Jump to content

Advertisements




TỬ VI LÝ SỐ


90 replies to this topic

#76 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 511 Bài viết:
  • 239 thanks

Gửi vào 13/08/2025 - 09:51

5. QUAN LỘC (官祿):

Quan nghĩa là người đứng đầu một công việc; là chức vị của người làm việc cho Nhà nước (ngày xưa là Triều đình), cho nên thường gọi là Quan chức – người được giao nhiệm vụ quản lý, điều hành các hoạt động của Nhà nước (mở rộng ra là tập thể nói chung, như: làng xóm, nhóm hội, tổ chức kinh doanh v..v). Trong một thể chế chính trị, thì Quan đối với Dân mà lập, ở trong một doanh nghiệp thì Quan tức là Sếp đối với Nhân viên mà lập. Không có Dân thì chẳng có Quan, không có Nhân viên thì chẳng có Sếp, do đó người muốn ở địa vị Quan lâu dài thì phải chăm lo cho Dân, người muốn ở vị trí Sếp lâu dài thì phải lo cho Nhân viên.

Lộc nghĩa là phúc lợi, bổng lộc, lương bổng; là điều may mắn tốt lành được hưởng; cũng nghĩa là tiền bạc của cải Vua ban cho các Quan thời xưa.

Chăm lo cho cấp dưới, cho người phụng sự hỗ trợ mình là một trong những điều kiện quan trọng để một người muốn thăng tiến trong sự nghiệp đã lựa chọn, lên địa vị Quan, phải đáp ứng được. Bên cạnh đó, khi nói tới Quan là nói tới trách nhiệm của người làm Quan, hoàn thành được trách nhiệm mà nhân đó vị trí ấy được hình thành, thì Quan được nhận hưởng bổng lộc, được tương thưởng xứng đáng với giá trị mình mang lại cho tập thể mà người ấy ở vào. Giá trị đóng góp càng cao thì bổng lộc phần thưởng càng lớn, tương tự như thế với chức vụ càng cao thì trách nhiệm lại càng lớn. Vì thế, Quan là nhân của Lộc, Quan có thì Lộc có. Nếu chẳng hoàn thành trách nhiệm lại muốn nhận hưởng bổng lộc thì trở thành “tham quan ô lại”, trở thành tội nhân, trở thành “con sâu làm rầu nồi canh”, sớm muộn gì cũng phải đón nhận những thứ mà mình đã gieo, thân bại danh liệt chỉ là thời khắc đếm ngược từng ngày mà thôi. Như lời Tăng Tử nói: “ Ngô vô công nhi thụ lộc, tắc t.ao thiên chi tội” – Ta chẳng có công lao gì mà lại nhận hưởng bổng lộc, ắt có tội với Trời.

Bởi danh xưng “Quan” là gắn liền với tập thể, tổ chức, một nhóm người; cho nên trong nhóm người ấy, mỗi người sẽ có một số năng lực và kỹ năng nghề nghiệp khác nhau, do đó mà làm Quan trong những lĩnh vực bộ phận khác nhau. Để có thể làm Quan thì tất phải được đào tạo, có kỹ năng trong một nghề, tức là phải có Điền. Chính vì thế Điền Trạch đứng trước Quan Lộc, Điền Trạch là nhân của Quan Lộc, Điền Trạch có thì Quan Lộc có.

Người được làm Quan ấy là nhờ Phước Đức tích lũy của chính mình, nhưng nếu chẳng khéo léo giữ gìn, cái chỗ thành quả do mình khổ công vun đắp, nó lại trở thành vực sâu tội lỗi, kéo mình xuống con đường đọa lạc hiện tại và lâu dài mai sau. Tại sao vậy ? Vì dân gian ta có câu: “Con ơi nhớ lấy câu này, cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”, bởi lòng tham lam hưởng dục lạc, mông cầu sự tiện nghi vật chất nên trở thành “giặc cướp”, ấy là nguyên nhân khiến cho bị hướng hạ, rồi thẳng xuống Âm Ty mà chịu tội chịu hình ấy thôi. Thậm chí đỉnh cao của Quan lộ tức là thành Vua Chúa, thế mà đối với tửu sắc không biết tiết chế, bỏ bê chính sự, mặc kệ triều cương, sưu cao thuế nặng thì tất giặc cướp nổi lên làm loạn Đất nước, dân chúng lầm than, tội nghiệp còn sâu nặng gấp bội.

Nay đã biết tới những sự nguy hại mà người làm “Quan” có thể vướng vào, người có địa vị ấy phải khéo léo tu dưỡng bản thân để trở thành Minh Quân Thanh Quan, như thế Dân tộc Nước non, con dân Đại Việt được nhờ ơn lắm lắm, mà Tổ Tiên cũng mỉm cười nơi Âm giới.



Sửa bởi HieuHcmVN: 13/08/2025 - 10:18


#77 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 511 Bài viết:
  • 239 thanks

Gửi vào 13/08/2025 - 16:52

6. NÔ BỘC (奴僕):

“Nô” là đầy tớ, đứa ở - kẻ phạm tội thời xưa bị đưa vào nhà Quan làm tạp dịch. Ngoài ra, kẻ có tội theo luật trước kia, con gái người ấy bị bắt vào hầu hạ nhà Quan gọi là nô tì. Về sau, kẻ nào nghèo khó bán mình cho người, đánh mất tự do, chịu người sai khiến cũng gọi là nô. Ngày nay, “Nô” tức là Ô-sin, người giúp việc nhà vậy.

Những người làm công ăn lương, thu nhập khá trở lên, do bận công tác và những yếu tố cá nhân khác, khiến cho không có thời gian chăm sóc việc nhà trong gia đình được chu toàn, họ trích một phần lương bổng thu nhập ra thuê mướn người giúp việc (Ô-sin): nấu ăn, dọn dẹp, chăm sóc bé nhỏ, phụ giúp việc vặt v..v có khi lưu trú tại nhà hay đi về theo giờ cố định. Mặc dù họ vẫn chịu sự “sai khiến” của những người khác nơi làm việc, xong yếu tố tự do và tự chủ, cũng như địa vị “định kiến” trong xã hội cao hơn người giúp việc, những người làm công ăn lương (làm thuê) như vậy đều gọi là “Bộc” cả.

Thế thì, Quan Lộc đại biểu cho chốn công sở, cửa hàng, cty, tổ chức v..v mang tính tập thể công khai; còn Nô Bộc đại biểu cho chốn gia đình, mang tính cá nhân riêng tư. Nhưng gia đình là “tế bào” của xã hội, thế thì gia đình phải đặt trước xã hội chứ ? Tại vì thuở xa xưa ở thời kỳ Mẫu hệ và quần hôn, lối sống cộng đồng tập thể có trước nề nếp gia đình, cho nên Quan Lộc đứng trước Nô Bộc. Vả lại, đi làm công ăn lương, mới có tiền thuê mướn người phục vụ cho mình, thế thì cái gốc vẫn nằm nơi tiền bạc kiếm ra từ sự nghiệp, chính vì thế Quan Lộc có thì Nô Bộc có, Quan Lộc là nhân của Nô Bộc. Hơn nữa, như trên đã từng nói về mối liên hệ giữa Quan và Dân, Sếp và Nhân viên, đó là mối quan hệ cộng sinh, chẳng thể riêng lẻ tồn tại mà thành danh xưng được, cho nên trong Quan Lộc có yếu tố của Nô Bộc, trong Nô Bộc có yếu tố của Quan Lộc, như gia đình là một xã hội thu nhỏ, xã hội là một gia đình phóng to vậy, chỉ tạm xét đặt ra cho dễ nhìn nhận, chứ thực ra đan xen lẫn nhau, không tách rời nhau.

Người giúp việc, phục vụ người khác – mang tính trách nhiệm, bắt buộc - gọi là Nô; người hỗ trợ, giúp đỡ người khác – mang tính quý mến, tự nguyện - gọi là Bộc. Trong xã hội hiện đại, cho dù ở địa vị “người ở”, “giúp việc” thì nếu như bị đối xử tệ bạc, bị coi thường xem nhẹ, môi trường làm việc không được tôn trọng v..v thì họ cũng sẽ nghỉ việc mà tìm chỗ khác. Do tính người ấy mà Bộc có thì Nô mới có, cái gốc của sự tương trợ nằm ở chỗ “phù hợp”, cho nên Bộc là nhân của Nô.


