30/06/2013 03:25
Tấm màn bí ẩn bao trùm Hội nghị Bilderberg khiến sự kiện này trở thành tâm điểm của nhiều giả thuyết về ý đồ thao túng vận mệnh toàn cầu.
Trong gần 60 năm qua, vào độ tháng 5 hoặc tháng 6, khoảng 120 - 150 nhân vật thuộc tầng lớp được xem là “tinh hoa của nhân loại” tham dự hội nghị thường niên mang tên Bilderberg để thảo luận về nhiều vấn đề từ chính trị, kinh tế đến chiến tranh. Số này bao gồm nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo chính phủ, quan chức cấp cao, cố vấn, học giả, tướng lĩnh lẫn các tài phiệt lớn nhất thế giới trong các lĩnh vực tài chính, dầu khí, truyền thông... của Mỹ và Tây Âu.
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image002.jpg
Biểu tình phản đối Hội nghị Bilderberg 2013 trước khách sạn Grove - Ảnh: AFP
Hội nghị năm nay diễn ra từ 6 - 9.6 tại khách sạn 5 sao Grove ở Watford, Anh. Theo tờ Mirror, danh sách tham dự gồm những tên tuổi như Giám đốc Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) Christine Lagarde, lãnh đạo Google Eric Schmidt, cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger... Đại diện nước chủ nhà là Thủ tướng David Cameron, Bộ trưởng Tài chính George Osborne cùng một số nghị sĩ và doanh nhân.
Bilderberg 2013 là lần đầu tiên các chủ đề thảo luận được công bố nhưng hết sức chung chung. Trong đó bao gồm: việc làm, tăng trưởng và nợ của Mỹ cũng như châu Âu; sức mạnh của thông tin; chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa dân túy; chính sách đối ngoại của Mỹ; thách thức cho châu Phi; chiến tranh mạng; các xu hướng chính trong nghiên cứu y học; giáo dục trực tuyến; các vấn đề chính trị của EU và diễn biến tình hình Trung Đông.
Họ nói với nhau những gì? Họ muốn gì và quyết định ra sao? Hàng loạt câu hỏi đặt ra nhưng suốt bao lâu nay câu trả lời vẫn chỉ là đồn đoán. Cũng phải thôi khi báo chí không được tham gia, người tham dự không được mang theo vợ chồng hay trợ lý, còn lực lượng an ninh cả công lẫn tư lập hàng rào dày đặc “ruồi không bay lọt” bên ngoài, theo website Theinsider.org. Chuyện một nhóm nhỏ quyền lực và giàu có nhất thế giới họp bàn bí mật quả là “mỏ vàng” cho những ai ưa thích chuyện giật gân và tín đồ của thuyết âm mưu.
“Những kẻ buôn vua”
Lâu nay, biết bao người luôn bị ám ảnh bởi nghi ngờ rằng Hội nghị Bilderberg chính là nơi quyết định ai trở thành tổng thống Mỹ hay thủ tướng Anh, ai được ngồi ghế lãnh đạo IMF hay Ngân hàng Thế giới (WB) còn tranh cử với cả bỏ phiếu chỉ là những “trò lừa vĩ đại”. Luận điểm được bàn tán nhiều nhất là khi các quyền lực đen nhắm một nhân vật thích hợp, ông hay bà ta sẽ được mời tới hội nghị để thỏa thuận lẫn bàn thảo con đường sắp tới và chỉ vài năm sau đường hoàng bước lên đỉnh vinh quang.
Trong sách The True Story of the Bilderberg Group (tạm dịch: Sự thật về nhóm Bilderberg), tác giả Daniel Estulin dẫn ra một loạt “trùng hợp”: George H.W.Bush tham dự năm 1985 và trở thành Tổng thống Mỹ 3 năm sau đó. Bill Clinton có mặt năm 1991 và chỉ một năm sau đã bước vào Nhà Trắng, Tony Blair từ một thành viên không mấy nổi bật của Công đảng Anh thoắt cái trở thành Thủ tướng 4 năm sau ngày có mặt tại phòng hội nghị và còn nhiều trường hợp tương tự.
Câu chuyện đáng chú ý nhất là về kỳ họp từ ngày 5 - 8.6.2008 tại Chantilly, bang Virginia của Mỹ. Khi đó, Barack Obama và Hillary Clinton đang chạy đua quyết liệt để giành quyền đại diện đảng Dân chủ ra tranh cử tổng thống. Vào ngày 5.6, cả hai người bỗng dưng… mất tích trong vài giờ, theo Đài RT. Khoảng thời gian đó không được nhắc tới trong lịch trình tranh cử chính thức, còn truyền thông Mỹ hoàn toàn im lặng. Chỉ 2 ngày sau, bà Clinton tuyên bố rút lui. Vô số đồn đoán được đưa ra nhưng tất cả đều có chung kết luận là 2 người được vời tới Hội nghị Bilderberg để thỏa hiệp. Theo đó, sau khi đã đạt mục đích bước đầu tại Afghanistan và Iraq bằng phương pháp “hùng hổ” của Tổng thống George W.Bush và đảng Cộng hòa, các ông chủ cần phe Dân chủ chiến thắng để tiếp tục thao túng tình hình bằng “quyền lực mềm”. Vào thời điểm ấy, một tổng thống da màu có vẻ thân thiện với Hồi giáo sẽ có lợi hơn. Đổi lại, bà Clinton sẽ có vị trí xứng đáng trong chính quyền để cùng ông Obama tạo thành một “cặp đôi hoàn hảo”, theo RT.
Đế chế thứ 4
Theo những người tin vào thuyết âm mưu, Hội nghị Bilderberg nhắm tới hoàn thành giấc mộng thống trị toàn cầu của các tổ chức khét tiếng trong lịch sử như Hội Tam điểm, Illuminati cũng như Adolf Hitler và Đế chế thứ 3.
Trong The True Story of the Bilderberg Group, tác giả Estulin liệt kê các mục tiêu như tạo ra một chính phủ duy nhất ngồi trong bóng tối giật dây tất cả; xây dựng một quân đội toàn cầu với nòng cốt là NATO; tạo ra một thị trường chung bóc lột thông qua IMF, WB và WTO; kiểm soát tư tưởng cũng như lối sống bằng truyền thông, internet và chủ nghĩa tiêu thụ... Theo Estulin, những “kẻ điều khiển rối Bilderberg” đã tạo khủng hoảng dầu mỏ thập niên 1970 để nâng giá dầu, ép LHQ cấm vận Argentina trong cuộc chiến Falklands/Malvinas với Anh, gây ra chính biến “Mùa xuân Ả Rập”…
Trang TruTV còn đi xa hơn khi cho rằng những đại dịch như SARS, cúm A/H1N1… đều là “nhân tạo” hoặc bị thổi phồng để khiến cả thế giới phải “phụ thuộc vào WHO và các hãng dược”. Giáo sư Michel Chossudovsky của ĐH Ottawa (Canada), người sáng lập Viện Nghiên cứu Global Research, thì khăng khăng rằng Bilderberg 2013 vừa qua tập trung thảo luận các vấn đề: có nên tiếp tục kéo dài khủng hoảng tài chính hay như vậy đã đủ để làm đầy thêm túi tiền của các gia đình tài phiệt “siêu giàu và siêu quyền lực” cũng như khuất phục những quốc gia khó bảo, nên làm gì với Trung Quốc và kế hoạch tấn công Iran trong vòng 3 năm tới.
Vì vậy, không lạ khi năm nào cũng có biểu tình phản đối rầm rộ bên ngoài địa điểm tổ chức hội nghị dù không ít người chẳng rõ mình đang chống cái gì. Hồi đầu tháng, AP dẫn lời một người biểu tình bên ngoài khách sạn Grove nói họ đang nỗ lực ngăn chặn “những kẻ dường như đang muốn phá hủy thế giới”.
Lược sử Bilderberg
Theo BBC, Hội nghị Bilderberg được gọi theo tên nơi diễn ra cuộc họp đầu tiên từ 29 - 31.5.1954 là khách sạn Bilderberg ở làng Oosterbeek, phía đông Hà Lan. Hội nghị ra đời từ ý tưởng của chính trị gia Ba Lan Józef Retinger, Hoàng thân Hà Lan Bernhard (ông ngoại của vua Willem-Alexander hiện nay), Chủ tịch Tập đoàn Unilever Paul Rijkens, chính trị gia Anh Denis Healey và Giám đốc CIA Walter Bedell Smith. Nội dung kỳ họp năm 1954 được cho là xoay quanh các vấn đề như tăng cường quan hệ về mọi mặt giữa Mỹ và Tây Âu cũng như hợp tác đối phó Liên Xô. Theo BBC, hội nghị đóng vai trò rất quyết định trong việc hình thành EU.
Sau đó, một ban thư ký được thành lập để xử lý công việc thường vụ trong mỗi lần hội họp cũng như chọn mời ai tham dự. Tổng thư ký hiện nay là Henri de Castries, Chủ tịch Tập đoàn tài chính - bảo hiểm AXA (ông này là thành viên gia tộc de Castries danh tiếng và là họ hàng với chỉ huy lực lượng Pháp ở Điện Biên Phủ Christian de Castries). Ban thư ký còn có một vị trí cố vấn cấp cao, đang do nhà tài phiệt Mỹ David Rockefeller đảm nhận.
Dưới áp lực của dư luận đòi hỏi phải minh bạch hơn, Ban Thư ký Bilderberg đã cho lập một website mang tên Bilderbergmeetings.org chứa một số thông tin ít ỏi. Theo website này, hội nghị là “diễn đàn không chính thức và hoàn toàn riêng tư, nơi người tham dự có thể tự do thảo luận về các định hướng chủ đạo trong mọi lĩnh vực cũng như những vấn đề mà thế giới đang đối mặt. Hội nghị không có chương trình nghị sự chi tiết, không có nghị quyết, không bỏ phiếu và không có tuyên bố chính sách”.
Trọng Kha
Bản chất Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và đồng USD
. at .
Không dưới một lần tôi nghe câu nói kiểu thế này (kể cả từ các giảng viên kinh tế): Việt Nam có Quân đội nhân dân, tòa án nhân dân, công an nhân dân,... tóm lại cái gì cũng "nhân dân" nhưng sao ngân hàng lại là "Ngân hàng nhà nước" (NHNN)? Sao không làm ngân hàng Trung ương (NHTW) như các nước khác?
Tôi vốn rất "gà mờ" về khoản tài chính, nên ban đầu cũng nghĩ chắc là do cách đặt tên khác nhau thôi chứ bản chất thì cũng vậy. Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu thì lờ mờ nhận ra sự khác nhau giữa chúng, đó là sự độc lập hay phụ thuộc của NHTW / NHNN đối với chính phủ (nhà nước). Thời gian gần đây, khi một loạt các ông trùm ngành tài chính tại Việt Nam bị rờ gáy, cái âm mưu thôn tính hệ thống tài chính Việt Nam của một số tài phiệt Việt bắt đầu hé lộ, thì tôi phần nào hiểu ra những "ẩn ý" đằng sau những kiến nghị của các vị trí thức nước nhà về việc chuyển đổi mô hình NHNN sang NHTW.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, giới thiệu với các bạn chân dung thực sự của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED), một ngân hàng trung ương "ẩn danh" nổi tiếng toàn cầu, được đánh giá rằng có cấp độ độc lập tự chủ cao nhất (Độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động) qua các bài viết của tác giả Ngọc Mai, đăng trên báo .
Một trong những thể chế tài chính luôn bí ẩn và là câu hỏi lớn chính là Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED). Tổng thống Woodrow Wilson, người ký dự luật Cục Dự trữ Liên bang Mỹ từng cay đắng thừa nhận: "Tôi là người bất hạnh nhất. Tôi đã vô ý hủy hoại đất nước mình. Quốc gia công nghiệp vĩ đại này bị khống chế bởi chính hệ thống tín dụng của nó... Vì thế sự phát triển của cả quốc gia và mọi hoạt động kinh tế của chúng ta đều nằm trong tay của một số ít người"...
Nguyên nhân vì sao Tổng thống Wilson trước khi qua đời lại day dứt đến như vậy? Phải chăng vẫn còn những bí ẩn đằng sau Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve System-FED) mà chúng ta chưa hiểu hết?
Vào đêm ngày 22/11/1910, một nhóm phóng viên đứng tại góc sân ga ở Hoboken, New Jersey rất chán chường. Họ đứng đó chờ đợi, chứng kiến một đoàn những chính khách và những ông trùm tài chính quốc gia rời sân ga một cách bí mật. Phải đến nhiều năm sau, đám phóng viên mới phát hiện ra thực chất nhiệm vụ bí mật trong đêm đó của nhóm người kia là gì, nhưng cả khi biết được, họ cũng không thể hiểu được lịch sử Mỹ đã có bước chuyển mạnh mẽ từ sau đêm ấy tại Hoboken.
Nhóm người đó rời đi bằng xe lửa, trong đêm tối mịt mùng, và không có đích đến rõ ràng. Dẫn đầu đoàn là thượng nghị sĩ Nelson Aldrich Chủ tịch Ủy ban Tiền tệ quốc gia, ông ngoại của Nelson Rockefeller cùng với 6 thành viên khác. Đó là A. Piatt Andrew, trợ lý Bộ trưởng Tài chính Mỹ; Frank Vanderlip, Chủ tịch National City Bank; Henry P. Davison, cổ đông cao cấp của Công ty J.P Morgan; Charles D. Norton, Chủ tịch First National Bank; Benjamin Strong, trợ lý của J.P Morgan và Paul Warburg, một ông trùm về ngân hàng gốc Do Thái đến từ Đức.
7 nhân vật sừng sỏ này được yêu cầu là phải thực hiện chuyến đi một cách thật bí mật, hiển nhiên việc "gặp gỡ nhau tại sân ga" phải hết sức tình cờ. Cụ thể là họ được yêu cầu đến sân ga cùng một thời điểm, không gặp gỡ nhau trước cái đêm ấy, và phải giả như không biết nhau. Chỉ thị đưa ra là bằng mọi giá phải tránh được tai mắt phóng viên, bởi họ là những người nổi tiếng, dĩ nhiên những người nổi tiếng khi gặp phải phóng viên thì sẽ bị ngập trong rất nhiều câu hỏi và sự đeo bám. Khá hài hước là trường hợp của Paul Warburg, một cao thủ về lĩnh vực ngân hàng, là một trong số những người đàn ông phải mang súng săn theo người ngày hôm ấy giả vờ như mình đi săn mặc dù ông ta chưa một lần sờ vào súng và khẩu súng mang theo mình chỉ là đồ đi mượn. Tất cả mục đích chỉ là để che mắt thiên hạ và báo giới.
Những thông tin trên đã đủ để tạo nên một câu chuyện mang màu sắc kỳ bí. Chiếc xe riêng của Aldrich đã đợi sẵn ngoài sân ga Brunswick, Georgia và đưa cả đoàn người đi trong bóng tối mịt mùng của Hoboken đến với đảo Jekyll. Vài năm trước đó, một hội gồm toàn những triệu phú dẫn đầu là JP Morgan đã trả tiền mà mua đứt hòn đảo này ở bang Georgia để làm nơi nghỉ đông. Họ đặt tên là "Hội Săn bắn đảo Jekyll". Đảo Jekyll lúc này được chọn là nơi để phác họa nên kế hoạch kiểm soát tiền tệ và tín dụng của người dân Mỹ, không phải chỉ bởi sự hoàn toàn cô lập của nó, mà còn là vì nó là quyền lợi cá nhân của những người tham gia phác thảo kế hoạch đó.
Hội đồng Dự trữ Liên bang được thành lập 10/8/1914. Đứng ngoài cùng bên trái là Paul M. Warburg - người chịu trách nhiệm chính phác thảo kế hoạch trên đảo Jekyll.
Trước khi 7 nhân vật trong đoàn của Aldrich rời khỏi New York, các thành viên "Hội Săn bắn đảo Jekyll" được thông báo rằng câu lạc bộ sẽ được sử dụng trong vòng hai tuần kế tiếp. Lập tức họ được tạm lui. Mọi sự phục vụ vẫn được chu đáo như thường lệ trong thời hạn hai tuần nhưng đều là những "bề tôi" trung thành được đưa vào từ đất liền. Những người phục vụ này không biết tên của ai trong số những người có mặt ở Jekyll đêm đó, kể cả nếu họ có bị chất vấn sau khi nhóm người rời đi thì họ cũng không thể đưa ra bất kỳ cái tên nào. Để đảm bảo được sự bảo mật, ngay từ trước khi đặt chân lên đảo, các thành viên đã được chỉ thị không được dùng tên thật của mình trong suốt thời gian ở đây. Sau này khi nhắc lại sự kiện, bản thân những ông trùm này còn hài hước tự gọi nhóm mình dưới cái tên "hội - tên -họ", tức là chỉ dùng họ của mình mà thôi, như là Warburg, Strong, Vanderlip... Lý do cho sự bảo mật tối cao này là vì tính chất cuộc họp vô cùng quan trọng đã được ra lệnh bởi Ủy ban Tiền tệ quốc gia.
Trên thực tế, không có một "việc tốt" nào được thực hiện trên đảo Jekyll. Nơi đây dường như chỉ là nơi để họp bàn những âm mưu và bí mật. Hội của Aldrich lần này bí mật lên đảo để dự thảo pháp chế về ngân hàng và tiền tệ, việc mà Ủy ban Tiền tệ quốc gia được giao nhiệm vụ từ chính phủ để chuẩn bị. Mối đe dọa lúc đó là sự thao túng của tiền và tín dụng Mỹ. Cuộc họp tại đảo Jekyll đảm bảo rằng cái gọi là "ngân hàng trung ương" sẽ được ra đời tại Mỹ, và nó sẽ đáp ứng cho những giám đốc ngân hàng, điều mà họ từng mong ước.
Trong suốt thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nền kinh tế Mỹ chịu nhiều đe dọa từ những yếu kém của hệ thống tài chính, dẫn đến những thất bại trong hệ thống ngân hàng và hàng loạt doanh nghiệp phải phá sản. Thời điểm tháng 10-1907, khoảng một nửa các khoản tiền gửi ngân hàng ở New York đều bị các công ty đầu tư ủy thác gán nợ với lãi suất cao để đầu tư vào thị trường cổ phiếu và trái phiếu có độ rủi ro cao, thị trường tài chính rơi vào trạng thái đầu cơ tột độ. Điểm nút là khi có tin đồn Công ty Kinkerbocker Trust - công ty ủy thác lớn thứ ba nước Mỹ có nguy cơ phá sản thì khủng hoảng niềm tin lan rộng và cuộc chạy đua rút tiền gửi, bán tháo cổ phiếu xảy ra. Cuộc khủng hoảng nghiêm trọng 1907 đã thôi thúc Quốc hội Mỹ phải thành lập ngay một Ủy ban Tiền tệ quốc gia, đồng thời đã đưa ra những đề nghị thiết lập một thể chế có thể giúp ngăn ngừa và chống đỡ được những rủi ro trong lĩnh vực tài chính.
Câu lạc bộ của "Hội săn bắn đảo Jekyll" và thượng nghị sĩ Nelson Aldrich, người chủ trì cuộc họp bí mật trên đảo (ảnh nhỏ).
Bởi vậy, nhóm họp kín ở đảo trong vòng 9 ngày đầy căng thẳng và dữ dội để có thể hoàn thành phương án. Thượng nghị sĩ Aldrich, luôn luôn là người độc đoán và luôn tự cho ông ta là người dẫn đầu nhóm. Trong khi đó, khác với ông ta, Paul Warburg vốn là người rất sành sỏi trong lĩnh vực ngân hàng thì luôn giảng giải rất nhiều và chi tiết cho từng câu hỏi mà mọi người đặt ra. Henry P.Davison, nhà ngoại giao bẩm sinh như là một chất xúc tác duy trì công việc của mọi người.
Được coi là người uyên thâm nhất trong hội, Paul Warburg là người chịu trách nhiệm chính trong việc phác thảo kế hoạch. Sản phẩm của ông ta rồi sẽ được đem ra thảo luận và thông qua bởi tất cả các thành viên khác của nhóm. Thượng nghĩ sĩ Aldrich có vai trò cân nhắc sao cho kế hoạch thật hoàn hảo và kiểm tra xem kế hoạch đó có thể được Quốc hội thông qua hay không. Trong khi các thống đốc ngân hàng khác có vai trò bổ sung thêm bất kỳ chi tiết nào họ cho là cần thiết để chắc chắn rằng, họ đạt được tất cả những gì họ muốn. Mọi thứ phải được xem xét cẩn thận trước khi bản kế hoạch được hoàn thành bởi sẽ không có cơ hội thứ hai, tuyệt mật như thế, để họ có thể thực hiện lần tiếp theo.
Do cuộc khủng hoảng ngân hàng năm 1907 nên trong mắt người dân Mỹ, hình ảnh của các ngân hàng không còn mấy đẹp đẽ. Điều này khiến cho đa số nghị sĩ Quốc hội không dám công khai ủng hộ dự luật do các ngân hàng tham gia lập ra. Từ thời Tổng thống Jefferson đến nay, tên gọi của Ngân hàng Trung ương đều có dính dáng đến âm mưu của nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế Anh, vì thế Paul kiến nghị dùng tên "Cục Dự trữ liên bang" (Federal Reserve System) để che đậy tai mắt thiên hạ. Thế nhưng, Cục Dự trữ liên bang có đầy đủ mọi chức năng của một ngân hàng trung ương, và cũng giống như Ngân hàng Anh, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ được thiết kế theo kiểu tư nhân nắm giữ cổ phần, và ngân hàng sẽ thu được lợi ích rất lớn từ việc đó.
Nhằm che đậy bản chất thực của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cũng như để trả lời cho câu hỏi ai là kẻ khống chế cơ quan này, Paul đã khéo léo đề xuất ý kiến: "Quốc hội khống chế Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Chính phủ nắm giữ vai trò đại biểu trong hội đồng quản trị, nhưng đa số thành viên của Hội đồng quản trị là do Hiệp hội Ngân hàng trực tiếp hoặc gián tiếp khống chế". Về sau trong phiên bản cuối cùng, Paul đã đổi thành "thành viên của hội đồng quản trị do tổng thống Mỹ bổ nhiệm", thế nhưng chức năng chính xác của hội đồng quản trị sẽ do Hội đồng Tư vấn liên bang khống chế, và cùng với Hội đồng quản trị, Hội đồng Tư vấn liên bang sẽ định kỳ mở hội nghị "thảo luận" công việc. FED sẽ gồm có 12 "FED con" nằm ở các tiểu bang, bản chất mỗi "FED con" là ngân hàng thương mại tư nhân ở địa phương. Thành viên của Ủy ban Tư vấn liên bang sẽ do chủ tịch hội đồng quản trị của 12 nhà ngân hàng dự trữ liên bang quyết định. Điều này thực sự đã lấp liếm che đậy sự thật bên trong và che mắt được công chúng.
Một điều cần cân nhắc nữa là làm thế nào tìm ra nhân viên quản lý cho 12 ngân hàng địa phương trực thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Kinh nghiệm làm việc trong Quốc hội của Nelson Aldrich cuối cùng đã giúp ông tìm được giải pháp. Các nghị sĩ miền Trung Tây nước Mỹ thường tỏ rõ mối thù địch với Ngân hàng New York, để tránh mất kiểm soát thì tổng thống phải là người đứng ra bổ nhiệm vị trí chủ tịch ngân hàng địa phương và đó không phải là nhiệm vụ của Quốc hội. Nhưng điều này đã tạo nên một lỗ hổng pháp luật.
Điều 8 chương 1 của hiến pháp Mỹ quy định rõ rằng, Quốc hội chịu trách nhiệm phụ trách việc quản lý phát hành tiền tệ. Việc Cục Dự trữ Liên bang gạt Quốc hội ra ngoài rõ ràng đã vi hiến. Về sau, quả nhiên điểm này đã trở thành cái cớ để các nghị sĩ chĩa mũi dùi công kích Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Với sự dàn xếp chu đáo, dự luật này sau đó được xuất hiện với hình thức mô phỏng theo sự phân quyền và cân bằng kiểm soát của Hiến pháp Mỹ. Tổng thống bổ nhiệm, Quốc hội thẩm duyệt, nhân sĩ độc lập nhậm chức chủ tịch Hội đồng quản trị, còn các nhà ngân hàng đảm nhận vị trí cố vấn. Quả là một thiết kế hoàn hảo!
Với bản "dự luật" được hình thành trên đảo Jekyll, 7 nhân vật quan trọng của phố Wall tại thời điểm ấy đã bắt đầu chính thức nắm quyền khống chế đại bộ phận các ngành công nghiệp cơ bản cũng như nguồn vốn của Mỹ. Đầu mối trung tâm về vốn do họ tạo nên đang trở thành thế lực chủ yếu khống chế toàn bộ nước Mỹ và có ảnh hưởng to lớn đến cả thế giới sau này. Chính họ mới là những người thực sự điều khiển việc lập ra Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Sự phối hợp nhịp nhàng, bí mật giữa những người này với dòng họ Rothschild của châu Âu cuối cùng đã lập nên một phiên bản của Ngân hàng Anh quốc tại Mỹ.
Và ngày 23/12/1913, Chính phủ dân cử của Mỹ cuối cùng đã bị quyền lực đồng tiền "lật đổ". Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson đã ký thông qua hiệp ước thành lập "Federal Reserve Act", và như thế, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chính thức ra đời .
Những đồng đôla "vay mượn"
Rất nhiều người trên thế giới cho tới giờ vẫn nghĩ rằng quyền phát hành đồng đô-la tất nhiên thuộc về Chính phủ Mỹ, tuy nhiên trên thực tế về bản chất, Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành tiền tệ! Các nhà phân tích cho rằng, kể từ năm 1963 sau khi Tổng thống Kennedy bị ám sát, Chính phủ Mỹ cuối cùng đã mất đi quyền phát hành "đôla Mỹ bạc trắng". Quyền lực ấy đã thuộc về Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ và cách thức mà họ đã tạo ra tiền tệ là từ... không khí, chính xác hơn là dựa trên nợ.
Sâu xa hơn, chính đạo luật "Federal Reserve Act" hay người ta còn gọi là "Đạo luật Nelson Aldrich" mà Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson ký ngay trước ngày Thiên Chúa giáng sinh năm 1913 đã tước bỏ hoàn toàn chức năng in tiền giấy của Chính phủ Mỹ. Và sự thật là kể từ khi FED đoạt được quyền in tờ giấy bạc này, cứ bao nhiêu tờ tiền đôla xanh in ra là người dân Mỹ phải chịu nợ FED bấy nhiêu.
Trên thế giới người ta biết đến rất nhiều loại tiền nhưng về bản chất thì được xem là chỉ có hai loại: tiền vay mượn và tiền phi vay mượn. Tiền vay mượn là tiền pháp định đang lưu thông hiện nay mà thành phần chủ yếu của hệ thống tiền tệ pháp định này là các khoản vay mượn tiền tệ hóa của chính phủ. Ngược lại tiền phi vay mượn là có vàng, bạc đảm bảo.
Trong lịch sử Hoa Kỳ đã từng có những đồng tiền "không vay mượn", thực sự được phát hành bởi chính phủ. Quan trọng nhất và là loại tiền tệ hợp pháp đầu tiên được Chính phủ Mỹ phát hành dưới thời Tổng thống Abraham Lincoln trong cuộc nội chiến giữa thế kỷ XIX chính là "Tiền xanh Lincoln" và "Chứng chỉ bạc trắng" (Silver Cerfiticate). Người ta còn gọi "Tiền xanh Lincoln" là "Giấy bạc Nhà nước Hoa Kỳ". Nhưng kể từ sau khi Tổng thống Lincoln bị ám sát thì việc phát hành loại tiền này đã bị hạn chế, tổng lượng tiền phát hành bị hạn định trong khoảng 346.681.016 đôla, thậm chí năm 1960 lượng đôla phát hành chỉ vỏn vẹn 1% tổng lượng tiền lưu thông của Mỹ.
Ngày 22/11/1963 khi Tổng thống Kennedy - vị tổng thống Hoa Kỳ nỗ lực đòi quyền nắm giữ đồng đôla bị ám sát, tiếp theo Tổng thống thứ 36 của Hoa Kỳ (1963-1969) là Lindon Johnson lên cầm quyền thì "Chứng chỉ bạc trắng" đã dần bị loại khỏi lưu thông. Thực ra trên thị trường Mỹ lúc bấy giờ vẫn tồn tại "Chứng chỉ vàng" giống với "Chứng chỉ bạc", nhưng bản chất sâu xa của "Chứng chỉ vàng" chính là nguồn gốc thống trị của những nhà tài phiệt ngân hàng khét tiếng trên thế giới. Cho tới năm 1971, mối liên hệ cuối cùng giữa vàng và đồng đôla rốt cuộc đã hoàn toàn bị cắt đứt. Kể từ đây nước Mỹ chỉ còn đồng đôla do FED phát hành mà thôi.
Để có thể hiểu rõ hơn, chúng ta ngược lại thời kỳ trước năm 1971 để tìm hiểu về "bản vị vàng". Ta biết rằng, tiền tệ là thước đo căn bản nhất của nền kinh tế, mọi thứ đều có thể đo lường bằng tiền tệ và tiền tệ cũng là phương tiện tích lũy giá trị của người dân. "Bản vị vàng" được hiểu là chế độ tiền tệ mà phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn được ấn định bằng hàm lượng vàng. Dưới chế độ bản vị vàng, tổ chức phát hành tiền mặt (ở dạng giấy bạc hay tiền xu) cam kết sẵn sàng nhận lại tiền mặt và trả vàng nếu được yêu cầu. Các chính phủ sử dụng thước đo giá trị cố định này nếu chấp nhận thanh toán cả tiền mặt của chính phủ nước khác bằng vàng sẽ có liên hệ tiền tệ ấn định (lượng tiền mặt lưu hành, tỉ giá quy đổi...). Những người ủng hộ chế độ bản vị vàng cho rằng, hệ thống này đề kháng được sự bành trướng tín dụng và nợ nần. Đồng tiền được bảo đảm bằng vàng sẽ không cho phép chính phủ tùy tiện in tiền giấy, điều này ngược lại với chế độ bản vị tiền giấy.
Kể từ khi hệ thống tiền tệ nước Mỹ tách ra khỏi sự ràng buộc của vàng thì cho tới nay đồng đôla Mỹ đã giảm giá tới khoảng 94%. Đồng đôla Mỹ giờ đây không còn là đồng tiền dự trữ hữu hiệu và an toàn nữa vì nền kinh tế Mỹ đang suy yếu, tổng nợ nước Mỹ đã tăng quá cao. Sự khác nhau căn bản giữa "bản vị vàng" và "bản vị đôla", đó là không có sự đảm bảo đổi lại với đồng tiền nội địa. Mức cung tiền nội địa của Anh, Pháp hay bất kỳ một quốc gia khác không cần có mối liên hệ với đồng đôla Mỹ.
Mặt khác, vì Mỹ có thể "in" tiền đôla để chi trả nợ và một khi các quốc gia khác đã có một lượng dự trữ đôla ổn định thì nền kinh tế thế giới sẽ tràn ngập đôla, tất yếu lạm phát sẽ xảy ra. Dưới chế độ bản vị vàng, lượng cung ứng tiền sẽ chỉ tăng cùng với lượng vàng khai thác được nên cả nền kinh tế thế giới sẽ ít chịu lạm phát.
Vậy quá trình "sản suất" đồng đôla của FED ra sao? Quả thật, công đoạn biến hóa từ công trái thành đôla là một quá trình tuy không hẳn phức tạp nhưng bản chất hết sức tinh vi, ngoài những người có chuyên môn thì những ai muốn hiểu rõ được cần phải có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực tiền tệ tài chính. Có thể tóm tắt chu trình như sau: Muốn có được đồng đôla, Chính phủ Mỹ cần phải đem công trái của người dân Mỹ thế chấp cho FED, lúc này "phiếu dự trữ liên bang" (Federal Reserve Note) do FED phát hành chính là đồng đôla Mỹ.
Theo như Ngân hàng New York của FED miêu tả thì "đồng đôla không thể hoàn đổi thành vàng hay bất cứ tài sản nào khác của Bộ Tài chính Mỹ. Nó không mang ý nghĩa thực tế mà chỉ có tác dụng ghi nợ... Ngân hàng chỉ tạo ra tiền tệ khi được người đi vay cam kết hoàn trả các khoản vay của ngân hàng. Ngân hàng thông qua "tiền tệ hóa" các khoản nợ thương mại và tư nhân để tạo ra tiền tệ".
Còn theo sự giải thích của Ngân hàng Chicago thuộc FED thì: "Ở Mỹ, bất luận tiền giấy hay là tài khoản ngân hàng đều không có đủ giá trị nội tại như một loại hàng hóa nào. Đồng đôla Mỹ chẳng qua chỉ là một tờ giấy. Còn tài khoản ngân hàng cũng chỉ là những con số ước lượng ghi trên giấy"!
Cuối cùng ta có thể hiểu rằng, đồng đôla không có giá trị thực. Nó chỉ là một ví dụ kinh điển của đồng tiền pháp định với số lượng không giới hạn và có thể được in ấn vô tội vạ bởi FED mà thôi.
Trò ảo thuật của FED
Rõ ràng là việc đem thế chấp công trái để lấy đôla sẽ làm cho chính phủ phải chi trả cho FED một khoản lợi tức từ số công trái đó. Vì thế khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về tiền tệ tăng cao thì Chính phủ Mỹ tất yếu phải thế chấp càng nhiều công trái cho FED và số tiền lãi sẽ ngày càng phình to không giới hạn. Việc thanh toán đầy đủ các khoản nợ lãi suất cho FED được đảm bảo bằng số tiền đóng thuế của người dân Mỹ trong tương lai, thực tế số tiền thuế này vẫn chưa được người dân Mỹ kiếm ra để nộp cho chính phủ.
Như vậy, bản chất ở đây là khi nhu cầu tiền tệ tăng lên thì số tiền nợ của chính phủ cũng tăng, cho đến khi áp lực lãi suất của món nợ ấy vượt quá sự phát triển của nền kinh tế sẽ dẫn đến sự sụp đổ của đồng đôla Mỹ!
Một lỗ hổng chết người trong luật pháp ban hành ở nước Mỹ là chính phủ chỉ phát hành tiền đồng kim loại, còn tiền giấy thì chỉ là tờ chứng nhận trao đổi. Những bộ óc khổng lồ với tư duy minh triết, uyên thâm tại cuộc họp bí mật trên đảo Jekyll chấp bút đã làm ra một dự thảo chết người mang hơi hướng một phiên bản của hai gia tộc khét tiếng Rockefeller và JP Morton ở châu Âu vào nước Mỹ. Điều gì có lợi cho các tập đoàn tài phiệt đến ắt phải đến. Từ đây mọi sức khỏe của kinh tế trên thế giới đã thuộc về tay các ông trùm tài phiệt toàn cầu.
"Đạo luật Nelson Aldrich" đã dẫn nước Mỹ và nhân loại sang một trang mới của lịch sử. Trước tiên là một bước ngoặt thay đổi về bản chất về quyền lực nắm giữ đồng tiền. Từ khi ra đời đến nay, FED lộ rõ bản chất là ngân hàng trung ương tư hữu và Chính phủ Mỹ đã không còn cổ phần trong FED. Khi chính phủ muốn chi tiêu quá phần tiền thu thuế từ dân Mỹ thì chính phủ phải vay tiền từ FED thông qua FED in thêm tiền. Quốc hội có nhiệm vụ khống chế FED nhưng trên thực tế điều này dường như thể hiện ngược lại.
Cục Dự trữ liên bang Mỹ về hình thức là của Chính phủ Mỹ, nhưng bản chất là của các nhà tài phiệt mà thôi. Sự lấp liếm và lách luật của nhóm dự thảo trên đảo Jekyll mà Paul Warburg là bộ óc tài tình chấp bút mới có thể thiết kế hoàn hảo đến như vậy!
Rốt cuộc FED là tổ chức duy nhất được phép in tiền giấy Mỹ kim. Chính phủ Mỹ chỉ được phép đúc tiền đồng Mỹ kim từ giá trị 1 đôla hoặc nhỏ hơn. Mỗi lần FED in thêm tiền USD bao nhiêu thì Chính phủ Mỹ, hay nói cách khác là người dân Mỹ, phải nợ FED bấy nhiêu tiền. FED đã áp dụng một cơ chế có tên gọi Mandrake mà theo đó có thể phù phép biến nợ thành tiền. Mức lãi suất trên các khoản vay được coi như một kiểu cho vay nặng lãi được thể chế hóa bởi FED.
Sản phẩm của cơ chế này là sự mở rộng nguồn cung tiền tệ một cách giả tạo hay còn gọi là lạm phát. Như thế, người dân Mỹ đang gánh chịu một sự bất công lớn nhất thế giới, người dân đã bị chính phủ thế chấp tương lai của mình vào trong tay các nhà tài phiệt ngân hàng một cách vô thức, họ phải ra sức đóng thuế để chính phủ còn có tiền trả lãi cho FED. Hóa ra, lượng phát hành đôla càng lớn thì thuế má càng đè nặng trên vai người dân. Cái vòng luẩn quẩn ấy sẽ tồn tại và tiếp diễn, vay nợ, vay nợ... cho đến ngày mà Chính phủ Mỹ trả hết nợ thì đồng đôla cũng... biến mất!
Rõ ràng việc FED phát hành ra tiền từ chỗ họ không có gì trong tay và thu được tiền lãi khổng lồ từ Chính phủ Mỹ là một trong những sự thật vô lý hằng ngày đang hiển hiện. Một điều quan trọng nữa là cũng chính từ "đạo luật Nelson Aldrich", FED được quyền làm tăng hay giảm giá đồng Mỹ kim và các ngân hàng thương mại có quyền bơm tiền vào thị trường hay thu tiền vào lại ngân hàng một cách tự do. Như thế, giống như một trò ảo thuật, các ông trùm mới là người bày ra luật chơi thổi phồng cái bong bóng kinh tế hoặc chích quả bóng để tạo ra những cái gọi là"cuộc suy thoái chủ động"!
: FED là người đặt hàng, còn việc in tiền đơn thuần về mặt kỹ thuật được tiến hành tại xưởng in đặc biệt của Bộ Tài chính. FED sau đó sẽ mua lại số tiền theo giá bằng với chi phí in của chúng – tức là khoảng 6 xu cho một tờ giấy bạc – và sau đó phân phối chúng cho các cơ quan tài chính trong và ngoài nước.
Chi tiết:
Doi-Mat.vn
Follow us:
Câu lạc bộ Bilderberg – một “chính phủ bí mật của thế giới”?
Tổng hợp
03:59' PM - Thứ bảy, 15/03/2014
Cái gọi là Câu lạc bộ Bilderberg được coi là nơi tập hợp của những nhân vật giàu có và có ảnh hưởng nhất hành tinh – từ lâu nay vẫn được bao phủ trong một lớp màn bí mật. Những ảnh hưởng đặc biệt của CLB này đối với nhiều vấn đề toàn cầu đã khiến nhiều người phải mệnh danh nó là “một chính phủ bí mật của thế giới”.Cuộc họp đầu tiên của CLB bí mật trên đã diễn ra tại khách sạn Bilderberg (Hà Lan) vào tháng 5-1954, và đó cũng là lý do khiến cho CLB mang cái tên trên. Từ thời điểm đó cho tới nay, một nhóm các công dân có “ảnh hưởng nhất” của CLB này vẫn tụ họp mỗi năm một lần tại các địa điểm khác nhau trên thế giới. Hạt nhân của CLB là những thành viên thường xuyên, những người luôn tham gia họp mặt đầy đủ mỗi năm (theo một số nguồn tin khác nhau, tổng số hội viên CLB này có khoảng từ 80-130 người). Một phần ba trong số này là các chính trị gia có ảnh hưởng trên thế giới, số còn lại thường đại diện cho giới công nghiệp, tài chính và khoa học.
Theo một số nguồn tin, trong hàng ngũ các thành viên của CLB Bilderberg hiện đang có Tony Blair, Margaret Thatcher, Angela Merkel, Bill Clinton, George Soros, Donald Rumsfeld, Rupert Murdoch, những quan chức đứng đầu các tập đoàn như Coca-Cola, hay Daimler-Chrysler, IBM cũng như lãnh đạo Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), EU, những tập đoàn truyền thông đại chúng hàng đầu thế giới… Ngoài các thành viên chính thức, những phiên họp hàng năm của CLB cũng có thể mời thêm một số vị khách, thông thường là những chuyên gia trong các lĩnh vực được quan tâm.
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image018.jpgNhư theo từ điển bách khoa toàn thư Britannic, những cuộc họp của CLB Bilderberg đều mang tính chất không chính thức và không khách khí: những nhân vật có anh hưởng đối với quốc gia của mình và cả những vấn đề quốc tế đều có thể tiếp cận với nhau gần gũi hơn, bàn bạc về các vấn đề chung mà không cần phải đưa ra những cam kết. Sau mỗi một cuộc gặp, CLB sẽ có một báo cáo không chính thức chỉ phổ biến trong hàng ngũ những thành
viên hiện tại và trong quá khứ.
Tất cả những cuộc họp của CLB trên đều diễn ra trong điều kiện bí mật hoàn toàn theo những giấy mời cá nhân đặc biệt. Tất cả những vị khách đều tới địa điểm họp một mình, không được mang theo bất cứ một trợ lý, vệ sĩ, bạn bè hay người nhà nào. Theo nguyên tắc, các đại biểu bị ngăn cấm các hình thức ghi chép, đưa ra tuyên bố với báo chí hay bàn luận về nội dung họp với người bên ngoài.
Bất chấp những đặc điểm cực kỳ bí mật như vậy, mỗi một cuộc gặp của CLB Bilderberg đều thu hút được sự chú ý đặc biệt. Đơn giản là báo chí và công chúng không thể bỏ qua sự kiện thu hút một số lượng lớn những nhân vật nổi tiếng và có ảnh hưởng cùng tới một địa điểm nào đó. Cũng chính vì đặc điểm quá bí mật trên, hoạt động của CLB Bilderberg đã làm nảy sinh không ít những giả thuyết khác nhau, đa phần trong số này đều cho rằng các thành viên CLB đang bí mật điều hành cả thế giới.
Một số nhà quan sát còn cho rằng, chính cơ quan mật vụ Mỹ là người khởi xướng trực tiếp cho việc hình thành CLB này. Theo đó, những người sáng lập thực sự chính là nam tước Edmund Rothschild và Laurance Rockefeller, những thành viên đầu tiên của CLB. Cũng theo khẳng định của nhà quan sát này, một trong những mục tiêu chính được đặt ra ngay sau khi thành lập CLB chính là xây dựng một siêu quốc gia của toàn châu Âu với ngân hàng Trung ương, tiền tệ thống nhất dưới sự kiểm soát của Mỹ. Còn mục tiêu cuối cùng là thành lập một chính phủ liên quốc gia có quy mô toàn cầu.
Năm nay, sự chú ý của toàn thế giới lại tập trung vào thị trấn nghỉ mát Sitges gần Barcelona (Tây Ban Nha), nơi được chọn làm địa điểm gặp gỡ lần này của các thành viên CLB Bilderger. Ngay trước cuộc gặp này, một trong những nhà nghiên cứu nổi tiếng nhất về CLB trên là Daniel Estulin đã khẳng định, ông biết về các chủ đề sẽ được bàn bạc trong cuộc gặp lần này. Chủ đề hàng đầu trong số này chính là tương lai của đồng euro. “Họ sợ sẽ có một vài nước rút khỏi khu vực đồng euro, khiến đồng tiền này sẽ bị chết yểu – Estulin giải thích – Nguy cơ các nước quay trở lại với chính sách định hướng dân tộc chính là một cơn ác mộng đối với họ”.
Giả thuyết trên có thể được lý giải bằng sự hiện diện và phát biểu của Thủ tướng Tây Ban Nha Luis Zapatero. Hiện các nước trong nhóm PIIGS – gồm Bồ Đào Nha, Ailen, Italia, Hy Lạp và Tây Ban Nha – đang gây ra những lo ngại thực sự cho các thành viên CLB Bilderger. Họ lo ngại tình trạng yếu đi của đồng euro có thể sẽ khơi mào cho một làn sóng khủng hoảng toàn cầu mới, có thể dẫn tới những biến đổi nghiêm trọng về tình hình chính trị trên toàn cầu.
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image002.jpgHiện cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger (87 tuổi) và cựu Chủ tịch David Rockerfeller của Chase Manhattan Bank là những thành viên nhiều tuổi nhất của CLB. Còn trong danh sách những nhân vật được mời trong năm đã xuất hiện những nhân vật tương đối trẻ, chẳng ahnj như Bộ trưởng Tài chính Anh George Osborn (39 tuổi).
Những người chống đối tổ chức này tin rằng, bên trong Bilderberg chính là một âm mưu từ lâu nay của các ông trùm tư bản nhằm chống lại loài người. Có không ít những nhà hoạt động chống lại CLB Bildergerg đã tụ tập tại Sitges. Ngoài hoạt động biểu tình phản đối, họ hy vọng còn có thể khai thác được thông tin giúp làm rõ được những kế hoạch bí mật của hội kín trên.
Tập đoàn tinh anh thống trị thế giới
Ngày 16 tháng 7 năm 1992, ngay sau khi được đề cử cho cuộc tranh cử tổng thống tại đại hội đảng Dân chủ, Clinton đã phát biểu hết sức dõng dạc về tinh thần đoàn kết, lý tưởng, nhân dân và đất nước bằng những lời chẳng có gì mới mẻ. Nhưng khi kết thúc bài diễn văn, đột nhiên Clinlon nhắc đến người thầy của mình - vị giáo sư sử học nổi tiếng nhất nước Mỹ giảng dạy tại Đại học Georgetown, Carroll Quigley. Ảnh hưởng của Carroll Quigley đối với Clinton được chính Clinton ví như sự ảnh hưởng của Tổng thống Kennedy đối với ông ta vậy(2) Và trong suốt thời gian làm tổng thống sau này của mình, Clinton đã nhiều lần nhắc đến tên của Carroll Quigley. Vậy chủ trương gì của Carroll Quigley đã khiến cho Clinton phải khắc cốt ghi tâm đến thế?
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image004.jpgThực ra, Quigley là một nhân vật có ảnh hưởng lớn trong việc nghiên cứu tổ chức tinh anh bí mật Anh - Mỹ. Ông luôn cho rằng những tổ chức bí mật này đã có ảnh hưởng quyết định đến hầu hết mọi sự kiện trọng đại trên thế giới.
Tốt nghiệp Đại học Harvard, giáo sư Quigley từng đảm nhận các vị trí ở Cục Tham mưu Brooklings, Bộ Quốc phòng, Bộ Hải quân Mỹ và có mối quan hệ rất mật thiết với các quan chức cấp cao trong Cục Tình báo Trung ương. Với vai trò của một "người trong cuộc", Quigley đã từng tiếp xúc với rất nhiều tài liệu lịch sử và hồ sơ tuyệt mật. Tuy nhiên, ông không tỏ ra là người chống đối "lý tưởng" mà số rất ít các tinh anh thống trị của Anh - Mỹ đã sắp đặt ra cho toàn thế giới, mà chỉ luôn giữ thái độ "bảo lưu" đối với một số cách làm cụ thể trong đó, rồi thêm vào đó là những nhận xét đầy hàm ý trong các nghiên cứu của mình. Chính thái độ đó nên ông không hề gặp phải sự "thắc mắc" nào của các học giả thuộc dòng "chủ lưu". Ngoài ra, với hơn 20 năm làm công việc nghiên cứu, được tiếp xúc với một lượng lớn các hồ sơ lịch sử tuyệt mật nên ông được giới sử học Mỹ đánh giá cao. Chính những điều đó khiến ông hiếm có đối thủ khiêu chiến. Chỉ cần học thuyết của ông không nguy hiểm cho giới cầm quyền thì những người trong nhóm tinh anh cũng sẽ chẳng việc gì phải đụng đến ông.
Tốt nhất là chúng ta nên thiết lập một “lâu đài trật tự thế giới” từ dưới lên, chứ không phải là xây ngược lại từ trên xuống. Bởi rốt cuộc thì cái gọi là chủ quyển quốc gia có thể dùng biện pháp xâm chiếm từng bước để giành được. Việc làm này sẽ cho phép chúng ta đạt được mục đích của mình nhanh hơn so với những cách làm cũ. (1)
Richard Garner – Tạp chí “Các vấn đề quan hệ quốc tế”, tháng 4 năm 1974
Theo quan điểm của giáo sư Quigley, Viện Hoàng gia về các vấn đề Quốc tế ở Anh, Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ (CFR), nhóm Bilderberg, ủy ban ba bên (Trilateral Com mission) rõ ràng là những tổ chức hạt nhân của câu lạc bộ tinh anh luôn muốn thao túng cục diện thế giới. Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ có 3.600 thành viên, tương đương với "trường đảng trung ương" của Mỹ. Và việc gia nhập vào tổ chức này thì cũng giống như việc bước vào đại sảnh của chính giới Mỹ hay cơ hội để trở thành người hoạch định chính sách của thế giới tương lai. Nhóm Bilderberg kết hợp thêm các phần tử tỉnh anh của châu âu, còn ủy ban ba bên có đen 325 thành viên, lại thêm các phần tử tinh anh của Nhật Bản và các quốc gia chầu Á khác. Tất cả những thành viên có tiếng nói trong Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ thì thường là thành viên của các tổ chức khác. Các nhân vật tinh anh trong những tổ chức này bao gồm những nhân vật có thế lực đủ để làm xoay chuyển cục diện thế giới như Henry Kissinger - cựu Bộ trưởng ngoại giao Mỹ, D. Rockefeller của ủy ban quốc tế JP Morgan, Nelson Aldrich Rockefeller, hoàng tử Phillip của Anh, McNamara - Bộ trưởng quốc phòng Mỹ thời Tổng thống Kennedy và sau này là Giám đốc điều hành của Ngân hàng thế giới, bà Thatcher - cựu Thủ tướng Anh, Valéry Giscard d'Estaing - cựu Tổng thống Pháp (chính là người đã lên kế hoạch cốt yếu về hiến pháp châu Âu), Donald Rumsfeld - Bộ trưởng quốc phòng Mỹ, Brzezinski - cựu cố vấn an ninh quốc gia, Alan Greenspan - Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, và Keynes - nhân vật nổi tiếng trong giới ngân hàng một thời. Ông chủ Ngân hàng quốc tế chính là ông chủ đứng đằng sau tất cả những tổ chức này. Dòng họ Rothschild đã chủ từ rất nhiều hội nghị của Bilderberg. Năm 1962 và năm 1973, hội nghị Bilderberg diễn ra ở địa điểm nghỉ mát nổi tiếng ở Thụy Điển do dòng họ Warburg đứng ra tổ chức.
Thời đại học, dưới sự hướng dẫn và chỉ bảo của giáo sư Quigley, Clinton đã nhận ra rằng, nếu muốn hiển danh trong chính giới thì không chỉ cần nỗ lực phấn đấu mà còn phải trở thành một thành viên trong guồng máy quyền lực.
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image006.jpgQuả nhiên, sau này Clinton đã gia nhập ủy ban ba bên và Hội đồng Quan hệ Quốc tế đồng thời tham gia lớp "học giả Rhodes" - một nơi chuyên đào tạo, bồi dưỡng nên những "cán bộ" quan trọng của "chính phủ thế giới" trong tương lai. Năm 1989, Clinton đã gia nhập Hội đồng Quan hệ Quốc tế Và tới năm 1991, khi giữ chức Thống đốc bang Arkansas, Clinton đã xuất hiện tại hội nghị thường niên của nhóm Bilderberg tổ chức tại Đức. Phải thừa nhận rằng đã có rất nhiều thống đốc các bang lớn ở Mỹ rất muốn tham gia cuộc "tụ hội tinh anh siêu cấp" này. Và chỉ sau một năm, Bill Clinton - Thống đốc bang Arkansas xa xôi chẳng mấy tiếng tăm - đã đột nhiên đánh bại nhiều chính trị gia cáo già để lên làm Tổng thống. Đó chính là lý do vì sao Clinton luôn khác cốt ghi tâm những lời chỉ bảo của giáo sư Quigley.
Câu lạc bộ Bilderberg
Nếu như những năm đó công khai mọi điều cho công chúng biết thì chúng ta đã không thể hoạch định kế hoạch phát triển cho thế giới. Mà hiện nay, thế giới ngày càng phức tạp, còn chúng ta thì chuẩn bị tiến bước mạnh mẽ để trở thành chính phủ thế giới. Bởi những người nắm giữ chủ quyền siêu quốc gia đều là các tầng lớp ưu tú và các ông chủ ngân hàng thế giới nên điều tốt hơn là chúng ta nên tổ chức lấy quyền tự quyết quốc gia trong thực tế hơn là cách làm cũ trong quá khứ như nhiều thế kỷ trước.(4)
John Davison Rockefeller, năm 1991
Câu lạc bộ Bilderberg được lấy tên từ một khách sạn của Hà Lan, do ông hoàng người Hà Lan, Bernhard sáng lập vào năm 1954. Câu lạc bộ Bilđerberg là "phiên bản quốc tế" của Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ, do các nhà tài phiệt ngân hàng, chính trị gia, lãnh đạo doanh nghiệp, các nhà báo và các học giả nổi tiếng tạo nên. Tất cả các thành viên này đều do Rothschild và Rockefeller chọn ra. Trong đó rất nhiều người còn là thành viên của Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ, hiệp hội Pilgrims Society, hiệp hội bàn tròn, và cả Ủy ban ba bên. Câu lạc bộ Bilderberg này hầu như đã kiểm soát hết toàn bộ hệ thống tổ chức của hiệp hội châu Âu hiện có trong liên minh châu Âu. Mục đích cuối cùng của họ chính là xây dựng một chính phủ thế giới. (5)
Cuộc họp đầu tiên của CLB tại Hà Lan, 1954
Đặc điểm hoạt động lớn nhất của tổ chức này chính là "bí mật".file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image008.jpgCơ quan đầu não của tổ chức này đặt tại Leiden thuộc miền tây Hà Lan, có cả số điện thoại nhưng lại không có mạng lưới. Chỉ rất ít các thám tử tự do như Tony Gosling của Anh hay James Tucker của Mỹ phải mất rất nhiều công sức và cả sự mưu trí mới có thể thu thập được những thông tin có liên quan đến địa điểm và lịch trình hội nghị của câu lạc bộ này. Suốt 30 năm, Tucker đã theo dõi câu lạc bộ này và cuối cùng đã xuất bản một cuốn sách nói về nó. Còn nhà sử học Pierre de Villemarest và William Wolf đã cộng tác cùng nhau để xuất bản cuốn sách "Facts and Chronicles Denied to the Public", trong đó tập 1 và 2 đã miêu tả lịch sử phát triển bí mật của câu lạc bộ Bilderberg. Một cuốn sách khác do nhà xã hội học Geoffrey Geuens của Vương quốc Bỉ viết cũng có một chương tập trung miêu tả về câu lạc bộ này.
Etienne Davignon - cựu Phó chủ tịch ủy ban châu Âu, thành viên của câu lạc bộ Bilderberg - đã khẳng định rằng: “Đây không phải là âm mưu thao túng thế giới của các nhà tư bản”. Còn Thierry de Montbrial - Viện trưởng Học viện quan hệ quốc tế Pháp, gia nhập câu lạc bộ này đã gần 30 năm thì nói rằng, đây chẳng qua chỉ là một “câu lạc bộ” mà thôi. Sở dĩ những người này có những lời phát biểu như trên vì trong thông báo chính thức hội nghị năm 2002 của câu lạc bộ Bilderberg có đoạn nêu: “hoạt động duy nhất của câu lạc bộ là tiến hành hội nghị thường niên. Hội nghị này không đề ra bất cứ nghị quyết nào, cũng không tiến hành bỏ phiếu, không phát biểu thanh minh bất cứ chính sách nào.” Và câu lạc bộ Bilderberg chỉ là “một diễn đàn quốc tế nhỏ linh hoạt không chính thức. Các đại biểu tham gia hội nghị có thể phát biểu mọi quan điểm khác nhau, để tăng cường hiểu biết giữa các bên.”
Nhưng theo Will Hutton - nhà kinh tế học người Anh thì “ý kiến thống nhất đạt được trong mỗi lần hội nghị của câu lạc bộ Bilderberg" chính là đoạn mở đầu lập ra chính sách thế giới”. Cách nói của ông thể hiện sự tiếp cận với sự thật ở mức độ tương đối bởi những quyết định được đưa ra tại hội nghị của câu lạc bộ Bilderberg về sau đều dần trở thành phương châm định trước của các nước thuộc hiệp hội G8, Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới.
Đối với câu lạc bộ Bilderberg, giới truyền thông luôn tỏ ra im lặng và phục tùng. Năm 2005, tờ Financial Times đưa tin trước rồi sau đó giải quyết theo hướng làm giảm nhẹ "thuyết âm mưu" đang gây xôn xao dư luận. Trên thực tế, bất cứ ai có chất vấn hay nghi ngờ người của câu lạc bộ hùng mạnh nhất thế giới này đều sẽ bị biến thành đối tượng bị đàm tiếu trong các "tác phẩm" của những phê bình lý luận. Các thành viên của câu lạc bộ Bilderberg như các nghị sĩ Anh hoặc những quan chức cao cấp Mỹ thì đều nói rằng, chẳng qua đó chỉ là một nơi để bàn luận vấn đề, một diễn đàn mà người người đều có thể "tự do phát biểu ý kiến".
F. William Engdahl, tác giả cuốn "Cuộc chiến trăm năm: chính trị dầu mỏ Anh - Mỹ và cuộc đại chiến thế giới mới", đã giải thích tỉ mỉ một đoạn bí mật mà rất ít người biết từng xảy ra trong hội nghị Bilderberg khi được tổ chức ở Thụy Điển năm 1973.
Trong những năm đầu sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ, vị thế của đồng đô la Mỹ đã rơi vào khủng hoảng chưa từng thấy trên phạm vi toàn thế giới. Sau khi tách khỏi vàng, sợi dây diều uy tín và giá trị của đồng đô la Mỹ đã bị cắt đứt và bị cuốn trôi đi theo gió trong cơn bão táp tài chính thế giới. Vì vẫn còn chưa bàn xong kế hoạch chuẩn bị cho hệ thống tiền tệ thế giới, các ông chủ ngân hàng quốc tế cũng trở nên bối rối. Chính sách "quyền rút vốn đặc biệt" được đề ra “long trọng” trên thị trường tài chính quốc tế năm 1969 nhưng chẳng ai đếm xỉa đến. Thấy sắp mất quyền kiểm soát, các ông chủ ngân hàng quốc tế đã vội triệu tập một hội thảo khẩn cấp trong hội nghị Bilderberg năm 1973 nhằm giành lại quyền kiểm soát tình hình nguy cấp của thj trường tài chính thế giới lúc đó. Nhiệm vụ đặt ra là phải tìm cách khôi phục lại niềm tin vào đồng đơm Mỹ. Walter Levy - chiến lược gia tài chính của Mỹ - đã đề xuất một kế hoạch táo bạo: thả nổi giá dầu mỏ thế giới, mặc giá tăng lên đến 400%, và hoạch định làm sao để thu được thắng lợi lớn từ việc này.
84 thành viên của các công ty dầu mỏ lớn và tập đoàn tài chính lớn đã tham gia hội nghị lần này. Kết luận mà Engdahl rút ra là:
Mục đích tập trung của những thế lực quyền quý này là để lập lại cân bằng quyền lực theo hướng có lợi về tài chính cho Mỹ cũng như tìm hướng phát triển cho đồng đô-la. Để đạt được mục đích này, họ quyết định lợi dụng vũ khí mà luôn được coi trọng nhất - quyền khống chế nguồn cung ứng dầu mỏ toàn cầu. Chính sách của câu lạc bộ Bilderberg chính là tạo nên cuộc cấm vận dầu mỏ toàn cầu, khiến cho giá dầu mỏ thế giới tăng vọt. Bắt đầu từ năm 1945. theo thông lệ quốc tế, dầu mỏ thế giới được định giá bằng đồng đô la Mỹ vì các công ty dầu mỏ của Mỹ đang khống chế thị trường này sau chiến tranh. Vì vậy, khi giá dầu thế giới đột ngột tăng lên cũng đồng nghĩa nhu cầu đổi đồng đô la Mỹ trên thế giới (dùng để mua dầu) cũng sẽ tăng, từ đó mà ổn định được giá trị tiền tệ của đồng đô la Mỹ.(6)
Còn Kissingger đã dùng hình ảnh "đồng đô la Mỹ chảy không ngừng vào dầu mỏ" để hình dung kết quả giá dầu thế giới leo thang.
Nguồn: - Song Hongbing, NXB Trẻ, 2008
(1) Richard Gardner, Foreign Affairs, 04/1974
(2) Bill Clinton, Diễn văn của Thống đốc bang Arkansas Bill Clinton tại Đại hội Đảng Dân chủ quốc gia, 16/07/1992
(3) Marc Fisher, Washington Post, số ra thứ Ba, 27/1/1998
(4) Pepe Escobar, Bilderberg lại tấn công (Bilderberg strikes again), Asia Times, 10/5/2005
(5) Sách đã dẫn
(6) William Engdahl, Một thế kỷ chiến tranh: Quan điểm chính trị dầu khí Anh-Mỹ và Trật tự thế giới mới (A Century of War: Anglo – American Oil Politics and The New World Order) – Pluto Press, London, 2004; chương 9.
Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) sự ra đời và bản chất của nó
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image010.jpg
"Tôi tư duy, nên tôi tồn tại" câu nói rất minh triết của nhà khoa học, nhà triết học và đồng thời là nhà toán học Pháp. Rene' Decartes, ông được xem là cha đẻ của nền triết học hiện đại. Lâu nay tôi luôn mê mẫn thuyết âm mưu (Conspiracy Theory). Nó giúp tôi tìm tòi, tự học và nhìn vấn đề phản biện ở góc độ khoa học trong mọi lĩnh vực. Tôi đã có 3 loạt bài về thuyết âm mưu(thuyết ngờ vực hay còn gọi là thuyết nghi ngờ). Hôm nay tôi thử nhìn FED (Federal Reserve System: Cục dự trữ liên bang Mỹ, Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ) xem sao? Dù tôi là người ngoại đạo của hệ thống ngân hàng tài chính. Có gì các bạn chuyên ngành tài chính ngân hàng góp ý giùm cho những cái sai, nếu có.
1. Bản chất của FED:
Năm 1913, mốc thời gian quan trọng mà ngân hàng trung ương Mỹ sau khi trãi qua nhiều cái tên khác nhau như: 1791-1811 là "First Bank of the United States"; 1811-1816 là "Central Bank"; 1816-1836 là "Second Bank of the United States"; 1837-1862 là "Free Banking Era"; 1863-1913 là "National Bank" và từ 1913 .(1)
Trước 1913, từ sau khi Mỹ tuyên bố độc lập khi tướng George Washington chiến thắng ở Massachusetts, dành quyền in giấy bạc về mình mà không lệ thuộc vào nước Anh - kẻ đô hộ nước Mỹ. Khoảng thời gian từ năm 1781-1791 FED có tên: The Bank of North America. Bản chất vốn của FED giai đoạn trước 1913 là của sự cộng tác về vốn của chính phủ Mỹ 20% và các tập đoàn tài phiệt của chấu Âu gồm có: Anh, Pháp, Đức, Italia và các nhà tài phiệt Hoa Kỳ nắm giữ 80% vốn.
Do suy thoái kinh tế toàn cầu 1907 có nguy cơ làm cho vai trò của các nhà tài phiệt bị mất đi sự thống lĩnh kinh tế toàn cầu, vì nó bộc lộ yếu kém trong điều hành kinh tế Mỹ và toàn cầu làm mất lòng dân chúng. Nên (2) đã được các nhà tài phiệt nắm 80% cổ phần FED có cuộc họp soạn thảo Dự luật mang tên thượng nghị sĩ Cộng Hòa vào ngày 22/11/1910, đương kim chủ tịch ủy ban tiền tệ quốc gia Hoa Kỳ lúc bấy giờ - (3) - Người có huyết thống với David Rockefeller, ông trùm tài phiệt Mỹ, vua dầu hỏa và là chủ tịch tập đoàn Standard Oil, được mệnh danh là người giàu nhất nước Mỹ.
Cuộc họp bắt đầu ngày 22/11/1910 và kéo dài 12 ngày, do quyết định của tổng thống thứ 26 Theodore Roosevelt (1901-1909) họ đã bỏ ra 2 năm đi chu du và nghiên cứu các hệ thống ngân hàng mà họ cho là tốt nhất thế giới lúc bấy giờ là Anh và Đức. Và được sự ủng hộ của tổng thống phe Dân Chủ thứ 28 (4), Dự Luật Nelson Aldrich được chính phủ Mỹ công nhận. Bắt đầu năm 1913 cái tên gọi FED được giữ cho đến nay.
Và cũng bắt đầu từ 1913, toàn bộ vốn của FED không có sự tham gia cổ phần của chính phủ mà do các tập đoàn tài phiệt nắm giữ. Họ nắm quyền in đồng Mỹ kim, cứ mỗi Mỹ kim chính phủ Mỹ phải trả họ 2cents từ tiền đóng thuế người dân. Và tùy theo thời điểm mà họ qui định bản vị vàng hay bản vị dầu cho những đồng Mỹ kim được in ra. Nên đồng Mỹ kim có chữ ký chứ không phải đồng tiền tín phiếu như đồng Yuan Trung Quốc và VNĐ của ta. Đây là một điểm độc đáo mà các quỹ dự trữ liên bang hay ngân hàng trung ương các nước trên thế giới không có được. Và cũng chính đây là đặc điểm mà FED có quyền năng tối thượng với kinh tế toàn cầu.
2. Những tập đoàn tài phiệt nắm giữ FED, họ là ai?
Nếu bạn nào có đọc cuốn sách hot năm 2009 ở Việt Nam của tác giả Song HongBing: " " (Currency Wars)(5) sẽ thấy câu nói nỗi tiếng của Meyer Rothschild ngay đầu chương 1: "Chỉ cần khống chế được quyền phát hành tiền tệ của một quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc bất cứ thứ pháp luật nào do ai đặt ra". Đây là ông tổ của hệ thống ngân hàng liên quốc gia hiện đại ngày nay. Gia tộc Rothschild là gia tộc đứng đằng sau giật dây, thiết kế, dàn dựng và tạo ra Dự luật Nelson W Aldrich đã nói ở trên để chiếm lấy FED về tay tư nhân mà chính phủ Mỹ đã phải ngậm đắng nuốt cay nhìn với con mắt bất lực, thèm thuồng.
2.1. Gia tộc Rothschild: Một đặc điểm gia tộc Rothschild là (6) có dòng họ người Do Thái định cư tại Đức. Mỗi khi nói đến gia tộc này cả thế giới nghĩ ngay đến quyền lực và tiền bạc. Gia tộc này đã xây dựng nên một hệ thống ngân hàng tư nhân và chi phối phần lớn thị trường tiền tệ châu Âu. Tên của gia tộc này gắn liền với 5 chi nhánh ngân hàng Rothschild ở 5 nơi là đầu tàu của châu Âu do 5 người con của Meyer Rothschild nắm giữ: Con trai cả Amschel của Meyer chuyên lo điều hành đại bản doanh M.A Rothschild & Sons của ngân hàng gia tộc Rothschild tại Frankfurt. Người con thứ hai, Salomon Rothschild, đi xây dựng chi nhánh khác của gia tộc ở Vienna-Áo (S.M Rothschild & Sons). Nathan, người thứ ba, là người thông minh, táo bạo và lạnh lùng nhất trong số 5 anh em, ông được cha điều từ Frankfurt đi khai phá chi nhánh ngân hàng Rothschild London vào năm 1798. Calmann, người con thứ tư xây dựng chi nhánh Napoli-Ý và con trai thứ 5 xây dựng chi nhánh thứ 5 tại Paris. Gia tộc này đã biết lợi dụng các cuộc chiến tranh ở châu Âu và chiến tranh thế giới để tạo dựng cơ đồ bằng sự thôn tính các ngân quỹ quốc gia ở châu Âu.
Sau đó gia tộc Rothschild thò vòi bạch tuộc sang đất Mỹ với đại diện là (1868-1932)(7), cũng là một người Đức gốc Do Thái, là cổ đông lớn công ty Kuhn Leoband Company tại New York. Ông này vào Mỹ năm 1904, nhưng mãi đến 1911 mới nhập tịch và tham gia vào cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll. Ông Paul Warburg có 4 anh em thì cả 4 đều có vị trí quan trọng: anh cả Max Warburg là cục trưởng cục tình báo Đức. Paul là thứ hai, người giữ chức chủ tịch FED đầu tiên của Mỹ, cũng là người nắm chức vụ về tài chính cao nhất Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Felix Warburg - em trai thứ ba có cổ đông cao trong Kuhn Leob Co. Người em út là Fritz - Nắm chủ tịch sở giao dịch vàng Hamburg-Đức. Gia tộc Rothschild không bao giờ ra mặt ở FED, nhưng họ đứng đằng sau FED kể từ trước 1913 và là kẻ thiết kế, dàn dựng, hình thành và tạo ra Dự luật Nelson W Aldrich từ khi họp ở Jekyll đến được chính phủ Mỹ thông qua.
Không ai biết gia tộc này giàu bao nhiêu? Nhưng so với Bill Gates, người giàu nhất thế giới hiện nay thì họ có số vốn gấp hơn nhiều lần. Nhưng không phương tiện truyền thông nào nhắc đến.
2.2. Gia tộc Rockefeller: Đại diện gia tộc Rockefeller là ngài (8), một người Mỹ sinh trưởng ở New York city, cháu nội duy nhất của triệu phú trùm dầu hỏa, người sáng lập ra Standard Oil - John D. Rockefeller. Tiếp quản tập đoàn dầu hỏa từ ông nội sau khi lấy tấm bằng PhD về kinh tế. David Rockfeller đã bành trướng lĩnh vực tham gia sang ngân hàng, người sáng lập và chủ Citigroup và ngay cả Chase Manhattan Bank của gia tộc Morgan ông cũng là một cổ đông lớn. Chính JP Morgan là người giúp cho gia tộc Rockefeller tiêu diệt toàn bộ đối thủ cạnh tranh với việc chuyên chở dầu giá rẻ đi khắp liên bang. Ông còn là nhân vật quan trọng trong lãnh đạo quốc gia. Một thời nước Mỹ xem ông là người giàu nhất nước Mỹ. Ông nội ông là một trong những thành viên tham gia cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll để soạn thảo ra Dự Luật Albrich. Người có huyết thống với ông. Hãy cứ nhìn hình ảnh Chu Ân Lai(9), thủ tướng Trung Quốc trong thời chiến tranh lạnh là đủ thấy ông có vai trò quan trọng như thế nào trong chính trường thế giới.
Lịch sử nhắc tới gia tộc Rockefeller như là người giàu nhất nước Mỹ bằng vào con đường đâm thuê chém mướn để dành lấy ngôi vị độc tôn dầu hỏa ở Mỹ từ thế hệ ông nội của David Rockefeller. Thì đến đời David Rockefeller, ông chủ với chủ sở hữu từ trùm dầu hỏa và một loạt ngân hàng, cũng như bàn tay lông lá quan trọng đến chính trường nước Mỹ. và thế giới. Nếu ai đã đọc Godfather thì có thể hiểu rằng gia tộc này đã đi lên bằng con đường như thế nào? Nhưng không ai biết tài sản của gia tộc này là bao nhiêu? Nhưng có lẽ, cỡ Bill Gates còn kém gấp nhiều lần.
2.3. Gia tộc JP Morgan: Đại diện gia tộc Morgan là ngài (10), cũng là một người Mỹ sinh ra và lớn lên ở Connecticut. Ông là trùm ngành công nghiệp Mỹ từ sắc thép đến truyền thông như AT&T, General Electric, cha để của dự án xây dựng hệ thống đường ray toàn nước Mỹ và những hãng bảo hiểm lớn nhất nước Mỹ. Gia tộc Morgan còn nắm 1 lượng lớn cổ phần của Cittigroup của gia tộc Rockfeller. Tập đoàn JP Morgan ước tính có tổng số tài sản tương đương với dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc năm 2009, khoảng 2,041 tỷ USD! Ông không tham gia cuộc họp bí mật ở đảo Jekyll, nhưng có trợ lý Benjamin Strong của ông. Ông mất năm 1913 tại Ý. Song tập đoàn JP Morgan mãi mãi trường tồn và lớn mạnh. Nhưng tiền thân của JP Morgan là đứa con được gia tộc Rothschild đỡ đầu từ hệ thống ngân hàng Merchant Bank do George Peabody và xây dựng một tiền đồn dài lâu cho cuộc tấn công vào thị trường tài chính của nước Mỹ!!!
2.4. Gia đình Carnegie: Đại diện gia dình này là ngài (11). Một trong những ông vua công nghiệp sắc thép của Pittsburgh, PA, nhà doanh nghiệp, người khai sinh môi giới tài chính và là một con người vì sự nghiệp giáo dục và bảo tàng của nước Mỹ. Ông đến Mỹ cùng cha từ Scotland. Ai đã từng quan tâm đến giáo dục Mỹ không thể không biết đến (12) do ông lập ra rất nỗi tiếng. Và còn bao nhiêu công trình vì cộng đồng do ông tạo nên. Ông được phong tặng là nhà từ tâm của nước Mỹ.
2.5. Một số thành viên khác: Ngoài những thành viên cộm cán trên. Một số thành viên tham gia cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll, ngày 22/11/1913 để quyết định đem FED về cho quyền lực ngầm tài phiệt tư nhân. Như (14), chủ tịch First National Bank. (15) cổ đông lớn của JP Morgan và là chủ tịch Liberty National Bank, chủ tịch chữ thập đỏ Mỹ. Và (16) chủ tịch National city Bank và là người từng cho chính phủ Mỹ mượn tiền trong cuộc chiến tranh lập quốc giữa Mỹ và Tây Ban Nha.
Ngoài ra còn có 2 thành viên chính phủ là Nelson Albrich, nhưng thực ra là gia đình của Rockefeller. A. Piatt Andrew, trợ lý bộ trưởng tài chính.
Qua đó, có một điều đáng quan tâm là FED là tư nhân hoàn toàn và không chỉ là của những nhà tài phiệt Mỹ. Họ là tập hợp của một NHÓM QUYỀN LỢI ăn chia tài chính với chính phủ Mỹ có 80% cổ phần trong FED. Sau đó đã gây áp lực với chính phủ Mỹ thông qua cho vay tài chính trong các cuộc chiến tranh để đi đến thâu tóm toàn bộ quyền lợi tài chính thế giới 100% về mình và trỡ thành QUYỀN LỢI NHÓM. Các thành viên tạo vốn cho FED có mặt ở toàn cầu. Mỗi hơi thở FED là sự sống hay cái chết kinh tế của toàn cầu.
PHẦN II: DỰ LUẬT ALDRICH VÀ SỰ SỐNG KINH TẾ TOÀN CẦU
Nước Mỹ là nơi những con người bỏ mẫu quốc ra đi để tìm một chân trời mới không theo những lề thói cũ của những cựu lục địa già nua. Những quốc phụ tạo nên nước Mỹ đã có những tấm lòng cao cả muốn xây dựng một thiên đường hạ giới cho miền đất mới. Nhưng vì lòng tham của con người đã làm thất vọng họ, dù họ đã cố gắng chống chọi bằng cách đưa ra nhiều đạo luật để bảo vệ tuyên ngôn nước Mỹ.
Lịch sử nước Mỹ có những trang đau buồn vì phân biệt chủng tộc, vì nội chiến etc... Nhưng có lẽ đau buồn nhất là sự thông qua đạo luật Nelson Aldrich vào ngày 23/12/1913 của tổng thống thuộc đảng Dân chủ thứ 28: Thomas Woodrow Wilson (1913-1921). Cái ngày mà người ta bảo rằng: Cho đến nay trong lịch sử 43 đời TT Mỹ, không có một tổng thống nào ký bất kỳ một dự luật nào một cách vội vã trước khi thiên chúa giáng sinh! Điều mà sau này chính ông cũng đã phải thốt lên đó là sai lầm của mình(1). Nhưng ông không thể làm khác vì chiếc ghế ông ngồi vào đã được định 2 năm trước khi tổng tuyển cử tổng thống nhiệm kỳ thứ 28. Và việc ông ký đạo luật Aldrich là việc ông phải làm một cách bất thường để trả lễ cho chiếc ghế quyền lực của mình vì những gì mà những ông trùm tài phiệt đã đánh bóng, loppy và đưa ông lên đỉnh vinh quang của sự nghiệp chính trị. Mặc dù trước ông, hai vị tiền nhiệm đã vì nhân dân Mỹ và nước Mỹ nên họ đã chạm vào thánh đường tiền tệ, mà họ phải đối diện với mưu sát: TT thứ 7: Andrew Jackson (1829-1837)(17) và TT thứ 16 bị ám sát: Abraham Lincoln (1861-1865)(18). Lịch sử nước Mỹ có 3 vị tổng thống muốn lấy quyền in tiền về chính phủ. Hai người vừa kể và người thứ 3 là TT thứ 35: John F. Kennedy (1961-1963)(19). Họ đều có hoặc cận kề với cái chết!
Như vậy, tại sao có đạo luật Aldrich? Nó ra đời như thế nào? Nó phục vụ cho ai? Và nó có vai trò gì với nước Mỹ và nhân loại?
A. Đạo luật Nelson Aldrich có gì?(20)
Hiến pháp Mỹ vì tính lịch sử mà có một lỗ hổng chết người là chính phủ chỉ phát hành tiền đồng kim loại, còn tiền giấy thì chỉ là tờ chứng nhận trao đổi. Nước Mỹ trước năm 1913, có 20% cổ phần trong ngân hàng trung ương như đã nói. Nhưng với 20% đó không đủ lực để chống chọi 80% còn lại khi từ nhóm quyền lợi họ kết dính nhau để trở thành quyền lợi nhóm. Chính điều này mà các cuộc suy thoái kinh tế và chiến tranh do các nhà tài phiệt đã nêu ra ở phần 1, tạo ra bằng cách thổi phồng cho vay lãi suất thấp, rồi thắt chặt tiền tệ nâng lãi suất thu hồi tiền về từ các con nợ. Đẩy con nợ vào cảnh bần cùng, bán nhà, bán đất, vô gia cư. Và làm cho chính phủ Mỹ lâm vào thế nợ nần chồng chất. Nên một cuộc cải tổ tài chính Mỹ đã được ông TT thứ 26 Theodore Roosevelt đề xuất và giao cho những nhà tài phiệt nghiên cứu và viết ra. Bộ óc khổng lồ với tư duy minh triết, uyên thâm lúc bấy giờ ngồi vào chấp bút là Paul Warburg. Người đại diện dòng học Rothschild tại Mỹ và đã lập ra một chân rết với gia tộc Rockefeller và JP Morton trước khi có cuộc âm mưu ở đảo Jekyll. Điều gì có lợi cho các tập đoàn tài phiệt đến ắt đến. Câu chuyện ngắn gọn ở phần 1, nói lên tất cả và từ đó mọi sức khỏe của kinh tế toàn cầu đã thuộc về tay các ông trùm tài phiệt trên toàn cầu.
Đạo luật Nelson Aldrich có mấy điều đáng chú ý:
1. FED(21) là ngân hàng tư nhân 100% hoàn toàn, chính phủ Mỹ không còn cổ phần trong FED. Một khi chính phủ muốn chi tiêu quá phần tiền thu thuế từ dân Mỹ thì chính phủ phải vay tiền từ FED thông qua FED in thêm tiền. Quốc hội có nhiệm vụ khống chế FED.
2. FED là tổ chức duy nhất được phép in tiền giấy Mỹ kim. Chính phủ Mỹ chỉ được phép đúc tiền đồng Mỹ kim từ giá trị <=$1. Mỗi lần FED in thêm tiền USD bao nhiêu thì chính phủ Mỹ hay nói cách khác là người dân Mỹ phải nợ FED bấy nhiêu.
3. FED gồm có 12 FED con nằm ở các tiểu bang: mỗi FED con là ngân hàng thương mại tư nhân ở địa phương. 12 FEd con có trụ sở ở: 1- Boston, 2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco, 7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và 12-Dallas. Theo đó các FED con đều có quyền in tiền giấy. Cứ theo thứ tự từ 1 đến 12 mà đánh vần theo alphabets thì A là FEd của Boston in ra, B là FED của New York in ra ...ký hiệu đầu serial ở trên tờ tiền. Nhưng FED New Yrok chiếm 53% cổ đông của FED liên bang.
4. Trung ương FED đặt ở Washington DC, nhưng mọi hoạt động làm khuynh đảo thế giới tài chính ở New York. Đây là một trò dối trá cùng với chia đều 12 FED con để vuốt ve nhóm miền Nam và người dân Mỹ sau những cuộc suy thoái do họ làm ra để moi từng đồng tiền từ túi dân nghèo.
5. Cơ cấu FED gồm một hội đồng quản trị có 7 thành viên:
+ Có 3 thành viên: Chủ tịch hội đồng quản trị FED (Chairman of the Goverment Board), Bộ trưởng tài chính (The Treasury Secretary) và Giám Sát Ngân Khố (the Comptroller of Treasury) là người của chính phủ.
+ Thành viên của hội đồng quản trị do tổng thống bổ nhiệm và thay thế. Nhưng mỗi nhiệm kỳ TT Mỹ chỉ được bổ nhiệm và thay thế 2 lần, mỗi lần chỉ 1 người với sự chấp thuận của thượng viện.
+ Nhưng chức năng của hội đồng quản trị FED do hội đồng tư vấn liên bang (Federal Advisory Council) khống chế, và cùng với hội đồng quản trị, Hội đồng tư vấn liên bang sẽ mở hội nghị thảo luận công việc.
+ Thành viên của hội đồng tư vấn liên bang sẽ do Chủ tịch hội đồng quản trị của 12 FED con quyết định. Nhưng đa số thành viên của hội đồng quản trị là do hiệp hội ngân hàng trực tiếp hoặc gián tiếp khống chế.
6. Đồng đô la Mỹ có thể co giãn theo tình hình và được tái chiết khấu. Và bắt đầu sau dự luật người dân Mỹ bắt đầu phải đóng thuế thu nhập (income tax).
Qua đó, chúng ta thấy có mấy điều quan trọng sau đây:
1. Cái gọi là Cục dự trữ liên bang Mỹ hình thức và hiện tượng là của chính phủ Mỹ. Nhưng bản chất là của các nhà tài phiệt đã nói ra ở phần 1. Một sự lấp liếm và lách luật tài tình của Paul Warburg - một tay Đức có nguồn gốc Do Thái.
2. Tước bỏ hoàn toàn chức năng in tiền giấy của chính phủ Mỹ kể từ ngay trước ngày thiên chúa giáng sinh năm 1913. Nhưng trên đồng tiền Mỹ kim vẫn tồn tại câu: "In God, We trust". Và kể từ đó, bao tờ tiền đô la xanh in ra là người dân Mỹ nợ FED bấy nhiêu.
3. Một sự che lấp quyền lực đằng sau hậu trường với người dân Mỹ và các nhóm tài chính miền Nam để khuynh đảo chính trường nước Mỹ và chỉ huy kinh tế, chính trị toàn cầu.
4. Hủy hoại lý tưởng cao cả của những con người có công khai sinh ra cái gọi là "Miền đất hứa", từ khi nước Mỹ chỉ là 13 bang lập quốc ban đầu tiên của 6 bang thuộc New England, 6 bang thuộc Mid Atlantic và Puerto Rico.
5. Cái điều cuối cùng lưu ý trong đạo luật Nelson Aldrich đã giúp cho FED được quyền làm tăng hay giảm giá đồng Mỹ kim và cũng cho phép các ngân hàng thương mại bơm tiền vào thị trường hay thu tiền vào lại ngân hàng một cách tự do để thổi phồng cái bong bóng kinh tế hoặc chích xì quả bóng tạo ra những cuộc suy thoái chủ động theo ý
viên hiện tại và trong quá khứ.
Tất cả những cuộc họp của CLB trên đều diễn ra trong điều kiện bí mật hoàn toàn theo những giấy mời cá nhân đặc biệt. Tất cả những vị khách đều tới địa điểm họp một mình, không được mang theo bất cứ một trợ lý, vệ sĩ, bạn bè hay người nhà nào. Theo nguyên tắc, các đại biểu bị ngăn cấm các hình thức ghi chép, đưa ra tuyên bố với báo chí hay bàn luận về nội dung họp với người bên ngoài.
Bất chấp những đặc điểm cực kỳ bí mật như vậy, mỗi một cuộc gặp của CLB Bilderberg đều thu hút được sự chú ý đặc biệt. Đơn giản là báo chí và công chúng không thể bỏ qua sự kiện thu hút một số lượng lớn những nhân vật nổi tiếng và có ảnh hưởng cùng tới một địa điểm nào đó. Cũng chính vì đặc điểm quá bí mật trên, hoạt động của CLB Bilderberg đã làm nảy sinh không ít những giả thuyết khác nhau, đa phần trong số này đều cho rằng các thành viên CLB đang bí mật điều hành cả thế giới.
Một số nhà quan sát còn cho rằng, chính cơ quan mật vụ Mỹ là người khởi xướng trực tiếp cho việc hình thành CLB này. Theo đó, những người sáng lập thực sự chính là nam tước Edmund Rothschild và Laurance Rockefeller, những thành viên đầu tiên của CLB. Cũng theo khẳng định của nhà quan sát này, một trong những mục tiêu chính được đặt ra ngay sau khi thành lập CLB chính là xây dựng một siêu quốc gia của toàn châu Âu với ngân hàng Trung ương, tiền tệ thống nhất dưới sự kiểm soát của Mỹ. Còn mục tiêu cuối cùng là thành lập một chính phủ liên quốc gia có quy mô toàn cầu.
Năm nay, sự chú ý của toàn thế giới lại tập trung vào thị trấn nghỉ mát Sitges gần Barcelona (Tây Ban Nha), nơi được chọn làm địa điểm gặp gỡ lần này của các thành viên CLB Bilderger. Ngay trước cuộc gặp này, một trong những nhà nghiên cứu nổi tiếng nhất về CLB trên là Daniel Estulin đã khẳng định, ông biết về các chủ đề sẽ được bàn bạc trong cuộc gặp lần này. Chủ đề hàng đầu trong số này chính là tương lai của đồng euro. “Họ sợ sẽ có một vài nước rút khỏi khu vực đồng euro, khiến đồng tiền này sẽ bị chết yểu – Estulin giải thích – Nguy cơ các nước quay trở lại với chính sách định hướng dân tộc chính là một cơn ác mộng đối với họ”.
Giả thuyết trên có thể được lý giải bằng sự hiện diện và phát biểu của Thủ tướng Tây Ban Nha Luis Zapatero. Hiện các nước trong nhóm PIIGS – gồm Bồ Đào Nha, Ailen, Italia, Hy Lạp và Tây Ban Nha – đang gây ra những lo ngại thực sự cho các thành viên CLB Bilderger. Họ lo ngại tình trạng yếu đi của đồng euro có thể sẽ khơi mào cho một làn sóng khủng hoảng toàn cầu mới, có thể dẫn tới những biến đổi nghiêm trọng về tình hình chính trị trên toàn cầu.
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image002.jpgHiện cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger (87 tuổi) và cựu Chủ tịch David Rockerfeller của Chase Manhattan Bank là những thành viên nhiều tuổi nhất của CLB. Còn trong danh sách những nhân vật được mời trong năm đã xuất hiện những nhân vật tương đối trẻ, chẳng ahnj như Bộ trưởng Tài chính Anh George Osborn (39 tuổi).
Những người chống đối tổ chức này tin rằng, bên trong Bilderberg chính là một âm mưu từ lâu nay của các ông trùm tư bản nhằm chống lại loài người. Có không ít những nhà hoạt động chống lại CLB Bildergerg đã tụ tập tại Sitges. Ngoài hoạt động biểu tình phản đối, họ hy vọng còn có thể khai thác được thông tin giúp làm rõ được những kế hoạch bí mật của hội kín trên.
Tập đoàn tinh anh thống trị thế giới
Ngày 16 tháng 7 năm 1992, ngay sau khi được đề cử cho cuộc tranh cử tổng thống tại đại hội đảng Dân chủ, Clinton đã phát biểu hết sức dõng dạc về tinh thần đoàn kết, lý tưởng, nhân dân và đất nước bằng những lời chẳng có gì mới mẻ. Nhưng khi kết thúc bài diễn văn, đột nhiên Clinlon nhắc đến người thầy của mình - vị giáo sư sử học nổi tiếng nhất nước Mỹ giảng dạy tại Đại học Georgetown, Carroll Quigley. Ảnh hưởng của Carroll Quigley đối với Clinton được chính Clinton ví như sự ảnh hưởng của Tổng thống Kennedy đối với ông ta vậy(2) Và trong suốt thời gian làm tổng thống sau này của mình, Clinton đã nhiều lần nhắc đến tên của Carroll Quigley. Vậy chủ trương gì của Carroll Quigley đã khiến cho Clinton phải khắc cốt ghi tâm đến thế?
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image004.jpgThực ra, Quigley là một nhân vật có ảnh hưởng lớn trong việc nghiên cứu tổ chức tinh anh bí mật Anh - Mỹ. Ông luôn cho rằng những tổ chức bí mật này đã có ảnh hưởng quyết định đến hầu hết mọi sự kiện trọng đại trên thế giới.
Tốt nghiệp Đại học Harvard, giáo sư Quigley từng đảm nhận các vị trí ở Cục Tham mưu Brooklings, Bộ Quốc phòng, Bộ Hải quân Mỹ và có mối quan hệ rất mật thiết với các quan chức cấp cao trong Cục Tình báo Trung ương. Với vai trò của một "người trong cuộc", Quigley đã từng tiếp xúc với rất nhiều tài liệu lịch sử và hồ sơ tuyệt mật. Tuy nhiên, ông không tỏ ra là người chống đối "lý tưởng" mà số rất ít các tinh anh thống trị của Anh - Mỹ đã sắp đặt ra cho toàn thế giới, mà chỉ luôn giữ thái độ "bảo lưu" đối với một số cách làm cụ thể trong đó, rồi thêm vào đó là những nhận xét đầy hàm ý trong các nghiên cứu của mình. Chính thái độ đó nên ông không hề gặp phải sự "thắc mắc" nào của các học giả thuộc dòng "chủ lưu". Ngoài ra, với hơn 20 năm làm công việc nghiên cứu, được tiếp xúc với một lượng lớn các hồ sơ lịch sử tuyệt mật nên ông được giới sử học Mỹ đánh giá cao. Chính những điều đó khiến ông hiếm có đối thủ khiêu chiến. Chỉ cần học thuyết của ông không nguy hiểm cho giới cầm quyền thì những người trong nhóm tinh anh cũng sẽ chẳng việc gì phải đụng đến ông.
Tốt nhất là chúng ta nên thiết lập một “lâu đài trật tự thế giới” từ dưới lên, chứ không phải là xây ngược lại từ trên xuống. Bởi rốt cuộc thì cái gọi là chủ quyển quốc gia có thể dùng biện pháp xâm chiếm từng bước để giành được. Việc làm này sẽ cho phép chúng ta đạt được mục đích của mình nhanh hơn so với những cách làm cũ. (1)
Richard Garner – Tạp chí “Các vấn đề quan hệ quốc tế”, tháng 4 năm 1974
Theo quan điểm của giáo sư Quigley, Viện Hoàng gia về các vấn đề Quốc tế ở Anh, Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ (CFR), nhóm Bilderberg, ủy ban ba bên (Trilateral Com mission) rõ ràng là những tổ chức hạt nhân của câu lạc bộ tinh anh luôn muốn thao túng cục diện thế giới. Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ có 3.600 thành viên, tương đương với "trường đảng trung ương" của Mỹ. Và việc gia nhập vào tổ chức này thì cũng giống như việc bước vào đại sảnh của chính giới Mỹ hay cơ hội để trở thành người hoạch định chính sách của thế giới tương lai. Nhóm Bilderberg kết hợp thêm các phần tử tỉnh anh của châu âu, còn ủy ban ba bên có đen 325 thành viên, lại thêm các phần tử tinh anh của Nhật Bản và các quốc gia chầu Á khác. Tất cả những thành viên có tiếng nói trong Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ thì thường là thành viên của các tổ chức khác. Các nhân vật tinh anh trong những tổ chức này bao gồm những nhân vật có thế lực đủ để làm xoay chuyển cục diện thế giới như Henry Kissinger - cựu Bộ trưởng ngoại giao Mỹ, D. Rockefeller của ủy ban quốc tế JP Morgan, Nelson Aldrich Rockefeller, hoàng tử Phillip của Anh, McNamara - Bộ trưởng quốc phòng Mỹ thời Tổng thống Kennedy và sau này là Giám đốc điều hành của Ngân hàng thế giới, bà Thatcher - cựu Thủ tướng Anh, Valéry Giscard d'Estaing - cựu Tổng thống Pháp (chính là người đã lên kế hoạch cốt yếu về hiến pháp châu Âu), Donald Rumsfeld - Bộ trưởng quốc phòng Mỹ, Brzezinski - cựu cố vấn an ninh quốc gia, Alan Greenspan - Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, và Keynes - nhân vật nổi tiếng trong giới ngân hàng một thời. Ông chủ Ngân hàng quốc tế chính là ông chủ đứng đằng sau tất cả những tổ chức này. Dòng họ Rothschild đã chủ từ rất nhiều hội nghị của Bilderberg. Năm 1962 và năm 1973, hội nghị Bilderberg diễn ra ở địa điểm nghỉ mát nổi tiếng ở Thụy Điển do dòng họ Warburg đứng ra tổ chức.
Thời đại học, dưới sự hướng dẫn và chỉ bảo của giáo sư Quigley, Clinton đã nhận ra rằng, nếu muốn hiển danh trong chính giới thì không chỉ cần nỗ lực phấn đấu mà còn phải trở thành một thành viên trong guồng máy quyền lực.
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image006.jpgQuả nhiên, sau này Clinton đã gia nhập ủy ban ba bên và Hội đồng Quan hệ Quốc tế đồng thời tham gia lớp "học giả Rhodes" - một nơi chuyên đào tạo, bồi dưỡng nên những "cán bộ" quan trọng của "chính phủ thế giới" trong tương lai. Năm 1989, Clinton đã gia nhập Hội đồng Quan hệ Quốc tế Và tới năm 1991, khi giữ chức Thống đốc bang Arkansas, Clinton đã xuất hiện tại hội nghị thường niên của nhóm Bilderberg tổ chức tại Đức. Phải thừa nhận rằng đã có rất nhiều thống đốc các bang lớn ở Mỹ rất muốn tham gia cuộc "tụ hội tinh anh siêu cấp" này. Và chỉ sau một năm, Bill Clinton - Thống đốc bang Arkansas xa xôi chẳng mấy tiếng tăm - đã đột nhiên đánh bại nhiều chính trị gia cáo già để lên làm Tổng thống. Đó chính là lý do vì sao Clinton luôn khác cốt ghi tâm những lời chỉ bảo của giáo sư Quigley.
Câu lạc bộ Bilderberg
Nếu như những năm đó công khai mọi điều cho công chúng biết thì chúng ta đã không thể hoạch định kế hoạch phát triển cho thế giới. Mà hiện nay, thế giới ngày càng phức tạp, còn chúng ta thì chuẩn bị tiến bước mạnh mẽ để trở thành chính phủ thế giới. Bởi những người nắm giữ chủ quyền siêu quốc gia đều là các tầng lớp ưu tú và các ông chủ ngân hàng thế giới nên điều tốt hơn là chúng ta nên tổ chức lấy quyền tự quyết quốc gia trong thực tế hơn là cách làm cũ trong quá khứ như nhiều thế kỷ trước.(4)
John Davison Rockefeller, năm 1991
Câu lạc bộ Bilderberg được lấy tên từ một khách sạn của Hà Lan, do ông hoàng người Hà Lan, Bernhard sáng lập vào năm 1954. Câu lạc bộ Bilđerberg là "phiên bản quốc tế" của Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ, do các nhà tài phiệt ngân hàng, chính trị gia, lãnh đạo doanh nghiệp, các nhà báo và các học giả nổi tiếng tạo nên. Tất cả các thành viên này đều do Rothschild và Rockefeller chọn ra. Trong đó rất nhiều người còn là thành viên của Hội đồng Quan hệ Quốc tế Mỹ, hiệp hội Pilgrims Society, hiệp hội bàn tròn, và cả Ủy ban ba bên. Câu lạc bộ Bilderberg này hầu như đã kiểm soát hết toàn bộ hệ thống tổ chức của hiệp hội châu Âu hiện có trong liên minh châu Âu. Mục đích cuối cùng của họ chính là xây dựng một chính phủ thế giới. (5)
Cuộc họp đầu tiên của CLB tại Hà Lan, 1954
Đặc điểm hoạt động lớn nhất của tổ chức này chính là "bí mật".file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image008.jpgCơ quan đầu não của tổ chức này đặt tại Leiden thuộc miền tây Hà Lan, có cả số điện thoại nhưng lại không có mạng lưới. Chỉ rất ít các thám tử tự do như Tony Gosling của Anh hay James Tucker của Mỹ phải mất rất nhiều công sức và cả sự mưu trí mới có thể thu thập được những thông tin có liên quan đến địa điểm và lịch trình hội nghị của câu lạc bộ này. Suốt 30 năm, Tucker đã theo dõi câu lạc bộ này và cuối cùng đã xuất bản một cuốn sách nói về nó. Còn nhà sử học Pierre de Villemarest và William Wolf đã cộng tác cùng nhau để xuất bản cuốn sách "Facts and Chronicles Denied to the Public", trong đó tập 1 và 2 đã miêu tả lịch sử phát triển bí mật của câu lạc bộ Bilderberg. Một cuốn sách khác do nhà xã hội học Geoffrey Geuens của Vương quốc Bỉ viết cũng có một chương tập trung miêu tả về câu lạc bộ này.
Etienne Davignon - cựu Phó chủ tịch ủy ban châu Âu, thành viên của câu lạc bộ Bilderberg - đã khẳng định rằng: “Đây không phải là âm mưu thao túng thế giới của các nhà tư bản”. Còn Thierry de Montbrial - Viện trưởng Học viện quan hệ quốc tế Pháp, gia nhập câu lạc bộ này đã gần 30 năm thì nói rằng, đây chẳng qua chỉ là một “câu lạc bộ” mà thôi. Sở dĩ những người này có những lời phát biểu như trên vì trong thông báo chính thức hội nghị năm 2002 của câu lạc bộ Bilderberg có đoạn nêu: “hoạt động duy nhất của câu lạc bộ là tiến hành hội nghị thường niên. Hội nghị này không đề ra bất cứ nghị quyết nào, cũng không tiến hành bỏ phiếu, không phát biểu thanh minh bất cứ chính sách nào.” Và câu lạc bộ Bilderberg chỉ là “một diễn đàn quốc tế nhỏ linh hoạt không chính thức. Các đại biểu tham gia hội nghị có thể phát biểu mọi quan điểm khác nhau, để tăng cường hiểu biết giữa các bên.”
Nhưng theo Will Hutton - nhà kinh tế học người Anh thì “ý kiến thống nhất đạt được trong mỗi lần hội nghị của câu lạc bộ Bilderberg" chính là đoạn mở đầu lập ra chính sách thế giới”. Cách nói của ông thể hiện sự tiếp cận với sự thật ở mức độ tương đối bởi những quyết định được đưa ra tại hội nghị của câu lạc bộ Bilderberg về sau đều dần trở thành phương châm định trước của các nước thuộc hiệp hội G8, Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới.
Đối với câu lạc bộ Bilderberg, giới truyền thông luôn tỏ ra im lặng và phục tùng. Năm 2005, tờ Financial Times đưa tin trước rồi sau đó giải quyết theo hướng làm giảm nhẹ "thuyết âm mưu" đang gây xôn xao dư luận. Trên thực tế, bất cứ ai có chất vấn hay nghi ngờ người của câu lạc bộ hùng mạnh nhất thế giới này đều sẽ bị biến thành đối tượng bị đàm tiếu trong các "tác phẩm" của những phê bình lý luận. Các thành viên của câu lạc bộ Bilderberg như các nghị sĩ Anh hoặc những quan chức cao cấp Mỹ thì đều nói rằng, chẳng qua đó chỉ là một nơi để bàn luận vấn đề, một diễn đàn mà người người đều có thể "tự do phát biểu ý kiến".
F. William Engdahl, tác giả cuốn "Cuộc chiến trăm năm: chính trị dầu mỏ Anh - Mỹ và cuộc đại chiến thế giới mới", đã giải thích tỉ mỉ một đoạn bí mật mà rất ít người biết từng xảy ra trong hội nghị Bilderberg khi được tổ chức ở Thụy Điển năm 1973.
Trong những năm đầu sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ, vị thế của đồng đô la Mỹ đã rơi vào khủng hoảng chưa từng thấy trên phạm vi toàn thế giới. Sau khi tách khỏi vàng, sợi dây diều uy tín và giá trị của đồng đô la Mỹ đã bị cắt đứt và bị cuốn trôi đi theo gió trong cơn bão táp tài chính thế giới. Vì vẫn còn chưa bàn xong kế hoạch chuẩn bị cho hệ thống tiền tệ thế giới, các ông chủ ngân hàng quốc tế cũng trở nên bối rối. Chính sách "quyền rút vốn đặc biệt" được đề ra “long trọng” trên thị trường tài chính quốc tế năm 1969 nhưng chẳng ai đếm xỉa đến. Thấy sắp mất quyền kiểm soát, các ông chủ ngân hàng quốc tế đã vội triệu tập một hội thảo khẩn cấp trong hội nghị Bilderberg năm 1973 nhằm giành lại quyền kiểm soát tình hình nguy cấp của thj trường tài chính thế giới lúc đó. Nhiệm vụ đặt ra là phải tìm cách khôi phục lại niềm tin vào đồng đơm Mỹ. Walter Levy - chiến lược gia tài chính của Mỹ - đã đề xuất một kế hoạch táo bạo: thả nổi giá dầu mỏ thế giới, mặc giá tăng lên đến 400%, và hoạch định làm sao để thu được thắng lợi lớn từ việc này.
84 thành viên của các công ty dầu mỏ lớn và tập đoàn tài chính lớn đã tham gia hội nghị lần này. Kết luận mà Engdahl rút ra là:
Mục đích tập trung của những thế lực quyền quý này là để lập lại cân bằng quyền lực theo hướng có lợi về tài chính cho Mỹ cũng như tìm hướng phát triển cho đồng đô-la. Để đạt được mục đích này, họ quyết định lợi dụng vũ khí mà luôn được coi trọng nhất - quyền khống chế nguồn cung ứng dầu mỏ toàn cầu. Chính sách của câu lạc bộ Bilderberg chính là tạo nên cuộc cấm vận dầu mỏ toàn cầu, khiến cho giá dầu mỏ thế giới tăng vọt. Bắt đầu từ năm 1945. theo thông lệ quốc tế, dầu mỏ thế giới được định giá bằng đồng đô la Mỹ vì các công ty dầu mỏ của Mỹ đang khống chế thị trường này sau chiến tranh. Vì vậy, khi giá dầu thế giới đột ngột tăng lên cũng đồng nghĩa nhu cầu đổi đồng đô la Mỹ trên thế giới (dùng để mua dầu) cũng sẽ tăng, từ đó mà ổn định được giá trị tiền tệ của đồng đô la Mỹ.(6)
Còn Kissingger đã dùng hình ảnh "đồng đô la Mỹ chảy không ngừng vào dầu mỏ" để hình dung kết quả giá dầu thế giới leo thang.
Nguồn: - Song Hongbing, NXB Trẻ, 2008
(1) Richard Gardner, Foreign Affairs, 04/1974
(2) Bill Clinton, Diễn văn của Thống đốc bang Arkansas Bill Clinton tại Đại hội Đảng Dân chủ quốc gia, 16/07/1992
(3) Marc Fisher, Washington Post, số ra thứ Ba, 27/1/1998
(4) Pepe Escobar, Bilderberg lại tấn công (Bilderberg strikes again), Asia Times, 10/5/2005
(5) Sách đã dẫn
(6) William Engdahl, Một thế kỷ chiến tranh: Quan điểm chính trị dầu khí Anh-Mỹ và Trật tự thế giới mới (A Century of War: Anglo – American Oil Politics and The New World Order) – Pluto Press, London, 2004; chương 9.
Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) sự ra đời và bản chất của nó
file:///C:\Users\CAMVU\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image010.jpg
"Tôi tư duy, nên tôi tồn tại" câu nói rất minh triết của nhà khoa học, nhà triết học và đồng thời là nhà toán học Pháp. Rene' Decartes, ông được xem là cha đẻ của nền triết học hiện đại. Lâu nay tôi luôn mê mẫn thuyết âm mưu (Conspiracy Theory). Nó giúp tôi tìm tòi, tự học và nhìn vấn đề phản biện ở góc độ khoa học trong mọi lĩnh vực. Tôi đã có 3 loạt bài về thuyết âm mưu(thuyết ngờ vực hay còn gọi là thuyết nghi ngờ). Hôm nay tôi thử nhìn FED (Federal Reserve System: Cục dự trữ liên bang Mỹ, Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ) xem sao? Dù tôi là người ngoại đạo của hệ thống ngân hàng tài chính. Có gì các bạn chuyên ngành tài chính ngân hàng góp ý giùm cho những cái sai, nếu có.
1. Bản chất của FED:
Năm 1913, mốc thời gian quan trọng mà ngân hàng trung ương Mỹ sau khi trãi qua nhiều cái tên khác nhau như: 1791-1811 là "First Bank of the United States"; 1811-1816 là "Central Bank"; 1816-1836 là "Second Bank of the United States"; 1837-1862 là "Free Banking Era"; 1863-1913 là "National Bank" và từ 1913 .(1)
Trước 1913, từ sau khi Mỹ tuyên bố độc lập khi tướng George Washington chiến thắng ở Massachusetts, dành quyền in giấy bạc về mình mà không lệ thuộc vào nước Anh - kẻ đô hộ nước Mỹ. Khoảng thời gian từ năm 1781-1791 FED có tên: The Bank of North America. Bản chất vốn của FED giai đoạn trước 1913 là của sự cộng tác về vốn của chính phủ Mỹ 20% và các tập đoàn tài phiệt của chấu Âu gồm có: Anh, Pháp, Đức, Italia và các nhà tài phiệt Hoa Kỳ nắm giữ 80% vốn.
Do suy thoái kinh tế toàn cầu 1907 có nguy cơ làm cho vai trò của các nhà tài phiệt bị mất đi sự thống lĩnh kinh tế toàn cầu, vì nó bộc lộ yếu kém trong điều hành kinh tế Mỹ và toàn cầu làm mất lòng dân chúng. Nên (2) đã được các nhà tài phiệt nắm 80% cổ phần FED có cuộc họp soạn thảo Dự luật mang tên thượng nghị sĩ Cộng Hòa vào ngày 22/11/1910, đương kim chủ tịch ủy ban tiền tệ quốc gia Hoa Kỳ lúc bấy giờ - (3) - Người có huyết thống với David Rockefeller, ông trùm tài phiệt Mỹ, vua dầu hỏa và là chủ tịch tập đoàn Standard Oil, được mệnh danh là người giàu nhất nước Mỹ.
Cuộc họp bắt đầu ngày 22/11/1910 và kéo dài 12 ngày, do quyết định của tổng thống thứ 26 Theodore Roosevelt (1901-1909) họ đã bỏ ra 2 năm đi chu du và nghiên cứu các hệ thống ngân hàng mà họ cho là tốt nhất thế giới lúc bấy giờ là Anh và Đức. Và được sự ủng hộ của tổng thống phe Dân Chủ thứ 28 (4), Dự Luật Nelson Aldrich được chính phủ Mỹ công nhận. Bắt đầu năm 1913 cái tên gọi FED được giữ cho đến nay.
Và cũng bắt đầu từ 1913, toàn bộ vốn của FED không có sự tham gia cổ phần của chính phủ mà do các tập đoàn tài phiệt nắm giữ. Họ nắm quyền in đồng Mỹ kim, cứ mỗi Mỹ kim chính phủ Mỹ phải trả họ 2cents từ tiền đóng thuế người dân. Và tùy theo thời điểm mà họ qui định bản vị vàng hay bản vị dầu cho những đồng Mỹ kim được in ra. Nên đồng Mỹ kim có chữ ký chứ không phải đồng tiền tín phiếu như đồng Yuan Trung Quốc và VNĐ của ta. Đây là một điểm độc đáo mà các quỹ dự trữ liên bang hay ngân hàng trung ương các nước trên thế giới không có được. Và cũng chính đây là đặc điểm mà FED có quyền năng tối thượng với kinh tế toàn cầu.
2. Những tập đoàn tài phiệt nắm giữ FED, họ là ai?
Nếu bạn nào có đọc cuốn sách hot năm 2009 ở Việt Nam của tác giả Song HongBing: " " (Currency Wars)(5) sẽ thấy câu nói nỗi tiếng của Meyer Rothschild ngay đầu chương 1: "Chỉ cần khống chế được quyền phát hành tiền tệ của một quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc bất cứ thứ pháp luật nào do ai đặt ra". Đây là ông tổ của hệ thống ngân hàng liên quốc gia hiện đại ngày nay. Gia tộc Rothschild là gia tộc đứng đằng sau giật dây, thiết kế, dàn dựng và tạo ra Dự luật Nelson W Aldrich đã nói ở trên để chiếm lấy FED về tay tư nhân mà chính phủ Mỹ đã phải ngậm đắng nuốt cay nhìn với con mắt bất lực, thèm thuồng.
2.1. Gia tộc Rothschild: Một đặc điểm gia tộc Rothschild là (6) có dòng họ người Do Thái định cư tại Đức. Mỗi khi nói đến gia tộc này cả thế giới nghĩ ngay đến quyền lực và tiền bạc. Gia tộc này đã xây dựng nên một hệ thống ngân hàng tư nhân và chi phối phần lớn thị trường tiền tệ châu Âu. Tên của gia tộc này gắn liền với 5 chi nhánh ngân hàng Rothschild ở 5 nơi là đầu tàu của châu Âu do 5 người con của Meyer Rothschild nắm giữ: Con trai cả Amschel của Meyer chuyên lo điều hành đại bản doanh M.A Rothschild & Sons của ngân hàng gia tộc Rothschild tại Frankfurt. Người con thứ hai, Salomon Rothschild, đi xây dựng chi nhánh khác của gia tộc ở Vienna-Áo (S.M Rothschild & Sons). Nathan, người thứ ba, là người thông minh, táo bạo và lạnh lùng nhất trong số 5 anh em, ông được cha điều từ Frankfurt đi khai phá chi nhánh ngân hàng Rothschild London vào năm 1798. Calmann, người con thứ tư xây dựng chi nhánh Napoli-Ý và con trai thứ 5 xây dựng chi nhánh thứ 5 tại Paris. Gia tộc này đã biết lợi dụng các cuộc chiến tranh ở châu Âu và chiến tranh thế giới để tạo dựng cơ đồ bằng sự thôn tính các ngân quỹ quốc gia ở châu Âu.
Sau đó gia tộc Rothschild thò vòi bạch tuộc sang đất Mỹ với đại diện là (1868-1932)(7), cũng là một người Đức gốc Do Thái, là cổ đông lớn công ty Kuhn Leoband Company tại New York. Ông này vào Mỹ năm 1904, nhưng mãi đến 1911 mới nhập tịch và tham gia vào cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll. Ông Paul Warburg có 4 anh em thì cả 4 đều có vị trí quan trọng: anh cả Max Warburg là cục trưởng cục tình báo Đức. Paul là thứ hai, người giữ chức chủ tịch FED đầu tiên của Mỹ, cũng là người nắm chức vụ về tài chính cao nhất Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Felix Warburg - em trai thứ ba có cổ đông cao trong Kuhn Leob Co. Người em út là Fritz - Nắm chủ tịch sở giao dịch vàng Hamburg-Đức. Gia tộc Rothschild không bao giờ ra mặt ở FED, nhưng họ đứng đằng sau FED kể từ trước 1913 và là kẻ thiết kế, dàn dựng, hình thành và tạo ra Dự luật Nelson W Aldrich từ khi họp ở Jekyll đến được chính phủ Mỹ thông qua.
Không ai biết gia tộc này giàu bao nhiêu? Nhưng so với Bill Gates, người giàu nhất thế giới hiện nay thì họ có số vốn gấp hơn nhiều lần. Nhưng không phương tiện truyền thông nào nhắc đến.
2.2. Gia tộc Rockefeller: Đại diện gia tộc Rockefeller là ngài (8), một người Mỹ sinh trưởng ở New York city, cháu nội duy nhất của triệu phú trùm dầu hỏa, người sáng lập ra Standard Oil - John D. Rockefeller. Tiếp quản tập đoàn dầu hỏa từ ông nội sau khi lấy tấm bằng PhD về kinh tế. David Rockfeller đã bành trướng lĩnh vực tham gia sang ngân hàng, người sáng lập và chủ Citigroup và ngay cả Chase Manhattan Bank của gia tộc Morgan ông cũng là một cổ đông lớn. Chính JP Morgan là người giúp cho gia tộc Rockefeller tiêu diệt toàn bộ đối thủ cạnh tranh với việc chuyên chở dầu giá rẻ đi khắp liên bang. Ông còn là nhân vật quan trọng trong lãnh đạo quốc gia. Một thời nước Mỹ xem ông là người giàu nhất nước Mỹ. Ông nội ông là một trong những thành viên tham gia cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll để soạn thảo ra Dự Luật Albrich. Người có huyết thống với ông. Hãy cứ nhìn hình ảnh Chu Ân Lai(9), thủ tướng Trung Quốc trong thời chiến tranh lạnh là đủ thấy ông có vai trò quan trọng như thế nào trong chính trường thế giới.
Lịch sử nhắc tới gia tộc Rockefeller như là người giàu nhất nước Mỹ bằng vào con đường đâm thuê chém mướn để dành lấy ngôi vị độc tôn dầu hỏa ở Mỹ từ thế hệ ông nội của David Rockefeller. Thì đến đời David Rockefeller, ông chủ với chủ sở hữu từ trùm dầu hỏa và một loạt ngân hàng, cũng như bàn tay lông lá quan trọng đến chính trường nước Mỹ. và thế giới. Nếu ai đã đọc Godfather thì có thể hiểu rằng gia tộc này đã đi lên bằng con đường như thế nào? Nhưng không ai biết tài sản của gia tộc này là bao nhiêu? Nhưng có lẽ, cỡ Bill Gates còn kém gấp nhiều lần.
2.3. Gia tộc JP Morgan: Đại diện gia tộc Morgan là ngài (10), cũng là một người Mỹ sinh ra và lớn lên ở Connecticut. Ông là trùm ngành công nghiệp Mỹ từ sắc thép đến truyền thông như AT&T, General Electric, cha để của dự án xây dựng hệ thống đường ray toàn nước Mỹ và những hãng bảo hiểm lớn nhất nước Mỹ. Gia tộc Morgan còn nắm 1 lượng lớn cổ phần của Cittigroup của gia tộc Rockfeller. Tập đoàn JP Morgan ước tính có tổng số tài sản tương đương với dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc năm 2009, khoảng 2,041 tỷ USD! Ông không tham gia cuộc họp bí mật ở đảo Jekyll, nhưng có trợ lý Benjamin Strong của ông. Ông mất năm 1913 tại Ý. Song tập đoàn JP Morgan mãi mãi trường tồn và lớn mạnh. Nhưng tiền thân của JP Morgan là đứa con được gia tộc Rothschild đỡ đầu từ hệ thống ngân hàng Merchant Bank do George Peabody và xây dựng một tiền đồn dài lâu cho cuộc tấn công vào thị trường tài chính của nước Mỹ!!!
2.4. Gia đình Carnegie: Đại diện gia dình này là ngài (11). Một trong những ông vua công nghiệp sắc thép của Pittsburgh, PA, nhà doanh nghiệp, người khai sinh môi giới tài chính và là một con người vì sự nghiệp giáo dục và bảo tàng của nước Mỹ. Ông đến Mỹ cùng cha từ Scotland. Ai đã từng quan tâm đến giáo dục Mỹ không thể không biết đến (12) do ông lập ra rất nỗi tiếng. Và còn bao nhiêu công trình vì cộng đồng do ông tạo nên. Ông được phong tặng là nhà từ tâm của nước Mỹ.
2.5. Một số thành viên khác: Ngoài những thành viên cộm cán trên. Một số thành viên tham gia cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll, ngày 22/11/1913 để quyết định đem FED về cho quyền lực ngầm tài phiệt tư nhân. Như (14), chủ tịch First National Bank. (15) cổ đông lớn của JP Morgan và là chủ tịch Liberty National Bank, chủ tịch chữ thập đỏ Mỹ. Và (16) chủ tịch National city Bank và là người từng cho chính phủ Mỹ mượn tiền trong cuộc chiến tranh lập quốc giữa Mỹ và Tây Ban Nha.
Ngoài ra còn có 2 thành viên chính phủ là Nelson Albrich, nhưng thực ra là gia đình của Rockefeller. A. Piatt Andrew, trợ lý bộ trưởng tài chính.
Qua đó, có một điều đáng quan tâm là FED là tư nhân hoàn toàn và không chỉ là của những nhà tài phiệt Mỹ. Họ là tập hợp của một NHÓM QUYỀN LỢI ăn chia tài chính với chính phủ Mỹ có 80% cổ phần trong FED. Sau đó đã gây áp lực với chính phủ Mỹ thông qua cho vay tài chính trong các cuộc chiến tranh để đi đến thâu tóm toàn bộ quyền lợi tài chính thế giới 100% về mình và trỡ thành QUYỀN LỢI NHÓM. Các thành viên tạo vốn cho FED có mặt ở toàn cầu. Mỗi hơi thở FED là sự sống hay cái chết kinh tế của toàn cầu.
PHẦN II: DỰ LUẬT ALDRICH VÀ SỰ SỐNG KINH TẾ TOÀN CẦU
Nước Mỹ là nơi những con người bỏ mẫu quốc ra đi để tìm một chân trời mới không theo những lề thói cũ của những cựu lục địa già nua. Những quốc phụ tạo nên nước Mỹ đã có những tấm lòng cao cả muốn xây dựng một thiên đường hạ giới cho miền đất mới. Nhưng vì lòng tham của con người đã làm thất vọng họ, dù họ đã cố gắng chống chọi bằng cách đưa ra nhiều đạo luật để bảo vệ tuyên ngôn nước Mỹ.
Lịch sử nước Mỹ có những trang đau buồn vì phân biệt chủng tộc, vì nội chiến etc... Nhưng có lẽ đau buồn nhất là sự thông qua đạo luật Nelson Aldrich vào ngày 23/12/1913 của tổng thống thuộc đảng Dân chủ thứ 28: Thomas Woodrow Wilson (1913-1921). Cái ngày mà người ta bảo rằng: Cho đến nay trong lịch sử 43 đời TT Mỹ, không có một tổng thống nào ký bất kỳ một dự luật nào một cách vội vã trước khi thiên chúa giáng sinh! Điều mà sau này chính ông cũng đã phải thốt lên đó là sai lầm của mình(1). Nhưng ông không thể làm khác vì chiếc ghế ông ngồi vào đã được định 2 năm trước khi tổng tuyển cử tổng thống nhiệm kỳ thứ 28. Và việc ông ký đạo luật Aldrich là việc ông phải làm một cách bất thường để trả lễ cho chiếc ghế quyền lực của mình vì những gì mà những ông trùm tài phiệt đã đánh bóng, loppy và đưa ông lên đỉnh vinh quang của sự nghiệp chính trị. Mặc dù trước ông, hai vị tiền nhiệm đã vì nhân dân Mỹ và nước Mỹ nên họ đã chạm vào thánh đường tiền tệ, mà họ phải đối diện với mưu sát: TT thứ 7: Andrew Jackson (1829-1837)(17) và TT thứ 16 bị ám sát: Abraham Lincoln (1861-1865)(18). Lịch sử nước Mỹ có 3 vị tổng thống muốn lấy quyền in tiền về chính phủ. Hai người vừa kể và người thứ 3 là TT thứ 35: John F. Kennedy (1961-1963)(19). Họ đều có hoặc cận kề với cái chết!
Như vậy, tại sao có đạo luật Aldrich? Nó ra đời như thế nào? Nó phục vụ cho ai? Và nó có vai trò gì với nước Mỹ và nhân loại?
A. Đạo luật Nelson Aldrich có gì?(20)
Hiến pháp Mỹ vì tính lịch sử mà có một lỗ hổng chết người là chính phủ chỉ phát hành tiền đồng kim loại, còn tiền giấy thì chỉ là tờ chứng nhận trao đổi. Nước Mỹ trước năm 1913, có 20% cổ phần trong ngân hàng trung ương như đã nói. Nhưng với 20% đó không đủ lực để chống chọi 80% còn lại khi từ nhóm quyền lợi họ kết dính nhau để trở thành quyền lợi nhóm. Chính điều này mà các cuộc suy thoái kinh tế và chiến tranh do các nhà tài phiệt đã nêu ra ở phần 1, tạo ra bằng cách thổi phồng cho vay lãi suất thấp, rồi thắt chặt tiền tệ nâng lãi suất thu hồi tiền về từ các con nợ. Đẩy con nợ vào cảnh bần cùng, bán nhà, bán đất, vô gia cư. Và làm cho chính phủ Mỹ lâm vào thế nợ nần chồng chất. Nên một cuộc cải tổ tài chính Mỹ đã được ông TT thứ 26 Theodore Roosevelt đề xuất và giao cho những nhà tài phiệt nghiên cứu và viết ra. Bộ óc khổng lồ với tư duy minh triết, uyên thâm lúc bấy giờ ngồi vào chấp bút là Paul Warburg. Người đại diện dòng học Rothschild tại Mỹ và đã lập ra một chân rết với gia tộc Rockefeller và JP Morton trước khi có cuộc âm mưu ở đảo Jekyll. Điều gì có lợi cho các tập đoàn tài phiệt đến ắt đến. Câu chuyện ngắn gọn ở phần 1, nói lên tất cả và từ đó mọi sức khỏe của kinh tế toàn cầu đã thuộc về tay các ông trùm tài phiệt trên toàn cầu.
Đạo luật Nelson Aldrich có mấy điều đáng chú ý:
1. FED(21) là ngân hàng tư nhân 100% hoàn toàn, chính phủ Mỹ không còn cổ phần trong FED. Một khi chính phủ muốn chi tiêu quá phần tiền thu thuế từ dân Mỹ thì chính phủ phải vay tiền từ FED thông qua FED in thêm tiền. Quốc hội có nhiệm vụ khống chế FED.
2. FED là tổ chức duy nhất được phép in tiền giấy Mỹ kim. Chính phủ Mỹ chỉ được phép đúc tiền đồng Mỹ kim từ giá trị <=$1. Mỗi lần FED in thêm tiền USD bao nhiêu thì chính phủ Mỹ hay nói cách khác là người dân Mỹ phải nợ FED bấy nhiêu.
3. FED gồm có 12 FED con nằm ở các tiểu bang: mỗi FED con là ngân hàng thương mại tư nhân ở địa phương. 12 FEd con có trụ sở ở: 1- Boston, 2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco, 7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và 12-Dallas. Theo đó các FED con đều có quyền in tiền giấy. Cứ theo thứ tự từ 1 đến 12 mà đánh vần theo alphabets thì A là FEd của Boston in ra, B là FED của New York in ra ...ký hiệu đầu serial ở trên tờ tiền. Nhưng FED New Yrok chiếm 53% cổ đông của FED liên bang.
4. Trung ương FED đặt ở Washington DC, nhưng mọi hoạt động làm khuynh đảo thế giới tài chính ở New York. Đây là một trò dối trá cùng với chia đều 12 FED con để vuốt ve nhóm miền Nam và người dân Mỹ sau những cuộc suy thoái do họ làm ra để moi từng đồng tiền từ túi dân nghèo.
5. Cơ cấu FED gồm một hội đồng quản trị có 7 thành viên:
+ Có 3 thành viên: Chủ tịch hội đồng quản trị FED (Chairman of the Goverment Board), Bộ trưởng tài chính (The Treasury Secretary) và Giám Sát Ngân Khố (the Comptroller of Treasury) là người của chính phủ.
+ Thành viên của hội đồng quản trị do tổng thống bổ nhiệm và thay thế. Nhưng mỗi nhiệm kỳ TT Mỹ chỉ được bổ nhiệm và thay thế 2 lần, mỗi lần chỉ 1 người với sự chấp thuận của thượng viện.
+ Nhưng chức năng của hội đồng quản trị FED do hội đồng tư vấn liên bang (Federal Advisory Council) khống chế, và cùng với hội đồng quản trị, Hội đồng tư vấn liên bang sẽ mở hội nghị thảo luận công việc.
+ Thành viên của hội đồng tư vấn liên bang sẽ do Chủ tịch hội đồng quản trị của 12 FED con quyết định. Nhưng đa số thành viên của hội đồng quản trị là do hiệp hội ngân hàng trực tiếp hoặc gián tiếp khống chế.
6. Đồng đô la Mỹ có thể co giãn theo tình hình và được tái chiết khấu. Và bắt đầu sau dự luật người dân Mỹ bắt đầu phải đóng thuế thu nhập (income tax).
Qua đó, chúng ta thấy có mấy điều quan trọng sau đây:
1. Cái gọi là Cục dự trữ liên bang Mỹ hình thức và hiện tượng là của chính phủ Mỹ. Nhưng bản chất là của các nhà tài phiệt đã nói ra ở phần 1. Một sự lấp liếm và lách luật tài tình của Paul Warburg - một tay Đức có nguồn gốc Do Thái.
2. Tước bỏ hoàn toàn chức năng in tiền giấy của chính phủ Mỹ kể từ ngay trước ngày thiên chúa giáng sinh năm 1913. Nhưng trên đồng tiền Mỹ kim vẫn tồn tại câu: "In God, We trust". Và kể từ đó, bao tờ tiền đô la xanh in ra là người dân Mỹ nợ FED bấy nhiêu.
3. Một sự che lấp quyền lực đằng sau hậu trường với người dân Mỹ và các nhóm tài chính miền Nam để khuynh đảo chính trường nước Mỹ và chỉ huy kinh tế, chính trị toàn cầu.
4. Hủy hoại lý tưởng cao cả của những con người có công khai sinh ra cái gọi là "Miền đất hứa", từ khi nước Mỹ chỉ là 13 bang lập quốc ban đầu tiên của 6 bang thuộc New England, 6 bang thuộc Mid Atlantic và Puerto Rico.
5. Cái điều cuối cùng lưu ý trong đạo luật Nelson Aldrich đã giúp cho FED được quyền làm tăng hay giảm giá đồng Mỹ kim và cũng cho phép các ngân hàng thương mại bơm tiền vào thị trường hay thu tiền vào lại ngân hàng một cách tự do để thổi phồng cái bong bóng kinh tế hoặc chích xì quả bóng tạo ra những cuộc suy thoái chủ động theo ý