“Nhâm thị: Phương pháp dụng can chi, thiên can vượng suy do địa chi sinh phù hay khắc hại, địa chi vượng suy cũng do thiên can sinh phù, khắc hại vậy. Như can giáp ất gặp dần, mão, hợi, tý tức được sinh trợ; gặp thân dậu tức bị khắc hại. Can bính, đinh gặp hợi, tý bị chế phục, gặp tị ngọ dần mão tất được sinh. Như địa chi dần, mão mà gặp can giáp, ất, nhâm, quý tức được sinh trợ; gặp canh, tân tức bị khắc bại; địa chi tị, ngọ không nên gặp nhâm, quý tức bị chế phục; mừng gặp giáp, ất, bính đinh. Can chi tương thông, can được chi sinh tức can vượng, can bị chi khắc tức can suy nhược. Chi được can sinh, tức chi mạnh lên, chi bị can khắc tức chi suy nhược vậy. Phàm mệnh tứ trụ có cát thần mà không xem là cát, có hung thần mà không xem là hung đều do nguyên nhân này.
.....................................................................
Ví dụ 40 - Giáp dần mậu thìn bính dần bính thân
Ất tị/ canh ngọ/ tân mùi/ nhâm thân/ quý dậu/ giáp tuất
Can bính toạ dần ấn thụ, sinh vào tháng quý xuân, khí hỏa có thừa, với lại gặp năm giáp dần, tất nhật chủ quá vượng. Thổ tuy đương lệnh, mà bị mộc vượng khắc, mừng gặp thân xung dần, tài tinh đắc dụng, hiềm vì can bính hỏa khắc chi thân, nên xung vô lực. Hành vận phương nam, khó khăn dị thường, đến nhâm thân, quý dậu vận trình hai mươi năm, thân kim xung dần mộc, khắc tỷ kiếp, sang nghiệp hưng gia. Trụ này tài tinh làm dụng thần”.
Nói chung phải sử dụng phần lý thuyết và ví dụ trên của chính Nhâm Thiết Tiều mới có thể tìm thấy cái sai trong bài luận của Nhâm Thiết Tiều (xin lỗi vì các bài viết trước nhầm lại cho là của Từ Nhạc Ngô).
Sửa bởi VULONG1: 09/11/2014 - 07:17