ngày mai Ông và tôi đến đó,tôi sẽ gọi cửa, nếu không ai trả lời thì tôi sẽ dùng đến cái chìa khóa mà tôi có đây.
Ngày hôm sau, trời vẫn nóng nực như cũ. Sau bữa ăn trưa nhẹ, chúng tôi kéo nhau đến nhà ông Phạm Minh trên đường An Địa. Mới một ngày qua đi mà tôi có cảm tưởng những lá mầu xanh tím to lớn đã mọc dài thêm ra. Chúng bò tràn lan khắp nơi. Leo theo máng xối, bò lên nóc. Các rễ nhỏ bám chặt vào ống máng, dính vào vách tường gạch, chui vào khung cửa sổ. Cả căn nhà như được gói trong cái bọc dây leo dầy cộm. Ông Huỳnh nhấn chuông nhưng không ai trả lời. Sau khi đợi mươi phút, ông rút chiếc chìa khóa ra, miệng lầm bầm:
- Ông biết đấy, tôi không ưa làm như thế này chút nào.
Chiếc cửa kêu lên răng rắc khi bị đẩy vào. Rễ cây leo đã luồn qua khe cửa bít chặt ngay cả các khe nhỏ giữa khung cửa và cánh cửa. Lối vào xông lên một mùi ẩm mốc rêu phong. Ông Huỳnh gọi lớn:
- Minh ơi!
Rồi lại tiếp tục gọi sau mỗi lần chờ trả lời nhưng vẫn im lìm. Ông Huỳnh đưa tay đóng cánh cửa chính lại, bỏ chìa khóa vào túi quần ông bảo:
- Có lẽ mình phải lên lầu thôi.
Tôi theo sau ông Huỳnh đi lên cầu thang. Một mùi hôi nồng nặc xông lên. Đến tầng trên, ông Huỳnh ngó quanh quất có vẻ như người lạc đường:
- Mấy năm rồi chưa đặt chân đến đây. Quên mất cái phòng mà ông Minh ở rồi.
Sau cùng ông chọn căn phòng cuối phía bên phải, nằm ngó ra đường. Ông ta gõ cửa, nhưng vẫn không có ai trả lời. Ông đập cửa đùng đùng kêu lớn tiếng:
- Minh! Huỳnh Hắc đây.
Im lặng. Ông vặn nắm cửa, cửa khóa:
- Phải phá cửa ra, chứ tôi không có chìa khóa các phòng này!
Sau một phút ngần ngại, ông lùi ra sau lấy trớn, dùng cái vai khổng lồ húc vào cánh cửa. Cánh cửa mở bung ra sau tiếng gỗ và kim khí gẫy bể. Chúng tôi bước vào trong căn phòng nửa sáng nửa tối, không ai thốt lên được lời nào. Trong đám mầu xanh lục, mờ mờ tranh tối tranh sáng là hình thù một người lọt thỏn trong cái ghế bành cách cửa sổ khoảng một thước tây. Cái hình thù này bị lá cây leo năm cánh khổng lồ bao trùm lấy chỉ thấy lờ mờ cái hình người. Khoảng một phút hay hơn nữa, tôi như bị mọc rễ đứng cứng đơ tại chỗ vì khiếp đảm, cái hình thù đó cũng không nhúc nhích. Rồi tôi thấy nó cử động. Nó đứng lên với một tiếng rít nhỏ thoát ra từ miệng nó.
Các lá cây leo mầu tím xanh giống như mầu da thịt lập tức hướng về phía chúng tôi như bị nam châm hút. Rồi cái hình thù ấy rơi trở lại ghế ngồi, nhưng cái tiếng rít lanh lảnh, không giống tiếng người kia vẫn phát ra không ngừng. Các lá cây leo tiếp tục lao xao. Có thể do đầu óc tôi tưởng tượng, nhưng tôi có cái cảm giác thật rõ rệt là nhánh cây leo rời khỏi ghế, bò xuống dưới sàn và bắt đầu trườn về phía chúng tôi.
Ông Huỳnh chợt hồi tỉnh, lấy tay xô tôi về phía cửa và hét lên:
- Đi ra nhanh lên! Chạy ra cửa mau!
Tôi đâm bổ ra cầu thang, ông Huỳnh chạy sát theo sau. Kỳ lạ là ngay trong tình cảnh này, tôi chợt thấy đây không phải là con người ông Huỳnh tôi thường biết, hay nghĩ rằng mình đã biết. Khi ra tới ngoài rồi tôi quay lại bảo ông:
- Trời đất ơi, ông Huỳnh! Ông sắp làm cái quái quỉ gì thế?
- Rồi ông sẽ thấy.
Tôi đi theo ông vòng ra sau nhà chật vật với đám lá cây rậm rạp. Ông Huỳnh vừa đi vừa khua tay chân vạch đám lá cây mở đường đi tới một căn nhà nhỏ chứa đồ gì đó. Căn nhà nhỏ bé này cũng bị cây phủ kín chung quanh trông như một hang động. Ông Huỳnh mở cửa lách vào trong. Tôi đứng chờ, ngạt thở trong đám cây cỏ dầy đặc. Một lát sau ông Huỳnh trở ra trong tay cầm cái rìu nặng, tuy lưỡi đã rỉ sét nhưng cái cán trông còn chắc lắm. Chúng tôi vạch đám lá cây trở ra phía trước. Tôi có cảm tưởng như cái đám cây leo xum xuê ấy phủ chùm lên chúng tôi. Đến khi trở lại trước cửa nhà, tôi mới hiểu ý của ông Huỳnh. Ông len vào trong, xục xạo tìm cho ra cái thân chính của cây leo.
Tôi biết là vô lý nhưng có cảm tưởng cái cây leo như biết được ý đồ của ông Huỳnh. Những lá cây leo to bản như những cái quạt phất vào mặt ông ta. Tôi nhìn thấy rõ ràng một hoặc hai nhánh dây vươn ra cuốn chặt vào vai áo ông Huỳnh. Lập tức ông vung rìu lên chém mạnh vào thân cây. Tôi thấy ông giật bắn người lên, bước lùi ra sau, ông ngó trừng trừng vào cái thân cây bị chém sâu quá nửa. Chùi mồ hôi đọng trên mắt, tôi nhìn chăm chú hơn vào thân cây. Một giòng chất lỏng đỏ thẫm như máu ứa ra từ thân cây leo Ông Huỳnh tiếp tục vung rìu lên chém tới tấp không ngừng tay.
Ở Âm Ly, ông Huỳnh là người quen biết nhiều nên đã dàn xếp tránh hết báo chí phỏng vấn, nhà chức trách điều tra phiền nhiễu. Chỉ có một mẩu tin ngắn thông báo về cái chết của ông Phạm Minh vì bệnh tim. Đám ma cũng rất đơn giản, chỉ có ít thân nhân tham dự và nắp quan tài được đóng kín. Ông Huỳnh là người thừa kế gia tài, ông đã thuê người chặt hết cây cỏ quanh nhà cho sạch tận gốc. Mãi về sau, khi gặp lại tôi tại hội quán, ông Huỳnh mới trở lại đề tài:
- Ông biết không, mẫu các loại trường xuân khổng lồ đó đã được gửi tới các phòng thí nghiệm thảo mộc học khắp nơi trong nước, nhưng không chỗ nào biết rõ xuất xứ! Có lẽ Phạm Minh đã lấy được nó từ chỗ rừng sâu nước độc nào đó không ai biết. Trông nó giống loại trường xuân bình thường Hedera canariensis, nhưng lại có những cái khác biệt rùng rợn mà chúng ta đã được chứng kiến. Nhánh rễ dây leo chui qua các khe cửa sổ phòng ông Minh. Tôi chỉ đoán vì không biết rõ thứ tự những gì đã xẩy ra. Có lẽ ông ta bị lên cơn đau tim bất thình lình, ngồi sụm ngay vào chiếc ghế bành gần đó, rồi ngồi luôn không đứng dậy được nữa. Cây trường xuân khi len vào trong nhà đã bò về phía ông Minh ngồi và những nhánh dây leo đã bám vào người ông, các rễ dây leo nhỏ như sợi tóc bắt đầu len vào da thịt ông. Lúc đó ông vẫn còn sống chắc là phải đau đớn lắm.
Ông Huỳnh ngừng nói rót rượu vào ly, nhấm nháp một tý rồi nói tiếp:
- Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng sự đau đớn này cũng không kéo dài lâu. Ngay cả những cái chính mắt mình nhìn thấy cũng có thể bị sai lầm đi nữa. Lúc chúng ta bước vào thì ông Phạm Minh đã chết rồi.
Tôi lên tiếng phản đối:
- Nhưng tôi thấy rõ ràng là ông ta đứng dậy từ chiếc ghế bành mà.
Ông Huỳnh nhíu mày lại vẻ mặt không đồng ý:
- Vâng, tôi có thấy. Nhưng... đúng đấy... Ông phải hiểu đó là một loại cộng sinh. Nói khác đi, trên phương diện y học thì Phạm Minh đã chết khi chúng ta đến nơi. Các rễ cây trường xuân đã bò vào tới trong não bộ Ông ta, kích thích các dây thần kinh làm dây thần kinh như sống lại. Nói khác đi ông ta như một xác chết biết đi, bị điều khiển từ bên ngoài.
Tôi lắc đầu chưa chịu thua:
- Khó tin những điều ông đang giải thích. Thế còn tiếng kêu rít lên đó... thì sao?
Ông Huỳnh gật đầu chấp nhận sự kiện tôi nêu ra:
- Tôi biết. Nhưng ngay cả điều này cũng có thể giải thích được. Cuộc giảo nghiệm tử thi cho thấy các nhánh rễ nhỏ như sợi tóc đã ăn vào tới óc ông ta và có thể kích thích trung tâm phát âm ở đó, mặc dù ông ta đã chết rồi.
- Thế còn cái chất lỏng đỏ như máu ứa ra từ rễ cây?
Ông Huỳnh nhăn mặt:
- Biết thế nào ông cũng nêu câu hỏi đó. Chúng tôi đã nhờ phòng thí nghiệm phân tích. Vâng, đó là máu, có một phần máu người trong đó.
Tôi biết không thể tiếp tục bàn cãi thêm được nữa. Ông Huỳnh, theo tôi nhận xét, đã kết thúc đề tài này sau câu giải thích vừa rồi. Tới bây giờ, mỗi lần đến nhà một người quen nào có dây trường xuân leo trên bờ tường, tôi tức khắc thúc chủ nhân phải nhổ bỏ đi. Có lẽ tôi vẫn còn bị ám ảnh về chuyện này quá nhiều. Một số người quen biết đã coi tôi là một người có đầu óc bỡn cợt bất bình thường.
Joseph P. Brennan
#174
Gửi vào 07/07/2011 - 05:05
BẠN CÓ MUỐN MỞ TÂM NHẢN KHÔNG?
MỞ TÂM NHẢN XUYÊN QUA CÁCH NHÌN QUẢ CẦU THỦY TINH (CRYSTAL GAZING)
Cách mở tâm nhản xuyên qua dụng cụ trợ giúp là quả cầu làm bằng thủy tinh nguyên chất crystal, là một phương pháp cổ xưa nhất, để nhìn những cảnh vật ở cỏi vía hay cỏi trung giới. Ngày xưa ở Ai Cập người ta đả biết dùng quả cầu thủy tinh cho những sự tiên đoán và bói toán, vào thời trung cổ, Bác sỉ Dee đả dùng cách xem quả cầu thủy tinh để tiên đoán nhiều việc quan trọng cho nữ hoàng Anh quốc, ngày nay những hội nghiên cứu tâm linh cũng đả dùng nó trong nhiều công việc ngoại cảm cần thiết.
Hiện nay người ta có thể dùng quả cầu bằng thủy tinh thật pure crystal, bằng thủy tinh giả hay bằng một tấm gương tráng đen óng hay một thau nước hay một chậu mực đen thay thế cũng được, tùy theo trình độ cao hay thấp của người nhìn, phương pháp nầy được xem là đơn giản và an toàn nhất trong sự phát triển khả năng ngoại cảm, tâm linh psychic của con người.
I. GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
Đầu tiên bạn cần mua một quả cầu bằng thủy tinh to khoãng gần 0.8 cm hay ba inches, hoặc to hơn càng tốt, nếu có tiền bạn có thể mua loại thủy tinh crystal thiệt thì rất tốt, xong đặt nó lên một cái chân kệ làm bằng gổ, tất cả đặt trên một miếng vải sa tanh đen mun, bao trùm phạm vi dưới chân của nó, không để cho một ánh sáng nào chiếu rọi lên nó, làm phản chiếu hình ảnh chung quanh trên mặt cầu bóng loáng nầy. khi bạn nhìn vòng ngoài của quả cầu thủy tinh, bạn sẻ thấy hình như có một vòng tròn như mây mờ xám trắng bao quanh nó phản ảnh qua tấm vải sa tanh đen là đúng vị trí.
Bạn đặt tất cả lên mặt bàn và bạn ngồi xuống trước nó, cách khoảng tầm nhìn như thường khi bạn đọc sách, trong phòng nên điều chỉnh ánh sáng hơi vừa đủ sáng là được; bắt đầu bạn bạn hít ba hơi chậm, dài, sâu, trong lúc hít vào bạn hảy tưởng tượng bạn hít một nguồn ánh sáng trắng chạy vào hai mủi và tỏa sáng ra đều toàn cơ thể bạn. Để làm mạnh vòng hào quang của cơ thể, kế đến bạn hảy dùng sức mạnh nhắm và nhíu hai mắt lại cho thật mạnh trong vài phút, sau đó thả ra và mở mắt ra và bạn cảm thắy hai mắt bạn dể chịu và thoải mái, bạn làm như thế vài lần.
Kế đến bạn thư thả thả mở mắt ra và nhìn chăm chú vào quả cầu thủy tinh trong vài phút, trong lúc nhìn bạn đừng là căng thẳng mắt, đừng nháy mắt để tự nhiên khi mỏi mắt mới nháy nhanh, xong nhìn tiếp đừng để đầu óc suy nghỉ chuyện gì hết ngoài để đầu óc trống không, để tâm nhản dể ghi nhận những linh ảnh sẻ hiện lên trong quả cầu thủy tinh, bạn đừng để cho buồn ngủ.
Lần đầu tiên bạn đừng nhìn quá năm phút, có thể mắt bạn sẻ mỏi và chảy nước mắt trong lần nhìn đầu tiên vì bạn nhìn quá lâu, do đó bạn sau nhiều lần thí nghiệm, bạn sẻ chọn thời gian thích hợp cho mổi buổi tập nhìn. Bạn cần tập đều đặn mổi ngày trong thời gian cố định sẳn, sau khi đả quen bạn có thể tăng thời gian nhìn thêm lên.
II. GIẢI THÍCH VỀ CÁCH NHÌN QUẢ CẦU THỦY TINH
Khả năng nhìn quả cầu thủy tinh là một phương pháp để làm thể hiện những thông tin của những hình ảnh, tư tưởng được tiềm thức và vô thức thâu nhận được từ bên trong tâm khảm, mà biểu hiện ra ngoài xuyên qua chất dẩn là quả cầu thủy tinh, nói cách khác người ta dùng quả cầu thủy tinh để làm chất dẩn, để đi vào trạng thái ngoại cảm mà nhìn thấy được những thông tin của thể vía. Những hình ảnh thấy được trong quả cầu thủy tinh là những hình ảnh của tâm nhản, tư tưởng hay những ảo giác đó là cách mà nó được thể hiện qua cái nhìn của quả cầu thủy tinh.
Thí dụ: thông thường bạn tưởng tượng hình gương mặt của một người bạn trong tâm bạn, như một sự hồi tưởng của ký ức, nhưng sự hồi tưởng nầy chỉ đến đó là chấm dứt. Tuy nhiên nếu bạn là một người có sức tưởng tượng mạnh mẻ và rỏ ràng bẩm sinh hay thông qua thực tập, bạn có thể phóng và đặt hình ảnh nầy vào trong quả cầu thủy tinh, và từ đó bạn có thể nhìn gương mặt của người bạn một cách rỏ ràng trong chiều sâu của quả cầu thủy tinh, một cách an định và dể dàng hơn. Hình ảnh nầy chỉ là một dạng của sự cảm nhận tâm thức, mà hầu hết những hình ảnh trong những quả cầu thủy tinh đều có cùng một đặc tính như vậy.
III. NHỮNG CẢNH TƯỢNG PHI THƯỜNG TRONG QUẢ CẦU THỦY TINH
Những cảnh tượng được nhìn thấy trong quả cầu thủy tinh, thường là những thông tin hình ảnh mà người ngồi nhìn, trong lúc bình thường không thể nhìn thấy được, nó có tính cách tiên liệu và thấy trước hiện tượng nầy trước khi nó xảy ra. Thí dụ: một ngày nào đó trong lúc nhìn quả cầu thủy tinh bạn thấy cảnh sinh hoạt của bạn và những người bạn tại một nơi nào đó, mà bạn không có thông tin gì hết trước đó.
Nhưng khoảng vài ngày sau đó, bạn nhận được một lá thư của người bạn nầy gởi cho bạn và mời bạn đi dự sinh nhật của một người bạn khác, và sự việc hình ảnh sinh hoạt nầy xảy ra, giống y hệt như hình ảnh những ngày trước, bạn đả nhìn thấy được trong quả cẩu thủy tinh. Những hình ảnh phi thường nầy có thể là những thông tin được chuyển lại cho bạn từ những nguồn tâm linh cảm ứng. Telepathic hay Thấu Thị. Clairvoyant hay của những vong linh người đả chết hay thân quen với bạn.
IV. PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG NHÌN BẰNG NGOẠI CẢM QUA QUẢ CẦU THỦY TINH
Bạn có thể phát triển khả năng nầy qua những bài tập sau đây:
Khi thực tập nhìn bạn tự hỏi những câu tương tự như sau: Ông chủ sắp đến của bạn có hình dạng ra sao? Con của người bạn cao lớn như thế nào rồi? Những câu hỏi nầy sẻ mang đến cho tâm nhản của bạn được nhìn thấy trong quả cầu thủy tinh những hình ảnh rỏ ràng, liên quan đến các câu hỏi vừa rồi của bạn, nếu bạn không thấy gì hiện ra trong quả cầu thủy tinh, thì khả năng của bạn còn yếu, bạn cần thực tập thêm nửa.
V. NHỮNG HÌNH ẢNH CỦA NHỮNG ĐÁM MÂY MÙ VÀ TƯỞNG TƯỢNG
Khi bạn bắt đầu tập nhìn vào quả cầu thủy tinh thì đến một lúc nào đó, bạn sẻ thấy quả cầu thủy tinh như bị một đám mây xám đen tỏa ra bao phủ toàn vẹn bên trong quả cầu, thì đây là giai đoạn chuyển tiếp cho tâm nhản ngoại cảm của bạn đang sắp mở ra đó, và sau khi đám mây nầy tan đi thì hình ảnh sẻ hiện ra ngay, người ta gọi nôm na đám mây nầy là đám mây minh triết. Bạn có thể nhìn thử hình ảnh được ánh sáng phản chiếu ghi lại ở góc trên của quả cầu thủy tinh một hồi lâu, rồi bạn hảy nhắm mắt lại một chút, xong bạn mở mắt nhìn vào bên trong quả cầu thủy tinh, có thể bạn sẻ nhìn thấy những hình ảnh vừa rồi bạn đả nhìn thấy qua sự phản chiếu ánh sáng trên một góc trước đó của nó, nay đả hiện ra một cách rỏ ràng ở bên trong của quả cầu thủy tinh.
VI. NHỮNG BÀI TẬP LÀM PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG TÂM NHẢN
Bạn tập nhìn một vài vật hay cảnh nào đó trong phòng bạn, mà những cảnh vật nầy không có phản chiếu lên trên quả cầu thủy tinh, xong bạn nhắm mắt lại và bạn hồi tưởng nó trong tâm của bạn một hồi, sau đó, bạn mở mắt ra và bạn nhìn vào quả cầu thủy tinh, xem có nhìn thấy những hình nầy có tái hiện lại trong đó hay không, bạn cứ thực tập như thế, cho đến khi bạn nhìn thấy được cảnh vật nầy được hiện lên trong quả cầu thủy tinh là bạn có tiến bộ rồi đó.
Đầu tiên bạn nhắm mắt lại tưởng tượng những hình ảnh thân quen nào đó, xong bạn mở mắt ra và phóng những hình ảnh vừa rồi vào trong quả cầu thủy tinh, để có thể nhìn thấy nó ở bên trong đó, bạn cứ lập lại tập liên tục như thế sẻ làm mạnh khả năng tâm nhản của bạn. Nếu những hình ảnh nầy quá phức tạp và khó tưởng tượng, bạn có thể tưởng tưởng những hình ảnh đơn giản như hình vuông, tròn, tam giác và thực tập theo cách trên.
VI. PHẦN CUỐI
Sau một thời gian dài thực tập bạn sẻ phát triển khả năng, có thể định thần để mở tâm nhản mà nhìn vào quả cầu thủy tinh, để thấy được hình ảnh bất cứ lúc nào bạn muốn thấy. Khi trình độ tâm nhản của bạn lên cao hơn nửa, bạn không cần quả cầu thủy tinh nửa, mà bạn có thể nhìn vào một tấm màn hay tấm vải hay vật gì có màu trắng hay đen, chỉ cần bạn tập trung định thần thì bạn có thể nhìn thấy những hình ảnh của thể vía hiện ra một cách rỏ ràng và dể dàng. Đến đây là bạn có thể gọi là có khả năng thấu thị Clairvoyant rồi đấy.
Nếu bạn tập ngồi nhìn mổi ngày năm phút liên tục thực tập như thế trong vài tuần lể, mà bạn không nhìn thấy gì hết, thì khả năng mở tâm nhản theo phương pháp nầy, không thích hợp với căn cơ và tâm thể của bạn, thì tốt hơn bạn tìm những phương pháp quán tưởng mở tâm nhản khác thích hợp với bạn hơn.
ST
MỞ TÂM NHẢN XUYÊN QUA CÁCH NHÌN QUẢ CẦU THỦY TINH (CRYSTAL GAZING)
Cách mở tâm nhản xuyên qua dụng cụ trợ giúp là quả cầu làm bằng thủy tinh nguyên chất crystal, là một phương pháp cổ xưa nhất, để nhìn những cảnh vật ở cỏi vía hay cỏi trung giới. Ngày xưa ở Ai Cập người ta đả biết dùng quả cầu thủy tinh cho những sự tiên đoán và bói toán, vào thời trung cổ, Bác sỉ Dee đả dùng cách xem quả cầu thủy tinh để tiên đoán nhiều việc quan trọng cho nữ hoàng Anh quốc, ngày nay những hội nghiên cứu tâm linh cũng đả dùng nó trong nhiều công việc ngoại cảm cần thiết.
Hiện nay người ta có thể dùng quả cầu bằng thủy tinh thật pure crystal, bằng thủy tinh giả hay bằng một tấm gương tráng đen óng hay một thau nước hay một chậu mực đen thay thế cũng được, tùy theo trình độ cao hay thấp của người nhìn, phương pháp nầy được xem là đơn giản và an toàn nhất trong sự phát triển khả năng ngoại cảm, tâm linh psychic của con người.
I. GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
Đầu tiên bạn cần mua một quả cầu bằng thủy tinh to khoãng gần 0.8 cm hay ba inches, hoặc to hơn càng tốt, nếu có tiền bạn có thể mua loại thủy tinh crystal thiệt thì rất tốt, xong đặt nó lên một cái chân kệ làm bằng gổ, tất cả đặt trên một miếng vải sa tanh đen mun, bao trùm phạm vi dưới chân của nó, không để cho một ánh sáng nào chiếu rọi lên nó, làm phản chiếu hình ảnh chung quanh trên mặt cầu bóng loáng nầy. khi bạn nhìn vòng ngoài của quả cầu thủy tinh, bạn sẻ thấy hình như có một vòng tròn như mây mờ xám trắng bao quanh nó phản ảnh qua tấm vải sa tanh đen là đúng vị trí.
Bạn đặt tất cả lên mặt bàn và bạn ngồi xuống trước nó, cách khoảng tầm nhìn như thường khi bạn đọc sách, trong phòng nên điều chỉnh ánh sáng hơi vừa đủ sáng là được; bắt đầu bạn bạn hít ba hơi chậm, dài, sâu, trong lúc hít vào bạn hảy tưởng tượng bạn hít một nguồn ánh sáng trắng chạy vào hai mủi và tỏa sáng ra đều toàn cơ thể bạn. Để làm mạnh vòng hào quang của cơ thể, kế đến bạn hảy dùng sức mạnh nhắm và nhíu hai mắt lại cho thật mạnh trong vài phút, sau đó thả ra và mở mắt ra và bạn cảm thắy hai mắt bạn dể chịu và thoải mái, bạn làm như thế vài lần.
Kế đến bạn thư thả thả mở mắt ra và nhìn chăm chú vào quả cầu thủy tinh trong vài phút, trong lúc nhìn bạn đừng là căng thẳng mắt, đừng nháy mắt để tự nhiên khi mỏi mắt mới nháy nhanh, xong nhìn tiếp đừng để đầu óc suy nghỉ chuyện gì hết ngoài để đầu óc trống không, để tâm nhản dể ghi nhận những linh ảnh sẻ hiện lên trong quả cầu thủy tinh, bạn đừng để cho buồn ngủ.
