

TỬ VI LÝ SỐ
#61
Gửi vào 06/08/2025 - 03:42
Thanked by 3 Members:
|
|
#62
Gửi vào 06/08/2025 - 05:01
Và tốt nhất trong cuộc đời nói càng ít càng sống lâu
Giỏi như ông này mà gia đình 4 phương 8 hướng cũng chả để làm j
Cũng giỏi nhưng ko quán xuyến đc chuyện gđ
Thanked by 3 Members:
|
|
#63
Gửi vào 06/08/2025 - 08:04
Thanked by 1 Member:
|
|
#65
Gửi vào 06/08/2025 - 10:10
Có Tiền lấy Vợ sinh Con,
Có Đức có Phước, Điền Quan dồi dào.
Cha Mẹ, Huynh Đệ ra sao ?
Đều do Định Mệnh, "gá" vào tạo Thân.
Muốn Đi thuận lợi xa gần,
Nhờ Người Trợ Giúp, bằng không Ách Nàn.
Mười hai Cung Mệnh rõ ràng
Bách gia, trăm họ tạc ghi vào lòng.
Để cho xét rõ Tổ Tông,
Để mà giữ vững Rồng Tiên giống nòi.
Sửa bởi HieuHcmVN: 06/08/2025 - 10:17
#66
Gửi vào 06/08/2025 - 14:34
Về tính cách chia sẻ học thuật , cũng 2 đời vợ , cũng con gái đầu lòng , cũng trắng trẻo to cao , cũng từng đi Mỹ , nói chung được lòng đồ đệ đồ tôn, nhiều con nhang đệ tử , chỉ là ko đc lòng gđ lắm
Thanked by 1 Member:
|
|
#67
Gửi vào 07/08/2025 - 02:51
==============
Từ lúc nghe tin anh Nam Tiến tôi cứ nhớ chồng mình: những cái chết bất thình lình để lại nhiều tiếc thương cho người ở lại, cả người quen và không quen. Chồng tôi cũng có một cuộc đời rực rỡ và để lại bao tiếc thương cho người đời để đến hôm nay, tròn 10 năm, tôi và các con vẫn không nguôi thương nhớ; cha mẹ, anh em và bạn bè vẫn kể về Đạt béo với nhiều điều tốt đẹp. Những dấu ấn tốt đẹp ấy xoa dịu mọi nỗi đau cho người ở lại , là niềm tự hào làm vơi đi mất mát quá to lớn, đột ngột không chỉ hiện tại mà cả nhiều năm về sau.
Người ta nói, người ra đi là người đã hoàn thành xong sứ mệnh ở cuộc đời này. Anh Nam Tiến đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ với cuộc đời nên anh ra đi gọn gàng thanh thản lắm.
Em biết anh lâu rồi- trên mạng , đang nhờ cô em thân thiết của anh setup cho một gặp để đàm đạo chuyện giáo dục. Thế rồi, cơ duyên làm sao, anh em ta đã kịp có một cuộc điện thoại nhanh về AI trong mô hình trường học OMO và cùng cười khà khà là “ anh em mình zà mà não mở hơn cả tụi trẻ trâu” ; kịp bàn nhau về phân chia phân khúc GD FPT và TTĐ nếu 2 trường ở chung một xóm và anh còn cười ha ha khi tôi bảo “ nếu có cháu nào lạc sang nhà anh nhớ dắt về trả cho em nhá”. Anh buồn cười khi tôi gọi anh là anh “ Nam lùi” vì zai HN dứt khoát không tiến vào Nam , anh đùa: “ uh thì Nam nào chả là Lam”. Cuộc điện thoại duy nhất, ngắn ngủi trong 30 phút mà trò chuyện dễ hiểu như đã quen thân từ lâu bởi vì anh dễ làm lây lan cái sự thân tình, chia sẻ . Năng lượng của anh như thói nam châm hút mọi người về phía mình, Bảo sao anh nhiều fan hâm mộ.
Cuộc sống vốn quý giá vì nó chỉ có giới hạn nhưng khi sống chúng ta thường xem nhẹ nó . Tôi trước tuổi 40 cũng ghê gớm, khắc nghiệt, cay độc với mình và với nhiều người chỉ với một lí do “ tôi quá vất vả và phải bao lo”. Chỉ đến khi lão gia mất đi mang theo mọi giấc mơ ngông cuồng, mông muội đầy kiêu hãnh về một người đàn bà có cuộc đời hoàn hảo thì tôi mới hiểu danh tiếng, tiền bạc cũng chỉ là phù du…. Thế nên 10 năm qua, tôi làm nhiều việc tốt hơn, sống tử tế, bao dung , rạch ròi sòng phẳng hơn với cuộc sống của mình . Dám yêu thương hết mình , dám buông bỏ những mối quan hệ làm mình bớt vui và làm tốt được cho ai là làm ngay không chờ mai, kia, kìa nữa . Sống như thể ngày mai không được sống nên bận, mệt mà vui lắm.
Chồng tôi, anh Nam Tiến đều đã có một cuộc đời đáng sống. Họ thông thái và giác ngộ về cõi tạm sớm nên tận hưởng cuộc đời nhiều ý nghĩa, nhiều niềm vui. Nay, Các anh xong việc rồi nên té cũng phải thôi. Em xin đưa tiễn anh Nam Tiến trong niềm hoan hỉ và đầy biết ơn. Anh đi rồi nhưng những giá trị anh để lại cho cuộc đời này thật lớn lao. “Có những cái chết hoá thành bất tử”- em không biết anh có trở thành bất tử không nhưng không nhưng chắc chắc nó sẽ thức tỉnh nhiều người về cách sống và cả lối sống.
Cầu cho linh hồn anh sớm được siêu thoát. Adidaphat
Thanked by 2 Members:
|
|
#68
Gửi vào 07/08/2025 - 08:03
Thanked by 3 Members:
|
|
#69
Gửi vào 07/08/2025 - 10:12
HieuHcmVN, on 01/08/2025 - 09:24, said:
ĐẤNG THOÁT VÒNG PHIỀN NÃO ( luôn an vui hạnh phúc ) ,
BẬC NHẤT THIẾT TRÍ ( hiểu biết tất cả một cách trọn vẹn, đầy đủ, đúng với sự thật),
NGƯỜI CÓ ĐẦY ĐỦ TAM MINH ( túc mạng, thiên nhãn và lậu tận )
Trong Kinh dạy Vacchagotta về Tam Minh [ ] ( Phạn: Tevijjavacchagotta sutta ), Phật dạy:
Khi nào Ta muốn, Ta sẽ nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, hai mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy Ta sẽ nhớ đến những đời sống quá khứ, cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
Này Vaccha, nếu Ta muốn, với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, Ta thấy sự sống chết của chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Ta nghĩ rằng: "Thật sự những vị chúng sanh này thành tựu những ác hạnh về thân, thành tựu những ác hạnh về lời nói, thành tựu những ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những vị chúng sanh này thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, Thiên giới, trên đời này". Như vậy, Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.
Thế thì:
Tử Vi ( 紫微 ) cũng chỉ nhằm làm rõ lẽ Sinh tử của kiếp người, tại sao có người sinh ra thì vào nhà giàu có, người lại vào nhà nghèo bần, có người sinh ra thì tươi tốt đẹp đẽ, có người sinh ra thì xấu xí khuyết tật, có người tài trí thông mình, có người ngu tối chậm lụt, có người may mắn hạnh phúc, có người thì bất hạnh khổ đau v..v Mà như trên Phật day: là do HẠNH NGHIỆP của chính người đó, do đó TỬ VI ĐẨU THƯ chính là sách ghi lại tổng quan về HẠNH NGHIỆP của mỗi một con người.
Chữ Tử trong Tử Vi, nó đồng nghĩa với Tử trong Tử Khí ( 紫氣 ) - là khí lành báo hiệu Thánh nhân xuất hiện và "Tử" trong Tử Y (紫衣) - là áo tím chỉ dành cho người có địa vị tối cao như Vua, Chúa, Đại thần xưa kia.
Tử - là màu đỏ tía, gần giống tím, đây là màu sắc rất hiếm trong thời cổ đại, nó biểu tượng cho sự cao quý quyền lực. Màu "Tía" là kết quả hòa hợp của màu đỏ với đen, thành màu đỏ thẫm. Có bài hát "Kiếp đỏ đen" chỉ cho sự "may rủi" của cuộc chơi khó đoán định, đời người như "cuộc dạo chơi" mà vận may tới mình cũng có màu "đỏ đen" như vậy. Cho nên, một chữ "Tử" này là đại biểu cho cả Đời người, mà ẩn tàng trong đó sự nhiệm mầu vi diệu, chẳng thể lường biết hết được đó thôi.
Vi - là cực kỳ nhỏ nhiệm, cũng nghĩa là giấu, ẩn tàng. Cái gì ẩn tàng ? đó là "Tập khí" tức Nghiệp Lực lôi dẫn con người ta tạo tác, hành động, tác động lên bản thân, tâm trí và hoàn cảnh, cải biến nó và xây dựng ra cảnh Đời của chính mình. Nó chính là "đều do hạnh nghiệp của họ" mà Đức Phật đã nói trong bài Kinh trên.
Chính vì vậy mới có câu: Hòa khí sinh tài, Lệ khí chiêu tài (和氣生財,戾氣招災); Tử khí đông lai tài nguyên cổn cổn ( 紫氣東來,財源滾滾 ); Chính khí tồn nội, tà bất khả can ( 正氣存內,邪不可干 ); Khí số dĩ tận, anh hùng vô dụng vũ chi địa (氣數已盡,英雄無用武之地) v...v < Nghĩa là: Khí hòa thuận tích cực thì phát sinh tài lộc, khí độc hại tiêu cực sẽ chiêu cảm hấp dẫn tai ương; Khí lành từ phương Đông tới, lộc lá tuôn chảy như suối nguồn vậy; Lòng ngay ngắn chính trực thì không tà ma độc khí nào có thể xâm hại mình được; Thời thế suy vi rồi thì dẫu là anh hùng cũng chẳng có đất dụng võ, cũng phải "anh chắp tay xin bó tay, thật là khó quá đi thôi" ! >
Hết thảy mọi cảnh tượng đều từ nơi Khí chất và Tính cách của mỗi người tạo dựng chiêu cảm đến, vậy học Đẩu Thư, luận Đẩu Số, nghiệm Tử Vi, tất phải quay lại chính bản thân mình mà xét rõ Thói Tính của chính mình, rồi nhận định sự dư tồn của thói xưa nghiệp cũ, mà khéo lẽo chuyển hóa "tiêu cực" nghiệp hạnh đi, thì tất là đạt được sự lợi ích của pháp môn Tử Vi Đẩu Thư, lại chẳng bị lọt vào đường cuồng mê tà tín, tất sẽ được sự lợi ích lớn lao.
HieuHcmVN, on 01/08/2025 - 11:39, said:
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Nam, Tây, Bắc.
Người có bốn thời: Thiếu, Thành, Trung, Lão.
Thiếu niên ứng Đông, Xuân
Thành niên ứng Nam, Hạ
Trung niên ứng Tây, Thu
Lão niên ứng Bắc, Đông.
Vạn vật trong Trời Đất đều chẳng ngoài Không gian, luôn biến đổi theo Thời gian, con người cũng là tạo vật nằm trong Trời Đất, cho nên cũng chẳng ngoài sự ấy.
Lấy Thiên bàn biểu trưng cho Không gian, lấy Địa bàn biểu trưng cho Thời gian. Từ trong ra ngoài, từ trên nhìn xuống, đặt cái "bánh giầy" tròn màu trắng tượng cho Trời ở trong nằm trên, đặt cái "bánh chưng" vuông màu xanh tượng trưng cho Đất nằm ngoài ở dưới. Lại trong trắng, ngoài xanh biểu trưng cho lòng thì trong sạch, hành vi thì thiện lành tươi tốt, ấy là tục truyền từ thời Hùng Vương thứ 6, ghi lại trong Truyền thuyết Lang Liêu, mà ông cha Tổ tiên linh thiêng bao đời của Dân tộc Đại Việt kiêu hùng, khéo léo giữ gìn truyền trao cho con cháu vào những lúc giặc giã tàn phá, sách chữ bị thu đốt cải sửa, ấy là truyền thống Văn Hiến ngàn năm trân quý.
Một dân tộc thiện lương, yêu chuộng hòa bình sao cản nổi vó ngựa của lũ nhẫn tâm ác tà, nhưng dồn tới đường cùng thì tất nhiên dòng máu Lạc Hồng phải vùng lên bảo tồn lấy nòi giống Tiên Rồng, do đó mà trong Linh hồn Trống Đồng có đầy đủ Kinh Dịch của cha ông, trong Bánh chưng bánh giầy có đầy đủ lẽ huyền vi của Tử Vi Đẩu Thư ngàn đời vinh hiển.
Cảm thán thay ông cha ta, tự hào thay dân tộc Việt !
HieuHcmVN, on 06/08/2025 - 10:10, said:
Có Tiền lấy Vợ sinh Con,
Có Đức có Phước, Điền Quan dồi dào.
Cha Mẹ, Huynh Đệ ra sao ?
Đều do Định Mệnh, "gá" vào tạo Thân.
Muốn Đi thuận lợi xa gần,
Nhờ Người Trợ Giúp, bằng không Ách Nàn.
Mười hai Cung Mệnh rõ ràng
Bách gia, trăm họ tạc ghi vào lòng.
Để cho xét rõ Tổ Tông,
Để mà giữ vững Rồng Tiên giống nòi.
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
12 Nhân Duyên
Đấng Toàn Giác, trong Tương Ưng Bộ - Samyutta Nikaya [ Xem: ]:
Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết và phân tích cho các Ông về lý Duyên khởi. Hãy lắng nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo, thế nào là lý Duyên khởi? Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là già, chết? Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác, bị già, yếu, suy nhược, răng rụng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ tàn lụi, các căn chín muồi. Ðây gọi là già. Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác, sự từ bỏ, hủy hoại, tiêu mất, tử vong, các uẩn hư hoại, thân thể vứt bỏ. Ðây gọi là chết. Như vậy, đây là già, đây là chết. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là già, chết.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sanh? Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác bị sanh, xuất sanh, giáng sanh, đản sanh, sự xuất hiện các uẩn, sự thành tựu các xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sanh.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hữu? Này các Tỷ-kheo, có ba hữu này: Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hữu.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thủ? Này các Tỷ-kheo, có bốn thủ này: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Này các Tỷ- kheo, đây gọi là thủ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ái? Này các Tỷ-kheo, có sáu ái này: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Này các Tỷ- kheo, đây gọi là ái.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thọ? Này các Tỷ-kheo, có sáu thọ này: thọ do nhãn xúc sanh; thọ do nhĩ xúc sanh; thọ do tỷ xúc sanh; thọ do thiệt xúc sanh; thọ do thân xúc sanh; thọ do ý xúc sanh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thọ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là xúc? Này các Tỷ-kheo, có sáu xúc này: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là xúc.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sáu xứ? Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sáu xứ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là danh sắc? Thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý; đây gọi là danh. Bốn đại chủng và sắc do bốn đại chủng tạo ra; đây gọi là sắc. Như vậy, đây là danh, đây là sắc. Ðây gọi là danh sắc.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thức? Này các Tỷ-kheo, có sáu thức thân này: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thức.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hành? Này các Tỷ-kheo, có ba hành này: thân hành, khẩu hành, ý hành. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là vô minh? Này các Tỷ-kheo, không rõ biết Khổ, không rõ biết Khổ tập, không rõ biết Khổ diệt, không rõ biết Con đường đưa đến Khổ diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vô minh.
Ðại kinh Ðoạn tận ái (Mahàtanhàsankhaya sutta) [Xem: ]
Này các Tỷ-kheo, Ta cũng nói như vậy: "Cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh", như vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não cùng sanh khởi. Như vậy, là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
Này các Tỷ-kheo, Ta cũng nói như vậy: "Cái này không có nên cái kia không có, cái này diệt nên cái kia diệt", như vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên sáu nhập diệt, sáu nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
TỬ VI ĐẨU THƯ
" CÁI NÀY CÓ, THÌ CÁI KIA CÓ"
Mệnh Vận (命運) cũng tức là Vận Mệnh.
Vận là di động, chuyển động; cũng nghĩa là xoay vần. Xoay vần như nào ? Như sinh rồi tử, tử rồi sinh, như Xuân qua Hạ tới Thu sang Đông về, như sáng tối ngày đêm đổi thay không ngừng không nghỉ v...v
Vận là chuyên chở. Chuyên chở cái gì ? Mệnh chuyên chở: mẹ cha, đức phước, ruộng đất, lộc tài quan chức, người hầu kẻ hạ ( phục vụ, sai khiến ), di chuyển đổi thay, ách nàn bệnh tật, của cải tiền tài, sinh con đẻ cháu nảy nở đơm hoa kết trái, vợ chồng thành đôi, anh em thành tựu. Hết thảy đều được "chuyên chở" nơi Mệnh cả.
Mệnh là mạng sống, là tuổi thọ; là cái chỉ thị định hướng cho hành động nào đó được diễn ra. Sự chuyển động, sự thay đổi có thì sự sống có, nên Vận có thì Mệnh có, còn sống là vì còn thở, còn động thì gọi là còn sống, kẻ chết rồi thì bất động chẳng còn thở ra hít vào được nữa, chẳng thể động đậy tạo tác hành động được nữa. Nên Vận là nhân của Mệnh, như Dịch là cội nguồn của TỬ VI LÝ SỐ đó vậy.
Phép đoán mệnh sở dĩ chính xác là vì nó thuận theo tính nhân quả, ông cha ta có câu: không có lửa, làm sao có khỏi; gió đằng Đông vừa trông vừa chạy, gió đằng Nam vừa làm vừa chơi v..v nhìn khói là biết có lửa, nhìn hướng gió là biết tới nhanh hay chậm, ấy là chỉ cho mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng nằm trong phạm vi chuyển biến của không thời gian. Tuy nhân có thì quả có, nhưng xoay chuyển qua lại thì cái vốn là quả tới lúc lại trở thành nhân, cái vốn là nhân lại trở thành quả (như nước bay hơi ngưng tụ thành mây, mây lại mưa đưa nước trở lại), nhân quả xoay vần, do đó Phật dạy: “cái này có thì cái kia có”, “cái này sinh thì cái kia sinh”…cái có trước là nhân của cái có sau thì cái có sau là điều kiện tồn tại của cái có trước.
Bởi thế mà 12 Cung từ Mệnh vận tới Huynh đệ: Nhân có Mệnh mà mới thọ Thân, thọ Thân từ trong bụng Mẹ thì Phụ Mẫu mới sinh thành, Phụ Mẫu sinh thành thì mới gieo Đức tạo Phúc, Phúc Đức của Mệnh mới phát huy tạo thành Điền Trạch, nơi ăn chốn ở học hành khác nhau mà trình độ khác nhau, Quan Lộ - Nô Bộc cũng có sự sai biệt. Có Quyền có Lộc, có Nô có Bộc thì đổi thay (Thiên) di chuyển (Di), Tật ách cũng nhân đó mà sinh, Tài Bạch cũng nương đó mà có. Có tiền có quyền thì đi đó đi đây, gặp người này người kia mà nên duyên vợ chồng, sinh con đẻ cái, con cái trong nhà sinh trước sinh sau mà từ đây vai về Huynh Đệ Tỷ Muội mới lập thành, trai lớn dựng vợ gái lớn gả chồng thì từ đây Phu Thê, con cháu mới đề huề đông đủ. Lớn thì chăm con, già thì chăm cháu. Lúc con cái thành gia lập thất thì cũng là lúc xế bóng chiều tà, già bệnh tới thân thì một đời khép lại. Tuy khép lại mà sự sống chẳng kết thúc, suốt một đời tạo tác đủ thứ, suy nghĩ vạn điều ấy là nhân gieo thành cái Mệnh đời sau lại thọ Thân, lại tiếp tục dòng xoay Nghiệp Mệnh trở lại. Xoay chuyển không cùng, chết là tái sinh, sinh là tiếp nối những gì quá khứ mình từng gây tạo, qua lại không cùng, kiếp kiếp nối nhau, tức là vòng Luân Hồi Sinh Tử vô cùng vô tận đó vậy.
Chữ Đẩu (斗) trong Tử Vi Đẩu Thư (紫微斗书), có nghĩa là : cái đấu, vật dụng để đong (đo) lường ngày xưa, thường làm bằng gỗ hoặc tre, dùng để đong lúa gạo, ngũ cốc, nó gắn liền với nền sản nông nghiệp lúa nước của Việt Tộc cổ xưa.
“Đẩu” cũng nghĩa là cao trội hơn, “Đẩu thư” nghĩa là cuốn sách nói về những thứ cao tột, chẳng phải theo nghĩa không gian ( cao, lớn ) hay địa vị (quý, sang), nó là chiều sâu tâm hồn, là “động cơ” điều khiển mọi hoạt động, mọi sự sống, nó là nguồn gốc tạo thành Đời sống, trong đó có tinh thần, thân thể, hoàn cảnh v…v
Cũng nghĩa là chòm sao Nam Đẩu, định hướng phương Nam nơi tộc Bách Việt sinh sống hình thành nhà nước Văn Lang, bên bờ Nam sông Dương Tử, gồm 6 ngôi sao trên bầu Trời tạo thành hình cái “đấu”.
Sửa bởi HieuHcmVN: 07/08/2025 - 10:17
Thanked by 1 Member:
|
|
#70
Gửi vào 07/08/2025 - 23:30
Thanked by 1 Member:
|
|
#71
Gửi vào 08/08/2025 - 19:12
Lư Hương sạ nhiệt,
Pháp giới mông huân,
Chư Phật hải hội tất dao vân.
Tuỳ xứ kiết tường vân,
Thành ý phương ân,
Chư Phật hiện toàn thân.
---
KINH BÁO HIẾU PHỤ MẪU TRỌNG ÂN
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá-vệ thành Kỳ thụ viên trung,
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra tới số hai muôn tám ngàn,
Lại cũng có các hàng Bồ-tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường,
Bấy giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành.
Đáo bán lộ đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời,
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng.
Đức A-Nan tủi lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương?
Vội vàng xin Phật dạy tường
Thầy là Từ phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: “Trong các môn đồ
Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công,
Bởi chưa biết đục trong cho rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu:
Đống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài,
Chắc cũng có ông bà, cha mẹ
Hoặc thân ta, hoặc kẻ ta sanh
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước thi hài còn đây.
Ta lễ bái kính người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.
Đống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái, bỏ bừa khó coi
Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam
Để cho phân biệt cốt phàm
Không còn lẫn lộn nữ nam chất chồng.”
Đức A-Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai,
Ngài bèn xin Phật chỉ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi, ăn mặc phân minh
Chớ khi rã xác, tiêu hình
Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.
Phật mới bảo: “A-Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng:
Đàn ông xương trắng nặng oằn
Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.”
A-Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân?
Thế Tôn mới bảo lời rằng:
“Vì ngươi, ta sẽ phân trần lắng nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con thập nguyệt cưu mang,
Tháng đầu thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường,
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc,
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng,
Bốn tháng đã tượng ra hình,
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng,
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ,
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn,
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ,
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình,
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng, đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân…
Khi sản xuất muôn phần an lạc
Cũng ví như được bạc được vàng.”
Thế Tôn lại bảo A-nan:
“Ơn cha nghĩa mẹ nhiều phần phải tin.
Điều thứ nhất, giữ gìn thai giáo
Mười tháng thường chu đáo mọi bề,
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần,
Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay,
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con,
Điều thứ năm, lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con,
Thứ sáu sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê,
Điều thứ bảy, không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền,
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo,
Điều thứ chín, miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi bị giam bị cầm,
Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn.”
Phật lại bảo: “A-Nan nên biết,
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân,
Chẳng kính mến, quên ơn trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao,
Ấy là bất hiếu mặc giao
Vì những người ấy đời nào nên thân.
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy,
Khi sanh sản hiểm nguy kể xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan,
Con còn nhỏ phải lo chăm sóc
Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con,
Phải tắm phải giặt rửa trôn
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì,
Nằm phía ướt, con nằm phía ráo
Sợ cho con ướt áo ướt chăn,
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương,
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con,
Khi con vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí huệ
Dựng vợ chồng có thế làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi,
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dẫu tốn hao đến mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần định tâm…
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này?
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ, lại bày ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ, phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh, nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra gì
Không tuân sư phụ, lễ nghi chẳng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chống báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên…
Vì lỗ mãn tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo thói hung hăng
Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung,
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang,
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người,
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công,
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ, vì con
Quên cha, quên mẹ tình thâm
Quên sứ quên sở lâu năm không về…
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hý mà thôi,
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình tù rạc phải vương,
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng, bỏ thân ngoài đồng…
Hay tin dữ, bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bệnh đui mù vấn vương,
Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn,
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mảii miếtt với đàng bất chánh
Chẳng mấy khi thức tỉnh mộ khan
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời,
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương…
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi,
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng, chẳng sá bên mình
Trước còn lai vãng viếng thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà,
Quên dưỡng dục song thân ân trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay,
Nếu cha mẹ la rày quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than…
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang…”
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong lòng đại chúng lòng càng thảm thay
Gieo xuống đất lấy cây lấy củi
Đập vào mình, vào mũi, vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy đều rướm máu ướt đầm cả thân
Đến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng:
“Bọn ta quả thật tội nhơn
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù!
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu?”
Trước Phật tiền, ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình?
Phật bèn dụng Phạm thinh sáu món
Phân tỏ cùng đại chúng lóng nghe:
“Ân cha nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu!
Ví có người ân sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu-Di
Đến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa!
Ví có người gặp cơn gió rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng!
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Đến trăm ngàn kiếp ân này thấm đâu!
Ví có người cầm dao thiệt bén
Mổ bụng ra rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng!
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Đâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền!
Ví có người vì ân dưỡng dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy tròn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền!
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Đến trăm ngàn kiếp ân trên chưa đền!
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền!...”
Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn,
Đồng thinh bạch Phật lời rằng:
“Làm sao trả đặng ân thâm song đường?”
Phật mới bảo: “Các hàng Phật tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau này,
Chúng ngươi muốn đáp ân dày
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền,
Vì cha mẹ trì kiên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam Bảo sớm trưa
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi,
Rằm tháng Bảy đến kỳ Tự tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn,
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình!
Mình cần phải cần chuyên trì giới
Pháp Tam quy, Ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Khá nên y thử phụng hành đừng sai.
Được như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa,
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay!
Sau khi chết bị đày vào ngục
Ngũ vô gián cũng gọi A-tỳ
Ngục này trong núi Thiết Vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề,
Trong ngục này hằng ngày lửa cháy
Đốt tội nhơn hết thảy thành than,
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhơn hành hình
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt da đau thấu tâm can,
Lại có chó sắt rắn gang
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn,
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phồng thịt đau,
Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương…
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le
Chớ chi đặng chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây!
Sự hình phạt tại A tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân,
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoản trên.
Nhất này phải kinh này in chép
Truyền bá ra cho khắp Đông, Tây
Như ai chép một quyển này
Ví bằng thấy đặng một vì Thế Tôn,
Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên,
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh Thiên cung…”
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng,
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài,
Dầu cho kéo lưỡi trâu cày
Đến trăm ngàn kiếp lời thầy không quên,
Ví như bị bá thiên đao kiếm
Khắp thân này đâm chém phân thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời thầy chẳng sai,
Dẫu thân này bị cưa, bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Đến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời thầy khuyên.
Đức A-nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu kinh
Ngày sau truyền bá chúng sanh
Dễ bề phúng tụng trì chuyên tu hành.
Phật mới bảo: “A-nan nên biết
Quyển kinh này quả thật cao xa
Đặt tên “BÁO HIẾU MẸ CHA”
Cùng là “ÂN TRỌNG” thật là chơn kinh.
Các ngươi phải giữ gìn châu đáo
Đặng đời sau y giáo phụng hành.”
Sau khi Phật dạy đành rành
Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui,
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn tuyền,
Đồng nhau tựu lại Phật tiền
Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra.
<Trích: >
2. PHỤ MẪU ( 父母 ):
Người nữ chưa sinh con thì danh xưng Cha (Phụ) Mẹ (Mẫu) chưa thành. Nam nữ kết đôi, đến khi giao hợp thì tinh trùng người nam gặp trứng người nữ ( thường ở trong ống dẫn trứng ), tạo thành hợp tử. Sau khoảng 5-6 ngày, hợp tử phát triển thành phôi nang, làm tổ trong tử cung người nữ. Tuần thứ 3, hình thành ống tim nguyên thủy, đây là cấu trúc sơ khai của tim thai. Tuần thứ 4, sau khoảng 22-23 ngày sau khi thụ thai): ống tim bắt đầu đập nhẹ , nhưng chưa rõ ràng. Đây chính là thời điểm nếu nạo phá thai sẽ mang theo nghiệp tội sát sinh ( cụ thể là giết người, theo luật Nhân Quả ).
Do đó, Âm trước Dương sau, Mẫu có thì Phụ có.
Kinh Đoạn Tận Ái, Trung Bộ, Phật dạy rằng:
Này các Tỷ-kheo, có ba sự hòa hợp mà một bào thai thành hình: ở đây, cha mẹ có giao hợp và người mẹ không trong thời có thể thụ thai, và hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Ở đây, cha và mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, nhưng hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Và này các Tỷ-kheo, khi nào cha mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, và hương ấm có hiện tiền; có ba sự hòa hợp như vậy, thì bào thai mới thành hình.
"Hương ấm" mà Phật dạy chính là phần Mệnh, "gá nương" vào phần thân xác của bào thai, nếu như nạo phá thai khi phần "hương ấm" đã gá nương - biểu hiện ở nhịp đập của tim thai, thì phần "hương ấm" ấy sẽ trở thành "bé đỏ" - oán linh, đôi khi theo phá hoại sự yên ổn của người nam nữ là cha mẹ "hờ" của bé.
Chính do những nguyên nhân này mà Mệnh Vận đứng trước Phụ Mẫu, chẳng đứng sau Phụ Mẫu trong 12 Cung. Và ngay khi được chào đời, thì giờ sinh có rồi liền an vị được Mệnh Vận và Thân trên Địa bàn 12 Chi.
Sửa bởi HieuHcmVN: 08/08/2025 - 19:40
#72
Gửi vào 11/08/2025 - 11:50
Có Cha Mẹ thì mới có Thân này, có Thân này thì mới tu Đức hưởng Phước được, cho nên Phụ Mẫu có thì Phước Đức mới có chỗ để biểu hiện ra ngoài, cho nên Phụ Mẫu đứng trước Phúc Đức. Ngược lại, nhân Phước Đức đời quá khứ thì mới đủ duyên làm con cái của Phụ Mẫu thiện lành đức hạnh giàu sang tôn quý đời này, nếu như thiếu phước thiếu đức đời hiện tại thì chẳng thể sinh vào nơi cao quý được, tất phải sinh trưởng trong gia cảnh thiếu thốn thấp kém bần hàn đời sau. Cho nên, trong Phụ Mẫu cũng ẩn tàng Phước Đức của đời trước.
Đây cũng là lý do vì sao chư Phật Trời ba đời, chư Hiền Thánh trong mười phương, cùng chư vị Thiên Tiên, thiện Thần đều khuyên răn: hành Thiện tích Đức, bởi Thiện Đức là gốc của sự tốt lành tươi đẹp, may mắn thuận lợi đó vậy. Trong Hồng Phạm Cửu Trù, chép lại tại Kinh Thư, có đề cập tới Ngũ phúc (năm thứ gọi là phúc) là một trong “Cửu Trù”: Thọ (sống lâu), Phú (giàu có), Khang ninh (khỏe mạnh thư thái), Du hảo đức (thiện lương, thảnh thơi và cao thượng) và Khảo chung mệnh ( sống hết tuổi Trời, ra đi nhẹ nhàng, chẳng đau bệnh khổ).
Hồng Phạm Cửu Trù (洪 範 九 疇): Văn học Trung Hoa cho rằng Vua Đại Vũ là tổ tiên của người Hoa Hạ, có công trị thủy và sáng tạo ra Hồng Phạm Cửu Trù.
Nhưng người Hoa Hạ nằm phía Bắc sông Dương Tử, sinh hoạt tồn tại nhờ săn bắn, cuộc sống du mục, bất định. Vì chủ yếu sinh sống nhờ thịt, sữa và rượu, họ rất nóng nảy hung dữ, hoàn cảnh sống trên thảo nguyên khắc nghiệt, vận động trên lưng ngựa khiến họ trở thành những người có sức mạnh thể chất và hiếu chiến.
Đâu có cuộc sống ổn định, tính cách hiền hòa và gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước như người Bách Việt ở Nam sông Dương tử, là yếu tố chính hình thành lên kinh nghiệm “trị thủy” – thoát nước khỏi ruộng đồng khi đẻ nhánh, trổ bông, lúa chín và dẫn nước vào ruộng khi gieo mạ, làm đòng.
Chữ Trù (疇) nghĩa là ruộng lúa, “cửu trù” là chín ô như thửa ruộng chia thành chín phần. Chữ Hồng (洪) nghĩa là mưa to, nước lũ, lũ lụt; Phạm (範) nghĩa là phép tắc, khuôn mẫu, giới hạn; là những quy tắc đúng đắn, phù hợp.
Thiên tai bão lụt là do con người sinh sống không hòa thuận, trái đạo nghĩa, làm nhiều điều thất đức cho nên chiêu cảm mà sinh ra, vì thế để “trị thủy” tận gốc thì phải trị dân, mà cách trị dân đúng đắn tức là xây dựng khuôn mẫu Đạo Đức cho dân chúng noi theo. Tất cả mọi người đều thiện lương, hòa thuận, thì đất nước chẳng có trộm cắp, binh đao, tự nhiên thiên tai lũ lụt hạn hán, mất mùa dịch bệnh chẳng sinh. Vì lòng người như “bộc lưu” – dòng chảy ý niệm không ngừng không nghỉ mạnh mẽ, cho nên “trị thủy” tức là trị nhân tâm, là uốn nắn dòng chảy ý niệm suy nghĩ của mỗi người theo khuôn mẫu phù hợp với nhân luân Thiên Địa.
Như vậy thì một dân tộc dựa vào “giết chóc” - như săn bắn là chính để tồn tại, dùng sức mạnh để tước đoạt thứ mình muốn theo kiểu “mạnh được yếu thua” thì làm sao có thể biết tới cái Đạo “Cửu Trù” để răn dạy cho con cháu nghìn năm như Tổ tiên ta vẫn hằng lưu giữ được. Và vó ngựa Nguyên Mông - tổ tiên người Hoa Hạ, mà giờ đây họ vẫn tự nhận – mặc dù có thể đạp bằng các dân tộc từ Âu tới Á, nhưng vẫn phải dừng bước 3 lần trước Đại Việt Kiêu Hùng, của Trần Triều hiển Thánh. Đó phải chăng không chỉ là sức mạnh của một Triều Đại huy hoàng thuộc lịch sử chống giắc ngoại xâm của Việt Tộc , mà đó còn là hồn thiêng sông núi nước Nam nghìn năm văn hiến phò trợ, để bảo tồn mảnh đất ven biển “cuối cùng” của nòi giống Tiên Rồng đó ư ! Thậm chí, Vua Quang Trung còn có ý định to lớn hơn, chỉ tiếc là thời vận chưa phù hợp nên người phải lìa trần quá sớm.
Sửa bởi HieuHcmVN: 11/08/2025 - 11:58
#73
Gửi vào 11/08/2025 - 18:17
Kinh Mangala Sutta (Kinh Phước Lành hay Kinh Phước Đức) là bản kinh số 5 trong Tiểu bộ thuộc phần Tiểu tụng, được phổ biến trong các quốc gia Phật giáo Nam truyền. Chữ “Mangala” tiếng Phạn nghĩa là điềm lành, phước báu, sự tốt lành. Ý chỉ cho việc Lành là nguồn cội tạo ra Phước báu, sự tốt đẹp. Việc lành cũng tức là Đức, sự tốt đẹp may mắn gặp phải cũng tức là Phước. Nhờ làm việc lành mà được hưởng thọ sự sung sướng tốt đẹp, cho nên Đức là nhân của Phước, Đức có thì Phước có. Dưới đây là nội dung của bản Kinh này:
1. Không gần kẻ ngu si,
Thân cận người hiền trí,
Cúng dường bậc xứng đáng,
Là phước đức lớn nhất
2. Ở trú xứ thích hợp,
Quá khứ tạo nhân lành,
Hướng tâm theo lẽ chánh,
Là điềm lành tối thượng
3. Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,
Giới luật biết tu tập,
Có những lời khéo nói,
Là điềm lành tối thượng
4.Hiếu dưỡng mẹ và cha.
Biết nuôi nấng vợ con.
Việc làm không xung khắc,
Là điềm lành tối thượng.
5. Bố thí, hành đúng pháp,
Giúp quyến thuộc họ hàng,
Hành xử không tỳ vết,
Là điềm lành tối thượng
6. Ghê sợ, tránh điều ác
Không nghiện ngập rượu chè,
Tinh tấn hành thiện pháp,
Là điềm lành tối thượng
7. Sống lễ độ, khiêm cung,
Tri túc và tri ân,
Đúng thời, nghe giảng Pháp,
Là điềm lành tối thượng.
8. Biết kiên trì, phục thiện
Thân cận giới xuất gia
Dự pháp đàm học hỏi
Là phước đức lớn nhất.
9.Sống tinh cần, tỉnh thức
Học chân lý nhiệm mầu
Thực chứng được Niết-bàn
Là phước đức lớn nhất.
10.Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động, không sầu,
An nhiên, không uế não,
Là điềm lành tối thượng
11. "Ai sống được như thế
Đi đâu cũng an toàn
Tới đâu cũng vững mạnh
Phước đức của tự thân."
<Trích:
Xem:
Sửa bởi HieuHcmVN: 11/08/2025 - 18:43
#74
Gửi vào 11/08/2025 - 21:06
Ngày 11/08/2025, tàu Trung Quốc va chạm tàu Trung Hoa, trong quá trình rượt đuổi tàu cá Philippines, trên "điạ bàn" của " Đông Hải Long Vương " !
Sửa bởi HieuHcmVN: 11/08/2025 - 21:28
#75
Gửi vào 12/08/2025 - 10:14
Ông cha ta có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, vì đời sống gắn liền với nông nghiệp, muốn “tốt lúa” thì phải “cầy sâu”, sức người chẳng thể nào cầy sâu cuốc bẫm được như trâu bò, nên lấy trâu làm biểu tượng cho khả năng phát triển sự nghiệp làm nông, mang lại lúa gạo hoa màu cây trái đủ đầy để duy trì đời sống.
Điền nghĩa là ruộng, đồng; cũng nghĩa là đất cấy cày nói chung. Người xưa chọn Điền rồi với định Trạch, tức là chọn chỗ canh tác rồi nương theo địa hình mà lập ấp, lập trại, xây dựng nơi ở sao cho thuận tiện cho việc đồng áng, chăm sóc hoa màu. Khoảng cách không quá xa (vài trăm mét tới 1km), ruộng bao quanh làng mạc, lại gần kênh mương dễ dẫn nước vào ruộng. Tại chỗ ở thì nuôi thêm súc vật lấy phân bón cho đồng lúa tốt tươi, nếu quá xa thì tốn sức tốn công, chính vì thế Điền là nhân của Trạch, Điền có thì Trạch có. Điều này vẫn còn đúng tại thời điểm hiện tại, nơi nào có nhà máy xí nghiệp, cơ sở kinh doanh thì nơi đấy nhà trọ, chợ tạm, nhà ăn, quán hát v…v mọc lên để phục vụ cho những người lao động tại những nơi ấy.
Các nôi văn minh của nhân loại đều xuất hiện sớm nhất và phát triển lớn mạnh từ khu vực Đồng Bằng châu thổ, nơi nguồn nước dồi dào, đất đai được phù sa bồi đắp màu mở phì nhiêu. Thế thì “Điền” tức là sự nghiệp chính giúp duy trì sự tồn tại của người xưa, ngày nay thì chẳng nhất định phải làm nông, kỹ nông công thương đủ nghề nghiệp cả, nên chữ “Điền” này cũng tức là chỉ cho nghề nghiệp, kỹ năng nuôi sống con người ta. Muốn biết nghề thì phải học nghề, nên trong “Điền” cũng ẩn tàng sự học tập rèn luyện để thành thạo một nghề nghiệp nhất định giúp nuôi sống bản thân, giúp một người từ địa vị dựa dẫm sang lệ thuộc rồi tiến tới tự lập.
Có Phước thì sinh vào nhà có điều kiện học hành, nuôi dưỡng đủ đầy cả về vật chất lẫn tinh thần. Kém Phước hơn một chút thì học hành dở dang, lao động làm lụng từ sớm, tuy chưa hẳn mù chữ, nhưng đường học dở dang, dẫn tới sự nghiệp chỉ loanh quanh mấy nghề lao động phổ thông chân tay lam lũ. Còn thiếu Phước thì sinh ra cảnh thiếu ăn thiếu mặc, lớn lên cảnh thiếu học thiếu hành, lang thang đầu đường xó chợ, vé xố ăn xin từ tấm bé, con chữ chỉ là tiếng à ơi của mẹ truyền qua thanh âm vô hình vô sắc…Cho nên Phước có Thân để biểu hiện ra thì gia cảnh cũng nương đó mà bày vẽ đủ màu đủ sắc, vì vậy mà Phước Đức đứng trước Điền Trạch, do chỗ mới sinh thì chưa thể tạo tác ra của cải, nên cái sự nghiệp của cải nơi ăn chốn ở vẫn chỉ là lưu xuất ra từ “tiền kiếp”, mà đặt để Phước trước Điền hầu nhằm sáng tỏ cái lẽ Nhân Quả Ba Đời, tiếp nối luân hồi không bao giờ ngừng nghỉ. Ông cha Ta vẫn dạy rằng: “Đời cha ăn mặn thì đời con khát nước”, “gieo gió thì ắt gặp bão”, “ở hiện thì được gặp lành” v..v cũng là chỉ cho cái lẽ “kế thừa” của Điền nơi Phước phần quá khứ tự gieo tự gắt đó thôi. Bé thì học hành, lớn thì làm việc, nhỏ thì hưởng phước, lớn thì tạo phước. Nhân rèn luyện Đức cần kiệm, lễ nghĩa hiếu trung mà sáng được cái Văn tài thao lược, mà thành được sự nghiệp, nên được công danh. Nhân Đức có Phước, nhân Phước có Điền, nhân Điền có Trạch v..v, cứ thế mà nối nhau sinh thành biểu hiện nơi đời sống tưởng chừng như đa dạng hỗn tạp khôn lường, mà nay xoay về những nét đại cương thì thấy triệu người như một, đều loanh quanh nhưng nhu yếu thiết thực này vậy thôi.
Trạch là nhà, chỗ ở; cũng nghĩa là sự yên định, là phần mộ tổ tiên ông bà (chẳng những thế, mỗi tấc đất con sông đều có tiền nhân ngã xuống để bảo vệ non sông Tổ Quốc). Người ta hay nói tới “trấn trạch”, tức là nghi lễ xin phép Thần linh âm phần bảo hộ khu đất nơi ăn chốn ở được an yên, chẳng bị mà tà yêu mị quấy phá gá nương, không quấy phá ông bà tổ tiên an ngự nơi miếu đường, khiến ban thờ ấm áp để con cháu phụng thờ cho tròn Hiếu Nghĩa quanh năm, cũng như có nơi lui tới ngõ hầu Gia tiên tiền Tổ linh thiêng phò trợ độ trì cho con cháu tai qua nạn khỏi, sức khỏe dồi dào, trí tuệ sáng suốt, thành tựu công danh sự nghiệp, mà vinh hiển rạng rõ cho Tổ tông nong sông Đất nước Dân tộc. Ông cha ta dạy răn: “An cư mới lạc nghiệp”, nghĩa là muốn sự nghiệp được tăng trưởng phơi phới ắt phải chú ý tới chỗ ở chỗ ăn, làm sao nó “an âm” thuận dương thì mới có sức khỏe, mới ít bệnh đau, mới toàn tâm toàn ý học tập lao động theo đường hướng đã chọn lựa, nhờ thế là sự nghiệp mới “lạc” – tức như ý toại lòng được. Trên thờ Trời Phật, dưới kính Gia tiên tiền Tổ, anh em hòa thuận, xóm giếng mến thương, đồng nghiệp tương trợ thì sao mà chẳng Vinh hiển ngời ngời, ấy là chỗ “uống nước nhớ nguồn”, tốt cây nhờ chăm gốc rễ, đạo lý này dù ngàn đời muôn đời, hễ là con dân Việt Tộc, chẳng nên xao lãng, cứ y cứ vào đây thực hành, thì tự khắc hồn thiêng sông núi linh thiêng luôn luôn phò trì ủng hộ, có thực chẳng sai đâu !
Sửa bởi HieuHcmVN: 12/08/2025 - 10:20
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
6 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 6 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