Sửa bởi HieuHcmVN: 13/08/2025 - 17:11


#78 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 511 Bài viết:
  • 239 thanks

Gửi vào 14/08/2025 - 11:00

7. THIÊN DI (遷移):

Thiên và Di đều mang nghĩa là thay đổi vị trí vật lý của sự vật. Theo tư duy biện chứng duy vật Mác xít, thì Di đại biểu cho "chất", Thiên đại biểu cho "Lượng", và cái điểm giới hạn khiến sự vật "di dời" "biến đổi" tức là "Độ" vậy. Khi nói tới biện chứng, thì luôn luôn mặc định tính luôn vận động là bản chất cố hữu - cái luôn luôn gắn liền chắc chắn chặt chẽ không tách rời, sẵn có - của sự vật. Do đó, bản chất động ấy nằm trong cả Thiên và Di, tính đối lập thống nhất ấy cũng biểu hiện đầy đủ trong Thiên và Di, một thứ nhẹ nhàng ẩn tàng, một thứ thô tháo bộc lộ. Di thì nhẹ, Thiên thì mạnh, Di thì từ từ âm thầm, Thiên thì đột ngột công khai v...v

Thiên là sự thay đổi mang tính chủ động sáng tạo có mục đích được tính toán, Di là sự thay đổi mang tính bị động thuận theo nhân duyên quả, được định sẵn. Di là đại biểu cho sự thay đổi thuộc phạm vi Quy luật khách quan, Thiên là đại biểu cho sự thay đổi thuộc phạm vi Ý thức chủ quan. Về khía cạnh này thì thứ tự trước sau rất rõ ràng, thế giới tự nhiên có thì con người có, quy luật khách quan có thì ý thức chủ quan mới có, cho nên Di có thì Thiên có. Di là nhân của Thiên.

Xét theo lịch sử văn tự, ban đầu, chữ giáp cốt (khắc trên mai rùa, xương v…v): Chữ Thiên 遷 gồm bộ Tẩu (辵, biểu thị sự di chuyển, đi lại, bước chân) kết hợp với chữ Tây (西, chỉ hướng Tây), ý chỉ người định hướng rồi chủ động bước đi. Chữ Di gồm bộ Hòa (禾, biểu thị cây lúa) kết hợp với chữ Đa (多, chỉ số lượng nhiều, phần nhiều), ý chỉ cây lúa sinh sôi nảy nở từ ít thành nhiều một cách tự nhiên.

Về sau này, chữ Thiên mang ý nghĩa là di dời lớn như dời Kinh đô (thiên đô), dời làng ấp, chỗ ở (thiên cư) v..v, là quyết định được đưa ra bởi người đứng đầu tập thể, nhóm hội, làng xã, quốc gia. Con chữ Di mang ý nghĩa là di dời nhỏ như dời cây lúa (di hòa), vật phẩm (di vật) trong nghi thức tế lễ cầu mùa màng bội thu. Tới đây thì cả hai chữ đều mang nghĩa là sự thay đổi vị trí của sự vật trong không gian, do con người chủ động tương tác sinh ra, khác biệt chủ yếu nằm ở kích thước, quy mô, tầm quan trọng và chủ thể đưa ra quyết định ấy là người đứng đầu hay người thực hiện, to lớn tầm cỡ hay bé nhỏ thời vụ. Thiên thì đại biểu cho sự thay đổi lớn, sự vật lớn, người đưa ra quyết định là người đứng đầu, cao nhất. Con Di thì đại biểu cho sự thay đổi nhỏ, sự vật nhỏ, người đưa ra quyết định là người đạm nhiệm tạm thời.

Như trước đây đã từng xem xét về Điền Trạch, ta thấy rằng người xưa chọn chỗ ở là tùy thuộc vào chỗ cấy trồng, tùy thuộc vào nguồn sinh sống mà an định. Ở đây, cũng cùng một nguyên tắc như thế, con người ta phải dựa vào mùa màng cây trồng mới hình thành nên ấp, xứ, Kinh đô được. Sự sống của con người lấy lương thực hoa mầu làm gốc, thì Vua Chúa người đứng đầu lấy nhân dân quần chúng, người thực hiện làm gốc. Do đó, khi xét tới cả hai khía cạnh ý nghĩa mang tính tư tưởng triết lý và lịch sử văn tự, đều đưa ta tới ý niệm về sự thống nhất: Di có thì Thiên mới có, Di là nhân của Thiên.

Nay đem tri thức này ứng dụng vào thời hiện tại thì phân định ra làm sao ?

Thay tính đổi nết là Di; Thay cách ăn mặc nói năng ứng xử là Thiên.

Thay nghề, đổi nghiệp là Di; thay chức đổi vị, từ công ty này qua công ty khác là Thiên.

Thay đổi mục đích, lý tưởng, tiêu chuẩn cuộc sống là Di; thay nhà đổi cửa, thay bạn đổi bè, thay vợ đổi chồng, thay anh đổi em, thay cha đổi mẹ, thay quốc tịch đổi nước non v..v là Thiên.

Trời nắng, mưa, hạn, lụt; Đất động, chuyển đổi dời, bốn mùa xoay qua chuyển lại, con người trẻ, già, bệnh, tử, cho đến chu kỳ thành bại thăng giáng của sự nghiệp v..v đều thuộc phạm vi của Di; nhưng nắng biết đội nón, mưa biết che dù, xuân biết cấy trồng, thăng biết nỗ lực, giáng biết vun vén giữ gìn v..v đều thuộc phạm vi của Thiên cả.

Thế thì cũng như tất cả danh xưng của 12 Cung khác, Thiên Di luôn đi song hành với nhau, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nương vào nhau để mà định danh định nghĩa, khi xét cái này thì tất phải đối ứng với cái kia để nhận định, sao cho được phù hợp trong từng hoàn cảnh luôn luôn biến động của kiếp sống con người ngắn ngủi.


Sửa bởi HieuHcmVN: 14/08/2025 - 11:16


#79 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 511 Bài viết:
  • 239 thanks

Gửi vào 14/08/2025 - 17:30

THIÊN DI (2):

Vạn sự vạn vật luôn biến chuyển không ngừng. Cái gì khiến cho sự vật này vận động ? Là người, là vật, là Trời hay là Đất ? Là đức Chúa Trời hay Phật Tổ ? Không ! Sự vật nương nhau mà trụ, vốn là “vô ngã” nên không có gì thực sự làm chủ tất cả để điều khiển vạn sự vạn vật tương tác với nhau cả. Ngay cả Chúa Phật Trời Đất cũng chỉ là những mạnh ghép trong “bức tranh” vũ trụ khổng lồ, hòa hợp tương tác lẫn nhau tạo nên sự vận động không ngừng bất tận ấy thôi.

Nếu do người làm chủ thì người chỉ cần suy nghĩ và làm theo ý mình thì mùa Xuân thành mùa Hạ, người nghèo thành người giàu, người bệnh thành người mạnh, có thể sống bất tử, có thể hạnh phúc suốt cả kiếp người v…v nhưng thực tế thì không phải vậy, tương tự với sự vật khác.

Nếu Trời Phật làm chủ tất cả, thì chỉ cần ngồi ở nhà chờ Phật Trời giúp ta làm thay mọi thứ ta muốn, chẳng cần phải tạo tác lao tâm khổ tứ chi cho mệt mỏi, cứ kiếm cái hình tượng Chúa Phật để trước mặt rồi ngày lễ, sáng lạy, xin xỏ mọi thứ thì liền được đủ đầy, đang khổ ắt thành vui sướng, đang nghèo ắt đuợc giàu sang, đang bệnh ắt khỏe dậy chạy nhảy vui chơi v…v

Các Ngài Bề trên, chỉ đường sáng cho chúng ta đi để có thể sớm đạt được hạnh phúc nơi thế giới, chứ không thay chúng ta đi được !

TẤT CẢ MỌI THỨ TỒN TẠI, ĐỀU CẦN CÓ ĐỦ ĐIỀU KIỆN !
CÁI NÀY CÓ THÌ CÁI KIA CÓ, CHÍNH LÀ VŨ TRỤ LUẬT !

Có siêng năng học tập thì mới có tri thức hiểu biết.
Có siêng năng làm việc thì mới có của tiền dồi dào.
Có thiện đức tốt lành thì mới có may mắn vui vẻ.
Có tin kính Trời Phật, Thần linh Tổ tiên thì mới có sự tương trợ vô hình...

Tương trợ là nghĩa làm sao ? Là ta nỗ lực rồi, nhưng vì nhân duyên để ta thành tựu nó ở cách xa ta quá, nhờ sự tin kính Trời Phật Thần linh, nhờ phước đức vun đắp của ta, ta làm cho những nhân duyên ấy nó tới sớm, nó lại gần mình hơn, đấy cũng là sức mạnh do Luật hấp dẫn + tập trung đưa tới. Phật Trời có thể tương trợ ta được vì các Ngài có phước đức lớn, có quyền năng cao, nó là kết quả của sự học tập rèn luyện tu sửa trong vô số vô lượng kiếp sống, trong đủ các giống loài, trong đủ các không thời gian ( ngay nay có khái niệm đa vũ trụ, không gian 11 chiều, để chỉ cho các thế giới đa dạng này vậy ).

Người xưa có câu: “Thiên tử phạm pháp tội như thứ dân”, cho nên Thiên chủ Phật Trời đều phải tuân hành theo cái gọi là Thiên Luật, Vũ trụ luật, trong đó bao gồm đa dạng rất nhiều các quy luật khác nhau như: luật nhân quả, luật hấp dẫn, luật tập trung, luật trong ngoài, luật bảo toàn v…v

Thế thì dù là Dương giới hay Âm giới, “trần sao âm vậy” đều chấp hành nghiêm chỉnh Vũ trụ luật. Bất kỳ ai sử dụng quyền hạn năng lực của mình tích lũy được, can thiệp đảo chiều Luật này đều cứ theo đúng Định luật mà chịu sự biến cải, thăng giáng không có ai thoát khỏi nó cả.

Chẳng phải khi không người ta nói Toán học là ngôn ngữ của vũ trụ, vì trong toán học luôn luôn nói tới điều kiện cần và đủ, để cho một thứ gì đó nó có thể xảy ra, nguyên tắc ấy cũng áp dụng cho tất cả các bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội, từ lịch sử tới chính trị văn hóa, trong đó phạm trù tôn giáo vẫn không ngoại lệ. Phàm cái gì tồn tại trong Vũ trụ này rồi thì đều cần có điều kiện để tồn tại và có thời gian không gian tồn tại cả. Sự vĩnh hằng chính là thường biến chẳng ngưng, bất tăng bất giảm trong phạm vi tổng thể, khi xét tới từng cá thể độc lập tương đối thì có tăng có giảm do biểu hiện về mặt không thời gian nhất định vậy.

Làm sao biết rằng chẳng phải Phật Trời hay Thần linh quyết định tất cả, mà do mọi thứ hòa hợp với nhau để thành tựu ?

Rất đơn giản, muốn biết cái gì đúng hay sai thì cứ làm trái với nó là xong, làm trái nó mà vẫn yên ổn thì nó sai, còn trái nó mà chẳng thể yên ổn thì mình sai. Và vì điều kiện cần thời gian để hiện hữu đủ đầy do tính phức tạp nội tại của nó, cho nên sự thí nghiệm cũng cần phải có thời gian để cho mọi sự linh nghiệm, thể hiện ra được bản chất của sự vật.

Tôn kính Trời Phật là luật lệ của Vũ trụ, bởi các Ngài là người đại phước đức, trí huệ lớn, quyền năng cao, chẳng tôn kính mà hành xử bất kính thì ắt gặp họa tai.

Ngược lại, chỉ dựa vào Trời Phật mà bản thân chẳng chịu nỗ lực cố gắng thì Trời Phật cũng chẳng thể làm thay mình được, đó cũng là Luật, Trời Phật biết luật nên cũng chẳng bao giờ vì ta mà phạm luật đó đâu !

Hiểu rõ như thế thì chẳng lệ thuộc, cũng chẳng xa lìa, chẳng bất kính cũng chẳng ỷ lại, con người mới được sự tự do đúng đắn của trí huệ, mới không đánh mất quyền tự quyết của chính mình trong mọi hành động, mới chạm gần tới sự an lạc của hiểu biết chân lý như thật. Mới biết rằng trong Định có Động, trong những NGHIỆP BÁO của quá khứ trình bày nơi Lá số Tử Vi, luôn có con đường vượt thắng những điểm đến mình không muốn gặp ngay từ lúc bắt đầu sự sống này !

Nhưng khi xét định trong phạm vi đời sống con người, Thiên Di được đặt sau Nô Bộc, để giúp chúng ta xem xét sự thay đổi ấy trong phạm vi điều kiện là con người làm chủ, con người tạo tác, con người điều khiển và đóng góp chính trong sự thay đổi trong đời sống, chứ không phải con người nằm ngoài sự biến đổi nơi cuộc đời của mình, lệ thuộc bị động trong sự thay đổi ấy. Đã là chủ thì ắt phải đứng trước rồi, phải đi trước rồi, vì có mình mới có việc làm của mình, mới có sự thay đổi của mình trong sự nghiệp, mà Nô Bộc làm một trong những điều kiện quan trong, bởi trong xã hội thì các cá nhân nương vào nhau tồn tại, cho nên Nô Bộc đứng trước Thiên Di, Nô Bộc có thì Thiên Di mới có.


Sửa bởi HieuHcmVN: 14/08/2025 - 17:48


#80 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 511 Bài viết:
  • 239 thanks

Gửi vào 16/08/2025 - 11:53

8. TẬT ÁCH (疾厄):

Tật nghĩa là ốm, bệnh; là sự khó chịu, sự tàn phá trên cơ thể do bệnh hoạn gây ra. Ách là tai họa, tai nạn; là khốn khổ - cảnh hiểm nghèo cùng quẫn khó khăn. Khi Ách tới thì Tật sinh, Ách là nhân của Tật cũng là lẽ dễ hiểu. Nhưng trong thực tế, sự thông lợi, sự hưởng thụ, sự thoải mái theo ý thích của mình cũng là nguyên nhân sinh ra bệnh “Tật”, bởi quá độ mà thành ra dư thừa, sinh ra bất hòa. Tuy nhiên, ở đây ta chỉ xét “Tật” trong phạm vi do “Ách” mà sinh ra, vì nó mang tính phổ biến, bởi thế nên gắn liền với nhau. Ngoài ra, việc hưởng thụ quá độ, cũng nằm trong phạm vi sự thay đổi của “Thiên Di”, do đó, khi xét “Tật Ách” ta cũng không thể bỏ qua “Thiên Di” hiện tại quá khứ, trong quá trình truy xét lại ắt sẽ phát hiện ra sự bất thường do sự hưởng thụ quá độ gây ra, chính vì thế khi nói tới “Tật” chỉ cần gắn liền tới “Ách” là được rồi.

“Ách” thuộc về hoàn cảnh, “Tật” thuộc về bản thân, sự ảnh hưởng của hoàn cảnh tới bản thân con người rất dễ nhận biết, như: trời nóng thì mồ hôi chảy ra làm mát cơ thể, trời lạnh thì lỗ chân lông khép lại cơ thể run rẩy gia tăng nhiệt độ làm ấm cơ thể, môi trường nhiều khói bụi thì phổi phế dễ sinh bệnh, môi trường nhiều tiếng ồn thì tim mạch thần kinh dễ bị thương tổn v..v

Tại sao thân tâm ta bị “tật” ? Tại sao cuộc sống của ta lại gặp phải “ách” nạn ? Đó là do mất cân bằng, các yếu tố hòa hợp tạo thành sự ổn định của sự vật đã bị xáo trộn

“Ách” và “Tật” sinh ra nhằm mục đích “cảnh báo” thành tố dư thừa, bắt chủ thế phải có biện pháp phát hiện các yếu tố thừa thiếu, giúp chúng trở lại thế quân bình với các yếu tố khác. Ví dụ: khi làm việc quá sức, cơ thể sẽ sinh ra trạng thái hoa mắt chóng mặt, đó là “tật” bệnh, nhưng cũng là cơ chế tự bảo vệ, cơ chế cảnh báo tự nhiên của cơ thể con người. Xét ở khía cạnh này thì “tật” bệnh là tốt, nó giúp chúng ta biết điểm dừng, bằng không thì sẽ “đột tử” mà chẳng kịp trăn trối điều chi cả.

Tỷ lệ hòa hợp giữa các yếu tố tạo nên sự ổn định, khỏe mạnh là định sẵn và quá trình vận động tự nhiên chỉ cần làm một việc “điều chỉnh” các yếu tố này về đúng tỷ lệ mặc định, cách làm là: chuyển hóa yếu tố dư thừa sang các yếu tố thiếu khuyết, đảm bảo tính cân bằng nội tại và ngoại giới đúng như tỷ lệ tiêu chuẩn sẵn có mà thôi. Luật cân bằng cũng là một đại quy luật chi phối vạn sự vạn vật trong Vũ trụ.

Như trên khi bàn về Thiên Di, chúng ta đã xem xét và đưa ra nhận định rằng: tất cả mọi thứ tồn tại được là nhờ sự hòa hợp của các yếu tố, trong những điều kiện cụ thể nhất định, thiếu điều kiện cần thiết, thứ ấy không còn hiện hữu mà nó biến chuyển thành các sự vật khác, có thể khác nhau về hình thức nhưng đồng điệu về bản chất, hoặc là thành một sự vật khác biệt hoàn toàn cả về hình thức lẫn nội dung. Thì ở đây, “ách” và “tật” thể hiện rõ tầm quan trọng của sự đủ đầy của các điều kiện và những yếu tố hòa hợp tạo nên sự hiện diện của sự vật nơi thế gian. Do thiếu điều kiện mà “ách” và “tật” phát sinh, trái với sự bình thường ổn định, an yên như ý.

Mọi sự thay đổi “Thiên Di”, dù là lớn hay nhỏ, là âm thầm hay công khai, là từ từ hay đột ngột v..v tất cả đều ảnh hưởng tới “tỷ lệ” hòa hợp của các yếu tố cấu thành sự vật, khi sự vật phát sinh “tật ách”, thì tức là sự thay đổi này đã làm xáo trộn tỷ lệ bình ổn của sự vật rồi, muốn truy cứu nguyên nhân gốc rễ của “Tật Ách” thì phải coi “Thiên Di” trong quá khứ đã phát sinh ra những hoạt động gì, từ đó dẫn tới ảnh hưởng tới yếu tố nào, rồi dựa theo cường độ, tần suất của hoạt động ấy thì ta có thể phát hiện ra yếu tố đã bị tác động có xu hướng tăng giảm ra làm sao, dẫn tới làm mất cân bằng, ảnh hưởng tới sự hòa hợp bình ổn, mà biểu hiện ra thành “Tật Ách”. Do đó, Thiên Di có thì Tật Ách có, Thiên Di là nhân của Tật Ách.

Khi cơ thể sinh “tật”, Đông Y sử dụng phương pháp điều hòa cần bằng khí huyết tạng phủ theo thuyết âm dương ngũ hành, Tây Y thì có xu hướng phân tích can thiệp trực tiếp vào bộ phận phát sinh triệu chứng. Do cơ thể là sự hòa hợp của nhiều bộ phận, nhiều yếu tố khác nhau, cho nên một cơ quan sinh bệnh thì tức là các cơ quan khác cũng bị ảnh hướng, chính vì thế nếu chỉ can thiệp vào cơ quan phát sinh bệnh mà bỏ mặc các cơ quan khác thì sự điều trị rất dễ sinh ra di chứng (biến chứng), đó là nhược điểm của Tây Y. Ngược lại, ưu điểm của Tây Y là phát hiện chính xác và can thiệp kịp thời, đối với các chứng bệnh đòi hỏi sự can thiệp cấp cứu nhanh chóng thì Tây Y lại vượt trội hơn Đông Y. Mặc dù vậy, cả hai trường phái đều khuyến khích: phòng bệnh hơn chữa bệnh, luôn nhắc nhở việc sinh hoạt điều độ, thể dục dưỡng sinh và ăn uống có chừng có mực, không thừa không thiếu chất nhằm đạt được một cơ thể khỏe mạnh, một sức khỏe dồi dào và một tuổi thọ lâu dài, đó là xét về thân bệnh.

Còn về tâm bệnh thì khoa học Đông phương, đặc biệt là Thiền học, thể hiện ra tác dụng điều hòa tâm sinh lý ưu việt hơn hẳn khoa Tâm lý học của Tây phương, đấy là lý do vì sao, ngày càng nhiều và càng đông đảo người Tây Phương thể hiện sự quan tâm đặc biệt tới các phương pháp Thiền tập của phương Đông.

Tại Việt Nam, Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những người có công đem Thiền học Phật giáo qua Tây Phương truyền bá, cũng là người được nhiều nước trên thế giới công nhận về tầm ảnh hưởng cũng như giá trị mà phương pháp của Ngài chia sẻ, đã giúp cho những con người trong thời đại vật chất lên ngôi, tìm về được sự an yên nơi tâm hồn mình.

Ngài là tác giả của hơn 100 đầu sách, có những bộ sách đã chuyển thể thành phim như Đường xưa mây trắng, có những tác phẩm giá trị như “Nẻo về của ý”, "Phép lạ của sự tỉnh thức" v..v, đã xuất bản và dịch ra nhiều thứ ngôn ngữ trên thế giới, với hàng triệu bản in.

Ngài là người con của Việt Nam, cũng là người mang lại tự hào cho Đất nước Việt Nam. Một con người nhân bản, yêu chuộng hòa bình, đầy trí tuệ và lòng thương yêu vạn vật. Những người dưới sự dẫn dắt của Ngài đạt được sự lợi ích, từ khắp muôn nơi trên Trái Đất, đều tôn kính gọi Ngài là Thầy, là sư ông Làng Mai. Ngài cũng là một người bị hiểu lầm, bị chỉ trích từ nhiều phía khác nhau, trên chính trị và tôn giáo, xong Ngài chỉ đáp lại với nụ cười bình yên và sự im lặng dũng mãnh của một con người dốc lòng, suốt đời đi theo bước chân của Đức Từ Tôn - Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.



Sửa bởi HieuHcmVN: 16/08/2025 - 12:13


#81 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 511 Bài viết:
  • 239 thanks

Gửi vào 16/08/2025 - 13:56

TẬT ÁCH (2):

Ông cha ta có câu: “Tư tưởng không thông, thì đeo bình tông cũng thấy nặng”, bình tông là vật đựng nước, rất nhẹ nhàng, nhưng một vật vốn là nhẹ nhàng cũng trở nên nặng nề bởi tại thời điểm mang vác nó, tâm hồn ta đang lo lắng suy tư – tư tưởng không thông - về những vấn đề khó khăn, tâm hồn chúng ta vẫn còn mang vác nhiều nỗi khổ niềm đau chưa hóa giải được. Điều này vẫn đúng đắn cho tới bây giờ và mãi mãi về sau, bởi tâm hồn là thứ điều khiển mọi hoạt động, nó bị tổn thương thì lục phủ ngũ tạng, cơ quan nội tạng của chúng ta sẽ bị tổn thương, bệnh “tật” cũng từ đó mà phát sinh, y học cổ xưa và hiện đại đã làm sáng tỏ vấn đề này rồi, suy nghĩ tiêu cực có ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe thân thể, làm cho cơ thể phát sinh bệnh tật.

Nếu như bản thân luôn suy nghĩ tiêu cực hay sống trong một môi trường đầy dãy những ngôn từ tiêu cực, cảm xúc tiêu cực và hành vi tiêu cực, đó là “độc tố” nuôi dưỡng tinh thần tâm hồn con người, làm tâm hồn con người bị “nhiễm độc” suy yếu, dẫn đến bản thân người đó ngày càng tiều tụy do khổ đau gây ra. Con người khi thiếu thốn vật chất nhiều khi chẳng đẩy mình tới sự tự vẫn, nhưng bế tắc tinh thần khiến cho việc tự sát diễn ra lại rất quá thường xuyên, đó là minh chứng chắc thật nhất cho vai trò quyết định của Tâm hồn, tinh thần, suy nghĩ đối với nguồn gốc phát sinh bệnh “Tật” và “Ách” nạn.

Muốn hạn chế gặp phải, cũng như vượt thắng được “Tật Ách”, mỗi người phải học cách giữ gìn tâm hồn mình bình yên, giữ suy nghĩ tích cực, thiện lành, sáng suốt và tỉnh thức. Điều này cũng phù hợp với Luật hấp dẫn, khi tâm hồn suy nghĩ tích cực sẽ hấp dẫn hoàn cảnh thuận lợi tốt lành tới và khó khăn chướng ngại sẽ lùi xa ra khỏi cuộc đời mình nhanh hơn. Giữa hai con đường: thiện lành và độc ác, tích cực và tiêu cực, an vui thuận lợi và ách nạn tật bệnh khổ đau v...v có lẽ ai cũng biết mình muồn gì rồi, muốn gặt hái hoa trái gì rồi, thế thì hãy gieo đúng nhân lành thiện đức, hãy để Vũ trụ đưa tới điều tốt đẹp do tâm hồn tươi mát sáng trong của ta hấp dẫn thu về. Trời Phật cũng hoan hỷ mong chờ điều này, Thần linh gia tiên tiền Tổ cũng mong chờ điều này, thời gian đang đếm ngược, hãy quyết chí lựa chọn và hành động cho đúng đắn !


Sửa bởi HieuHcmVN: 16/08/2025 - 14:12


#82 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 511 Bài viết:
  • 239 thanks

Gửi vào 17/08/2025 - 10:39

ĐOÁN MỆNH VẬN

Tử Vi tại Mệnh


" Tử Vi mặt đỏ, lưng dày

Tính thời trung hậu, mặt thời phương viên.

Tham, dâm, phá, nghịch, chẳng hiền.

Ở cung Thìn, Tuất ấy người bất trung ! "


Lời này bao kẻ mông lung

Phải chẳng vận số định khung chẳng dời ?

Thế là suốt kiếp cả đời

Chẳng tài thay đổi, chẳng nơi an nhàn.


Nào đâu lẽ Đạo mệnh mang,

Tỏ Thân cải Mệnh, vững vàng trí yên.

"Xấu" thì ta chuyển cho "xinh",

Hạn thời tích đức, Vận thời gắng công.


Thành tâm, giữ thiện trong lòng,

Lo gì Vận Hạn, nhọc chi Sang Hèn

Thong dong ta bước an yên,

Đời đời vẫn cứ, "Phượng" yên "Các" lầu !



Sửa bởi HieuHcmVN: 17/08/2025 - 10:43


#83 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 511 Bài viết:
  • 239 thanks

Gửi vào 18/08/2025 - 10:08

9. TÀI BẠCH (財帛):

Chữ Tài (財) gồm bộ 貝 (bối) kết hợp với chữ 才 (tài). “Bối” nghĩa là vỏ sò – vật sử dụng làm tiền tệ thời cổ đại. “Tài” (才) nghĩa là khả năng, trí tuệ, sự giỏi giang (có hình tượng như cây lên từ mặt đất), hàm ý rằng “cây” tiền bạc được nảy sinh từ “mảnh đất” tài năng trí tuệ, nhờ khả năng xử lý các công việc và giải quyết các vấn đề phát sinh trong đời sống.

Chữ Bạch (帛) gồm chữ 白 (bạch) kết hợp với bộ 巾 (cân). “Bạch” nghĩa là màu trắng; là sạch sẽ, tinh khiết; cũng nghĩa là đơn giản, dễ hiểu. “Cân” nghĩa là khăn quấn đầu, khăn xếp – biểu tượng cho tầng lớp tri thức hoặc tầng lớp quý tộc thời cổ. Sau này “Cân” mở rộng ý nghĩa ra thành vật phẩm liên quan tới vải vóc, trang phục. Chính vì thế, chữ “Bạch” (帛) ngày nay được hiểu với nghĩa là vải lụa – thứ dệt bằng tơ trần màu trắng; biểu thị cho sự “sang trọng” đến từ hiểu biết, phục sức quý giá nhờ sự giàu có mang lại.

Thế thì “Tài Bạch”, hiểu theo nghĩa thông tục, là Giàu Sang, Phú Quý. Tiền nhiều nhờ có kỹ năng giỏi nên gọi là Giàu; Biết ăn mặc cư xử lễ độ, có chừng có mực, sài tiền đúng cách, sở hữu và mang trên mình những vật chất quý giá, phong thái khiến người quý trọng tôn kính – như thơm sạch, tinh tế, thanh lịch, uy tín, phẩm giá v..v - gọi là Sang. Có những người Giàu mà không Sang, cho nên không được người coi trọng, lý do là họ không có đủ sự hiểu biết và thực tập để hình thành nên cốt cách cao quý tương xứng với tài sản. Xét tổng thể, sự hiểu biết là gốc của Giàu Sang, mà thể hiện ra rõ nhất ở mặt “Sang”, cho nên lấy Sang làm gốc, như lấy tri thức hiểu biết làm gốc của tài năng, mà tài năng lại là nguồn sinh ra của cải tức sự “Giàu”, do đó “Sang” có thì “Giàu” có, Sang là nhân của Giàu.

Tuy nhiên, trên thực tế, rất khó để học làm Sang trong khi bụng đói và túi rỗng phải không ? Làm sao có thể “cao quý” khi mà vẫn còn phải hạ thấp bản thân xuống để xin xỏ, vay mượn, nhờ cậy v…v người khác đưa tay nâng đỡ, cứu giúp bản thân và gia đình mình cơ chứ ?! Thế thì rõ ràng “Đồng tiền đi liền khúc ruột”, lòng dạ muốn tốt tươi thì của tiền cứ phải chắc túi nặng bị thì mới dễ thi hành Đạo đức Lễ tiết Nhân nghĩa, nay ta ý cứ vào hiện thực làm chuẩn mực, nên lấy Giàu làm nhân của Sang, Tài làm nhân của Bạch, Tài có thì Bạch mới có vậy.

Vậy thì cái gì khiến cho “Tiền vô như nước sông Đà” ? Và cái gì khiến cho thân cao phận quý như là Thần Tiên ?

Người xưa đã tổng kết rồi:

“Tài năng trí tuệ nên sự nghiệp, Nhân hòa Đức độ tạo thành công !"



Bất nhân bất nghĩa, vô lễ thất đức thì làm sao mà “Sang” mà thành công cho được, còn nếu được thì là được trong bao lâu ? ; Cộng thêm lười biếng, dốt nát, ỷ lại, hưởng thụ... thì làm sao mà “Giàu” cho nổi. Chưa cần phải biết tới Vận Hạn hay Mệnh Số định nghiệp ra sao; trước tiên cứ phải theo lẽ thường, học lẽ chánh mà nỗ lực (ở trong Kinh Dịch, Thánh nhân đã chỉ dạy rõ ràng, xem: https://tuvilyso.org...dich-co-gi-hay/), uốn nắn bản thân mình trước đã, để cho “thuyền” chắc “buồm” vững, khi ấy mới nói tới cưỡi sóng vượt gió, làm nên công danh sự nghiệp hiển vinh với Đời được.

Nhìn cả lộ trình từ Thiên Di tới Tài Bạch, thì Tật Ách chính là rào cản, mọi hành động thay đổi đều nhằm vươn tới Tài Bạch, nhưng do Tật Ách mà có người đạt được, có người phải dừng chân. Do đó, đặt Tật Ách phía trước Tài Bạch, để làm sáng tỏ cái lý: chẳng có thành công, giàu sang nào tới đến dễ dàng cả, tất cả đều có cái giá của nó, biểu hiện ra ở Tật Ách đó vậy. Dám chấp nhận trả giá, nỗ lực vượt qua được thử thách khó khăn thì mới vươn tới được ước mơ của vạn người muôn người trong cuộc đời này. Đường đi vốn dĩ là không có bằng phẳng đâu, chẳng có việc gì là dễ dàng cả, đồng tiền được đánh đổi bằng "xương máu", rất khó được, cần phải mạnh mẽ và tỉnh táo !




Sửa bởi HieuHcmVN: 18/08/2025 - 10:34


#84 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 511 Bài viết:
  • 239 thanks

Gửi vào 18/08/2025 - 22:34

10. TỬ TỨC (子息):

Tử () nghĩa là con cái nói chung, bất kể là nam hay nữ. “Tử” con đối với “Mẫu” mẹ mà lập, đã nói tới con là con của cha mẹ, được mẹ sinh ra. Hai người nam nữ cảm mến nhau, đứa con chào đời là xợi dây liên kết giữa hai người, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Khi đứa trẻ ra đời, ghi giờ đặt tên, lúc ấy vị trí cha mẹ tự thành, vị trí vợ chồng cũng theo đó được lập, bởi thế “Tử Tức” xuất hiện thì “Phu Thê” đứng liền kề phía sau.

Lại lo thân chưa xong thì chẳng mấy ai có thể đảm đương trách nhiệm lo cho người khác được, chỉ có người tự lập rồi, độc lập rồi mới có thể mang lại hạnh phúc cho người khác được trọn vẹn mà thôi. Dựa trên tính logic thứ lớp trước sau này trong thực tế cuộc sống xưa cũng như nay, mà cổ nhân đặt “Tài Bạch” phía trước “Tử Tức” mà chẳng đặt phía sau, ý chỉ cho cái chân lý: lập thân, lập nghiệp, rồi hẵng thành gia, lập thất, sinh con đẻ cái; như thế sẽ tốt đẹp cho cả mình và người vậy.

Chữ Tức () gồm chữ 自 (tự) kết hợp với bộ 心 (tâm). “Tự” nghĩa là riêng tư, bản thân mình; cũng nghĩa là chỗ khởi đầu cho sự xuất hiện của cái gì. “Tâm” nghĩa là trái tim, là lòng dạ, tư tưởng. Ngày xưa, xác định sự sống chết của một con người là tim ngừng đập, phổi ngừng thở. Sau này, khoa học tiến bộ, phát hiện có những trường hợp là “chết lâm sàn”, tuy tim ngừng đập phổi ngừng thở, xong chưa phải chết thiệt, vẫn có thể khôi phục lại sự sống, do đó chỉ khi nào não bộ tê liệt hoàn toàn, tim ngừng đập và phổi ngừng thở người ta xác định là đã chết rồi.

Không phải ngẫu nhiên, cha ông ta để trong quan 3 ngày, rồi mới khâm niệm, chôn cất, bởi thời gian đó đủ để cho mọi biến cố giúp “cải tử hoàn sinh” có thể xảy ra. Chưa kể là, đối với các bậc tu thiền nhập định sâu, tới nhị thiền – định sinh hỷ lạc – thì cơ chế hô hấp chuyển từ phổi qua các lỗ chân lông trên da, thành ra rờ ngực mũi gần như không cảm nhận được chuyển động, so với người chết thông thường chỉ khác độ ấm nóng và tư thế tỉnh thức mà thôi. Do đó, trước cái chết của một ai đó thì một là 8 tiếng đầu hạn chế động chạm quá mạnh bạo bất ngờ, khiến thần thức người chết có thể bị rúng động, bởi trong 8 tiếng đầu, tùy cơ thể đã chết, các yếu tố hợp thành thân bắt đầu tan rã, nhưng giây thần kinh cảm giác chưa đứt hẳn, đụng chạm có cảm giác khó chịu, nếu người thường không tu tập dễ khởi niệm xấu ác, khiến tạo nghiệp lâm chung gọi là “cận tử nghiệp”, dẫn hướng thần thức về cõi chẳng lành. Hai là đứng quá vội vã chôn cất hay hỏa táng, cứ theo lệ xưa mà làm, phòng tránh những trường hợp bất ngờ xảy ra.

Khi đưa bé dưới dạng bào thai trong bụng mẹ, thì Tim chính là cơ quan hình thành trước nhất, khi Tim đập tức là sự sống bắt đầu. Con người sống được là nhờ hô hấp và trao đổi chất với môi trường bên ngoài, ngừng ăn chỉ uống nước có thể vài tháng mới chết, ngừng uống nước thì vài ngày là chết rồi, nhưng ngưng thở chỉ sống được vài phút. Do đó, hơi thở đại biểu cho sự sống, quyết định sự sống. Trái tim thì biểu đạt cho sự sống tồn tại và xuất hiện. Cho nên, từ “Tâm” mà thành “Tự”, chữ “Tức” mớii mang nghĩa là hơi thở, hàm ý sự sống, cuộc sống tiếp nối nhờ hơi thở và giống loài tiếp nối nhờ đứa trẻ. Tử là đứa bé, đứa con, cũng vẫn là một con người, mà sự sống của con người do hơi thở quyết định, cho nên Tức có thì Tử có, Tức là nhân của Tử.

Người xưa sinh đẻ vô kế hoạch, để việc sinh nở thuận theo tự nhiên, có chăng là chú ý tới thời điểm quan hệ hay thực phẩm bổ dưỡng, nhằm đạt được con cái theo giới tính như ý và cơ thể khỏe mạnh tốt đẹp cho cả mẹ lẫn con. Việc có “đông con nhiều cháu” được coi là một dạng Phúc, cho nên con cháu đầy nhà (“Tử tức mãn đường”) thì vui cửa vui nhà, lúc trẻ thì có người đỡ đần, về già còn có người nương cậy, cho nên đẻ càng nhiều càng tốt, đất rộng người thưa, tài nguyên phong phú, Trời sinh Đất dưỡng, chẳng lo chết đói hay thiếu thốn gì cả, đẻ tới khi nào “hết trứng” thì thôi.

Ngày nay thì khác rồi, đặc biệt là ở nơi thành phố lớn, việc sinh con đẻ cái luôn được cân nhắc rất kỹ càng, có biện pháp phòng ngừa, có dự tính hẳn hoi. Tùy theo hoàn cảnh, điều kiện kinh tế, mà sinh mấy đứa, nuôi dưỡng thế nào, chăm sóc dạy dỗ ở đâu ra sao v…v tính phức tạp của thời cuộc, không cho phép việc này được xảy ra tự nhiên, thậm chí nếu như khó khăn quá ấy thì còn hạn chế và không muốn thực hiện “duy trì nòi giống” nữa, vì nó nặng nhọc quá sức, lại chiếm hết sự tự do, còn đâu cơ hội tung tăng của thời vàng son cuộc đời ngắn ngủi. Việc già hóa dân số tại các nước phát triển, tỷ lệ sinh giảm, tỷ lệ ly hôn tăng, tỷ lệ nạo phá thai nhiều v…v là những minh chứng thực tế cho xu hướng mới của thời đại công nghệ 4.0, trong vấn đề “Tử Tức”.

Thế là trong giới trẻ ngày nay, cả nam lẫn nữ, đều sống nhanh và đẻ “chậm”, việc sinh con đẻ cái đã bổ sung thêm quan điểm, không hẳn chỉ mang theo ý nghĩa như trước đây nữa, mà còn nảy ra suy nghĩ rằng: sinh thường thì chồng “chê”, đẻ nhiều thì sắc xuống, vợ chê chồng chán thì gia đình dễ tan vỡ vì vấn đề ngoại tình. Nhất là với những gia đình kinh tế có điều kiện, việc các bạn trẻ ngày nay phóng khoáng hơn, biết chăm sắc thể chất hơn, ăn mặc “kích dục gợi tình” hơn, có nhiều cuộc vui thâu đêm và nhiều hóa chất kích thích hơn v..v cộng thêm nhu cầu vật chất thêm lớn mà lại muốn nhanh được hưởng thụ, thì sẽ sẵn sàng đánh đổi danh phận địa vị, bỏ qua chuẩn mực đạo đức, xen vào các gia đình đang yên ấm để giành lấy tiện nghi vật chất, tự biến mình thành “con giáp thứ 13”, thành “tiểu tam”, “trà xanh” v..v Hoặc là các ông chồng thừa tiền động “đực”, các bà vợ chiều quá hóa “hư”, tự mình phá bỏ hạnh phúc của chính mình, đi tìm tới “người thứ ba” lén lút âm thầm, lại càng tăng thêm rủi ro tan vỡ hạnh phúc gia đình, do đó hạn chế sinh sớm hay sinh nhiều cũng là điều thuận theo thời cuộc mà ra .

Nhưng xét cho cùng, đứa con xuất hiện giúp cho vợ chồng gắn kết chặt chẽ hơn, giảm bớt khả năng xa lìa khi gặp biến cố, cũng như tăng thêm động lực để cố gắng làm lụng nhằm mong muốn con cái mình được học hành đầy đủ, có công danh sự nghiệp với Đời, thành người có ích cho Xã hội. Thế thì hãy có con đi và hãy vì con mà cố gắng đi, điều đó vừa thiêng liêng, mà cũng thật là tuyệt vời !



#85 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 511 Bài viết:
  • 239 thanks

Gửi vào 20/08/2025 - 21:08

11. PHU THÊ (夫妻):

Chữ Thê () gồm bộ 女 (nữ) kết hợp với chữ 帚 (trửu) và nét 一 (nhất). “Nữ” là người nữ; “Trửu” là cái chổi quét nhà; mở rộng ra là vật dụng giúp làm cho nhà cửa sạch sẽ, ngăn nắp, gọn gàng; “Nhất” là đầu cả, là suốt (đời). Người xưa chấp nhận chế độ nhiều vợ, vợ đầu gọi là “thê” tức vợ cả, từ người vợ thứ hai trở đi gọi là thiếp (妾) tức vợ lẽ, người vợ cả sẽ thay chồng quán xuyến mọi việc lớn nhỏ trong gia đình, chăm sóc con cái, phụng dưỡng cha mẹ, sắp đặt quản lý cả các vợ lẽ, chữ “nhất” cấu thành chữ “thê” nhằm ám chỉ cho vai trò này. Ngày nay, tại một vài đất nước theo Hồi giáo hay dân tộc thiểu số, vẫn chấp nhận chế độ đa thê, xong có quy định chặt chẽ cả về vật chất lẫn tinh thần, đảm bảo cuộc sống của người phụ nữ trong hôn nhân được tốt đẹp. Tại nước ta hiện nay, không còn chấp nhận chế độ đa thê công khai, cho nên chữ “thê” có nghĩa là người phụ nữ đi lấy chồng, là người vợ chịu trách nhiệm lo lắng quán xuyến việc nhà – những sự vụ thuộc phạm vi nội bộ cuộc sống một gia đình thì gọi là Thê.

Chữ Phu (夫) gồm chữ 大 (đại) kết hợp với nét 一 (nhất). Thời cổ đại, khi con trai đến tuổi trưởng thành (khoảng 20 tuổi), sẽ có một nghi lễ gọi là "Quan lễ" (冠礼) hay còn gọi là "Lễ Đội Mũ". Trong lễ này, họ sẽ búi tóc lên và dùng một cây trâm để cài lại (biểu tượng bằng nét “nhất”), đánh dấu sự trưởng thành, từ đó có thể lập gia đình và tham gia các công việc xã hội. Cho nên chữ Phu nghĩa là người đàn ông trưởng thành, có thể gánh vác việc lớn (“Đại”); trưởng thành rồi thì có thể lấy vợ, do đó có thêm nghĩa nữa là người chồng, đảm trách việc “đối ngoại”, việc nặng nhọc, việc khó khăn v…v từ đấy trở thành “trụ cột gia đình”.

Mối quan hệ vợ chồng không những đại biểu cho sự kết hợp nam nữ nảy sinh từ tình yêu tự nhiên, mà còn đại biểu cho mối liên kết giữa hai gia tộc, do đó người xưa rất coi trọng sự “môn đăng hậu đối”, “nồi nào vung đó” v…v điều này sẽ mang lại sự hòa đồng dễ dàng nhờ đồng cảnh trạng, đồng tư duy hiểu biết, ngoài ra còn giúp củng cố sự thịnh vượng chung của các gia tộc, ảnh hưởng rất lớn tới tiền đồ của con cháu trong dòng họ hiện tại và mai sau.

Có rất nhiều nguyên nhân phổ biến đưa tới sự tan vỡ hạnh phúc gia đình:

1. Nhu cầu tăng cao, tài chính thiếu thốn, không thể đồng cam cộng khổ cùng nhau.

2. Mâu thuẫn gia đình, quan hệ giữa người thân anh em họ hàng bất hòa.

3. Không có con cái vì lý do khách quan.

4. Ghen tuông mù quáng, hiểu lầm tiêu cực, kìm kẹp tinh thần thể xác mất đi sự tự do cá nhân.

5. Quá nhiều lời, đặc biệt lời xúc phạm, gây tổn thương cảm xúc, tích tiểu thành đại, vượt ngưỡng giới hạn rồi chia ly.

6. Bệnh tật, ốm đau kéo dài, chăm sóc qua loa, suy nhược tinh thần, thân tâm cực khổ.

7. Nhu cầu tình dục không được thỏa mãn, không hòa hợp hay ham muốn quá mức, đòi hỏi quá cao, bị hấp dẫn bởi sự “mới lạ”, đánh mất tự chủ dẫn tới ngoại tình, rồi tan vỡ.

8. Người làm người phá, người siêng người lười, chơi bời nhậu nhẹt, đàn đúm cờ bạc v..v dẫn tới vay mượn, nợ nần, trộm cắp, lừa dối mà ly hôn.

9. Chênh lệch trình độ, khoảng cách tăng dần, nhan sắc tàn phai chẳng còn xứng đôi vừa lứa, đám tiệc cô đơn vì e ngại mà chẳng dắt dẫn nhau cùng đi, tình cảm lâu dần rạn nứt, khi có ngoại cảnh tác động liền tan vỡ theo.

10. Sinh ly tử biệt, duyên số chẳng thể bên nhau lâu dài (như sinh con ra rồi mất, tai nạn giao thông, đột quỵ mất sớm v..v)

Do đây mà cần phải có sự nỗ lực từ hai phía, sự thông hiểu từ hai chiều và sự khéo léo nhún nhường cương nhu trong cuộc sống phức tạp nhiều biến động, vợ chồng mới có thể sống với nhau tới “đầu bạc răng long”, mới có thể chứng kiến cháu con sum vầy, mới có thể an hưởng tuổi già, rồi ra đi thanh thản, kết thúc trọn vẹn tốt đẹp một cuộc đời thiện lương, hạnh phúc và bình an.


Sửa bởi HieuHcmVN: 20/08/2025 - 21:22


#86 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 511 Bài viết:
  • 239 thanks

Gửi vào 21/08/2025 - 11:21

12. HUYNH ĐỆ (兄弟):

Huynh đệ nghĩa là anh em trai, thế nhưng trong gia đình thì không phải chỉ có anh em trai, có cả chị em gái nữa như vậy đúng ra phải là Huynh đệ Tỷ muội (anh em trai, chị em gái ) mới đầy đủ, thế tại sao ở đây chỉ có Huynh đệ ? Là vì “Huynh đệ” không chỉ đơn thuần phân biệt giới tính con cái trong nhà, mà còn chỉ cho vai trò và thứ lớp quan trọng của người nam trong một gia tộc, đảm nhiệm trọng trách thờ cúng Tổ tiên. Một số vùng đất của Việt Nam hiện tại, vẫn còn giữ gìn văn hóa này, duy trì vị thế người “con trưởng” của dòng Tộc, có tiếng nói quan trọng, được quyết định cuối cùng, thể hiện sự đồng lòng của cả dòng Tộc trong các vấn đề chung.

Chữ 兄 (Huynh) gồm bộ 卩 (tiết) kết hợp với chữ 口 (khẩu). Bộ “Tiết” có gốc từ chữ 節 (tiết) nghĩa là lễ nghi, ngày lễ. Chữ “Khẩu” nghĩa là cái miệng, là lời nói – chữ dưới dạng thanh âm. Hàm ý rằng, “Huynh” là người con trai đứng đầu, đảm trách việc khấn cầu tế lễ, là chủ xướng trong các nghi thức quan trọng.

Chữ 弟(Đệ) gồm bộ 弓 (cung) kết hợp với chữ 弟 (đễ). Bộ “Cung” nghĩa là cây cung, gồm một khung (xưa bằng gỗ) và dây căng buộc hai đầu, cây cung nếu thiếu dây hay khung gỗ thì đều chẳng được, nhờ tính khăng khít không thể tách rời này, cộng thêm biểu hiện mạnh mẽ của hình ảnh cây cung – là vật dụng trong chiến đấu, mang lại sức mạnh; do đó biểu tượng cho tình “huynh đệ” là bền chặt không rời, nếu chia rẽ thì sẽ đánh mất đi sức mạnh nội tại vốn có của nó. Chữ “Đễ” nghĩa là hòa thuận, là kính mến kính trọng người trên, cụ thể là anh chị trong nhà, như thế mới đúng Đạo làm em. Do đó, mà chữ “Đệ” có nghĩa là em trai – người biết kính trọng hòa thuận với thân quyến ruột thịt.

Như vậy, chữ “Huynh đệ” đã bao gồm cả sự kính trọng Tổ tiên, trật tự thứ lớp trên dưới trong gia đình dòng họ, sự yêu thương hòa thuận giữa anh chị em trong một nhà và chưa đựng cả sức mạnh to lớn do đoàn kết gia đình, gia tộc tạo nên. Nay lấy Tổ tiên làm gốc để lập thân, nên lấy “Huynh” làm nhân của “Đệ”, “Huynh” có thì “Đệ” có. Cũng như trên kia khi xét “Phu Thê”, thì “Phu” là nhân của “Thê”, “Phu” có thì “Thê” có, do Phu là người trụ cột, là người lo việc đại sự, quyết định cuối cùng trong các vấn đề hệ trọng, với khả năng gánh vác bao bọc lo toan cho toàn thể gia đình vậy.

Vì lẽ gì mà xếp đặt "Phu thê" phía trước "Huynh đệ" ?

Như trên đã xét, vai vế "cha mẹ", "vợ chồng" chỉ xuất hiện và duy trì bền chặt khi có xợi dây nối là Tử tức ra đời. Khi con cái trưởng thành, thành gia lập thất riêng rồi, nhiều khi do chăm lo cho gia đình riêng mà sao lãng đi tình nghĩa thâm sâu ruột thịt, thậm chí còn vì cái gia đình "mới" này mà hi sinh đánh đổi, mất đi ý nghĩa "một giọt máu đào, hơn ao nước lã", tỵ hiềm lẫn nhau, tranh giành gia sản đất đai cha mẹ quá vãng để lại. Do đây mà đặt "Phu Thệ" ngay cạnh "Huynh Đệ", ý cứ vào chỗ nặng nhẹ trọng khinh thực tế diễn ra trong đời sống mà "Phu Thê" lại đứng trước chẳng đứng sau. Sắp đặt như vậy không chỉ phản ánh đúng thực tế tâm lý xã hội xưa nay, còn khéo léo nhắc nhở mọi người nên biết cân bằng hài hòa giữa hai mối thâm tình lớn này.


Sửa bởi HieuHcmVN: 21/08/2025 - 11:40


#87 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 511 Bài viết:
  • 239 thanks

Gửi vào Hôm nay, 09:11

LỊCH CAN CHI


Không có cơ sở thực tế thì làm sao làm Lịch, không có Lịch thì làm sao tính Giờ, không có Giờ thì làm sao lập thành Lá số Tử Vi, do đó chẳng hiểu Lịch Số thì chẳng quyết định được tại sao lại quy định như thế, nên lấy Lịch làm đối tượng để xem xét tiếp theo.

Giáo sư Hoàng Tuấn, tiến sỹ y khoa, trong cuốn Nguyên lý chọn ngày theo Lịch Can Chi, NXB Văn hóa thông tin, 2003, tr44:

"...Đất nước của Kinh Dương Vương ở phía Nam cũng không thoát khỏi nạn bành trướng của các thế lực thiện chiến phương Bắc, họ không những chỉ chiếm cứ những miền đất phì nhiêu, mà còn xóa sạch nền văn hóa bản địa. Điều gì hay có thể tiếp thu thì họ ghi lại và du nhập làm văn hóa của chính quốc. Tính chất hủy diệt nền văn hóa để dễ dàng đồng hóa dân bản địa còn duy trì và kéo dài suốt lịch sử hàng ngàn năm với những cuộc chiến tranh xâm lược hết sức tàn bạo.


Như hồi Mã Viện sang đánh Hai Bà Trưng, khi thắng trận, y đã cho thu hồi những Trống Đồng của nền văn minh Văn Lang và Âu Lạc còn sót lại, đem phá hủy để đúc thành “cột đồng tru” chôn vùng biên giới, khắc chữ nguyền rủa người Giao Chỉ (tên người Hán gọi người Việt).

Đến cuối đời nhà Trần, quân nhà Minh sang đánh Hồ Quý Ly, đến khi thắng trận, họ cho thu hồi hết các sách do các học giả người Việt viết ra đem đốt sạch, chỉ để lại sách chữ Hán truyền sang.

Họ còn lùng bắt các nhân tài trong nước để đưa về chính quốc. Với những chính sách đó thì chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ, sau ngàn năm bị đô hộ, bị xóa sạch là điều tất yếu.

Vì vậy việc khảo sát lại nền văn hóa lâu đời của người Việt cổ qua lịch toán trên mai rùa và tìm lại nguồn gốc hệ Can Chi cùng những giải thích hợp lý thuở ban đầu là điều cần thiết và phải tốn nhiều công sức, không thể một sớm một chiều mà giải quyết được."



BỐN LỜI THỀ CỦA HAI BÀ TRƯNG


" Một xin rửa sạch Nước thù.

Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng.

Ba kêu oan ức lòng chồng.

Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này."

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi HieuHcmVN: Hôm nay, 09:27


#88 Tre

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2406 Bài viết:
  • 4076 thanks
  • LocationRừng

Gửi vào Hôm nay, 09:44

Thực tế không có ngàn năm đô hộ của phương Bắc, trong giai đoạn đó luôn có những cuộc đấu tranh dành quyền tự chủ của dân tộc mình. Tàu hay làm "lố" lắm, hay "phóng đại", "có khi chưa chiếm được mà hay cứ la làng là mình chiến thắng" dù rằng thực tế chưa bao giờ là như vậy

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Trong quyển LSPGVN của Ôn LMT, có một chương viết về Lịch Pháp từ thời Hùng Vương ấy.

Sửa bởi Tre: Hôm nay, 09:54


Thanked by 1 Member:

#89 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 511 Bài viết:
  • 239 thanks

Gửi vào Hôm nay, 09:56

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Tre, on 27/08/2025 - 09:44, said:

Thực tế không có ngàn năm đô hộ của phương Bắc, trong giai đoạn đó luôn có những cuộc đấu tranh dành quyền tự chủ của dân tộc mình. Tàu hay làm "lố" lắm, hay "phóng đại", "có khi chưa chiếm được mà hay cứ la làng là mình chiến thắng" dù rằng thực tế chưa bao giờ là như vậy

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Trong quyển LSPGVN của Ôn LMS, có một chương viết về Lịch Pháp từ thời Hùng Vương ấy.

Có thể đúng lắm ấy chớ, ngày nay TQ hay đi sao chép công nghệ của các nước cho nó lẹ thay vì tự mình nghiên cứu, sau đó về "nặn" lại ra một phiên bản khác, thông số còn kinh khủng hơn bản gốc (thực chiến thì chưa biết), văn hóa ấy chẳng phải gần đây mới có, di truyền trong gen rồi. Hí hí.

Cảm ơn Tre vì cuốn sách giới thiệu, sẽ tìm đọc ngay và luôn. Nhân tiện tại Việt Nam ta, người Mường ở Hòa Bình có bộ lịch Đoi, do khắc trên tre nên còn gọi là Lịch Tre rất thú vị, để bài sau đăng luôn.

Sửa bởi HieuHcmVN: Hôm nay, 10:04


#90 Tre

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2406 Bài viết:
  • 4076 thanks
  • LocationRừng

Gửi vào Hôm nay, 10:27

Bộ này có 3 quyển, sắp tới đây sẽ có thêm 2 quyển nữa viết đến năm 1945! Nếu có thời gian anh cứ đọc hết, mà tìm đọc bộ tái bản năm 2023 ấy vì bộ này tới thời điểm hiện tại là cập nhật đầy đủ và mới nhất. Anh sẽ bắt gặp hình ảnh về Tàu thôi, có văn bản, dẫn chứng, lập luận một cách khoa học hẳn hoi, chứ không phải vì mình yêu nước ghét nó mà nói khơi khơi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Sẵn đang nhắc về thời Hùng Vương, bây giờ có một giới học giả, tự thấy mình tri thức nhưng lại dẫn dắt bà con rằng, thời đại Hùng Vương là không có thật, làm thế hệ sau quên hết về thế hệ tổ tiên, không biết có bàn tay của Tàu không hay do người Việt Nam uống nước mà không nhớ nguồn nữa. Trong khi có Ngọc Phả đàng hoàng. Rất quý quan điểm của Cụ Hồ:

"Các Vua Hùng đã có công dựng nước,
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước"

Đỉnh!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

HieuHcmVN, on 27/08/2025 - 09:56, said:

Nhân tiện tại Việt Nam ta, người Mường ở Hòa Bình có bộ lịch Đoi, do khắc trên tre nên còn gọi là Lịch Tre rất thú vị, để bài sau đăng luôn.

Ya, đăng bài cho em đọc với.

Sửa bởi Tre: Hôm nay, 10:37


Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

4 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 4 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |