Jump to content

Advertisements




Minhminh kể chuyện .


793 replies to this topic

#466 minhminh

    Ban Điều Hành

  • Ban Điều Hành
  • 3867 Bài viết:
  • 24434 thanks

Gửi vào 01/05/2014 - 02:43

Hội nghị Bilderberg và âm mưu thống trị thế giới
30/06/2013 03:25

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tấm màn bí ẩn bao trùm Hội nghị Bilderberg khiến sự kiện này trở thành tâm điểm của nhiều giả thuyết về ý đồ thao túng vận mệnh toàn cầu.
Trong gần 60 năm qua, vào độ tháng 5 hoặc tháng 6, khoảng 120 - 150 nhân vật thuộc tầng lớp được xem là “tinh hoa của nhân loại” tham dự hội nghị thường niên mang tên Bilderberg để thảo luận về nhiều vấn đề từ chính trị, kinh tế đến chiến tranh. Số này bao gồm nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo chính phủ, quan chức cấp cao, cố vấn, học giả, tướng lĩnh lẫn các tài phiệt lớn nhất thế giới trong các lĩnh vực tài chính, dầu khí, truyền thông... của Mỹ và Tây Âu.

file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image002.jpg
Biểu tình phản đối Hội nghị Bilderberg 2013 trước khách sạn Grove - Ảnh: AFP



Hội nghị năm nay diễn ra từ 6 - 9.6 tại khách sạn 5 sao Grove ở Watford, Anh. Theo tờ Mirror, danh sách tham dự gồm những tên tuổi như Giám đốc Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) Christine Lagarde, lãnh đạo Google Eric Schmidt, cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger... Đại diện nước chủ nhà là Thủ tướng David Cameron, Bộ trưởng Tài chính George Osborne cùng một số nghị sĩ và doanh nhân.
Bilderberg 2013 là lần đầu tiên các chủ đề thảo luận được công bố nhưng hết sức chung chung. Trong đó bao gồm: việc làm, tăng trưởng và nợ của Mỹ cũng như châu Âu; sức mạnh của thông tin; chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa dân túy; chính sách đối ngoại của Mỹ; thách thức cho châu Phi; chiến tranh mạng; các xu hướng chính trong nghiên cứu y học; giáo dục trực tuyến; các vấn đề chính trị của EU và diễn biến tình hình Trung Đông.
Họ nói với nhau những gì? Họ muốn gì và quyết định ra sao? Hàng loạt câu hỏi đặt ra nhưng suốt bao lâu nay câu trả lời vẫn chỉ là đồn đoán. Cũng phải thôi khi báo chí không được tham gia, người tham dự không được mang theo vợ chồng hay trợ lý, còn lực lượng an ninh cả công lẫn tư lập hàng rào dày đặc “ruồi không bay lọt” bên ngoài, theo website Theinsider.org. Chuyện một nhóm nhỏ quyền lực và giàu có nhất thế giới họp bàn bí mật quả là “mỏ vàng” cho những ai ưa thích chuyện giật gân và tín đồ của thuyết âm mưu.
“Những kẻ buôn vua”
Lâu nay, biết bao người luôn bị ám ảnh bởi nghi ngờ rằng Hội nghị Bilderberg chính là nơi quyết định ai trở thành tổng thống Mỹ hay thủ tướng Anh, ai được ngồi ghế lãnh đạo IMF hay Ngân hàng Thế giới (WB) còn tranh cử với cả bỏ phiếu chỉ là những “trò lừa vĩ đại”. Luận điểm được bàn tán nhiều nhất là khi các quyền lực đen nhắm một nhân vật thích hợp, ông hay bà ta sẽ được mời tới hội nghị để thỏa thuận lẫn bàn thảo con đường sắp tới và chỉ vài năm sau đường hoàng bước lên đỉnh vinh quang.
Trong sách The True Story of the Bilderberg Group (tạm dịch: Sự thật về nhóm Bilderberg), tác giả Daniel Estulin dẫn ra một loạt “trùng hợp”: George H.W.Bush tham dự năm 1985 và trở thành Tổng thống Mỹ 3 năm sau đó. Bill Clinton có mặt năm 1991 và chỉ một năm sau đã bước vào Nhà Trắng, Tony Blair từ một thành viên không mấy nổi bật của Công đảng Anh thoắt cái trở thành Thủ tướng 4 năm sau ngày có mặt tại phòng hội nghị và còn nhiều trường hợp tương tự.
Câu chuyện đáng chú ý nhất là về kỳ họp từ ngày 5 - 8.6.2008 tại Chantilly, bang Virginia của Mỹ. Khi đó, Barack Obama và Hillary Clinton đang chạy đua quyết liệt để giành quyền đại diện đảng Dân chủ ra tranh cử tổng thống. Vào ngày 5.6, cả hai người bỗng dưng… mất tích trong vài giờ, theo Đài RT. Khoảng thời gian đó không được nhắc tới trong lịch trình tranh cử chính thức, còn truyền thông Mỹ hoàn toàn im lặng. Chỉ 2 ngày sau, bà Clinton tuyên bố rút lui. Vô số đồn đoán được đưa ra nhưng tất cả đều có chung kết luận là 2 người được vời tới Hội nghị Bilderberg để thỏa hiệp. Theo đó, sau khi đã đạt mục đích bước đầu tại Afghanistan và Iraq bằng phương pháp “hùng hổ” của Tổng thống George W.Bush và đảng Cộng hòa, các ông chủ cần phe Dân chủ chiến thắng để tiếp tục thao túng tình hình bằng “quyền lực mềm”. Vào thời điểm ấy, một tổng thống da màu có vẻ thân thiện với Hồi giáo sẽ có lợi hơn. Đổi lại, bà Clinton sẽ có vị trí xứng đáng trong chính quyền để cùng ông Obama tạo thành một “cặp đôi hoàn hảo”, theo RT.
Đế chế thứ 4
Theo những người tin vào thuyết âm mưu, Hội nghị Bilderberg nhắm tới hoàn thành giấc mộng thống trị toàn cầu của các tổ chức khét tiếng trong lịch sử như Hội Tam điểm, Illuminati cũng như Adolf Hitler và Đế chế thứ 3.
Trong The True Story of the Bilderberg Group, tác giả Estulin liệt kê các mục tiêu như tạo ra một chính phủ duy nhất ngồi trong bóng tối giật dây tất cả; xây dựng một quân đội toàn cầu với nòng cốt là NATO; tạo ra một thị trường chung bóc lột thông qua IMF, WB và WTO; kiểm soát tư tưởng cũng như lối sống bằng truyền thông, internet và chủ nghĩa tiêu thụ... Theo Estulin, những “kẻ điều khiển rối Bilderberg” đã tạo khủng hoảng dầu mỏ thập niên 1970 để nâng giá dầu, ép LHQ cấm vận Argentina trong cuộc chiến Falklands/Malvinas với Anh, gây ra chính biến “Mùa xuân Ả Rập”…
Trang TruTV còn đi xa hơn khi cho rằng những đại dịch như SARS, cúm A/H1N1… đều là “nhân tạo” hoặc bị thổi phồng để khiến cả thế giới phải “phụ thuộc vào WHO và các hãng dược”. Giáo sư Michel Chossudovsky của ĐH Ottawa (Canada), người sáng lập Viện Nghiên cứu Global Research, thì khăng khăng rằng Bilderberg 2013 vừa qua tập trung thảo luận các vấn đề: có nên tiếp tục kéo dài khủng hoảng tài chính hay như vậy đã đủ để làm đầy thêm túi tiền của các gia đình tài phiệt “siêu giàu và siêu quyền lực” cũng như khuất phục những quốc gia khó bảo, nên làm gì với Trung Quốc và kế hoạch tấn công Iran trong vòng 3 năm tới.
Vì vậy, không lạ khi năm nào cũng có biểu tình phản đối rầm rộ bên ngoài địa điểm tổ chức hội nghị dù không ít người chẳng rõ mình đang chống cái gì. Hồi đầu tháng, AP dẫn lời một người biểu tình bên ngoài khách sạn Grove nói họ đang nỗ lực ngăn chặn “những kẻ dường như đang muốn phá hủy thế giới”.
Lược sử Bilderberg
Theo BBC, Hội nghị Bilderberg được gọi theo tên nơi diễn ra cuộc họp đầu tiên từ 29 - 31.5.1954 là khách sạn Bilderberg ở làng Oosterbeek, phía đông Hà Lan. Hội nghị ra đời từ ý tưởng của chính trị gia Ba Lan Józef Retinger, Hoàng thân Hà Lan Bernhard (ông ngoại của vua Willem-Alexander hiện nay), Chủ tịch Tập đoàn Unilever Paul Rijkens, chính trị gia Anh Denis Healey và Giám đốc CIA Walter Bedell Smith. Nội dung kỳ họp năm 1954 được cho là xoay quanh các vấn đề như tăng cường quan hệ về mọi mặt giữa Mỹ và Tây Âu cũng như hợp tác đối phó Liên Xô. Theo BBC, hội nghị đóng vai trò rất quyết định trong việc hình thành EU.
Sau đó, một ban thư ký được thành lập để xử lý công việc thường vụ trong mỗi lần hội họp cũng như chọn mời ai tham dự. Tổng thư ký hiện nay là Henri de Castries, Chủ tịch Tập đoàn tài chính - bảo hiểm AXA (ông này là thành viên gia tộc de Castries danh tiếng và là họ hàng với chỉ huy lực lượng Pháp ở Điện Biên Phủ Christian de Castries). Ban thư ký còn có một vị trí cố vấn cấp cao, đang do nhà tài phiệt Mỹ David Rockefeller đảm nhận.
Dưới áp lực của dư luận đòi hỏi phải minh bạch hơn, Ban Thư ký Bilderberg đã cho lập một website mang tên Bilderbergmeetings.org chứa một số thông tin ít ỏi. Theo website này, hội nghị là “diễn đàn không chính thức và hoàn toàn riêng tư, nơi người tham dự có thể tự do thảo luận về các định hướng chủ đạo trong mọi lĩnh vực cũng như những vấn đề mà thế giới đang đối mặt. Hội nghị không có chương trình nghị sự chi tiết, không có nghị quyết, không bỏ phiếu và không có tuyên bố chính sách”.

Trọng Kha


Bản chất Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và đồng USD

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. at

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.
Không dưới một lần tôi nghe câu nói kiểu thế này (kể cả từ các giảng viên kinh tế): Việt Nam có Quân đội nhân dân, tòa án nhân dân, công an nhân dân,... tóm lại cái gì cũng "nhân dân" nhưng sao ngân hàng lại là "Ngân hàng nhà nước" (NHNN)? Sao không làm ngân hàng Trung ương (NHTW) như các nước khác?
Tôi vốn rất "gà mờ" về khoản tài chính, nên ban đầu cũng nghĩ chắc là do cách đặt tên khác nhau thôi chứ bản chất thì cũng vậy. Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu thì lờ mờ nhận ra sự khác nhau giữa chúng, đó là sự độc lập hay phụ thuộc của NHTW / NHNN đối với chính phủ (nhà nước). Thời gian gần đây, khi một loạt các ông trùm ngành tài chính tại Việt Nam bị rờ gáy, cái âm mưu thôn tính hệ thống tài chính Việt Nam của một số tài phiệt Việt bắt đầu hé lộ, thì tôi phần nào hiểu ra những "ẩn ý" đằng sau những kiến nghị của các vị trí thức nước nhà về việc chuyển đổi mô hình NHNN sang NHTW.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này,

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

giới thiệu với các bạn chân dung thực sự của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED), một ngân hàng trung ương "ẩn danh" nổi tiếng toàn cầu, được đánh giá rằng có cấp độ độc lập tự chủ cao nhất (Độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động) qua các bài viết của tác giả Ngọc Mai, đăng trên báo

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Một trong những thể chế tài chính luôn bí ẩn và là câu hỏi lớn chính là Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED). Tổng thống Woodrow Wilson, người ký dự luật Cục Dự trữ Liên bang Mỹ từng cay đắng thừa nhận: "Tôi là người bất hạnh nhất. Tôi đã vô ý hủy hoại đất nước mình. Quốc gia công nghiệp vĩ đại này bị khống chế bởi chính hệ thống tín dụng của nó... Vì thế sự phát triển của cả quốc gia và mọi hoạt động kinh tế của chúng ta đều nằm trong tay của một số ít người"...

Nguyên nhân vì sao Tổng thống Wilson trước khi qua đời lại day dứt đến như vậy? Phải chăng vẫn còn những bí ẩn đằng sau Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve System-FED) mà chúng ta chưa hiểu hết?

Vào đêm ngày 22/11/1910, một nhóm phóng viên đứng tại góc sân ga ở Hoboken, New Jersey rất chán chường. Họ đứng đó chờ đợi, chứng kiến một đoàn những chính khách và những ông trùm tài chính quốc gia rời sân ga một cách bí mật. Phải đến nhiều năm sau, đám phóng viên mới phát hiện ra thực chất nhiệm vụ bí mật trong đêm đó của nhóm người kia là gì, nhưng cả khi biết được, họ cũng không thể hiểu được lịch sử Mỹ đã có bước chuyển mạnh mẽ từ sau đêm ấy tại Hoboken.

Nhóm người đó rời đi bằng xe lửa, trong đêm tối mịt mùng, và không có đích đến rõ ràng. Dẫn đầu đoàn là thượng nghị sĩ Nelson Aldrich Chủ tịch Ủy ban Tiền tệ quốc gia, ông ngoại của Nelson Rockefeller cùng với 6 thành viên khác. Đó là A. Piatt Andrew, trợ lý Bộ trưởng Tài chính Mỹ; Frank Vanderlip, Chủ tịch National City Bank; Henry P. Davison, cổ đông cao cấp của Công ty J.P Morgan; Charles D. Norton, Chủ tịch First National Bank; Benjamin Strong, trợ lý của J.P Morgan và Paul Warburg, một ông trùm về ngân hàng gốc Do Thái đến từ Đức.

7 nhân vật sừng sỏ này được yêu cầu là phải thực hiện chuyến đi một cách thật bí mật, hiển nhiên việc "gặp gỡ nhau tại sân ga" phải hết sức tình cờ. Cụ thể là họ được yêu cầu đến sân ga cùng một thời điểm, không gặp gỡ nhau trước cái đêm ấy, và phải giả như không biết nhau. Chỉ thị đưa ra là bằng mọi giá phải tránh được tai mắt phóng viên, bởi họ là những người nổi tiếng, dĩ nhiên những người nổi tiếng khi gặp phải phóng viên thì sẽ bị ngập trong rất nhiều câu hỏi và sự đeo bám. Khá hài hước là trường hợp của Paul Warburg, một cao thủ về lĩnh vực ngân hàng, là một trong số những người đàn ông phải mang súng săn theo người ngày hôm ấy giả vờ như mình đi săn mặc dù ông ta chưa một lần sờ vào súng và khẩu súng mang theo mình chỉ là đồ đi mượn. Tất cả mục đích chỉ là để che mắt thiên hạ và báo giới.

Những thông tin trên đã đủ để tạo nên một câu chuyện mang màu sắc kỳ bí. Chiếc xe riêng của Aldrich đã đợi sẵn ngoài sân ga Brunswick, Georgia và đưa cả đoàn người đi trong bóng tối mịt mùng của Hoboken đến với đảo Jekyll. Vài năm trước đó, một hội gồm toàn những triệu phú dẫn đầu là JP Morgan đã trả tiền mà mua đứt hòn đảo này ở bang Georgia để làm nơi nghỉ đông. Họ đặt tên là "Hội Săn bắn đảo Jekyll". Đảo Jekyll lúc này được chọn là nơi để phác họa nên kế hoạch kiểm soát tiền tệ và tín dụng của người dân Mỹ, không phải chỉ bởi sự hoàn toàn cô lập của nó, mà còn là vì nó là quyền lợi cá nhân của những người tham gia phác thảo kế hoạch đó.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hội đồng Dự trữ Liên bang được thành lập 10/8/1914. Đứng ngoài cùng bên trái là Paul M. Warburg - người chịu trách nhiệm chính phác thảo kế hoạch trên đảo Jekyll.




Trước khi 7 nhân vật trong đoàn của Aldrich rời khỏi New York, các thành viên "Hội Săn bắn đảo Jekyll" được thông báo rằng câu lạc bộ sẽ được sử dụng trong vòng hai tuần kế tiếp. Lập tức họ được tạm lui. Mọi sự phục vụ vẫn được chu đáo như thường lệ trong thời hạn hai tuần nhưng đều là những "bề tôi" trung thành được đưa vào từ đất liền. Những người phục vụ này không biết tên của ai trong số những người có mặt ở Jekyll đêm đó, kể cả nếu họ có bị chất vấn sau khi nhóm người rời đi thì họ cũng không thể đưa ra bất kỳ cái tên nào. Để đảm bảo được sự bảo mật, ngay từ trước khi đặt chân lên đảo, các thành viên đã được chỉ thị không được dùng tên thật của mình trong suốt thời gian ở đây. Sau này khi nhắc lại sự kiện, bản thân những ông trùm này còn hài hước tự gọi nhóm mình dưới cái tên "hội - tên -họ", tức là chỉ dùng họ của mình mà thôi, như là Warburg, Strong, Vanderlip... Lý do cho sự bảo mật tối cao này là vì tính chất cuộc họp vô cùng quan trọng đã được ra lệnh bởi Ủy ban Tiền tệ quốc gia.

Trên thực tế, không có một "việc tốt" nào được thực hiện trên đảo Jekyll. Nơi đây dường như chỉ là nơi để họp bàn những âm mưu và bí mật. Hội của Aldrich lần này bí mật lên đảo để dự thảo pháp chế về ngân hàng và tiền tệ, việc mà Ủy ban Tiền tệ quốc gia được giao nhiệm vụ từ chính phủ để chuẩn bị. Mối đe dọa lúc đó là sự thao túng của tiền và tín dụng Mỹ. Cuộc họp tại đảo Jekyll đảm bảo rằng cái gọi là "ngân hàng trung ương" sẽ được ra đời tại Mỹ, và nó sẽ đáp ứng cho những giám đốc ngân hàng, điều mà họ từng mong ước.

Trong suốt thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nền kinh tế Mỹ chịu nhiều đe dọa từ những yếu kém của hệ thống tài chính, dẫn đến những thất bại trong hệ thống ngân hàng và hàng loạt doanh nghiệp phải phá sản. Thời điểm tháng 10-1907, khoảng một nửa các khoản tiền gửi ngân hàng ở New York đều bị các công ty đầu tư ủy thác gán nợ với lãi suất cao để đầu tư vào thị trường cổ phiếu và trái phiếu có độ rủi ro cao, thị trường tài chính rơi vào trạng thái đầu cơ tột độ. Điểm nút là khi có tin đồn Công ty Kinkerbocker Trust - công ty ủy thác lớn thứ ba nước Mỹ có nguy cơ phá sản thì khủng hoảng niềm tin lan rộng và cuộc chạy đua rút tiền gửi, bán tháo cổ phiếu xảy ra. Cuộc khủng hoảng nghiêm trọng 1907 đã thôi thúc Quốc hội Mỹ phải thành lập ngay một Ủy ban Tiền tệ quốc gia, đồng thời đã đưa ra những đề nghị thiết lập một thể chế có thể giúp ngăn ngừa và chống đỡ được những rủi ro trong lĩnh vực tài chính.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Câu lạc bộ của "Hội săn bắn đảo Jekyll" và thượng nghị sĩ Nelson Aldrich, người chủ trì cuộc họp bí mật trên đảo (ảnh nhỏ).



Bởi vậy, nhóm họp kín ở đảo trong vòng 9 ngày đầy căng thẳng và dữ dội để có thể hoàn thành phương án. Thượng nghị sĩ Aldrich, luôn luôn là người độc đoán và luôn tự cho ông ta là người dẫn đầu nhóm. Trong khi đó, khác với ông ta, Paul Warburg vốn là người rất sành sỏi trong lĩnh vực ngân hàng thì luôn giảng giải rất nhiều và chi tiết cho từng câu hỏi mà mọi người đặt ra. Henry P.Davison, nhà ngoại giao bẩm sinh như là một chất xúc tác duy trì công việc của mọi người.

Được coi là người uyên thâm nhất trong hội, Paul Warburg là người chịu trách nhiệm chính trong việc phác thảo kế hoạch. Sản phẩm của ông ta rồi sẽ được đem ra thảo luận và thông qua bởi tất cả các thành viên khác của nhóm. Thượng nghĩ sĩ Aldrich có vai trò cân nhắc sao cho kế hoạch thật hoàn hảo và kiểm tra xem kế hoạch đó có thể được Quốc hội thông qua hay không. Trong khi các thống đốc ngân hàng khác có vai trò bổ sung thêm bất kỳ chi tiết nào họ cho là cần thiết để chắc chắn rằng, họ đạt được tất cả những gì họ muốn. Mọi thứ phải được xem xét cẩn thận trước khi bản kế hoạch được hoàn thành bởi sẽ không có cơ hội thứ hai, tuyệt mật như thế, để họ có thể thực hiện lần tiếp theo.

Do cuộc khủng hoảng ngân hàng năm 1907 nên trong mắt người dân Mỹ, hình ảnh của các ngân hàng không còn mấy đẹp đẽ. Điều này khiến cho đa số nghị sĩ Quốc hội không dám công khai ủng hộ dự luật do các ngân hàng tham gia lập ra. Từ thời Tổng thống Jefferson đến nay, tên gọi của Ngân hàng Trung ương đều có dính dáng đến âm mưu của nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế Anh, vì thế Paul kiến nghị dùng tên "Cục Dự trữ liên bang" (Federal Reserve System) để che đậy tai mắt thiên hạ. Thế nhưng, Cục Dự trữ liên bang có đầy đủ mọi chức năng của một ngân hàng trung ương, và cũng giống như Ngân hàng Anh, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ được thiết kế theo kiểu tư nhân nắm giữ cổ phần, và ngân hàng sẽ thu được lợi ích rất lớn từ việc đó.

Nhằm che đậy bản chất thực của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cũng như để trả lời cho câu hỏi ai là kẻ khống chế cơ quan này, Paul đã khéo léo đề xuất ý kiến: "Quốc hội khống chế Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Chính phủ nắm giữ vai trò đại biểu trong hội đồng quản trị, nhưng đa số thành viên của Hội đồng quản trị là do Hiệp hội Ngân hàng trực tiếp hoặc gián tiếp khống chế". Về sau trong phiên bản cuối cùng, Paul đã đổi thành "thành viên của hội đồng quản trị do tổng thống Mỹ bổ nhiệm", thế nhưng chức năng chính xác của hội đồng quản trị sẽ do Hội đồng Tư vấn liên bang khống chế, và cùng với Hội đồng quản trị, Hội đồng Tư vấn liên bang sẽ định kỳ mở hội nghị "thảo luận" công việc. FED sẽ gồm có 12 "FED con" nằm ở các tiểu bang, bản chất mỗi "FED con" là ngân hàng thương mại tư nhân ở địa phương. Thành viên của Ủy ban Tư vấn liên bang sẽ do chủ tịch hội đồng quản trị của 12 nhà ngân hàng dự trữ liên bang quyết định. Điều này thực sự đã lấp liếm che đậy sự thật bên trong và che mắt được công chúng.

Một điều cần cân nhắc nữa là làm thế nào tìm ra nhân viên quản lý cho 12 ngân hàng địa phương trực thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Kinh nghiệm làm việc trong Quốc hội của Nelson Aldrich cuối cùng đã giúp ông tìm được giải pháp. Các nghị sĩ miền Trung Tây nước Mỹ thường tỏ rõ mối thù địch với Ngân hàng New York, để tránh mất kiểm soát thì tổng thống phải là người đứng ra bổ nhiệm vị trí chủ tịch ngân hàng địa phương và đó không phải là nhiệm vụ của Quốc hội. Nhưng điều này đã tạo nên một lỗ hổng pháp luật.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Điều 8 chương 1 của hiến pháp Mỹ quy định rõ rằng, Quốc hội chịu trách nhiệm phụ trách việc quản lý phát hành tiền tệ. Việc Cục Dự trữ Liên bang gạt Quốc hội ra ngoài rõ ràng đã vi hiến. Về sau, quả nhiên điểm này đã trở thành cái cớ để các nghị sĩ chĩa mũi dùi công kích Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Với sự dàn xếp chu đáo, dự luật này sau đó được xuất hiện với hình thức mô phỏng theo sự phân quyền và cân bằng kiểm soát của Hiến pháp Mỹ. Tổng thống bổ nhiệm, Quốc hội thẩm duyệt, nhân sĩ độc lập nhậm chức chủ tịch Hội đồng quản trị, còn các nhà ngân hàng đảm nhận vị trí cố vấn. Quả là một thiết kế hoàn hảo!

Với bản "dự luật" được hình thành trên đảo Jekyll, 7 nhân vật quan trọng của phố Wall tại thời điểm ấy đã bắt đầu chính thức nắm quyền khống chế đại bộ phận các ngành công nghiệp cơ bản cũng như nguồn vốn của Mỹ. Đầu mối trung tâm về vốn do họ tạo nên đang trở thành thế lực chủ yếu khống chế toàn bộ nước Mỹ và có ảnh hưởng to lớn đến cả thế giới sau này. Chính họ mới là những người thực sự điều khiển việc lập ra Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Sự phối hợp nhịp nhàng, bí mật giữa những người này với dòng họ Rothschild của châu Âu cuối cùng đã lập nên một phiên bản của Ngân hàng Anh quốc tại Mỹ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Và ngày 23/12/1913, Chính phủ dân cử của Mỹ cuối cùng đã bị quyền lực đồng tiền "lật đổ". Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson đã ký thông qua hiệp ước thành lập "Federal Reserve Act", và như thế, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chính thức ra đời .


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Những đồng đôla "vay mượn"

Rất nhiều người trên thế giới cho tới giờ vẫn nghĩ rằng quyền phát hành đồng đô-la tất nhiên thuộc về Chính phủ Mỹ, tuy nhiên trên thực tế về bản chất, Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành tiền tệ! Các nhà phân tích cho rằng, kể từ năm 1963 sau khi Tổng thống Kennedy bị ám sát, Chính phủ Mỹ cuối cùng đã mất đi quyền phát hành "đôla Mỹ bạc trắng". Quyền lực ấy đã thuộc về Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ và cách thức mà họ đã tạo ra tiền tệ là từ... không khí, chính xác hơn là dựa trên nợ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Sâu xa hơn, chính đạo luật "Federal Reserve Act" hay người ta còn gọi là "Đạo luật Nelson Aldrich" mà Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson ký ngay trước ngày Thiên Chúa giáng sinh năm 1913 đã tước bỏ hoàn toàn chức năng in tiền giấy của Chính phủ Mỹ. Và sự thật là kể từ khi FED đoạt được quyền in tờ giấy bạc này, cứ bao nhiêu tờ tiền đôla xanh in ra là người dân Mỹ phải chịu nợ FED bấy nhiêu.

Trên thế giới người ta biết đến rất nhiều loại tiền nhưng về bản chất thì được xem là chỉ có hai loại: tiền vay mượn và tiền phi vay mượn. Tiền vay mượn là tiền pháp định đang lưu thông hiện nay mà thành phần chủ yếu của hệ thống tiền tệ pháp định này là các khoản vay mượn tiền tệ hóa của chính phủ. Ngược lại tiền phi vay mượn là có vàng, bạc đảm bảo.

Trong lịch sử Hoa Kỳ đã từng có những đồng tiền "không vay mượn", thực sự được phát hành bởi chính phủ. Quan trọng nhất và là loại tiền tệ hợp pháp đầu tiên được Chính phủ Mỹ phát hành dưới thời Tổng thống Abraham Lincoln trong cuộc nội chiến giữa thế kỷ XIX chính là "Tiền xanh Lincoln" và "Chứng chỉ bạc trắng" (Silver Cerfiticate). Người ta còn gọi "Tiền xanh Lincoln" là "Giấy bạc Nhà nước Hoa Kỳ". Nhưng kể từ sau khi Tổng thống Lincoln bị ám sát thì việc phát hành loại tiền này đã bị hạn chế, tổng lượng tiền phát hành bị hạn định trong khoảng 346.681.016 đôla, thậm chí năm 1960 lượng đôla phát hành chỉ vỏn vẹn 1% tổng lượng tiền lưu thông của Mỹ.

Ngày 22/11/1963 khi Tổng thống Kennedy - vị tổng thống Hoa Kỳ nỗ lực đòi quyền nắm giữ đồng đôla bị ám sát, tiếp theo Tổng thống thứ 36 của Hoa Kỳ (1963-1969) là Lindon Johnson lên cầm quyền thì "Chứng chỉ bạc trắng" đã dần bị loại khỏi lưu thông. Thực ra trên thị trường Mỹ lúc bấy giờ vẫn tồn tại "Chứng chỉ vàng" giống với "Chứng chỉ bạc", nhưng bản chất sâu xa của "Chứng chỉ vàng" chính là nguồn gốc thống trị của những nhà tài phiệt ngân hàng khét tiếng trên thế giới. Cho tới năm 1971, mối liên hệ cuối cùng giữa vàng và đồng đôla rốt cuộc đã hoàn toàn bị cắt đứt. Kể từ đây nước Mỹ chỉ còn đồng đôla do FED phát hành mà thôi.

Để có thể hiểu rõ hơn, chúng ta ngược lại thời kỳ trước năm 1971 để tìm hiểu về "bản vị vàng". Ta biết rằng, tiền tệ là thước đo căn bản nhất của nền kinh tế, mọi thứ đều có thể đo lường bằng tiền tệ và tiền tệ cũng là phương tiện tích lũy giá trị của người dân. "Bản vị vàng" được hiểu là chế độ tiền tệ mà phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn được ấn định bằng hàm lượng vàng. Dưới chế độ bản vị vàng, tổ chức phát hành tiền mặt (ở dạng giấy bạc hay tiền xu) cam kết sẵn sàng nhận lại tiền mặt và trả vàng nếu được yêu cầu. Các chính phủ sử dụng thước đo giá trị cố định này nếu chấp nhận thanh toán cả tiền mặt của chính phủ nước khác bằng vàng sẽ có liên hệ tiền tệ ấn định (lượng tiền mặt lưu hành, tỉ giá quy đổi...). Những người ủng hộ chế độ bản vị vàng cho rằng, hệ thống này đề kháng được sự bành trướng tín dụng và nợ nần. Đồng tiền được bảo đảm bằng vàng sẽ không cho phép chính phủ tùy tiện in tiền giấy, điều này ngược lại với chế độ bản vị tiền giấy.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Kể từ khi hệ thống tiền tệ nước Mỹ tách ra khỏi sự ràng buộc của vàng thì cho tới nay đồng đôla Mỹ đã giảm giá tới khoảng 94%. Đồng đôla Mỹ giờ đây không còn là đồng tiền dự trữ hữu hiệu và an toàn nữa vì nền kinh tế Mỹ đang suy yếu, tổng nợ nước Mỹ đã tăng quá cao. Sự khác nhau căn bản giữa "bản vị vàng" và "bản vị đôla", đó là không có sự đảm bảo đổi lại với đồng tiền nội địa. Mức cung tiền nội địa của Anh, Pháp hay bất kỳ một quốc gia khác không cần có mối liên hệ với đồng đôla Mỹ.

Mặt khác, vì Mỹ có thể "in" tiền đôla để chi trả nợ và một khi các quốc gia khác đã có một lượng dự trữ đôla ổn định thì nền kinh tế thế giới sẽ tràn ngập đôla, tất yếu lạm phát sẽ xảy ra. Dưới chế độ bản vị vàng, lượng cung ứng tiền sẽ chỉ tăng cùng với lượng vàng khai thác được nên cả nền kinh tế thế giới sẽ ít chịu lạm phát.

Vậy quá trình "sản suất" đồng đôla của FED ra sao? Quả thật, công đoạn biến hóa từ công trái thành đôla là một quá trình tuy không hẳn phức tạp nhưng bản chất hết sức tinh vi, ngoài những người có chuyên môn thì những ai muốn hiểu rõ được cần phải có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực tiền tệ tài chính. Có thể tóm tắt chu trình như sau: Muốn có được đồng đôla, Chính phủ Mỹ cần phải đem công trái của người dân Mỹ thế chấp cho FED, lúc này "phiếu dự trữ liên bang" (Federal Reserve Note) do FED phát hành chính là đồng đôla Mỹ.

Theo như Ngân hàng New York của FED miêu tả thì "đồng đôla không thể hoàn đổi thành vàng hay bất cứ tài sản nào khác của Bộ Tài chính Mỹ. Nó không mang ý nghĩa thực tế mà chỉ có tác dụng ghi nợ... Ngân hàng chỉ tạo ra tiền tệ khi được người đi vay cam kết hoàn trả các khoản vay của ngân hàng. Ngân hàng thông qua "tiền tệ hóa" các khoản nợ thương mại và tư nhân để tạo ra tiền tệ".

Còn theo sự giải thích của Ngân hàng Chicago thuộc FED thì: "Ở Mỹ, bất luận tiền giấy hay là tài khoản ngân hàng đều không có đủ giá trị nội tại như một loại hàng hóa nào. Đồng đôla Mỹ chẳng qua chỉ là một tờ giấy. Còn tài khoản ngân hàng cũng chỉ là những con số ước lượng ghi trên giấy"!

Cuối cùng ta có thể hiểu rằng, đồng đôla không có giá trị thực. Nó chỉ là một ví dụ kinh điển của đồng tiền pháp định với số lượng không giới hạn và có thể được in ấn vô tội vạ bởi FED mà thôi.


Trò ảo thuật của FED

Rõ ràng là việc đem thế chấp công trái để lấy đôla sẽ làm cho chính phủ phải chi trả cho FED một khoản lợi tức từ số công trái đó. Vì thế khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về tiền tệ tăng cao thì Chính phủ Mỹ tất yếu phải thế chấp càng nhiều công trái cho FED và số tiền lãi sẽ ngày càng phình to không giới hạn. Việc thanh toán đầy đủ các khoản nợ lãi suất cho FED được đảm bảo bằng số tiền đóng thuế của người dân Mỹ trong tương lai, thực tế số tiền thuế này vẫn chưa được người dân Mỹ kiếm ra để nộp cho chính phủ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Như vậy, bản chất ở đây là khi nhu cầu tiền tệ tăng lên thì số tiền nợ của chính phủ cũng tăng, cho đến khi áp lực lãi suất của món nợ ấy vượt quá sự phát triển của nền kinh tế sẽ dẫn đến sự sụp đổ của đồng đôla Mỹ!

Một lỗ hổng chết người trong luật pháp ban hành ở nước Mỹ là chính phủ chỉ phát hành tiền đồng kim loại, còn tiền giấy thì chỉ là tờ chứng nhận trao đổi. Những bộ óc khổng lồ với tư duy minh triết, uyên thâm tại cuộc họp bí mật trên đảo Jekyll chấp bút đã làm ra một dự thảo chết người mang hơi hướng một phiên bản của hai gia tộc khét tiếng Rockefeller và JP Morton ở châu Âu vào nước Mỹ. Điều gì có lợi cho các tập đoàn tài phiệt đến ắt phải đến. Từ đây mọi sức khỏe của kinh tế trên thế giới đã thuộc về tay các ông trùm tài phiệt toàn cầu.

"Đạo luật Nelson Aldrich" đã dẫn nước Mỹ và nhân loại sang một trang mới của lịch sử. Trước tiên là một bước ngoặt thay đổi về bản chất về quyền lực nắm giữ đồng tiền. Từ khi ra đời đến nay, FED lộ rõ bản chất là ngân hàng trung ương tư hữu và Chính phủ Mỹ đã không còn cổ phần trong FED. Khi chính phủ muốn chi tiêu quá phần tiền thu thuế từ dân Mỹ thì chính phủ phải vay tiền từ FED thông qua FED in thêm tiền. Quốc hội có nhiệm vụ khống chế FED nhưng trên thực tế điều này dường như thể hiện ngược lại.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Cục Dự trữ liên bang Mỹ về hình thức là của Chính phủ Mỹ, nhưng bản chất là của các nhà tài phiệt mà thôi. Sự lấp liếm và lách luật của nhóm dự thảo trên đảo Jekyll mà Paul Warburg là bộ óc tài tình chấp bút mới có thể thiết kế hoàn hảo đến như vậy!

Rốt cuộc FED là tổ chức duy nhất được phép in tiền giấy Mỹ kim. Chính phủ Mỹ chỉ được phép đúc tiền đồng Mỹ kim từ giá trị 1 đôla hoặc nhỏ hơn. Mỗi lần FED in thêm tiền USD bao nhiêu thì Chính phủ Mỹ, hay nói cách khác là người dân Mỹ, phải nợ FED bấy nhiêu tiền. FED đã áp dụng một cơ chế có tên gọi Mandrake mà theo đó có thể phù phép biến nợ thành tiền. Mức lãi suất trên các khoản vay được coi như một kiểu cho vay nặng lãi được thể chế hóa bởi FED.

Sản phẩm của cơ chế này là sự mở rộng nguồn cung tiền tệ một cách giả tạo hay còn gọi là lạm phát. Như thế, người dân Mỹ đang gánh chịu một sự bất công lớn nhất thế giới, người dân đã bị chính phủ thế chấp tương lai của mình vào trong tay các nhà tài phiệt ngân hàng một cách vô thức, họ phải ra sức đóng thuế để chính phủ còn có tiền trả lãi cho FED. Hóa ra, lượng phát hành đôla càng lớn thì thuế má càng đè nặng trên vai người dân. Cái vòng luẩn quẩn ấy sẽ tồn tại và tiếp diễn, vay nợ, vay nợ... cho đến ngày mà Chính phủ Mỹ trả hết nợ thì đồng đôla cũng... biến mất!

Rõ ràng việc FED phát hành ra tiền từ chỗ họ không có gì trong tay và thu được tiền lãi khổng lồ từ Chính phủ Mỹ là một trong những sự thật vô lý hằng ngày đang hiển hiện. Một điều quan trọng nữa là cũng chính từ "đạo luật Nelson Aldrich", FED được quyền làm tăng hay giảm giá đồng Mỹ kim và các ngân hàng thương mại có quyền bơm tiền vào thị trường hay thu tiền vào lại ngân hàng một cách tự do. Như thế, giống như một trò ảo thuật, các ông trùm mới là người bày ra luật chơi thổi phồng cái bong bóng kinh tế hoặc chích quả bóng để tạo ra những cái gọi là"cuộc suy thoái chủ động"!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

: FED là người đặt hàng, còn việc in tiền đơn thuần về mặt kỹ thuật được tiến hành tại xưởng in đặc biệt của Bộ Tài chính. FED sau đó sẽ mua lại số tiền theo giá bằng với chi phí in của chúng – tức là khoảng 6 xu cho một tờ giấy bạc – và sau đó phân phối chúng cho các cơ quan tài chính trong và ngoài nước.


Chi tiết:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Doi-Mat.vn
Follow us:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn





Câu lạc bộ Bilderberg – một “chính phủ bí mật của thế giới”?

Tổng hợp

03:59' PM - Thứ bảy, 15/03/2014

Cái gọi là Câu lạc bộ Bilderberg được coi là nơi tập hợp của những nhân vật giàu có và có ảnh hưởng nhất hành tinh – từ lâu nay vẫn được bao phủ trong một lớp màn bí mật. Những ảnh hưởng đặc biệt của CLB này đối với nhiều vấn đề toàn cầu đã khiến nhiều người phải mệnh danh nó là “một chính phủ bí mật của thế giới”.

Cuộc họp đầu tiên của CLB bí mật trên đã diễn ra tại khách sạn Bilderberg (Hà Lan) vào tháng 5-1954, và đó cũng là lý do khiến cho CLB mang cái tên trên. Từ thời điểm đó cho tới nay, một nhóm các công dân có “ảnh hưởng nhất” của CLB này vẫn tụ họp mỗi năm một lần tại các địa điểm khác nhau trên thế giới. Hạt nhân của CLB là những thành viên thường xuyên, những người luôn tham gia họp mặt đầy đủ mỗi năm (theo một số nguồn tin khác nhau, tổng số hội viên CLB này có khoảng từ 80-130 người). Một phần ba trong số này là các chính trị gia có ảnh hưởng trên thế giới, số còn lại thường đại diện cho giới công nghiệp, tài chính và khoa học.

Theo một số nguồn tin, trong hàng ngũ các thành viên của CLB Bilderberg hiện đang có Tony Blair, Margaret Thatcher, Angela Merkel, Bill Clinton, George Soros, Donald Rumsfeld, Rupert Murdoch, những quan chức đứng đầu các tập đoàn như Coca-Cola, hay Daimler-Chrysler, IBM cũng như lãnh đạo Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), EU, những tập đoàn truyền thông đại chúng hàng đầu thế giới… Ngoài các thành viên chính thức, những phiên họp hàng năm của CLB cũng có thể mời thêm một số vị khách, thông thường là những chuyên gia trong các lĩnh vực được quan tâm.

file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image018.jpgNhư theo từ điển bách khoa toàn thư Britannic, những cuộc họp của CLB Bilderberg đều mang tính chất không chính thức và không khách khí: những nhân vật có anh hưởng đối với quốc gia của mình và cả những vấn đề quốc tế đều có thể tiếp cận với nhau gần gũi hơn, bàn bạc về các vấn đề chung mà không cần phải đưa ra những cam kết. Sau mỗi một cuộc gặp, CLB sẽ có một báo cáo không chính thức chỉ phổ biến trong hàng ngũ những thành

viên hiện tại và trong quá khứ.

Tất cả những cuộc họp của CLB trên đều diễn ra trong điều kiện bí mật hoàn toàn theo những giấy mời cá nhân đặc biệt. Tất cả những vị khách đều tới địa điểm họp một mình, không được mang theo bất cứ một trợ lý, vệ sĩ, bạn bè hay người nhà nào. Theo nguyên tắc, các đại biểu bị ngăn cấm các hình thức ghi chép, đưa ra tuyên bố với báo chí hay bàn luận về nội dung họp với người bên ngoài.

Bất chấp những đặc điểm cực kỳ bí mật như vậy, mỗi một cuộc gặp của CLB Bilderberg đều thu hút được sự chú ý đặc biệt. Đơn giản là báo chí và công chúng không thể bỏ qua sự kiện thu hút một số lượng lớn những nhân vật nổi tiếng và có ảnh hưởng cùng tới một địa điểm nào đó. Cũng chính vì đặc điểm quá bí mật trên, hoạt động của CLB Bilderberg đã làm nảy sinh không ít những giả thuyết khác nhau, đa phần trong số này đều cho rằng các thành viên CLB đang bí mật điều hành cả thế giới.

Một số nhà quan sát còn cho rằng, chính cơ quan mật vụ Mỹ là người khởi xướng trực tiếp cho việc hình thành CLB này. Theo đó, những người sáng lập thực sự chính là nam tước Edmund Rothschild và Laurance Rockefeller, những thành viên đầu tiên của CLB. Cũng theo khẳng định của nhà quan sát này, một trong những mục tiêu chính được đặt ra ngay sau khi thành lập CLB chính là xây dựng một siêu quốc gia của toàn châu Âu với ngân hàng Trung ương, tiền tệ thống nhất dưới sự kiểm soát của Mỹ. Còn mục tiêu cuối cùng là thành lập một chính phủ liên quốc gia có quy mô toàn cầu.

Năm nay, sự chú ý của toàn thế giới lại tập trung vào thị trấn nghỉ mát Sitges gần Barcelona (Tây Ban Nha), nơi được chọn làm địa điểm gặp gỡ lần này của các thành viên CLB Bilderger. Ngay trước cuộc gặp này, một trong những nhà nghiên cứu nổi tiếng nhất về CLB trên là Daniel Estulin đã khẳng định, ông biết về các chủ đề sẽ được bàn bạc trong cuộc gặp lần này. Chủ đề hàng đầu trong số này chính là tương lai của đồng euro. “Họ sợ sẽ có một vài nước rút khỏi khu vực đồng euro, khiến đồng tiền này sẽ bị chết yểu – Estulin giải thích – Nguy cơ các nước quay trở lại với chính sách định hướng dân tộc chính là một cơn ác mộng đối với họ”.

Giả thuyết trên có thể được lý giải bằng sự hiện diện và phát biểu của Thủ tướng Tây Ban Nha Luis Zapatero. Hiện các nước trong nhóm PIIGS – gồm Bồ Đào Nha, Ailen, Italia, Hy Lạp và Tây Ban Nha – đang gây ra những lo ngại thực sự cho các thành viên CLB Bilderger. Họ lo ngại tình trạng yếu đi của đồng euro có thể sẽ khơi mào cho một làn sóng khủng hoảng toàn cầu mới, có thể dẫn tới những biến đổi nghiêm trọng về tình hình chính trị trên toàn cầu.

file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image002.jpgHiện cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger (87 tuổi) và cựu Chủ tịch David Rockerfeller của Chase Manhattan Bank là những thành viên nhiều tuổi nhất của CLB. Còn trong danh sách những nhân vật được mời trong năm đã xuất hiện những nhân vật tương đối trẻ, chẳng ahnj như Bộ trưởng Tài chính Anh George Osborn (39 tuổi).

Những người chống đối tổ chức này tin rằng, bên trong Bilderberg chính là một âm mưu từ lâu nay của các ông trùm tư bản nhằm chống lại loài người. Có không ít những nhà hoạt động chống lại CLB Bildergerg đã tụ tập tại Sitges. Ngoài hoạt động biểu tình phản đối, họ hy vọng còn có thể khai thác được thông tin giúp làm rõ được những kế hoạch bí mật của hội kín trên.
Tập đoàn tinh anh thống trị thế giới
Ngày 16 tháng 7 năm 1992, ngay sau khi được đề cử cho cuộc tranh cử tổng thống tại đại hội đảng Dân chủ, Clinton đã phát biểu hết sức dõng dạc về tinh thần đoàn kết, lý tưởng, nhân dân và đất nước bằng những lời chẳng có gì mới mẻ. Nhưng khi kết thúc bài diễn văn, đột nhiên Clinlon nhắc đến người thầy của mình - vị giáo sư sử học nổi tiếng nhất nước Mỹ giảng dạy tại Đại học Georgetown, Carroll Quigley. Ảnh hưởng của Carroll Quigley đối với Clinton được chính Clinton ví như sự ảnh hưởng của Tổng thống Kennedy đối với ông ta vậy(2) Và trong suốt thời gian làm tổng thống sau này của mình, Clinton đã nhiều lần nhắc đến tên của Carroll Quigley. Vậy chủ trương gì của Carroll Quigley đã khiến cho Clinton phải khắc cốt ghi tâm đến thế?
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image004.jpgThực ra, Quigley là một nhân vật có ảnh hưởng lớn trong việc nghiên cứu tổ chức tinh anh bí mật Anh - Mỹ. Ông luôn cho rằng những tổ chức bí mật này đã có ảnh hưởng quyết định đến hầu hết mọi sự kiện trọng đại trên thế giới.
Tốt nghiệp Đại học Harvard, giáo sư Quigley từng đảm nhận các vị trí ở Cục Tham mưu Brooklings, Bộ Quốc phòng, Bộ Hải quân Mỹ và có mối quan hệ rất mật thiết với các quan chức cấp cao trong Cục Tình báo Trung ương. Với vai trò của một "người trong cuộc", Quigley đã từng tiếp xúc với rất nhiều tài liệu lịch sử và hồ sơ tuyệt mật. Tuy nhiên, ông không tỏ ra là người chống đối "lý tưởng" mà số rất ít các tinh anh thống trị của Anh - Mỹ đã sắp đặt ra cho toàn thế giới, mà chỉ luôn giữ thái độ "bảo lưu" đối với một số cách làm cụ thể trong đó, rồi thêm vào đó là những nhận xét đầy hàm ý trong các nghiên cứu của mình. Chính thái độ đó nên ông không hề gặp phải sự "thắc mắc" nào của các học giả thuộc dòng "chủ lưu". Ngoài ra, với hơn 20 năm làm công việc nghiên cứu, được tiếp xúc với một lượng lớn các hồ sơ lịch sử tuyệt mật nên ông được giới sử học Mỹ đánh giá cao. Chính những điều đó khiến ông hiếm có đối thủ khiêu chiến. Chỉ cần học thuyết của ông không nguy hiểm cho giới cầm quyền thì những người trong nhóm tinh anh cũng sẽ chẳng việc gì phải đụng đến ông.
Tốt nhất là chúng ta nên thiết lập một “lâu đài trật tự thế giới” từ dưới lên, chứ không phải là xây ngược lại từ trên xuống. Bởi rốt cuộc thì cái gọi là chủ quyển quốc gia có thể dùng biện pháp xâm chiếm từng bước để giành được. Việc làm này sẽ cho phép chúng ta đạt được mục đích của mình nhanh hơn so với những cách làm cũ. (1)
Richard Garner – Tạp chí “Các vấn đề quan hệ quốc tế”, tháng 4 năm 1974
Theo quan điểm của giáo sư Quigley, Viện Hoàng gia về các vấn đề Quốc tế ở Anh, Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ (CFR), nhóm Bilderberg, ủy ban ba bên (Trilateral Com mission) rõ ràng là những tổ chức hạt nhân của câu lạc bộ tinh anh luôn muốn thao túng cục diện thế giới. Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ có 3.600 thành viên, tương đương với "trường đảng trung ương" của Mỹ. Và việc gia nhập vào tổ chức này thì cũng giống như việc bước vào đại sảnh của chính giới Mỹ hay cơ hội để trở thành người hoạch định chính sách của thế giới tương lai. Nhóm Bilderberg kết hợp thêm các phần tử tỉnh anh của châu âu, còn ủy ban ba bên có đen 325 thành viên, lại thêm các phần tử tinh anh của Nhật Bản và các quốc gia chầu Á khác. Tất cả những thành viên có tiếng nói trong Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ thì thường là thành viên của các tổ chức khác. Các nhân vật tinh anh trong những tổ chức này bao gồm những nhân vật có thế lực đủ để làm xoay chuyển cục diện thế giới như Henry Kissinger - cựu Bộ trưởng ngoại giao Mỹ, D. Rockefeller của ủy ban quốc tế JP Morgan, Nelson Aldrich Rockefeller, hoàng tử Phillip của Anh, McNamara - Bộ trưởng quốc phòng Mỹ thời Tổng thống Kennedy và sau này là Giám đốc điều hành của Ngân hàng thế giới, bà Thatcher - cựu Thủ tướng Anh, Valéry Giscard d'Estaing - cựu Tổng thống Pháp (chính là người đã lên kế hoạch cốt yếu về hiến pháp châu Âu), Donald Rumsfeld - Bộ trưởng quốc phòng Mỹ, Brzezinski - cựu cố vấn an ninh quốc gia, Alan Greenspan - Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, và Keynes - nhân vật nổi tiếng trong giới ngân hàng một thời. Ông chủ Ngân hàng quốc tế chính là ông chủ đứng đằng sau tất cả những tổ chức này. Dòng họ Rothschild đã chủ từ rất nhiều hội nghị của Bilderberg. Năm 1962 và năm 1973, hội nghị Bilderberg diễn ra ở địa điểm nghỉ mát nổi tiếng ở Thụy Điển do dòng họ Warburg đứng ra tổ chức.
Thời đại học, dưới sự hướng dẫn và chỉ bảo của giáo sư Quigley, Clinton đã nhận ra rằng, nếu muốn hiển danh trong chính giới thì không chỉ cần nỗ lực phấn đấu mà còn phải trở thành một thành viên trong guồng máy quyền lực.
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image006.jpgQuả nhiên, sau này Clinton đã gia nhập ủy ban ba bên và Hội đồng Quan hệ Quốc tế đồng thời tham gia lớp "học giả Rhodes" - một nơi chuyên đào tạo, bồi dưỡng nên những "cán bộ" quan trọng của "chính phủ thế giới" trong tương lai. Năm 1989, Clinton đã gia nhập Hội đồng Quan hệ Quốc tế Và tới năm 1991, khi giữ chức Thống đốc bang Arkansas, Clinton đã xuất hiện tại hội nghị thường niên của nhóm Bilderberg tổ chức tại Đức. Phải thừa nhận rằng đã có rất nhiều thống đốc các bang lớn ở Mỹ rất muốn tham gia cuộc "tụ hội tinh anh siêu cấp" này. Và chỉ sau một năm, Bill Clinton - Thống đốc bang Arkansas xa xôi chẳng mấy tiếng tăm - đã đột nhiên đánh bại nhiều chính trị gia cáo già để lên làm Tổng thống. Đó chính là lý do vì sao Clinton luôn khác cốt ghi tâm những lời chỉ bảo của giáo sư Quigley.


Câu lạc bộ Bilderberg
Nếu như những năm đó công khai mọi điều cho công chúng biết thì chúng ta đã không thể hoạch định kế hoạch phát triển cho thế giới. Mà hiện nay, thế giới ngày càng phức tạp, còn chúng ta thì chuẩn bị tiến bước mạnh mẽ để trở thành chính phủ thế giới. Bởi những người nắm giữ chủ quyền siêu quốc gia đều là các tầng lớp ưu tú và các ông chủ ngân hàng thế giới nên điều tốt hơn là chúng ta nên tổ chức lấy quyền tự quyết quốc gia trong thực tế hơn là cách làm cũ trong quá khứ như nhiều thế kỷ trước.(4)
John Davison Rockefeller, năm 1991
Câu lạc bộ Bilderberg được lấy tên từ một khách sạn của Hà Lan, do ông hoàng người Hà Lan, Bernhard sáng lập vào năm 1954. Câu lạc bộ Bilđerberg là "phiên bản quốc tế" của Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ, do các nhà tài phiệt ngân hàng, chính trị gia, lãnh đạo doanh nghiệp, các nhà báo và các học giả nổi tiếng tạo nên. Tất cả các thành viên này đều do Rothschild và Rockefeller chọn ra. Trong đó rất nhiều người còn là thành viên của Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ, hiệp hội Pilgrims Society, hiệp hội bàn tròn, và cả Ủy ban ba bên. Câu lạc bộ Bilderberg này hầu như đã kiểm soát hết toàn bộ hệ thống tổ chức của hiệp hội châu Âu hiện có trong liên minh châu Âu. Mục đích cuối cùng của họ chính là xây dựng một chính phủ thế giới. (5)

Cuộc họp đầu tiên của CLB tại Hà Lan, 1954

Đặc điểm hoạt động lớn nhất của tổ chức này chính là "bí mật".
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image008.jpgCơ quan đầu não của tổ chức này đặt tại Leiden thuộc miền tây Hà Lan, có cả số điện thoại nhưng lại không có mạng lưới. Chỉ rất ít các thám tử tự do như Tony Gosling của Anh hay James Tucker của Mỹ phải mất rất nhiều công sức và cả sự mưu trí mới có thể thu thập được những thông tin có liên quan đến địa điểm và lịch trình hội nghị của câu lạc bộ này. Suốt 30 năm, Tucker đã theo dõi câu lạc bộ này và cuối cùng đã xuất bản một cuốn sách nói về nó. Còn nhà sử học Pierre de Villemarest và William Wolf đã cộng tác cùng nhau để xuất bản cuốn sách "Facts and Chronicles Denied to the Public", trong đó tập 1 và 2 đã miêu tả lịch sử phát triển bí mật của câu lạc bộ Bilderberg. Một cuốn sách khác do nhà xã hội học Geoffrey Geuens của Vương quốc Bỉ viết cũng có một chương tập trung miêu tả về câu lạc bộ này.
Etienne Davignon - cựu Phó chủ tịch ủy ban châu Âu, thành viên của câu lạc bộ Bilderberg - đã khẳng định rằng: “Đây không phải là âm mưu thao túng thế giới của các nhà tư bản”. Còn Thierry de Montbrial - Viện trưởng Học viện quan hệ quốc tế Pháp, gia nhập câu lạc bộ này đã gần 30 năm thì nói rằng, đây chẳng qua chỉ là một “câu lạc bộ” mà thôi. Sở dĩ những người này có những lời phát biểu như trên vì trong thông báo chính thức hội nghị năm 2002 của câu lạc bộ Bilderberg có đoạn nêu: “hoạt động duy nhất của câu lạc bộ là tiến hành hội nghị thường niên. Hội nghị này không đề ra bất cứ nghị quyết nào, cũng không tiến hành bỏ phiếu, không phát biểu thanh minh bất cứ chính sách nào.” Và câu lạc bộ Bilderberg chỉ là “một diễn đàn quốc tế nhỏ linh hoạt không chính thức. Các đại biểu tham gia hội nghị có thể phát biểu mọi quan điểm khác nhau, để tăng cường hiểu biết giữa các bên.”
Nhưng theo Will Hutton - nhà kinh tế học người Anh thì “ý kiến thống nhất đạt được trong mỗi lần hội nghị của câu lạc bộ Bilderberg" chính là đoạn mở đầu lập ra chính sách thế giới”. Cách nói của ông thể hiện sự tiếp cận với sự thật ở mức độ tương đối bởi những quyết định được đưa ra tại hội nghị của câu lạc bộ Bilderberg về sau đều dần trở thành phương châm định trước của các nước thuộc hiệp hội G8, Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới.
Đối với câu lạc bộ Bilderberg, giới truyền thông luôn tỏ ra im lặng và phục tùng. Năm 2005, tờ Financial Times đưa tin trước rồi sau đó giải quyết theo hướng làm giảm nhẹ "thuyết âm mưu" đang gây xôn xao dư luận. Trên thực tế, bất cứ ai có chất vấn hay nghi ngờ người của câu lạc bộ hùng mạnh nhất thế giới này đều sẽ bị biến thành đối tượng bị đàm tiếu trong các "tác phẩm" của những phê bình lý luận. Các thành viên của câu lạc bộ Bilderberg như các nghị sĩ Anh hoặc những quan chức cao cấp Mỹ thì đều nói rằng, chẳng qua đó chỉ là một nơi để bàn luận vấn đề, một diễn đàn mà người người đều có thể "tự do phát biểu ý kiến".
F. William Engdahl, tác giả cuốn "Cuộc chiến trăm năm: chính trị dầu mỏ Anh - Mỹ và cuộc đại chiến thế giới mới", đã giải thích tỉ mỉ một đoạn bí mật mà rất ít người biết từng xảy ra trong hội nghị Bilderberg khi được tổ chức ở Thụy Điển năm 1973.
Trong những năm đầu sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ, vị thế của đồng đô la Mỹ đã rơi vào khủng hoảng chưa từng thấy trên phạm vi toàn thế giới. Sau khi tách khỏi vàng, sợi dây diều uy tín và giá trị của đồng đô la Mỹ đã bị cắt đứt và bị cuốn trôi đi theo gió trong cơn bão táp tài chính thế giới. Vì vẫn còn chưa bàn xong kế hoạch chuẩn bị cho hệ thống tiền tệ thế giới, các ông chủ ngân hàng quốc tế cũng trở nên bối rối. Chính sách "quyền rút vốn đặc biệt" được đề ra “long trọng” trên thị trường tài chính quốc tế năm 1969 nhưng chẳng ai đếm xỉa đến. Thấy sắp mất quyền kiểm soát, các ông chủ ngân hàng quốc tế đã vội triệu tập một hội thảo khẩn cấp trong hội nghị Bilderberg năm 1973 nhằm giành lại quyền kiểm soát tình hình nguy cấp của thj trường tài chính thế giới lúc đó. Nhiệm vụ đặt ra là phải tìm cách khôi phục lại niềm tin vào đồng đơm Mỹ. Walter Levy - chiến lược gia tài chính của Mỹ - đã đề xuất một kế hoạch táo bạo: thả nổi giá dầu mỏ thế giới, mặc giá tăng lên đến 400%, và hoạch định làm sao để thu được thắng lợi lớn từ việc này.
84 thành viên của các công ty dầu mỏ lớn và tập đoàn tài chính lớn đã tham gia hội nghị lần này. Kết luận mà Engdahl rút ra là:
Mục đích tập trung của những thế lực quyền quý này là để lập lại cân bằng quyền lực theo hướng có lợi về tài chính cho Mỹ cũng như tìm hướng phát triển cho đồng đô-la. Để đạt được mục đích này, họ quyết định lợi dụng vũ khí mà luôn được coi trọng nhất - quyền khống chế nguồn cung ứng dầu mỏ toàn cầu. Chính sách của câu lạc bộ Bilderberg chính là tạo nên cuộc cấm vận dầu mỏ toàn cầu, khiến cho giá dầu mỏ thế giới tăng vọt. Bắt đầu từ năm 1945. theo thông lệ quốc tế, dầu mỏ thế giới được định giá bằng đồng đô la Mỹ vì các công ty dầu mỏ của Mỹ đang khống chế thị trường này sau chiến tranh. Vì vậy, khi giá dầu thế giới đột ngột tăng lên cũng đồng nghĩa nhu cầu đổi đồng đô la Mỹ trên thế giới (dùng để mua dầu) cũng sẽ tăng, từ đó mà ổn định được giá trị tiền tệ của đồng đô la Mỹ.(6)
Còn Kissingger đã dùng hình ảnh "đồng đô la Mỹ chảy không ngừng vào dầu mỏ" để hình dung kết quả giá dầu thế giới leo thang.
Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

- Song Hongbing, NXB Trẻ, 2008
(1) Richard Gardner, Foreign Affairs, 04/1974
(2) Bill Clinton, Diễn văn của Thống đốc bang Arkansas Bill Clinton tại Đại hội Đảng Dân chủ quốc gia, 16/07/1992
(3) Marc Fisher, Washington Post, số ra thứ Ba, 27/1/1998
(4) Pepe Escobar, Bilderberg lại tấn công (Bilderberg strikes again), Asia Times, 10/5/2005
(5) Sách đã dẫn
(6) William Engdahl, Một thế kỷ chiến tranh: Quan điểm chính trị dầu khí Anh-Mỹ và Trật tự thế giới mới (A Century of War: Anglo – American Oil Politics and The New World Order) – Pluto Press, London, 2004; chương 9.


Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) sự ra đời và bản chất của nó
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image010.jpg
"Tôi tư duy, nên tôi tồn tại" câu nói rất minh triết của nhà khoa học, nhà triết học và đồng thời là nhà toán học Pháp. Rene' Decartes, ông được xem là cha đẻ của nền triết học hiện đại. Lâu nay tôi luôn mê mẫn thuyết âm mưu (Conspiracy Theory). Nó giúp tôi tìm tòi, tự học và nhìn vấn đề phản biện ở góc độ khoa học trong mọi lĩnh vực. Tôi đã có 3 loạt bài về thuyết âm mưu(thuyết ngờ vực hay còn gọi là thuyết nghi ngờ). Hôm nay tôi thử nhìn FED (Federal Reserve System: Cục dự trữ liên bang Mỹ, Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ) xem sao? Dù tôi là người ngoại đạo của hệ thống ngân hàng tài chính. Có gì các bạn chuyên ngành tài chính ngân hàng góp ý giùm cho những cái sai, nếu có.


1. Bản chất của FED:

Năm 1913, mốc thời gian quan trọng mà ngân hàng trung ương Mỹ sau khi trãi qua nhiều cái tên khác nhau như: 1791-1811 là "First Bank of the United States"; 1811-1816 là "Central Bank"; 1816-1836 là "Second Bank of the United States"; 1837-1862 là "Free Banking Era"; 1863-1913 là "National Bank" và từ 1913

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.(1)

Trước 1913, từ sau khi Mỹ tuyên bố độc lập khi tướng George Washington chiến thắng ở Massachusetts, dành quyền in giấy bạc về mình mà không lệ thuộc vào nước Anh - kẻ đô hộ nước Mỹ. Khoảng thời gian từ năm 1781-1791 FED có tên: The Bank of North America. Bản chất vốn của FED giai đoạn trước 1913 là của sự cộng tác về vốn của chính phủ Mỹ 20% và các tập đoàn tài phiệt của chấu Âu gồm có: Anh, Pháp, Đức, Italia và các nhà tài phiệt Hoa Kỳ nắm giữ 80% vốn.

Do suy thoái kinh tế toàn cầu 1907 có nguy cơ làm cho vai trò của các nhà tài phiệt bị mất đi sự thống lĩnh kinh tế toàn cầu, vì nó bộc lộ yếu kém trong điều hành kinh tế Mỹ và toàn cầu làm mất lòng dân chúng. Nên

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(2) đã được các nhà tài phiệt nắm 80% cổ phần FED có cuộc họp soạn thảo Dự luật mang tên thượng nghị sĩ Cộng Hòa vào ngày 22/11/1910, đương kim chủ tịch ủy ban tiền tệ quốc gia Hoa Kỳ lúc bấy giờ -

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(3) - Người có huyết thống với David Rockefeller, ông trùm tài phiệt Mỹ, vua dầu hỏa và là chủ tịch tập đoàn Standard Oil, được mệnh danh là người giàu nhất nước Mỹ.

Cuộc họp bắt đầu ngày 22/11/1910 và kéo dài 12 ngày, do quyết định của tổng thống thứ 26 Theodore Roosevelt (1901-1909) họ đã bỏ ra 2 năm đi chu du và nghiên cứu các hệ thống ngân hàng mà họ cho là tốt nhất thế giới lúc bấy giờ là Anh và Đức. Và được sự ủng hộ của tổng thống phe Dân Chủ thứ 28

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(4), Dự Luật Nelson Aldrich được chính phủ Mỹ công nhận. Bắt đầu năm 1913 cái tên gọi FED được giữ cho đến nay.

Và cũng bắt đầu từ 1913, toàn bộ vốn của FED không có sự tham gia cổ phần của chính phủ mà do các tập đoàn tài phiệt nắm giữ. Họ nắm quyền in đồng Mỹ kim, cứ mỗi Mỹ kim chính phủ Mỹ phải trả họ 2cents từ tiền đóng thuế người dân. Và tùy theo thời điểm mà họ qui định bản vị vàng hay bản vị dầu cho những đồng Mỹ kim được in ra. Nên đồng Mỹ kim có chữ ký chứ không phải đồng tiền tín phiếu như đồng Yuan Trung Quốc và VNĐ của ta. Đây là một điểm độc đáo mà các quỹ dự trữ liên bang hay ngân hàng trung ương các nước trên thế giới không có được. Và cũng chính đây là đặc điểm mà FED có quyền năng tối thượng với kinh tế toàn cầu.


2. Những tập đoàn tài phiệt nắm giữ FED, họ là ai?
Nếu bạn nào có đọc cuốn sách hot năm 2009 ở Việt Nam của tác giả Song HongBing: "

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

" (Currency Wars)(5) sẽ thấy câu nói nỗi tiếng của Meyer Rothschild ngay đầu chương 1: "Chỉ cần khống chế được quyền phát hành tiền tệ của một quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc bất cứ thứ pháp luật nào do ai đặt ra". Đây là ông tổ của hệ thống ngân hàng liên quốc gia hiện đại ngày nay. Gia tộc Rothschild là gia tộc đứng đằng sau giật dây, thiết kế, dàn dựng và tạo ra Dự luật Nelson W Aldrich đã nói ở trên để chiếm lấy FED về tay tư nhân mà chính phủ Mỹ đã phải ngậm đắng nuốt cay nhìn với con mắt bất lực, thèm thuồng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2.1. Gia tộc Rothschild: Một đặc điểm gia tộc Rothschild là

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(6) có dòng họ người Do Thái định cư tại Đức. Mỗi khi nói đến gia tộc này cả thế giới nghĩ ngay đến quyền lực và tiền bạc. Gia tộc này đã xây dựng nên một hệ thống ngân hàng tư nhân và chi phối phần lớn thị trường tiền tệ châu Âu. Tên của gia tộc này gắn liền với 5 chi nhánh ngân hàng Rothschild ở 5 nơi là đầu tàu của châu Âu do 5 người con của Meyer Rothschild nắm giữ: Con trai cả Amschel của Meyer chuyên lo điều hành đại bản doanh M.A Rothschild & Sons của ngân hàng gia tộc Rothschild tại Frankfurt. Người con thứ hai, Salomon Rothschild, đi xây dựng chi nhánh khác của gia tộc ở Vienna-Áo (S.M Rothschild & Sons). Nathan, người thứ ba, là người thông minh, táo bạo và lạnh lùng nhất trong số 5 anh em, ông được cha điều từ Frankfurt đi khai phá chi nhánh ngân hàng Rothschild London vào năm 1798. Calmann, người con thứ tư xây dựng chi nhánh Napoli-Ý và con trai thứ 5 xây dựng chi nhánh thứ 5 tại Paris. Gia tộc này đã biết lợi dụng các cuộc chiến tranh ở châu Âu và chiến tranh thế giới để tạo dựng cơ đồ bằng sự thôn tính các ngân quỹ quốc gia ở châu Âu.

Sau đó gia tộc Rothschild thò vòi bạch tuộc sang đất Mỹ với đại diện là

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(1868-1932)(7), cũng là một người Đức gốc Do Thái, là cổ đông lớn công ty Kuhn Leoband Company tại New York. Ông này vào Mỹ năm 1904, nhưng mãi đến 1911 mới nhập tịch và tham gia vào cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll. Ông Paul Warburg có 4 anh em thì cả 4 đều có vị trí quan trọng: anh cả Max Warburg là cục trưởng cục tình báo Đức. Paul là thứ hai, người giữ chức chủ tịch FED đầu tiên của Mỹ, cũng là người nắm chức vụ về tài chính cao nhất Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Felix Warburg - em trai thứ ba có cổ đông cao trong Kuhn Leob Co. Người em út là Fritz - Nắm chủ tịch sở giao dịch vàng Hamburg-Đức. Gia tộc Rothschild không bao giờ ra mặt ở FED, nhưng họ đứng đằng sau FED kể từ trước 1913 và là kẻ thiết kế, dàn dựng, hình thành và tạo ra Dự luật Nelson W Aldrich từ khi họp ở Jekyll đến được chính phủ Mỹ thông qua.

Không ai biết gia tộc này giàu bao nhiêu? Nhưng so với Bill Gates, người giàu nhất thế giới hiện nay thì họ có số vốn gấp hơn nhiều lần. Nhưng không phương tiện truyền thông nào nhắc đến.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2.2. Gia tộc Rockefeller: Đại diện gia tộc Rockefeller là ngài

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(8), một người Mỹ sinh trưởng ở New York city, cháu nội duy nhất của triệu phú trùm dầu hỏa, người sáng lập ra Standard Oil - John D. Rockefeller. Tiếp quản tập đoàn dầu hỏa từ ông nội sau khi lấy tấm bằng PhD về kinh tế. David Rockfeller đã bành trướng lĩnh vực tham gia sang ngân hàng, người sáng lập và chủ Citigroup và ngay cả Chase Manhattan Bank của gia tộc Morgan ông cũng là một cổ đông lớn. Chính JP Morgan là người giúp cho gia tộc Rockefeller tiêu diệt toàn bộ đối thủ cạnh tranh với việc chuyên chở dầu giá rẻ đi khắp liên bang. Ông còn là nhân vật quan trọng trong lãnh đạo quốc gia. Một thời nước Mỹ xem ông là người giàu nhất nước Mỹ. Ông nội ông là một trong những thành viên tham gia cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll để soạn thảo ra Dự Luật Albrich. Người có huyết thống với ông. Hãy cứ nhìn hình ảnh

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Chu Ân Lai(9), thủ tướng Trung Quốc trong thời chiến tranh lạnh là đủ thấy ông có vai trò quan trọng như thế nào trong chính trường thế giới.

Lịch sử nhắc tới gia tộc Rockefeller như là người giàu nhất nước Mỹ bằng vào con đường đâm thuê chém mướn để dành lấy ngôi vị độc tôn dầu hỏa ở Mỹ từ thế hệ ông nội của David Rockefeller. Thì đến đời David Rockefeller, ông chủ với chủ sở hữu từ trùm dầu hỏa và một loạt ngân hàng, cũng như bàn tay lông lá quan trọng đến chính trường nước Mỹ. và thế giới. Nếu ai đã đọc Godfather thì có thể hiểu rằng gia tộc này đã đi lên bằng con đường như thế nào? Nhưng không ai biết tài sản của gia tộc này là bao nhiêu? Nhưng có lẽ, cỡ Bill Gates còn kém gấp nhiều lần.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2.3. Gia tộc JP Morgan: Đại diện gia tộc Morgan là ngài

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(10), cũng là một người Mỹ sinh ra và lớn lên ở Connecticut. Ông là trùm ngành công nghiệp Mỹ từ sắc thép đến truyền thông như AT&T, General Electric, cha để của dự án xây dựng hệ thống đường ray toàn nước Mỹ và những hãng bảo hiểm lớn nhất nước Mỹ. Gia tộc Morgan còn nắm 1 lượng lớn cổ phần của Cittigroup của gia tộc Rockfeller. Tập đoàn JP Morgan ước tính có tổng số tài sản tương đương với dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc năm 2009, khoảng 2,041 tỷ USD! Ông không tham gia cuộc họp bí mật ở đảo Jekyll, nhưng có trợ lý Benjamin Strong của ông. Ông mất năm 1913 tại Ý. Song tập đoàn JP Morgan mãi mãi trường tồn và lớn mạnh. Nhưng tiền thân của JP Morgan là đứa con được gia tộc Rothschild đỡ đầu từ hệ thống ngân hàng Merchant Bank do George Peabody và xây dựng một tiền đồn dài lâu cho cuộc tấn công vào thị trường tài chính của nước Mỹ!!!


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2.4. Gia đình Carnegie: Đại diện gia dình này là ngài

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(11). Một trong những ông vua công nghiệp sắc thép của Pittsburgh, PA, nhà doanh nghiệp, người khai sinh môi giới tài chính và là một con người vì sự nghiệp giáo dục và bảo tàng của nước Mỹ. Ông đến Mỹ cùng cha từ Scotland. Ai đã từng quan tâm đến giáo dục Mỹ không thể không biết đến

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(12) do ông lập ra rất nỗi tiếng. Và còn bao nhiêu công trình vì cộng đồng do ông tạo nên. Ông được phong tặng là nhà từ tâm của nước Mỹ.


2.5. Một số thành viên khác: Ngoài những thành viên cộm cán trên. Một số thành viên tham gia cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll, ngày 22/11/1913 để quyết định đem FED về cho quyền lực ngầm tài phiệt tư nhân. Như

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(14), chủ tịch First National Bank.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(15) cổ đông lớn của JP Morgan và là chủ tịch Liberty National Bank, chủ tịch chữ thập đỏ Mỹ. Và

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(16) chủ tịch National city Bank và là người từng cho chính phủ Mỹ mượn tiền trong cuộc chiến tranh lập quốc giữa Mỹ và Tây Ban Nha.

Ngoài ra còn có 2 thành viên chính phủ là Nelson Albrich, nhưng thực ra là gia đình của Rockefeller. A. Piatt Andrew, trợ lý bộ trưởng tài chính.

Qua đó, có một điều đáng quan tâm là FED là tư nhân hoàn toàn và không chỉ là của những nhà tài phiệt Mỹ. Họ là tập hợp của một NHÓM QUYỀN LỢI ăn chia tài chính với chính phủ Mỹ có 80% cổ phần trong FED. Sau đó đã gây áp lực với chính phủ Mỹ thông qua cho vay tài chính trong các cuộc chiến tranh để đi đến thâu tóm toàn bộ quyền lợi tài chính thế giới 100% về mình và trỡ thành QUYỀN LỢI NHÓM. Các thành viên tạo vốn cho FED có mặt ở toàn cầu. Mỗi hơi thở FED là sự sống hay cái chết kinh tế của toàn cầu.

PHẦN II: DỰ LUẬT ALDRICH VÀ SỰ SỐNG KINH TẾ TOÀN CẦU
Nước Mỹ là nơi những con người bỏ mẫu quốc ra đi để tìm một chân trời mới không theo những lề thói cũ của những cựu lục địa già nua. Những quốc phụ tạo nên nước Mỹ đã có những tấm lòng cao cả muốn xây dựng một thiên đường hạ giới cho miền đất mới. Nhưng vì lòng tham của con người đã làm thất vọng họ, dù họ đã cố gắng chống chọi bằng cách đưa ra nhiều đạo luật để bảo vệ tuyên ngôn nước Mỹ.

Lịch sử nước Mỹ có những trang đau buồn vì phân biệt chủng tộc, vì nội chiến etc... Nhưng có lẽ đau buồn nhất là sự thông qua đạo luật Nelson Aldrich vào ngày 23/12/1913 của tổng thống thuộc đảng Dân chủ thứ 28: Thomas Woodrow Wilson (1913-1921). Cái ngày mà người ta bảo rằng: Cho đến nay trong lịch sử 43 đời TT Mỹ, không có một tổng thống nào ký bất kỳ một dự luật nào một cách vội vã trước khi thiên chúa giáng sinh! Điều mà sau này chính ông cũng đã phải thốt lên đó là sai lầm của mình(1). Nhưng ông không thể làm khác vì chiếc ghế ông ngồi vào đã được định 2 năm trước khi tổng tuyển cử tổng thống nhiệm kỳ thứ 28. Và việc ông ký đạo luật Aldrich là việc ông phải làm một cách bất thường để trả lễ cho chiếc ghế quyền lực của mình vì những gì mà những ông trùm tài phiệt đã đánh bóng, loppy và đưa ông lên đỉnh vinh quang của sự nghiệp chính trị. Mặc dù trước ông, hai vị tiền nhiệm đã vì nhân dân Mỹ và nước Mỹ nên họ đã chạm vào thánh đường tiền tệ, mà họ phải đối diện với mưu sát: TT thứ 7: Andrew Jackson (1829-1837)(17) và TT thứ 16 bị ám sát: Abraham Lincoln (1861-1865)(18). Lịch sử nước Mỹ có 3 vị tổng thống muốn lấy quyền in tiền về chính phủ. Hai người vừa kể và người thứ 3 là TT thứ 35: John F. Kennedy (1961-1963)(19). Họ đều có hoặc cận kề với cái chết!

Như vậy, tại sao có đạo luật Aldrich? Nó ra đời như thế nào? Nó phục vụ cho ai? Và nó có vai trò gì với nước Mỹ và nhân loại?

A. Đạo luật Nelson Aldrich có gì?(20)
Hiến pháp Mỹ vì tính lịch sử mà có một lỗ hổng chết người là chính phủ chỉ phát hành tiền đồng kim loại, còn tiền giấy thì chỉ là tờ chứng nhận trao đổi. Nước Mỹ trước năm 1913, có 20% cổ phần trong ngân hàng trung ương như đã nói. Nhưng với 20% đó không đủ lực để chống chọi 80% còn lại khi từ nhóm quyền lợi họ kết dính nhau để trở thành quyền lợi nhóm. Chính điều này mà các cuộc suy thoái kinh tế và chiến tranh do các nhà tài phiệt đã nêu ra ở phần 1, tạo ra bằng cách thổi phồng cho vay lãi suất thấp, rồi thắt chặt tiền tệ nâng lãi suất thu hồi tiền về từ các con nợ. Đẩy con nợ vào cảnh bần cùng, bán nhà, bán đất, vô gia cư. Và làm cho chính phủ Mỹ lâm vào thế nợ nần chồng chất. Nên một cuộc cải tổ tài chính Mỹ đã được ông TT thứ 26 Theodore Roosevelt đề xuất và giao cho những nhà tài phiệt nghiên cứu và viết ra. Bộ óc khổng lồ với tư duy minh triết, uyên thâm lúc bấy giờ ngồi vào chấp bút là Paul Warburg. Người đại diện dòng học Rothschild tại Mỹ và đã lập ra một chân rết với gia tộc Rockefeller và JP Morton trước khi có cuộc âm mưu ở đảo Jekyll. Điều gì có lợi cho các tập đoàn tài phiệt đến ắt đến. Câu chuyện ngắn gọn ở phần 1, nói lên tất cả và từ đó mọi sức khỏe của kinh tế toàn cầu đã thuộc về tay các ông trùm tài phiệt trên toàn cầu.

Đạo luật Nelson Aldrich có mấy điều đáng chú ý:
1. FED(21) là ngân hàng tư nhân 100% hoàn toàn, chính phủ Mỹ không còn cổ phần trong FED. Một khi chính phủ muốn chi tiêu quá phần tiền thu thuế từ dân Mỹ thì chính phủ phải vay tiền từ FED thông qua FED in thêm tiền. Quốc hội có nhiệm vụ khống chế FED.
2. FED là tổ chức duy nhất được phép in tiền giấy Mỹ kim. Chính phủ Mỹ chỉ được phép đúc tiền đồng Mỹ kim từ giá trị <=$1. Mỗi lần FED in thêm tiền USD bao nhiêu thì chính phủ Mỹ hay nói cách khác là người dân Mỹ phải nợ FED bấy nhiêu.
3. FED gồm có 12 FED con nằm ở các tiểu bang: mỗi FED con là ngân hàng thương mại tư nhân ở địa phương. 12 FEd con có trụ sở ở: 1- Boston, 2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco, 7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và 12-Dallas. Theo đó các FED con đều có quyền in tiền giấy. Cứ theo thứ tự từ 1 đến 12 mà đánh vần theo alphabets thì A là FEd của Boston in ra, B là FED của New York in ra ...ký hiệu đầu serial ở trên tờ tiền. Nhưng FED New Yrok chiếm 53% cổ đông của FED liên bang.
4. Trung ương FED đặt ở Washington DC, nhưng mọi hoạt động làm khuynh đảo thế giới tài chính ở New York. Đây là một trò dối trá cùng với chia đều 12 FED con để vuốt ve nhóm miền Nam và người dân Mỹ sau những cuộc suy thoái do họ làm ra để moi từng đồng tiền từ túi dân nghèo.
5. Cơ cấu FED gồm một hội đồng quản trị có 7 thành viên:
+ Có 3 thành viên: Chủ tịch hội đồng quản trị FED (Chairman of the Goverment Board), Bộ trưởng tài chính (The Treasury Secretary) và Giám Sát Ngân Khố (the Comptroller of Treasury) là người của chính phủ.
+ Thành viên của hội đồng quản trị do tổng thống bổ nhiệm và thay thế. Nhưng mỗi nhiệm kỳ TT Mỹ chỉ được bổ nhiệm và thay thế 2 lần, mỗi lần chỉ 1 người với sự chấp thuận của thượng viện.
+ Nhưng chức năng của hội đồng quản trị FED do hội đồng tư vấn liên bang (Federal Advisory Council) khống chế, và cùng với hội đồng quản trị, Hội đồng tư vấn liên bang sẽ mở hội nghị thảo luận công việc.
+ Thành viên của hội đồng tư vấn liên bang sẽ do Chủ tịch hội đồng quản trị của 12 FED con quyết định. Nhưng đa số thành viên của hội đồng quản trị là do hiệp hội ngân hàng trực tiếp hoặc gián tiếp khống chế.
6. Đồng đô la Mỹ có thể co giãn theo tình hình và được tái chiết khấu. Và bắt đầu sau dự luật người dân Mỹ bắt đầu phải đóng thuế thu nhập (income tax).


Qua đó, chúng ta thấy có mấy điều quan trọng sau đây:
1. Cái gọi là Cục dự trữ liên bang Mỹ hình thức và hiện tượng là của chính phủ Mỹ. Nhưng bản chất là của các nhà tài phiệt đã nói ra ở phần 1. Một sự lấp liếm và lách luật tài tình của Paul Warburg - một tay Đức có nguồn gốc Do Thái.
2. Tước bỏ hoàn toàn chức năng in tiền giấy của chính phủ Mỹ kể từ ngay trước ngày thiên chúa giáng sinh năm 1913. Nhưng trên đồng tiền Mỹ kim vẫn tồn tại câu: "In God, We trust". Và kể từ đó, bao tờ tiền đô la xanh in ra là người dân Mỹ nợ FED bấy nhiêu.
3. Một sự che lấp quyền lực đằng sau hậu trường với người dân Mỹ và các nhóm tài chính miền Nam để khuynh đảo chính trường nước Mỹ và chỉ huy kinh tế, chính trị toàn cầu.
4. Hủy hoại lý tưởng cao cả của những con người có công khai sinh ra cái gọi là "Miền đất hứa", từ khi nước Mỹ chỉ là 13 bang lập quốc ban đầu tiên của 6 bang thuộc New England, 6 bang thuộc Mid Atlantic và Puerto Rico.
5. Cái điều cuối cùng lưu ý trong đạo luật Nelson Aldrich đã giúp cho FED được quyền làm tăng hay giảm giá đồng Mỹ kim và cũng cho phép các ngân hàng thương mại bơm tiền vào thị trường hay thu tiền vào lại ngân hàng một cách tự do để thổi phồng cái bong bóng kinh tế hoặc chích xì quả bóng tạo ra những cuộc suy thoái chủ động theo ý

viên hiện tại và trong quá khứ.

Tất cả những cuộc họp của CLB trên đều diễn ra trong điều kiện bí mật hoàn toàn theo những giấy mời cá nhân đặc biệt. Tất cả những vị khách đều tới địa điểm họp một mình, không được mang theo bất cứ một trợ lý, vệ sĩ, bạn bè hay người nhà nào. Theo nguyên tắc, các đại biểu bị ngăn cấm các hình thức ghi chép, đưa ra tuyên bố với báo chí hay bàn luận về nội dung họp với người bên ngoài.

Bất chấp những đặc điểm cực kỳ bí mật như vậy, mỗi một cuộc gặp của CLB Bilderberg đều thu hút được sự chú ý đặc biệt. Đơn giản là báo chí và công chúng không thể bỏ qua sự kiện thu hút một số lượng lớn những nhân vật nổi tiếng và có ảnh hưởng cùng tới một địa điểm nào đó. Cũng chính vì đặc điểm quá bí mật trên, hoạt động của CLB Bilderberg đã làm nảy sinh không ít những giả thuyết khác nhau, đa phần trong số này đều cho rằng các thành viên CLB đang bí mật điều hành cả thế giới.

Một số nhà quan sát còn cho rằng, chính cơ quan mật vụ Mỹ là người khởi xướng trực tiếp cho việc hình thành CLB này. Theo đó, những người sáng lập thực sự chính là nam tước Edmund Rothschild và Laurance Rockefeller, những thành viên đầu tiên của CLB. Cũng theo khẳng định của nhà quan sát này, một trong những mục tiêu chính được đặt ra ngay sau khi thành lập CLB chính là xây dựng một siêu quốc gia của toàn châu Âu với ngân hàng Trung ương, tiền tệ thống nhất dưới sự kiểm soát của Mỹ. Còn mục tiêu cuối cùng là thành lập một chính phủ liên quốc gia có quy mô toàn cầu.

Năm nay, sự chú ý của toàn thế giới lại tập trung vào thị trấn nghỉ mát Sitges gần Barcelona (Tây Ban Nha), nơi được chọn làm địa điểm gặp gỡ lần này của các thành viên CLB Bilderger. Ngay trước cuộc gặp này, một trong những nhà nghiên cứu nổi tiếng nhất về CLB trên là Daniel Estulin đã khẳng định, ông biết về các chủ đề sẽ được bàn bạc trong cuộc gặp lần này. Chủ đề hàng đầu trong số này chính là tương lai của đồng euro. “Họ sợ sẽ có một vài nước rút khỏi khu vực đồng euro, khiến đồng tiền này sẽ bị chết yểu – Estulin giải thích – Nguy cơ các nước quay trở lại với chính sách định hướng dân tộc chính là một cơn ác mộng đối với họ”.

Giả thuyết trên có thể được lý giải bằng sự hiện diện và phát biểu của Thủ tướng Tây Ban Nha Luis Zapatero. Hiện các nước trong nhóm PIIGS – gồm Bồ Đào Nha, Ailen, Italia, Hy Lạp và Tây Ban Nha – đang gây ra những lo ngại thực sự cho các thành viên CLB Bilderger. Họ lo ngại tình trạng yếu đi của đồng euro có thể sẽ khơi mào cho một làn sóng khủng hoảng toàn cầu mới, có thể dẫn tới những biến đổi nghiêm trọng về tình hình chính trị trên toàn cầu.

file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image002.jpgHiện cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger (87 tuổi) và cựu Chủ tịch David Rockerfeller của Chase Manhattan Bank là những thành viên nhiều tuổi nhất của CLB. Còn trong danh sách những nhân vật được mời trong năm đã xuất hiện những nhân vật tương đối trẻ, chẳng ahnj như Bộ trưởng Tài chính Anh George Osborn (39 tuổi).

Những người chống đối tổ chức này tin rằng, bên trong Bilderberg chính là một âm mưu từ lâu nay của các ông trùm tư bản nhằm chống lại loài người. Có không ít những nhà hoạt động chống lại CLB Bildergerg đã tụ tập tại Sitges. Ngoài hoạt động biểu tình phản đối, họ hy vọng còn có thể khai thác được thông tin giúp làm rõ được những kế hoạch bí mật của hội kín trên.
Tập đoàn tinh anh thống trị thế giới
Ngày 16 tháng 7 năm 1992, ngay sau khi được đề cử cho cuộc tranh cử tổng thống tại đại hội đảng Dân chủ, Clinton đã phát biểu hết sức dõng dạc về tinh thần đoàn kết, lý tưởng, nhân dân và đất nước bằng những lời chẳng có gì mới mẻ. Nhưng khi kết thúc bài diễn văn, đột nhiên Clinlon nhắc đến người thầy của mình - vị giáo sư sử học nổi tiếng nhất nước Mỹ giảng dạy tại Đại học Georgetown, Carroll Quigley. Ảnh hưởng của Carroll Quigley đối với Clinton được chính Clinton ví như sự ảnh hưởng của Tổng thống Kennedy đối với ông ta vậy(2) Và trong suốt thời gian làm tổng thống sau này của mình, Clinton đã nhiều lần nhắc đến tên của Carroll Quigley. Vậy chủ trương gì của Carroll Quigley đã khiến cho Clinton phải khắc cốt ghi tâm đến thế?
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image004.jpgThực ra, Quigley là một nhân vật có ảnh hưởng lớn trong việc nghiên cứu tổ chức tinh anh bí mật Anh - Mỹ. Ông luôn cho rằng những tổ chức bí mật này đã có ảnh hưởng quyết định đến hầu hết mọi sự kiện trọng đại trên thế giới.
Tốt nghiệp Đại học Harvard, giáo sư Quigley từng đảm nhận các vị trí ở Cục Tham mưu Brooklings, Bộ Quốc phòng, Bộ Hải quân Mỹ và có mối quan hệ rất mật thiết với các quan chức cấp cao trong Cục Tình báo Trung ương. Với vai trò của một "người trong cuộc", Quigley đã từng tiếp xúc với rất nhiều tài liệu lịch sử và hồ sơ tuyệt mật. Tuy nhiên, ông không tỏ ra là người chống đối "lý tưởng" mà số rất ít các tinh anh thống trị của Anh - Mỹ đã sắp đặt ra cho toàn thế giới, mà chỉ luôn giữ thái độ "bảo lưu" đối với một số cách làm cụ thể trong đó, rồi thêm vào đó là những nhận xét đầy hàm ý trong các nghiên cứu của mình. Chính thái độ đó nên ông không hề gặp phải sự "thắc mắc" nào của các học giả thuộc dòng "chủ lưu". Ngoài ra, với hơn 20 năm làm công việc nghiên cứu, được tiếp xúc với một lượng lớn các hồ sơ lịch sử tuyệt mật nên ông được giới sử học Mỹ đánh giá cao. Chính những điều đó khiến ông hiếm có đối thủ khiêu chiến. Chỉ cần học thuyết của ông không nguy hiểm cho giới cầm quyền thì những người trong nhóm tinh anh cũng sẽ chẳng việc gì phải đụng đến ông.
Tốt nhất là chúng ta nên thiết lập một “lâu đài trật tự thế giới” từ dưới lên, chứ không phải là xây ngược lại từ trên xuống. Bởi rốt cuộc thì cái gọi là chủ quyển quốc gia có thể dùng biện pháp xâm chiếm từng bước để giành được. Việc làm này sẽ cho phép chúng ta đạt được mục đích của mình nhanh hơn so với những cách làm cũ. (1)
Richard Garner – Tạp chí “Các vấn đề quan hệ quốc tế”, tháng 4 năm 1974
Theo quan điểm của giáo sư Quigley, Viện Hoàng gia về các vấn đề Quốc tế ở Anh, Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ (CFR), nhóm Bilderberg, ủy ban ba bên (Trilateral Com mission) rõ ràng là những tổ chức hạt nhân của câu lạc bộ tinh anh luôn muốn thao túng cục diện thế giới. Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ có 3.600 thành viên, tương đương với "trường đảng trung ương" của Mỹ. Và việc gia nhập vào tổ chức này thì cũng giống như việc bước vào đại sảnh của chính giới Mỹ hay cơ hội để trở thành người hoạch định chính sách của thế giới tương lai. Nhóm Bilderberg kết hợp thêm các phần tử tỉnh anh của châu âu, còn ủy ban ba bên có đen 325 thành viên, lại thêm các phần tử tinh anh của Nhật Bản và các quốc gia chầu Á khác. Tất cả những thành viên có tiếng nói trong Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ thì thường là thành viên của các tổ chức khác. Các nhân vật tinh anh trong những tổ chức này bao gồm những nhân vật có thế lực đủ để làm xoay chuyển cục diện thế giới như Henry Kissinger - cựu Bộ trưởng ngoại giao Mỹ, D. Rockefeller của ủy ban quốc tế JP Morgan, Nelson Aldrich Rockefeller, hoàng tử Phillip của Anh, McNamara - Bộ trưởng quốc phòng Mỹ thời Tổng thống Kennedy và sau này là Giám đốc điều hành của Ngân hàng thế giới, bà Thatcher - cựu Thủ tướng Anh, Valéry Giscard d'Estaing - cựu Tổng thống Pháp (chính là người đã lên kế hoạch cốt yếu về hiến pháp châu Âu), Donald Rumsfeld - Bộ trưởng quốc phòng Mỹ, Brzezinski - cựu cố vấn an ninh quốc gia, Alan Greenspan - Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, và Keynes - nhân vật nổi tiếng trong giới ngân hàng một thời. Ông chủ Ngân hàng quốc tế chính là ông chủ đứng đằng sau tất cả những tổ chức này. Dòng họ Rothschild đã chủ từ rất nhiều hội nghị của Bilderberg. Năm 1962 và năm 1973, hội nghị Bilderberg diễn ra ở địa điểm nghỉ mát nổi tiếng ở Thụy Điển do dòng họ Warburg đứng ra tổ chức.
Thời đại học, dưới sự hướng dẫn và chỉ bảo của giáo sư Quigley, Clinton đã nhận ra rằng, nếu muốn hiển danh trong chính giới thì không chỉ cần nỗ lực phấn đấu mà còn phải trở thành một thành viên trong guồng máy quyền lực.
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image006.jpgQuả nhiên, sau này Clinton đã gia nhập ủy ban ba bên và Hội đồng Quan hệ Quốc tế đồng thời tham gia lớp "học giả Rhodes" - một nơi chuyên đào tạo, bồi dưỡng nên những "cán bộ" quan trọng của "chính phủ thế giới" trong tương lai. Năm 1989, Clinton đã gia nhập Hội đồng Quan hệ Quốc tế Và tới năm 1991, khi giữ chức Thống đốc bang Arkansas, Clinton đã xuất hiện tại hội nghị thường niên của nhóm Bilderberg tổ chức tại Đức. Phải thừa nhận rằng đã có rất nhiều thống đốc các bang lớn ở Mỹ rất muốn tham gia cuộc "tụ hội tinh anh siêu cấp" này. Và chỉ sau một năm, Bill Clinton - Thống đốc bang Arkansas xa xôi chẳng mấy tiếng tăm - đã đột nhiên đánh bại nhiều chính trị gia cáo già để lên làm Tổng thống. Đó chính là lý do vì sao Clinton luôn khác cốt ghi tâm những lời chỉ bảo của giáo sư Quigley.


Câu lạc bộ Bilderberg
Nếu như những năm đó công khai mọi điều cho công chúng biết thì chúng ta đã không thể hoạch định kế hoạch phát triển cho thế giới. Mà hiện nay, thế giới ngày càng phức tạp, còn chúng ta thì chuẩn bị tiến bước mạnh mẽ để trở thành chính phủ thế giới. Bởi những người nắm giữ chủ quyền siêu quốc gia đều là các tầng lớp ưu tú và các ông chủ ngân hàng thế giới nên điều tốt hơn là chúng ta nên tổ chức lấy quyền tự quyết quốc gia trong thực tế hơn là cách làm cũ trong quá khứ như nhiều thế kỷ trước.(4)
John Davison Rockefeller, năm 1991
Câu lạc bộ Bilderberg được lấy tên từ một khách sạn của Hà Lan, do ông hoàng người Hà Lan, Bernhard sáng lập vào năm 1954. Câu lạc bộ Bilđerberg là "phiên bản quốc tế" của Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ, do các nhà tài phiệt ngân hàng, chính trị gia, lãnh đạo doanh nghiệp, các nhà báo và các học giả nổi tiếng tạo nên. Tất cả các thành viên này đều do Rothschild và Rockefeller chọn ra. Trong đó rất nhiều người còn là thành viên của Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ, hiệp hội Pilgrims Society, hiệp hội bàn tròn, và cả Ủy ban ba bên. Câu lạc bộ Bilderberg này hầu như đã kiểm soát hết toàn bộ hệ thống tổ chức của hiệp hội châu Âu hiện có trong liên minh châu Âu. Mục đích cuối cùng của họ chính là xây dựng một chính phủ thế giới. (5)

Cuộc họp đầu tiên của CLB tại Hà Lan, 1954

Đặc điểm hoạt động lớn nhất của tổ chức này chính là "bí mật".
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image008.jpgCơ quan đầu não của tổ chức này đặt tại Leiden thuộc miền tây Hà Lan, có cả số điện thoại nhưng lại không có mạng lưới. Chỉ rất ít các thám tử tự do như Tony Gosling của Anh hay James Tucker của Mỹ phải mất rất nhiều công sức và cả sự mưu trí mới có thể thu thập được những thông tin có liên quan đến địa điểm và lịch trình hội nghị của câu lạc bộ này. Suốt 30 năm, Tucker đã theo dõi câu lạc bộ này và cuối cùng đã xuất bản một cuốn sách nói về nó. Còn nhà sử học Pierre de Villemarest và William Wolf đã cộng tác cùng nhau để xuất bản cuốn sách "Facts and Chronicles Denied to the Public", trong đó tập 1 và 2 đã miêu tả lịch sử phát triển bí mật của câu lạc bộ Bilderberg. Một cuốn sách khác do nhà xã hội học Geoffrey Geuens của Vương quốc Bỉ viết cũng có một chương tập trung miêu tả về câu lạc bộ này.
Etienne Davignon - cựu Phó chủ tịch ủy ban châu Âu, thành viên của câu lạc bộ Bilderberg - đã khẳng định rằng: “Đây không phải là âm mưu thao túng thế giới của các nhà tư bản”. Còn Thierry de Montbrial - Viện trưởng Học viện quan hệ quốc tế Pháp, gia nhập câu lạc bộ này đã gần 30 năm thì nói rằng, đây chẳng qua chỉ là một “câu lạc bộ” mà thôi. Sở dĩ những người này có những lời phát biểu như trên vì trong thông báo chính thức hội nghị năm 2002 của câu lạc bộ Bilderberg có đoạn nêu: “hoạt động duy nhất của câu lạc bộ là tiến hành hội nghị thường niên. Hội nghị này không đề ra bất cứ nghị quyết nào, cũng không tiến hành bỏ phiếu, không phát biểu thanh minh bất cứ chính sách nào.” Và câu lạc bộ Bilderberg chỉ là “một diễn đàn quốc tế nhỏ linh hoạt không chính thức. Các đại biểu tham gia hội nghị có thể phát biểu mọi quan điểm khác nhau, để tăng cường hiểu biết giữa các bên.”
Nhưng theo Will Hutton - nhà kinh tế học người Anh thì “ý kiến thống nhất đạt được trong mỗi lần hội nghị của câu lạc bộ Bilderberg" chính là đoạn mở đầu lập ra chính sách thế giới”. Cách nói của ông thể hiện sự tiếp cận với sự thật ở mức độ tương đối bởi những quyết định được đưa ra tại hội nghị của câu lạc bộ Bilderberg về sau đều dần trở thành phương châm định trước của các nước thuộc hiệp hội G8, Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới.
Đối với câu lạc bộ Bilderberg, giới truyền thông luôn tỏ ra im lặng và phục tùng. Năm 2005, tờ Financial Times đưa tin trước rồi sau đó giải quyết theo hướng làm giảm nhẹ "thuyết âm mưu" đang gây xôn xao dư luận. Trên thực tế, bất cứ ai có chất vấn hay nghi ngờ người của câu lạc bộ hùng mạnh nhất thế giới này đều sẽ bị biến thành đối tượng bị đàm tiếu trong các "tác phẩm" của những phê bình lý luận. Các thành viên của câu lạc bộ Bilderberg như các nghị sĩ Anh hoặc những quan chức cao cấp Mỹ thì đều nói rằng, chẳng qua đó chỉ là một nơi để bàn luận vấn đề, một diễn đàn mà người người đều có thể "tự do phát biểu ý kiến".
F. William Engdahl, tác giả cuốn "Cuộc chiến trăm năm: chính trị dầu mỏ Anh - Mỹ và cuộc đại chiến thế giới mới", đã giải thích tỉ mỉ một đoạn bí mật mà rất ít người biết từng xảy ra trong hội nghị Bilderberg khi được tổ chức ở Thụy Điển năm 1973.
Trong những năm đầu sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ, vị thế của đồng đô la Mỹ đã rơi vào khủng hoảng chưa từng thấy trên phạm vi toàn thế giới. Sau khi tách khỏi vàng, sợi dây diều uy tín và giá trị của đồng đô la Mỹ đã bị cắt đứt và bị cuốn trôi đi theo gió trong cơn bão táp tài chính thế giới. Vì vẫn còn chưa bàn xong kế hoạch chuẩn bị cho hệ thống tiền tệ thế giới, các ông chủ ngân hàng quốc tế cũng trở nên bối rối. Chính sách "quyền rút vốn đặc biệt" được đề ra “long trọng” trên thị trường tài chính quốc tế năm 1969 nhưng chẳng ai đếm xỉa đến. Thấy sắp mất quyền kiểm soát, các ông chủ ngân hàng quốc tế đã vội triệu tập một hội thảo khẩn cấp trong hội nghị Bilderberg năm 1973 nhằm giành lại quyền kiểm soát tình hình nguy cấp của thj trường tài chính thế giới lúc đó. Nhiệm vụ đặt ra là phải tìm cách khôi phục lại niềm tin vào đồng đơm Mỹ. Walter Levy - chiến lược gia tài chính của Mỹ - đã đề xuất một kế hoạch táo bạo: thả nổi giá dầu mỏ thế giới, mặc giá tăng lên đến 400%, và hoạch định làm sao để thu được thắng lợi lớn từ việc này.
84 thành viên của các công ty dầu mỏ lớn và tập đoàn tài chính lớn đã tham gia hội nghị lần này. Kết luận mà Engdahl rút ra là:
Mục đích tập trung của những thế lực quyền quý này là để lập lại cân bằng quyền lực theo hướng có lợi về tài chính cho Mỹ cũng như tìm hướng phát triển cho đồng đô-la. Để đạt được mục đích này, họ quyết định lợi dụng vũ khí mà luôn được coi trọng nhất - quyền khống chế nguồn cung ứng dầu mỏ toàn cầu. Chính sách của câu lạc bộ Bilderberg chính là tạo nên cuộc cấm vận dầu mỏ toàn cầu, khiến cho giá dầu mỏ thế giới tăng vọt. Bắt đầu từ năm 1945. theo thông lệ quốc tế, dầu mỏ thế giới được định giá bằng đồng đô la Mỹ vì các công ty dầu mỏ của Mỹ đang khống chế thị trường này sau chiến tranh. Vì vậy, khi giá dầu thế giới đột ngột tăng lên cũng đồng nghĩa nhu cầu đổi đồng đô la Mỹ trên thế giới (dùng để mua dầu) cũng sẽ tăng, từ đó mà ổn định được giá trị tiền tệ của đồng đô la Mỹ.(6)
Còn Kissingger đã dùng hình ảnh "đồng đô la Mỹ chảy không ngừng vào dầu mỏ" để hình dung kết quả giá dầu thế giới leo thang.
Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

- Song Hongbing, NXB Trẻ, 2008
(1) Richard Gardner, Foreign Affairs, 04/1974
(2) Bill Clinton, Diễn văn của Thống đốc bang Arkansas Bill Clinton tại Đại hội Đảng Dân chủ quốc gia, 16/07/1992
(3) Marc Fisher, Washington Post, số ra thứ Ba, 27/1/1998
(4) Pepe Escobar, Bilderberg lại tấn công (Bilderberg strikes again), Asia Times, 10/5/2005
(5) Sách đã dẫn
(6) William Engdahl, Một thế kỷ chiến tranh: Quan điểm chính trị dầu khí Anh-Mỹ và Trật tự thế giới mới (A Century of War: Anglo – American Oil Politics and The New World Order) – Pluto Press, London, 2004; chương 9.


Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) sự ra đời và bản chất của nó
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image010.jpg
"Tôi tư duy, nên tôi tồn tại" câu nói rất minh triết của nhà khoa học, nhà triết học và đồng thời là nhà toán học Pháp. Rene' Decartes, ông được xem là cha đẻ của nền triết học hiện đại. Lâu nay tôi luôn mê mẫn thuyết âm mưu (Conspiracy Theory). Nó giúp tôi tìm tòi, tự học và nhìn vấn đề phản biện ở góc độ khoa học trong mọi lĩnh vực. Tôi đã có 3 loạt bài về thuyết âm mưu(thuyết ngờ vực hay còn gọi là thuyết nghi ngờ). Hôm nay tôi thử nhìn FED (Federal Reserve System: Cục dự trữ liên bang Mỹ, Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ) xem sao? Dù tôi là người ngoại đạo của hệ thống ngân hàng tài chính. Có gì các bạn chuyên ngành tài chính ngân hàng góp ý giùm cho những cái sai, nếu có.


1. Bản chất của FED:

Năm 1913, mốc thời gian quan trọng mà ngân hàng trung ương Mỹ sau khi trãi qua nhiều cái tên khác nhau như: 1791-1811 là "First Bank of the United States"; 1811-1816 là "Central Bank"; 1816-1836 là "Second Bank of the United States"; 1837-1862 là "Free Banking Era"; 1863-1913 là "National Bank" và từ 1913

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.(1)

Trước 1913, từ sau khi Mỹ tuyên bố độc lập khi tướng George Washington chiến thắng ở Massachusetts, dành quyền in giấy bạc về mình mà không lệ thuộc vào nước Anh - kẻ đô hộ nước Mỹ. Khoảng thời gian từ năm 1781-1791 FED có tên: The Bank of North America. Bản chất vốn của FED giai đoạn trước 1913 là của sự cộng tác về vốn của chính phủ Mỹ 20% và các tập đoàn tài phiệt của chấu Âu gồm có: Anh, Pháp, Đức, Italia và các nhà tài phiệt Hoa Kỳ nắm giữ 80% vốn.

Do suy thoái kinh tế toàn cầu 1907 có nguy cơ làm cho vai trò của các nhà tài phiệt bị mất đi sự thống lĩnh kinh tế toàn cầu, vì nó bộc lộ yếu kém trong điều hành kinh tế Mỹ và toàn cầu làm mất lòng dân chúng. Nên

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(2) đã được các nhà tài phiệt nắm 80% cổ phần FED có cuộc họp soạn thảo Dự luật mang tên thượng nghị sĩ Cộng Hòa vào ngày 22/11/1910, đương kim chủ tịch ủy ban tiền tệ quốc gia Hoa Kỳ lúc bấy giờ -

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(3) - Người có huyết thống với David Rockefeller, ông trùm tài phiệt Mỹ, vua dầu hỏa và là chủ tịch tập đoàn Standard Oil, được mệnh danh là người giàu nhất nước Mỹ.

Cuộc họp bắt đầu ngày 22/11/1910 và kéo dài 12 ngày, do quyết định của tổng thống thứ 26 Theodore Roosevelt (1901-1909) họ đã bỏ ra 2 năm đi chu du và nghiên cứu các hệ thống ngân hàng mà họ cho là tốt nhất thế giới lúc bấy giờ là Anh và Đức. Và được sự ủng hộ của tổng thống phe Dân Chủ thứ 28

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(4), Dự Luật Nelson Aldrich được chính phủ Mỹ công nhận. Bắt đầu năm 1913 cái tên gọi FED được giữ cho đến nay.

Và cũng bắt đầu từ 1913, toàn bộ vốn của FED không có sự tham gia cổ phần của chính phủ mà do các tập đoàn tài phiệt nắm giữ. Họ nắm quyền in đồng Mỹ kim, cứ mỗi Mỹ kim chính phủ Mỹ phải trả họ 2cents từ tiền đóng thuế người dân. Và tùy theo thời điểm mà họ qui định bản vị vàng hay bản vị dầu cho những đồng Mỹ kim được in ra. Nên đồng Mỹ kim có chữ ký chứ không phải đồng tiền tín phiếu như đồng Yuan Trung Quốc và VNĐ của ta. Đây là một điểm độc đáo mà các quỹ dự trữ liên bang hay ngân hàng trung ương các nước trên thế giới không có được. Và cũng chính đây là đặc điểm mà FED có quyền năng tối thượng với kinh tế toàn cầu.


2. Những tập đoàn tài phiệt nắm giữ FED, họ là ai?
Nếu bạn nào có đọc cuốn sách hot năm 2009 ở Việt Nam của tác giả Song HongBing: "

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

" (Currency Wars)(5) sẽ thấy câu nói nỗi tiếng của Meyer Rothschild ngay đầu chương 1: "Chỉ cần khống chế được quyền phát hành tiền tệ của một quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc bất cứ thứ pháp luật nào do ai đặt ra". Đây là ông tổ của hệ thống ngân hàng liên quốc gia hiện đại ngày nay. Gia tộc Rothschild là gia tộc đứng đằng sau giật dây, thiết kế, dàn dựng và tạo ra Dự luật Nelson W Aldrich đã nói ở trên để chiếm lấy FED về tay tư nhân mà chính phủ Mỹ đã phải ngậm đắng nuốt cay nhìn với con mắt bất lực, thèm thuồng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2.1. Gia tộc Rothschild: Một đặc điểm gia tộc Rothschild là

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(6) có dòng họ người Do Thái định cư tại Đức. Mỗi khi nói đến gia tộc này cả thế giới nghĩ ngay đến quyền lực và tiền bạc. Gia tộc này đã xây dựng nên một hệ thống ngân hàng tư nhân và chi phối phần lớn thị trường tiền tệ châu Âu. Tên của gia tộc này gắn liền với 5 chi nhánh ngân hàng Rothschild ở 5 nơi là đầu tàu của châu Âu do 5 người con của Meyer Rothschild nắm giữ: Con trai cả Amschel của Meyer chuyên lo điều hành đại bản doanh M.A Rothschild & Sons của ngân hàng gia tộc Rothschild tại Frankfurt. Người con thứ hai, Salomon Rothschild, đi xây dựng chi nhánh khác của gia tộc ở Vienna-Áo (S.M Rothschild & Sons). Nathan, người thứ ba, là người thông minh, táo bạo và lạnh lùng nhất trong số 5 anh em, ông được cha điều từ Frankfurt đi khai phá chi nhánh ngân hàng Rothschild London vào năm 1798. Calmann, người con thứ tư xây dựng chi nhánh Napoli-Ý và con trai thứ 5 xây dựng chi nhánh thứ 5 tại Paris. Gia tộc này đã biết lợi dụng các cuộc chiến tranh ở châu Âu và chiến tranh thế giới để tạo dựng cơ đồ bằng sự thôn tính các ngân quỹ quốc gia ở châu Âu.

Sau đó gia tộc Rothschild thò vòi bạch tuộc sang đất Mỹ với đại diện là

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(1868-1932)(7), cũng là một người Đức gốc Do Thái, là cổ đông lớn công ty Kuhn Leoband Company tại New York. Ông này vào Mỹ năm 1904, nhưng mãi đến 1911 mới nhập tịch và tham gia vào cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll. Ông Paul Warburg có 4 anh em thì cả 4 đều có vị trí quan trọng: anh cả Max Warburg là cục trưởng cục tình báo Đức. Paul là thứ hai, người giữ chức chủ tịch FED đầu tiên của Mỹ, cũng là người nắm chức vụ về tài chính cao nhất Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Felix Warburg - em trai thứ ba có cổ đông cao trong Kuhn Leob Co. Người em út là Fritz - Nắm chủ tịch sở giao dịch vàng Hamburg-Đức. Gia tộc Rothschild không bao giờ ra mặt ở FED, nhưng họ đứng đằng sau FED kể từ trước 1913 và là kẻ thiết kế, dàn dựng, hình thành và tạo ra Dự luật Nelson W Aldrich từ khi họp ở Jekyll đến được chính phủ Mỹ thông qua.

Không ai biết gia tộc này giàu bao nhiêu? Nhưng so với Bill Gates, người giàu nhất thế giới hiện nay thì họ có số vốn gấp hơn nhiều lần. Nhưng không phương tiện truyền thông nào nhắc đến.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2.2. Gia tộc Rockefeller: Đại diện gia tộc Rockefeller là ngài

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(8), một người Mỹ sinh trưởng ở New York city, cháu nội duy nhất của triệu phú trùm dầu hỏa, người sáng lập ra Standard Oil - John D. Rockefeller. Tiếp quản tập đoàn dầu hỏa từ ông nội sau khi lấy tấm bằng PhD về kinh tế. David Rockfeller đã bành trướng lĩnh vực tham gia sang ngân hàng, người sáng lập và chủ Citigroup và ngay cả Chase Manhattan Bank của gia tộc Morgan ông cũng là một cổ đông lớn. Chính JP Morgan là người giúp cho gia tộc Rockefeller tiêu diệt toàn bộ đối thủ cạnh tranh với việc chuyên chở dầu giá rẻ đi khắp liên bang. Ông còn là nhân vật quan trọng trong lãnh đạo quốc gia. Một thời nước Mỹ xem ông là người giàu nhất nước Mỹ. Ông nội ông là một trong những thành viên tham gia cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll để soạn thảo ra Dự Luật Albrich. Người có huyết thống với ông. Hãy cứ nhìn hình ảnh

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Chu Ân Lai(9), thủ tướng Trung Quốc trong thời chiến tranh lạnh là đủ thấy ông có vai trò quan trọng như thế nào trong chính trường thế giới.

Lịch sử nhắc tới gia tộc Rockefeller như là người giàu nhất nước Mỹ bằng vào con đường đâm thuê chém mướn để dành lấy ngôi vị độc tôn dầu hỏa ở Mỹ từ thế hệ ông nội của David Rockefeller. Thì đến đời David Rockefeller, ông chủ với chủ sở hữu từ trùm dầu hỏa và một loạt ngân hàng, cũng như bàn tay lông lá quan trọng đến chính trường nước Mỹ. và thế giới. Nếu ai đã đọc Godfather thì có thể hiểu rằng gia tộc này đã đi lên bằng con đường như thế nào? Nhưng không ai biết tài sản của gia tộc này là bao nhiêu? Nhưng có lẽ, cỡ Bill Gates còn kém gấp nhiều lần.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2.3. Gia tộc JP Morgan: Đại diện gia tộc Morgan là ngài

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(10), cũng là một người Mỹ sinh ra và lớn lên ở Connecticut. Ông là trùm ngành công nghiệp Mỹ từ sắc thép đến truyền thông như AT&T, General Electric, cha để của dự án xây dựng hệ thống đường ray toàn nước Mỹ và những hãng bảo hiểm lớn nhất nước Mỹ. Gia tộc Morgan còn nắm 1 lượng lớn cổ phần của Cittigroup của gia tộc Rockfeller. Tập đoàn JP Morgan ước tính có tổng số tài sản tương đương với dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc năm 2009, khoảng 2,041 tỷ USD! Ông không tham gia cuộc họp bí mật ở đảo Jekyll, nhưng có trợ lý Benjamin Strong của ông. Ông mất năm 1913 tại Ý. Song tập đoàn JP Morgan mãi mãi trường tồn và lớn mạnh. Nhưng tiền thân của JP Morgan là đứa con được gia tộc Rothschild đỡ đầu từ hệ thống ngân hàng Merchant Bank do George Peabody và xây dựng một tiền đồn dài lâu cho cuộc tấn công vào thị trường tài chính của nước Mỹ!!!


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2.4. Gia đình Carnegie: Đại diện gia dình này là ngài

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(11). Một trong những ông vua công nghiệp sắc thép của Pittsburgh, PA, nhà doanh nghiệp, người khai sinh môi giới tài chính và là một con người vì sự nghiệp giáo dục và bảo tàng của nước Mỹ. Ông đến Mỹ cùng cha từ Scotland. Ai đã từng quan tâm đến giáo dục Mỹ không thể không biết đến

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(12) do ông lập ra rất nỗi tiếng. Và còn bao nhiêu công trình vì cộng đồng do ông tạo nên. Ông được phong tặng là nhà từ tâm của nước Mỹ.


2.5. Một số thành viên khác: Ngoài những thành viên cộm cán trên. Một số thành viên tham gia cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll, ngày 22/11/1913 để quyết định đem FED về cho quyền lực ngầm tài phiệt tư nhân. Như

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(14), chủ tịch First National Bank.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(15) cổ đông lớn của JP Morgan và là chủ tịch Liberty National Bank, chủ tịch chữ thập đỏ Mỹ. Và

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(16) chủ tịch National city Bank và là người từng cho chính phủ Mỹ mượn tiền trong cuộc chiến tranh lập quốc giữa Mỹ và Tây Ban Nha.

Ngoài ra còn có 2 thành viên chính phủ là Nelson Albrich, nhưng thực ra là gia đình của Rockefeller. A. Piatt Andrew, trợ lý bộ trưởng tài chính.

Qua đó, có một điều đáng quan tâm là FED là tư nhân hoàn toàn và không chỉ là của những nhà tài phiệt Mỹ. Họ là tập hợp của một NHÓM QUYỀN LỢI ăn chia tài chính với chính phủ Mỹ có 80% cổ phần trong FED. Sau đó đã gây áp lực với chính phủ Mỹ thông qua cho vay tài chính trong các cuộc chiến tranh để đi đến thâu tóm toàn bộ quyền lợi tài chính thế giới 100% về mình và trỡ thành QUYỀN LỢI NHÓM. Các thành viên tạo vốn cho FED có mặt ở toàn cầu. Mỗi hơi thở FED là sự sống hay cái chết kinh tế của toàn cầu.

PHẦN II: DỰ LUẬT ALDRICH VÀ SỰ SỐNG KINH TẾ TOÀN CẦU
Nước Mỹ là nơi những con người bỏ mẫu quốc ra đi để tìm một chân trời mới không theo những lề thói cũ của những cựu lục địa già nua. Những quốc phụ tạo nên nước Mỹ đã có những tấm lòng cao cả muốn xây dựng một thiên đường hạ giới cho miền đất mới. Nhưng vì lòng tham của con người đã làm thất vọng họ, dù họ đã cố gắng chống chọi bằng cách đưa ra nhiều đạo luật để bảo vệ tuyên ngôn nước Mỹ.

Lịch sử nước Mỹ có những trang đau buồn vì phân biệt chủng tộc, vì nội chiến etc... Nhưng có lẽ đau buồn nhất là sự thông qua đạo luật Nelson Aldrich vào ngày 23/12/1913 của tổng thống thuộc đảng Dân chủ thứ 28: Thomas Woodrow Wilson (1913-1921). Cái ngày mà người ta bảo rằng: Cho đến nay trong lịch sử 43 đời TT Mỹ, không có một tổng thống nào ký bất kỳ một dự luật nào một cách vội vã trước khi thiên chúa giáng sinh! Điều mà sau này chính ông cũng đã phải thốt lên đó là sai lầm của mình(1). Nhưng ông không thể làm khác vì chiếc ghế ông ngồi vào đã được định 2 năm trước khi tổng tuyển cử tổng thống nhiệm kỳ thứ 28. Và việc ông ký đạo luật Aldrich là việc ông phải làm một cách bất thường để trả lễ cho chiếc ghế quyền lực của mình vì những gì mà những ông trùm tài phiệt đã đánh bóng, loppy và đưa ông lên đỉnh vinh quang của sự nghiệp chính trị. Mặc dù trước ông, hai vị tiền nhiệm đã vì nhân dân Mỹ và nước Mỹ nên họ đã chạm vào thánh đường tiền tệ, mà họ phải đối diện với mưu sát: TT thứ 7: Andrew Jackson (1829-1837)(17) và TT thứ 16 bị ám sát: Abraham Lincoln (1861-1865)(18). Lịch sử nước Mỹ có 3 vị tổng thống muốn lấy quyền in tiền về chính phủ. Hai người vừa kể và người thứ 3 là TT thứ 35: John F. Kennedy (1961-1963)(19). Họ đều có hoặc cận kề với cái chết!

Như vậy, tại sao có đạo luật Aldrich? Nó ra đời như thế nào? Nó phục vụ cho ai? Và nó có vai trò gì với nước Mỹ và nhân loại?

A. Đạo luật Nelson Aldrich có gì?(20)
Hiến pháp Mỹ vì tính lịch sử mà có một lỗ hổng chết người là chính phủ chỉ phát hành tiền đồng kim loại, còn tiền giấy thì chỉ là tờ chứng nhận trao đổi. Nước Mỹ trước năm 1913, có 20% cổ phần trong ngân hàng trung ương như đã nói. Nhưng với 20% đó không đủ lực để chống chọi 80% còn lại khi từ nhóm quyền lợi họ kết dính nhau để trở thành quyền lợi nhóm. Chính điều này mà các cuộc suy thoái kinh tế và chiến tranh do các nhà tài phiệt đã nêu ra ở phần 1, tạo ra bằng cách thổi phồng cho vay lãi suất thấp, rồi thắt chặt tiền tệ nâng lãi suất thu hồi tiền về từ các con nợ. Đẩy con nợ vào cảnh bần cùng, bán nhà, bán đất, vô gia cư. Và làm cho chính phủ Mỹ lâm vào thế nợ nần chồng chất. Nên một cuộc cải tổ tài chính Mỹ đã được ông TT thứ 26 Theodore Roosevelt đề xuất và giao cho những nhà tài phiệt nghiên cứu và viết ra. Bộ óc khổng lồ với tư duy minh triết, uyên thâm lúc bấy giờ ngồi vào chấp bút là Paul Warburg. Người đại diện dòng học Rothschild tại Mỹ và đã lập ra một chân rết với gia tộc Rockefeller và JP Morton trước khi có cuộc âm mưu ở đảo Jekyll. Điều gì có lợi cho các tập đoàn tài phiệt đến ắt đến. Câu chuyện ngắn gọn ở phần 1, nói lên tất cả và từ đó mọi sức khỏe của kinh tế toàn cầu đã thuộc về tay các ông trùm tài phiệt trên toàn cầu.

Đạo luật Nelson Aldrich có mấy điều đáng chú ý:
1. FED(21) là ngân hàng tư nhân 100% hoàn toàn, chính phủ Mỹ không còn cổ phần trong FED. Một khi chính phủ muốn chi tiêu quá phần tiền thu thuế từ dân Mỹ thì chính phủ phải vay tiền từ FED thông qua FED in thêm tiền. Quốc hội có nhiệm vụ khống chế FED.
2. FED là tổ chức duy nhất được phép in tiền giấy Mỹ kim. Chính phủ Mỹ chỉ được phép đúc tiền đồng Mỹ kim từ giá trị <=$1. Mỗi lần FED in thêm tiền USD bao nhiêu thì chính phủ Mỹ hay nói cách khác là người dân Mỹ phải nợ FED bấy nhiêu.
3. FED gồm có 12 FED con nằm ở các tiểu bang: mỗi FED con là ngân hàng thương mại tư nhân ở địa phương. 12 FEd con có trụ sở ở: 1- Boston, 2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco, 7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và 12-Dallas. Theo đó các FED con đều có quyền in tiền giấy. Cứ theo thứ tự từ 1 đến 12 mà đánh vần theo alphabets thì A là FEd của Boston in ra, B là FED của New York in ra ...ký hiệu đầu serial ở trên tờ tiền. Nhưng FED New Yrok chiếm 53% cổ đông của FED liên bang.
4. Trung ương FED đặt ở Washington DC, nhưng mọi hoạt động làm khuynh đảo thế giới tài chính ở New York. Đây là một trò dối trá cùng với chia đều 12 FED con để vuốt ve nhóm miền Nam và người dân Mỹ sau những cuộc suy thoái do họ làm ra để moi từng đồng tiền từ túi dân nghèo.
5. Cơ cấu FED gồm một hội đồng quản trị có 7 thành viên:
+ Có 3 thành viên: Chủ tịch hội đồng quản trị FED (Chairman of the Goverment Board), Bộ trưởng tài chính (The Treasury Secretary) và Giám Sát Ngân Khố (the Comptroller of Treasury) là người của chính phủ.
+ Thành viên của hội đồng quản trị do tổng thống bổ nhiệm và thay thế. Nhưng mỗi nhiệm kỳ TT Mỹ chỉ được bổ nhiệm và thay thế 2 lần, mỗi lần chỉ 1 người với sự chấp thuận của thượng viện.
+ Nhưng chức năng của hội đồng quản trị FED do hội đồng tư vấn liên bang (Federal Advisory Council) khống chế, và cùng với hội đồng quản trị, Hội đồng tư vấn liên bang sẽ mở hội nghị thảo luận công việc.
+ Thành viên của hội đồng tư vấn liên bang sẽ do Chủ tịch hội đồng quản trị của 12 FED con quyết định. Nhưng đa số thành viên của hội đồng quản trị là do hiệp hội ngân hàng trực tiếp hoặc gián tiếp khống chế.
6. Đồng đô la Mỹ có thể co giãn theo tình hình và được tái chiết khấu. Và bắt đầu sau dự luật người dân Mỹ bắt đầu phải đóng thuế thu nhập (income tax).


Qua đó, chúng ta thấy có mấy điều quan trọng sau đây:
1. Cái gọi là Cục dự trữ liên bang Mỹ hình thức và hiện tượng là của chính phủ Mỹ. Nhưng bản chất là của các nhà tài phiệt đã nói ra ở phần 1. Một sự lấp liếm và lách luật tài tình của Paul Warburg - một tay Đức có nguồn gốc Do Thái.
2. Tước bỏ hoàn toàn chức năng in tiền giấy của chính phủ Mỹ kể từ ngay trước ngày thiên chúa giáng sinh năm 1913. Nhưng trên đồng tiền Mỹ kim vẫn tồn tại câu: "In God, We trust". Và kể từ đó, bao tờ tiền đô la xanh in ra là người dân Mỹ nợ FED bấy nhiêu.
3. Một sự che lấp quyền lực đằng sau hậu trường với người dân Mỹ và các nhóm tài chính miền Nam để khuynh đảo chính trường nước Mỹ và chỉ huy kinh tế, chính trị toàn cầu.
4. Hủy hoại lý tưởng cao cả của những con người có công khai sinh ra cái gọi là "Miền đất hứa", từ khi nước Mỹ chỉ là 13 bang lập quốc ban đầu tiên của 6 bang thuộc New England, 6 bang thuộc Mid Atlantic và Puerto Rico.
5. Cái điều cuối cùng lưu ý trong đạo luật Nelson Aldrich đã giúp cho FED được quyền làm tăng hay giảm giá đồng Mỹ kim và cũng cho phép các ngân hàng thương mại bơm tiền vào thị trường hay thu tiền vào lại ngân hàng một cách tự do để thổi phồng cái bong bóng kinh tế hoặc chích xì quả bóng tạo ra những cuộc suy thoái chủ động theo ý

#467 NLuong

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 723 Bài viết:
  • 588 thanks

Gửi vào 01/05/2014 - 03:52

Đúng là vậy. Toàn nhân dân Mỹ là nô lệ cho 1 nhóm tư bản không biết họ là ai mà chỉ biết qua bàn tay FED từ 1913. Điều này TT Kennedy đã biết rõ và đã cố dùng quyền hành TT để chống lại thế lực này. Kết quả là thảm bại.

Bất cứ nước nào có dầu và bán dầu không lấy tiền đô đều bị tiêu diệt như Saddam Hussein và Muammar al-Gaddafi. Mỹ và Tây Phương năm ngoái (2013) muốn chụp mũ Syria với vũ khí hóa học để tấn công Syria rồi mở đường tiến đánh IRAN, cũng vì IRAN bán dầu không lấy tiền đô.



#468 minhminh

    Ban Điều Hành

  • Ban Điều Hành
  • 3867 Bài viết:
  • 24434 thanks

Gửi vào 01/05/2014 - 04:04

viên hiện tại và trong quá khứ.

Tất cả những cuộc họp của CLB trên đều diễn ra trong điều kiện bí mật hoàn toàn theo những giấy mời cá nhân đặc biệt. Tất cả những vị khách đều tới địa điểm họp một mình, không được mang theo bất cứ một trợ lý, vệ sĩ, bạn bè hay người nhà nào. Theo nguyên tắc, các đại biểu bị ngăn cấm các hình thức ghi chép, đưa ra tuyên bố với báo chí hay bàn luận về nội dung họp với người bên ngoài.

Bất chấp những đặc điểm cực kỳ bí mật như vậy, mỗi một cuộc gặp của CLB Bilderberg đều thu hút được sự chú ý đặc biệt. Đơn giản là báo chí và công chúng không thể bỏ qua sự kiện thu hút một số lượng lớn những nhân vật nổi tiếng và có ảnh hưởng cùng tới một địa điểm nào đó. Cũng chính vì đặc điểm quá bí mật trên, hoạt động của CLB Bilderberg đã làm nảy sinh không ít những giả thuyết khác nhau, đa phần trong số này đều cho rằng các thành viên CLB đang bí mật điều hành cả thế giới.

Một số nhà quan sát còn cho rằng, chính cơ quan mật vụ Mỹ là người khởi xướng trực tiếp cho việc hình thành CLB này. Theo đó, những người sáng lập thực sự chính là nam tước Edmund Rothschild và Laurance Rockefeller, những thành viên đầu tiên của CLB. Cũng theo khẳng định của nhà quan sát này, một trong những mục tiêu chính được đặt ra ngay sau khi thành lập CLB chính là xây dựng một siêu quốc gia của toàn châu Âu với ngân hàng Trung ương, tiền tệ thống nhất dưới sự kiểm soát của Mỹ. Còn mục tiêu cuối cùng là thành lập một chính phủ liên quốc gia có quy mô toàn cầu.

Năm nay, sự chú ý của toàn thế giới lại tập trung vào thị trấn nghỉ mát Sitges gần Barcelona (Tây Ban Nha), nơi được chọn làm địa điểm gặp gỡ lần này của các thành viên CLB Bilderger. Ngay trước cuộc gặp này, một trong những nhà nghiên cứu nổi tiếng nhất về CLB trên là Daniel Estulin đã khẳng định, ông biết về các chủ đề sẽ được bàn bạc trong cuộc gặp lần này. Chủ đề hàng đầu trong số này chính là tương lai của đồng euro. “Họ sợ sẽ có một vài nước rút khỏi khu vực đồng euro, khiến đồng tiền này sẽ bị chết yểu – Estulin giải thích – Nguy cơ các nước quay trở lại với chính sách định hướng dân tộc chính là một cơn ác mộng đối với họ”.

Giả thuyết trên có thể được lý giải bằng sự hiện diện và phát biểu của Thủ tướng Tây Ban Nha Luis Zapatero. Hiện các nước trong nhóm PIIGS – gồm Bồ Đào Nha, Ailen, Italia, Hy Lạp và Tây Ban Nha – đang gây ra những lo ngại thực sự cho các thành viên CLB Bilderger. Họ lo ngại tình trạng yếu đi của đồng euro có thể sẽ khơi mào cho một làn sóng khủng hoảng toàn cầu mới, có thể dẫn tới những biến đổi nghiêm trọng về tình hình chính trị trên toàn cầu.

file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image002.jpgHiện cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger (87 tuổi) và cựu Chủ tịch David Rockerfeller của Chase Manhattan Bank là những thành viên nhiều tuổi nhất của CLB. Còn trong danh sách những nhân vật được mời trong năm đã xuất hiện những nhân vật tương đối trẻ, chẳng ahnj như Bộ trưởng Tài chính Anh George Osborn (39 tuổi).

Những người chống đối tổ chức này tin rằng, bên trong Bilderberg chính là một âm mưu từ lâu nay của các ông trùm tư bản nhằm chống lại loài người. Có không ít những nhà hoạt động chống lại CLB Bildergerg đã tụ tập tại Sitges. Ngoài hoạt động biểu tình phản đối, họ hy vọng còn có thể khai thác được thông tin giúp làm rõ được những kế hoạch bí mật của hội kín trên.
Tập đoàn tinh anh thống trị thế giới
Ngày 16 tháng 7 năm 1992, ngay sau khi được đề cử cho cuộc tranh cử tổng thống tại đại hội đảng Dân chủ, Clinton đã phát biểu hết sức dõng dạc về tinh thần đoàn kết, lý tưởng, nhân dân và đất nước bằng những lời chẳng có gì mới mẻ. Nhưng khi kết thúc bài diễn văn, đột nhiên Clinlon nhắc đến người thầy của mình - vị giáo sư sử học nổi tiếng nhất nước Mỹ giảng dạy tại Đại học Georgetown, Carroll Quigley. Ảnh hưởng của Carroll Quigley đối với Clinton được chính Clinton ví như sự ảnh hưởng của Tổng thống Kennedy đối với ông ta vậy(2) Và trong suốt thời gian làm tổng thống sau này của mình, Clinton đã nhiều lần nhắc đến tên của Carroll Quigley. Vậy chủ trương gì của Carroll Quigley đã khiến cho Clinton phải khắc cốt ghi tâm đến thế?
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image004.jpgThực ra, Quigley là một nhân vật có ảnh hưởng lớn trong việc nghiên cứu tổ chức tinh anh bí mật Anh - Mỹ. Ông luôn cho rằng những tổ chức bí mật này đã có ảnh hưởng quyết định đến hầu hết mọi sự kiện trọng đại trên thế giới.
Tốt nghiệp Đại học Harvard, giáo sư Quigley từng đảm nhận các vị trí ở Cục Tham mưu Brooklings, Bộ Quốc phòng, Bộ Hải quân Mỹ và có mối quan hệ rất mật thiết với các quan chức cấp cao trong Cục Tình báo Trung ương. Với vai trò của một "người trong cuộc", Quigley đã từng tiếp xúc với rất nhiều tài liệu lịch sử và hồ sơ tuyệt mật. Tuy nhiên, ông không tỏ ra là người chống đối "lý tưởng" mà số rất ít các tinh anh thống trị của Anh - Mỹ đã sắp đặt ra cho toàn thế giới, mà chỉ luôn giữ thái độ "bảo lưu" đối với một số cách làm cụ thể trong đó, rồi thêm vào đó là những nhận xét đầy hàm ý trong các nghiên cứu của mình. Chính thái độ đó nên ông không hề gặp phải sự "thắc mắc" nào của các học giả thuộc dòng "chủ lưu". Ngoài ra, với hơn 20 năm làm công việc nghiên cứu, được tiếp xúc với một lượng lớn các hồ sơ lịch sử tuyệt mật nên ông được giới sử học Mỹ đánh giá cao. Chính những điều đó khiến ông hiếm có đối thủ khiêu chiến. Chỉ cần học thuyết của ông không nguy hiểm cho giới cầm quyền thì những người trong nhóm tinh anh cũng sẽ chẳng việc gì phải đụng đến ông.
Tốt nhất là chúng ta nên thiết lập một “lâu đài trật tự thế giới” từ dưới lên, chứ không phải là xây ngược lại từ trên xuống. Bởi rốt cuộc thì cái gọi là chủ quyển quốc gia có thể dùng biện pháp xâm chiếm từng bước để giành được. Việc làm này sẽ cho phép chúng ta đạt được mục đích của mình nhanh hơn so với những cách làm cũ. (1)
Richard Garner – Tạp chí “Các vấn đề quan hệ quốc tế”, tháng 4 năm 1974
Theo quan điểm của giáo sư Quigley, Viện Hoàng gia về các vấn đề Quốc tế ở Anh, Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ (CFR), nhóm Bilderberg, ủy ban ba bên (Trilateral Com mission) rõ ràng là những tổ chức hạt nhân của câu lạc bộ tinh anh luôn muốn thao túng cục diện thế giới. Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ có 3.600 thành viên, tương đương với "trường đảng trung ương" của Mỹ. Và việc gia nhập vào tổ chức này thì cũng giống như việc bước vào đại sảnh của chính giới Mỹ hay cơ hội để trở thành người hoạch định chính sách của thế giới tương lai. Nhóm Bilderberg kết hợp thêm các phần tử tỉnh anh của châu âu, còn ủy ban ba bên có đen 325 thành viên, lại thêm các phần tử tinh anh của Nhật Bản và các quốc gia chầu Á khác. Tất cả những thành viên có tiếng nói trong Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ thì thường là thành viên của các tổ chức khác. Các nhân vật tinh anh trong những tổ chức này bao gồm những nhân vật có thế lực đủ để làm xoay chuyển cục diện thế giới như Henry Kissinger - cựu Bộ trưởng ngoại giao Mỹ, D. Rockefeller của ủy ban quốc tế JP Morgan, Nelson Aldrich Rockefeller, hoàng tử Phillip của Anh, McNamara - Bộ trưởng quốc phòng Mỹ thời Tổng thống Kennedy và sau này là Giám đốc điều hành của Ngân hàng thế giới, bà Thatcher - cựu Thủ tướng Anh, Valéry Giscard d'Estaing - cựu Tổng thống Pháp (chính là người đã lên kế hoạch cốt yếu về hiến pháp châu Âu), Donald Rumsfeld - Bộ trưởng quốc phòng Mỹ, Brzezinski - cựu cố vấn an ninh quốc gia, Alan Greenspan - Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, và Keynes - nhân vật nổi tiếng trong giới ngân hàng một thời. Ông chủ Ngân hàng quốc tế chính là ông chủ đứng đằng sau tất cả những tổ chức này. Dòng họ Rothschild đã chủ từ rất nhiều hội nghị của Bilderberg. Năm 1962 và năm 1973, hội nghị Bilderberg diễn ra ở địa điểm nghỉ mát nổi tiếng ở Thụy Điển do dòng họ Warburg đứng ra tổ chức.
Thời đại học, dưới sự hướng dẫn và chỉ bảo của giáo sư Quigley, Clinton đã nhận ra rằng, nếu muốn hiển danh trong chính giới thì không chỉ cần nỗ lực phấn đấu mà còn phải trở thành một thành viên trong guồng máy quyền lực.
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image006.jpgQuả nhiên, sau này Clinton đã gia nhập ủy ban ba bên và Hội đồng Quan hệ Quốc tế đồng thời tham gia lớp "học giả Rhodes" - một nơi chuyên đào tạo, bồi dưỡng nên những "cán bộ" quan trọng của "chính phủ thế giới" trong tương lai. Năm 1989, Clinton đã gia nhập Hội đồng Quan hệ Quốc tế Và tới năm 1991, khi giữ chức Thống đốc bang Arkansas, Clinton đã xuất hiện tại hội nghị thường niên của nhóm Bilderberg tổ chức tại Đức. Phải thừa nhận rằng đã có rất nhiều thống đốc các bang lớn ở Mỹ rất muốn tham gia cuộc "tụ hội tinh anh siêu cấp" này. Và chỉ sau một năm, Bill Clinton - Thống đốc bang Arkansas xa xôi chẳng mấy tiếng tăm - đã đột nhiên đánh bại nhiều chính trị gia cáo già để lên làm Tổng thống. Đó chính là lý do vì sao Clinton luôn khác cốt ghi tâm những lời chỉ bảo của giáo sư Quigley.


Câu lạc bộ Bilderberg
Nếu như những năm đó công khai mọi điều cho công chúng biết thì chúng ta đã không thể hoạch định kế hoạch phát triển cho thế giới. Mà hiện nay, thế giới ngày càng phức tạp, còn chúng ta thì chuẩn bị tiến bước mạnh mẽ để trở thành chính phủ thế giới. Bởi những người nắm giữ chủ quyền siêu quốc gia đều là các tầng lớp ưu tú và các ông chủ ngân hàng thế giới nên điều tốt hơn là chúng ta nên tổ chức lấy quyền tự quyết quốc gia trong thực tế hơn là cách làm cũ trong quá khứ như nhiều thế kỷ trước.(4)
John Davison Rockefeller, năm 1991
Câu lạc bộ Bilderberg được lấy tên từ một khách sạn của Hà Lan, do ông hoàng người Hà Lan, Bernhard sáng lập vào năm 1954. Câu lạc bộ Bilđerberg là "phiên bản quốc tế" của Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ, do các nhà tài phiệt ngân hàng, chính trị gia, lãnh đạo doanh nghiệp, các nhà báo và các học giả nổi tiếng tạo nên. Tất cả các thành viên này đều do Rothschild và Rockefeller chọn ra. Trong đó rất nhiều người còn là thành viên của Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ, hiệp hội Pilgrims Society, hiệp hội bàn tròn, và cả Ủy ban ba bên. Câu lạc bộ Bilderberg này hầu như đã kiểm soát hết toàn bộ hệ thống tổ chức của hiệp hội châu Âu hiện có trong liên minh châu Âu. Mục đích cuối cùng của họ chính là xây dựng một chính phủ thế giới. (5)

Cuộc họp đầu tiên của CLB tại Hà Lan, 1954

Đặc điểm hoạt động lớn nhất của tổ chức này chính là "bí mật".
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image008.jpgCơ quan đầu não của tổ chức này đặt tại Leiden thuộc miền tây Hà Lan, có cả số điện thoại nhưng lại không có mạng lưới. Chỉ rất ít các thám tử tự do như Tony Gosling của Anh hay James Tucker của Mỹ phải mất rất nhiều công sức và cả sự mưu trí mới có thể thu thập được những thông tin có liên quan đến địa điểm và lịch trình hội nghị của câu lạc bộ này. Suốt 30 năm, Tucker đã theo dõi câu lạc bộ này và cuối cùng đã xuất bản một cuốn sách nói về nó. Còn nhà sử học Pierre de Villemarest và William Wolf đã cộng tác cùng nhau để xuất bản cuốn sách "Facts and Chronicles Denied to the Public", trong đó tập 1 và 2 đã miêu tả lịch sử phát triển bí mật của câu lạc bộ Bilderberg. Một cuốn sách khác do nhà xã hội học Geoffrey Geuens của Vương quốc Bỉ viết cũng có một chương tập trung miêu tả về câu lạc bộ này.
Etienne Davignon - cựu Phó chủ tịch ủy ban châu Âu, thành viên của câu lạc bộ Bilderberg - đã khẳng định rằng: “Đây không phải là âm mưu thao túng thế giới của các nhà tư bản”. Còn Thierry de Montbrial - Viện trưởng Học viện quan hệ quốc tế Pháp, gia nhập câu lạc bộ này đã gần 30 năm thì nói rằng, đây chẳng qua chỉ là một “câu lạc bộ” mà thôi. Sở dĩ những người này có những lời phát biểu như trên vì trong thông báo chính thức hội nghị năm 2002 của câu lạc bộ Bilderberg có đoạn nêu: “hoạt động duy nhất của câu lạc bộ là tiến hành hội nghị thường niên. Hội nghị này không đề ra bất cứ nghị quyết nào, cũng không tiến hành bỏ phiếu, không phát biểu thanh minh bất cứ chính sách nào.” Và câu lạc bộ Bilderberg chỉ là “một diễn đàn quốc tế nhỏ linh hoạt không chính thức. Các đại biểu tham gia hội nghị có thể phát biểu mọi quan điểm khác nhau, để tăng cường hiểu biết giữa các bên.”
Nhưng theo Will Hutton - nhà kinh tế học người Anh thì “ý kiến thống nhất đạt được trong mỗi lần hội nghị của câu lạc bộ Bilderberg" chính là đoạn mở đầu lập ra chính sách thế giới”. Cách nói của ông thể hiện sự tiếp cận với sự thật ở mức độ tương đối bởi những quyết định được đưa ra tại hội nghị của câu lạc bộ Bilderberg về sau đều dần trở thành phương châm định trước của các nước thuộc hiệp hội G8, Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới.
Đối với câu lạc bộ Bilderberg, giới truyền thông luôn tỏ ra im lặng và phục tùng. Năm 2005, tờ Financial Times đưa tin trước rồi sau đó giải quyết theo hướng làm giảm nhẹ "thuyết âm mưu" đang gây xôn xao dư luận. Trên thực tế, bất cứ ai có chất vấn hay nghi ngờ người của câu lạc bộ hùng mạnh nhất thế giới này đều sẽ bị biến thành đối tượng bị đàm tiếu trong các "tác phẩm" của những phê bình lý luận. Các thành viên của câu lạc bộ Bilderberg như các nghị sĩ Anh hoặc những quan chức cao cấp Mỹ thì đều nói rằng, chẳng qua đó chỉ là một nơi để bàn luận vấn đề, một diễn đàn mà người người đều có thể "tự do phát biểu ý kiến".
F. William Engdahl, tác giả cuốn "Cuộc chiến trăm năm: chính trị dầu mỏ Anh - Mỹ và cuộc đại chiến thế giới mới", đã giải thích tỉ mỉ một đoạn bí mật mà rất ít người biết từng xảy ra trong hội nghị Bilderberg khi được tổ chức ở Thụy Điển năm 1973.
Trong những năm đầu sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ, vị thế của đồng đô la Mỹ đã rơi vào khủng hoảng chưa từng thấy trên phạm vi toàn thế giới. Sau khi tách khỏi vàng, sợi dây diều uy tín và giá trị của đồng đô la Mỹ đã bị cắt đứt và bị cuốn trôi đi theo gió trong cơn bão táp tài chính thế giới. Vì vẫn còn chưa bàn xong kế hoạch chuẩn bị cho hệ thống tiền tệ thế giới, các ông chủ ngân hàng quốc tế cũng trở nên bối rối. Chính sách "quyền rút vốn đặc biệt" được đề ra “long trọng” trên thị trường tài chính quốc tế năm 1969 nhưng chẳng ai đếm xỉa đến. Thấy sắp mất quyền kiểm soát, các ông chủ ngân hàng quốc tế đã vội triệu tập một hội thảo khẩn cấp trong hội nghị Bilderberg năm 1973 nhằm giành lại quyền kiểm soát tình hình nguy cấp của thj trường tài chính thế giới lúc đó. Nhiệm vụ đặt ra là phải tìm cách khôi phục lại niềm tin vào đồng đơm Mỹ. Walter Levy - chiến lược gia tài chính của Mỹ - đã đề xuất một kế hoạch táo bạo: thả nổi giá dầu mỏ thế giới, mặc giá tăng lên đến 400%, và hoạch định làm sao để thu được thắng lợi lớn từ việc này.
84 thành viên của các công ty dầu mỏ lớn và tập đoàn tài chính lớn đã tham gia hội nghị lần này. Kết luận mà Engdahl rút ra là:
Mục đích tập trung của những thế lực quyền quý này là để lập lại cân bằng quyền lực theo hướng có lợi về tài chính cho Mỹ cũng như tìm hướng phát triển cho đồng đô-la. Để đạt được mục đích này, họ quyết định lợi dụng vũ khí mà luôn được coi trọng nhất - quyền khống chế nguồn cung ứng dầu mỏ toàn cầu. Chính sách của câu lạc bộ Bilderberg chính là tạo nên cuộc cấm vận dầu mỏ toàn cầu, khiến cho giá dầu mỏ thế giới tăng vọt. Bắt đầu từ năm 1945. theo thông lệ quốc tế, dầu mỏ thế giới được định giá bằng đồng đô la Mỹ vì các công ty dầu mỏ của Mỹ đang khống chế thị trường này sau chiến tranh. Vì vậy, khi giá dầu thế giới đột ngột tăng lên cũng đồng nghĩa nhu cầu đổi đồng đô la Mỹ trên thế giới (dùng để mua dầu) cũng sẽ tăng, từ đó mà ổn định được giá trị tiền tệ của đồng đô la Mỹ.(6)
Còn Kissingger đã dùng hình ảnh "đồng đô la Mỹ chảy không ngừng vào dầu mỏ" để hình dung kết quả giá dầu thế giới leo thang.
Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

- Song Hongbing, NXB Trẻ, 2008
(1) Richard Gardner, Foreign Affairs, 04/1974
(2) Bill Clinton, Diễn văn của Thống đốc bang Arkansas Bill Clinton tại Đại hội Đảng Dân chủ quốc gia, 16/07/1992
(3) Marc Fisher, Washington Post, số ra thứ Ba, 27/1/1998
(4) Pepe Escobar, Bilderberg lại tấn công (Bilderberg strikes again), Asia Times, 10/5/2005
(5) Sách đã dẫn
(6) William Engdahl, Một thế kỷ chiến tranh: Quan điểm chính trị dầu khí Anh-Mỹ và Trật tự thế giới mới (A Century of War: Anglo – American Oil Politics and The New World Order) – Pluto Press, London, 2004; chương 9.


Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) sự ra đời và bản chất của nó
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image010.jpg
"Tôi tư duy, nên tôi tồn tại" câu nói rất minh triết của nhà khoa học, nhà triết học và đồng thời là nhà toán học Pháp. Rene' Decartes, ông được xem là cha đẻ của nền triết học hiện đại. Lâu nay tôi luôn mê mẫn thuyết âm mưu (Conspiracy Theory). Nó giúp tôi tìm tòi, tự học và nhìn vấn đề phản biện ở góc độ khoa học trong mọi lĩnh vực. Tôi đã có 3 loạt bài về thuyết âm mưu(thuyết ngờ vực hay còn gọi là thuyết nghi ngờ). Hôm nay tôi thử nhìn FED (Federal Reserve System: Cục dự trữ liên bang Mỹ, Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ) xem sao? Dù tôi là người ngoại đạo của hệ thống ngân hàng tài chính. Có gì các bạn chuyên ngành tài chính ngân hàng góp ý giùm cho những cái sai, nếu có.


1. Bản chất của FED:

Năm 1913, mốc thời gian quan trọng mà ngân hàng trung ương Mỹ sau khi trãi qua nhiều cái tên khác nhau như: 1791-1811 là "First Bank of the United States"; 1811-1816 là "Central Bank"; 1816-1836 là "Second Bank of the United States"; 1837-1862 là "Free Banking Era"; 1863-1913 là "National Bank" và từ 1913

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.(1)

Trước 1913, từ sau khi Mỹ tuyên bố độc lập khi tướng George Washington chiến thắng ở Massachusetts, dành quyền in giấy bạc về mình mà không lệ thuộc vào nước Anh - kẻ đô hộ nước Mỹ. Khoảng thời gian từ năm 1781-1791 FED có tên: The Bank of North America. Bản chất vốn của FED giai đoạn trước 1913 là của sự cộng tác về vốn của chính phủ Mỹ 20% và các tập đoàn tài phiệt của chấu Âu gồm có: Anh, Pháp, Đức, Italia và các nhà tài phiệt Hoa Kỳ nắm giữ 80% vốn.

Do suy thoái kinh tế toàn cầu 1907 có nguy cơ làm cho vai trò của các nhà tài phiệt bị mất đi sự thống lĩnh kinh tế toàn cầu, vì nó bộc lộ yếu kém trong điều hành kinh tế Mỹ và toàn cầu làm mất lòng dân chúng. Nên

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(2) đã được các nhà tài phiệt nắm 80% cổ phần FED có cuộc họp soạn thảo Dự luật mang tên thượng nghị sĩ Cộng Hòa vào ngày 22/11/1910, đương kim chủ tịch ủy ban tiền tệ quốc gia Hoa Kỳ lúc bấy giờ -

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(3) - Người có huyết thống với David Rockefeller, ông trùm tài phiệt Mỹ, vua dầu hỏa và là chủ tịch tập đoàn Standard Oil, được mệnh danh là người giàu nhất nước Mỹ.

Cuộc họp bắt đầu ngày 22/11/1910 và kéo dài 12 ngày, do quyết định của tổng thống thứ 26 Theodore Roosevelt (1901-1909) họ đã bỏ ra 2 năm đi chu du và nghiên cứu các hệ thống ngân hàng mà họ cho là tốt nhất thế giới lúc bấy giờ là Anh và Đức. Và được sự ủng hộ của tổng thống phe Dân Chủ thứ 28

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(4), Dự Luật Nelson Aldrich được chính phủ Mỹ công nhận. Bắt đầu năm 1913 cái tên gọi FED được giữ cho đến nay.

Và cũng bắt đầu từ 1913, toàn bộ vốn của FED không có sự tham gia cổ phần của chính phủ mà do các tập đoàn tài phiệt nắm giữ. Họ nắm quyền in đồng Mỹ kim, cứ mỗi Mỹ kim chính phủ Mỹ phải trả họ 2cents từ tiền đóng thuế người dân. Và tùy theo thời điểm mà họ qui định bản vị vàng hay bản vị dầu cho những đồng Mỹ kim được in ra. Nên đồng Mỹ kim có chữ ký chứ không phải đồng tiền tín phiếu như đồng Yuan Trung Quốc và VNĐ của ta. Đây là một điểm độc đáo mà các quỹ dự trữ liên bang hay ngân hàng trung ương các nước trên thế giới không có được. Và cũng chính đây là đặc điểm mà FED có quyền năng tối thượng với kinh tế toàn cầu.


2. Những tập đoàn tài phiệt nắm giữ FED, họ là ai?
Nếu bạn nào có đọc cuốn sách hot năm 2009 ở Việt Nam của tác giả Song HongBing: "

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

" (Currency Wars)(5) sẽ thấy câu nói nỗi tiếng của Meyer Rothschild ngay đầu chương 1: "Chỉ cần khống chế được quyền phát hành tiền tệ của một quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc bất cứ thứ pháp luật nào do ai đặt ra". Đây là ông tổ của hệ thống ngân hàng liên quốc gia hiện đại ngày nay. Gia tộc Rothschild là gia tộc đứng đằng sau giật dây, thiết kế, dàn dựng và tạo ra Dự luật Nelson W Aldrich đã nói ở trên để chiếm lấy FED về tay tư nhân mà chính phủ Mỹ đã phải ngậm đắng nuốt cay nhìn với con mắt bất lực, thèm thuồng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2.1. Gia tộc Rothschild: Một đặc điểm gia tộc Rothschild là

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(6) có dòng họ người Do Thái định cư tại Đức. Mỗi khi nói đến gia tộc này cả thế giới nghĩ ngay đến quyền lực và tiền bạc. Gia tộc này đã xây dựng nên một hệ thống ngân hàng tư nhân và chi phối phần lớn thị trường tiền tệ châu Âu. Tên của gia tộc này gắn liền với 5 chi nhánh ngân hàng Rothschild ở 5 nơi là đầu tàu của châu Âu do 5 người con của Meyer Rothschild nắm giữ: Con trai cả Amschel của Meyer chuyên lo điều hành đại bản doanh M.A Rothschild & Sons của ngân hàng gia tộc Rothschild tại Frankfurt. Người con thứ hai, Salomon Rothschild, đi xây dựng chi nhánh khác của gia tộc ở Vienna-Áo (S.M Rothschild & Sons). Nathan, người thứ ba, là người thông minh, táo bạo và lạnh lùng nhất trong số 5 anh em, ông được cha điều từ Frankfurt đi khai phá chi nhánh ngân hàng Rothschild London vào năm 1798. Calmann, người con thứ tư xây dựng chi nhánh Napoli-Ý và con trai thứ 5 xây dựng chi nhánh thứ 5 tại Paris. Gia tộc này đã biết lợi dụng các cuộc chiến tranh ở châu Âu và chiến tranh thế giới để tạo dựng cơ đồ bằng sự thôn tính các ngân quỹ quốc gia ở châu Âu.

Sau đó gia tộc Rothschild thò vòi bạch tuộc sang đất Mỹ với đại diện là

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(1868-1932)(7), cũng là một người Đức gốc Do Thái, là cổ đông lớn công ty Kuhn Leoband Company tại New York. Ông này vào Mỹ năm 1904, nhưng mãi đến 1911 mới nhập tịch và tham gia vào cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll. Ông Paul Warburg có 4 anh em thì cả 4 đều có vị trí quan trọng: anh cả Max Warburg là cục trưởng cục tình báo Đức. Paul là thứ hai, người giữ chức chủ tịch FED đầu tiên của Mỹ, cũng là người nắm chức vụ về tài chính cao nhất Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Felix Warburg - em trai thứ ba có cổ đông cao trong Kuhn Leob Co. Người em út là Fritz - Nắm chủ tịch sở giao dịch vàng Hamburg-Đức. Gia tộc Rothschild không bao giờ ra mặt ở FED, nhưng họ đứng đằng sau FED kể từ trước 1913 và là kẻ thiết kế, dàn dựng, hình thành và tạo ra Dự luật Nelson W Aldrich từ khi họp ở Jekyll đến được chính phủ Mỹ thông qua.

Không ai biết gia tộc này giàu bao nhiêu? Nhưng so với Bill Gates, người giàu nhất thế giới hiện nay thì họ có số vốn gấp hơn nhiều lần. Nhưng không phương tiện truyền thông nào nhắc đến.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2.2. Gia tộc Rockefeller: Đại diện gia tộc Rockefeller là ngài

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(8), một người Mỹ sinh trưởng ở New York city, cháu nội duy nhất của triệu phú trùm dầu hỏa, người sáng lập ra Standard Oil - John D. Rockefeller. Tiếp quản tập đoàn dầu hỏa từ ông nội sau khi lấy tấm bằng PhD về kinh tế. David Rockfeller đã bành trướng lĩnh vực tham gia sang ngân hàng, người sáng lập và chủ Citigroup và ngay cả Chase Manhattan Bank của gia tộc Morgan ông cũng là một cổ đông lớn. Chính JP Morgan là người giúp cho gia tộc Rockefeller tiêu diệt toàn bộ đối thủ cạnh tranh với việc chuyên chở dầu giá rẻ đi khắp liên bang. Ông còn là nhân vật quan trọng trong lãnh đạo quốc gia. Một thời nước Mỹ xem ông là người giàu nhất nước Mỹ. Ông nội ông là một trong những thành viên tham gia cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll để soạn thảo ra Dự Luật Albrich. Người có huyết thống với ông. Hãy cứ nhìn hình ảnh

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Chu Ân Lai(9), thủ tướng Trung Quốc trong thời chiến tranh lạnh là đủ thấy ông có vai trò quan trọng như thế nào trong chính trường thế giới.

Lịch sử nhắc tới gia tộc Rockefeller như là người giàu nhất nước Mỹ bằng vào con đường đâm thuê chém mướn để dành lấy ngôi vị độc tôn dầu hỏa ở Mỹ từ thế hệ ông nội của David Rockefeller. Thì đến đời David Rockefeller, ông chủ với chủ sở hữu từ trùm dầu hỏa và một loạt ngân hàng, cũng như bàn tay lông lá quan trọng đến chính trường nước Mỹ. và thế giới. Nếu ai đã đọc Godfather thì có thể hiểu rằng gia tộc này đã đi lên bằng con đường như thế nào? Nhưng không ai biết tài sản của gia tộc này là bao nhiêu? Nhưng có lẽ, cỡ Bill Gates còn kém gấp nhiều lần.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2.3. Gia tộc JP Morgan: Đại diện gia tộc Morgan là ngài

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(10), cũng là một người Mỹ sinh ra và lớn lên ở Connecticut. Ông là trùm ngành công nghiệp Mỹ từ sắc thép đến truyền thông như AT&T, General Electric, cha để của dự án xây dựng hệ thống đường ray toàn nước Mỹ và những hãng bảo hiểm lớn nhất nước Mỹ. Gia tộc Morgan còn nắm 1 lượng lớn cổ phần của Cittigroup của gia tộc Rockfeller. Tập đoàn JP Morgan ước tính có tổng số tài sản tương đương với dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc năm 2009, khoảng 2,041 tỷ USD! Ông không tham gia cuộc họp bí mật ở đảo Jekyll, nhưng có trợ lý Benjamin Strong của ông. Ông mất năm 1913 tại Ý. Song tập đoàn JP Morgan mãi mãi trường tồn và lớn mạnh. Nhưng tiền thân của JP Morgan là đứa con được gia tộc Rothschild đỡ đầu từ hệ thống ngân hàng Merchant Bank do George Peabody và xây dựng một tiền đồn dài lâu cho cuộc tấn công vào thị trường tài chính của nước Mỹ!!!


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2.4. Gia đình Carnegie: Đại diện gia dình này là ngài

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(11). Một trong những ông vua công nghiệp sắc thép của Pittsburgh, PA, nhà doanh nghiệp, người khai sinh môi giới tài chính và là một con người vì sự nghiệp giáo dục và bảo tàng của nước Mỹ. Ông đến Mỹ cùng cha từ Scotland. Ai đã từng quan tâm đến giáo dục Mỹ không thể không biết đến

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(12) do ông lập ra rất nỗi tiếng. Và còn bao nhiêu công trình vì cộng đồng do ông tạo nên. Ông được phong tặng là nhà từ tâm của nước Mỹ.


2.5. Một số thành viên khác: Ngoài những thành viên cộm cán trên. Một số thành viên tham gia cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll, ngày 22/11/1913 để quyết định đem FED về cho quyền lực ngầm tài phiệt tư nhân. Như

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(14), chủ tịch First National Bank.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(15) cổ đông lớn của JP Morgan và là chủ tịch Liberty National Bank, chủ tịch chữ thập đỏ Mỹ. Và

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(16) chủ tịch National city Bank và là người từng cho chính phủ Mỹ mượn tiền trong cuộc chiến tranh lập quốc giữa Mỹ và Tây Ban Nha.

Ngoài ra còn có 2 thành viên chính phủ là Nelson Albrich, nhưng thực ra là gia đình của Rockefeller. A. Piatt Andrew, trợ lý bộ trưởng tài chính.

Qua đó, có một điều đáng quan tâm là FED là tư nhân hoàn toàn và không chỉ là của những nhà tài phiệt Mỹ. Họ là tập hợp của một NHÓM QUYỀN LỢI ăn chia tài chính với chính phủ Mỹ có 80% cổ phần trong FED. Sau đó đã gây áp lực với chính phủ Mỹ thông qua cho vay tài chính trong các cuộc chiến tranh để đi đến thâu tóm toàn bộ quyền lợi tài chính thế giới 100% về mình và trỡ thành QUYỀN LỢI NHÓM. Các thành viên tạo vốn cho FED có mặt ở toàn cầu. Mỗi hơi thở FED là sự sống hay cái chết kinh tế của toàn cầu.

PHẦN II: DỰ LUẬT ALDRICH VÀ SỰ SỐNG KINH TẾ TOÀN CẦU
Nước Mỹ là nơi những con người bỏ mẫu quốc ra đi để tìm một chân trời mới không theo những lề thói cũ của những cựu lục địa già nua. Những quốc phụ tạo nên nước Mỹ đã có những tấm lòng cao cả muốn xây dựng một thiên đường hạ giới cho miền đất mới. Nhưng vì lòng tham của con người đã làm thất vọng họ, dù họ đã cố gắng chống chọi bằng cách đưa ra nhiều đạo luật để bảo vệ tuyên ngôn nước Mỹ.

Lịch sử nước Mỹ có những trang đau buồn vì phân biệt chủng tộc, vì nội chiến etc... Nhưng có lẽ đau buồn nhất là sự thông qua đạo luật Nelson Aldrich vào ngày 23/12/1913 của tổng thống thuộc đảng Dân chủ thứ 28: Thomas Woodrow Wilson (1913-1921). Cái ngày mà người ta bảo rằng: Cho đến nay trong lịch sử 43 đời TT Mỹ, không có một tổng thống nào ký bất kỳ một dự luật nào một cách vội vã trước khi thiên chúa giáng sinh! Điều mà sau này chính ông cũng đã phải thốt lên đó là sai lầm của mình(1). Nhưng ông không thể làm khác vì chiếc ghế ông ngồi vào đã được định 2 năm trước khi tổng tuyển cử tổng thống nhiệm kỳ thứ 28. Và việc ông ký đạo luật Aldrich là việc ông phải làm một cách bất thường để trả lễ cho chiếc ghế quyền lực của mình vì những gì mà những ông trùm tài phiệt đã đánh bóng, loppy và đưa ông lên đỉnh vinh quang của sự nghiệp chính trị. Mặc dù trước ông, hai vị tiền nhiệm đã vì nhân dân Mỹ và nước Mỹ nên họ đã chạm vào thánh đường tiền tệ, mà họ phải đối diện với mưu sát: TT thứ 7: Andrew Jackson (1829-1837)(17) và TT thứ 16 bị ám sát: Abraham Lincoln (1861-1865)(18). Lịch sử nước Mỹ có 3 vị tổng thống muốn lấy quyền in tiền về chính phủ. Hai người vừa kể và người thứ 3 là TT thứ 35: John F. Kennedy (1961-1963)(19). Họ đều có hoặc cận kề với cái chết!

Như vậy, tại sao có đạo luật Aldrich? Nó ra đời như thế nào? Nó phục vụ cho ai? Và nó có vai trò gì với nước Mỹ và nhân loại?

A. Đạo luật Nelson Aldrich có gì?(20)
Hiến pháp Mỹ vì tính lịch sử mà có một lỗ hổng chết người là chính phủ chỉ phát hành tiền đồng kim loại, còn tiền giấy thì chỉ là tờ chứng nhận trao đổi. Nước Mỹ trước năm 1913, có 20% cổ phần trong ngân hàng trung ương như đã nói. Nhưng với 20% đó không đủ lực để chống chọi 80% còn lại khi từ nhóm quyền lợi họ kết dính nhau để trở thành quyền lợi nhóm. Chính điều này mà các cuộc suy thoái kinh tế và chiến tranh do các nhà tài phiệt đã nêu ra ở phần 1, tạo ra bằng cách thổi phồng cho vay lãi suất thấp, rồi thắt chặt tiền tệ nâng lãi suất thu hồi tiền về từ các con nợ. Đẩy con nợ vào cảnh bần cùng, bán nhà, bán đất, vô gia cư. Và làm cho chính phủ Mỹ lâm vào thế nợ nần chồng chất. Nên một cuộc cải tổ tài chính Mỹ đã được ông TT thứ 26 Theodore Roosevelt đề xuất và giao cho những nhà tài phiệt nghiên cứu và viết ra. Bộ óc khổng lồ với tư duy minh triết, uyên thâm lúc bấy giờ ngồi vào chấp bút là Paul Warburg. Người đại diện dòng học Rothschild tại Mỹ và đã lập ra một chân rết với gia tộc Rockefeller và JP Morton trước khi có cuộc âm mưu ở đảo Jekyll. Điều gì có lợi cho các tập đoàn tài phiệt đến ắt đến. Câu chuyện ngắn gọn ở phần 1, nói lên tất cả và từ đó mọi sức khỏe của kinh tế toàn cầu đã thuộc về tay các ông trùm tài phiệt trên toàn cầu.

Đạo luật Nelson Aldrich có mấy điều đáng chú ý:
1. FED(21) là ngân hàng tư nhân 100% hoàn toàn, chính phủ Mỹ không còn cổ phần trong FED. Một khi chính phủ muốn chi tiêu quá phần tiền thu thuế từ dân Mỹ thì chính phủ phải vay tiền từ FED thông qua FED in thêm tiền. Quốc hội có nhiệm vụ khống chế FED.
2. FED là tổ chức duy nhất được phép in tiền giấy Mỹ kim. Chính phủ Mỹ chỉ được phép đúc tiền đồng Mỹ kim từ giá trị <=$1. Mỗi lần FED in thêm tiền USD bao nhiêu thì chính phủ Mỹ hay nói cách khác là người dân Mỹ phải nợ FED bấy nhiêu.
3. FED gồm có 12 FED con nằm ở các tiểu bang: mỗi FED con là ngân hàng thương mại tư nhân ở địa phương. 12 FEd con có trụ sở ở: 1- Boston, 2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco, 7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và 12-Dallas. Theo đó các FED con đều có quyền in tiền giấy. Cứ theo thứ tự từ 1 đến 12 mà đánh vần theo alphabets thì A là FEd của Boston in ra, B là FED của New York in ra ...ký hiệu đầu serial ở trên tờ tiền. Nhưng FED New Yrok chiếm 53% cổ đông của FED liên bang.
4. Trung ương FED đặt ở Washington DC, nhưng mọi hoạt động làm khuynh đảo thế giới tài chính ở New York. Đây là một trò dối trá cùng với chia đều 12 FED con để vuốt ve nhóm miền Nam và người dân Mỹ sau những cuộc suy thoái do họ làm ra để moi từng đồng tiền từ túi dân nghèo.
5. Cơ cấu FED gồm một hội đồng quản trị có 7 thành viên:
+ Có 3 thành viên: Chủ tịch hội đồng quản trị FED (Chairman of the Goverment Board), Bộ trưởng tài chính (The Treasury Secretary) và Giám Sát Ngân Khố (the Comptroller of Treasury) là người của chính phủ.
+ Thành viên của hội đồng quản trị do tổng thống bổ nhiệm và thay thế. Nhưng mỗi nhiệm kỳ TT Mỹ chỉ được bổ nhiệm và thay thế 2 lần, mỗi lần chỉ 1 người với sự chấp thuận của thượng viện.
+ Nhưng chức năng của hội đồng quản trị FED do hội đồng tư vấn liên bang (Federal Advisory Council) khống chế, và cùng với hội đồng quản trị, Hội đồng tư vấn liên bang sẽ mở hội nghị thảo luận công việc.
+ Thành viên của hội đồng tư vấn liên bang sẽ do Chủ tịch hội đồng quản trị của 12 FED con quyết định. Nhưng đa số thành viên của hội đồng quản trị là do hiệp hội ngân hàng trực tiếp hoặc gián tiếp khống chế.
6. Đồng đô la Mỹ có thể co giãn theo tình hình và được tái chiết khấu. Và bắt đầu sau dự luật người dân Mỹ bắt đầu phải đóng thuế thu nhập (income tax).


Qua đó, chúng ta thấy có mấy điều quan trọng sau đây:
1. Cái gọi là Cục dự trữ liên bang Mỹ hình thức và hiện tượng là của chính phủ Mỹ. Nhưng bản chất là của các nhà tài phiệt đã nói ra ở phần 1. Một sự lấp liếm và lách luật tài tình của Paul Warburg - một tay Đức có nguồn gốc Do Thái.
2. Tước bỏ hoàn toàn chức năng in tiền giấy của chính phủ Mỹ kể từ ngay trước ngày thiên chúa giáng sinh năm 1913. Nhưng trên đồng tiền Mỹ kim vẫn tồn tại câu: "In God, We trust". Và kể từ đó, bao tờ tiền đô la xanh in ra là người dân Mỹ nợ FED bấy nhiêu.
3. Một sự che lấp quyền lực đằng sau hậu trường với người dân Mỹ và các nhóm tài chính miền Nam để khuynh đảo chính trường nước Mỹ và chỉ huy kinh tế, chính trị toàn cầu.
4. Hủy hoại lý tưởng cao cả của những con người có công khai sinh ra cái gọi là "Miền đất hứa", từ khi nước Mỹ chỉ là 13 bang lập quốc ban đầu tiên của 6 bang thuộc New England, 6 bang thuộc Mid Atlantic và Puerto Rico.
5. Cái điều cuối cùng lưu ý trong đạo luật Nelson Aldrich đã giúp cho FED được quyền làm tăng hay giảm giá đồng Mỹ kim và cũng cho phép các ngân hàng thương mại bơm tiền vào thị trường hay thu tiền vào lại ngân hàng một cách tự do để thổi phồng cái bong bóng kinh tế hoặc chích xì quả bóng tạo ra những cuộc suy thoái chủ động theo ý

các Ông Trùm!!!
6. Mọi quyền năng của FED thuộc về các ông Trùm nắm 53% cổ phần ở New York. Các ông Trùm ấy ngày nay thế giới gọi là con quái vật ăn thịt người có nhiều đầu hydra như đã liệt kê ở phần I.


B. FED phục vụ cho ai?
Khách quan mà nhìn thì FED là nơi để phục vụ quyền lực của nước Mỹ về kinh tế chính trị đối với thế giới còn lại. Và cũng khách quan mà nhìn thì bản chất của FED là phục vụ cho quyền và lợi của các ông Trùm. Bàn tay của chúa len lỏi vào tận cung đình nhà Trắng. Cho nên trong một bài viết về Văn hóa quảng cáo và thần tượng (22), tôi có dẫn nguồn 44 bài phát biểu TT Mỹ không có gì khác nhau. Chỉ cái khác của nước Mỹ với thế giới còn lại là họ biết đẩy công nghệ quảng cáo lên tột đỉnh, và biến bi kịch thành niềm hy vọng cho con dân nước Mỹ và thế giới trong lúc bị các ông Trùm và chính phủ Mỹ rút ruột qua cơn đại suy thoái toàn cầu 2007-2008 mà thôi.

Tôi còn nhớ thời TT thứ 42 Bill Clinton (1984-2000), lúc đó nước Mỹ thịnh vượng. Công ăn việc làm phủ phê. Giá cổ phiếu của các công ty Mỹ tăng vùn vụt. Chỉ số Dow Jones tăng mỗi ngày. Người dân Mỹ vay tín dụng trả sau với credit card để chơi cổ cánh, buôn bất động sản với những lời khuyên rất bùi tai của Robert Kiyosaki và Sharon Lechter trong bộ sách: Rich dad, Poor Dad (23). Người Mỹ vay ngân hàng, trả bằng sự bảo đảm việc làm của mình trong dài hạn. Kẻ thì mua bất động sản, người thì chơi cổ cánh với Wall Street. Còn các nhân viên làm thuê cộm cán thì được thưởng các tấm cổ phiếu của các công ty làm ăn đang phất. Họ ngủ một đêm tới sáng thấy mình lãi một cục đồng Mỹ kim. Họ sẳn sàng tiêu xây hoang phí. Các ngân hàng thương mại thoãi mái cho vay những đồng tiền ma (24), mà không sợ bất kỳ một cơn bão lớn đang chờ chực ngay trước cửa nhà mình. Khi các ông trùm tung chiêu tạo ra suy thoái 2007-2008. Đến nay, những cổ phiếu mà các công ty thưởng cho nhân viên xuất sắc và cổ cánh dân Mỹ mua trỡ thành giấy lộn. Những mãnh đất và những ngôi nhà mà người dân có được thời ông Bill Clinton, họ buộc lòng phải bán đổ bán tháo. Nhưng không có ai mua và phải bị siết nợ trở về khổ chủ, của Cesar phải trả lại cho Cesar - những ông Trùm!


Đó là nói chuyện người dân nước Mỹ, còn thế giới còn lại thì sao? Như trong một bài viết của tôi vào ngày 12/10/2009 về Thuyết Ngờ vực(Conspiracy Theory)(25) như sau:
"Thế thì đồng đô la mất giá từ lúc 1Euro = 0.9usd đến hôm nay 1Euro = 1.4798usd. Từ lúc 1usd = 120 Yên Nhật đến hôm nay 1usd chỉ còn ăn 88 Yên Nhật. Từ lúc 420usd = 1oz vàng và đến hôm nay 1oz vàng đã đến con số 1.050usd!(26) ... Như vậy, người Mỹ mất gì và được gì? Thế giới còn lại mất gì và được gì? Hầu hết các báo đài trong nước chỉ quan tâm kinh tế Mỹ suy thóai và sự vươn lên của con rồng nham hiểm và bẩn thỉu Trung Quốc. Ít có báo nào quan tâm một vực thẳm đang chờ con rồng Trung Quốc và người Mỹ đã sắp đặt tất cả trò khủng hỏang kinh tế tòan cầu để trục lợi.

Đồng đô la mất giá người Mỹ tăng khả năng xuất khẩu. Châu Âu và thế giới còn lại giảm khả năng xuất khẩu và thất nghiệp do sản xuất đình đốn. Hàng lọat ngân hàng Mỹ phá sản, thế giới mất tiền vì mua cổ phiếu của chúng. Trong đó không lọai trừ Trung Quốc và có thể có cả Việt Nam. Nhưng, ta chỉ thấy một số công khai ở các nước có nền kinh tế minh bạch, vì dụ Singapore: con dâu ông Lý Quang Diệu và là vợ đương nhiệm thủ tướng Lý Hiển Long, chủ tịch tập đòan tư bản nhà nước Temaset - Singapore, bà Hồ Minh đã phải từ chức(27) khi thua thiệt trong vụ phá sản hàng lọat ngân hàng TM của Mỹ lên đến 50 tỷ đô la Singapore. Một số tiền lớn hơn dự trữ ngọai tệ quốc gia của Việt Nam mà người Singapore đã dành dụm bổng chốc tan theo bong bóng xà phòng. Nước Mỹ đã ngồi không để giật tiền thế gới còn lại bằng vào luật phá sản của mình. Để rồi nhà nước Mỹ vay tiền Trung Quốc để làm gói kích cầu và mua lại các ngân hàng phá sản với giá rẻ mạt, không lọai trừ là con số zero hoặc âm. Những NH mà cách đây chỉ 2 năm làm cả thế giới đổ tiền vào hàng tỷ đô la Mỹ kim để mua cổ phiếu.

Đã thế, cả thế giới lo lắng, Trung Quốc phải mở hầu bao cho chúa chổm vay tiếp. Và nước Mỹ lấy tiền vay tung ra tiêu dùng thõai mái với cái gọi là kích cầu(28) đúng bằng con số Trung Quốc cho vay. Nhưng, qua đó người dân Mỹ ý thức được rằng đã đến lúc họ phải biết tiết kiệm. Tiết kiệm để làm gương, tiết kiệm để yêu nước và tiết kiệm để dẩn đầu thế giới. Và người Mỹ vay của thế giới lúc 1usd ăn 1.1Euro. Khi họ trả lại món nợ này có thể 1usd chỉ còn ăn 0.6Euro. Ai lợi, ai lỗ trong cuộc vay trả này?

Tóm lại, cả thế giới còng lưng ra làm bằng mồ hôi, nước mắt và có thể cả máu dưới sự o ép của cuộc sống và có thể có cả chính quyền sở tại, để rồi chỉ trong vài tháng tất cả công sức đó bị biến thành bong bóng xà phòng khi người Mỹ suy thóai kinh tế. Thế thì, suy thóai kinh tế Mỹ là chủ động hay thụ động? Suy thóai để lấy lại vị trí dẫn đầu hay suy thóai để con rồng bẩn thỉu và nham hiểm vươn lên? Rồng vươn lên đâu không thấy. Tôi chỉ thấy Rồng và một số nước kể cả đồng minh của Mỹ đã họp kín để muốn lật đổ đồng đô la.(29)

Thế giới có thể làm ra nhiều tiền. Mỹ còn biết làm ra tiền giỏi hơn thế giời, đó là điều hiển nhiên mà ai cũng thấy. Nhưng ngòai ra Mỹ còn là kẻ biết lấy tiền từ trong túi của thế giới còn lại một cách hợp pháp. Về cách này có lẽ thế giới còn lại phải còn cắp cặp để học Mỹ dài dài. Và Mỹ còn dẫn đầu thế giới dài dài. Tất cả chỉ là thuyết nghi ngờ mà tôi tổng kết suốt 1 năm qua. Ai muốn hiểu sao thì hiểu."

Song có lẽ mất tiền nhiều nhất là các tham quan và chính quyền ở các nước đang phát triễn. Họ cho con đi du học. Con họ được các ông Trùm quan tâm, đến trường loppy và cho học bổng vào các trường tốt của nước Mỹ. Ở đó, con họ được học các ngành finance, economics ... Con họ nghe các thầy, các đàn anh rỉ tai đầu tư cổ phiếu. Thế là những cuộc chảy tiền về Mỹ cho con cái họ và chính phủ họ đầu tư. Cứ $1 vào Mỹ, FED in $1 cho chính phủ Mỹ phục vụ chiến tranh vùng Vịnh, cắt cái đầu ương ngạnh của Saddam Hudssein. Nước Mỹ có được giếng dầu có trữ lượng đứng hàng thứ 3 thế giới. Xong cuộc, của Secar cũng trả về Cesar khi các cổ cánh trở thành giấy lộn trong cuộc suy thoái 2007-2008! Không biết Trung Quốc mất cú này bao nhiêu, nhưng họ phải ngậm đắng, nuốt cay bơm thêm tiền những 800 tỷ USD cho Mỹ, mà phải năn nỉ để cho vay. Có phải vì hy vọng nước Mỹ sẽ vớt dùm những cổ cánh mà họ đầu tư tăng lên một tý để nuôi hy vọng là không mất trắng chăng?

Châu Âu, cựu lục địa thức tĩnh đầu tiên khi họ cấp tốc làm nên Viện tiền tệ Châu Âu(30) năm 1994. Biết bao trỡ lực để 1998 nó trở thành Ngân hàng trung ương Châu Âu(31) sau cuộc suy thoái 1997. Nó đẻ ra đồng tiền Euro để hòng làm đối trọng với đồng USD. Nhưng biết làm sao được? Đến hôm nay, đồng USD vẫn thống sói, dù nó có mất giá.


Và tôi cũng không biết các ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ thế giới là của ai, vì chưa nghiên cứu kỹ khi viết loạt bài này. Nhưng ở mỗi nơi chính phủ Mỹ có 17% cổ phần. Trong khi luật định của chúng là chỉ cần 15% veto (quyền phủ quyết) thì 2 tổ chức gọi là nhân đạo này sẽ không được phép cho vay. Ở đâu vay nhiều tiền của 2 tổ chức tài chính này, hầu như ở đó không chóng thì chày cũng có "chuyện lùm sùm". Khi thuận lợi người ta cần quyền biểu quyết, để dụ cừu non vào chuồng. Nhưng khi khó khăn quyền phủ quyết lại thường hay áp dụng để "xén lông cứu".

Ông chú Theodore Roosevelt, TT thứ 26 nước Mỹ yêu cầu Nelson Aldrich cải cách hệ thống tài chính Mỹ theo FED. Để rồi ông TT thứ 28 Thomas Woodrow Wilson ký dự luật thành lập FED. Đến ông cháu Franklin Delano Roosevelt(1933-1945)(32), TT thứ 32, người do hoàn cảnh lịch sử nên phải ngồi chiếc ghế TT nước Mỹ 4 nhiệm kỳ, đã cứu thoát các nhà tài phiệt khi ký thỏa thuận xóa bản vị vàng cho đồng USD. Từ đó, $35 không còn bắt buộc chính phủ Mỹ và FED phải có 1oz vàng vào kho bạc liên bang mới được in tiền. Một lối thoát để phục vụ cho tính co giãn đồng đô la Mỹ tùy theo tình hình tác chiến của FED và nước Mỹ với các đối thủ khi cần thiết. Vàng đó không còn là bảo chứng cho đồng USD in ra thì họ làmn gì? Họ dùng để bán ra khi đồng USD mất giá thông qua IMF(33) với giá cao ngất ngưỡng với cái gọi là để bù đắp vào thâm hụt ngân sách để kiếm lời. Khi họ tung chiêu hồi mã thương, vàng sẽ hạ trỡ lại rồi họ sẽ mua vào. Có gì lãi hơn nhỉ?

Thế đấy, của Cesar phải trả lại Cesar!!! Những cuộc khủng khoảng như 2007-2008 là những cuộc thi "xén lông cừu" mà các nhà tài phiệt dùng để ám chỉ. Các chu kỳ suy thoái cứ thế tiếp diễn như một vòng tuần hoàn diễn đi, diễn lại. Ai chết cứ chết. Nước Mỹ và dân Mỹ cứ nợ ngày càng nhiều (tính đến 2009 số nợ của Mỹ lên đến 8,500 tỷ USD). Nhưng nước Mỹ vẫn là số 1 và các ông Trùm mãi là Trùm. Dù thế giới có cho rằng họ là con quái vật hydra ăn thịt người có những cái đầu. Chặt hết đầu này, nó mọc ra 2 đầu khác như trong thần thoại cổ Hy Lạp.


C. FED có vai trò gì với Mỹ và nhân loại?
Có lẽ đến đây, mọi người đã rõ? Dù là cái tên FED hay bất kỳ cái tên gì trước đó. Bản chất vấn đề nằm ở chỗ câu nói ban đầu mà tôi mượn của Meyer Rothschild: "Chỉ cần khống chế được quyền phát hành tiền tệ của một quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc bất cứ thứ pháp luật nào do ai đặt ra". Dòng họ Rothschild là dòng họ mà người ta bảo rằng: Bất cứ ai theo ngành tài chính tiền tệ mà không biết đến họ thì chẳng khác nào người lính không biết đến Napoleon, sinh viên ngành Vật lý không biết Albert Einstein là ai vậy(5).

Giai đọan đầu, chính phủ Mỹ và FED là hai đối thủ không thể cùng chung một bầu trời hít thở không khí trong lành của Tân Lục Địa. Ngày nay, chính phủ Mỹ biết đồng thuận sau 3 lần kinh nghiệm của các ông Andrew Jackson, Abraham Lincoln và John F. Kennedy. Họ từ đối thủ trỡ thành QUYỀN LỢI NHÓM cho những mưu toan vì mục tiêu một nước Mỹ đại ca và vì lợi ích các Ông Trùm. Cả hai như cậy phong lan gió bám vào đại th�

Cục Dự trữ liên bang Mỹ: Ngân hàng Trung ương tư hữu
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image002.jpg(

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

| Currency Wars) - Có thể không quá khoa trương khi nói rằng, mãi đến ngày nay, Trung Quốc có thể cũng chẳng có mấy nhà kinh tế học biết được một thực tế rằng, Cục dự trữ liên bang Mỹ chính là ngân hàng trung ương tư hữu. Cái gọi là “Ngân hàng dự trữ liên bang”, thực ra vừa chẳng phải là “liên bang”, mà cũng chẳng có “dự trữ”, và cũng không đáng được xem là “ngân hàng”.
Đa số các quan chức của chính phủ Trung Quốc có thể sẽ nghĩ rằng, đương nhiên chính phủ Mỹ phát hành ra đồng đô la, nhưng trên thực tế, về cơ bản, chính phủ Mỹ không có quyền phát hành tiền tệ! Năm 1963, sau khi tổng thống Kennedy bị ám sát, chính phủ Mỹ cuối cùng đã mất đi quyền phát hành “đô-la Mỹ bạc trắng”. Muốn có được đồng đô-la, Chính phủ Mỹ cần phải đem thu nhập từ thuế tương lai (công trái) của người dân Mỹ, thế chấp cho cục dự trữ liên bang Mỹ tư hữu, “chứng chỉ cục dự trữ liên bang Mỹ” do cục dự trữ liên bang Mỹ phát hành, đây chính là “đô-la Mỹ”.
Tính chất và lai lịch của “cục dự trữ liên bang Mỹ” trong giới học thuật và giới truyền thông Mỹ, là một “vùng cấm” mọi người tự hiểu với nhau mà chẳng cần nói ra. Hằng ngày, giới truyền thông Mỹ có thể bàn tán về vô vàn vấn đề chẳng có chút quan trọng gì kiểu như “hôn nhân đồng tính”, nhưng những vấn đề quan trọng liên quan đến việc ai đang khống chế chuyện phát hành tiền tệ, liên quan đến lợi ích chi trả lợi tức các khoản vay cá nhân thì lại hầu như chẳng có chữ nào đá động đến.
Đọc đến đây, nếu bạn có cảm giác kinh ngạc, vấn đề sẽ trở nên quan trọng, trong khi bạn lại không hay biết. Chương này sẽ nói về bí mật của việc thành lập Cục dự trữ liên bang Mỹ - vấn đề đã bị giới truyền thông Mỹ cố ý “bỏ qua”. Khi chúng ta dùng một chiếc kính hiển vi để soi lại giây phút cuối cùng của một sự kiện trọng đại ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử thế giới thì sự phát triển của sự kiện sẽ chính xác đến mức ta phải lấy lấy tiếng tích tắc của đồng hồ làm đơn vị đo lường.
Ngày 23 tháng 12 năm 1913, chính phủ dân cử của Mỹ cuối cùng đã bị quyền lực đồng tiền lật đổ.
Đảo JERKYLL thần bí: Cái nôi của Cục dự trữ liên bang Mỹ
Đêm ngày 22 tháng 11 năm 1910, một đoàn tàu rèm che kín mít chậm rãi tiến về phía Nam. Những người ngồi trong toa tàu đều là những nhà tài phiệt ngân hàng quan trọng nhất nước Mỹ, không một ai biết được mục đích chuyến đi này. Điểm dừng cuối cùng của đoàn tàu là đảo Jekyll thuộc bang Georgia xa mấy trăm dặm Anh.

file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image004.jpg
Đảo JERKYLL thần bí: Cái nôi của FED

Đảo Jekyll của bang Georgia là một quần đảo nghỉ đông thuộc sở hữu của những nhân vật giàu có siêu hạng ở Mỹ. Các thế lực tai to mặt lớn mà đứng dầu là JP Morgan đã thành lập một câu lạc bộ đi săn trên đảo Jekyll. Một phần sáu của cải thế giới dồn vào tay các hội viên của câu lạc bộ này, và tư cách hội viên chỉ có thể kế thừa chứ không thể chuyển nhượng. Lúc này, câu lạc bộ nhận được thông báo có người cần sử dụng hội sở của câu lạc bộ này trong khoảng hai tuần, và như vậy, trong khoảng thời gian này, tất cả các thành viên không được phép sử dụng hội sở. Toàn bộ nhân viên phục vụ của hội sở đều là những người được bố trí đến từ đất liền, chỉ được xưng tên chứ tuyệt đối không được sử dụng họ đối với những người khách đến hội sở này. Trong phạm vi 50 dặm Anh, hội sở được đảm bảo rằng xung quanh không có sự xuất hiện của bất cứ tay săn tin nào.
Một quốc gia công nghiệp vĩ đại bị hệ thống tín dụng khống chế một cách cứng nhắc. Sự phát triển của quốc gia này và mọi hoạt động (kinh tế) của chúng ta hoàn toàn nằm trong tay một số ít người. Chúng ta đã rơi vào thế thống trị cam go nhất, một kiểu khống chế triệt để nhất trên thế giới. Chính phủ không còn có ý kiến tự do nữa, không còn quyền định tội tư pháp nữa, không còn là chính phủ được lựa chọn bởi đa số người dân nữa, mà là chính phủ (vận hành) dưới sự cưỡng bức và ý kiến của thiểu số có quyền chi phối. Rất nhiều nhân sĩ công thương nghiệp của quốc gia này đều đang lo sợ một điều gì đó. Họ biết thứ quyền lực vô hình này được tổ chức theo cách như vậy, tĩnh lặng vô tình như vậy, phủ khắp như vậy, khóa chặt lẫn nhau như vậy, triệt để và toàn diện như vậy, đến nỗi họ không dám công khai lên án thứ quyền lực này.

Woodrow Wilson -
Tổng thống thứ 28 của Mỹ


Ngay sau khi công việc chuẩn bị hoàn tất, những vị khách này xuất hiện tại hội sở. Tham gia hội nghị tuyệt mật này có:
- Nelson Aldrich, thượng nghị sĩ, Chủ tịch ủy ban tiền tệ quốc gia (National Monetary Commission), ông ngoại của Nelson Rockefeller
- A. Piatt Andrew, trợ lý bộ trường Tài chính Mỹ
- Frank Vanderlip, Chủ tịch National City Bank
- Henry P. Davison, cổ đông cao cấp của công ty J.P Morgan
- Charles D. Norton, Chủ tịch First National Bank
- Benjamin Strong, trợ lý của J.P Morgan
- và Paul Warburg, dân di cư gốc Do Thái đến từ Đức. Năm 1901, Paul đến Mỹ và hùn một khoản vốn lớn vào công ty Kuhn Loeband Company. Là đại diện của dòng họ Rothschild ở Anh và Pháp, đảm nhận chức tổng công trình sư của Cục dự trữ liên bang Mỹ kiêm chủ tịch đầu tiên Cục dự trữ liên bang Mỹ.
Những nhân vật quan trọng này đến hòn đảo nhỏ hẻo lánh mà chẳng có hứng thú gì với việc săn bắn. Họ đến đây với một nhiệm vụ chủ yếu là khởi thảo một văn kiện quan trọng: Dự luật dự trữ liên bang (Federal Reserve Act).
Paul Warburg là một cao thủ về lĩnh vực ngân hàng, tinh thông hầu như mọi khâu nhỏ trong hoạt động ngân hàng. Nếu có ai đó thắc mắc với các câu hỏi cần giải đáp, Paul không chỉ nhẫn nại trả lời mà còn giảng giải không ngớt về nguồn gốc lịch sử sâu xa của mỗi một khái niệm chi tiết. Ai cũng khâm phục kiến thức uyên bác trong lĩnh vực ngân hàng của ông. Paul hiển nhiên trở thành người khởi thảo đồng thời là người giải đáp mọi vấn đề trong việc xây dựng văn kiện.
Nelson Aldrich là người ngoại đạo duy nhất trong số những nhân vật có mặt ở đây. Ông phụ trách chỉnh sửa nội dung văn kiện sao cho phù hợp với yêu cầu chính xác của chính trị và có thể được chấp nhận ở quốc hội. Những người khác đại diện cho lợi ích của các tập đoàn ngân hàng khác nhau. Họ tiến hành tranh luận kịch liệt suốt 9 ngày liền xung quanh chi tiết phương án mà Paul đề xuất, cuối cùng đã đi đến thống nhất.
Do cuộc khủng hoảng ngân hàng năm 1907 nên trong mắt người dân Mỹ, hình ảnh của các nhà ngân hàng không còn mấy đẹp đẽ. Điều này khiến cho đa số nghị sĩ quốc hội không dám công khai ủng hộ dự luật do các nhà ngân hàng tham gia lập ra. Vì vậy, những người này không quản ngại đường xa vạn dặm, lặn lội từ New York đến hòn đảo hoang vắng này để tham gia khởi thảo văn kiện. Hơn nữa, cái tên Ngân hàng trung ương nghe có vẻ quá khoa trương. Từ thời Tổng thống Jefferson đến nay, tên gọi của Ngân hàng trung ương đều có dính dáng đến âm mưu của nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế Anh, vì thế Paul kiến nghị dùng tên “Cục dự trữ liên bang” (Federal Reserve System) để che đậy tai mắt thiên hạ. Thế nhưng, Cục dự trữ liên bang có đầy đủ mọi chức năng của một ngân hàng trung ương, và cũng giống như ngân hàng Anh, Cục dự trữ liên bang Mỹ được thiết kế theo kiểu tư nhân nắm giữ cổ phần, và ngân hàng sẽ thu được lợi ích rất lớn từ việc đó. Điều khác với ngân hàng thứ nhất và ngân hàng thứ hai là, trong cơ cấu cổ phần của Cục dự trữ liên bang Mỹ, 20% cổ phần vốn có của Chính phủ đã bị lấy mất, nó sẽ trở thành một ngân hàng trung ương tư hữu “thuần túy”.
Nhằm che đậy bản chất thực của cục dữ trữ liên bang Mỹ cũng như để trả lời cho câu hỏi ai là kẻ khống chế cơ quan này, Paul đã khéo léo đề xuất ý kiến: “Quốc hội khống chế Cục dự trữ liên bang Mỹ, Chính phủ nắm giữ vai trò đại biểu trong hội đồng quản trị, nhưng đa số thành viên của hội đồng quản trị là do hiệp hội ngân hàng trực tiếp hoặc gián tiếp khống chế”.
Về sau, trong phiên bản cuối cùng, Paul đã đổi thành “thành viên của hội đồng quản trị do tổng thống Mỹ bổ nhiệm”, thế nhưng, chức năng chân chính của hội đồng quản trị do Hội đồng tư vấn liên bang (Federal Advisory Council) khống chế, và cùng với hội đồng quản trị, Hội đồng tư vấn liên bang sẽ định kỳ mở hội nghị “thảo luận” công việc. Thành viên của ủy ban tư vấn liên bang sẽ do chủ tịch hội đồng quản trị của 12 nhà ngân hàng dự trữ liên bang quyết định. Điểm này đã được lấp liếm trước công chúng.
Một vấn đề nan giải khác mà Paul phải đối phó là làm thế nào để che giấu sự thực rằng, nhân vật chịu trách nhiệm chủ trì Cục dự trữ liên bang là một chuyên gia kỳ cựu của ngân hàng New York. Từ thế kỷ 19 đến nay, hầu hết các thương nhân, chủ trang trại vừa và nhỏ của miền trung tây nước Mỹ đã gánh chịu đủ đại nạn của khủng hoảng ngân hàng, cho nên họ ghét cay ghét đắng các chuyên gia ngân hàng đến từ miền đông, và các nghị sĩ của những khu vực này không thể ủng hộ ngân hàng trung ương nếu như nó được chủ trì bởi một nhân vật nào đó từ ngân hàng New York. Vì vậy mà Paul đã thiết kế nên một phương án giải quyết tài tình để cho 12 nhà ngân hàng địa phương của cục dự trữ liên bang Mỹ cấu thành toàn bộ hệ thống. Ngoài những người trong giới ngân hàng, rất ít người biết được rằng. về lý thuyết, việc phát hành tiền tệ và tín dụng của Mỹ được tập trung ở New York, nhưng trên thực tế, điều này không hề diễn ra ở New York, và màn kịch này chẳng qua là do các ngân hàng thuộc cục dự trữ liên bang Mỹ đã dàn dựng nên mà thôi. Còn có một chỗ thể hiện sự suy nghĩ sâu xa của Paul - đặt trụ sở của Cục dự trữ liên bang Mỹ tại Washington – trung tâm chính trị của nước Mỹ, trong khi New York mới là trung tâm tài chính lớn của đất nước này. Mối lo ngại chính của ông xuất phát từ sự kỳ thị của dân chúng đối với các nhà ngân hàng đến từ New York.
Điều bận tâm thứ tư của Paul là làm thế nào tìm ra nhân viên quản lý cho 12 nhà ngân hàng địa phương trực thuộc Cục dự trữ liên bang Mỹ. Kinh nghiệm làm việc trong quốc hội của Nelson Aldrich cuối cùng đã giúp ông tìm được đất dụng võ. Ông chỉ ra rằng, các nghị sĩ miền trung tây nước Mỹ thường tỏ rõ mối thù địch với ngân hàng New York, và để tránh mất kiểm soát, tổng thống phải là người đứng ra bổ nhiệm vị trí chủ tịch ngân hàng địa phương và đó không phải là nhiệm vụ của quốc hội. Nhưng điều này đã tạo nên một lỗ hổng pháp luật. Điều 8 chương 1 của hiến pháp Mỹ quy định rõ ràng rằng, quốc hội chịu trách nhiệm phụ trách việc quản lý phát hành tiền tệ. Việc Cục dự trữ liên bang gạt Quốc hội ra ngoài rõ ràng đã vi phạm hiến pháp. Về sau, quả nhiên điểm này đã trở thành cái cớ để các nghị sĩ chĩa mũi dùi công kích Cục dự trữ liên bang Mỹ.
Sau khi được dàn xếp chu đáo, dự luật này nghiễm nhiên xuất hiện với hình thức mô phỏng theo sự phân quyền và và cân bằng kiểm soát của hiến pháp Mỹ. Tổng thống bổ nhiệm, quốc hội thẩm duyệt, nhân sĩ độc lập nhậm chức chủ tịch hội đồng quản trị, còn các nhà ngân hàng đảm nhận vị trí cố vấn, quả là một thiết kế hoàn hảo!
Bảy nhà tài phiệt phố Wall: Những người điều khiển hậu trường Cục Dự trữ Liên Bang
Bảy nhân vật quan trọng của phố Wall hiện tại đã khống chế đại bộ phận các ngành công nghiệp cơ bản cũng như nguồn vốn của Mỹ. Trong đó, JP Morgan, James J. Hill , George Berk (Chủ tịch First National Bank) trực thuộc Tập đoàn Morgan; bốn người còn lại gồm John Rockefeller, William Rockefeller, James Stillman (Chủ tịch National City Bank), Jacob Schiff (công ty Kuhn Loeb) trực thuộc Tập đoàn Standard Oil Cities Bank. Đầu mối trung tâm về vốn do họ tạo nên đang trở thành thế lực chủ yếu khống chế nước Mỹ.
Bảy vị tai to mặt lớn của phố Wall chính là những người thực sự điều khiển việc thành lập Cục dự trữ liên bang Mỹ. Sự phối hợp nhịp nhàng, bí mật giữa họ với dòng họ Rothschild của châu Âu cuối cùng đã lập nên một phiên bản của Ngân hàng Anh quốc tại Mỹ.

file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image006.jpg
Ben Bernanke - Chủ tịch đương nhiệm của FED

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

| trích lược từ
Chiến tranh tiền tệ của tác giả Song Hongbing

(bản dịch của Hồ Ngọc Minh)


Tại sao gọi là FED mà không gọi là Central Bank
09:48 Thứ bảy, 26 Tháng 11 2011 |

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Mặc dù, về cơ bản, chức năng, nhiệm vụ của Central Bank giống như FED hay Reserve Bank, nhưng giữa Central Bank và FED vẫn có những điểm khác nhau khá lớn, tùy thuộc vào tính chất “sở hữu về vốn” và sự lựa chọn “mô hình” mà các quốc gia áp dụng. Bài viết này không đi sâu so sánh bất cứ vấn đề gì giữa Central Bank và FED hay Reserve Bank, mà chỉ tóm lược một vài sự kiện quan trọng, tạo nên cái gọi là FED Hoa Kỳ, và các cuộc khủng hoảng tài chính do các thế lực tài phiệt quốc tế gây ra, để làm căn cứ cho bạn đọc tự so sánh, tìm hiểu.
1. Hội nghị Trà Boston – Giọt nước tràn ly
Như chúng ta đã biết, Hoa Kỳ vốn là thuộc địa của Anh cho đến năm 1774, để phản đối chính sách thuế của Anh đánh vào Trà (tea tax), một hội nghị trà được được tổ chức tại Boston (Boston Tea Party). Nhân dịp này, nhiều người Mỹ đóng giả người da đỏ nhảy lên tàu chở trà của Anh khiêu chiến và ném các thùng trà xuống biển. Hành động đó đã bị chính quyền cai trị Anh đàn áp. Để chống trả, phía Mỹ đã thành lập các đội quân chiến đấu chống lại quân đội Anh. Nhân sự kiện này, vào năm 1774, ông Benjamin Franklin đã đứng ra triệu tập một Hội nghị ở Philadelphia để đưa ra chính sách về quyền của người Mỹ được đóng thuế. Trong đó ông Benjamin nhấn mạnh: “Nếu như ngân hàng Anh không tước đoạt quyền phát hành tiền tệ của xứ thuộc địa (tức nước Mỹ) thì người dân của xứ này sẽ vui vẻ đóng các khoản thuế trà và các sản phẩm khác… và nó trở thành nguyên nhân chủ yếu gây ra cuộc chiến tranh độc lập của Mỹ”. Sau đó, với sự chiến thắng vang dội của đoàn quân Massachusetts, Hội nghị đã cho ra Bản tuyên ngôn độc lập ngày 4/7/1776 và dưới sự lãnh đạo tài tình của Tướng George Washington, quân đội Mỹ đánh thắng quân đội Anh vào năm 1781, theo Hiệp ước Versailles, năm 1785 Anh quốc chính thức công nhận độc lập cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Tại thời điểm này, vai trò và tầm ảnh hưởng của ông Benjamin Franklin được xếp sau Tướng George Washington. Ông Benjamin được coi là người cha lập quốc của nước Mỹ, ông là người duy nhất ký tên vào 4 tài liệu chính thức về việc thành lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đó là: Tuyên ngôn độc lập, Hiệp ước Paris, Hiệp ước liên minh với Pháp, Hiến pháp Mỹ.
Quay lại Hội nghị trà Boston, người ta coi Hội nghị tiệc trà Boston như là giọt nước tràn ly, đưa cuộc cách mạng Mỹ đến thắng lợi, trong đó hệ thống tài chính - tiền tệ Hoa Kỳ bắt đầu có những bước thay đổi. Cụ thể: dưới thời thuộc địa Anh, vấn đề điều hành chính sách tiền tệ, in ấn và phát hành tiền do Anh quốc thực hiện. Sau độc lập, vấn đề điều hành chính sách tiền tệ và in ấn phát hành tiền do Hoa Kỳ đảm nhận. Tuy nhiên, dưới sức ép của các nhà tài phiệt châu Âu chủ yếu là Anh, Pháp, Đức, Italia và các nhà tài phiệt Ngân hàng Hoa Kỳ, hệ thống ngân hàng Mỹ, đặc biệt là vị trí của Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ bị các thế lực tài phiệt biến thể liên tục theo hướng NHTW tư hữu, đúng như mô hình NHTW tư hữu Anh quốc. Nói đúng hơn là NHTW Hoa Kỳ đã trải qua các cuộc chiến “đẫm máu” nhằm xác lập tính chất “sở hữu” của NHTW thuộc về ai: Chính phủ hay các nhà tài phiệt tư nhân. Trong đó, tên gọi (nguồn gốc của FED) diễn biến như sau: từ 1791-1811, có tên gọi là “First Bank of the United States” (học theo mô hình ngân hàng Anh quốc) do Tổng thống Washington ký thành lập và có hiệu lực trong vòng 20 năm. Trong đó, các nhà tài phiệt tư nhân Hoa Kỳ như J.P Morgan, Rockefeller và Gia tộc Rothschild chiếm 80% cổ phần, Chính phủ Hoa Kỳ chỉ nắm giữ 20%. Năm 1811-1816, không có Central Bank; năm 1816-1836, là “Second Bank of the United States”, trong đó, các nhà tài phiệt Hoa Kỳ và Gia tộc Rothschild tiếp tục nắm giữ 80% cổ phần, còn Chính phủ Hoa Kỳ chỉ nắm giữ 20%. Từ năm 1837-1862, là Free Bank Era; từ 1846-1921, là Independent Treasury System; từ 1863-1913, là National Banks; từ 1913 - đến nay là Federal Reserve System, tức FED ngày nay. Như vậy, tên gọi của FED liên tục được thay đổi qua các thời kỳ, trong đó có những giai đoạn xuất hiện cùng lúc ba loại hình: Free Bank Era, Independent Treasury System, National Banks… Mãi đến năm 1913, mới chính thức có tên gọi là “Hệ thống dự trữ liên bang” (FED). Tại sao vậy, câu chuyện bí mật đảo JekyII là một phần của lịch sử FED.
2. Bí mật đảo JekyII – Nơi sản sinh ra Federal Reserve (FED)
Để cải tổ và vực dậy nền tài chính Hoa Kỳ sau cuộc đại khủng hoảng tài chính xảy ra tại Mỹ năm 1907, năm 1908, Tổng thống Theodore Roosevelt (1901-1909) là vị Tổng thống thứ 26 của Mỹ quyết định thành lập Ủy ban tiền tệ quốc gia (National Monetary Commission) để chỉnh đốn và cải cách hệ thống tài chính Mỹ. Chủ tịch Ủy ban tiền tệ quốc gia lúc bấy giờ là Nghị sỹ Nelson Aldrich (phía bên ngoại của David Rockefeller). David Rockefeller là ông vua dầu lửa, Chủ tịch tập đoàn dầu lửa Standard Oil, được mệnh danh là người giàu nhất nước Mỹ cho đến khi ông qua đời năm 1937. Trước khi bắt tay vào cải cách, ông Aldrich và các thành viên trong Ủy ban đã tiến hành chuyến “công du” châu Âu trong vòng 2 năm nhằm khảo sát và nghiên cứu toàn diện hệ thống tài chính châu Âu. Khi trở về nước, ông cùng các thành viên và các nhà tài phiệt ngân hàng hàng đầu nước Mỹ lúc bấy giờ bắt tay vào thực hiện công cuộc cải tổ hệ thống tài chính và ngân hàng Mỹ, đặc biệt là Ngân hàng Trung ương. Dấu mốc được đặt vào ngày 22/11/1910, tức ngày mà Nelson Aldrich cùng các nhà tài phiệt ngân hàng quan trọng nhất nước Mỹ lúc bấy giờ tiến ra hòn đảo JekyII thuộc bang Georgia. Là một hòn đảo nghỉ đông thuộc sở hữu của những nhân vật giàu có siêu hạng ở Mỹ, trong đó có J.P.Morgan. Morgan cũng là người thành lập ra câu lạc bộ đi săn trên đảo JekyII. Tại đây, Nelson Aldrich đã thành lập “The First Name Club”, với tên gọi của câu lạc bộ như vậy, buộc tất cả những người phục vụ trên đảo JekyII chỉ được xưng tên, tuyệt đối không được xưng họ đối với những vị khách quan trọng (đến từ đất liền). Tức người ta tránh không nhắc tới “Last Name” nhằm không cho ai biết, kể cả người hầu, nghĩa là dù bất cứ ai trên đảo có nghe trộm các cuộc đàm thoại của những nhân vật chóp bu về tài chính này thì cũng không biết tên họ là ai, để nói lại cho người ngoài hay báo chí biết về họ. Chính vì vậy, cho đến ngày nay, ít có tài liệu nhắc đến hoặc viết một cách đầy đủ về The First Name Club. Đó là điều bí mật gắn liền với hòn đảo JekyII Island, ngoài khơi bang Georgia, được coi là cái nôi sinh ra FED. Nhóm người do Nelson Aldrich dẫn đầu gồm một số nhân vật được chọn lọc rất cẩn trọng trong giới tài chính và ngân hàng Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Trong số đó, người đóng vai trò quan trọng nhất là ông Paul Warburg (1868-1932) người Mỹ gốc Đức, di cư sang Mỹ năm 1904, nhập quốc tịch Mỹ năm 1911. Paul đến Mỹ và hùn một khoản vốn khổng lồ vào Công ty Kuhn Loeband Company tại New York. Paul cũng là đại diện của dòng họ Rothschild nổi tiếng ở Đức, Anh, Pháp, Italia đảm nhận chức Tổng công trình sư của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED), kiêm chủ tịch đầu tiên của FED. Paul Warburg có 4 anh em đều là những nhân vật nổi tiếng trong giới tài phiệt ngân hàng thời bấy giờ, gồm: Max Warburg - anh trai cả là Cục trưởng Cục tình báo Đức, Paul Warburg là người em thứ hai giữ chức Chủ tịch FED nhiệm kỳ đầu tiên và là người giữ chức vụ cao nhất về tài chính Hoa Kỳ thời bấy giờ, Felix Warburg - em trai thứ ba là cổ đông cao cấp của Công ty Kuhn Loeb, Fritz là em trai thứ tư giữ chức Chủ tịch Sở giao dịch Vàng Humburg – Đức, là người từng đại diện cho Chính phủ Đức bí mật giảng hòa với Nga. Cả bốn anh em nhà họ Warburg đều là những nhân vật chóp bu mang trong mình dòng máu do thái – Người Đức. Xin nhắc lại rằng, mặc dù Gia tộc Rothschild không có mặt trên đảo JekyII, nhưng toàn bộ định hướng hình thành FED đều do Gia tộc Rothschild (bài viết sẽ đề cập cụ thể ở phần tiếp theo) điều khiển đằng sau hậu trường thông qua Paul Warburg nhân vật chính thiết kế ra FED. Cùng với Paul là các nhân vật tài phiệt như: Nelson Aldrich – thượng nghị sỹ, Chủ tịch Ủy ban tiền tệ quốc gia; A.Piatt Andrew – Trợ lý Bộ trưởng Tài chính Mỹ; Frank Vanderlip – Chủ tịch National Bank City; Henry P. Davision – cổ đông cao cấp của Công ty J.P.Morgan; Charles D.Norton – Chủ tịch First National Bank; Benjamin Strong – trợ lý của J.P.Morgan. Nhóm làm việc do Nelson Aldrich chủ trì đã họp trong vòng 9 ngày liên tục, để viết nên một dự luật cải tổ hệ thống ngân hàng và luật pháp tiền tệ trình lên Quốc hội. Dự luật mới có những đặc điểm khác với dự luật trước đó, ở chỗ: như đã đề cập ở trên, tên gọi của Ngân hàng Quốc gia Hoa Kỳ thay đổi liên tục, cho đến năm 1863-1913, mới chính thức gọi là Ngân hàng Quốc gia Hoa Kỳ (được hiểu là Ngân hàng Trung ương). Sau khủng hoảng tài chính 1907, những yếu kém của Ngân hàng Quốc gia bộc lộ, niềm tin dân chúng vào sự điều hành của Ngân hàng Quốc gia suy giảm mạnh, bởi Ngân hàng Quốc gia là ngân hàng tư nhân, do các nhà tài phiệt ngân hàng tư nhân Hoa Kỳ và quốc tế lập nên. Chính vì vậy, để phục hồi sức mạnh của Ngân hàng Quốc gia do tư nhân nắm giữ, điều đặc biệt đầu tiên của dự thảo mới là đổi tên Ngân hàng Trung ương thành Cục Dự trữ liên bang (Federal Reserve System – FED) mặc dù bản chất bên trong không thay đổi. Việc đổi tên từ “Ngân hàng” sang “Dự trữ” nhằm đánh lạc hướng dư luận công chúng, làm cho công chúng tin rằng cơ quan điều hành này là cơ quan của Chính phủ, do nhân viên Chính phủ điều hành, chứ không phải là “tư nhân điều hành” (các nhà tài phiệt). Hơn nữa, tên gọi Ngân hàng Trung ương thường liên quan đến hàng loạt âm mưu đen tối của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế Anh quốc, vì thế Paul kiến nghị nên sử dụng tên gọi “Cục Dự trữ liên bang” (FED) thay cho NHTW để che đậy tai mắt thiên hạ. Bên cạnh đó, FED của Mỹ được thiết kế theo kiểu tư nhân nắm giữ cổ phần. Khác với Ngân hàng Thứ nhất (1791-1811 có tên gọi là “First Bank of the United States”) và Ngân hàng Thứ hai (1816-1836 có tên gọi là “Second Bank of the United States”), đó là trong cơ cấu cổ phần của FED thì 20% cổ phần vốn có của Chính phủ tại Ngân hàng Thứ nhất và Thứ hai, nay đã được tư nhân hóa, do đó FED trở thành một NHTW tư hữu thuần túy. Thứ hai: nhân vật chịu trách nhiệm chủ trì FED phải là một chuyên gia hàng đầu của Ngân hàng New York. Để nhận được sự ủng hộ của các nghị sỹ đến từ các bang khác, đặc biệt là các bang thuộc miền Trung tây nước Mỹ vốn không ưa các chuyên gia đến từ miền Đông, trong đó có Ngân hàng New York. Vì vậy, Paul thiết kế làm sao cho 12 ngân hàng địa phương cấu thành vào FED nhằm trung hòa các mối quan hệ, và thuận cho việc lựa chọn nhân vật đứng đầu FED phải là của Ngân hàng New York. Mặc dù trên thực tế, Ngân hàng New York luôn nắm vị trí “thống lĩnh”, các chủ trương chính sách do Ngân hàng New York đưa ra đều là kim chỉ nam hành động cho toàn bộ các ngân hàng địa phương thực hiện. Thứ ba: trụ sở chính của FED đóng tại Washington chứ không phải là New York, mặc dù New York là trung tâm tài chính (Phố Wall) không những của Hoa Kỳ mà của toàn thế giới, đây cũng là vấn đề được Paul thiết kế nhằm tránh sự kỳ thị của dân chúng Mỹ đối với các ngân hàng đến từ New York thời bấy giờ. Thứ tư: tìm những người đứng đầu 12 FED địa phương, trong đó Paul cho thấy một điều rằng: các nghị sỹ miền Trung tây nước Mỹ thường tỏ rõ mối thù địch với Ngân hàng New York, do đó, để khống chế 12 FED địa phương, Paul đề xuất Tổng thống là người chịu trách nhiệm bổ nhiệm người đứng đầu 12 FED địa phương, mà không phải là Quốc hội. Đối với FED Trung ương, Hội đồng Thống đốc FED có 7 thành viên, Chủ tịch FED do Tổng thống bổ nhiệm, 2 thành viên khác của FED đại diện cho Chính phủ là Bộ Tài chính và Kho bạc Mỹ, còn lại là các ông chủ ngân hàng tư nhân. Trong đó, Tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm 1 thành viên trong vòng 2 năm. Như vậy, 1 nhiệm kỳ Tổng thống 4 năm thì Tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm 2 thành viên trong Hội đồng Thống đốc FED. Nếu nhiệm kỳ Tổng thống kéo dài 8 năm (2 nhiệm kỳ) thì quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm chỉ được tối đa 4 người, và 4 người này phải được Thượng viện thông qua, đó là điều không dễ. Lịch sử Mỹ đã chứng minh điều này. Chẳng hạn Ông Alan Greenspan nguyên là Giám đốc Tập đoàn J.P.Morgan, được Tổng thống Reagan bổ nhiệm vào vị trí Chủ tịch FED vào năm 1987, cho đến năm 2006 mới nghỉ hưu, Ông đã trải qua 4 đời Tổng thống, mà không phải “nghỉ giữa chừng”, điều đó chứng tỏ sức mạnh độc lập của FED và vai trò “điều khiển” của các nhà tài phiệt Hoa Kỳ đủ để nói lên tính khác biệt trong điều hành của mình so với các quốc gia khác.
3. Vốn, mạng lưới và in ấn tiền của FED
- Vốn: vốn của FED do các FED địa phương đóng góp, trong đó FED Bank của New York (Federal Reserve Bank of New York) nắm đa số cổ phần, chiếm 53% cổ phần và quyết định toàn bộ hoạt động của FED. Trong FED Bank của New York thì Citibank và J.P.Morgan Chase Co nắm đa số cổ phần. Citibank là của gia đình Rockefeller - ông vua dầu lửa như đề cập trên. Còn J.P.Morgan Chase Co là của gia đình Morgan. J.P.Morgan (1837-1913) là ông trùm của ngành công nghiệp Mỹ, ông đã thành lập Tập đoàn Thép Hoa Kỳ với tổng số vốn lên đến hàng tỷ USD, bảo trợ tài chính cho International Havester, AT&T, General Electric, là cha đẻ của dự án xây dựng hệ thống đường ray của Mỹ. Đặc biệt dưới sự lãnh đạo của ông, các ngân hàng lớn của New York đóng vai trò như là Ngân hàng Trung ương của Mỹ. Do đó, các chính sách FED Bank của New York đưa ra được coi như là định hướng cho toàn bộ các FED địa phương thực hiện. Một điều đặc biệt nữa, đó là trong thời kỳ điều hành của J.P.Morgan, ông đã kết hợp được lợi ích của các công ty cạnh tranh để tạo ra một hệ thống khổng lồ và ổn định. Hai gia đình Rockefeller và J.P.Morgan cùng với gia đình Carnegie (Vua sắt thép của nền công nghiệp Mỹ) và gia đình Rothschild (dòng họ người do thái, định cư tại Đức), nổi tiếng và giàu có trên thế giới. Mỗi khi nói đến dòng họ này là người ta suy nghĩ ngay đến quyền lực và tiền bạc. Gia đình Rothschild đã xây dựng nên một hệ thống ngân hàng tư nhân và chi phối phần lớn thị trường tiền tệ, tín dụng châu Âu trong một thời kỳ dài. Tên ông gắn liền với Ngân hàng Rothschild tại 5 trung tâm tài chính tiền tệ lớn nhất châu Âu lúc đó là: Frankfurt-Đức, London –Anh, Paris-Pháp, Vienne-Áo, Napoli-Italia do 5 con trai của ông làm chủ. Nếu Bill Gates – ông chủ tập đoàn Microsoft hiện được giới truyền thông liệt vào danh sách một trong những người giàu có nhất thế giới hiện nay, thì những thế lực vô hình như Gia tộc Rothschild ít khi xuất hiện trong top những người giàu nhất, mặc dù trên thực tế, họ mới chính là những người giàu nhất hành tinh, trên cả Bill Gates nhiều lần, song do giới truyền thông bị các ông trùm này “khóa miệng” nên không ai có thể biết được tài sản của họ là bao nhiêu.
Hiện tại, có 7 nhân vật quan trọng của Phố Wall đang khống chế đại bộ phận các ngành công nghiệp cơ bản cũng như nguồn vốn của nước Mỹ đó là: J.P Morgan, James J.Hill, George Berk (Chủ tịch First National Bank) trực thuộc Tập đoàn Morgan; 4 người còn lại là John Rockefeller, William Rockefeller, James Stillman (Chủ tịch National City Bank), Jacob Schiff (Công ty Kuhn Loeb) trực thuộc Tập đoàn Standard Oil Cities Bank. Đầu mối trung tâm về vốn do họ tạo nên đang trở thành thế lực chủ yếu khống chế nước Mỹ. Cũng chính 7 vị tai to mặt lớn của Phố Wall chính là những người thực sự điều khiển việc thành lập Cục Dự trữ liên bang Mỹ. Sự phối hợp nhịp nhàng và hết sức bí mật giữa những ông trùm trên với Gia tộc Rothschild của châu Âu cuối cùng đã lập nên một phiên bản của Ngân hàng Anh quốc tại Mỹ có tên gọi là FED tư nhân hoàn toàn.
- Mạng lưới chi nhánh của FED: Federal Reserve System gồm có 12 FED bank địa phương, mỗi FED bank địa phương là 1 bank thuộc sở hữu của các ông chủ nhà bank tư nhân, bao gồm: 1- Boston, 2-New York, 3- Philadelphia, 4- Clavelands, 5- St Louis, 6- San Francisco, 7- Richmond, 8- Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City, 12 – Dallas.
- In ấn tiền: Hiện tại, việc in ấn tiền tại Hoa Kỳ do 2 cơ quan đảm nhận, cụ thể: FED (bao gồm 12 FED New York và địa phương) đảm nhận việc phát hành tiền giấy, Bộ Tài chính phát hành tiền xu (coins) có mệnh giá One Cent, Five Cents, One Dime, One Quarter và một số đồng tiền One Dollar. Trong đó, mỗi một FED khu vực được ký hiệu bằng 1 chữ cái, những chữ cái này in trên giấy bạc mà các FED phát hành, cụ thể nhìn bên trái tờ tiền dolla chúng ta thấy có chữ ký hiệu A ở phía 4 góc có ghi số 1 nằm trong lòng tờ tiền, tức đồng tiền đó do FED Boston in ấn; tương tự FED New York là B, bốn góc có số 2 nhỏ, tức đồng tiền đó do FED New York in ấn; FED Philadelphia là C {3}, FED Clavelands là D {4}, FED Richmond là E {5}, FED Atlanta là F {6}, FED Chicago là G {7}, FED St Louis là H {8}, FED Minneapolis là I {9}, FED Kansas City là J {10}, FED Dallas là K {11} và FED San Francisco là L {12}.
4. Khủng hoảng tài chính và vai trò của các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế
Do FED bị khống chế bởi các nhà tài phiệt ngân hàng và tập đoàn công nghiệp hàng đầu tại Mỹ và châu Âu nói trên, nên trước khi FED ra đời, hay sau khi FED ra đời thì bản chất hoạt động cũng không có gì thay đổi. FED luôn đóng vai trò là NHTW của Hoa Kỳ và cũng là NHTW của thế giới, bởi FED luôn hội tụ những bậc kỳ tài về lĩnh vực tài chính ngân hàng (nói đúng hơn là những nhà tài phiệt hàng đầu thế giới về lĩnh vực ngân hàng) nắm giữ vai trò điều hành FED. Họ là những thế lực có thể tạo ra bất cứ cuộc khủng hoảng nào, nếu họ cần. Vì vậy, bất cứ cuộc khủng hoảng nào xảy ra, đều có nguyên nhân và ẩn chứa đằng sau đó là cả một thế lực thao túng. Chẳng hạn, theo thống kê, các khủng hoảng tài chính xảy ra từ những năm 1857 đến nay đều do các thế lực tài phiệt ngân hàng tạo ra, nhằm gây áp lực với Chính phủ nếu một chính sách nào đó gây bất lợi cho các nhà tài phiệt, hay các ngân hàng “cứng đầu” không tuân theo FED New York, nơi đặt trụ sở chính của các nhà tài phiệt Phố Wall Hoa Kỳ và châu Âu. Theo Tác phẩm “Chiến tranh tiền tệ” (Currency Wars ) của tác giả Song HongBing cho biết: Phố Wall không ngừng áp dụng thủ đoạn tạo ra khủng hoảng tài chính để loại bỏ các phần tử đối lập. Trong các năm 1857, 1870, 1907 vì muốn ép Chính phủ Mỹ xây dựng lại NHTW tư hữu (tức FED ngày nay), các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế liên tục hợp tác và cùng nhau tạo ra khủng hoảng tài chính. Cuối cùng họ cũng đạt mục đích là thành lập FED tư hữu theo ý muốn thông qua các cuộc khủng hoảng tài chính, từ đó khống chế hoàn toàn quyền phát hành tiền của Mỹ. Chỉ tính riêng cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra tại Mỹ năm 1930 đến 1933, tổng cộng đã có 8.812 ngân hàng phải đóng cửa, do các ngân hàng này từng tỏ thái độ “bằng vai phải lứa” với 5 đại gia tài chính ở New York, đồng thời không chịu vay nợ từ hệ thống Cục Dự trữ Liên bang Mỹ nên các ngân hàng vừa và nhỏ đã phải nối đuôi nhau phá sản. Đứng về người vay tiền, chỉ tính riêng 1 ngày, tại 1 bang của Hoa Kỳ trong cuộc khủng hoảng 1930-1933 đã có 60.000 ngôi nhà và nông trường bị phát mại. Một thủ đoạn kiếm tiền khác của các ngân hàng quốc tế đó là tạo ra các cuộc suy thoái kinh tế. Trước tiên, họ mở hầu bao để thúc đẩy tín dụng phát triển, tạo nên tình trạng thị trường bong bóng, rồi sau khi tài sản của người dân đã đổ dồn vào cơn sóng đầu cơ thì rút mạnh vòng quay lưu chuyển tiền tệ, tạo nên suy thoái kinh tế và sụt giá tài sản. Khi giá tài sản sụt xuống chỉ còn 1/10, thậm chí, là 1/100 giá trị thực thì các nhà tài phiệt lại ra tay mua vào. Trong ngôn ngữ của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế thì hành động này được gọi là “xén lông cừu” (fleecing of the flock). Sau khi Ngân hàng Trung ương tư nhân được thành lập, cường độ và phạm vi của hành động “xén lông cừu” đã đạt đến mức chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Hành động xén lông cừu được các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế ra tay gần đây nhất chính là tạo ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 trên cơ thể các con “hổ nhỏ” và “rồng nhỏ” của châu Á. Tương tự, chúng ta có thể thấy cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2008 cũng là cuộc “xén lông cừu” trên phạm vi toàn cầu. Cuộc khủng hoảng đã buộc 106 ngân hàng tại Mỹ phải đóng cửa, phá sản (chưa kể các ngân hàng châu Âu) và buộc hàng triệu người dân từ Âu sang Á lâm vào cảnh nợ nần…; các ngân hàng đóng cửa tại Mỹ trong cuộc khủng hoảng này vẫn chủ yếu là những ngân hàng nhỏ, địa phương. Nếu đánh giá khủng hoảng ở hai góc nhìn “các nhà tài phiệt” và “dân chúng”, tác phẩm “Curruncy Wars” cũng đưa ra nhận xét rằng: “Điều mà các nhà tài phiệt ngân hàng cần chính là nguy cơ khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng trong đời sống xã hội. Dưới sự đe dọa của khủng hoảng và suy thoái, người dân dễ trở nên thỏa hiệp nhất, sự đoàn kết dễ bị phá vỡ nhất, dư luận dễ bị dẫn dắt nhất, sức tập trung xã hội dễ bị phân tán nhất, và đương nhiên, mưu kế của các nhà tài phiệt ngân hàng cũng dễ được thực hiện nhất. Vì vậy, khủng hoảng và suy thoái được các nhà tài phiệt ngân hàng xem như một thứ vũ khí được sử dụng một cách hiệu quả nhất nhằm đối phó với Chính phủ và người dân”.
Rõ ràng, khủng hoảng và suy thoái là con bài của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế tạo ra, do đó trong môi trường toàn cầu hóa, các sách lược đối phó với khủng hoảng và suy thoái của các quốc gia đang phát triển cần phải hết sức thận trọng và chính xác mới tránh được các bẫy “xén lông cừu” của các nhà tài phiệt quốc tế.

Theo TS. Tôn Thanh Tâm Tạp chí Ngân hàng (Số 23/2009)



#469 NLuong

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 723 Bài viết:
  • 588 thanks

Gửi vào 01/05/2014 - 04:49

Chỉ tìm hiểu về Federal Reserve (FED) và ai hiểu được tiếng Anh nghe đoạn phát thanh sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:
HTV

#470 zer0

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 482 Bài viết:
  • 1005 thanks

Gửi vào 01/05/2014 - 05:24

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

NLuong, on 01/05/2014 - 03:52, said:

Mỹ và Tây Phương năm ngoái (2013) muốn chụp mũ Syria với vũ khí hóa học để tấn công Syria rồi mở đường tiến đánh IRAN, cũng vì IRAN bán dầu không lấy tiền đô.
Chuyện Syria có vũ khí Hoa' học là có thật . Người ta chỉ nói Mỹ và Châu Âu vì Mỹ chính nó là phương Tây, những nước khác như Pháp, Đức, Anh ...thì thuộc về Châu Âu

Thanked by 3 Members:

#471 NLuong

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 723 Bài viết:
  • 588 thanks

Gửi vào 01/05/2014 - 06:27

Cứ 1 đô in ra FED chắc chắn được trả 46 cents (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

). Tháng tư này FED in ra 45 tỷ đô và mang về cho chủ nhân của FED là 20.7 tỷ đô. Đây mới chỉ là tiền in ra cho Quantitative easing (QE).

Thanked by 1 Member:
HTV

#472 NLuong

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 723 Bài viết:
  • 588 thanks

Gửi vào 01/05/2014 - 23:11

Bác Minh sao lại kể chuyện này, thật sự không dễ hiểu đối với con người bình thường. Đây là chuyện thiên hạ bàn tán trên mạng về kẻ cầm quyền - giai cấp lãnh đạo, gọi là Illuminati từ lâu nay. Ai thích tìm hiểu thì cứ việc Google là có đầy đủ.

Thanked by 1 Member:
HTV

#473 Hoa Cái

    Hội Viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPip
  • 5381 Bài viết:
  • 18634 thanks

Gửi vào 02/05/2014 - 05:08

Câu chuyện đáng chú ý nhất là về kỳ họp từ ngày 5 - 8.6.2008 tại Chantilly, bang Virginia của Mỹ. Khi đó, Barack Obama và Hillary Clinton đang chạy đua quyết liệt để giành quyền đại diện đảng Dân chủ ra tranh cử tổng thống. Vào ngày 5.6, cả hai người bỗng dưng… mất tích trong vài giờ, theo Đài RT. Khoảng thời gian đó không được nhắc tới trong lịch trình tranh cử chính thức, còn truyền thông Mỹ hoàn toàn im lặng. Chỉ 2 ngày sau, bà Clinton tuyên bố rút lui. Vô số đồn đoán được đưa ra nhưng tất cả đều có chung kết luận là 2 người được vời tới Hội nghị Bilderberg để thỏa hiệp. Theo đó, sau khi đã đạt mục đích bước đầu tại Afghanistan và Iraq bằng phương pháp “hùng hổ” của Tổng thống George W.Bush và đảng Cộng hòa, các ông chủ cần phe Dân chủ chiến thắng để tiếp tục thao túng tình hình bằng “quyền lực mềm”. Vào thời điểm ấy, một tổng thống da màu có vẻ thân thiện với Hồi giáo sẽ có lợi hơn. Đổi lại, bà Clinton sẽ có vị trí xứng đáng trong chính quyền để cùng ông Obama tạo thành một “cặp đôi hoàn hảo”, theo RT


Đoạn trên sai . Bà Clinton thua Obama vì nhiều điểm, trong đó có lý do thủ hạ của bà đấu đá nhau, trong khi Obama được lòng giới sinh viên, giớ trí thức và cả giới nghèo . Clinton và Obama chiến đấu gay go cho tới giờ phút cuối cùng .



Thanked by 5 Members:

#474 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5108 thanks

Gửi vào 02/05/2014 - 05:42

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

HoaCai0101, on 02/05/2014 - 05:08, said:

Câu chuyện đáng chú ý nhất là về kỳ họp từ ngày 5 - 8.6.2008 tại Chantilly, bang Virginia của Mỹ. Khi đó, Barack Obama và Hillary Clinton đang chạy đua quyết liệt để giành quyền đại diện đảng Dân chủ ra tranh cử tổng thống. Vào ngày 5.6, cả hai người bỗng dưng… mất tích trong vài giờ, theo Đài RT. Khoảng thời gian đó không được nhắc tới trong lịch trình tranh cử chính thức, còn truyền thông Mỹ hoàn toàn im lặng. Chỉ 2 ngày sau, bà Clinton tuyên bố rút lui. Vô số đồn đoán được đưa ra nhưng tất cả đều có chung kết luận là 2 người được vời tới Hội nghị Bilderberg để thỏa hiệp. Theo đó, sau khi đã đạt mục đích bước đầu tại Afghanistan và Iraq bằng phương pháp “hùng hổ” của Tổng thống George W.Bush và đảng Cộng hòa, các ông chủ cần phe Dân chủ chiến thắng để tiếp tục thao túng tình hình bằng “quyền lực mềm”. Vào thời điểm ấy, một tổng thống da màu có vẻ thân thiện với Hồi giáo sẽ có lợi hơn. Đổi lại, bà Clinton sẽ có vị trí xứng đáng trong chính quyền để cùng ông Obama tạo thành một “cặp đôi hoàn hảo”, theo RT


Đoạn trên sai . Bà Clinton thua Obama vì nhiều điểm, trong đó có lý do thủ hạ của bà đấu đá nhau, trong khi Obama được lòng giới sinh viên, giớ trí thức và cả giới nghèo . Clinton và Obama chiến đấu gay go cho tới giờ phút cuối cùng .


Tôi cũng nghĩ như Lão Cái . Chơi đến phút cuối nhưng cã hai ông bà Clinton đều là người thức thời, thực tế biết mình không thắng nổi và tài chánh kiệt quệ nếu tiếp tục và sẽ mất sự ủng hộ của người cùng đảng nếu cứ kéo lâu dài nên điều đình để gở lại những chi phí trong lúc tranh cử và giữ 1 chức vụ tương xứng trong nội các Obama .
Vấn đề đồng đô la Mỹ rất phức tạp, mặt dù Fed có thể in tiền và không dùng Vàng để bảo chứng mà dùng chỉ số thị trường tiêu thụ và GDP để quyết định. Vàng là kim loại chết trong khi thị trường tiêu thụ và GDP mới là nhân tố chính phản ảnh nền kinh tế quốc gia có thể vay và trả nổi nợ hay không.

Sửa bởi Vô Danh Thiên Địa: 02/05/2014 - 05:55


Thanked by 5 Members:

#475 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5108 thanks

Gửi vào 02/05/2014 - 09:52

Hệ thống Fed được điều hành bơỉ Chủ tịch hội đồng quản trị và thành viên của hội đồng, trên danh nghĩa vẩn là do Tổng Thống bổ nhiệm và Quốc Hội phán quyết . Bàn tay tài phiệt có rớ tóí được không thì vẩn chỉ là chuyện bàn phiếm của dư luận. Dỉ nhiên tiền và quyền thì như Ma Quỉ và đạo cao một thước thì ma cao một trượng . Thời có Thái có Bĩ , phải có fact rõ ràng cho*' chẳng thể suy diển khơi khơi rồi kết luận như bài viết trên .
Gần đây có nhiều bài viết về hệ thống tiền tệ nu*o*'c Mỹ . Các nước Âu Châu, Liên Xô, Tàu đều muốn có bản tệ riêng cho mình nên có rất nhiều bài viết thuộc thể loại như trên .

Thanked by 4 Members:

#476 cacphuong

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 78 Bài viết:
  • 219 thanks

Gửi vào 15/07/2014 - 08:11

Bài viết mang đậm cảm tính chủ quan (T.giả TS. Tôn Thanh Tâm Tạp chí Ngân hàng (Số 23/2009) ".
Tác giả nhận định cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008 do các nhà tài phiệt ra ( cố tình tạo ra ) chứng tỏ không biết nguyên
nhân thực của nó hoặc cố tình gá ghép.
Tôi đồng ý Vôdanh thiên dia , bài được viết trong giai đoạn cực điểm suy thoái của Hoa Kỳ ( 2009) cùng lúc 2 tên đầu sỏ độc tài Trung Cộng và Nga thừa cơ tìm cách hình thành tiền tệ quốc tế không sử dụng đồng Đô la Mỹ .Nhưng 2 nước này thất bại, bởi chẳng ai tin tưởng .

Thanked by 1 Member:

#477 minhminh

    Ban Điều Hành

  • Ban Điều Hành
  • 3867 Bài viết:
  • 24434 thanks

Gửi vào 13/01/2015 - 10:23

Ngày 19-01 Kỷ Niệm Ngày HOÀNG SA NHUỘM MÁU

Trận hải chiến đẫm máu ở Hoàng Sa-Trường Sa giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải Quân Trung Cộng bắt nguồn từ ngày 11-1-1974 khi Trung Cộng lên tiếng tuyên bố

Lê Thương


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Huy hiệu Hải Quân VNCH.


Trận hải chiến đẫm máu ở Hoàng Sa-Trường Sa giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải Quân Trung Cộng bắt nguồn từ ngày 11-1-1974 khi Trung Cộng lên tiếng tuyên bố các quần đảo nầy thuộc lãnh thổ của họ, đồng thời họ gởi nhiều tàu chiến ngụy trang tàu đánh cá đổ quân lên các đảo lân cận.
Ngày hôm sau, 12-1-1974, Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa Vương Văn Bắc cực lực bác bỏ những luận điệu ngang ngược, vô căn cứ nầy và mạnh mẽ lên án trước dư luận thế giới về ý đồ xâm lăng của Trung Cộng. Để bảo tồn sự vẹn toàn lãnh thổ, ngày 15-1-1974, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam phái Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ16 ra tăng cường tuần tiễu và bảo vệ các quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam ta. Ngày xưa, vị anh hùng Lý Thường Kiệt mang gươm đi đánh Tống, ngày nay con tàu mang tên ông cũng đang lướt sóng trực chỉ Biển Đông, sẵn sàng chống giữ Hoàng Sa.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Phóng đồ trận Hoàng Sa.
Hạm trưởng HQ16 là Hải Quân Trung tá Lê Văn Thự, xuất thân từ Khóa 10 Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, chiến hạm có chở theo phái đoàn Công Binh gồm Thiếu tá Hồng, 2 sĩ quan cấp úy và 2 trung sĩ Công Binh để khảo sát địa thế cho kế hoạch thiết lập một phi trường trên đảo nầy, ngoài ra còn có ông Gerald Emil Kosh thuộc cơ quan DAO của Hoa Kỳ ở Đà Nẳng đi theo cho biết đảo. Chiến hạm đến Hoàng Sa vào lúc chiều tối ngày 15-1-1974. đêm đó con tàu bỏ neo trong vùng chờ trời sáng sẽ đưa phái đoàn vào đảo
Đêm không trăng, bầu trời cao thăm thẳm lấp lánh những vì sao, tiếng sóng vỗ rì rào quanh mạn con tàu. Thật là đêm bình yên thơ mộng giữa trùng dương mênh mông đối với những chàng lính biển. Quân chủng Hải Quân như một người cha, luôn luôn mở rộng vòng tay âu yếm đón nhận những chàng trai trẻ mang mộng hải hồ vào đại gia đình “áo trắng”. Có biết bao nhiêu thiếu nữ yêu kiều đã gởi con tim mình cho những người lính áo trắng mà “mỗi bến nước là một bến tình” cho nên bị dân gian “mắng yêu” bằng hai câu ca dao dễ thương:
Đường nào dài bằng đường Trần Hưng Đạo,
Lính nào xạo cho bằng lính Hải Quân.
Buổi sáng ngày 16-1-1974, HQ16 cho xuồng đổ bộ phái đoàn Công Binh lên đảo Pattern, công tác hoàn tất tốt đẹp. Đến trưa, vị sĩ quan trực Quart 1200-1500H là Hải Quân Trung úy Đào Dân bỗng phát hiện một con tàu lạ trước mặt đảo Cam Tuyền (đảo Robert), chiếc tàu nhỏ, cỡ tàu đánh cá. Chiến hạm đánh đèn yêu cầu tàu lạ cho biết xuất xứ, đúng theo qui luật hàng hải quốc tế nhưng tàu lạ vẫn im lặng. Để gợi sự chú ý và cũng để đuổi tàu lạ ra khỏi lãnh hải, chiến hạm cho bắn chỉ thiên một tràng đại liên 30. Tiếng súng nổ dòn dã giữa buổi trưa yên tĩnh trên mặt biển nhưng đối tượng vẫn lì lợm, không nhúc nhích. Khi tàu ta đến gần hơn thì mọi người đều chưng hửng vì tàu lạ là tàu Trung Cộng, mang cờ nền đỏ với các ngôi sao vàng ở ngay góc. Sự xuất hiện của chiến hạm Việt Nam cũng làm khuấy động sự sinh hoạt trên tàu Trung Cộng, hàng chục binh sĩ của họ lên boong nhìn sang tàu ta bằng những đôi mắt soi mói, kỳ lạ lẫn ngạc nhiên

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ.16

Hạm trưởng HQ16 khẩn báo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân để xin chỉ thị, đồng thời cho nhân viên dùng đèn, dùng cờ, dùng máy phóng thanh yêu cầu tàu Trung Cộng rời khỏi hải phận Việt Nam. Lúc đầu cuộc đối thoại như với người câm nhưng sau đó họ cũng dùng loa phóng thanh cầm tay yêu cầu ta ra khỏi lãnh hải Trung Quốc. Hai bên tiếp tục đấu võ mồm suốt cả buổi chiều ngày 16-1-1974 mà không bên nào nhượng bộ. Đêm đến, HQ16 phải lui ra xa để giữ an toàn cho chiến hạm. Buổi sáng ngày 17-1-1974, ta lại phát hiện thêm một tàu địch cạnh đảo Vĩnh Lạc (đảo Money) và hàng trăm lá cờ Trung Cộng được cắm dọc bờ biển. Chỉ có đảo Cam Tuyền mà HQ16 đang ở gần là còn trinh bạch, chưa bị hoen ố bởi cái rừng cờ màu máu đó.
Ngay khi nhận được báo cáo của HQ16 phát hiện tàu Trung Cộng xâm phạm hải phận Việt Nam, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải chỉ thị cho Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ4 ra Hoàng Sa tăng cường. Khu trục hạm Trần Khánh Dư, chiến hạm mang tên danh tướng đã oanh liệt chiến thắng trận Vân Đồn, mở đầu cho trận đại thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng của quân dân ta dưới thời nhà Trần ra đến Hoàng Sa khoảng 2:00 giờ chiều ngày 17-1-1974, chở theo một trung đội Người Nhái (Navy Seal).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Khu trục ham Trần Khánh Dư HQ.4
Hạm trưởng HQ4 là Hải Quân Trung tá Vũ Hữu San, Khóa 11, khi nhập vùng đã hợp với HQ16 có những hành động tức thời để uy hiếp lực lượng Trung Cộng. Chiếc HQ16 vận chuyển từ phìa Bắc Hoàng Sa xuống trong khi HQ4 từ phía Nam đảo Vĩnh Lạc tiến lên, tạo thế gọng kìm, kẹp chặt 2 tàu địch vào giữa. Thấy lực lượng Hải Quân Việt Nam được tăng cường, địch di chuyển ra khỏi đảo Cam Tuyền nhưng vẫn bám vùng. Tàu ta tiếp tục tiến đến gần hơn, sát tàu địch. Hai phe lại dùng loa phóng thanh trao đổi yêu sách, bên nầy đòi bên kia rời khỏi lãnh hải của mình. Địch không rời mà còn lải nhải mãi khiến Trung tá Vũ Hữu San tức giận, mặt ông đỏ gay, ông vung nắm tay về hướng tàu địch lúc đó đang ở rất gần, quát lớn “bọn bố láo”, đoạn ông ra lệnh cho HQ4 dùng mũi húc vào chiếc tàu địch nầy để đẩy nó ra. HQ4 to lớn, gồ ghề, 3 tầng kiến trúc với đài chỉ huy cao nghều nghệu trong khi tàu Trung Cộng nhỏ hơn, thấp hơn nên bị tàu ta húc bể một lỗ lớn ở đài chỉ huy. Trước hành động quyết liệt nầy, 2 tàu Trung Cộng đành nhượng bộ, bỏ chạy về hướng đảo Duy Mộng và Quang Hòa.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ngư thuyền võ trang TC khiêu khích cản đường vận chuyển Khu truc hạm HQ.4
Sau khi đuổi được hai tàu Trung Cộng, theo đặc lệnh hành quân, Tuần dương hạm HQ16 liền cho đổ bổ bộ toán nhân viên cơ hữu của tàu gồm 15 người lên đảo Cam Tuyền, mang theo súng ống, đạn dược, máy truyền tin và lương khô đủ dùng trong 3 ngày, do Trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy. Toán đổ bộ nầy đã hoàn tất công tác dẹp cờ Trung Cộng và cắm cờ Việt Nam Cộng Hòa mà không gặp sự kháng cự nào của địch. Tiếp đó, HQ4 cũng cho đổ bộ 13 nhân viên cơ hữu lên đảo Vĩnh Lạc. Tại đây, Trung Cộng có 3 tàu neo gần đó, khi thấy lực lượng Việt Nam đổ quân họ lặng lẻ rút lui mà không chống trả.
Đến khoảng 6:00 giờ chiều ngày 17-1-1974, phe Trung Cộng được tăng cường thêm 2 Hộ tống hạm Kronstadts mang số 271 và 274. Đặc tính của loại Kronstadt là mình hẹp, lườn thấp, có vận tốc cao để săn đuổi tàu ngầm, dài 170 ft, ngang 21.5 ft, 2 máy, 2 chân vit, vận tốc 24 knots, trang bị 1 hải pháo 100 ly (3.5 inch) ở sân trước và 2 đại bác 37 ly ở sân sau, 2 giàn thả thủy lựu đạn (Depth Charges) và 2 giàn thả mìn, thủy thủ đoàn khoảng 65 người. Vừa tới, 2 chiếc Kronstadts nầy từ phía đảo Quang Hòa hùng hổ xả hết tốc lực về hướng HQ4 và HQ16 với thái độ khiêu khích, thách thức. Không một chút nao núng, với đội hình tác chiến, 2 chiến hạm ta hùng dũng rẻ sóng xông lên nghênh cản tàu địch, đồng thời đánh quang hiệu yêu cầu địch ra khỏi hải phận Việt Nam. Địch cũng dùng quang hiệu yêu cầu ngược lại. Đôi bên trao đổi tín hiệu gần một tiếng đồng hồ mà không có kết quả nhưng trước thái độ cứng rắn của Việt Nam Cộng Hòa, 2 chiếc Kronstadts đành nhập đoàn với các tàu Trung Cộng khác lui về bố trí tại hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hộ tống hạm Kronstadt 271 và 274 HQTC.
Trong khi tình hình đang căng thẳng ngoài Hoàng Sa thì ở đất liền, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bay ra Vùng I và được Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại thuyết trình vào lúc 8:00 giờ sáng ngày 17-1-1974 về lịch sử, địa lý, tài nguyên, chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa cùng những diễn tiến giữa lực lượng ta và lực lượng Trung Cộng ở Hoàng Sa. Sau khi nghe thuyết trình, Tổng Thống Thiệu đã ra những chỉ thị cho Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và nhấn mạnh câu: “Đừng để mất một tấc đất”.
Được tin Trung Cộng gởi thêm quân và nhiều chiến hạm từ căn cứ Hải Quân Yulin ở đảo Hải Nàm (Hainan) đến Hoàng Sa, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa cũng gởi thêm 2 chiến hạm, đó là Tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ5, chiến hạm mang tên dũng tướng với câu nói khí khái: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” và Hộ tống Hạm Nhật Tảo HQ10 tăng viện cho Hoàng Sa. Hạm trưởng HQ5 là Hải Quân Trung tá Phạm Trọng Quỳnh, Khóa 11, còn Hạm trưởng HQ10 là Hải Quân Thiếu tá Ngụy Văn Thà. Khóa 12. Cùng đi trên HQ5 có Hải Quân Đại tá Hà Văn Ngạc, Khóa 5, Chỉ huy trưởng Hải Đội 3 Tuần Dương, trực thuộc Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, vừa được chỉ định làm Tư Lệnh Đặc Nhiệm Chiến Dịch Hoàng Sa và Đại tá Ngạc dùng HQ5 làm Soái hạm để chỉ huy cuộc hải chiến. Sự hiện diện của Đại tá Hà Văn Ngạc, một sĩ quan cao cấp, nhiều kinh nghiệm, đã từng tu nghiệp ở Đại Học Hải Chiến Hoa Kỳ làm cho mọi người thêm vững tâm, lên tinh thần. HQ5 cũng còn chở theo 49 chiến sĩ Hải Kích (Người Nhái). Tinh hình vô cùng khẩn cấp mà HQ10 bị hư một máy chưa sửa chữa kịp chỉ chạy một máy thành thử vận tốc bị giảm khoảng 50%, thêm vào đó Radar của HQ10 cũng bị bất khiển dụng nên Đại tá Ngạc ra lệnh cho HQ5 tách đoàn, tăng vận tốc để ra Hoàng Sa càng sớm càng tốt. Khoảng 3:00 giờ chiều ngày 18-1-1974, HQ5 ra đến Hoàng Sa. Lúc đó lực lượng của đôi bên như sau: ta có Khu trục hạm HQ4, 2 Tuần dương hạm HQ5 và HQ16, còn phía Trung Cộng có 2 Hộ tống hạm Kronstadts mang số 271 và 274, được coi là chủ lực của địch với 2 tàu chở quân võ trang mang số 402và 407 cùng một tàu vận tải và một ghe buồm.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ.5
Vừa nhập vùng, Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho 3 chiến hạm chuẩn bị cuộc phô diễn lực lượng để thăm dò phản ứng địch. Đi đầu là Tuần dương hạm HQ16 rồi đến HQ5, sau cùng là HQ4 với các khẩu hải pháo 127 ly (5 inch), 76.2 ly và các đại bác 40 ly đơn, đại bác 40 ly đôi (2 nòng), đại bác 20 ly như sẵn sàng nhả đạn vào quân thù trong khi 3 lá đại kỳ nền vàng 3 sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa tung bay ngạo nghễ trên 3 cột buồm giữa gió chiều Hoàng Sa. Trong lúc các chiến hạm đang rẻ sóng thì các dàn Radars khổng lồ quay chầm chậm có nhiệm vụ phát hiện rồi cung cấp các dữ kiện để đo khoảng cách, hướng đi và vận tốc của tàu địch. Với 3 chiến hạm bệ vệ, bề thế lực lượng phe ta trông oai dũng và “ngầu” lắm. Đoàn tàu tiến theo đội hình hàng dọc từ phía Nam đảo Pattern trực chỉ về hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng, tất cả đều 2 máy tiến 2, cách khoảng nhau 500 mét. Khi vừa chạy được độ hai hải lý thì 2 chiến hạm chủ lực 271 và 274 của Trung Cộng đang nẳm im trong vùng biển cũng nổ máy, tăng tốc và cũng theo đội hình hàng dọc tiến thẳng về hướng đội hình tàu Việt Nam. Chiến hạm của Trung Cộng chạy rất nhanh, hai máy tiến full để lại đằng sau những bọt nước trắng xóa. Khi đến cách đoàn tàu ta chừng một hải lý, chiếc đầu của địch bỗng quay trái, được một đoạn ngắn lại quay ngược chiều 180 độ chạy băng ngang trước mũi HQ16. Vừa qua khỏi chúng lại lộn ngược trở lại về phía phải để vẽ một đường ngang khác trên mặt nước. Rồi chiếc thứ hai của chúng cũng lập lại những động tác y như chiếc đầu để cuối cùng đường giăng ngang của chúng vẽ nên chỉ cách tàu ta khoảng 150 mét. Trước thái độ khiêu khích của địch khiến phe ta khó xử. Dùng võ lực thì chưa có lệnh, còn tiếp tục tiến có thể gây tai nạn đụng tàu vì tàu Trung Cộng chạy quá nhanh mà khoảng cách lại quá gần. Cuối cùng đoàn tàu được lệnh quay mũi theo hàng dọc trở về hướng Bắc. Thế là cuộc phô diễn lực lượng coi như hoàn tất.
Đến khoảng 10:00 giờ tối ngày 18-1-1974 chiếc HQ10 ra đến nhập đoàn với các chiến hạm Việt Nam. Đêm 18 rạng ngày 19-1-1974 nhằm đêm 29 Tết Nhâm Dần cũng là đêm cực kỳ căng thẳng. Trời tối thui như mực, các tàu Trung Cộng vẫn tiếp tục khiêu khích, tiến đến gần đảo Hoàng Sa, trên các tàu ta còi nhiệm sở tác chiến báo động liên hồi. Chiến hạm HQ4 phải dùng đèn hồ quang cực sáng trên nóc đài chỉ huy rọi thẳng vào đội hình tàu địch và đánh quang hiệu yêu cầu họ ra khỏi lãnh hải Việt Nam cho đến khi tàu Trung Cộng rút lui tình hình mới dịu hơn. Đêm đó, tất cả các chiến hạm Việt Nam được lệnh trong tư thế Zebra, nghĩa là không để lọt ánh sáng ra ngoài hầu tàu địch không phát hiện được vị trí.
Mặc dù phía Trung Cộng phản ứng mạnh, lực lượng Việt Nam vẫn tiến hành kế hoạch đổ quân tái chiếm đảo Quang Hòa như đã dự định. Lúc 6:50 giờ sáng ngày 19-1-1974, lực lượng đổ quân được chia làm hai toán. Toán Biệt Hải trên HQ4 được lệnh đổ bộ lên mặt Nam trong khi toán Hải Kích (Người Nhái) trên HQ5 đổ bộ lên mặt Tây Nam. Phần lớn sĩ quan và binh sĩ của toán Hải Kích được huấn luyện ở trường NAVY SEAL của Hoa Kỳ. Lực lượng độ bộ gồm toàn những thành phần được huấn luyện tinh nhuệ, thiện chiến nhất của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Ngay khi đặt chân lên bìa đảo, cả hai toán đều bị quân Trung Cộng đông hơn, dùng hỏa lực cực mạnh từ các chiến hào bắn xối xả khiến lực lượng đổ bộ không thể nào tiến sâu vào trung tâm đảo. Tình hình lúc bấy giờ thật nguy cấp và bất lợi cho lực lượng Việt Nam nhưng vì tuân hành thượng lệnh, quyết tâm bảo vệ lãnh thổ nên vào lúc 9:00 giờ sáng, toán Hải Kích được lệnh vượt lên trước. Hạ sĩ Người Nhái Đỗ Văn Long là chiến sĩ đầu tiên vừa nổ súng vừa xung phong vào đảo liền bị hỏa lực địch bắn tử thương. Trung úy Lê Văn Đơn nhào lên để thu hồi tử thi của đồng đội lại cũng bị đạn thù quật ngã. Trước quân số đông hơn và hỏa lực mạnh hơn của địch nên cả hai toán được lệnh rút về tàu với xác của Trung úy Đơn và các chiến sĩ bị thương khác, còn xác của Hạ sĩ Long đành bỏ lại trên đảo vì nếu cố gắng vào thu hồisẽ gây thêm nhiều thương vong.
Anh Chị Đơn vừa có đứa con trai lên 2 tuổi, giống Anh như đúc, đặt tên là Lê Văn Nguyên. Cha tên Đơn đặt tên con là Nguyên. Sau khi Anh Đơn hy sinh, Chị Đơn đã đổi tên con thành Lê Hoàng Sa để tưởng niệm nơi cha cháu đã chiến đấu cho sự vẹn toàn lãnh thổ và đã anh dũng nằm xuống!
Cuộc đổ quân tái chiếm đảo thất bại vì địch đông hơn, hỏa lực mạnh hơn, 2 chiến sĩ đã đền nợ nước, một số khác bị thương, giặc đã chiếm đất, chiếm nhà của ta “Cái nhà là nhà của ta, công khó ông cha lập ra, cháu con phải gìn giữ lấy” cho nên Hải Quân Đại tá Hà Văn Ngạc ra chỉ thị cho các chiến hạm chuẩn bị tấn công, đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi. Các chiến hạm đều ở trong tình trạng chiến đấu toàn diện, còi nhiệm sở tác chiến rú lên dồn dập, liên hồi như thúc giục bước chân của các chàng lính thủy chạy nhanh hơn vào các nhiệm sở chiến đấu. Tất cả thủy thủ đoàn với áo giáp, phao nổi, nón sắt ngồi trong các ụ hải pháo chờ lệnh khai hỏa, sẵn sàng tác xạ tiêu diệt địch. Sau khi các đài chiến báo (CIC) từ các chiến hạm báo cáo “sẵn sàng” thì từ Soái hạm HQ5, Hải Quân Đại tá Hà Văn Ngạc, Tư Lệnh Chiến Dịch Hoàng Sa ban hành lệnh “khai hỏa” hồi 10 giờ 24 phút sáng ngày 19-1-1974. Trận hải chiến bắt đầu.
Trong khi tấn công, các chiến hạm Việt Nam theo đội hình tác chiến vòng cung, xông thẳng vào tàu địch, một đối một, tác xạ đồng loạt. Máy tàu rú lên tăng vận tốc, chân vịt gầm gừ ra sức đẩy con tàu nhanh thêm, mũi tàu xé nước trùng dương lướt tới, các chiến sĩ ta mắt sáng quắc đang nhả đạn vào đoàn tàu xâm lăng như mưa. Sóng Hoàng Sa làm sống lại Tiếng Sóng Vân Đồn, khí thế Bạch Đằng Giang đang sôi sùng sục trong huyết quản các chiến sĩ Hoàng Sa...“Đây Bạch Đằng Giang, sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng, giống oai hùng Nam-Bắc-Trung...”(Hải Quân Hành Khúc). Khói lửa bốc lên mịt mù, không khí khét lẹt mùi thuốc súng trong buổi bình minh trên Biển Đông. Tiếng đạn hải pháo xé gió rít lên những âm thanh nghe rợn người, đạn rơi lủm chủm trên mặt biển, đạn nổ quanh tàu bắn tung những cột nước lên cao, thân tàu run lên bần bật vì trúng đạn. Một chiến sĩ ta bị trúng đạn địch ngã xuống thì chiến sĩ khác phóng lên ôm súng nhả đạn vào tàu địch xâm lăng, hai chiến sĩ ta ngã xuống thì có hai chiến sĩ khác nhào lên tiếp tục ghì súng chiến đấu chống giữ Hoàng Sa ngàn đời máu thịt của Việt Nam ta.
Hồn thiêng sông núi như đang cất những tiếng cười ngạo nghễ giữa tiếng súng nổ đạn bay vì Tổ Quốc Việt Nam đã có những người con hào hùng như các chiến sĩ Hoàng Sa:
Cuối hàng thế kỷ thứ hai mươi,
Chống giữ Hoàng Sa cũng lắm người!
(Thơ của Ngọc Giao Nguyễn Đình Nhạc)
Trận hải chiến tiếp diễn khốc liệt, với chiến thuật “tốc chiến, tốc thắng”, các chiến hạm Việt Nam chiếm được thế thượng phong vì bắn trước với cỡ súng lớn hơn. Các tàu địch bị thiệt hại nhiều trong những phút đầu của cuộc giao tranh, chiếc Hộ tống hạm Kronstadt 271 của địch bị trúng hải pháo 76.2 ly và 40 ly của HQ4 nên không còn khả năng tác chiến sau đó phát nổ và chìm. Hạm trưởng chiếc nầy là Đại tá Vương Kỳ Uy bị tử thương với một số thủy thủ đoàn. Nhưng cũng như những chiến hạm khác của ta, HQ4 cũng là mục tiêu khá lớn cho tàu địch nên cũng bị trúng nhiều vết đạn. Một trái hải pháo địch thổi bay hệ thống hút khổng lồ của HQ4. Trong lúc hổn chiến, bộ phận quan sát bằng ống dòm trên nóc đài chỉ huy của HQ4 báo cáo có hai tàu địch đang đuổi theo. HQ4 liền tăng vận tốc tối đa và vận hành theo đội hình tác chiến Zig Zag, uốn lượn như con rắn nên tránh được các quả hải pháo của 2 tàu địch đang đuổi theo. Ngay lúc đó, chiếc HQ5 cũng vừa trờ tới, cắt ngang đuôi HQ4, phóng vào 2 tàu địch đang đuổi theo HQ4. Những khối cầu lửa từ khẩu 127 ly trước mũi HQ5 bay thẳng về hướng 2 tàu Trung Cộng, một chiếc của địch bị trúng đạn bốc cháy, khói lên ngùn ngụt, chiếc còn lại quay ngang bỏ chạy mất dạng. Chiếc HQ4 bị thiệt hại nhẹ so với các tàu khác, máy móc chính, hệ thống điện, hệ thống truyền tin vẫn trong tình trạng khiển dụng tốt và con tàu vẫn còn khả năng tác chiến. Về nhân mạng. HQ4 có hai chiến sĩ là Hải Quân Thiếu úy Nguyễn Phúc Xá và Hạ sĩ nhất Vận chuyển Nguyễn Thành Danh hy sinh cùng một số đoàn viên khác bị thương. Anh Danh bị trúng đạn nơi ngực thoi thóp trên băng-ca, ngực đầy bông băng nhuộm máu, Thượng sĩ Giám lộ Lữ Công Bảy rờ lên trán thấy nóng hối và hỏi Anh có khỏe không, Anh mở mắt gật đầu nhưng sau đó lịm dần rồi vĩnh viễn ra đi.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trục Lôi Hạm T-389 của HQTC bị Hải Quân VNCH bắn chìm tại Hoàng Sa.
Chiến hạm của Trung Cộng bị trúng đạn của HQ5 bốc cháy nói trên là chiếc Hộ tống hạm Kronstadt 274. Sau khi bị trúng đạn, chiếc nầy phải ủi vào bãi san hô để tránh bị chìm nhưng sau đó cũng bị phá hủy hoàn toàn. Chiếc nầy cũng là Soái hạm của địch do Đô Đốc Phương Quang Kính làm Tư Lệnh, chỉ huy cuộc hải chiến. Đô Đốc Phương Quang Kính còn là Tư Lệnh Phó Hải Đội Nam Hải của Trung Cộng. Ngoài Hạm trưởng là Đại tá Quang Đức tử thương, toàn bộ tham mưu của Soái hạm địch gồm Đô Đốc Phương Quang Kính, 2 Đề Đốc, 4 Đại tá, 6 Trung tá, 2 Thiếu tá và 7 sĩ quan cấp úy đều tử thương. Về phần HQ5 cũng bị trúng đạn nhiều nơi, con tàu đầy vết đạn của địch. Các ổ hải pháo 127 ly và 40 ly đôi trước mũi bị trúng đạn nên trở ngại tác xạ, chỉ còn khẩu 40 ly bên tả hạm và 2 khẩu 20 ly là còn sử dụng được. Chính khẩu 40 ly nầy do Thượng sĩ Trọng pháo Tài làm trưởng khẩu đã khạc đạn tới tấp không cho tàu địch xáp lại gần. Lửa bốc cháy và nước tràn vào nhiều nơi, Hạm trưởng phải ra lệnh làm ngập nước hầm đạn 127 ly để tránh đạn phát nổ vì lửa cháy và điện chạm. Tuy bị hư hại khá trầm trọng nhưng HQ5 không có nguy cơ bị chìm và sau đó cơ khí trưởng là Thiếu tá Trần Đắc Nguyên, một sĩ quan cơ khí nhiều kinh nghiệm đã điều động nhân viên ra sức dập tắt các đám cháy và hàn bít các lỗ thủng nước đang tràn vào, sửa chữa các máy móc bị hư hỏng nên một thời gian ngắn sau đó con tàu đã trở lại tình trạng hoạt động gần như bình thường. Về nhân mạng, HQ5 có 1 sĩ quan và 2 hạ sĩ quan hy sinh, 3 sĩ quan cùng 4 hạ sĩ quan và 9 đoàn viên bị thương nặng nhẹ.
Về phần HQ16, sau khi dùng các khẩu 127 ly và 40 ly bắn hư hại chiếc Trục lôi hạm 389 của Trung Cộng khiến Hạm trưởng là Trung tá Triệu Quát bị tử thương, Tuần dương hạm HQ 16 cũng bị trúng nhiều hải pháo hư hại nặng. Hầm đạn 127 ly trước mũi bị thủng một lỗ lớn, nước tràn vào mỗi khi mũi tàu chúc xuống nên phải cô lập. Máy điện cũng bị trúng đạn, dây điện bị đứt nhiều nơi, hầm máy chỗ nào cũng bị chạm điện khiến những nhân viên có phận sự ở khu vực nầy bị điện giật nên phải di tản. Nguy hơn nữa là hông tàu ngay hầm máy tả bị đạn hải pháo địch bắn trúng phá một lỗ lớn ngang tầm nước làm nước biển tràn vào như thác lũ, chiến hạm mỗi lúc nghiêng thêm về bên trái và có nguy cơ bị chìm. Sau cùng, nhờ sĩ quan cơ khí trưởng là Đại úy Hiệp đôn đốc nhân viên ra sức cô lập hầm máy tả nên chiến hạm vẫn tiếp tục vận chuyển được bằng máy bên hữu. HQ16 chì có một chiến sĩ hy sinh, đó là Trung sĩ Điện khí Xuân bị đứt lìa cánh tay phải ở hầm máy vì không cầm máu được nên Anh đã đền nợ nước. Trung úy Bính đã vuốt mắt và cùng các y tá cầu nguyện cho Anh bằng Thánh Kinh dù không rõ Anh tôn giáo nào.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hộ tống hạm Nhựt Tảo HQ.10
Còn Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 là chiến hạm nhỏ nhất, hỏa lực yếu nhất trong số các chiến hạm Việt Nam tham chiến, ngoài ra tình trạng kỹ thuật cũng không khả quan cho lắm vìhư một máy, vận chuyển, xoay trở chậm chạp nên bị trúng nhiều đạn. Một trái hải pháo 100 ly của địch bắn trúng đài chỉ huy, đốn ngã tất cả các nhân viên có phận sự tại đây. Hạm trưởng Hải Quân Thiếu tá Ngụy Văn Thà và Hạm phó Hải Quân Đại úy Nguyễn Thành Trí đều bị thương nặng. Kế tiếp, một trái hải pháo khác trúng ngay hầm máy làm cho chiến hạm tê liệt, hoàn toàn bất khiển dụng, trôi lờ đờ, lềnh bềnh trên mặt biển làm muc tiêu cho tàu địch tác xạ xối xả. Số thương vong của HQ10 rất nặng và nhiều chiến sĩ chết một cách thê thảm như Trung úy Vũ Văn Bang, sĩ quan Đệ Tam chết thân xác không toàn vẹn tại Trung Tâm Chiến Báo (CIC); Trung úy Cơ khí Ngô Chí Thành chết ở phòng máy bị cháy nám đen và hai chân hầu như lìa khỏi thân người; Trung úy Nguyễn Văn Đông chết mất mặt tại khẩu 76.2 ly ở sân trước;
Hạ sĩ Vận chuyển Lê Văn Tây, người Ban Mê Thuột nhưng yêu màu áo trắng, yêu mộng hải hồ nên sau khi lấy bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp gia nhập Hải Quân và đền nợ nước bằng cách ghì khẩu súng cho đến giờ phút chót; Thủy thủ Cơ khí Đinh Hoàng Mai ôm khẩu 20 ly bắn che cho các đồng đội trên bè đào thoát, bạn bè gọi xuống bè ra đi nhưng không chịu xuống, ở lại chết theo con tàu... và còn nhiều chiến sĩ khác đã liệt oanh nằm xuống mà ở đây không đủ giấy mực để kể cho hết. Những người còn sống sót dìu dắt các chiến hũu bị thương lên 5 chiếc phao tập thể, tất cả là 28 người, kể cả Hạm phó Nguyễn Thành Trí. Riêng Hạm trưởng Ngụy Văn Thà từ chối ra đi mặc dù các chiến hữu yêu cầu nhiều lần. Anh ở lại chết theo con tàu đúng với truyền thống cao đẹp của Hải Quân và Hàng Hải. Trên đường đào thoát, có 8 chiến sĩ, trong đó có Hạm phó Nguyễn Thành Trí bị chết vì các vết thương, vì đói khát, vì kiệt sức trước khi được chiếc tàu dầu Hòa Lan Skopionella cứu vớt vào đêm 22-1-1974. Khi các chiến sĩ ta được vớt lên, chính tay nhị vị phu nhân của Thuyền trưởng và Thuyền phó tàu nầy đã tận tình băng bó, săn sóc các vết thương, đút từng muỗng cháo cho các chiến sĩ Việt Nam thể hiện tình người bao la. Thật là một nghĩa cử đẹp không bao giờ quên được!
Trong trận chiến, HQ10 đã mượn đáy biển Hoàng Sa làm mồ dũng sĩ, mang theo 42 người con yêu của Tổ Quốc, kể cả Hạm trưởng Hải Quân Thiếu tá Ngụy Văn Thà, Khóa 12,sinh ngày 16-1-1943 tại Trảng Bàng, Tây Ninh. Anh lập gia đình với Chị Huỳnh Thị Sinh, Chị Sinh còn rất trẻ, chưa tới tuổi 30. Hai Anh Chị có được 2 người con gái, còn rất nhỏ, cháu đầu 4 tuổi, cháu sau 2 tuổi. Cùng chết theo tàu có Trung úy Vũ Văn Bang, ngày tàu rời Sài Gòn đi công tác, Anh Bang có đem theo tấm hình của đứa con gái đầu lòng chưa đầy tháng để khoe với bạn bè. Khi chết, tấm hình của cháu vẫn còn nằm trong túi áo trận trên ngực Anh, được bọc bằng giấy ny-lon cho không bị ướt:
Sóng biển chiều nay cuồn cuộn quá,
Còn đây uy dũng pháo Hoàng Sa.
Vành khăn tang trắng đầu con trẻ,
Kinh buồn vĩnh biệt tiếng cười cha!
(Thơ Nguyệt Trinh)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Còn Trung sĩ Giám lộ Vương Thương, cũng thuộc HQ10 đã chết trên bè đào thoát. Anh bị mảnh đạn chém đứt mông trái và vĩnh viễn nằm xuống vì máu ra quá nhiều. Anh đã hy sinh cho đất nước trước ngày làm lễ cưới. Lẽ ra Anh đã được đi phép cưới vợ, giấy phép đã cầm trong tay nhưng Hạm trưởng động viên Anh ở lại đi công tác chuyến nầy vì Anh quá rành quần đảo Hoàng Sa. Ngày tàu nhổ neo rời bến, người vợ sắp cưới ra tận cầu tàu tiễn chân Anh, nàng âu yếm nắm chặt tay người yêu như trao tất cả tình thương và hẹn ngày Anh về hai người sẽ làm đám cưới trọn đời yêu nhau cho vẹn lời nguyền trăm năm kết tóc xe duyên... nhưng:
Lần tiễn đưa hôm ấy một lần thôi,
Là chiến sĩ một đi không trở lại!
(Giòng Lệ Cuối – Phạm Từ Quyên)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Riêng toán đổ bộ lên đảo Cam Tuyền của HQ16, khi trận hải chiến xảy ra, HQ16 không thể vớt họ được vì đang chiến đấu với tàu địch nếu tàu ngừng lại để vớt họ thì con tàu sẽ là mục tiêu bất động cho tàu địch vì thế Hạm trưởng Lê Văn Thự liên lạc bằng máy truyền tin với Trung úy Liêm, sau khi thông báo tình hình bất khả kháng của chiến hạm, ông đã động viên anh em dùng bè đào thoát, cố vượt ra khỏi vùng giao tranh, đồng thời yêu cầu mọi người thông cảm sự bất lực của ông trước tình hình hiện tại vì ông đang mang trách nhiệm về sự an toàn của con tàu và sinh mạng của hàng trăm thủy thủ đoàn. Càng nói, trông ông càng đau đớn, đôi mắt đỏ hoe như ông đang muốn khóc vì không vớt được các chiến hữu và đồng đội của ông!
Sau đó, toán đổ bộ nầy dùng bè cao su vượt thoát ngay tức khắc trong lúc cuộc hải chiến đang xảy ra.. Khi họ đang lênh đênh trên những xuồng đào thoát, một chiến hạm địch bị trúng đạn của phe ta, cả toán 15 chiến sĩ nầy biểu lộ tinh thần yêu nước cao độ bằng cách tất cả cùng giơ cao những cánh tay và đồng ca bản “Việt Nam – Việt Nam” (Việt Nam, Việt Nam nghe từ vào đời... Việt Nam nước tôi...) Và sau 10 ngày chống chọi với sóng gió, đói khát các chiến sĩ ta được ngư dân ở Qui Nhơn cứu sống. Chỉ có một chiến sĩ hy sinh sau khi đã lên thuyền ngư dân, đó là Hạ sĩ Quản kho Nguyễn Văn Duyên. Anh Duyên đã ra đi vì đói, khát và kiệt sức. Khi được ngư dân vớt lên thuyền, họ như những người về từ cõi chết, xơ xác, ốm yếu, tiều tụy, mắt lõm sâu như những hố thẳm, râu tóc xồm xàm, rậm rạp trông họ như những người rừng. Nhưng tận đáy lòng Mẹ Việt Nam họ là những người con kiêu hùng của Mẹ về từ Tổ Quốc Đại Dương.
Sau trận hải chiến, khoảng 7:00 giờ sáng ngày 20-1-1974 đoàn chiến hạm ta về đến bến thương cảng Đà Nẳng nhưng đoàn tàu vắng bóng HQ10. Trên bến, đồng bào đứng đông nghẹt, chen chút nhau tiếp đón các chiến sĩ Hoàng Sa bằng một rừng biểu ngữ với các khẩu hiệu: “Hải Quân Việt Nam quyết tâm bảo vệ lãnh thổ đến giọt máu cuối cùng” “Một ý chí: chống cộng - Một lời thề: bảo vệ quê hương” “Hoan hô tinh thần chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ Hải Quân tham dự Hải Chiến Hoàng Sa” “Hoan hô tinh thần bất khuất của các chiến sĩ Hải Chiến Hoàng Sa”.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chiến sĩ Hoàng Sa, các Anh rất xứng đáng được vinh danh là những người con yêu của đất nước! Các Anh đã không phụ lòng những bà mẹ hiền đã âu yếm trao các Anh cho đất nước khi các Anh vừa khôn lớn. Các Anh cũng không phụ lòng mái quân trường đã đào tạo các Anh thành những người trai thời chiến. Các Anh cũng không phụ lòng đồng đội, chiến hữu khi các Anh xông pha trong các chiến trường lửa đạn. Và các Anh cũng không phụ lòng đồng bào, các Anh đã đại diện màu áo để góp máu cho Tổ Quốc.
Trận Hải Chiến Hoàng Sa đã nói lên hùng tính Việt tộc, đồng thời nối tiếp tinh thần chống Bắc xâm của dân tộc ta. “Hải Chiến Hoàng Sa” là một bản hùng ca phụ vào với “Bình Long Anh Dũng” - “Kontum Kiêu Hùng” - “Trị Thiên Vùng Dậy” để tô đậm thêm những nét son cho Pho Hùng Sử Của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Lê Thương
Richmond – Virginia
(Tân Sơn Hoà chuyển)


#478 dochanhvanly

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 81 Bài viết:
  • 140 thanks

Gửi vào 14/01/2015 - 08:03

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

minhminh, on 11/04/2012 - 04:15, said:

CHUYỆN THỨ 1 :

VÀO NHỮNG NĂM TRƯỚC 1975 , MM TÔI LÀ MỘT SĨ QUAN TUY CẤP BẬC NHỎ NHOI KHIÊM NHƯỜNG
NHƯNG ƯU TÚ VÀ ĐƯỢC SỰ SỦNG ÁI ĐẶC BIẾT CỦA VỊ TIỂU ĐOÀN TRƯỞNG < THỦ TRƯỞNG

THỜI BẤY GIỜ NHỮNG ĐƠN VỊ NGOÀI MẶT TRẬN , CHIẾN TRƯỜNG THÌ TIỂU ĐOÀN TRƯỞNG THẬT LÀ MỘT NGƯỜI CÓ UY QUYỀN , NÊU NÓI LÀ VUA CON THÌ CŨNG KHÔNG NGOA LẮM.
MM TÔI ĐƯỢC TRAO NHIỆM VỤ KIÊM NHIỆM LUÔN SĨ QUAN AN NINH VÀ KỶ LUẬT .
DO TƯ CHẤT THÔNG MINH HIỀN LƯƠNG VÀ CŨNG ẢNH HƯỞNG TỪ GIA PHONG NỮA
NÊN CHƯA CHỬI MẮNG ĐÁNH PHẠT BẤT CỨ MỘT AI , LUÔN LẤY TÌNH CẢM VÀ LỄ NGHĨA MÀ GIẢNG CHO NHỮNG NGƯỜI VI PHẠM KỶ LUẬT , ĐỒNG THƠI KHI CÓ NHỰNG VỤ ÁN THÌ CŨNG ĐIỀU TRA VA GIẢI QUYẾT CÁCH TỐT NHẤT CHO BINH LÍNH DƯỚI QUYỀN MÌNH .
CÓ LẦN LÍNH BỎ ĐƠN VỊ TRỐN VỀ NHÀ < HỒI ẤY TIẾNG LÓNG GỌI LÀ NHẢY DÙ > , BỊ ÔNG TIỂU ĐOÀN TRƯỞNG NỌC RA GIỮA SÂN ĐÁNH , TÁY ĐÁNH MIỆNG HỎI : AI CHO MÀY ĐI AI CHO MÀY ĐI .-- ANH LÍNH SỢ VÀ CUỐNG LÊN BÈN NÓI ÔNG < MINHMINH > CHO TÔI ĐI , THẾ LÀ THỦ TRƯỞNG QUĂNG ROI XUỐNG ĐẤT QUAY VỀ PHÒNG .
MÀ SỰ THẤT MÌNH ĐÂU CÓ CHO NÓ ĐI .
ANH NÀO MUÔN NGHỈ BỊNH VỀ PHÉP, MM ĐỀ NGHỊ LÀ ĐƯỢC NGAY.

THẾ RỒI CUỐI THÁNG 4 -- 1975 ẤP TỚI , ĐƠN VÌ MÌNH VÌ Ở CHÂN NÚI TÔ CHÂU , HÀ TIÊN NÊN MÃI KHUYA MÙNG 1 THÁNG NĂM MỚI TAN HÀNG .
MÌNH VỀ TỚI RẠCH GIÁ < KIÊN GIANG > , THÌ GẶP MỘT ANH BỘ ĐỘI GIẢI PHÓNG , NÓN TAI BÈO DÉP RÂU , ĐEO SÚNG AK CHẠY TỚI NHẬN DIỆN
-- CHÀO ÔNG THÀY
-- EM LÀ LÍNH ĐẠI ĐỘI 2 , HỒI ĐÓ ÔNG TRUNG ÚY KHÁNH ỔNG ĐÁNH EM QUÁ NÊN EM ĐÀO NGŨ VÀO BƯNG THEO MẤY ẢNH
-- THÀY Ở ĐÂY CHỜ EM XIN GIẤY CHO THÀY VỀ SÀIGON

THẾ LÀ MINHMINH TÔI VỀ SAIGON , VÀ ĐI TÙ THEO DIỆN TẬP TRUNG CẢI TẠO .
NẾU ĐI TÙ THEO ĐỊA PHƯƠNG THÌ CHƯA BIẾT CUỘC ĐỜI MÌNH SẼ NHƯ THẾ NÀO

HAY NHƯNG NGÀY ĐẦU CỦA SAU 30 THÁNG 4 , 1975 , CÒN SAY MEN CHIẾN THẮNG , LÒNG THÙ HẬN CÒN CAO NGÚT TRỜI
MỖI ĐIA PHƯƠNG LÀ MỖI SỨ QUÂN , NGƯỜI TA MUÔN BẮT , MUỐN BẮN MUÔN GIẾT , MUÔN XỬ TỬ AI THÌ XỬ . PHIÊN TÒA CHỈ NHƯ MỘT HÌNH THỨC , VẠN NHÂN CỤ , LÀM CHO MỌI NGƯỜI SỢ HÃI .

NẾU TRƯỚC ĐÂY KHI CÓ QUYỀN , MM TÔI HỐNG HÁCH HAY ÁC VỚI THA NHÂN THÌ CHẮC SẼ BỊ XỬ TỬ NGAY TỪ NGÀY ẤY RÔI , KHÔNG CÓ NGÀY HÔM NAY NGỒI GÕ MÁY KỂ CHUYỆN CHO MỌI NGƯỜI.

Chặc, để cuối tuần rảnh rỗi xem chuyện của đại ca, riêng đoạn áp cuối, Kmm đã từng chuéng kiến một chuyện tại sân bay một tỉnh lẻ tại đbscl, lúc đó dường như năm 78 thì phải, nếu cuối tuần đủ duyên, sẽ mang ra để góp chuyện với đại ca, nạn nhân là một cựu sỷ quan cục tâm lý chiến vnch

Kmm

#479 Mai.Tran0409

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 35 Bài viết:
  • 17 thanks

Gửi vào 15/01/2015 - 14:55

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

ThienQuanThienPhuc, on 18/04/2012 - 02:21, said:

Cám ơn anh MinhMinh đã đề bạt HoaCai01, lại còn tặng mấy cây thơ khai tâm.

Thật tình HoaCai cũng đau lưng như anh, đó là triệu chứng thận hư (Mộc quá thịnh làm Thủy kiệt, gây mờ mắt).

Anh có duyên gặp được tiền bối Thiên Luơng người mà HoaCai kính trọng nhất trong các tiền nhân trong ngành lý số học, cho dù lúc này không còn 100% vin vào lý thuyết của cụ như ngày trước nhưng tinh thần của cụ là kim chỉ nam cho những người lạc lối trên đường mòn có nhiều dấu chân của kẻ đi trước.

Bùa chú, ma xó, thuật Lỗ Ban ... đều có thật.

Câu chuyện tượng Phật nổi lên trên tay, từng được anh bạn thân tín kể lại khi sư phụ bùa chú biểu diễn công phu. Lại có 1 quân nhân thuật lại ngày trước thấy 1 thầy Miên (?) đến đơn vị chờ lấy Phật về vì đệ tử quá tàn ác trong chiến trận nên thầy biết trò sẽ phải chết .

Bạn của HoaCai từng thấy 1 thầy bùa thi triển công phu giết 1 con chó đi ngang qua chỗ được ếm bùa. Những hiện tượng siêu nhiên bởi công phu đặc dị có lẽ khó lòng hiểu rõ nhưng không phải bùa chú muốn làm thế nào thì làm, nếu vậy thầy bùa gian tà đến gặp Cường Đô La, Bầu Đức tha hồ dụ họ đưa tiền cho mình có phải tốt hơn không ?

Cháu cũng tin là có bùa chú. Và cháu nghĩ là cái gì có tương sinh sẽ có tương khắc. Những người dùng bùa là để bảo vệ mình, bảo vệ người, giúp người chứ không dùng để hại người hay trục lợi cho bản thân. Vì gieo nhân nào sẽ gặp quả nấy, làm ác thì sẽ không được quả lành. Cháu có nghe hiện tượng phản bùa, lúc đó sẽ càng thảm hại và đau đớn hơn.
Nam Mô A Di Đà Phật

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

ThienQuanThienPhuc, on 18/04/2012 - 02:21, said:

Cám ơn anh MinhMinh đã đề bạt HoaCai01, lại còn tặng mấy cây thơ khai tâm.

Thật tình HoaCai cũng đau lưng như anh, đó là triệu chứng thận hư (Mộc quá thịnh làm Thủy kiệt, gây mờ mắt).

Anh có duyên gặp được tiền bối Thiên Luơng người mà HoaCai kính trọng nhất trong các tiền nhân trong ngành lý số học, cho dù lúc này không còn 100% vin vào lý thuyết của cụ như ngày trước nhưng tinh thần của cụ là kim chỉ nam cho những người lạc lối trên đường mòn có nhiều dấu chân của kẻ đi trước.

Bùa chú, ma xó, thuật Lỗ Ban ... đều có thật.

Câu chuyện tượng Phật nổi lên trên tay, từng được anh bạn thân tín kể lại khi sư phụ bùa chú biểu diễn công phu. Lại có 1 quân nhân thuật lại ngày trước thấy 1 thầy Miên (?) đến đơn vị chờ lấy Phật về vì đệ tử quá tàn ác trong chiến trận nên thầy biết trò sẽ phải chết .

Bạn của HoaCai từng thấy 1 thầy bùa thi triển công phu giết 1 con chó đi ngang qua chỗ được ếm bùa. Những hiện tượng siêu nhiên bởi công phu đặc dị có lẽ khó lòng hiểu rõ nhưng không phải bùa chú muốn làm thế nào thì làm, nếu vậy thầy bùa gian tà đến gặp Cường Đô La, Bầu Đức tha hồ dụ họ đưa tiền cho mình có phải tốt hơn không ?

Cháu cũng tin là có bùa chú. Và cháu nghĩ là cái gì có tương sinh sẽ có tương khắc. Những người dùng bùa là để bảo vệ mình, bảo vệ người, giúp người chứ không dùng để hại người hay trục lợi cho bản thân. Vì gieo nhân nào sẽ gặp quả nấy, làm ác thì sẽ không được quả lành. Cháu có nghe hiện tượng phản bùa, lúc đó sẽ càng thảm hại và đau đớn hơn.
Nam Mô A Di Đà Phật

Thanked by 1 Member:

#480 nguyen huu trung

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 295 Bài viết:
  • 155 thanks

Gửi vào 19/02/2015 - 22:10

Cháu chào bác minhminh,
Cháu tên là Trung.
Trước tiên cháu xin cảm ơn bác đã nhiều lần xem tử vi cho cháu và cho cháu những lời động viên. Bác còn nhiều lần tư vấn cho cháu về y khoa nữa. Thất sự cháu rất biết ơn bác. Sau là nhân dịp đầu năm mới cháu xin chúc bác và gia đình một năm mới an khang, thịnh vượng.


Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

3 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |