Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
TuBinhTuTru, on 31/10/2014 - 07:06, said:
Ví dụ, khôn tạo này: Quý Sửu - Kỷ Mùi - GIÁP DẦN - Đinh Mão
Nhật nguyên chữ GIÁP sinh vào tháng Mùi tàng (Kỷ chánh-khí, Đinh dư-khí, Mộ-địa của Mộc) và can Kỷ lộ lên trên tức thì mang cơ cấu mạch vi xử lý của CHÁNH TÀI CÁCH.
CÁCH-CỤC này có thành công hay không, thái quá hay bất cập tựu chung vẫn là một cách cục của người THÀNH THẬT - TRUNG HẬU - TRỌNG TÍN
Từ CÁCH-CỤC này ta xét đến Nhật nguyên GIÁP (Dương Mộc) sinh ra nhằm tháng Mùi này có phải là chu kỳ thuận lợi cho khả năng GIÁP tiếp thu CHÁNH TÀI CÁCH CỤC này không?
Mùi là Mộ-địa của GIÁP, bị chôn vùi nên có những tham vọng rất bình dị nhưng không có nghĩa không có khả năng chấp chính TÀI CÁCH vì tự thân GIÁP tọa DẦN (chuyên Lộc) lại gia thời chi là MÃO (đế vượng).
__ Đương số học ra trường với bằng cử nhân "Quản Trị Kinh Doanh" nhưng lại không làm trong công sở nào cả ...
Mùi tàng (Kỷ chánh-khí, Đinh dư-khí) mà cả 2 can này đều lộ thì ngoài CHÁNH TÀI CÁCH ra còn THƯƠNG QUAN (Đinh) nữa rõ là một người có tài (hoa, ba, trí) nên óc sáng tạo, quan sát thấu đáo, diễn đạt ý nghĩ, hay diễn cảm nghệ thuật đều không tầm thường ...
__ Đương số biết nói rất sớm, khoảng 9 tháng tuổi đã nói rất rõ câu cú từng chữ và sau đó ở Đại Vận đầu tiên (1980-1990) đã nổi tiếng trong học đường, trong âm nhạc dẫn đến việc được Viện Âm Nhạc Thành Phố đề cử đi Liên Xô tu học với bảo mẫu (của Viện chứ Mẹ ruột không được đi) nên thôi ...
Xét ra, CHÁNH TÀI CÁCH này có THƯƠNG QUAN lộ thì thuộc THƯƠNG QUAN SINH TÀI CÁCH. Khôn tạo này, nhật nguyên cường giai do Tỷ, Kiếp, Lộc, Nhận, Ấn chứ không phải nhật nguyên được lệnh rồi thêm nhiều Tỷ, Kiếp, Lộc, Nhận để xem là THÁI QUÁ.
BÁT TỰ có 8: Mộc (3) - Thổ (3) - Thủy (1) - Hỏa (1)
KHUYẾT: Kim (tuy có tàng Tân [Quan tinh] ở niên chi Sửu)
DỤNG THẦN: Thương, Thực
HỶ THẦN: Quan, Sát
Tại sao chọn dụng thần là Thực, Thương vì rằng ĐINH can lộ lại là dư-khí của Nguyệt lệnh để tiết khí nhật nguyên (đương mạnh trong BÁT TỰ) và lúc thái quá (xuyên qua Đại, Tiểu Vận).
Tại sao chọn hỷ thần là Quan, Sát vì rằng Vận hành Tây phương sang Bắc thì nếu đương số lấy chồng tuổi Thân, Dậu ắt ứng hợp vì Phu cung mang Lộc cho nhật nguyên GIÁP vậy và cũng chế bớt khi Mộc quá thịnh ... cũng như sinh Thủy hành vận Bắc phương để điều hậu Thổ khô Mộc khô ở nguyệt lệnh.
KẾT QUẢ: THƯƠNG QUAN SINH TÀI CÁCH - với QUAN, SÁT là hỷ thần nên chỉ THỦ QUÝ chứ không PHÚ.
Có khi hỏi tại sao không Thương tận Quan đi nhưng vì khuyết KIM lại vận hành Tây phương thì không thể nào thương tận và khi xét nhu yếu DỤNG THẦN thì phải kiêm luôn cả Vận trình để cân nhắc ...
__ Đương số, có Thương (biểu đạt ngôn ngữ) tọa Đào Hoa nên nói chuyện rất có duyên (ngầm), lý lẽ sắc bén (dư-khí của nguyệt lệnh), cẩn ngôn mực thước (Thổ nhiều), quan sát tinh vi (hóa Kiếp [Ất] trong Mão sinh Thương) nên qua điện đàm có thể hiểu được đối phương 75-80% và khi tiếp xúc trực tiếp có thể 90% hay trên....
