Ngũ Hành ai khéo tạo xoay,
Năm mùa: Xuân, Hạ, Trường thay Thu về.
Đông qua Xuấn tới lạ ghê,
Người sinh cũng có ngày giờ thuận theo,
Năm, tháng, tuần đủ năm điều
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đều ứng ghi.
LỊCH TRE ( LỊCH ĐOI)
Trích: Tạp chí dân tộc học số 3, 2020: LỊCH ĐOI CỦA NGƯỜI MƯỜNG , PGS.TS Nguyễn Duy Thiệu
Một năm lịch Đoi của người Mường có 360 ngày. Cụ thể về năm, tháng, tuần,ngày, giờ được xác lập như sau đây:
Năm: người Mường dựa vào sự tương thích của một chu kỳ vận động giữa mặt trăng và chòm sao Tua Rua để lập lịch. Những ngày chòm sao Tua Rua và Mặt Trăng đi song song với nhau, họ gọi là “Ngày sao Đoi mặt Tháng” (mặt Tháng tức mặt trăng).
Từ những kết quả quan sát sự vận động của trăng và sao Tua Rua, người Mường xưa đã xác định được sự vận hành của hai thiên thể này tuân thủ theo một quy luật nhất định.
Theo đó, quá trình vận động ấy có những ngày sao tua rua và mặt trăng song hành cùng nhau.
Cụ thể là: tháng ba vào hai ngày là mồng 4 và ngày 28; tháng 4 ngày 26; tháng 5 vào ngày 24; tháng 6 ngày 22; tháng 7 ngày 20; tháng 8 ngày 18; tháng 9 ngày 16; tháng 10 ngày 14; tháng 11 ngày 12; tháng 12 ngày mồng 10; tháng giêng ngày mồng 8; tháng 2 ngày mồng 6. Đến đây là hết một chu kỳ vận hành, người Mường coi là một năm. Năm sau tiếp theo, chu kỳ như vừa đề cập lại lặp lại. Cổ lịch Mường lấy ngày đầu của tháng 3, tháng có hai ngày sao tua rua song hành với mặt trăng (tháng 3) làm ngày khởi đầu của một năm (xem sơ đồ sau).
Tháng: một năm có 12 tháng, theo thứ tự từ tháng 1 (tháng Giêng) đến tháng 12. Lịch Mường cũng căn cứ vào sự vận hành của mặt trăng và chòm sao Khiên Ngưu (sao Tua Rua) để phân chia tháng và xác định Tiết thứ rồi chia năm làm 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông như lịch âm mà người Kinh vẫn dùng. Do sao Tua Rua vận hành nhanh hơn Mặt Trăng nên ngoại trừ tháng đặc biệt (tháng Ba) có hai ngày, những tháng còn lại mỗi tháng chỉ có một ngày mặt trăng và chòm sao Tua Rua đi song song cùng nhau. Người Mường cũng gọi tháng khởi đầu năm là tháng Giêng, nhưng theo lịch Mường thì tháng Giêng trùng với tháng 3 trong lịch âm (lịch mặt trăng) phổ thông mà người Mường cũng đang sử dụng.
Tuần: lịch Mường mỗi năm có 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày; mỗi tháng được chia
thành 3 tuần, mỗi tuần là 10 ngày. Ở tuần đầu từ mồng 01 cho đến ngày mồng 10 gọi là tuần Mộc mọoc, có nơi gọi là những ngày Cân. Từ 11 đến ngày 18 gọi là những ngày Trô ông Kháng, có nơi gọi là những ngày Lồ ông, từ ngày 19 cho đến ngày 30 gọi là những ngày Lụn, có nơi gọi là những ngày Cuối hay Cổi.
Ngày và tên gọi các ngày trong các tháng của một năm: mỗi tháng 30 ngày, trong đó có ngày tốt, ngày xấu, ngày may, ngày xui. Trong lịch Mường ngày may, ngày xui được xác định như sau: ngày khởi đầu năm, ngày mồng một, trong lịch Mường gọi là ngày Cân Troong. Ngày này cũng là ngày khởi đầu của tháng Giêng trong lịch Mường gọi là tháng Khóa Ngàng. Ngày mồng hai ngày Xướm Troong, mồng ba Kim Troong, mồng 4 Khóa Rỏ, mồng 5 ngày Kim Xa, mồng 6 ngày Xướm Xa, mồng 7 ngày Cân Xa, mồng 8 ngày Khóa Ngàng. Sau 8 ngày với 8 tên gọi như vừa trình bày, đến ngày tiếp theo (ngày mồng Chín) chu kỳ tên gọi trên được lặp lại. Cứ thế mà tính cho đến ngày 30. Các tháng tiếp sau: tháng hai và tháng ba, gọi là tháng Cân Troong, thì ngày mồng 01 gọi là ngày Xướm Troong. Tháng tư gọi là tháng Xướm Troong, ngày mồng 01 là ngày Kim Troong. Tháng năm và tháng sáu gọi là tháng Kim Troong, ngày mồng 01 gọi là ngày Khóa Rỏ. Tháng bảy gọi là tháng Khóa Rỏ, ngày mồng 01 gọi là ngày Kim Xa. Tháng tám và tháng chín gọi là tháng Kim Xa, ngày mồng 01 gọi là ngày Xướm Xa. Tháng mười là tháng Xướm Xa, ngày mồng 01 gọi là ngày Cân Xa. Tháng Một, tháng Chạp (tháng 11 - 12) gọi là tháng Cân Xa, ngày mồng 01 gọi là ngày Khóa Ngàng. Hết một năm, đến năm sau, chu kỳ như trên đây lại lặp lại. Nghĩa là khởi đầu từ tháng Giêng (tháng Khóa Ngàng), ngày mồng 01 gọi là ngày Cân Troong,... Cũng cần nói thêm, ngày mồng 4 trong lịch Mường là ngày mà sao Tua Rua và Mặt Trăng di chuyển song song với nhau, ngày đó tương đương với ngày mồng 5 lịch âm (lịch hiện vẫn được sử dụng). Nghĩa là ngày của lịch Mường chậm hơn ngày trong lịch âm lịch 1 ngày, do đó mà trong tục ngữ Mường có câu “ngày lui’’ là vì vậy.
Giờ tốt giờ xấu: trong ngày cũng có giờ tốt giờ xấu. Đối với lịch Mường, cách phân chia giờ và cách tính giờ tốt giờ xấu như sau: khởi đầu là giờ Hửng sáng, tiếp sau là các giờ Rạng đông, Mọc mặt, Trưa trẻ, Trưa cả, Tròn bóng, Chiều trương, Chiều ngăn, Lặn mặt, Dặt dậu, Cậu nằm, Xăm ngủ, đến Ngủ uổi, Ngủ trải. Khởi đầu tính giờ tốt, giờ xấu được tính từ giờ Hửng sáng đó là giờ Cân Troong, rồi cứ thế mà tính các giờ tiếp. Tùy theo giờ tương ứng với các tên tương thích (Cân Troong, Khóa Ngàng, Kim Troong, Khóa Rỏ, Kim Xa, Xướm Xa, Cân Xa, Xướm Troong) mà tính giờ tốt giờ xấu,...
(còn tiếp...)
Ps: Trên mặt Trống Đồng Ngọc Lũ, 14 tia sáng trong cùng có mối liên hệ gì với 14 giờ trong ngày của Lịch Đoi của người Mương ?
Sửa bởi HieuHcmVN: Hôm qua, 12:36