Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
ryan88, on 24/09/2012 - 18:45, said:
Ng quen dang muon ban 1 mieng dat o SG. Nha em muon mua ma hoi lan tan do ko co giay to
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
. Them nua la hien gio em cung ko co nhieu tien. Muon mua chac phai vay ngan hang 1 it
Muon nho ba ghe voi bac Vi Te xem que gium ghe ^^
Thấy Ryan hỏi mà ba ghẻ và bác Vị Tế đi vắng chưa trả lời, chị pót trước tên quẻ nhe. Lúc nào ba ghe và bác Vị tế vào topic thì nhờ các bác giải thích dùm cho Ryan.
Ryan hỏi lúc 06h45pm ngày 24/9/2012
1. Quẻ chủ: Thủy Địa Tỉ
a. Nội dung quẻ chủ:
- Lời quẻ: Tỉ cát: Nguyên phệ, nguyên vĩnh trinh, vô cữu. Bất ninh phương lai, hậu phu hung.
- Dịch: Gần gũi thì tốt. Bói lần thứ nhì mà được như lần đầu (nguyên phệ) rất tốt, lâu dài, chính thì không có lỗi. Kẻ nào ở chỗ chưa yên (hoặc gặp trắc trở) sẽ lại với mình (hoặc mình nên vời lại); kẻ nào tới sau (trễ) thì xấu.
- Lời bàn: Quẻ này là trên đất có nước, nước thấm xuống đất, đất hút lấy nước, cho nên có nghĩa là gần gũi, thân thiết, giúp đỡ nhau. Lại thêm một hào dương cương, trung chính (hào 5) thống lĩnh năm hào âm, có cái tượng ông vua (hay người trên) được toàn thể dân (hay người dưới) tin cậy, qui phục do lẽ đó mà gọi là “tỉ”. Nhưng hào 5 đó ở địa vị chí tôn nên phải thận trọng, tự xét mình kỹ càng (nguyên phệ) mà thấy có đủ những đức nguyên, vĩnh, trinh thì mới thật không có lỗi. “Bất ninh phương lai”, Chu Hi giảng là trên dưới ứng hợp với nhau, chắc là muốn nói hào 5 (trên) và hào 2 (dưới), một dương, một âm. còn ba chữ “hậu phu hung” thì không sách nào cho biết là ám chỉ hào nào, có lẽ là hào tren cùng chăng?
b. Nội dung lời hào Quẻ chủ:
- Dịch: Hào 2, âm: Tự trong mà gần gũi với ngoài, chính đáng thì tốt.
- Lời bàn: Hào này âm nhu, đắc trung và chính, ở nội quái, ứng hợp với hào 5 dương cương cũng đắc trung và chính ở ngoại quái, cho nên nói là tự trong mà gần gũi với ngoài. Hai bên thân nhau vì đạo đồng chí hợp (cùng trung, chính cả), chứ không phải vì 2 làm thân với bề trên để cầu phú quí, như vậy là chính đáng, không thất thân, nên tốt.
2. Quẻ biến: Thuần Khảm
a. Nội dung quẻ biến:
-Lời quẻ: Tập Khảm: Hữu phụ, duy tâm hanh, hành hữu thượng.
-Dịch: Hai lớp khám (hai lớp hiểm), có đức tin, chỉ trong lòng là hanh thông, tiến đi (hành động) thì được trọng mà có công.
-Lời bàn: Tập Khảm có nghĩa là trùng khảm, hai lần Khảm. Nhìn hình quẻ Khảm ta thấy một hào dương bị hãm vào giữa hai hào âm, cho nên Khảm có nghĩa là hãm, là hiểm. Ta lại thấy ở giữa đặc (nét liền), ngoài rỗng (nét đứt), trái với quẻ Li giữa rỗng trên dưới đặc, như cái miệng lò; chỗ rỗng đó là chỗ không khí vô để đốt cháy than, củi, cho nên Li là lửa. Khảm trái với Li, chỗ nào trống thì nước chảy vào; Li là lửa thì Khảm là nước. Nguy hiểm không gì bằng nước sâu, không cẩn thận thì sụp xuống, chết đuối, nên bảo nước là hiểm. Xét theo ý nghĩa thì hào dương ở giữa, dương là thực, thành tín; vì vậy bảo là Khảm có đức tin, chí thành (hữu phu) ở trong lòng, nhờ vậy mà hanh thông. Gặp thời hiểm, có lòng chí thành thì không bị tai nạn, hành động thì được trọng mà còn có công nữa. Thoán truyện giảng thêm: Nước chảy hoài mà không bao giờ ứ lại (lưu nhi bất doanh) chỗ hiểm trở nào cũng tới, cho nên bảo là có đức tin. Lòng được hanh thông vì hai hào giữa (hào 2 và 5), đã cương mà đắc trung. Trời có tượng hiểm (vì không lên trời được); đất có tượng hiểm, tức núi sông. Các bậc vương công theo tượng trời và đất mà đặt ra những cái hiểm (tức đào hào, xây thành, đặt ra hình pháp) để giữ đất đai và sự trật tự trong xã hội. Cái công dụng của hiểm nếu hợp thời thì cực lớn. Đại tượng truyện khuyên nên theo cái đức chảy hoài không ngừng của nước mà giữ bền đức hạnh và tu tĩnh không ngày nào quên.
b. Nội dung hào quẻ biến
-Dịch: Hào 2, dương: ở chỗ nước (hiểm) lại có hiểm, mong làm được việc nhỏ thôi.
-Lời bàn: Hào này dương cương, đắc trung, có tài, trí, nhưng ở giữa thời trùng hiểm, trên dưới bị hai hào âm nhu bao vây, chưa thoát được; cho nên chỉ mong làm được việc nhỏ thôi. Hào 4 quẻ Dự (số 16) cũng là dương ở vị âm, cũng bị hai hào âm bao vây, còn kém hào 2 quẻ Khảm vì không đắc trung, vậy mà Hào từ cho là “đại hữu đắc” (thành công lớn); còn hào 2 quẻ Khảm này chỉ cầu được “tiểu đắc” thôi; chỉ vì thời khác: thời quẻ Dự là thời vui vẻ, hanh thông, thời quẻ Khảm là thời gian nan, nguy hiểm.