__ Đương số, có Ấn [Thủy] lộ sinh trợ lại gia Tỷ, Kiếp, Lộc, Nhận [Mộc] sinh Thương [Hỏa] nên khá nóng tính, la hét nhưng chỉ đối với người thân vì muốn tốt cho họ; ngoài ra, đối với người ngoài thì không bao giờ mà chỉ (âm thầm dứt bỏ) mối quan hệ.
__ Đương số, tự thân tọa Lộc (Dần) nên trên cơ bản (Giáp -> Bính -> Mậu) kinh doanh kiếm tiền không khó và nhất là Kỷ (Chánh Tài Khí) thiên can hợp Giáp nhật nguyên nên đã tự mượn vốn Cha Mẹ mở nhà thuốc Tây sau khi tốt nghiệp trung học; bốc thuốc cho bệnh nhân rất mát tay giai do có sự quan sát (vọng, văn, vấn) cao ...
__ Đương số, Thương lộ Quan tàng và khả năng nhận định nhân cách người khác khá chuẩn nên khó có nam nhân nào lọt được vào mắt xanh nên không khỏi kén chọn cao, nhưng thực tế thì do chỉ muốn sống lo cho Mẹ mà thôi (là con chí hiếu) ...
__ Đương số, Quý-Ấn tọa Tài ở niên chi nên gia đình thuộc loại thượng lưu nhưng vì Tài tinh còn là đại diện cho người Cha thì Thủy-Thổ tương khắc nên Cha Mẹ hay cải vã dẫn đến Cha ít khi ở nhà và gần đương số ... Kỷ lộ khắc Quý nhưng bị Giáp hợp nên Mẹ còn sống và vẫn còn đang được đương số chăm lo từng miếng ăn, thức uống, y phục, giấc ngũ hằng ngày ...
__ Đương số, tuy Quan tinh tàng nhưng Phu cung lại là Lộc của Giáp nên đương số sẽ được chồng chăm sóc chu toàn hay nhờ chồng; nhưng đừng nghĩ vậy mà lầm, nếu như có ai đó không đồng quan điểm thì thà là ở không mà thôi ... cho nên, cổ thư cho rằng phụ nữ mà có chủ kiến, sở kiến riêng mạnh mẽ vậy thì cuộc sống hôn nhân khó bền - KHÔNG SAI - nhưng thử xét:
DẦN - tàng GIÁP, BÍNH, MẬU
Nhật Nguyên: GIÁP, nên cung Phu yêu cầu sự đồng quan điểm; khi mà đồng quan điểm, cùng nhìn về một hướng thì
GIÁP sinh BÍNH (Thực) - nội trợ, nấu nướng, cơm nóng, canh ngọt, lo lắng, chăm sóc đủ điều v.v..
BÍNH sinh MẬU (Tài) tình cảm càng sinh sôi nẩy nở có sự hạnh phúc dài lâu (tương sinh)
Tất nhiên, nếu cung Phu không bị HÌNH, XUNG
(to be continue)
Chào bác TuBinhTuTru!
Tôi đang nghiên cứu về Tài Quan Ấn để hy vọng toán học hóa nốt phần còn lại này nên chưa có thời gian đi sâu để luận những điều như bác luận được. Mà muốn toán học hóa được phần Tài Quan Ấn thì trước tiên tôi phải nắm được chắc chắn các kỹ năng cơ bản luận về Tài Quan Ấn (xem những thông tin nào kết hợp với nhau có thể làm cho người ta phú quý...). Do vậy hiện giờ tôi chỉ tập trung nghiên cứu các ví dụ trong các cuốn sách kinh điển như
“Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú” và
“Trích Thiên Tủy”.
Tôi không quan tâm về cách làm thế nào mà bác chỉ cần biết số lượng các can chi cùng hành trong Tứ Trụ nhiều hay ít mà xác định được Thân vượng hay nhược (vì điều này đối với tôi không cần thiết). Điều tôi quan tâm ở đây là phương pháp xác định Thân vượng hay nhược của bác có đáng tin cậy không, nghĩa là xác xuất đúng của nó có cao không, đúng bao nhiêu phần trăm?
Do vậy tôi chỉ cần bác cho biết Tứ Trụ sau (ví dụ đầu tiên trong cuốn
“Trích Thiên Tủy”) có Thân vượng hay nhược (không cần bác giải thích):
“
Chương 4: Tri Mệnh
Yếu dữ nhân gian khai lung hội, thuận nghịch chi cơ tu lý hội
Nguyên chú: bất tri mệnh giả như lung hội, tri mệnh vu thuận nghịch chi cơ năng lý hội chi, thứ khả dĩ khai thiên hạ chi lung hội.
……………………………
VD 1- Càn tạo mệnh:
Tân Mão - Đinh Dậu - ngày Canh Ngọ - Bính Tý
Đại vận: bính than/ ất mùi/ quý tỵ/ nhâm thin/ canh dần/ kỷ sửu/ mậu tý/ đinh hợi
Thiên can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng. rất cần tý ngọ gặp xung , thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng khắc phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám phương qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy (Thanh cao tông-càn long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ)“.
Kính chào.