Lần đầu tiên bạn đừng nhìn quá năm phút, có thể mắt bạn sẻ mỏi và chảy nước mắt trong lần nhìn đầu tiên vì bạn nhìn quá lâu, do đó bạn sau nhiều lần thí nghiệm, bạn sẻ chọn thời gian thích hợp cho mổi buổi tập nhìn. Bạn cần tập đều đặn mổi ngày trong thời gian cố định sẳn, sau khi đả quen bạn có thể tăng thời gian nhìn thêm lên.
II. GIẢI THÍCH VỀ CÁCH NHÌN QUẢ CẦU THỦY TINH
Khả năng nhìn quả cầu thủy tinh là một phương pháp để làm thể hiện những thông tin của những hình ảnh, tư tưởng được tiềm thức và vô thức thâu nhận được từ bên trong tâm khảm, mà biểu hiện ra ngoài xuyên qua chất dẩn là quả cầu thủy tinh, nói cách khác người ta dùng quả cầu thủy tinh để làm chất dẩn, để đi vào trạng thái ngoại cảm mà nhìn thấy được những thông tin của thể vía. Những hình ảnh thấy được trong quả cầu thủy tinh là những hình ảnh của tâm nhản, tư tưởng hay những ảo giác đó là cách mà nó được thể hiện qua cái nhìn của quả cầu thủy tinh.
Thí dụ: thông thường bạn tưởng tượng hình gương mặt của một người bạn trong tâm bạn, như một sự hồi tưởng của ký ức, nhưng sự hồi tưởng nầy chỉ đến đó là chấm dứt. Tuy nhiên nếu bạn là một người có sức tưởng tượng mạnh mẻ và rỏ ràng bẩm sinh hay thông qua thực tập, bạn có thể phóng và đặt hình ảnh nầy vào trong quả cầu thủy tinh, và từ đó bạn có thể nhìn gương mặt của người bạn một cách rỏ ràng trong chiều sâu của quả cầu thủy tinh, một cách an định và dể dàng hơn. Hình ảnh nầy chỉ là một dạng của sự cảm nhận tâm thức, mà hầu hết những hình ảnh trong những quả cầu thủy tinh đều có cùng một đặc tính như vậy.
III. NHỮNG CẢNH TƯỢNG PHI THƯỜNG TRONG QUẢ CẦU THỦY TINH
Những cảnh tượng được nhìn thấy trong quả cầu thủy tinh, thường là những thông tin hình ảnh mà người ngồi nhìn, trong lúc bình thường không thể nhìn thấy được, nó có tính cách tiên liệu và thấy trước hiện tượng nầy trước khi nó xảy ra. Thí dụ: một ngày nào đó trong lúc nhìn quả cầu thủy tinh bạn thấy cảnh sinh hoạt của bạn và những người bạn tại một nơi nào đó, mà bạn không có thông tin gì hết trước đó.
Nhưng khoảng vài ngày sau đó, bạn nhận được một lá thư của người bạn nầy gởi cho bạn và mời bạn đi dự sinh nhật của một người bạn khác, và sự việc hình ảnh sinh hoạt nầy xảy ra, giống y hệt như hình ảnh những ngày trước, bạn đả nhìn thấy được trong quả cẩu thủy tinh. Những hình ảnh phi thường nầy có thể là những thông tin được chuyển lại cho bạn từ những nguồn tâm linh cảm ứng. Telepathic hay Thấu Thị. Clairvoyant hay của những vong linh người đả chết hay thân quen với bạn.
IV. PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG NHÌN BẰNG NGOẠI CẢM QUA QUẢ CẦU THỦY TINH
Bạn có thể phát triển khả năng nầy qua những bài tập sau đây:
Khi thực tập nhìn bạn tự hỏi những câu tương tự như sau: Ông chủ sắp đến của bạn có hình dạng ra sao? Con của người bạn cao lớn như thế nào rồi? Những câu hỏi nầy sẻ mang đến cho tâm nhản của bạn được nhìn thấy trong quả cầu thủy tinh những hình ảnh rỏ ràng, liên quan đến các câu hỏi vừa rồi của bạn, nếu bạn không thấy gì hiện ra trong quả cầu thủy tinh, thì khả năng của bạn còn yếu, bạn cần thực tập thêm nửa.
V. NHỮNG HÌNH ẢNH CỦA NHỮNG ĐÁM MÂY MÙ VÀ TƯỞNG TƯỢNG
Khi bạn bắt đầu tập nhìn vào quả cầu thủy tinh thì đến một lúc nào đó, bạn sẻ thấy quả cầu thủy tinh như bị một đám mây xám đen tỏa ra bao phủ toàn vẹn bên trong quả cầu, thì đây là giai đoạn chuyển tiếp cho tâm nhản ngoại cảm của bạn đang sắp mở ra đó, và sau khi đám mây nầy tan đi thì hình ảnh sẻ hiện ra ngay, người ta gọi nôm na đám mây nầy là đám mây minh triết. Bạn có thể nhìn thử hình ảnh được ánh sáng phản chiếu ghi lại ở góc trên của quả cầu thủy tinh một hồi lâu, rồi bạn hảy nhắm mắt lại một chút, xong bạn mở mắt nhìn vào bên trong quả cầu thủy tinh, có thể bạn sẻ nhìn thấy những hình ảnh vừa rồi bạn đả nhìn thấy qua sự phản chiếu ánh sáng trên một góc trước đó của nó, nay đả hiện ra một cách rỏ ràng ở bên trong của quả cầu thủy tinh.
VI. NHỮNG BÀI TẬP LÀM PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG TÂM NHẢN
Bạn tập nhìn một vài vật hay cảnh nào đó trong phòng bạn, mà những cảnh vật nầy không có phản chiếu lên trên quả cầu thủy tinh, xong bạn nhắm mắt lại và bạn hồi tưởng nó trong tâm của bạn một hồi, sau đó, bạn mở mắt ra và bạn nhìn vào quả cầu thủy tinh, xem có nhìn thấy những hình nầy có tái hiện lại trong đó hay không, bạn cứ thực tập như thế, cho đến khi bạn nhìn thấy được cảnh vật nầy được hiện lên trong quả cầu thủy tinh là bạn có tiến bộ rồi đó.
Đầu tiên bạn nhắm mắt lại tưởng tượng những hình ảnh thân quen nào đó, xong bạn mở mắt ra và phóng những hình ảnh vừa rồi vào trong quả cầu thủy tinh, để có thể nhìn thấy nó ở bên trong đó, bạn cứ lập lại tập liên tục như thế sẻ làm mạnh khả năng tâm nhản của bạn. Nếu những hình ảnh nầy quá phức tạp và khó tưởng tượng, bạn có thể tưởng tưởng những hình ảnh đơn giản như hình vuông, tròn, tam giác và thực tập theo cách trên.
VI. PHẦN CUỐI
Sau một thời gian dài thực tập bạn sẻ phát triển khả năng, có thể định thần để mở tâm nhản mà nhìn vào quả cầu thủy tinh, để thấy được hình ảnh bất cứ lúc nào bạn muốn thấy. Khi trình độ tâm nhản của bạn lên cao hơn nửa, bạn không cần quả cầu thủy tinh nửa, mà bạn có thể nhìn vào một tấm màn hay tấm vải hay vật gì có màu trắng hay đen, chỉ cần bạn tập trung định thần thì bạn có thể nhìn thấy những hình ảnh của thể vía hiện ra một cách rỏ ràng và dể dàng. Đến đây là bạn có thể gọi là có khả năng thấu thị Clairvoyant rồi đấy.
Nếu bạn tập ngồi nhìn mổi ngày năm phút liên tục thực tập như thế trong vài tuần lể, mà bạn không nhìn thấy gì hết, thì khả năng mở tâm nhản theo phương pháp nầy, không thích hợp với căn cơ và tâm thể của bạn, thì tốt hơn bạn tìm những phương pháp quán tưởng mở tâm nhản khác thích hợp với bạn hơn.
ST
#175
Gửi vào 07/07/2011 - 05:42
TRUYỆN KINH DỊ
Có thể các bạn không tin còn tôi thì tin thật sự là có ma. vì tôi đã gặp một lần rồi nhưng rất may là tôi không việc gì. Có một sự thật 100% là chính một người ở quê tôi chết vì ma xin đi nhờ xe, đó có thể nói là một bằng chứng sống. Chuyện là thế này: Vào tháng một năm 2006, ở xã Quỳnh Hội huyện Quỳnh Phụ tỉnh thái bình, có một cô gái học lớp mười hai, vì là năm cuối cấp nên thường xuyên đi học thêm vào buổi tối, mọi ngày đi học thêm cùng bạn bè thì không sao, một hôm do có công chuyện phải làm trước khi tan học chín giờ tối, thế nên bạn gái ấy phải về nhà một mình.
Trên đường về nhà phải đi qua một nghĩa địa, dưới ánh trăng mờ mờ có một đứa bé tầm tam, chín tuổi vẫy tay từ đằng trước:
- Chị ơi cho em đi nhờ xe với.
Vì trên đường vắng tanh không một bóng người, lại nghĩ rằng ở chỗ "đồng không mông quạnh" này thì có ai còn đi bộ đến nghĩa địa này chứ, nên bạn gái thấy sợ run người, em bé càng gọi, càng vẫy thì bạn gái này càng phóng xe nhanh và vút qua mặt em bé đó. Đạp xe được một quãng thì cô gái thấy trên xe nặng nặng như mình đang đèo một ai đó, ngoái lại phía sau nhìn thì bắt gặp ngay một nụ cười nhợt nhạt và một ánh mắt sáng quắc, đỏ lừ của một bà lão tám, chín chục tuổi:
- Sao vừa nãy nhà ngươi không cho một em bé đi nhờ xe...
Sợ hãi quá cô gái la hét ầm ỹ, rồi bà lão nhợt nhạt kia từ từ biến mất. Cô gái sợ mất vía phóng xe đạp như điên về đến nhà, tinh thần bị hoảng loạn nhưng vẫn kịp kể cho gia đình nghe câu chuyện đó, rồi nằm bẹp trên giường chân tay run lẩy bẩy, được đúng hai ngày thì cô gái đó qua đời. Tôi xin khẳng định lại đó là một câu chuyện có thật do chính người nhà của cô gái kể lại. cô gái là một người khỏe mạnh và chưa từng có bệnh lý tâm thần hay thần kinh gì cả. Tôi kể ra câu chuyện này không phải để dọa ai cả, mà chỉ muốn chứng tỏ cho mọi người biết có một thế giới tâm linh thật sự.
Hãy làm những việc tốt có ích cho mọi người, đừng làm những việc xấu xa, vì ở thế giới tâm linh mọi hành động của bạn đều được biết đến. Hiện tôi đang là sinh viên Năm cuối khoa Công Nghệ Thông Tin Đại Học Bách Khoa Hà Nội.
Hùng Lâm
Có thể các bạn không tin còn tôi thì tin thật sự là có ma. vì tôi đã gặp một lần rồi nhưng rất may là tôi không việc gì. Có một sự thật 100% là chính một người ở quê tôi chết vì ma xin đi nhờ xe, đó có thể nói là một bằng chứng sống. Chuyện là thế này: Vào tháng một năm 2006, ở xã Quỳnh Hội huyện Quỳnh Phụ tỉnh thái bình, có một cô gái học lớp mười hai, vì là năm cuối cấp nên thường xuyên đi học thêm vào buổi tối, mọi ngày đi học thêm cùng bạn bè thì không sao, một hôm do có công chuyện phải làm trước khi tan học chín giờ tối, thế nên bạn gái ấy phải về nhà một mình.
Trên đường về nhà phải đi qua một nghĩa địa, dưới ánh trăng mờ mờ có một đứa bé tầm tam, chín tuổi vẫy tay từ đằng trước:
- Chị ơi cho em đi nhờ xe với.
Vì trên đường vắng tanh không một bóng người, lại nghĩ rằng ở chỗ "đồng không mông quạnh" này thì có ai còn đi bộ đến nghĩa địa này chứ, nên bạn gái thấy sợ run người, em bé càng gọi, càng vẫy thì bạn gái này càng phóng xe nhanh và vút qua mặt em bé đó. Đạp xe được một quãng thì cô gái thấy trên xe nặng nặng như mình đang đèo một ai đó, ngoái lại phía sau nhìn thì bắt gặp ngay một nụ cười nhợt nhạt và một ánh mắt sáng quắc, đỏ lừ của một bà lão tám, chín chục tuổi:
- Sao vừa nãy nhà ngươi không cho một em bé đi nhờ xe...
Sợ hãi quá cô gái la hét ầm ỹ, rồi bà lão nhợt nhạt kia từ từ biến mất. Cô gái sợ mất vía phóng xe đạp như điên về đến nhà, tinh thần bị hoảng loạn nhưng vẫn kịp kể cho gia đình nghe câu chuyện đó, rồi nằm bẹp trên giường chân tay run lẩy bẩy, được đúng hai ngày thì cô gái đó qua đời. Tôi xin khẳng định lại đó là một câu chuyện có thật do chính người nhà của cô gái kể lại. cô gái là một người khỏe mạnh và chưa từng có bệnh lý tâm thần hay thần kinh gì cả. Tôi kể ra câu chuyện này không phải để dọa ai cả, mà chỉ muốn chứng tỏ cho mọi người biết có một thế giới tâm linh thật sự.
Hãy làm những việc tốt có ích cho mọi người, đừng làm những việc xấu xa, vì ở thế giới tâm linh mọi hành động của bạn đều được biết đến. Hiện tôi đang là sinh viên Năm cuối khoa Công Nghệ Thông Tin Đại Học Bách Khoa Hà Nội.
Hùng Lâm
#176
Gửi vào 08/07/2011 - 10:11
KINH NGHIỆM LẠ LÙNG
Từng chi tiết trong câu chuyện trên đây đều hoàn toàn có thật.
Lúc đó là vào tháng Hai năm 1990, tôi mới học năm đầu trường cao đẳng Oshkosh, Wisconsin. Năm đó có quá nhiều chuyện xảy ra cho tôi đến nỗi tôi đã có ý định bỏ học. Hôm đó, vì buồn bực chán nản, tôi quyết định đi dạo cho khuây khỏa tinh thần.
Cách trường tôi khoảng một dặm có một nghĩa trang. Vì đó là nơi duy nhất yên tĩnh nên tôi thả bộ đến đó. Nghĩa trang này khá rộng. Tuy vậy, miên man suy nghĩ tôi đã vào ngay giữa nghĩa trang lúc nào không hay. Khi nhìn một vòng chung quanh, tôi thấy một bé gái tóc vàng khoảng năm tuổi mặc chiếc áo đầm dạ tiệc nhăn nheo, đi chân không và không có áo choàng. Cô bé đứng cách tôi khá xa nhưng nhìn thẳng về hướng tôi và còn đưa tay vẫy tôi.
Tôi nghĩ ngay cha mẹ của cô bé phải ở gần đâu đó, bởi vì trời rất lạnh và cô không mang giày cũng không mặc áo lạnh. Phản ứng đầu tiên là tôi quay ra sau lưng nhìn coi có cha mẹ của cô không. Không có ai. Tôi quay lại hướng cũ thì không thấy cô bé đâu. Nhìn quanh cả nghĩa trang cũng không có một bóng người. Tôi lấy làm lạ, đi về hướng đó tìm sau lưng các mộ bia cũng không thấy cô bé đâu.
Trời đã chập tối, tôi bắt đầu cảm thấy ớn lạnh theo xương sống, rồi thêm cảm giác buồn nôn. Tôi vội ba chân bốn cẳng chạy về khu nội trú. Về đến nhà tôi liền kể cho bạn cùng phòng và các người bạn khác những điều tôi trông thấy. Tất cả chúng tôi cùng nhau cố tìm ra một sự giải thích hợp lý nhưng dĩ nhiên là không làm được. Mấy ngày liên tiếp, hiện tượng đó cứ ám ảnh tôi ngày đêm nhưng tôi cố gắng lơ đi. Ðến ngày thứ ba, tôi nằm mơ thấy cô bé đó, chính cô ta. Cô bé nói cho tôi biết cô tên là Clara. cô là một người trong họ hàng và là thiên thần hộ mệnh của tôi.
Hôm sau tôi gọi điện thoại cho mẹ tôi và kể lại chuyện ở nghĩa trang và giấc mơ. Tình cờ lúc đó mẹ tôi có dì tôi ở xa đến thăm hàng năm, đang ở đó bên cạnh mẹ. Khi tôi kể ra tên của cô bé trong giấc mơ, mẹ tôi thốt lên: "Chúa ơi!". Rồi mẹ tôi qua sang hỏi dì vài điều gì đó. Té ra chuyện là thế này.
Vào thời kỳ khủng hoảng đầu thập niên ba mươi, mẹ tôi còn bé lắm. Ông bà ngoại có tới mười một đứa con. Không ai sống qua khỏi sáu tuổi. Mẹ tôi là một trong ba người con sống sót qua nạn đói. Một trong tám đứa trẻ bị chết có tên là Clara. Ðó là một người dì của tôi, chết lúc năm tuổi. Dì là người duy nhất trong gia đình có tóc vàng.
ST
Từng chi tiết trong câu chuyện trên đây đều hoàn toàn có thật.
Lúc đó là vào tháng Hai năm 1990, tôi mới học năm đầu trường cao đẳng Oshkosh, Wisconsin. Năm đó có quá nhiều chuyện xảy ra cho tôi đến nỗi tôi đã có ý định bỏ học. Hôm đó, vì buồn bực chán nản, tôi quyết định đi dạo cho khuây khỏa tinh thần.
Cách trường tôi khoảng một dặm có một nghĩa trang. Vì đó là nơi duy nhất yên tĩnh nên tôi thả bộ đến đó. Nghĩa trang này khá rộng. Tuy vậy, miên man suy nghĩ tôi đã vào ngay giữa nghĩa trang lúc nào không hay. Khi nhìn một vòng chung quanh, tôi thấy một bé gái tóc vàng khoảng năm tuổi mặc chiếc áo đầm dạ tiệc nhăn nheo, đi chân không và không có áo choàng. Cô bé đứng cách tôi khá xa nhưng nhìn thẳng về hướng tôi và còn đưa tay vẫy tôi.
Tôi nghĩ ngay cha mẹ của cô bé phải ở gần đâu đó, bởi vì trời rất lạnh và cô không mang giày cũng không mặc áo lạnh. Phản ứng đầu tiên là tôi quay ra sau lưng nhìn coi có cha mẹ của cô không. Không có ai. Tôi quay lại hướng cũ thì không thấy cô bé đâu. Nhìn quanh cả nghĩa trang cũng không có một bóng người. Tôi lấy làm lạ, đi về hướng đó tìm sau lưng các mộ bia cũng không thấy cô bé đâu.
Trời đã chập tối, tôi bắt đầu cảm thấy ớn lạnh theo xương sống, rồi thêm cảm giác buồn nôn. Tôi vội ba chân bốn cẳng chạy về khu nội trú. Về đến nhà tôi liền kể cho bạn cùng phòng và các người bạn khác những điều tôi trông thấy. Tất cả chúng tôi cùng nhau cố tìm ra một sự giải thích hợp lý nhưng dĩ nhiên là không làm được. Mấy ngày liên tiếp, hiện tượng đó cứ ám ảnh tôi ngày đêm nhưng tôi cố gắng lơ đi. Ðến ngày thứ ba, tôi nằm mơ thấy cô bé đó, chính cô ta. Cô bé nói cho tôi biết cô tên là Clara. cô là một người trong họ hàng và là thiên thần hộ mệnh của tôi.
Hôm sau tôi gọi điện thoại cho mẹ tôi và kể lại chuyện ở nghĩa trang và giấc mơ. Tình cờ lúc đó mẹ tôi có dì tôi ở xa đến thăm hàng năm, đang ở đó bên cạnh mẹ. Khi tôi kể ra tên của cô bé trong giấc mơ, mẹ tôi thốt lên: "Chúa ơi!". Rồi mẹ tôi qua sang hỏi dì vài điều gì đó. Té ra chuyện là thế này.
Vào thời kỳ khủng hoảng đầu thập niên ba mươi, mẹ tôi còn bé lắm. Ông bà ngoại có tới mười một đứa con. Không ai sống qua khỏi sáu tuổi. Mẹ tôi là một trong ba người con sống sót qua nạn đói. Một trong tám đứa trẻ bị chết có tên là Clara. Ðó là một người dì của tôi, chết lúc năm tuổi. Dì là người duy nhất trong gia đình có tóc vàng.
ST
#177
Gửi vào 11/07/2011 - 11:28
CHUYỆN RÙNG RỢN Ở AMITYVILLE
Ngôi nhà nhỏ tại Amityville, Newyork, Mỹ trở nên nổi tiếng trong suốt những năm bảy mươi của thế kỷ, trước khi cặp vợ chồng chủ nhà là George and Kathleen Lutz, công bố với truyền thông hàng loạt những sự kiện kinh hoàng diễn ra tại ngôi nhà của mình. Bao gồm việc họ trông thấy những con lợn bay được với đôi mắt đỏ lừ, máu từ kẽ tường tự nhiên chảy ra, đám ruồi nổi điên tàn phá gác xép...
Căn nhà này trước đó được biết tới với câu chuyện khủng khiếp vào lúc ba giờ sáng ngày 13-11-1974, một chàng trai tên Ronald DeFeo đã nổi điên và dùng súng bắn chết cha mẹ mình, cùng bốn người anh em của cậu. Có lẽ chính sự việc này đã làm ngôi nhà bị ám ảnh bởi những thế lực thần bí nào đó. Sau hai mươi tám ngày chuyển tới và sống tại đây, gia đình Lutz đã phải bỏ đi bởi họ không thể tiếp tục chịu đựng nổi nữa.
Thực ra ban đầu họ đã được nghe kể về câu chuyện cũ, nhưng hai vợ chồng này cho rằng điều đó sẽ chẳng ảnh hưởng nhiều lắm. Quả thực thời gian đầu cuộc sống của họ diễn ra rất bình thường. Nhưng rồi một loạt chuyện kỳ lạ xảy ra:
1. George cứ thức dậy vào khoảng tầm ba giờ rưởi mỗi buổi sáng, sau này ông mới biết đây là thời gian xảy ra vụ án mạng.
2. Ngôi nhà bị đàn ruồi tấn công cho dù lúc đó đang là mùa đông lạnh giá.
3. Kathy thường xuyên mơ thấy những giấc mơ về vụ giết người. Cách thức và nơi nó diễn ra. Cô cũng cảm thấy có một thế lực vô hình ôm lấy mình.
4. Họ tìm thấy một căn phòng bí mật không có trong sơ đồ và gọi là căn phòng đỏ do màu đỏ đặc trưng trên những bức tường của nó. Con chó Harry không hiểu sao luôn gầm gừ sủa khi tới gần căn phòng.
5. Không khí quanh nhà luôn bốc lên một mùi lạnh lẽo và hôi thối dù chả có gì và cũng không có tí gió máy nào.
6. Cô con gái năm tuổi của họ thì bắt đầu tưởng tượng thấy một người bạn tên Jodie, với hình dáng một con lợn có đôi mắt đỏ sọc.
7. George thường xuyên nghe thấy những âm thanh kỳ lạ, có lúc còn bị chúng đánh thức. Tuy nhiên, mỗi lần chạy tới nơi phát ra âm thanh thì nó biến mất.
8. Một buổi tối George nhìn thấy trên cửa sổ phòng cô con gái có hai đốm đỏ sáng rực. Khi chạy lên thì không phát hiện ra gì. Cô bé nói đó là Jodie.
9. Cửa nẻo và khoá trong nhà bị phá hỏng và không rõ nguyên nhân?
10. Một thứ chất lỏng màu xanh rỉ ra từ các hốc tường và gác xép.
11. Cây thánh giá dài tới mười hai inches trong phòng, nhưng cứ quay tròn liên tục cho tới khi văng xuống đất. Từ nó bốc lên một mùi chua khó chịu.
Sau này những câu chuỵện trên đã được thu thập và viết. Một vài bộ phim cũng được mô phỏng theo. Khi được chuyển về tay chủ mới, những sự kiện tại Amityville cũng kết thúc.
ST
Ngôi nhà nhỏ tại Amityville, Newyork, Mỹ trở nên nổi tiếng trong suốt những năm bảy mươi của thế kỷ, trước khi cặp vợ chồng chủ nhà là George and Kathleen Lutz, công bố với truyền thông hàng loạt những sự kiện kinh hoàng diễn ra tại ngôi nhà của mình. Bao gồm việc họ trông thấy những con lợn bay được với đôi mắt đỏ lừ, máu từ kẽ tường tự nhiên chảy ra, đám ruồi nổi điên tàn phá gác xép...
Căn nhà này trước đó được biết tới với câu chuyện khủng khiếp vào lúc ba giờ sáng ngày 13-11-1974, một chàng trai tên Ronald DeFeo đã nổi điên và dùng súng bắn chết cha mẹ mình, cùng bốn người anh em của cậu. Có lẽ chính sự việc này đã làm ngôi nhà bị ám ảnh bởi những thế lực thần bí nào đó. Sau hai mươi tám ngày chuyển tới và sống tại đây, gia đình Lutz đã phải bỏ đi bởi họ không thể tiếp tục chịu đựng nổi nữa.
Thực ra ban đầu họ đã được nghe kể về câu chuyện cũ, nhưng hai vợ chồng này cho rằng điều đó sẽ chẳng ảnh hưởng nhiều lắm. Quả thực thời gian đầu cuộc sống của họ diễn ra rất bình thường. Nhưng rồi một loạt chuyện kỳ lạ xảy ra:
1. George cứ thức dậy vào khoảng tầm ba giờ rưởi mỗi buổi sáng, sau này ông mới biết đây là thời gian xảy ra vụ án mạng.
2. Ngôi nhà bị đàn ruồi tấn công cho dù lúc đó đang là mùa đông lạnh giá.
3. Kathy thường xuyên mơ thấy những giấc mơ về vụ giết người. Cách thức và nơi nó diễn ra. Cô cũng cảm thấy có một thế lực vô hình ôm lấy mình.
4. Họ tìm thấy một căn phòng bí mật không có trong sơ đồ và gọi là căn phòng đỏ do màu đỏ đặc trưng trên những bức tường của nó. Con chó Harry không hiểu sao luôn gầm gừ sủa khi tới gần căn phòng.
5. Không khí quanh nhà luôn bốc lên một mùi lạnh lẽo và hôi thối dù chả có gì và cũng không có tí gió máy nào.
6. Cô con gái năm tuổi của họ thì bắt đầu tưởng tượng thấy một người bạn tên Jodie, với hình dáng một con lợn có đôi mắt đỏ sọc.
7. George thường xuyên nghe thấy những âm thanh kỳ lạ, có lúc còn bị chúng đánh thức. Tuy nhiên, mỗi lần chạy tới nơi phát ra âm thanh thì nó biến mất.
8. Một buổi tối George nhìn thấy trên cửa sổ phòng cô con gái có hai đốm đỏ sáng rực. Khi chạy lên thì không phát hiện ra gì. Cô bé nói đó là Jodie.
9. Cửa nẻo và khoá trong nhà bị phá hỏng và không rõ nguyên nhân?
10. Một thứ chất lỏng màu xanh rỉ ra từ các hốc tường và gác xép.
11. Cây thánh giá dài tới mười hai inches trong phòng, nhưng cứ quay tròn liên tục cho tới khi văng xuống đất. Từ nó bốc lên một mùi chua khó chịu.
Sau này những câu chuỵện trên đã được thu thập và viết. Một vài bộ phim cũng được mô phỏng theo. Khi được chuyển về tay chủ mới, những sự kiện tại Amityville cũng kết thúc.
ST
#178
Gửi vào 11/07/2011 - 11:31
PHÙ THỦY BELL
Đây là một câu chuyện ma xuất phát từ miền nam nước Mỹ, câu chuyện về phù thuỷ Bell, gắn liền với hàng loạt sự kiện lạ thường xảy đến với dòng họ Bell, sống tại bang Tennessee, Mỹ. Câu chuyện bắt đầu vào năm 1817 khi John Bell nhìn thấy có một con vật kỳ lạ trong ruộng của nhà ông ta. Nó có phần thân của loài chó những lại có đầu của thỏ. Khi John định bắn nó thì lập tức con vật biến mất.
Sau đó là một loạt các tai hoạ ập xuống dòng họ Bell. Bắt đầu từ cô con gái Besty Bell, đột nhiên Besty luôn miệng khẳng định mình bị một thế lực vô hình tấn công. Rồi người cha John thì dần dần không nói được. Những chiếc chăn thì tự động bay ra khỏi giường, các thành viên trong gia đình bị xây xước, tóc bị giật không lý do. Gia đình ông lúc đó đổ lỗi cho việc ông đã đụng phải phù thuỷ và phải chịu phạt.
Năm 1820 John Bell mất. Bên cạnh chỗ ông nằm người ta tìm thấy một lọ dung dịch màu đen, khi cho con mèo ăn thử thì lập tức nó lăn ra chết. Sau này, người ta tin rằng linh hồn của những người dòng họ Bell vẫn còn ở đó. Năm 1936 có một người đã quyết định đến ngôi nhà của dòng họ Bell và tìm hiểu. Ông ta nói rằng có những âm thanh yếu ớt của lũ trẻ đang chơi đùa, hay tiếng nói chuyện vẫn có thể được nghe thấy.
Một giả thiết nói rằng người đã hại dòng họ Bell, chính là người hàng xóm Kate Batts, được coi như một mụ phù thuỷ. Tại bang Tennessee vẫn có một cái hang được cho là của Kate. Người ta đồn rằng đây là nơi mụ dùng để qua lại giữa âm ty và trần gian. Đến nay chiếc hang vẫn thu hút hàng ngàn lượt khách thăm quan.
ST
Đây là một câu chuyện ma xuất phát từ miền nam nước Mỹ, câu chuyện về phù thuỷ Bell, gắn liền với hàng loạt sự kiện lạ thường xảy đến với dòng họ Bell, sống tại bang Tennessee, Mỹ. Câu chuyện bắt đầu vào năm 1817 khi John Bell nhìn thấy có một con vật kỳ lạ trong ruộng của nhà ông ta. Nó có phần thân của loài chó những lại có đầu của thỏ. Khi John định bắn nó thì lập tức con vật biến mất.
Sau đó là một loạt các tai hoạ ập xuống dòng họ Bell. Bắt đầu từ cô con gái Besty Bell, đột nhiên Besty luôn miệng khẳng định mình bị một thế lực vô hình tấn công. Rồi người cha John thì dần dần không nói được. Những chiếc chăn thì tự động bay ra khỏi giường, các thành viên trong gia đình bị xây xước, tóc bị giật không lý do. Gia đình ông lúc đó đổ lỗi cho việc ông đã đụng phải phù thuỷ và phải chịu phạt.
Năm 1820 John Bell mất. Bên cạnh chỗ ông nằm người ta tìm thấy một lọ dung dịch màu đen, khi cho con mèo ăn thử thì lập tức nó lăn ra chết. Sau này, người ta tin rằng linh hồn của những người dòng họ Bell vẫn còn ở đó. Năm 1936 có một người đã quyết định đến ngôi nhà của dòng họ Bell và tìm hiểu. Ông ta nói rằng có những âm thanh yếu ớt của lũ trẻ đang chơi đùa, hay tiếng nói chuyện vẫn có thể được nghe thấy.
Một giả thiết nói rằng người đã hại dòng họ Bell, chính là người hàng xóm Kate Batts, được coi như một mụ phù thuỷ. Tại bang Tennessee vẫn có một cái hang được cho là của Kate. Người ta đồn rằng đây là nơi mụ dùng để qua lại giữa âm ty và trần gian. Đến nay chiếc hang vẫn thu hút hàng ngàn lượt khách thăm quan.
ST
#179
Gửi vào 11/07/2011 - 11:36
ĐÁM CƯỚI CỦA HAI HỒN MA
1. Một bé sơ sinh người Malaysia chết cách đây năm mươi năm và một thiếu niên chết vì bệnh thận cách đây ba mươi năm, vừa kết hôn hồi cuối tuần qua...nhờ sự mai mối của một đền thờ, trong một buổi lễ tổ chức tại hòn đảo du lịch nổi tiếng Penang. Đám cưới ma diễn ra trong Lễ hội ma đói kéo dài hết tháng bảy âm lịch. Người ta tin rằng vào dịp này, vong linh của người đã khuất được giải thoát khỏi cõi âm và lên dương gian. Và khi đó, người thân của họ trên dương gian làm cỗ và chuẩn bị những thứ họ cần để cúng, cầu siêu độ trì cho linh hồn người đã khuất.
Trong một bài báo đăng trên trang nhất, tờ Star Daily của Malaysia cho hay, chú rể Chee Yu Quan đã kết hôn với cô dâu Cheah Beng Eng trong một tiệc trà truyền thống, trong đó cô dâu và chú rể xuất hiện thông qua những hình nộm bằng giấy, xung quanh là các thành viên gia đình. Mẹ của cô dâu, bà Ong Kim Luan, bảy mươi bốn tuổi cho hay, Cheah đã bày tỏ mong muốn...lấy chồng trong lễ hội ma đói hồi năm ngoái.
- Ban đầu chúng tôi bị sốc và hơi nghi ngờ. Nhưng ngày hôm sau khi chúng tôi nhận được điện thoại từ đền thờ nói rằng "một chàng trai" muốn lấy con gái tôi thông qua bên môi giới, chúng tôi biết rằng lời thỉnh cầu đó là có thật". Bà Ong nói.
Bà Ong cho hay bên môi giới nói rằng, cặp đôi đã gặp nhau ở cõi âm cách đây hai năm và mối quan hệ của họ đã đơm hoa kết trái. Sau khi ngôi đền liên lạc với gia đình Chee để thông báo với họ về ý định kết hôn của cậu, cả hai gia đình đã gặp nhau để chuẩn bị cho đám cưới cho "đôi uyên ương".
2. Ở gần Thành Phố Quy Nhơn cách đây không lâu cũng xảy ra một vụ như vậy, một người Nam qua đời trong một vụ tai nạn cách đây bốn năm, báo mộng cho cha mẹ là muốn cưới một người và cho địa chỉ và số điện thoại. Lúc đầu hai ông bà nhà chồng không tin, nhưng lần thứ ba báo mộng thì người con trai đó nói:
- Hai ông bà mà không cưới cho tui, là tui níu chân hai ông bà xuống âm phủ luôn đó.
Thế là hai ông bà bên đàng trai liền gọi theo số điện thoại đó, thì biết được là bên nhà gái cũng có một người con gái đã qua đời cách đây hai, ba năm gì đó, và bên nhà gái ba ngày nay cũng vừa gặp mộng, thấy người con gái của mình cũng nói giống y như vậy. Thế là hai gia đình phải tổ chức đám cưới cho hai hồn ma đó.
ST
1. Một bé sơ sinh người Malaysia chết cách đây năm mươi năm và một thiếu niên chết vì bệnh thận cách đây ba mươi năm, vừa kết hôn hồi cuối tuần qua...nhờ sự mai mối của một đền thờ, trong một buổi lễ tổ chức tại hòn đảo du lịch nổi tiếng Penang. Đám cưới ma diễn ra trong Lễ hội ma đói kéo dài hết tháng bảy âm lịch. Người ta tin rằng vào dịp này, vong linh của người đã khuất được giải thoát khỏi cõi âm và lên dương gian. Và khi đó, người thân của họ trên dương gian làm cỗ và chuẩn bị những thứ họ cần để cúng, cầu siêu độ trì cho linh hồn người đã khuất.
Trong một bài báo đăng trên trang nhất, tờ Star Daily của Malaysia cho hay, chú rể Chee Yu Quan đã kết hôn với cô dâu Cheah Beng Eng trong một tiệc trà truyền thống, trong đó cô dâu và chú rể xuất hiện thông qua những hình nộm bằng giấy, xung quanh là các thành viên gia đình. Mẹ của cô dâu, bà Ong Kim Luan, bảy mươi bốn tuổi cho hay, Cheah đã bày tỏ mong muốn...lấy chồng trong lễ hội ma đói hồi năm ngoái.
- Ban đầu chúng tôi bị sốc và hơi nghi ngờ. Nhưng ngày hôm sau khi chúng tôi nhận được điện thoại từ đền thờ nói rằng "một chàng trai" muốn lấy con gái tôi thông qua bên môi giới, chúng tôi biết rằng lời thỉnh cầu đó là có thật". Bà Ong nói.
Bà Ong cho hay bên môi giới nói rằng, cặp đôi đã gặp nhau ở cõi âm cách đây hai năm và mối quan hệ của họ đã đơm hoa kết trái. Sau khi ngôi đền liên lạc với gia đình Chee để thông báo với họ về ý định kết hôn của cậu, cả hai gia đình đã gặp nhau để chuẩn bị cho đám cưới cho "đôi uyên ương".
2. Ở gần Thành Phố Quy Nhơn cách đây không lâu cũng xảy ra một vụ như vậy, một người Nam qua đời trong một vụ tai nạn cách đây bốn năm, báo mộng cho cha mẹ là muốn cưới một người và cho địa chỉ và số điện thoại. Lúc đầu hai ông bà nhà chồng không tin, nhưng lần thứ ba báo mộng thì người con trai đó nói:
- Hai ông bà mà không cưới cho tui, là tui níu chân hai ông bà xuống âm phủ luôn đó.
Thế là hai ông bà bên đàng trai liền gọi theo số điện thoại đó, thì biết được là bên nhà gái cũng có một người con gái đã qua đời cách đây hai, ba năm gì đó, và bên nhà gái ba ngày nay cũng vừa gặp mộng, thấy người con gái của mình cũng nói giống y như vậy. Thế là hai gia đình phải tổ chức đám cưới cho hai hồn ma đó.
ST
#180
Gửi vào 11/07/2011 - 11:42
HỒN MA NỮ TRONG KHU RỪNG
Hồn ma nữ trong khu rừng Bachelor, Chicago, Mỹ. Một nghĩa địa nhỏ bị bỏ rơi và có lẽ đã chìm vào quên lãng, nếu như không có trên một trăm báo cáo, về những hiện tượng lạ xuất hiện ở đây. Nơi này chưa đầy những điều huyền bí. Những bóng ma đi lại lang thang, những cây cột tự đu đưa cho tới khi bạn chạm tay vào chúng. Trên một cái ao, người ta đồn rằng đó là nơi xưa kia vứt xác những tên cướp bóc hay sát nhân vô lại, giờ chúng trở thành những linh hồn vãng lai.
Rồi cả bóng ma một người nông dân trước kia bị chết đuối do ngã từ xe ngựa xuống. Nhưng thứ người ta hay kể với nhau nhất là câu chuyện về người phụ nữ mặc áo trắng, một hình tượng ma quỷ phổ biến nhất thế giới. Người phụ nữ mặc áo trắng phải chịu đựng cuộc sống đau khổ chốn trần gian, hoặc sự phản bội của vị hôn thê mình yêu. Vì lẽ đó mà bóng ma này xuất hiện trong những đêm trăng tròn với bộ đồ trắng toát, trên tay bế theo một đứa trẻ đang khóc.
Năm 1981 tại Chicago người ta đã mở một cuộc tìm kiếm để kiểm tra tính thực hư của câu chuyên này. Hội nghiên cứu ma (GRS) đã đến và đi khắp nơi trong khu rừng để khám phá. Và điều không tưởng đã đến, với những thiết bị thường trực trong tay, họ đã may mắn chụp được bức ảnh về người phụ nữ áo trắng. Bức ảnh rõ tới nỗi khi được công bố nó đã làm nhiều người shock.
Trong ảnh một người phụ nữ với dáng vẻ buồn bã đang ngồi trên tảng đá. Năm 2004 một bức ảnh màu được công bố. Tuy không rõ như tấm ảnh trước nhưng nhiều người lại tin nó là thật hơn, bởi dù sao nó cũng mang chút gì đó huyền ảo. Người ta còn quay cả video về chuyến đi săn lùng bóng ma áo trắng.
ST
Hồn ma nữ trong khu rừng Bachelor, Chicago, Mỹ. Một nghĩa địa nhỏ bị bỏ rơi và có lẽ đã chìm vào quên lãng, nếu như không có trên một trăm báo cáo, về những hiện tượng lạ xuất hiện ở đây. Nơi này chưa đầy những điều huyền bí. Những bóng ma đi lại lang thang, những cây cột tự đu đưa cho tới khi bạn chạm tay vào chúng. Trên một cái ao, người ta đồn rằng đó là nơi xưa kia vứt xác những tên cướp bóc hay sát nhân vô lại, giờ chúng trở thành những linh hồn vãng lai.
Rồi cả bóng ma một người nông dân trước kia bị chết đuối do ngã từ xe ngựa xuống. Nhưng thứ người ta hay kể với nhau nhất là câu chuyện về người phụ nữ mặc áo trắng, một hình tượng ma quỷ phổ biến nhất thế giới. Người phụ nữ mặc áo trắng phải chịu đựng cuộc sống đau khổ chốn trần gian, hoặc sự phản bội của vị hôn thê mình yêu. Vì lẽ đó mà bóng ma này xuất hiện trong những đêm trăng tròn với bộ đồ trắng toát, trên tay bế theo một đứa trẻ đang khóc.
Năm 1981 tại Chicago người ta đã mở một cuộc tìm kiếm để kiểm tra tính thực hư của câu chuyên này. Hội nghiên cứu ma (GRS) đã đến và đi khắp nơi trong khu rừng để khám phá. Và điều không tưởng đã đến, với những thiết bị thường trực trong tay, họ đã may mắn chụp được bức ảnh về người phụ nữ áo trắng. Bức ảnh rõ tới nỗi khi được công bố nó đã làm nhiều người shock.
Trong ảnh một người phụ nữ với dáng vẻ buồn bã đang ngồi trên tảng đá. Năm 2004 một bức ảnh màu được công bố. Tuy không rõ như tấm ảnh trước nhưng nhiều người lại tin nó là thật hơn, bởi dù sao nó cũng mang chút gì đó huyền ảo. Người ta còn quay cả video về chuyến đi săn lùng bóng ma áo trắng.
ST
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
||
Xem Tử Vi - huyền "Học" - vọc phương pháp |
Gặp Gỡ - Giao Lưu | Vung |
|
|
|
Suy nghĩ với hỗn hợp nhiều môn huyền học cho lá số VNXHCN |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Huyền Cơ Phú - 玄機賦 - Ode to Mysticism - Huyền Không Tứ Bộ |
Địa Lý Phong Thủy | QuanLySo |
|
||
Kho ebook 1000 cuốn sách huyền học pdf |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | QuanLySo |
|
17 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 17 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |